
Lược giải: Thích Phước Thái.
Mục lục
- Phẩm Song Yếu
- Phẩm Không Phóng Dật
- Phẩm Tâm
- Phẩm Hoa
- Phẩm Ngu
- Phẩm Hiền Trí
- Phẩm A-La-Hán
- Phẩm Ngàn
- Phẩm Ác
- Phẩm Hình Phạt
- Phẩm Già
- Phẩm Tự Ngã
- Phẩm Thế Gian
- Phẩm Phật Ðà
- Phẩm An Lạc
- Phẩm Hỷ Ái
- Phẩm Phẫn Nộ
- Phẩm Cấu Uế
- Phẩm Pháp Trụ
- Phẩm Đạo
- Phẩm Tạp Lục
- Phẩm Ðịa Ngục
- Phẩm Voi
- Phẩm Tham Ái
- Phẩm Tỷ Kheo
- Phẩm Bà La Môn
Kinh Pháp Cú hoặc Kinh Lời Vàng hay còn được gọi là Lời Phật Dạy là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu bộ kinh trong Kinh Tạng Pali. Ðây là một quyển kinh Phật giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nhiều tác giả coi bộ kinh này như là Thánh Thư của đạo Phật.
Kinh Pháp Cú là một tập hợp những câu dạy ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa của đức Phật Thích Ca trong ba trăm trường hợp giáo hóa khác nhau trong suốt 45 năm thuyết pháp của Ngài. Kinh Pháp Cú tóm thâu tinh hoa giáo lý của đức Phật tập hợp lại từ nhiều quyển kinh khác. Những câu danh ngôn của đức Phật được ghi tại các chùa hay các sách báo về danh ngôn phần lớn được trích ra từ Kinh Pháp Cú. Tại Việt Nam bản dịch thành thơ của hòa thượng Thích Minh Châu được sử dụng rất phổ biến.
Hình minh họa
- Phẩm Song Yếu
- Phẩm Không Phóng Dật
- Phẩm Tâm
- Phẩm Hoa
- Phẩm Ngu
- Phẩm Hiền Trí
- Phẩm A-La-Hán
- Phẩm Ngàn
- Phẩm Ác
- Phẩm Hình Phạt
- Phẩm Già
- Phẩm Tự Ngã
- Phẩm Thế Gian
- Phẩm Phật Ðà
- Phẩm An Lạc
- Phẩm Hỷ Ái
- Phẩm Phẫn Nộ
- Phẩm Cấu Uế
- Phẩm Pháp Trụ
- Phẩm Đạo
- Phẩm Tạp Lục
- Phẩm Ðịa Ngục
- Phẩm Voi
- Phẩm Tham Ái
- Phẩm Tỷ Kheo
- Phẩm Bà La Môn
Phẩm Song Yếu
1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.
2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.
Lược giải
1. Trong các pháp[2], tâm dẫn đầu, tâm[3] làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp[4] nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe.
Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind wrought. If with an impure mind aperson speaks or acts, suffering follows him like the wheel that follows the foot of the ox.
Kệ Tụng
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ theo ta
Như xe theo vật kéo.
2.Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.
Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind wrought. If with a pure mind a person speaks or acts, happiness follows him like his never departing shadow.
Kệ Tụng
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư thanh tịnh
Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời hình.
Lược giảng
Sống trong thế giới Tục đế, nghiệp lực đóng một vai trò rất quan trọng. Nó vừa là một tác nhân mà cũng vừa là một tác quả. Nhưng động lực chính thúc đẩy tạo thành là do tâm. Tâm ở đây, tức là tâm vọng. Tâm có công năng như một tướng soái chỉ huy toàn bộ. Vì vậy, những hành động được xuất phát tạo thành nghiệp quả phải qua 3 lãnh vực kết hợp chặt chẽ của: thân, khẩu, ý. Thân và khẩu chỉ thi hành theo mệnh lệnh của ý thức. Ý thức là một trong tám món tâm vương. Nó có oai quyền sức mạnh rất lớn. Mọi sự thành bại, tốt xấu, nên hư, đắc thất trong cuộc đời, đều do nó chủ động tạo thành. Nên nói: tâm tạo tác tất cả. Công hay tội đều do nó tạo ra. Nếu nó suy nghĩ điều ác tổn mình hại người, hại vật, thì nó sai khiến thân và miệng làm những điều xấu ác. Dĩ nhiên, kết quả sẽ là một tai hại khốc liệt vô cùng to lớn. Như những trường hợp khủng bố đã xảy ra nhan nhãn hằng ngày khắp nơi trên thế giới. Và đã có biết bao nhiêu chuyện thương tâm khác mà chính do con người tạo ra, thật không có bút mực nào kể cho hết được. Ngược lại, nếu nó suy nghĩ điều lành, thì cũng sẽ thúc đẩy thân và miệng gây nên những lợi ích cho mình và người rất lớn. Cho nên, cặp song yếu pháp cú trên, Phật đã cho chúng ta một hình ảnh song hành rất cụ thể qua hai phương diện thiện và ác. Thiện hay ác, đều do tâm chủ động tạo nghiệp và rồi đưa đến một kết quả đúng theo luật nhân quả, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe. Qua đó, chúng ta phải cẩn trọng giữ gìn tam nghiệp một cách nghiêm khắc như những quân lính giữ thành. Nếu kẻ giữ thành lơ đểnh không cảnh giác quân giặc, thì thành trì sẽ bị mất về tay quân giặc và hậu quả rất tai hại. Cũng thế, người tu hành, nếu buông lung ở nơi tâm ý, thì hậu quả rất tai hại cho mình và người. Ngược lại, nếu chúng ta khéo gìn giữ tam nghiệp, nhứt là ý nghiệp, một cách nghiêm nhặt, thì kết quả rất là tốt đẹp. Quả đúng với câu: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”.
3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
Lược giải
3. “Người kia lăng mạ[5] tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi và cướp đoạt của tôi. Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy, thì sự oán giận không thể nào hết”.
“He abused me, he struck me, he overpowered me, he robbed me. Those who harbour such thoughts do not still their hatred”.
Kệ Tụng
“Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó hại tôi, cướp tôi”
Ai ôm ấp niệm ấy
Hận thù không thể nguôi.
4. “Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi và cướp đoạt[6] của tôi”. Ai bỏ được tâm niệm[7]ấy, thì sự oán giận tự nhiên san bằng.
“He abused me, he struck me, he overpowered me, he robbed me.” Those who do not harbour such thoughts still their hatred.
Kệ Tụng
“Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó hại tôi, cướp tôi”
Không ôm ấp niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi.
Lược giảng
Chấp thủ tướng là con đẻ của bản ngã. Thế gian đại loạn cũng bởi do lòng chấp ngã mà ra. Từ sự chấp ngã đó, mọi thứ trên đời đều muốn chiếm đoạt về mình. Khi chiếm đoạt không được, thì lòng sân hận nổi lên. Từ đó, nhơn loại gây ra lắm cảnh chiến tranh tang thương cho nhau. Kẻ chiếm được thì vui cười đắc thắng. Kẻ bị thất bại mất mát, thì ôm ấp sự oán giận đau khổ ngập tràn. Cặp Pháp cú nầy, Phật dạy mọi người nên biết yêu thương lẫn nhau. Có lòng thương mới nhẫn nại trước mọi nghịch cảnh xảy đến. Muốn được an vui, con người phải biết tu hạnh hỷ xả. Vì mọi sự oán giận, chỉ gây thêm cho sự khổ đau chồng chất mà thôi. Muốn chấm dứt nhân khổ đau, thì Phật khuyên mọi người không nên ôm lòng oán giận. Vì còn có ôm ấp tâm niệm oán giận là còn muốn trả thù. Chính tâm niệm đó là một tai hại cho mình rất lớn. Vì tâm hồn không lúc nào được an ổn. Sống mà tâm hồn lúc nào cũng đau khổ bức rức không an, thì thử hỏi còn gì là ý nghĩa của sự sống? Thế nên, lòng ta muốn được thanh thoát nhẹ nhàng, thì ta nên buông bỏ mọi sự dính mắc trong lòng, dù là kẻ đó đã gây ra cho ta đau khổ. Chỉ có lòng khoan dung, rộng lượng tha thứ, con người mới có được cuộc sống vui tươi thoải mái và an lạc. Ngược lại là một gánh nặng khổ sầu triền miên. Mọi người nên tập tu theo hạnh hỷ xả của Bồ tát Di Lặc. Được vậy, thì cuộc đời nầy còn gì là hạnh phúc cho bằng!
5. Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
6. Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận được lắng êm.
Lược giải
5.Ở thế gian[8] nầy, chẳng phải hận thù[9] trừ được hận thù, chỉ có từ bi[10] mới trừ được hận thù. Đó là định luật của ngàn xưa.[11]
Hatred is never appeased by hatred in this world. By non hatred alone is hatred appeased. This is Law Eternal.
Kệ Tụng
Hận thù diệt hận thù
Đời nầy không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật thiên thu.
6. Người kia[12] vì không hiểu rằng: “Chúng ta sắp bị hủy diệt[13]” (nên mới phí sức tranh luận hơn thua). Nếu họ hiểu rõ điều đó, thì chẳng còn tranh luận nữa.
There are those who do not realize that one day we all must die. But those who do realize this settle their quarrels.
Kệ Tụng
Người khác không hiểu biết
Ở đây ta bị diệt
Những ai hiểu điều nầy
Tranh luận tự nhiên tiêu.
Lược giảng
Hận thù là một thứ tâm sở phiền não rất nguy hiểm. Nó luôn ôm ấp những gì xảy ra gây cho nó không vừa ý. Từ đó nó cứ nuôi mãi và theo thời gian càng ngày hận thù càng tăng trưởng, đến một lúc nào đó, thời cơ chín mùi, thì nó sẽ hiện hành ngay. Hận thù càng nuôi lớn, thì hậu quả càng nổ to. Điển hình như giữa Mỹ và Iraq, cũng như một vài quốc gia Trung Đông khác. Hận thù nuôi lớn giữa cá nhân và lớn hơn đến tập thể, lớn hơn nữa là cả một quốc gia. Một hạt nhân lúc đầu tuy nhỏ, nhưng nó có một sức tàn phá rất mạnh. Thế giới ngày nay luôn xảy ra những tình trạng ăn miếng trả miếng, cứ trả đủa cho nhau, thì biết bao giờ nhơn loại mới được sống chung hòa bình. Muốn yên ổn, chỉ có cách, theo lời đức Phật dạy ta phải chuyển đổi hận thù thành từ bi. Chỉ có nước cam lồ từ bi mới rưới lên dập tắt hận thù. Thật vậy, con người có thật sự hiểu thương nhau, thì mới tha thứ lỗi lầm cho nhau. Một khi cõi lòng rộng mở, thì hận thù sẽ tan biến mất. Hận thù không còn, thì hạnh phúc yêu thương sẽ đến với con người ngay tức khắc. Câu nói, mười năm trả thù chưa muộn, chứng tỏ lòng người còn quá hiểm độc, sâu nặng lòng chấp trước. Họ coi trọng bản ngã lớn hơn núi Tu di. Đã như thế, thì lòng họ thật là đau khổ. Chắc chắn, cõi lòng họ rất đen tối ảm đạm hơn đám mây mù che phủ. Như thế, thì còn đâu là hạnh phúc để vui hưởng với cuộc đời. Ngẫm lại, kiếp sống của con người có bao năm? Quỷ vô thường sẽ cắt đứt mạng sống bất cứ lúc nào. Có người nói, đời nầy, họ không trả thù được, thì tiếp tục đời sau sẽ trả. Hoặc hiện đời họ chưa trả được mối thâm thù, thì đến đời con, đời cháu của họ tiếp nối phải trả. Thật là ghê gớm khủng khiếp thay! Nếu cứ thế, thì hận thù mãi chồng chất cao lên hơn núi. Như vậy, thì biết đến bao giờ mới chấm dứt trả xong! Xưa nay, có biết bao chuyện trả vay, vay trả của mối hận thù truyền kiếp nầy. Cặp Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy rõ điều đó. Muốn hóa giải hận thù, thì không có gì khác hơn là từ bi. Vâng! Chỉ có từ bi mới thật sự tháo gỡ. Nếu không, thì không có một phép lạ hay lời cầu nguyện van xin nào giải tỏa được. Mỗi người, nếu không tự lực tìm phương tháo gỡ, hóa giải hận thù chính mình, thì không có một bàn tay thần thánh nào khác có thể cứu rỗi, xoay chuyển được. Cái gì do con người tạo ra, thì cũng chính do con người chịu lấy. Và cũng chính do con người chuyển hóa cải hối. Tốt hay xấu, vui hay khổ, tất cả đều do con người định đoạt. Ta nên ý thức theo luật nhân quả mà sống. Không một vật gì thoát ngoài luật nhân quả. Xin mỗi người hãy bình tâm chiêm nghiệm lại nhân quả ở nơi chính bản thân mình!
7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.
8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.Lược giải
7. Những người chỉ muốn sống trong khoái lạc, không chịu nhiếp hộ các căn, uống ăn vô độ[14] biếng nhác chẳng tinh cần, họ thật là người dễ bị ma nhiếp phục như cành mềm trước cơn gió lốc.
Just as a storm throws down a weak tree, so does Màra overpower the man who lives for the pursuit of pleasures, who is uncontrolled in his senses, immoderate in eating, indolent and dissipated.
Kệ Tụng
Ai sống theo dục lạc
Không nhiếp hộ các căn
Ăn uống thiếu tiết độ
Biếng nhác, chẳng tinh cần
Dễ bị ma nhiếp phục
Như gió lay cây yếu.
8. Những người nguyện ở trong cảnh chẳng khoái lạc[15], khôn khéo nhiếp hộ các căn[16], uống ăn tiết độ, vững tín và siêng năng, ma[17] không dễ gì thắng họ như gió thổi núi đá.
Just as a storm cannot prevail against a rocky mountain, so Màra can never overpower the man who lives meditating on the impurities, who is controlled in his senses, moderate in eating, and filled with faith and earnest effort.
Kệ Tụng
Ai sống quán bất tịnh
Khó nhiếp hộ các căn
Ăn uống có tiết độ
Tín tâm hằng nhiệt thành
Tà ma khó nhiếp phục
Như gió thổi thạch sơn.
Lược giảng
Một cuộc sống buông thả theo ngũ dục lạc thế gian, không tự chế phục, đó là cuộc sống sa đọa. Sống như thế, khác nào như một khúc gỗ trôi theo dòng nước, không định hướng. Hậu quả của một đời sống bê tha, thác loạn sẽ gây ra nhiều tai hại cho chính bản thân mình và xã hội. Con người sống thích hưởng thụ khoái lạc. Hiện trạng bức tranh xã hội ngày nay đã vẽ lên biết bao nhiêu cảnh thương tâm của thanh thiếu niên nam nữ đã và đang nướng mình trong những khoái lạc nghiện ngập hút sách xì ke ma túy, cuối cùng lãnh lấy hậu quả thê thảm thân tàn ma dại. Cảm thọ hay xúc thực là một thứ tai hại khổ đau rất lớn, nếu con người không biết hạn chế nhiếp hộ 6 căn. Trong Kinh Lăng Nghiêm đức Phật có nói rõ: chúng sanh bị luân hồi khổ đau hay được giải thoát, cũng đều do ở nơi 6 căn. Nếu 6 căn khi tiếp xúc với 6 trần cảnh, mà chúng ta biết làm chủ, không để cho 6 trần lôi cuốn, thì đó là giải thoát. Ngược lại, thì đau khổ dài dài. Vì vậy,vấn đề nhiếp hộ 6 căn là một vấn đề tối hệ trọng đối với người tu. Không nhiếp hộ 6 căn, khác nào như con khỉ bị dính nhựa và làm mồi cho anh chàng thợ săn ngon bữa.
Đời sống hiện thực, chúng ta rất cần những nhu cầu cho sự sống. Nhu cầu hệ trọng trước tiên là ăn uống. Mọi nhu cầu khác đều là trợ duyên. Nhưng, nếu chúng ta không khéo biết tiết chế sự ăn uống cho có điều độ chừng mực, chọn lựa thức ăn thích hợp, thì đó cũng là một tai hại cho sức khỏe. Thực phẩm ngày nay có chứa quá nhiều độc tố. Các nhà kinh doanh chuyên sản xuất thực phẩm, vì muốn cạnh tranh trên thương trường để kiếm được nhiều tiền, làm giàu, nên họ bất chấp thủ đoạn trong khi chế tạo. Dù chánh phủ đã có theo dõi, đặc trách chuyên ngành kiểm thực, nhưng cũng không thể nào kiểm hết được. Do đó, ta thấy thỉnh thoảng hay xảy ra tình trạng bị nhiễm độc thức ăn. Đó là hậu quả tai hại mà hầu hết các quốc gia khắp nơi trên thế giới, nơi nào cũng có. Vì vậy, người tiêu thụ thực phẩm, thật khó tránh khỏi tai hại bệnh hoạn, tử vong. Dù vậy, nhưng nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu tìm hiểu vấn đề ăn uống, theo sự chỉ dẫn của ngành y học, thì cũng rất có lợi cho sức khỏe. Hiện nay, có rất nhiều sách nói về thuật dưỡng sinh. Ta nên tìm kiếm để đọc, rất có lợi ích. Ta nên nhớ, bao giờ ngừa bệnh cũng hơn là chữa bệnh. Người ta thường nói tham thực cực thân. Chẳng những cực thân thôi, mà đôi khi còn phải bị mất mạng nữa.
Lười biếng cũng là một trạng thái sa đọa. Dù sống ở bất cứ lãnh vực nào, ngoài đời hay trong đạo, nhứt là đối với người xuất gia, nếu lười biếng thì sự nghiệp trí huệ giải thoát khó thành. Ngoài đời, người nào mang chứng bệnh lười biếng, thì sự nghiệp không mong gì thành công được. Ở đây, Phật muốn nhằm khuyên bảo người xuất gia phải luôn siêng năng chuyên cần tu niệm. Vì đời người quá ngắn ngủi, vô thường đến không hẹn trước được. Nên người xuất gia muốn được giác ngộ giải thoát thì không thể nào giải đãi, xao lãng thờ ơ trong việc tu học. Pháp Cú nầy, Phật cho chúng ta thấy rõ kẻ nào vướng phải những tệ hại nói trên, thì sẽ bị ma lực nhiếp phục một cách dễ dàng. Nói cách khác, kẻ đó sẽ là quyến thuộc của ma vương. Một khi làm quyến thuộc của ma vương rồi, thì ma vương muốn sai sử ta thế nào cũng được, có khác nào như cành mềm trước cơn gió lốc. Pháp cú thứ 8, Phật cho chúng ta thấy hình ảnh ngược lại của người khéo biết tu. Nếu người tu có được một đạo lực khá cao, thì bọn ma vương không dễ gì thắng họ được, khác nào như gió thổi núi đá, thật chẳng hề hấn gì.
9. Ai mặc áo cà sa.
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa
10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.Lược giải
9. Mặc áo ca sa[18] mà không rời bỏ những điều uế trược, không thành thật khắc kỷ[19], thà chẳng mặc còn hơn.
Whoever being depraved, devoid of self-control and truthfulness, should don the monk's yellow robe, he surely is not worthy of the robe.
Kệ Tụng
Ai mặc áo cà sa
Tâm chưa rời uế trược
Chưa tự chế, chưa chơn
Không xứng mặc cà sa.
10. Rời bỏ những điều uế trược, giữ gìn giới luật tinh nghiêm, khắc kỷ và chân thành, người như thế đáng mặc áo ca sa.
But whoever is purged of depravity, well-established in virtues and filled with self-control and truthfulness, he indeed is worthy of the yellow robe.
Kệ Tụng
Ai rời bỏ uế trược
Giới luật giữ tinh nghiêm
Tự chế, thường chơn thực
Thật xứng mặc cà sa.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy, đức Phật chỉ dạy riêng cho người xuất gia. Người xuất gia, sau khi thọ đại giới, thì được phép mặc 3 y: Ngũ điều y, Thất điều y và Cửu điều y. Y hay ca sa là những chiếc áo giải thoát, hay còn gọi là phước điền y. Người xuất gia là người đoạn dục khử ái. Ngày xưa đức Phật và hàng Thánh chúng, nuôi thân bằng một bình bát và 3 chiếc y.
“Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du
Viễn ly sanh tử sự,
Giáo hóa độ xuân thu”.
Tạm dịch:
“Một bình bát xin ăn ngàn nhà,
Một mình đi muôn dặm,
Vì muốn thoát ly sanh tử khổ đau,
Giáo hóa độ muôn loài.”
Gót Tăng sĩ bốn phương trời rão bước
Cõi Ta bà đâu chẳng phải nhà ta
Một chiếc y một bình bát ca sa
Thoát sanh tử chan hòa nguyền độ khắp.
Hình ảnh thật là giải thoát. Như thế, thì đối với ngũ dục lạc thế gian, đối với các Ngài thật vô ý nghĩa. Các Ngài không bao giờ đắm nhiễm. Cho nên ở đây nói, người xuất gia khi mặc vào mình chiếc áo Ca sa, thì phải rời bỏ những điều uế trược. Uế trược là những thứ dục vọng phiền não mà người xuất gia cần phải nỗ lực đoạn trừ. Phẩm hạnh của người xuất gia thật cao quý. Cao quý ở chỗ, các Ngài dám từ bỏ tất cả những gì mà người thế gian ham muốn. Đồng thời các Ngài giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm. Nếu như đã xuất gia rồi mà còn khởi tâm tham mê danh lợi, còn đắm nhiễm theo thế sự, lục trần, thì quả thật không xứng đáng mặc áo Ca sa chút nào!
Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật đã dạy rất rõ về pháp hạnh của người xuất gia. Phật dạy: “Những bực xuất gia làm Sa môn, dứt bỏ ái dục, nhận biết nguồn tâm của mình, hiểu rõ lý mầu của Phật, ngộ pháp Vô vi, trong không sở đắc, ngoài không sở cầu; tâm không ràng buộc nơi đạo, cũng chẳng còn kiết nghiệp, dứt sự suy nghĩ, dứt sự tạo tác, chẳng phải do tu, cũng chẳng phải chứng được; chẳng cần trải qua các vị mà tự nó cao tột, gọi đó là Đạo”. Phật lại dạy tiếp: “Cạo bỏ râu tóc làm bực Sa môn, là người thọ lãnh đạo pháp, phải xa bỏ của cải ở đời, mong cầu vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa, dưới gốc cây ngủ một đêm, cẩn thận không trở lại. Phải biết rằng: Những điều khiến cho người ta ngu tệ là ái và dục”. (bản Việt dịch của giáo sư Thích Hoàn Quan do Hoa Đạo xuất bản năm 1999). Thật vậy, ái và dục là gốc rễ vô minh, là cội nguồn của sanh tử khổ đau. Bao lâu con người còn làm nô lệ cho hai thứ cội gốc phiền não nầy sai sử tạo nghiệp, thì bấy lâu con người vẫn còn phải đi mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Thế nên, đối với người xuất gia, mỗi người cần phải tư duy, chiêm nghiệm thật kỹ qua những lời Phật dạy trên, để mỗi người tự cảnh tỉnh, thúc liễm tu hành mong cầu giải thoát. Có thế, thì mới xứng đáng là trưởng tử của đức Như Lai. Và mới thật sự là người khắc kỷ chân thành, xứng đáng mặc áo Ca sa mà không chút hổ thẹn. Bằng ngược lại, thì thật là xấu hổ!
11. Không chân, tưởng chân thật,
chân thật, thấy không chân:
chúng không đạt chân thật,
do tà tư, tà hạnh.
12. Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân:
chúng đạt được chân thật,
do chánh tư, chánh hạnh.Lược giải
11. Phi chơn[20] tưởng là chơn thật, chơn thật lại thấy là phi chơn, cứ tư duy[21] một cách tà vạy[22], người như thế không thể nào đạt đến chơn thật.
Those who mistake the unessential to be essential and the essential to be unessential, dwelling in wrong thoughts, never arrive at the essential.
Kệ Tụng
Phi chân, tưởng chân thật
Chân thật, tưởng phi chân
Do tư duy tà vạy
Chân thật không thể thành.
12. Chơn thật nghĩ là chơn thật, phi chơn biết là phi chơn, cứ tư duy một cách đúng đắn, người như thế mau đạt đến chơn thật.
Those who know the essential to be essential and the unessential to be unessential, dwelling in right thoughts, do arrive at the essential.
Kệ Tụng
Chân thật biết chân thật
Phi chân biết phi chân
Do tư duy chân chánh
Chân thật tự nhiên thành.
Lược Giảng
Sống trong vòng vọng tưởng nghiệp thức, con người luôn nhìn sự vật theo lăng kính chủ quan của mình. Do nhìn như thế, nên sự vật cũng lăn cuồn theo nhãn quan của họ. Ngược lại, những người đạt đạo có cái nhìn khác hơn. Cái nhìn của các Ngài là cái nhìn khách quan. Cái nhìn không bóp méo vo tròn sự vật. Bởi vì: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Kinh Pháp Hoa). Mọi vật, vật nào ở theo vị trí của vật đó. Tướng của nó là thường có mặt ở thế gian như thế. Trong Phẩm Phương Tiện của Kinh Pháp Hoa cho chúng ta thấy rõ hơn về sự có mặt của các pháp bằng cái nhìn của “Thập Như Thị”: “Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh”. Nghĩa là các pháp hiện đời nầy, Tướng của nó như vậy, Tánh của nó như vậy, Thể của nó như vậy, Lực của nó như vậy, Tác dụng của nó như vậy, Nhân của nó như vậy, Duyên của nó như vậy, Quả của nó như vậy, Báo của nó như vậy, và rốt ráo gốc ngọn trước sau của nó là như vậy. Đó là cái nhìn “Hiện lượng” hay “Trực giác” ở nơi các pháp. “Sự vật phi chơn mà tưởng là chơn, ngược lại, chơn thì cho là phi chơn”, đó là cái nhìn điên đảo. Cái nhìn của kẻ chạy dưới ánh trăng, thấy trăng chạy theo mình. Nhưng thật ra trăng nào có chạy. Vọng kiến, gốc bởi vô minh điên đảo mà ra. Bởi do phóng cái nhìn vọng động điên đảo như thế, nên nhơn loại mới có chiến tranh ý thức hệ. Rốt lại cũng chỉ làm cái việc của năm anh mù sờ voi mà thôi. Người nào hằng sống trong chánh niệm, thiền quán sâu sắc, mới có cái nhìn sự vật một cách đúng đắn. Pháp cú thứ 12, Phật dạy chúng ta phải có cái nhìn đúng như thật của các pháp. “Chân thật nghĩ là chân thật, phi chân biết là phi chân”, nhìn bằng con mắt trí tuệ như thế, thì thử hỏi trên đời nầy, còn có cái gì lường gạt, lừa bịp chúng ta được nữa chớ! Và như thế, thì chúng ta còn đi tìm chân hạnh phúc ở đâu? Cuối cùng hạnh phúc chỉ ở trong tầm tay của chúng ta mà thôi. Chỉ cần chúng ta mạnh dạn, khéo biết thay đổi lối nhìn đúng như thật của các pháp, thì chúng ta sẽ có nguồn hạnh phúc yêu thương tràn trề. Còn niềm vui nào hơn! Tại sao chúng ta không chịu thay đổi lối nhìn? Xin đừng viện lý do “tại bị” gì cả. Chúng ta đã có quá nhiều “Lý Do Tại Bị” lừa đảo chúng ta. Xin mọi người hãy thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên để nhìn vào sự vật. Chánh niệm đồng nghĩa với hạnh phúc. Nơi nào có hạnh phúc, thì chắc chắn nơi đó không thể thiếu vắng chánh niệm được vậy.
13. Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.
14. Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.Lược giải
13. Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột thế nào, kẻ tâm không tu[23] tất bị tham dục[24] lọt vào cũng thế.
Just as rain breaks through an ill-thatched house, so passion penetrates an undeveloped mind.
Kệ Tụng
Như mái nhà vụng lợp
Mưa thấm dột dễ dàng
Cũng vậy tâm vụng tu
Tham dục dễ thâm nhập.
14. Nhà khéo lợp kín ắt không bị mưa dột, kẻ tâm khéo tu tất không bị tham dục lọt vào.
Just as rain does not break through a well-thatched house, so passion never penetrates a well-developed mind.
Kệ Tụng
Như mái nhà khéo lợp
Mưa khó thấm dột vào
Cũng vậy tâm khéo tu
Tham dục không xâm nhập
Lược giảng
Pháp cú song hành nầy, đức Phật nêu ra một hình ảnh so sánh rất cụ thể dễ hiểu. “Nhà lợp không kín, ắt bị mưa dột”. Đây là lý đương nhiên. Muốn nhà không dột, thì phải lợp kín đáo. Khi lợp kín đáo, thì ta tránh khỏi cái cảnh bị mưa ướt. Hình ảnh nầy,Phật muốn diễn tả cho chúng ta thấy rõ sự tai hại, hậu quả của kẻ lợp nhà cẩu thả, thiếu sự cẩn trọng. Cũng thế, người tu hành, nếu không khéo giữ gìn ở nơi ý nghiệp, để cho tâm ý buông lung tạo nghiệp bất thiện, thì hậu quả rất là tai hại. Giống như mái nhà lợp không kín vậy. Ngược lại, nếu người nào, khi lợp nhà nên để ý cẩn trọng và quyết lòng lợp cho kín đáo, thì làm gì có cảnh nhà dột? Cũng vậy, trong khi tu hành, nếu chúng ta khéo biết cẩn trọng canh phòng giữ gìn con “vượn tâm và con ngựa ý”, thì làm gì chúng dẫm đạp phá phách được. Hai câu pháp cú nầy, tuy hết sức ngắn gọn, nhưng Phật đã chỉ cho chúng ta biết cách tu hành, điều phục tâm ý. Người tu, muốn có được đời sống tự do, không bị ràng buộc bởi ngoại cảnh, thì chúng ta khéo áp dụng câu pháp cú thứ 14 nầy. Tham dục phát sanh từ tâm. Nếu tâm đình chỉ, không dấy khởi suy nghĩ điều ác, thì làm gì nó thúc đẩy thân và miệng của ta tạo điều ác. Muốn giữ tâm ý cho được thanh tịnh, thì người tu cần phải giữ gìn giới luật nghiêm mật. Phải giữ giới luật như lợp nhà, không cho có kẻ hở. Có giữ giới như thế, thì ta mới có được đời sống thoải mái tự do. Tại sao vậy? Bởi vì khi giữ giới, thì tâm ý của ta không buông lung. Tâm ý không buông lung, thì không tạo nghiệp ác. Dụ như người không trộm cắp, thì làm gì sợ pháp luật, cảnh sát bắt bớ giam cầm. Ta muốn đi đâu tùy ý, không sợ ai cả. Như vậy, không tự do là gì? Nếu người Phật tử tại gia giữ gìn đúng 5 giới luật Phật cấm, thì bảo đảm đời sống thật sự tự do và hạnh phúc .Chẳng những an vui hạnh phúc trong hiện đời, mà đời sau cũng được an vui tốt đẹp nữa.
15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
16. Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.Lược giải
15. Ở chỗ nầy ăn năn, tiếp ở chỗ khác cũng ăn năn, kẻ làm điều ác nghiệp[25], cả hai nơi đều ăn năn; vì thấy ác nghiệp mình gây ra, kẻ kia sinh ra ăn năn và chết mòn.
The evil-doer grieves here and here-after; he grieves in both the worlds. He laments and is afflicted, recollecting his own impure deeds.
Kệ Tụng
Nay buồn, đời sau buồn
Kẻ ác hai đời buồn
Buồn nản, tự hủy diệt
Thấy việc ác mình làm.
16. Ở chỗ nầy vui, tiếp ở chỗ khác cũng vui, kẻ làm điều thiện nghiệp[26], cả hai nơi đều an vui; vì thấy thiện nghiệp mình gây ra, người kia sinh ra an lạc và cực lạc.
The doer of good rejoices here and hereafter; he rejoices in both the worlds. He rejoices and exults, recollecting his own pure deeds.
Kệ Tụng
Nay vui, đời sau vui
Kẻ thiện, hai đời vui
An vui, quá an vui
Thấy việc thiện mình làm.
Lược giảng
Ăn năn là một trong 4 món Bất định tâm sở của Duy Thức Học. Ăn năn cải hối có hai phương diện: thiện và ác. Thế nào là ăn năn ác? Thí dụ: mình thấy một món đồ chưng bày quý giá thật đẹp, định lén lấy, nhưng vì lu bu công việc gì đó, mình lại quên không lấy, sau đó, nhớ lại, tự ăn năn hối tiếc, rồi tự trách tại sao mình quên lấy. Cứ mãi hối tiếc đồ vật ấy, gọi đó là ăn năn ác. Hơn thế nữa, khi mình vì một cơn nóng giận nổi lên không kềm chế được, ra tay giết chết người, sau đó, cảm thấy rất hối hận ăn năn việc mình đã gây. Sự ăn năn đó, tuy cũng còn có chút lương tâm biết cải hối, nhưng đã có gây nhân, tất nhiên sẽ có quả báo. Sự thống trách hối tiếc ăn năn là chuyện đã rồi. Dù đó là chuyện đã qua, nhưng không thể qua được lương tâm cắn rứt dày vò ở nơi chính mình. Tòa án lương tâm của mình nó không để mình yên. Một sự trừng phạt, xét xử dai dẳng rất thích đáng. Chính vì sự thống hối ăn năn nầy, nó làm chướng ngại rất lớn trên bước đường tu của chúng ta. Cho nên, câu pháp cú 15 trên, đức Phật khuyên chúng ta không nên gây tạo nghiệp ác. Một khi đã gây tạo nghiệp ác, thì hiện đời, dù ở bất cứ nơi đâu, chúng ta cũng không thể nào tránh khỏi quả báo và do đó, nên tâm hồn của chúng ta lúc nào cũng bấn loạn bất an. Muốn được tâm an lạc, tốt hơn hết là chúng ta đừng gây tạo nhân ác. Có người suốt cả đời, sống trong sự hồi hợp lo âu không bao giờ an ổn, vì đã làm một việc ác đức bất nhân. Việc làm ác đó, tuy vô hình, nhưng nó cứ bám theo ám ảnh cho đến ngày chúng ta nhắm mắt. Muốn tránh hậu quả tai hại nầy, chúng ta phải luôn tỉnh thức trong mọi hành động. Phàm làm việc gì, trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó. Người nào có tâm ý cẩn trọng như thế, thì đời sống của họ sẽ được lợi lạc an vui trong từng giây phút.
Câu pháp cú thứ 16, Phật cho chúng ta thấy rất rõ hình ảnh an vui đó. Trong một ngày, hay bất cứ thời gian nào, nếu chúng ta luôn luôn tạo nghiệp lành như cứu vật, giúp người v..v.. thì ngày ấy, hay bất cứ ở đâu, chúng ta cũng cảm thấy rất an vui hạnh phúc. Trước khi ngủ, chúng ta mỉm cười nhẹ trên môi. Và trong giấc ngủ sẽ đem lại nhiều mộng đẹp. Đó là một tâm hồn rất thư thái, thanh thoát nhẹ nhàng. Hiện đời đã được an vui như thế, lo gì đời sau không được an vui. Chúng ta cứ thực nghiệm qua lời Phật dạy nầy, thì chúng ta mới thấy được cuộc sống rất có hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc quý giá, chính do chúng ta tạo lấy. Một thứ hạnh phúc không thể mua được bằng tiền. Xin mời các bạn hãy thử thực nghiệm qua, sẽ thấy được hiệu quả tốt đẹp, thú vị của đời sống.
17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: ‘Ta làm ác’
Ðọa cõi dữ, than hơn.
18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,
Sanh cõi lành, sướng hơn.Lược giải
17. Ở chỗ nầy than buồn, tiếp ở chỗ khác cũng than buồn, kẻ gây điều ác nghiệp, cả hai nơi đều than buồn: nghĩ rằng “tôi đã tạo ác” vì vậy nên nó than buồn. Hơn nữa còn than buồn vì phải đọa[27] vào cõi khổ.[28]
The evil-doer suffers here and here-after; he suffers in both the worlds. The thought, “Evil have I done”, torments him, and he suffers even more when gone to realms of woe.
Kệ Tụng
Nay than, đời sau than
Kẻ ác, hai đời than
Than van: “Mình làm ác”
Đọa ác thú, than hơn.
18. Ở chỗ nầy hoan hỷ, tiếp ở chỗ khác cũng hoan hỷ, kẻ tu hành phước[29] nghiệp, cả hai nơi đều hoan hỷ[30]: nghĩ rằng “tôi đã tạo phước” vì vậy nên nó hoan hỷ. Hơn nữa còn hoan hỷ vì được sanh vào cõi lành.[31]
The doer of good delights here and here-after; he delights in both the worlds. The thought, “Good have I done”, delights him, and he delights even more when gone to realms of bliss.
Kệ Tụng
Nay sướng, đời sau sướng
Kẻ thiện, hai đường sướng
Sung sướng: “Mình làm thiện”
Sướng hơn, sanh thiện thú.
Lược giảng
Buồn là một trạng thái tâm lý, không một ai thoát khỏi, ngoại trừ các bậc Thánh nhơn. Buồn có nhiều nguyên nhân. Có đôi lúc ta buồn một cách ngớ ngẩn. “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Buồn than là chuyện thường tình ở thế gian. Vì nó là một trong nhiều thứ chi mạt phiền não. Có người buồn, do ngoại cảnh gây nên, vì ai đó làm cho họ trái ý nghịch lòng. Người ta thường nói: “Tâm sầu bạch phát”. Như trường hợp Vương Hóa buồn nhớ Tiểu Long Nữ, chỉ có một đêm thôi, mà trên đầu bạc trắng. Thật là tội nghiệp!
Buồn là một độc tố nguy hiểm âm thầm giết chết ta từng giây phút. Có người vì quá buồn rầu nên sanh bệnh hoạn không thuốc nào chữa hết. Người nào mang tâm trạng buồn nhiều thì cuộc đời của họ khác nào như bãi tha ma! Trong cuộc sống, nếu chúng ta biết quăng đi những gánh nặng lo âu, thì cuộc đời sẽ vui sướng đẹp đẽ biết bao! Cụ Nguyễn Hiến Lê có viết một tác phẩm với nhan đề là:”Quăng gánh lo đi và vui sống”. Chúng ta nên cố gắng bắt chước học hỏi câu nói nầy. Được thế, thì chắc chắn hoa và trái sẽ nở rộ trên cây “Hỷ Xả”. Sở dĩ ta buồn nhiều, vì ta quá coi trọng bản ngã. Càng coi trọng bản ngã chừng nào, thì lòng tự ái của ta càng cao chừng nấy. Người mà ôm ấp quá nhiều tự ái, thì thử hỏi làm sao có được đời sống vui tươi cho được? Có người ở cảnh nầy than buồn không vừa ý, đi tìm tới cảnh khác có lẽ vui hơn. Nhưng than ôi! Khi đến cảnh khác, thì họ cũng không hài lòng vừa ý.
Cả hai nơi và thậm chí đến nhiều nơi, cũng không nơi nào vừa ý họ. Lúc nào họ cũng than buồn. Quả thật họ là hạng người đứng núi nầy trông núi nọ. Ta thử hỏi: tại sao họ lại có tâm trạng biến thái như thế? Câu trả lời thật đơn giản là vì tâm họ “chất chứa nặng trĩu u buồn”. Cõi lòng của họ đang chứa đầy “nội kết”. Một thứ nội kết ung nhọt độc còn hơn thứ “nội kết của nàng Kiều”. Do đó, họ sống không một chút cởi mở. Họ là mẫu người quá rắc rối chấp nhứt. Họ không hài lòng với bất cứ ai trong khi giao tiếp. Người ta nói: họ là người quá khó tánh. Thật ra, tánh là thứ gì mà khó hay dễ. Nó chỉ là thứ hư vọng không thật. Chẳng qua là do huân tập ngoại cảnh thói quen tạo thành. Cho nên buồn vui chỉ là một thứ tâm lý giả tạo. Có đó rồi không, chúng đắp đổi xoay vần nhau suốt cả cuộc đời. Song có điều, vì chúng không thật, nên chúng ta có quyền chuyển đổi chúng từ trạng thái nầy qua trạng thái khác. Và chúng ta có quyền đình chỉ chúng không cho chúng hoạt động. Nhưng muốn đình chỉ chúng cho có hiệu quả, tất nhiên ta phải dùng đến trí huệ. Phải thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên, rọi thẳng vào mặt chúng, thì bọn chúng sẽ tan biến ngay. Đó là quyền của chúng ta. Nhưng khổ nỗi không có mấy ai biết lấy lại chủ quyền nầy. Như vậy, buồn hay vui lỗi không phải ở nơi ngoại cảnh. Mà lỗi đó chính do ở nơi tâm trạng của mỗi người. Vì quá hiểu tâm lý nầy, nên Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã nói hai câu thơ bất hủ trong Truyện Kiều:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Thật vậy, một khi ta mang tâm trạng u buồn rồi, thì dù ở giữa chốn phồn hoa đô hội, hay ở những nơi dạ hội yến tiệc linh đình, thì ta cũng chả thấy vui gì!
Câu Pháp cú 17, Phật cho chúng ta thấy rõ tâm trạng của kẻ đã gây tạo nghiệp ác. Đã gây tạo nghiệp ác, thì dù ở đâu, cũng không thể nào vui được. Thí dụ như kẻ giết người, dù luật pháp chưa tìm ra họ, nhưng trong thời gian lẩn trốn, thử hỏi họ có được an vui như trước khi chưa gây ra án mạng hay không? Dù họ có lẩn trốn nơi đâu, giả sử chạy lên trên thiên đường, cũng không thể nào vui được. Như vậy, muốn có niềm vui, chỉ cần ta không gây tạo điều ác là ta đã có niềm vui rồi, không cần phải tìm kiếm ở đâu xa. Câu Pháp cú thứ 18, Phật nêu rõ cho chúng ta thấy một hình ảnh trái ngược lại. Người nào tạo nhiều phước lành, thì bảo đảm người đó có một đời sống hoan hỷ. Hoan hỷ với chính mình và hoan hỷ với tha nhân. Niềm hoan hỷ tràn ngập cõi lòng, dù người đó ở bất cứ nơi đâu. Trong bất cứ hoàn cảnh thuận nghịch nào, nếu như ta cố gắng gây tạo những điều lành, thì tâm thức ta không có gì phải lo âu buồn bã. Sự cảm thọ niềm an lạc đó, chỉ có người làm lành mới thật sự cảm nhận một cách sâu sắc mà thôi. Như vậy, cảnh vui buồn không ở đâu khác, chỉ ở trong tâm của chúng ta. Tất cả đều do tâm ta tạo lấy. Cuộc sống an vui là một cuộc sống thánh thiện của đời người. Ngược lại, sống trong cảnh buồn thảm, tối ngày cứ mặt ủ, mày ê, thì thà chết cho rồi sướng hơn! Nhưng dễ gì chết được đâu. Bởi lẽ, nghiệp quả đã gây ra, họ chưa trả xong. Có người nói: kẻ gây tội ác tày trời, thì đời họ khó có ngày được an ổn. Dù họ sống giữa trần đời, nhưng không khác gì sống trong cảnh địa ngục. Lời nói nầy thật không sai ngoa chút nào. Hơn ai hết, người Phật tử mỗi người hãy tự tạo cho mình một nếp sống an vui và hài hòa, bằng cách luôn tạo nghiệp lành, thì chẳng những an vui trong hiện đời mà còn ở mãi mãi về sau nữa.
19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.
20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.Lược giải
19. Dù tụng nhiều Kinh mà buông lung không thật hành theo, thì chẳng hưởng được phần ích lợi của Sa môn[32], khác nào kẻ chăn bò, chỉ lo đếm bò cho người khác (để lấy công, chứ sữa thịt của bò thì không hưởng được).
Much though he recites the sacred texts, but acts not accordingly, that heedless man is like a cowherd who only counts the cows of others- he does not partake of the blessings of a holy life.
Kệ Tụng
Dầu tụng nhiều kinh điển
Không hành trì, phóng dật
Chẳng khác đếm bò người
Không hưởng sa môn hạnh.
20. Tuy tụng ít Kinh mà thường y giáo[33] hành trì[34], hiểu biết chân chánh, trừ diệt tham, sân, si, tâm hiền lành thanh tịnh, giải thoát, xa bỏ thế tục, thì dù ở cõi nầy hay cõi khác, người kia vẫn hưởng phần ích lợi của Sa môn.
Little though he recites the sacred texts, but puts the Teaching into practice, forsaking lust, hatred and delusion, with true wisdom and emancipated mind, clinging to nothing of this or any other world- he indeed partakes of the blessings of a holy life.
Kệ Tụng
Dầu tụng ít kinh điển
Nhưng y giáo phụng hành
Từ bỏ tham, sân, si
Giác tỉnh tâm giải thoát
Không chấp trước, hai đời
Tất hưởng sa môn hạnh.
Lược giảng
Tụng đọc Kinh điển của lời Phật dạy, mục đích là để tìm hiểu nghĩa lý trong Kinh, rồi đem ra áp dụng hành trì, như thế mới có lợi ích. Nếu tụng đọc Kinh cho nhiều, với tâm ý buông lung hay làm cho có lệ, thì kết quả chẳng được lợi lạc gì. Chẳng những không được lợi lạc mà đôi khi còn có tác dụng ngược lại. Đa số người tu, chỉ biết tụng đọc Kinh điển cho nhiều để được có phước. Bởi vậy, có lắm người tụng Kinh tính bộ. Càng tụng đọc được nhiều bộ, thì cảm thấy mình tu nhiều hơn người khác. Từ đó sanh tâm cống cao ngã mạn. Như trường hợp Ngài Pháp Đạt trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Một hôm, ông đến tham vấn đức Lục Tổ, khi lạy Tổ mà đầu ông không sát đất, bị Tổ quở. Tổ hỏi nguyên do vì sao ông lạy như thế? Có phải ông đang chất chứa một sự nghiệp gì không? Tổ gợi trúng tim đen của ông, ông liền thưa: Vâng! “Con đã tụng ba ngàn bộ Kinh Pháp Hoa”. Ông cho đó là một sự nghiệp vĩ đại khó có ai sánh bằng, kể cả Tổ cũng thế. Nhân đó, Tổ liền dạy cho ông một bài học, chớ có cậy mình tụng kinh nhiều mà khinh khi người khác. Tổ dạy: “Nếu ông tụng đến muôn bộ, được cái ý Kinh mà chẳng cho là hơn, ắt cùng ta sánh vai”. Tổ lại hỏi tiếp: Ông tên là gì? Ngài Pháp Đạt thưa: con tên Pháp Đạt. Tổ bảo: “Ông tên Pháp Đạt mà chưa từng thấu đạt được pháp”. Tổ dạy cho ông một bài kệ:
“Nhữ kim danh Pháp Đạt
Cần tụng vị hưu yết
Không tụng đản tuần thanh
Minh Tâm hiệu Bồ Tát
Nhữ kim hữu duyên cố
Ngô kim vị nhữ thuyết
Đản tín Phật vô ngôn
Liên hoa tùng khẩu phát”.
Dịch:
Nay ông tên Pháp Đạt,
Chuyên tụng chưa từng thôi.
Tụng rỗng chỉ theo tiếng
Sáng tâm gọi Bồ Tát
Nay ông vì có duyên
Nay tôi vì ông nói
Chỉ tin Phật không lời
Hoa sen từ miệng phát.
(Hòa Thượng Thích Thanh Từ)
Sau khi nghe Tổ dạy, ông liền sám hối và được tỏ ngộ. Khi tỏ ngộ được đạo lý, ông có làm một bài tụng:
Kinh tụng tam thiên bộ
Tào Khê nhứt cú vong
Vị minh xuất thế chỉ
Ninh yết lụy sinh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thuyết
Sơ trung hậu thiện dương
Thùy tri hỏa trạch nội
Nguyên thị pháp trung vương.
Tạm dịch:
Tụng Kinh ba ngàn bộ
Tào Khê một câu vong
Chưa rõ (yếu) chỉ xuất thế
Sao tránh khỏi sinh cuồng
Dê, nai, trâu quyền lập
Đầu, giữa, sau khéo bày
Ai biết trong nhà lửa
Có một đấng Pháp Vương.
Sự trình kệ của ông, chứng tỏ ông đã lãnh hội được yếu chỉ. Nếu tụng Kinh chỉ biết miệng tụng đọc không thôi, mà không thiết thiệt thật hành theo những gì trong Kinh dạy, thì đó là tụng rỗng suông. Tụng như thế có khác nào một kẻ chăn bò thuê, chỉ biết đếm bò còn mất cho chủ. Suốt đời không hưởng được lợi ích gì của con bò cả. Nói theo ngày nay, giống như mấy người làm việc trong ngân hàng, suốt tháng quanh năm chỉ làm một công việc là đếm bạc cho ngân hàng mà thôi. Rốt lại mình không có hưởng được một đồng điếu nào của ngân hàng. Hưởng tiền lương là ngân hàng chỉ trả công mình làm. Thế thôi!. Ngược lại, dù chúng ta không tụng nhiều Kinh, (như chỉ một bài Bát Nhã Tâm Kinh thôi) mà chúng ta y cứ theo lời Phật dạy, nỗ lực ứng dụng hành trì một cách nghiêm khắc thiết thiệt, thì cũng đủ giải thoát rồi. Pháp cú 20, Phật nói rất rõ về ý nghĩa lợi ích của việc tụng niệm. Người tụng niệm phải y giáo hành trì. Đằng nầy không, tụng thì cứ tụng, (giống như tụng kể công với Phật hay cho Phật nghe) nhưng hành trì thì không. Tụng như thế cả đời cũng không được lợi ích. Có người tụng niệm từ trẻ đến già, nhưng tam độc (tham sân si) vẫn còn nguyên vẹn.
Hỏi: Tại sao tụng Kinh nhiều và lâu quá mà chúng ta khổ vẫn hoàn khổ, không có chút tiến bộ nào trên đường tu hành hết vậy? Hỏi tức mỗi người chúng ta đã có sẵn câu trả lời rồi vậy. Tụng như thế làm sao tiến bộ được. Kinh Phật dạy để chúng ta tụng biết rõ mà diệt trừ tham sân si, chớ đâu phải Phật dạy để cho chúng ta tụng cầu phước. Cũng như chúng ta có bệnh đến bác sĩ khám, rồi bác sĩ ra toa để cho chúng ta mua thuốc uống. Có mua thuốc uống thì bệnh của chúng ta mới hết. Ngược lại, chúng ta cầm toa thuốc trên tay, tối ngày cứ đọc mà không chịu mua thuốc uống, rồi cứ trách sao tôi không hết bệnh! Buồn cười hơn nữa, có người tối ngày cứ cầm toa thuốc bác sĩ cho, rồi cắm đầu đọc lại cho bác sĩ nghe, để cho bác sĩ vui. Thử hỏi bác sĩ có vui không? Hay là ông ta chê trách người đó quá khờ dại. Tại sao tôi cho toa để mấy người mua thuốc uống, chớ tôi đâu có bắt buộc mấy người đọc lại cho tôi nghe? Toa thuốc nầy chính tôi cho, bộ tôi không biết sao mà cần quý vị phải đọc lại? Thật là ngớ ngẩn! Quả thật, nếu không khéo, thì chúng ta là những kẻ đang ngớ ngẩn như người bệnh kia không khác. Kinh do Phật nói, rồi ta cứ đem ra tụng lại cho Phật nghe. Tụng không thôi sao, có người còn phải luyện giọng cho có ca có kệ nữa chớ. Nghĩ âm thanh của mình tụng hay chắc Phật khen. Thật là Phật thấy thương xót tội nghiệp cho chúng ta quá chừng! Hai câu Pháp cú nầy, quả thật là một hồi chuông lớn, đức Phật nhằm thức nhắc cảnh tỉnh chúng ta trong vấn đề tụng đọc Kinh điển. Tụng Kinh như thế nào có ích lợi cho việc tu hành và tụng như thế nào không bổ ích, Phật đã dạy quá rõ ràng. Còn lại là phần ứng dụng thật hành của chúng ta mà thôi. Vì thế, nên khi tụng đọc, chúng ta tụng đọc chậm rãi rõ ràng từng chữ, từng câu cho có mạch lạc, (không cần phải có chuông mõ, nếu tụng ở nhà) để chúng ta theo dõi từng lời, từng câu Phật dạy. Nếu có chỗ nào không hiểu, không thông, thì chúng ta nên thưa hỏi những vị thiện hữu tri thức; những người đã có trình độ Phật học khá vững chắc, thỉnh cầu quý vị đó chỉ dạy cho chúng ta hiểu. Xong rồi, chúng ta cố gắng đem ra áp dụng trong đời sống hằng ngày. Có thế, mới được lợi ích và mới thật sự là người biết tụng Kinh. Còn riêng phần chư Tăng, Ni trong chùa khi tụng niệm, dĩ nhiên phải cần xử dụng đến chuông mõ, vì có đông người tụng niệm. Đánh mõ là để giữ trường canh đều đặn, hòa âm trong khi tụng niệm. Nhưng, tất cả cũng vẫn phải theo nguyên tắc Phật dạy trên. Điều mà chúng tôi xin được nhấn mạnh rõ ở đây, là chúng tôi chỉ trình bày đại khái về việc lợi hại của việc tụng Kinh đúng pháp hay không đúng pháp theo lời Phật dạy mà thôi, chớ tuyệt nhiên, chúng tôi không có đề cập đến việc nghi thức tụng niệm. Vì đó là một lãnh vực chuyên môn khác. Xin chớ có lầm lẫn giữa hai lãnh vực khác nhau nầy.
Phẩm Không Phóng Dật
21. Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
22. Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.Lược giải
21. Không buông lung[35] đưa tới cõi bất tử, buông lung đưa tới đường tử sanh[36]; người không buông lung thì không chết, kẻ buông lung thì sống như thây ma.
Heedfulness is the path to the Death-less. Heedlessness is the path to death. The heedful die not. The heedless are as if dead already.
Kệ Tụng
Không phóng dật, bất tử
Phóng dật, phải tử sinh
Không phóng dật, không chết
Phóng dật, như chết rồi.
Lược giảng
“Tại sao không buông lung đưa tới cõi bất tử?” Chữ bất tử ở đây là đồng nghĩa với Vô sanh hay Niết bàn. Bởi người không buông lung là người sống có đạo đức kỹ cương. Nói cách khác, những người nầy, họ ý thức được sự khổ đau của cuộc đời, nên họ quyết chí tu hành, nghiêm trì giới luật. Họ sống không cẩu thả. Họ dè dặt cẩn trọng từng lời nói và việc làm. Họ là người khéo biết giữ gìn ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Trong ba nghiệp, Ý là chủ động tạo nghiệp. Nhờ giữ giới, sanh định nên dừng được Ý nghiệp. Khi Ý nghiệp đã dừng, thì hành giả đạt được Niết Bàn an lạc, tức đã đạt được quả vị Niết Bàn A la hán. Đây là quả vị cuối cùng của Thanh Văn. Đạt chứng quả vị nầy rồi, không còn sanh tử, tức dứt được hai phần sanh tử: Phần đoạn và Biến dịch, nên nói là “Bất tử”. Ngược lại, kẻ buông lung, tức sống theo dục vọng sở thích. Họ muốn làm chi thì làm, bất cần đời. Họ hành động theo bản năng tự do phóng túng. Như thế, nên họ đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử khổ đau triền miên. Nên nói “buông lung đưa tới đường tử sanh, hoặc sống như thây ma”. Lời dạy nầy, đức Phật nhằm cảnh giác và quở trách những người tu buông lung tâm ý rất nặng nề. Thật vậy, người tu hành mà khinh thường giới luật, sống buông thả không chút hổ thẹn, tạo nghiệp hơn người đời, như thế, thử hỏi chúng ta có xứng đáng người tu hay không? Sống không lý tưởng, khác nào như chiếc thuyền trôi không định hướng, mặc tình trôi dạt nơi đâu cũng được, miễn sao sống thỏa mãn dục tình thì thôi. Bởi vậy, Phật quở người tu như thế, có khác gì một cái thây ma, sống mà cũng như chết. Nghiệm lại, chúng ta đang là thây ma trong từng giây phút! Vì sao vậy? Vì chúng ta sống thiếu chánh niệm. Sống không chánh niệm, thì có khác gì là một cái máy. Nói cái máy, tức còn nhẹ, vì còn có sự hoạt động, nhưng một sự hoạt động theo duyên. Đủ bộ phận thì nó hoạt động, khi không đủ duyên thì thôi. Đã là máy, thì nó hoạt động chỉ là hoạt động, tuyệt nhiên, nó không biết gì cả. Người sống không có chánh niệm cũng như thế. Chúng ta sinh hoạt làm lụng suốt ngày, hết làm nầy đến làm kia, lúc nào cũng bận rộn, tưởng mình ngon lành lắm, nhưng thật ra, khi hỏi đến cái gì làm chủ để điều khiển sự hoạt động đó, thì chúng ta lại lúng túng mù tịt. Sống mà mất mình không hay biết. Thật đáng buồn thay! Chúng ta cứ ngỡ cái suy nghĩ lung tung đó là mình. Nếu nó thật là mình, thì trong một giờ có biết bao nhiêu cái suy nghĩ. Khi thì nghĩ lành, lúc lại nghĩ dữ, nghĩ quấy. Nếu bảo, nghĩ lành là mình, thì khi nghĩ quấy, nghĩ dữ là ai? Chả lẽ mình là những thứ tạp nhạp. Rồi đến khi nhắm mắt, thì cái mình đó nó đi đâu? Bình thường nó trú ngụ nơi nào? Tại sao lúc nó dấy khởi nghĩ đủ thứ, bấy giờ nhìn lại, thì không thấy bóng dáng của một chú nào hết. Thế nó đi đâu? Sao tan biến mau lẹ như vậy? Nếu nó là mình, thì nó phải còn hoài. Cớ sao khi chúng ta xoay lại nhận diện nó, thì nó mất hình mất dạng. Quả thật, cái mà mình cho là mình đó, nó chỉ là cái bóng mờ mà thôi. Trong Kinh thường gọi những thứ nầy là “vọng tưởng”.Vậy mà cả đời chúng ta lại làm nô lệ cho những thứ vọng tưởng bóng mờ nầy. Tuy nó là bóng mờ, nhưng nó có một sức mạnh rất lớn. Nó luôn luôn sai sử chúng ta tạo nghiệp thiện, ác, cho đến ngày chúng ta nhắm mắt. Đến ngày nhắm mắt mà mình cũng không biết mình là ai. Như thế, có phải sống mà như chết không? Bởi vậy, Phật cho những kẻ sống buông lung, giống như một cái thây ma không hơn không kém. Thiết nghĩ mỗi người chúng ta nên ngẫm lại thật kỹ lời Phật dạy nầy.
22. Kẻ trí biết chắc điều ấy, nên gắng làm chớ không buông lung. Không buông lung thì đặng an
vui trong các cõi Thánh[37].
Clearly understanding this excellence of heedfulness, the wise exult therein and enjoy the resort of the Noble Ones.
Kệ Tụng
Biết rõ sự thật ấy
Kẻ trí không phóng dật
Hoan hỷ không phóng dật
An vui trong cõi thánh
Lược giảng
Phật khuyên chúng ta nên cố gắng làm người trí. Người có trí huệ là người biết sống. Người biết sống là người không buông lung. Người sống có định hướng, có lý tưởng. Không sống trong sự nô lệ tình dục. Sống trong sự bảo dưỡng, thanh tịnh của giới luật. Người giữ giới luật tinh nghiêm là người hằng sống trong chánh niệm. Họ là người không đánh mất mình. Họ luôn luôn đang biết mình là ai và đang làm gì. Họ là người khéo biết sống tỉnh thức trong từng phút giây. Đi họ biết họ đi. Làm họ biết họ làm. Chỉ cần một chữ “Biết” sáng suốt trong mọi hành động, thì người đó là người trí huệ. Trái hẳn với hạng người vô trí, buông lung. Đó là hình ảnh của mẫu người giải thoát. Họ sống tiếp cận với cuộc đời, nhưng tâm hồn của họ lúc nào cũng trong sáng. Họ không làm nô lệ cho dục vọng sai khiến. Phật cho hạng người như thế là kẻ đã đạt được “Thánh” vị. Như vậy, Thánh và Phàm chỉ khác nhau giữa Mê và Ngộ. Mê là phàm phu, Ngộ là Thánh nhơn. Mê, Ngộ cũng là con người. Chỉ khác nhau, một con người sống không buông lung, luôn tỉnh thức và một con người sống buông lung theo dục vọng mà thôi.
23. Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn,
Ðạt an tịnh vô thượng.
24. Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.Lược giải
23. Nhờ kiên nhẫn, dõng mãnh tu thiền định và giải thoát, mà kẻ trí được an ổn, chứng nhập Vô thượng Niết bàn.
The wise ones, ever meditative and steadfastly persevering, alone experience Nibbàna, the incomparable freedom from bondage.
Kệ Tụng
Người hằng tu thiền định
Thường kiên nhẫn, tinh cần
Kẻ trí hưởng Niết bàn
Thoát trược phiền, vô thường.
Lược giảng
Phật cho chúng ta biết rõ thêm về con đường tu. Muốn đạt được quả vị Vô thượng Niết Bàn, tức Phật quả, hẳn chúng ta phải trải qua bao nhiêu chướng ngại. Trên lộ trình hành hóa, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp hoa và trái. Mà đôi khi, chúng ta sẽ gặp nhiều chông gai hầm hố. Khi gặp những chướng duyên thử thách đó, nếu chúng ta thiếu trang bị cho mình đức tánh nhẫn nhục, thì rất dễ ngã quỵ trên đường. Và đôi khi, chúng ta lại chán nản thối bước trở về. Đã có sự kiên nhẫn, nhưng nếu thiếu tinh tấn cũng không thành công trên bước đường tu. Vì vậy, Phật khuyên bảo chúng ta phải kiên nhẫn và dõng mãnh thẳng tiến. Thẳng tiến như thế nào? Kế tiếp Phật nêu ra pháp tu Thiền Định. Thật vậy, người tu, nếu không trang bị cho mình đầy đủ: “Tam vô lậu học: giới, định, huệ”, thì không thể nào đạt đến quả vị giải thoát được.
24. Không buông lung, cố gắng, hăng hái chánh
niệm[38], khắc kỷ[39] theo tịnh hạnh, sinh hoạt đúng như pháp, thì tiếng lành càng ngày càng tăng trưởng.
Ever grows the glory of him who is energetic, mindful and pure in conduct, discerning and self- controlled, righteous and heedful.
Kệ Tụng
Tinh cần, tu chánh niệm
Tịnh hạnh, khéo suy tư
Tự điều theo chánh mạng
Người sống không phóng dật
Tiếng lành ngày tăng trưởng.
Lược giảng
Nói lên cái kết quả mà người tu đạt được. Bằng vào sự kiên trì nỗ lực chuyên cần đó, nên kết quả, tự mình đã được giải thoát và do đó, tiếng lành ngày càng tăng trưởng. Nhờ thế, mà việc tự hành hóa tha mới được trọn vẹn vậy.
25. Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
26. Chúng ngu si, thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.Lược giải
25. Bằng sự cố gắng, hăng hái không buông lung, tự khắc chế lấy mình, mà kẻ trí tự tạo cho mình một hòn đảo[40] chẳng có ngọn thủy triều[41] nào nhận chìm được.
By effort and heedfulness, discipline and self-mastery, let the wise one make for himself an island which no flood can over-whelm.
Kệ Tụng
Tinh cần, không phóng dật
Tự điều, khéo chế ngự
Kẻ trí xây hòn đảo
Sóng nước khó ngập tràn.
Lược giảng
Phật dạy: Kẻ buông lung là kẻ sống chạy ra ngoài, tức “bối giác hiệp trần”, làm nô lệ cho ngoại cảnh. Đã sống theo ngoại cảnh, tức mất mình. Muốn nhận rõ bộ “Mặt thật xưa nay” của mình, tất nhiên, là phải nhìn thẳng lại mình. Ở đây, Phật dạy: “tự khắc chế lấy mình” , tức phải phản quan tự kỷ. Vua Trần Nhân Tôn khi còn theo học với Tuệ Trung Thượng Sĩ có hỏi một câu: Cái gốc của người tu thiền là gì? Tuệ Trung Thượng Sĩ trả lời: “ Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Nghĩa là: phải hằng xem xét lại ở nơi chính mình, đó là bổn phận chính yếu của người tu, không chạy theo cảnh ngoài. Có nhìn kỹ lại mình, mới thấy rõ những vọng niệm dấy khởi để mình gạn lọc, lau chùi. Đó là nói theo nghĩa thường, trong phạm vi đối trị để tu. Nếu luận nghĩa siêu việt hơn, theo Thiền Tông, thì vọng tưởng vốn không thật, nên khi mình nhìn thẳng lại nó, thì nó sẽ tan biến mất hình mất dạng. Như trường hợp Tổ Huệ Khả đã ứng dụng thật hành, khi được sự chỉ thẳng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, qua câu chuyện an tâm. Tổ Huệ Khả nói tâm con không an, cầu xin Tổ Bồ Đạt Ma chỉ cho cách an tâm. Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Ngươi đem tâm ra ta an cho”. Khi đó, Tổ Huệ Khả nhìn lại, không thấy bóng dáng chú nào, mới thưa: “con tìm tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Nhân đó, Tổ Huệ Khả đã biết đường vào.
Lũ giặc phiền não luôn chực sẵn nhận chìm ta bất cứ lúc nào, nếu chúng ta thiếu cảnh giác, tỉnh thức. Vì thế, Phật bảo: “Là kẻ trí phải tự tạo cho mình một hòn đảo vững chắc”. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta mãi lặn hụp đắm chìm trong biển đời sanh tử khổ đau, mặc dù chúng ta ai cũng sẵn có “ Hòn đảo tánh giác”, nhưng vì bị mây mù vô minh che phủ, nên chúng ta quên mất. Nếu một phen chúng ta nghe lời Phật dạy, sớm biết hồi đầu tỉnh giác quay về hòn đảo an toàn đó, thì không có một ngọn thủy triều nào có khả năng nhận chìm chúng ta được.
26. Người ám độn[42] ngu si[43] đắm chìm trong vòng buông lung, nhưng kẻ trí lại chăm giữ tâm mình không cho buông lung như anh nhà giàu chăm lo giữ của.
The foolish and ignorant indulge in heedlessness, but the wise one keeps his heedfulness as his best treasure.
Kệ Tụng
Kẻ si, chúng ngu độn
Sống phóng đãng, buông lung
Người trí không phóng dật
Giữ gìn như vật báu.
Lược giảng
Phật dạy :Dù biết mình sẵn có “Hòn đảo” đó, nhưng chúng ta chưa chịu thiết thiệt quay về để an thân lập mệnh, thì có cũng như không. Cho nên, pháp cú 26, Phật quở và thương xót chúng ta là kẻ ngu si ám độn, mãi đắm chìm trong vòng buông lung, chưa chịu tỉnh thức. Khổ đau hay an vui, chỉ khác nhau là kẻ trí với người ngu. Phật nêu ra cho chúng ta thấy một hình ảnh của người sống có trí huệ rất cụ thể. Kẻ trí là kẻ luôn gìn giữ tâm mình một cách miên mật cẩn trọng. Nhờ khéo giữ và ngăn chận như thế, nên những vọng niệm khó có cơ hội phát sanh. Khác nào như anh nhà giàu chăm lo giữ của, vì sợ kẻ trộm đột nhập vào nhà lấy hết đồ vật quý báu của anh. Mỗi người chúng ta vốn sẵn đã giàu, nhưng vì không khéo giữ, nên thường xuyên bị kẻ trộm vào nhà lấy hết đồ. Một khi chúng ta khéo biết gìn giữ, thì không một kẻ trộm nào lấy được.
27. Chớ sống đời phóng dật,
Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
28. Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng.Lược giải
27. Chớ nên đắm chìm theo buông lung, chớ nên mê say với dục lạc[44]; hãy nên cảnh giác[45] và tu thiền mới mong đặng đại an lạc[46].
Do not give way to heedlessness. Do not indulge in sensual pleasures. Only the heedful and meditative attain great happiness.
Kệ Tụng
Chớ buông lung phóng dật
Chớ mê say dục lạc
Người tự chế, thiền định
Mới hưởng đại an lạc.
Lược giảng
Phật nhắc lại cho chúng ta nhớ: nếu người tu muốn thật sự thoát ly sanh tử khổ đau, thì chớ nên đắm chìm theo buông lung, chớ nên mê say với dục lạc mà hãy nên cảnh giác tu thiền, mới mong đặng đại an lạc. Điều quan trọng của người tu là phải luôn tư duy thiền quán. Ta phải thiền quán một cách sâu sắc về các pháp hư ảo giả huyễn. Trên đời nầy không có gì là quan trọng. Bản thân ta, một ngày nào đó cũng tan rả, hà tất gì những vật ngoài ta. Quả đúng với câu:
“Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sanh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì!”
(Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều).
Đời người cuối cùng cát bụi trả về cho cát bụi. Biết thế, thì ta còn tham đắm dục lạc thế gian làm gì! Hãy giải quyết vấn đề sống chết khổ đau, đó mới là điều quan trọng nhứt của người tu.
28. Nhờ trừ hết buông lung kẻ trí không còn lo sợ gì. Bậc Thánh hiền khi bước lên lầu cao của trí tuệ, nhìn lại thấy rõ kẻ ngu si ôm nhiều lo sợ, chẳng khác nào khi lên được núi cao, cúi nhìn lại muôn vật trên mặt đất.
Just as one upon the summit of a mountain beholds the groundlings, even so when the wise man casts away heedlessness by heedfulness and ascends the high tower of wisdom, this sorrowless sage beholds the sorrowing and foolish multitude.
Kệ Tụng
Kẻ trí diệt buông lung
Với hạnh không phóng dật
Leo lầu cao trí tuệ
Bậc thánh, không âu lo
Nhìn quần manh sợ hãi
Chẳng khác lên núi cao
Nhìn muôn vật dưới đất
Lược giảng
Phật cho chúng ta biết rõ về kẻ đã tỉnh và người còn mê. Nói tỉnh là vì đã qua cơn mê. Muốn hết mê, thì phải dứt trừ buông lung. Còn buông lung là còn sanh tử. Vì tâm ý buông lung là đầu mối của sự tạo nghiệp. Còn tạo nghiệp là còn đi trong sanh tử. Khi hết mây mù, thì bầu trời mới thật sự trong sáng. Mây mù buông lung còn, thì làm gì bầu trời trí tuệ xuất hiện được. Kẻ thật tỉnh, nhìn lại thấy người còn mê mờ, mới thật lòng thương xót, tội nghiệp. Khác nào bậc Thánh Hiền bước lên lầu cao của trí tuệ, nhìn lại thấy rõ kẻ ngu si ôm nhiều lo sợ, và chẳng khác nào người khi lên được núi cao, cúi nhìn lại muôn vật trên mặt đất. Mong sao mọi người sẽ đạt được đỉnh cao của trí tuệ và mãi an trú trên hòn đảo an bình. Một khi tâm bình, thì thế giới sẽ bình. Ngược lại, thì đời ta khác nào như một kẻ lữ hành mãi làm khách phong trần đi trong sương gió hệ lụy khổ đau của cuộc đời. Mỗi người nên tự hỏi lại mình: “ta muốn mãi làm khách phong trần đi lang thang hay muốn trở về quê cũ?” Muốn trở về quê cũ, thì xin hãy mau chóng hồi đầu!
29. Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn.
30. Ðế Thích [1] không phóng dật,
Ðạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen ;
Phóng dật, thường bị trách.Lược giải
29. Tinh tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã[47]thẳng tiến bỏ lại sau con ngựa gầy hèn.
Heedful among the heedless, wide-awake among the sleeply, the wise man advances like a swift horse leaving behind a weak jade.
Kệ Tụng
Tinh cần giữa phóng dật
Tỉnh thức giữa quần mê
Kẻ trí như tuấn mã
Bỏ sau con ngựa hèn.
Lược giảng
Sống trong một đoàn thể, người tinh tấn tu học, bao giờ cũng gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp. Sống chung đụng giữa một đám người có ý chí hạ liệt, phóng túng, lười biếng tu học, thì tác động ảnh hưởng của những người đó đối với họ cũng không phải là nhỏ. Người muốn vượt qua sự ảnh hưởng nầy, phải là người có đức kiên nhẫn và ý chí cương quyết rất cao. Quả họ là mẫu người sống có lý tưởng. Họ âm thầm nhẫn nại cần mẫn trong việc tu học. Người như thế, chắc chắn sẽ bị những kẻ biếng lười đố kỵ, ganh tỵ. Chẳng những bị đố kỵ, ganh tỵ thôi, mà họ còn tìm đủ mọi cách nói xấu, hãm hại người đó nữa. Nhưng, với một con người có ý chí sắt đá như thế, thì dù cho họ có bị những kẻ xấu ác chung quanh trù dập tơi bời, họ cũng cương quyết ngẫng cao đầu lên để mà đi tới. Họ bất chấp những chuyện thị phi khen chê. Vì không một ai hiểu họ rõ hơn là chính họ hiểu họ. Họ quả thật là một đóa hoa tuyệt mỹ giữa một đám hoa rừng cỏ dại. Người như thế, Phật khen là kẻ “tỉnh táo giữa đám người mê ngủ”. Đời, nếu như tất cả đều mê hết, thì thử hỏi thế gian nầy sẽ ra sao? Ít ra trong số những người mê đó, cũng còn có kẻ tỉnh thức. Như thế, thì thiên hạ mới sống còn được. Nếu như ai nấy đều tỉnh hết, thì thế giới nầy sẽ là Cực lạc rồi. Nói gần hơn, nếu trong một đoàn thể , ai nấy đều tỉnh thức hết, đều biết lo tu hành, thì thật là hòa hợp an vui biết mấy. Như các vị đại đệ tử xuất gia của Phật thời xưa. Mặc dù sống trong một đoàn thể Tăng già đông đảo, có hơn 1250 vị, nhưng tất cả đều sống rất an vui giải thoát. Được thế là do đâu? Có phải do vì mọi người đều sống trong tỉnh thức và chánh niệm hết không? Quả thật, các Ngài đó có một sức thiền định khá cao. Người tu hành, ai lại không muốn được an vui giải thoát như thế, thế thì tại sao chúng ta không tập tu như các Ngài? Đó là câu hỏi được đặt ra, để mỗi người chúng ta xin tự trả lời lấy. Và chúng ta muốn làm con tuấn mã hay muốn làm con ngựa gầy yếu. Nếu làm con ngựa gầy yếu, thì không biết đời kiếp nào mới thoát khỏi khổ đau. Là người xuất gia tu hạnh giải thoát, muốn xuất ly tam giới, tất nhiên, chúng ta phải cố gắng tinh tấn vươn lên để làm con tuấn mã, bỏ lại sau lưng những con ngựa gầy hèn.
30. Nhờ không buông lung, Ma Già[48] lên là chủ cõi chư thiên. Không buông lung luôn luôn được khen ngợi, buông lung luôn luôn bị khinh chê.
By heedfulness did Indra become the overlord of the gods. Heedfulness is ever praised, and heedlessness ever despised.
Kệ Tụng
Đế Thích nhờ tinh tấn
Thành chủ cõi chư thiên
Không phóng dật được khen
Phóng dật bị khinh miệt.
Lược giảng
Phật đã dẫn chứng trời Đế Thích cho chúng ta thấy kết quả của sự không buông lung. Trời Đế Thích sở dĩ được làm vua của cõi trời Đao Lợi, tức cai trị 33 từng trời là nhờ tinh tấn tu hành tài bồi phước đức nên mới được như thế. Kế tiếp, Phật lại so sánh cho chúng ta thấy hai hình ảnh rõ rệt giữa người buông lung và người không buông lung. Người không buông lung luôn luôn được khen ngợi. Ngược lại, người buông lung luôn luôn bị khinh chê. Người siêng năng cần mẫn trong chiều thăng hoa, hướng thượng, thì không những bản thân họ được lợi lạc mà họ còn làm những công việc lợi ích thiết thực cho mọi người. Có người, sau khi nhận lãnh trách nhiệm do cấp trên giao phó, họ âm thầm nỗ lực làm việc hết sức mình để phục vụ cho đại chúng. Họ xem đó là một niềm vui của họ. Có đôi khi họ bị cấp trên khiển trách, vì một lỗi lầm sơ suất nào đó, nhưng họ quyết không buồn lòng, không thối chí. Chẳng những thế, mà họ còn biết phục thiện cải tiến những điều sai lầm của họ. Trong khi đó, họ cũng bị bầm dập, vì bị những kẻ dưới dèm pha nói xấu đủ thứ. Nhưng dù thế nào, họ cũng không lùi bước. Họ không màng đến sự khen chê hay thưởng phạt, miễn sao họ được phục vụ giúp cho mọi người vui vẻ, chỉ ngần ấy, là họ cảm thấy mãn nguyện rồi. Quả thật họ là mẫu người thật đáng kính mến. Họ là người rất kiên nhẫn, chịu khó, và như thế, rất có tiến bộ trên đường tu. Nếu là người có tâm cầu tiến, và với tinh thần vị tha bất vụ lợi, chẳng nghĩ cho riêng mình, thiết nghĩ, ta cũng nên noi gương tốt của họ. Và nếu là người tốt, vì mọi người, ta cũng nên ủng hộ họ và bắt chước họ để làm những công việc giúp ích cho mọi người. Ta nên diệt trừ cái tâm nhỏ hẹp, đố kỵ ganh tỵ, vì những thứ đó là những con vi trùng độc hại, chúng đục khoét tàn phá cuộc đời ta. Người có tâm ích kỷ như thế, thì đối với đạo và đời, không một ai ưa thích họ cả.
31. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
32. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.Lược giải
31. Tỳ kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta ví họ như ngọn lửa hồng, đốt tiêu tất cả kiết sử[49] từ lớn chí nhỏ.
The monk who delights in heedfulness and looks with fear at heedlessness advances like fire, burning all fetters small and large.
Kệ Tụng
Tỳ kheo sợ phóng dật
Ưa thích không phóng dật
Bước tới như lửa hừng
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
Lược giảng
Phật chỉ đề cập dạy riêng cho người xuất gia thọ đại giới Tỳ kheo. Người xuất gia với một chí nguyện cao cả sáng ngời: “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”. Với một chí nguyện cao cả xung thiên đó, thì thử hỏi làm sao họ có thể buông lung cho được. Người xuất gia mà buông lung thì sự nghiệp giải thoát khó mong thành tựu. Cho nên, đối với tự thân đã không buông lung, mà họ thấy người khác sống buông lung, thì họ cảm thấy rất thương xót và lo sợ. Họ lo sợ cho kẻ đó bị sa đọa, chẳng những trong hiện đời mà còn trải qua nhiều kiếp nữa. Vì thế, những Tỳ kheo nào sống không buông lung, thức tỉnh tinh tấn tu hành, Phật ví những vị đó như ngọn lửa hồng cao ngọn, có năng lực đốt cháy tất cả những kiết sử phiền não. Dù những phiền não căn bản hay chi mạt, thảy đều bị thiêu hủy cháy rụi hết.
32. Tỳ kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta biết họ là người gần tới Niết bàn, nhất định không bị sa đọa dễ dàng như trước.
The monk who delights in heedfulness and looks with fear at heedlessness will not fall. He is close to Nibbàna.
Kệ Tụng
Tỳ kheo sợ phóng dật
Ưa thích không phóng dật
Nhất định gần Niết bàn
Không còn bị đọa lạc.
Lược giảng
Phật quả quyết những Tỳ kheo luôn mặc áo giáp tinh tấn, với thanh gươm trí tuệ trong tay, chặt phá tất cả những phiền não, thì chắc chắn họ sẽ đạt được quả vị Niết bàn an lạc. Đã thế, thì còn lo gì đọa lạc. Chỉ trừ những kẻ sống không biết có ngày mai. Họ chủ trương sống là phải hưởng thụ vật chất. Họ không tha thiết gì trong việc tu hành. Họ là người đam mê theo danh lợi dục lạc thế gian. Đối với họ những nhu cầu vật chất, không bao giờ biết đủ. Họ sống phóng túng trái với giới luật Phật dạy. Họ chê cười và ganh ghét tìm cách dèm pha nói xấu những bậc tu hành đạo cao đức trọng. Họ là người không biết tàm quý. Họ coi trời bằng vung, khinh người dưới mắt. Bản ngã của họ thật là to lớn. Phật cho những hạng người đó là “Tăng thượng mạn”. Họ không biết tôn kính những bậc trưởng thượng đức hạnh. Dù họ biết, những bậc ấy đáng bực Tôn sư của họ. Nhưng với lòng tự ái cao ngạo, không cho phép họ hạ mình học hỏi. Quả họ là hạng người quá trung thành tôn thờ chủ nghĩa vị kỷ. Hạng người nầy thời nào cũng có. Họ có biệt tài biện hộ và che giấu những lỗi lầm của họ. Phật rất thương xót những hạng người nầy. Đây là hạng người mà cửa địa ngục đang chờ đón họ. Đó là hạng người sống buông lung sa đọa, không có đạo đức, dù bề ngoài họ trang phục là đạo đức. Họ lợi dụng Phật pháp để làm kế nuôi sống, miễn sao họ sống sung sướng phè phởn là được rồi. Quả đúng như lời người đời thường nói: “chiếc áo không làm nên thầy tu”. Hành động tổn đạo, hại đời, phá pháp, đó là hành động của một con người đã đánh mất lương tâm đạo đức làm người.
Phẩm Tâm
33. Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.
34. Như cá quăng lên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vùng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma.Lược giải
33. Tâm kẻ phàm phu thường xao động biến hóa[50] rất khó chế phục gìn giữ, nhưng kẻ trí lại chế phục tâm mình làm cho chánh trực[51] một cách dễ dàng, như thợ khéo uốn nắn mũi tên.
Just as a fletcher straightens an arrow shaft, even so the discerning man straightens his mind - so fickle and unsteady, so difficult to guard and control.
Kệ Tụng
Tâm phàm hay giao động
Khó chế, khó nhiếp phục
Kẻ trí khiến tâm chánh
Như thợ khéo nắn tên.
Lược giảng
Người tu hành, còn là phàm phu khi chưa lên Thánh vị A la hán, thì không một ai dám bảo đảm tin ở nơi tâm mình. Tại sao? Vì cái tâm đó là tâm vọng, thay đổi bất thường. Đã là vọng, tất nhiên nó không bao giờ yên. Suốt ngày nó phan duyên theo trần cảnh. Giống như con vượn chuyền cây và con ngựa chạy rong nơi đồng nội. Bởi thế, các nhà Duy Thức gọi nó là “tâm viên ý mã”, nghĩa là vượn lòng ngựa ý. Nhà thiền gọi nó là loại trâu hoang, thật không dễ gì chế phục. Muốn chế phục được nó, người tu trước tiên phải biết mặt mũi nó. Nếu không biết nó, thì làm sao chế phục? Trong nhà thiền gọi là chăn trâu. Muốn chăn thì phải biết trâu là gì và hình dáng nó ra sao? Trâu tức là vọng tưởng. Vì vọng tưởng, cho nên nó luôn xao động bất an. Đã thế, thì làm sao biết hình dáng của nó được. Nó luôn biến hóa không lường. Vì biến hóa không lường, nên rất khó chăn nó. Bởi thế, nên Pháp cú 33, Phật nói: “tâm kẻ phàm phu thường xao động biến hóa rất khó chế phục gìn giữ”. Đó là nói kẻ phàm phu tâm còn thô động rất khó gìn giữ. Ngược lại, Phật nói: “những kẻ trí chế phục tâm mình làm cho chánh trực một cách dễ dàng, như thợ khéo uốn nắn mũi tên”. Người trí là người giác ngộ sáng suốt. Đã giác ngộ sáng suốt (chưa hoàn toàn), thì tâm vọng tưởng thô phù không còn. Cho nên đối với những vị nầy, họ điều phục tâm ý của họ một cách dễ dàng. Nói cách khác, họ đã làm chủ được họ. Vọng tưởng không còn thì làm sao khuấy động họ được. Ví như mặt trời xuất hiện, thì mây mù phải tan biến. Mặt trời chánh niệm của họ luôn thắp sáng. Do đó mà tâm của họ được chánh trực. Đến đây, họ mới có thể tin tưởng ở nơi tâm mình.
34. Như con cá bị quăng lên bờ sợ sệt và vùng vẫy thế nào, thì cũng như thế, các ngươi hãy đem tâm lo sợ, phấn đấu để mau thoát khỏi cảnh giới ác ma.[52]
As a fish when pulled out of water and cast on land throbs and quivers, even so is this mind agitated. Hence should one abandon the realm of Màra.
Kệ Tụng
Như cá quăng lên bờ
Vất ra ngoài thủy giới
Tâm nầy phải vùng vẫy
Vậy hãy thoát ma giới.
Lược giảng
Phật cho chúng ta một hình ảnh cụ thể về sự dễ duôi tin ở nơi tâm mình. Người tu, khi chưa điều phục được tâm, hay rõ hơn chưa làm chủ được 6 căn, nên khi tiếp xúc trần cảnh, thì tâm khó được an ổn. Khác nào quăng cá lên bờ, làm sao tránh khỏi sự vùng vẫy. Vì cá có nước mới sống được. Rời nước cá không thể nào tồn tại. Nay quăng cá lên đất khô, thì cá phải chết. Cũng thế, nếu người tu, khi chưa làm chủ được tâm, thì khó thoát khỏi ác ma nhiễu hại. Thế nên, nếu muốn thoát khỏi cảnh giới ma, thì người tu cần phải có mũi tên trí tuệ và cây cung thiền định. Bằng không, thì sẽ tán thân mất mạng như con cá chết giãy trên bờ.
35. Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.
36. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.Lược giải
35. Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục[53], xao động không dễ nắm bắt; chỉ những người nào đã điều phục được tâm mình mới được yên vui.
Wonderful, indeed, it is to subdue the mind, so difficult to subdue, ever swift, and seizing whatever it desires. A tamed mind brings happiness.
Kệ Tụng
Khó nắm giữ, giao động
Tâm phàm, dục chi phối
Lành thay, điều phục tâm
Tâm điều, hưởng an lạc.
Lược giảng
Phật nhấn mạnh cái mà đại đa số người tu không được giải thoát, là do quá đam mê ngũ dục lạc thế gian. Đây cũng do tập khí đắm nhiễm lâu đời. Vì sống theo vọng tình, nên càng ngày càng lún sâu vào trong bùn lầy ngũ dục. Khác nào như con trâu hoang dong ruổi ẩn khuất trong đám rừng rặm, không biết lối ra. Người đắm theo ngũ dục cũng thế. Muốn cho trâu hoang kia hồi đầu để thoát ra, thì người chăn phải khéo léo tìm cách dẫn dụ điều phục nó. Cũng thế, người tu muốn thoát khỏi ngũ dục, thì phải khéo dùng những phương tiện tu hành để nhiếp hóa điều phục tâm. Như niệm Phật hay thiền quán v.v. Phải thường xuyên quán sát các pháp thế gian là vô thường huyễn hóa. Tất cả đều do nhân duyên giả hợp tạo thành, không có gì bền chắc. Mọi sự vật trên đời, chỉ là trò ảo mộng mà thôi. Nhờ quán sát như thế, thì tâm tham cầu ham muốn ngũ dục sẽ bớt dần. Từ đó, tâm ta mới được nhẹ nhàng an thoát.
36. Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, biến hóa u ẩn khó thấy, nhưng người trí lại thường phòng hộ tâm mình, và được yên vui nhờ tâm phòng hộ ấy.
Let the discerning man guard the mind, so difficult to detect and extremely subtle, seizing whatever it desires. A guarded mind brings happiness.
Kệ Tụng
Tâm tinh vi khó thấy
Ái dục thường chi phối
Kẻ trí hộ trì tâm
Tâm hộ, hưởng an lạc.
Lược giảng
Phật nhấn mạnh việc phòng hộ tâm mình. Tại sao Phật bảo ta phải phòng hộ? Bởi vì tâm dễ theo cảnh. Từ xưa tâm cảnh liên quan, cảnh mà xao động tâm an mấy người. Người tu, nhứt là người xuất gia, muốn tâm được yên, thì phải lặng bớt duyên đời. Mà muốn lặng bớt duyên đời, theo kinh nghiệm của chư Tổ và các bậc Tôn đức, thì cách hay nhứt là phải tránh duyên để chuyên tu, bằng cách nhập thất chẳng hạn. Cảnh sắc tuy nó không có lỗi, nhưng nó có một sức hút hấp dẫn, lôi cuốn, rất dễ làm lung lạc tâm ý người tu. Thí dụ: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v. Đa số người tu hành đều bị sức hút của những thứ nầy làm chướng ngại trên đường tu rất lớn. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương có nhiều bài Kinh Phật nói về tai hại của ngũ dục. Chẳng hạn như chương 21 Phật dạy: “Người theo tình dục cầu được thanh danh, khi thanh danh vừa hiển lộ thì thân đã chết rồi! Nếu người tham thứ thường danh ở đời mà chẳng học đạo, thì chỉ uổng công mệt xác, thí như: đốt hương, người ta vừa nghe được mùi hương thì hương kia đã cháy hết, mà thứ lửa hại thân lại theo liền sau đó”.
Chương 22 Phật dạy: “Tài sắc đối với người, người không bỏ được, chẳng khác nào trên lưỡi dao có dính chút mật, không đủ một bữa ăn ngon, thế mà đứa bé liếm vào quyết sẽ bị cái hại đứt lưỡi.” (Giáo Sư Hoàn Quan dịch)
Thế đủ biết tai hại của ngũ dục dường nào! Nếu người thật sự tu hành muốn thoát ly sanh tử khổ đau, thì nên xa lánh ngũ dục như tránh xa hầm lửa. Vì gần nó sẽ có ngày cháy mất mạng!
37. Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu [1]
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc. [2]
38. Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành.Lược giải
37. Tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, đi rất xa, vô hình vô dạng như ẩn náu hang sâu, nếu người nào điều phục được tâm, thì giải thoát khỏi vòng ma trói buộc.
Dwelling in the cave (of the heart), the mind, without form, wanders far and alone. Those who subdue this mind are liberated from the bonds of Màra.
Kệ Tụng
Đi xa vời, cô độc
Vô hình, ẩn hang sâu
Ai điều phục tâm ấy
Thoát khỏi ma trói buộc.
Lược giảng
Phật gợi cho chúng ta một hình ảnh về “tâm vọng” qua những từ ngữ để chúng ta có thể hình dung tâm vọng của chúng ta. Những cụm từ “lén lút đi một mình”, “đi rất xa”, “ẩn náu hang sâu”, đủ để chúng ta thấy rõ điều đó. Trong cuộc sống hằng ngày, ít khi nào chúng ta thật sự quán chiếu lại nội tâm để biết rõ tâm ta. Thường chúng ta bị đồng hóa với ngoại cảnh. Cho nên ta không nhận diện được nó. Nó luôn luôn gây cho ta bất an. Ta đau khổ cũng chỉ vì nó. Ta muốn nó ở yên, nhưng nó nào có chịu. Nó cứ lén lút rời bỏ ta đi một mình. Hai chữ “lén lút”, nói lên một hành động thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. “Đi một mình, đi rất xa, vô hình, vô dạng như ẩn náu hang sâu”. Cái gì lén lút? Và tại sao phải đi như thế? Sợ ai mà phải lén lút? Tại sao không đi công khai? Đó là những câu hỏi mà ta cần phải nêu ra để tìm hiểu. Thông thường, chỉ có những kẻ bất chánh mới hành động lén lút, vì sợ người ta nhận diện biết được. Chớ nếu là kẻ quang minh chánh đại, thì sợ ai mà phải lén lút. Kẻ lén lút là kẻ dối trá, tà vạy là kẻ mà ta cần phải luôn luôn đề phòng. Vì chúng như là kẻ trộm. Chỉ hai chữ “lén lút” thôi, mà Phật đã cho chúng ta có thể hình dung được tâm “lũ tâm vọng phiền não của ta”. Thật vậy, tâm ta là thứ vọng tưởng, giả dối không thật. Vì là dối trá, gian xảo, nên thường làm những việc lén lút. Kẻ gian dối bao giờ cũng muốn hành động một mình, sợ người khác để ý dòm ngó. Vì vậy, nên chúng chợt đến, chợt đi, như bóng ma trơi. Nó biến dạng, tàng hình dưới mọi hình thức không ai biết được. Lũ tâm vọng phiền não nầy bình thường như ẩn trốn hang sâu, nhưng khi gặp duyên, xúc cảnh, thì bọn chúng xuất đầu lộ diện tràn ra như ong vỡ tổ tha hồ đốt cắn mọi người. Thật là ghê gớm đáng sợ thay! Tuy vậy, chúng chỉ là một thứ đội quân tạp nhạp, thiếu kỹ luật, không có đội hình trật tự và tất cả cũng chỉ là một thứ bóng mờ mà thôi. Dù chúng có một sức mạnh rất lớn! Nhưng, sức mạnh đó, cũng không thể nào chống cự nỗi với cây “thanh đao, bảo kiếm” của người trí tuệ. Khi người trí tuệ giơ cao ngọn thanh đao, hay bảo kiếm lên, thì bọn chúng thấy sẽ kinh hồn khiếp đảm tan hình biến dạng hết. Cho nên, câu kế tiếp Phật mới nói rằng: “Nếu người nào điều phục được tâm, thì giải thoát khỏi vòng ma trói buộc”. Như vậy, là kẻ đó đã chiến thắng ca khúc khải hoàn, phục hồi lại đất nước tâm thanh bình thạnh trị.
38. Người tâm không an định, không hiểu biết chánh pháp[54], không tín tâm kiên cố[55], thì không thể thành tựu được trí tuệ cao siêu.
Wisdom never becomes perfect in one whose mind is not steadfast, who knows not the Good Teaching and whose faith wavers.
Kệ Tụng
Ai có tâm bất an
Chẳng hiểu chân diệu pháp
Tín tâm không kiên cố
Trí tuệ khó viên thành.
Lược giảng
Phật cho chúng ta biết hình ảnh của một con người yếu đuối, thiếu trang bị cho mình một cây thanh đao và bảo kiếm. Bởi không có trí huệ, nên không thể có khả năng để sử dụng những loại vũ khí sắc bén nầy. Bởi vậy, nên Phật nói: “Người tâm không an định, không hiểu biết chánh pháp, không tín tâm kiên cố, thì không thể thành tựu được trí huệ cao siêu”. Đây là hình ảnh của một hạng người trái ngược ở trên. Người tu hành, dù tu bất cứ pháp môn nào, hay bất cứ tông phái nào, tựu trung cũng chỉ nhằm vào một mục đích duy nhứt là diệt trừ phiền não (nói theo nghĩa đối trị). Phiền não hết, thì tâm hành giả mới được an định. Nếu còn một chú nào lai vãng, dù rất nhỏ, thì tâm thể cũng chưa thật sự được an định. Thế nên, muốn tâm an định, thì việc trước tiên, hành giả phải nhận và biết rõ lũ giặc phiền não. Khi dùng trí huệ biết rõ rồi, thì bấy giờ mới dụng công chiếu phá. Tức biết rõ chỗ giặc trú ngụ, mới đem binh trừ diệt được. Đó là một yếu lý của sự tu. Nếu tâm không an định, thì làm gì có trí huệ phát sanh. Giống như ngọn đèn dầu, cứ bị gió thổi lay động hoài, thì làm sao chiếu tỏa ánh sáng cho được? Muốn có ánh sáng, thì cần phải có ống khói chụp vào. Nhờ có ống khói chụp vào mà ngọn đèn đứng yên. Khi đó, thì ánh sáng mới soi tỏ khắp nơi. Cũng thế, người tu sở dĩ tâm không an định, là vì thiếu sự hành trì giới luật nghiêm minh. Người giữ giới luật nghiêm minh, khác nào như ngọn đèn dầu kia có ống khói chụp vào. Ngọn đèn đứng yên là dụ cho tâm hành giả được an định. Nhờ an định mà tâm được sáng suốt. Cũng như ngọn đèn nhờ đứng yên, mà có ánh sáng soi tỏ. Tu, mà tâm chúng ta tối ngày cứ loạn động mãi, thì làm sao biết được chánh pháp. Chánh pháp là bản tâm chơn thật của ta. Vì giáo pháp Phật chỉ dạy, cũng chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận ra và sống được với tâm chơn thật của mình. Nhờ nhận rõ ở nơi bản tâm chơn thật, nên chúng ta mới có được niềm tin vững chắc. Bằng trái lại, thì làm sao chúng ta có niềm tin vững chắc được. Câu pháp cú trên Phật cho chúng ta một chuỗi lý luận rất rõ ràng: Vì tâm không an định, nên không hiểu biết chánh pháp (không nhận rõ bản tâm). Vì không hiểu biết chánh pháp, nên không có tín tâm kiên cố. Vì không có tín tâm kiên cố, nên không thể thành tựu được trí huệ cao siêu. Trí huệ cao siêu có hai ý: một, chỉ cho quả vị A la hán, trí huệ cao tột trong hàng Thanh Văn. Hai là chỉ cho quả vị Phật, cao tột trong hàng Bồ Tát.
39. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.
40. Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống Ma với gươm trí ;
Giữ chiến thắng [3] không tham [4]Lược giải
39. Người tâm đã an tịnh[56], không còn các điều hoặc loạn[57], vượt trên những nghiệp thiện ác thông thường, là người giác ngộ chẳng sợ hãi.
There is no fear for an awakened one, whose mind is not sodden (by lust) nor afflicted (by hate), and who has gone beyond both merit and demerit.
Kệ Tụng
Tâm không dục ái nhiễm
Không sân hận chi phối
Trừ diệt mọi thiện ác
Kẻ tỉnh không sợ hãi.
Lược giảng
Phật cho chúng ta thấy hình ảnh của người tu giải thoát. Người nào, khi tâm đã thanh tịnh, thì không còn các điều hoặc loạn. Thanh tịnh là trong sạch. Đã trong sạch thì làm gì có hoặc loạn. Hoặc loạn là phiền não mê lầm chấp trước. Cũng như nói, nước đã lóng trong, thì không có cặn cáu. Tại sao không có cặn cáu? Thưa, vì nước đã lóng trong. Ở đây, ta thấy quan trọng là ở hai chữ “lóng trong”. Nếu chúng ta hiểu rõ hai chữ nầy, là chúng ta đã biết cách tu hành. Nước trong, thì có ai lại không biết. Biết là một chuyện, còn thật sự lóng cho nước trong lại là một chuyện khác. Cũng như nói tâm thanh tịnh, ai không biết tâm thanh tịnh là tâm trong sạch. Nhưng làm cách nào để tâm được thanh tịnh, đó lại là một chuyện khó. Muốn tâm được thanh tịnh, tức không có hoặc loạn phiền não, câu kế tiếp, Phật chỉ cho chúng ta phương cách tu. Nghĩa là phương cách lóng cho nước trong. Phương cách đó như thế nào? Đó là: “Vượt trên những nghiệp thiện ác thông thường”.Thế nào là “vượt trên những nghiệp thiện ác thông thường”? Chúng ta sống thường bị kẹt hai đầu, nói cách khác là ý nghĩ của ta thường rơi vào hai bên: có, không, thiện, ác v.v. Đã có đối đãi, tất nhiên là có phiền não thương ghét, mừng giận, buồn vui v.v. Đó là đầu mối của sự tạo nghiệp để đi mãi trong sanh tử luân hồi. Ngược lại, ở đây, một vị đã chứng quả A la hán, tất nhiên, đã hết những thứ “hữu lậu thiện nghiệp” và “hữu lậu ác nghiệp”. Do đó, những vị nầy không còn tạo nghiệp mới nữa, và tuy ở trong đạo quả viên mãn mà thường làm những việc lợi tha một cách tự nhiên (đây là những vị Lợi căn A la hán hay Hồi tâm A la hán hướng về Đại thừa). Như vậy, người nào không còn bị mắc kẹt vào sự đối đãi hai đầu nầy, Phật nói đó là người giác ngộ giải thoát. Và một khi đã được như thế, thì thử hỏi còn gì nữa mà sợ hãi, nên nói: “là người giác ngộ, chẳng sợ hãi”.
40. Hãy biết rằng thân nầy mong manh như đồ gốm và giam giữ tâm ngươi như thành quách, ngươi hãy đánh dẹp ma quân với thanh huệ kiếm sẵn có của mình và nắm giữ phần thắng lợi, chứ đừng sanh tâm đắm trước.
Realizing that this body is as fragile as a clay pot, and fortifying this mind like a well-fortified city, fight out Màra with the sword of wisdom. Then, guarding the conquest, remain unattached
Kệ Tụng
Biết thân như đồ gốm
Hộ tâm như thành trì
Dẹp ma với gươm trí
Hãy giữ gìn chiến thắng
Vượt ngoài mọi nhiễm ô.
Lược giảng
Phật dạy: “Thân nầy mong manh như đồ gốm và giam giữ tâm ngươi như thành quách”. Tại sao Phật nói như thế? Chúng ta thử quán chiếu có đúng không. Nói đồ gốm tức là những thứ do đất sét tạo thành. Tất cả đều do duyên hợp giả có. Nếu thiếu một duyên thì không thành. Như thiếu lò để nung hay thiếu người làm, thì món đồ gốm đó không thể nào thành tựu được. Đã do duyên hợp, tất phải do duyên tan. Nhìn lại thân thể chúng ta đang mang có khác gì món đồ gốm. Người ta tạo ra đồ gốm, như cái bình, cái chậu v..v.. mục đích là để đựng đồ. Cũng thế, thân nầy do bốn đại: đất, nước, gió, lửa tạo thành. Đồ gốm nào cũng do 4 thứ đó tạo thành. Thiếu một trong 4 thứ đó thì không thành. Thân nầy cũng thế. Thiếu một đại trong 4 đại, thì không thành thân. Đã có thân, thì nó chứa toàn là những thứ bất tịnh. Chúng ta đừng quên đồ gốm rất dễ bể. Chỉ cần sẩy tay là sẽ bể tan nát ngay. Thân nầy cũng thế, chỉ cần một cơn đau nặng, hoặc một tai nạn xảy ra, thì thân thể cũng không còn. Vô thường xảy ra trong nháy mắt. Phật so sánh thân nầy với đồ gốm, thật chẳng khác gì nhau. Bởi đồ gốm chỉ là thứ vật chất bất tri giác. Thân nầy cũng chỉ là thứ vật chất bất tri giác. Song có điều khác hơn là trong thân ta còn có thứ tri giác, đó là phần tinh thần, nói theo giáo lý Đại thừa, đây là do sự kết hợp của thất đại: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Tại sao nói “giam giữ tâm như thành quách”? Vì rời thân nầy không có tâm. Thân và tâm không thể tách rời ra được. Nhưng thân không phải là tâm và tâm không phải là thân. Cũng như chiếc xe không phải anh tài xế, hay ngược lại, anh tài xế cũng không phải là chiếc xe. Nhưng chiếc xe, nếu thiếu anh tài xế điều khiển, thì xe cũng không thể chạy được. Nhưng, nếu chỉ có anh tài xế không thôi, thì thử hỏi anh tài xế lái cái gì? Cả hai, đều có sự tương quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, nếu người nào quá chấp nặng, lệ thuộc ở nơi thân, mà quên mất tâm, thì có khác nào kẻ chỉ biết có chiếc xe mà quên mất anh tài xế. Giống như kẻ giam tâm trong thành quách. Thành quách có ra là do tâm tạo. Giống như họa sĩ vẽ ra thành quách, chớ thành quách không vẽ ra người họa sĩ. Thành quách chỉ là ngọn chớ không phải gốc. Người nào nhận biết như thế, thì không còn nặng chấp ở nơi thân. Đã thế, thì thân không còn giam giữ tâm ta được nữa. Tâm ta vốn trùm khắp tất cả, chớ không phải hạn cuộc ở nơi thân. Cũng như hư không ở trong cái bình sành, ta cứ ngỡ là hư không nhỏ như cái bình. Thật ra hư không không nhỏ như cái bình. Một khi cái bình bể vỡ ra, thì hư không sẽ tràn ngập hòa đồng cùng hư không bên ngoài trùm khắp không có nơi chốn. Cũng thế, nếu chúng ta sống trở về với cái tâm chơn thật rồi, thì thân nầy còn mất chỉ là chuyện của thân, chớ không liên hệ gì đến tâm. Cũng như bình sành hư bể, không liên hệ gì với hư không trong bình. Như thế, thì chuyện thân còn hay mất là chuyện trò chơi. Còn như nếu ta chưa nhận ra được bản tâm chơn thật của ta, thì ta vẫn còn thấy thân nầy là quan trọng, như thành quách giam hãm ta. Nhưng muốn thấy thân nầy còn mất giả hợp như trò đùa, thì hành giả cần phải có thanh huệ kiếm trong tay mới có thể tiêu diệt được quân ma phiền não. Phật bảo chúng ta phải dành lấy phần thắng lợi. Nếu không, thì ta sẽ là kẻ đầu hàng làm nô lệ cho bọn chúng sai sử. Quyết định ta phải cố gắng dõng mãnh vươn lên để dành thắng lợi, nếu không được toàn triệt, thì ít ra cũng phải được chiếm cứ dành lấy chủ quyền từng phần theo kiểu hòa bình da beo. Như thế, thì đời ta mới có hy vọng chấm dứt khổ đau. Mong sao mọi người chúng ta cùng nhau cố gắng vươn lên dành lấy chủ quyền!
41. Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng.
42. Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, [5]
Gây ác cho tự thân.Lược giải
41. Thân nầy thật là ngắn ngủi ! Nó sẽ ngủ một giấc ngủ dài dưới ba thước đất, vô ý thức, bị vất bỏ như khúc cây khô vô dụng.
Ere long, alas! This body will lie upon the earth, unheeded and lifeless, like a useless log.
Kệ Tụng
Không bao lâu thân nầy
Sẽ nằm dài trên đất
Bị vất bỏ, vô thức
Như cây khô vô dụng.
Lược giảng
Đức Phật đã cảnh giác, nói rõ về thân vô thường. Cái “thân nầy thật là ngắn ngủi”. So với dòng thời gian bất tận, thì quả thật kiếp sống của con người nó ngắn ngủi còn hơn một nháy mắt. Mới thấy đó rồi mất đó. Khác nào như con phù du sáng sanh chiều chết. Tổ Qui Sơn nói: “Sanh, già, bệnh, chết, không hẹn cùng người. Sớm còn tối mất, chợt qua đời khác. Thí như sương mùa xuân, đóng trên đầu ngọn cỏ, chợt có liền không, như cây trên bờ giây dưới giếng đâu đặng lâu dài”. Quả thật:
“Đời người khác thể loài hoa
Sớm còn tối mất nở ra lại tàn”.
Hay:
“Dép dưới giường lên giường vội biệt
Sống ngày nay dễ biết được ngày mai
Mạng người hô hấp lắm thay!
Nghĩ cơn vĩnh biệt tiền đài mà đau”.
Phật nói tiếp: “Nó sẽ ngủ một giấc ngủ dài dưới ba thước đất, vô ý thức, bị vất bỏ như khúc cây khô vô dụng”. Thật là buồn tủi! Thử ngẫm lại, có thân ai mà không ngủ một giấc ngủ triền miên chôn sâu dưới lòng đất lạnh. Biết thế, mà con người khi còn ba tấc hơi, thì vẫn còn tranh danh đoạt lợi, hơn thua từng chút, đấu đá chém giết lẫn nhau, không một chút từ tâm yêu thương đồng loại. Nhưng họ quên rằng:
“Mùi phú quý nhử làng xa mã
Bã vinh hoa lừa gã công khanh
Giấc nam kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không”.
Hay:
“Danh mà chi lợi lắm mà chi!
Của công danh như bọt nước có ra gì
Mùi phú quý như vầng mây tan hiệp
Sang cho mấy cũng rồi một kiếp
Giàu đến đâu cũng chỉ hưởng một đời”
Tất cả, kết cuộc chỉ là một “bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương”. Sống mà không có ý thức đến sự vô thường nhanh chóng của kiếp con người, thì Phật cho đó là sống “vô ý thức”. Đã thế, thì có khác gì một khúc cây khô vô dụng vất bỏ bên đường! Mỗi người chúng ta hãy tự xét lại, xem mình có tỉnh thức về lý vô thường Phật dạy không? Và chúng ta có thật sự giác ngộ chưa? Nếu chưa, thì mỗi người nên cố gắng quán chiếu cho thật sâu sắc qua kinh nghiệm bản thân cũng như đối với tha nhân và ngoại cảnh. Để từ đó, chúng ta gắng sức tinh tấn tu hành thoát ly sanh tử khổ đau.
42. Cái hại của kẻ thù gây ra cho kẻ thù hay của oan gia đối với oan gia[58], cũng không bằng cái hại của tâm niệm hướng về hành vi tà ác gây ra cho mình.
Whatever harm an enemy may do to an enemy, or a hater to a hater, an ill-directed mind inflicts on oneself a greater harm.
Kệ Tụng
Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm niệm tà
Gây ác cho tự thân.
Lược giảng
Phật so sánh cái tai hại của kẻ có tâm niệm hướng về hành vi tà ác so với cái hại của kẻ thù gây ra đau khổ cho kẻ thù cũng như oan gia đối với oan gia. Tại sao Phật so sánh như thế? Bởi vì sự báo oán thù hận, chỉ gây tai hại cho nhau trong phạm vi nhỏ hẹp giữa cá nhân với nhau, còn kẻ có tâm niệm hành vi tà ác, tức gây tạo 10 điều ác, thì hậu quả tai hại rất lớn. Chẳng những hại mình mà hại rất nhiều người và những loài sinh vật khác. Đó là một tác hại chung cho xã hội loài người. Kẻ đã chất chứa ôm ấp quá nhiều tâm niệm ác, mà kẻ đó lại có thêm quyền cao chức trọng, thì chúng ta thử tưởng tượng họa hại cho nhơn loại sẽ biết là ngần nào! Lịch sử nhơn loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Nước Đức có Hitler. Trung Hoa có Tần thỉ Hoàng, v..v.. là những kẻ hung ác bạo tàn, đã gây ra biết bao tang thương cho đồng loại. Họ chỉ vì có quá nhiều tham vọng, muốn làm bá chủ hoàn cầu, từ đó, họ bất chấp mọi thủ đoạn độc ác, miễn sao họ thỏa mãn được lòng dục vọng của họ thôi. Một người khi đã ôm ấp cái tâm niệm độc ác đó, tất nhiên, họ đã tự chuốc lấy nỗi thống khổ vày vò bức bách, đày đọa tâm can của họ rồi. Họ không bao giờ cảm thấy an vui hạnh phúc. Bởi vì họ xây dựng sự nghiệp trên xác chết của đồng loại. Đã thế, thì lòng họ có bao giờ được thanh thản vui sướng đâu! Và cuối cùng, họ phải trả một giá rất đắt, đáp lại xứng đáng những gì mà họ đã gây tạo. Bởi thế, nên Phật mới răn dạy pháp cú trên.
43. Ðiều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
Chú thích:
[1] Trú xứ của Thức
[2] Dục giới, sắc giới, vô sắc giới
[3] Tức là quán (vipassana) mới chứng được.
[4] Ðối với các thiền mới chứng
[5] Hướng về 10 pháp bất thiện như sát sanh v.v…Lược giải
43. Chẳng phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi chánh thiện[59] làm cho mình cao thượng hơn.
Neither mother, father, nor any other relative can do one greater good than one's own well-directed mind.
Kệ Tụng
Cha mẹ và bà con
Không thể làm gì hơn
Không bằng tâm niệm chánh
Khiến tự thân cao thượng.
Lược giảng
Phật cho chúng ta thấy luật nhân quả rất công bằng. Ai tu nấy thành, ai hành nấy đắc. Không thể người nầy ăn mà kẻ khác no được. Nhân nào quả nấy rất rõ ràng. Ta muốn có một kết quả hạnh phúc tốt đẹp cao thượng, thì không một ai tạo thế đem lại cho ta, dù đó là thân nhân ruột thịt nhứt của đời ta, như cha mẹ hay ông bà. Cha mẹ ta chỉ cho ta có được cái thân xác hình hài nầy, còn đạo đức an vui mà ta có được, chính phải do ta tự tạo lấy. Nếu ta chỉ một bề ỷ lại vào người khác, thì đó chỉ là không tưởng mà thôi. Trên đời nầy, không có ai ăn không ngồi rồi, mà có được kết quả như ý muốn. Thái độ của kẻ ngồi chờ sung rụng, đó là thái độ của kẻ biếng lười, ỷ lại. Một học sinh nếu không chịu khó siêng năng cần mẫn học hành, thì làm gì có kết quả thi đâu đậu đó. Đành rằng, trong nhân quả, ngoài yếu tố chánh nhân ra, nó còn đòi hỏi nhiều trợ duyên tốt khác để giúp cho chánh nhân được tốt đẹp. Như một cậu học sinh, cậu ta lo chăm chỉ cần mẫn học hành đó là chánh nhân, còn cha mẹ, thầy bạn, trường học v.v. đó là những trợ duyên. Trợ duyên tốt, thì giúp cho chánh nhân tốt. Ngược lại, dù có chánh nhân tốt, mà thiếu những trợ duyên tốt, thì chánh nhân đó cũng không thể phát triển tốt đẹp được. Đối với người tu, dù mỗi người ai ai cũng sẵn có cái chánh nhân Phật tánh, nhưng, nếu không có những trợ duyên tốt, thì chánh nhân Phật tánh cũng không thể phát triển hiển lộ tốt được. Phật Tổ, cha mẹ, Thầy bạn, Kinh điển v.v. đều là những trợ duyên tốt cho ta.
Tuy nhiên, dù chúng ta có được đầy đủ những trợ duyên tốt đó, nhưng, nếu ta không nỗ lực quyết chí tu hành, thì cũng không thể nào đạt được kết quả tốt đẹp. Do đó, nên Phật dạy: “Chẳng phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi chánh thiện làm cho mình cao thượng hơn”. Hành vi chánh thiện, tức Phật muốn nói đến đem tâm hướng về mười hạnh lành. Mười hạnh lành đó là: Bố thí, trì giới, tu thiền định, tôn kính, tác sự, hồi hướng công đức, tùy hỷ công đức, thính pháp, thuyết pháp, chánh kiến. Mười hạnh lành nầy là chiếc thuyền đưa chúng ta đến bến bờ an vui giải thoát.
Phẩm Hoa
44. “Ai chinh phục đất này
Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa?”
45. “Hữu học chinh phục đất,
Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa.”Lược giải
44. Ai chinh phục[60] được địa giới, diêm ma giới[61], thiên giới, và ai khéo giảng nói pháp cú, như tay thợ khéo nhặt hoa làm tràng?
Who shall overcome this earth, this realm of Yama and this sphere of men and gods? Who shall bring to perfection the well-taught path of wisdom as an expert garland-maker would his floral design?
Kệ Tụng
Ai chinh phục địa giới
Dạ ma giới, thiên giới
Ai khéo giảng pháp cú
Như thợ khéo nhặt hoa.
Lược giảng
Phẩm nầy có tên là Phẩm Hoa, theo Ngài Ngô Chi Khiêm dịch là Phẩm Vương Hoa. Phật dùng hoa để thí dụ, vì ở Ấn Độ thời Phật có tục lệ người ta xỏ hoa kết thành tràng để đeo vào cổ. Tục lệ nầy người Ấn Độ đến nay vẫn còn giữ.
Phật cho rằng, người nào chinh phục hay chế ngự được tự thân (địa giới), (nói cách khác là phải nhận biết rõ mình), và 4 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, cũng như thiên giới (6 cõi trời lục dục), thì kẻ đó mới thật sự giảng nói pháp cú, như tay thợ khéo nhặt hoa làm tràng. Tại sao người chinh phục tự thân mà gọi là địa giới? Bởi vì, chữ Địa ở đây, chúng ta đừng hiểu đất ở bên ngoài. Trong Kinh Phật thường nói, tâm chúng sanh là tâm địa hay tâm điền. Nói tâm địa là lấy đất để dụ cho tâm. Vạn vật trên thế gian nầy, tất cả cũng đều phát sanh từ đất. Rời đất ra, thì không thể nào có được. Do đó, nên Phật dùng đất để dụ cho tâm. Trong nhà Phật có quyển Kinh gọi là Tâm Địa Quán. Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng có nói bài kệ:
Tâm địa hàm chư chủng
Ngộ trạch tức giai manh
Tam muội hoa vô tướng
Hà hoại phục hà thành.
Dịch:
Đất tâm chứa các giống
Gặp ướt liền nẩy mầm
Hoa tam muội không tướng
Nào hoại lại nào thành.
Qua bài kệ nầy, Ngài Mã Tổ Đạo Nhất đã lãnh hội được yếu chỉ và theo hầu Tổ Nam Nhạc suốt mười năm trường.
Đến như 4 cảnh giới: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la cũng đều từ tâm mà ra. Bốn cảnh giới nầy, không phải đợi đến sau khi chết mới sa đọa, mà ngay trong đời sống hiện tại của chúng ta cũng đã có xảy ra. Địa ngục là cảnh giới tối tăm, si mê. Ngạ quỷ là loài quỷ đói, thèm thuồng, khao khát, ham muốn vật chất không cùng. Súc sanh là loài sống không có cương thường đạo lý, đần độn không biết phải trái chánh tà. A tu la là loài nóng nảy sân hận quá độ. Qua 4 loài nầy, trong tâm thức mỗi người chúng ta đều có đủ và hiện tướng bên ngoài cũng rõ thấy. Mỗi người hãy tự nghiệm lấy trong từng giây phút, xem mình đang rơi vào loài nào. Như vậy, chúng ta đã đi trong luân hồi ngay khi còn sống. Muốn thoát luân hồi, Phật dạy chúng ta phải luôn tỉnh táo sáng suốt và phải thường xuyên niệm Phật. Đến thiên giới cũng thế. Nghĩa là cũng từ tâm thức của chúng ta mà ra. Phật kết thúc Pháp Cú trên bằng một câu hỏi được đặt ra là: “Ai khéo giảng nói Pháp cú (Dhammapada) như tay thợ khéo nhặt hoa làm tràng?”
45. Bậc hữu học chinh phục được địa giới[62], diêm ma giới, thiên giới[63] và bậc hữu học[64] khéo giảng nói pháp cú như tay thợ khéo[65] nhặt hoa làm tràng.
A striver-on the path shall overcome this earth, this realm of Yama and this sphere of men and gods. The striver-on the-path shall bring to perfection the well taught path of wisdom, as an expert garland-maker would his floral design.
Kệ Tụng
Hữu học nhiếp địa giới
Dạ ma giới, thiên giới
Hữu học giảng pháp cú
Như thợ khéo nhặt hoa.
Lược giảng
Phật cho chúng ta biết ai là người đã chinh phục được địa giới, diêm ma giới và thiên giới. Đó là bậc Hữu học, tức ba quả vị Thanh văn: Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm. Tại sao những vị nầy đã chinh phục được những thứ đó? Bởi vì những vị nầy đã thấy được chơn lý nên dứt được những sự mê lầm. Dứt những sự mê lầm cả nhân lẫn quả. Do đó, Phật nói: “Những vị nầy khéo giảng nói Pháp Cú như tay thợ khéo nhặt tràng hoa”. Đây là Phật đã trả lời cho câu hỏi đã được nêu ra ở trên
46. “Biết thân như bọt nước,
Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của ma,
Vượt tầm mắt thần chết.”
47. “Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị thần chết mang đi,
Như lụt trôi làng ngủ.”Lược giải
46. Hãy biết thân nầy như bọt nổi, rõ ràng là pháp huyễn hóa, để bẻ gãy mũi tên cám dỗ của bọn ma quân, mà thoát ngoài vòng dòm ngó của tử thần.
Realizing that this body is like froth, penetrating its mirage-like nature, and plucking out Mãra's flower-tipped arrows of sensuality, go beyond sight of the King of Death!
Kệ Tụng
Biết thân như bọt nổi
Giác thân tợ huyễn hóa
Bẻ mũi tên ma ái
Vượt tầm mắt tử thần.
Lược giảng
Phật bảo chúng ta phải nhận rõ thân nầy như bọt nổi, rõ ràng là pháp huyễn hoá. Tại sao nói thân nầy như bọt nổi? Đây là Phật nêu ra một đề tài lớn để cho chúng ta tự quán sát. Nói bọt nổi, vì nó giả có không thật. Không có ai ngu muội đến nỗi cho bọt nổi là thật. Thấy rõ bọt nổi là không thật có, thì cái thấy đó đối với chúng ta cho là quá dễ. Nhưng Phật bắt chúng ta phải nhìn lại thật kỹ cái thân nầy giả dối như bọt nổi, thì thật là quá khó. Hầu hết chúng ta không một ai không cho thân nầy là thật. Làm sao có thể nhìn nó như bọt nổi cho được? Sở dĩ thấy nó không như bọt nổi là vì chúng ta còn quá si mê. Vì quá si mê tăm tối, nên không có trí huệ để nhận thấy như thế. Ở đây, Phật bảo ta phải vận dụng trí huệ để nhìn thẳng lại thân nầy. Nếu dùng trí huệ Bát nhã mà nhìn, thì quả thật thân nầy nó vô thường nhanh chóng còn hơn bọt nổi. Vì nhận hiểu được lẽ vô thường của thân nầy quá mỏng manh, nên Thiền Sư Vạn Hạnh đời Lý đã cho chúng ta biết rất rõ qua bài kệ Thị chúng như sau:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như bóng chớp chiều tà
Xuân qua tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Ngô Tất Tố)
Với cái nhìn của người đạt đạo, đã nói lên một lẽ thật như thế. Một lẽ thật ngàn đời bất di bất dịch, nhưng đối với chúng ta thì khác. Chúng ta vì thiếu tuệ giác, nên nhìn thấy thân nầy là thật. Bởi thấy thật, nên chúng ta không bẻ nỗi mũi tên ngũ dục. Chúng ta là những kẻ đang bị những mũi tên “Ngũ dục, Lục trần” cấm sâu vào xương tủy. Muốn bẻ gãy những mũi tên độc hại cám dỗ nầy, Phật dạy chúng ta cần phải có trí huệ để nhìn vào cuộc đời và thân nầy là huyễn hóa. Có nhìn như thế, mới mong thoát khỏi sự cám dỗ của bọn ma quân và mới thoát ngoài vòng dòm ngó của tử thần. Bằng không, thì chúng ta mãi sống trong đau khổ, và mãi làm một lữ khách phong trần đi mãi trong sương gió của cuộc đời. Hẳn chúng ta không một ai muốn làm kẻ lữ khách phong trần nữa. Vì đời ta đã có quá nhiều đau khổ rồi! Không một ai muốn cất bước đi thêm!
47. Như nước lũ cuốn phăng những xóm làng say ngủ giữa đêm trường, tử thần sẽ lôi phăng đi những người mê muội sinh tâm ái trước những bông hoa mình vừa góp nhặt được.
As a mighty flood sweeps away the sleeping village, so death carries away the person of distracted mind who only plucks the flowers (of pleasure).
Kệ Tụng
Người nhặt hoa (dục lạc)
Tâm ái nhiễm mê cuồng
Bị tử thần mang đi
Như nước trôi làng ngủ.
Lược giảng
Phật dạy: Những kẻ nào còn sống trong mê muội, còn sanh tâm ái trước những bông hoa (dục lạc) thì chắc chắn, những kẻ nầy sẽ bị tử thần lôi phăng đi, khác nào như nước lũ cuốn phăng đi tất cả xóm làng. Hình ảnh nầy gợi cho chúng ta nhớ lại trận đại hồng thủy vừa qua, đã gây ra hằng cả mấy trăm ngàn người chết. Phật cho rằng, người nào còn say mê ái dục cũng bị chết thảm thương như thế. Điều nầy, cứ nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, chúng ta thấy quá rõ ràng. Có biết bao cảnh tử vong, vì những kẻ quá say mê sắc dục. Và có biết bao cảnh tang thương, tai họa khác, như cướp của, giết người, hiếp dâm, tù tội v.v. đã xảy ra hằng ngày trên thế giới. Tất cả cũng chỉ vì quá nô lệ cho lòng dục vọng mà ra. Quả thật, hiện trạng chúng ta là những kẻ đang say ngủ, say ngủ trong một giấc mộng dài của vô minh dục vọng. Giấc mộng dài nầy, chưa biết đến bao giờ chúng ta mới chịu thức giấc. Dù Phật Tổ rất thương xót, nên đã hết lời kêu gọi đánh thức. Thế mà ta ngủ vẫn cứ ngủ, chẳng màng đến những lời kêu gọi thức nhắc đó. Đôi lúc, không những ta không mang ơn người kêu gọi đánh thức, mà còn tức giận họ nữa chớ! Vì thế, mà Phật cho chúng ta là những kẻ quá ngu si mê muội. Bao lâu con người còn mê say ngủ vùi trong đêm trường tăm tối của vô minh, thì bấy lâu con người vẫn còn phải chịu đau khổ dài dài. Và nhứt định sẽ bị nước lũ “ngũ dục” cuốn phăng đi tất cả, để rồi trôi dạt vào bể trầm luân khổ hải không biết đến bao giờ mới được thoát ra! Thật là khổ khổ!
48.Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn,
Ðã bị chết chinh phục.”
49. “Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy.
Bậc Thánh đi vào làng “.Lược giải
48. Cứ sinh tâm ái trước[66] và tham luyến mãi không chán những bông hoa mà mình vừa góp nhặt được, đó chính là cơ hội tốt cho tử thần lôi đi.
The Destroyer brings under his sway the person of distracted mind who, insatiate in sense desires, only plucks the flowers (of pleasure).
Kệ Tụng
Người nhặt hoa dục lạc
Tâm ái nhiễm mê cuồng
Đắm say trong dục vọng
Bị nô lệ tử thần.
Lược giảng
Nói lên cái tệ hại của người tu hành lòng còn ái trước và tham luyến danh lợi thế gian. Bông hoa mà mình góp nhặt được là để dụ cho những thứ tài sản của cải mà mình cóp nhóp tạo ra. Trong 12 nhân duyên, “ái” là nguyên nhân hiện đời để gây ra sanh tử khổ đau tiếp nối đời sau. Vì “ái trước”, nên mới có “chấp thủ”. Do có chấp thủ, nên tạo nghiệp, để rồi thọ sanh trong các cõi (hữu). “Ái, thủ, hữu”, ba thứ nầy có sự liên hệ với nhau rất chặt chẽ, khác nào như chùm trái ác xoa. Sở dĩ con người có lòng ái trước sâu nặng, là vì con người chấp ngã quá lớn. Chấp ngã có 2 thứ: “Ngã và ngã sở”. Ngã là chấp cho cái “ta” là chơn thật. “Ngã sở” là chấp những thứ tài sản của cải do mình tạo ra cũng là chơn thật. Nhưng Phật nói, tất cả đều là huyễn mộng giả dối. Vì cho là thật, nên những gì con người tạo ra đều muốn bảo vệ nó cho đến cùng. Có đôi khi, vì quá nô lệ bảo vệ tài sản mà con người phải tán thân mất mạng. Do đó, mới thấy lòng tham luyến chấp trước của con người thật quá sâu nặng. Sâu nặng còn hơn núi Tu di. Nhưng con người quên rằng, càng chấp nặng nhiều chừng nào thì khổ đau nhiều chừng nấy. Bản thân mình còn không gìn giữ được, nói chi đến những thứ tài sản ngoài mình. Thí như, gốc cây không có thì làm gì có ngọn cây. Ấy thế mà, còn một tấc hơi tàn, con người vẫn còn bám víu bảo thủ, không bao giờ biết thức tỉnh buông ra. Kinh nói: Tài sản của cải thuộc về năm nhà: “hỏa gia, thủy gia, tặc gia, tử gia và sung công gia”. Trong 5 nhà nầy, nhà nào cũng có quyền cướp đoạt hết tài sản của ta. Chẳng những chúng cướp đoạt tài sản của ta thôi, mà chúng còn cướp đoạt luôn mạng sống của ta nữa. Chúng không dung tha bất cứ ai cả. Điều ta nên nhớ, dù mình có tạo tiền của cho nhiều, cuối cùng rồi, thần chết cũng không dung tha. Một khi “nhà nước tử thần” ban hành lệnh gọi nhập ngũ, thì dù cho ở bất cứ lứa tuổi nào cũng đều phải phục tùng chấp hành nghiêm chỉnh. Một khi đã “nhập ngũ” rồi, thì một đi không hẹn ngày trở lại. Dù cho có địa vị chức tước quyền uy tột đỉnh hay giàu sang tột bực đến đâu, cũng không ai có thể tránh né hay hối lộ cho nhà nước tử thần được. Hàng hàng lớp lớp đều phải xuôi tay cúi đầu tuân lệnh. Biết thế, mọi người nên thức tỉnh tu hành, bớt lòng ái trước tham luyến thế gian, để chuẩn bị cho ngày mình nhập ngũ được an toàn nhẹ gánh. Vì vậy, pháp cú trên, Phật thức nhắc chúng ta mỗi người nên nhớ đến ngày “tử thần lôi đi” mà ráng lo cố gắng tu hành. Cõi đời nầy, rốt lại cũng chỉ là ảo ảnh phù du mà thôi! Nên nhớ: “Cát bụi cũng trở về cát bụi. Xin người nhớ cho và xin người nhớ cho!”.
49. Hàng Sa môn (mâu ni)[67] đi vào xóm làng để khất thực[68] ví như con ong đi kiếm hoa, chỉ lấy mật rồi đi chứ không làm tổn thương về hương sắc.
As a bee gathers honey from the flower without injuring its colour or fragrance, even so the sage goes on his almsround in the village.
Kệ Tụng
Như ong chỉ lấy nhụy
Không hại hương sắc hoa
Cũng vậy vị sa môn
Ra vào giữa thôn làng.
Lược giảng
Phật dạy riêng cho người xuất gia. Người xuất gia, sau khi thọ đại giới gọi là Sa môn hay Tỳ kheo. Đời sống thường nhựt của những vị nầy là đi khất thực. Ngoài việc nuôi sống bằng cách xin ăn ra, các Ngài còn thích sống những nơi vắng vẻ tĩnh mịch. Một phần do muốn yên tịnh để dễ tu thiền quán. Phần khác, là do thời tiết khí hậu ở Ấn Độ lạnh nóng quá khắc nghiệt. Nhứt là vào mùa nóng, thời tiết nóng dữ dội. Có thể nói, nóng cháy da người. Do đó, cách tốt nhứt, là các Ngài vào trong thâm sâu rừng núi, nơi nào có nhiều tàn cây che mát, thì các Ngài đến trú ngụ. Vì vậy, mới có danh từ “Mâu ni” để gọi tên các Ngài. Chữ Mâu ni có nghĩa là Tịch mặc. Tức là người thích sống trầm lặng, vắng vẻ an nhàn. Ngoài những thời giờ tham thiền nhập định ra, các Ngài còn phải rày đây mai đó để giáo hóa chúng sanh. Có khi các Ngài do Phật sai đi, cũng có lúc các Ngài tự đi một mình. Nhưng điều lý thú của pháp cú nầy, là Phật dạy: “Các vị đó, khi vào xóm làng khất thực ví như con ong đi kiếm hoa, chỉ lấy mật rồi đi chứ không làm tổn thương về hương sắc”. Lời dạy nầy thật là sâu sắc và chí lý. Phật đem hình ảnh của con ong bay đi tìm mật hoa hút lấy mật, để so sánh với các vị Tỳ kheo đi vào xóm làng để khất thực. Tại sao Phật lại so sánh như thế? Bởi vì con ong chỉ hút lấy mật mà không làm tổn thương đến hương sắc của hoa. Cùng ý nầy, ta thấy trong Luật Tỳ Kheo, đức Phật Tỳ Diệp La cũng có dạy bằng một bài kệ tụng như sau:
Ví như loài ong
Hút lấy mật hoa
Thì không thương tổn
Sắc hương của hoa
Mà chỉ hút lấy
Các vị mật ngọt
Tỳ kheo cũng vậy
Đi vào làng xóm
Thì không can dự
Công việc người khác
Không nhìn đáng làm
Hay không đáng làm
Mà chỉ tự nhìn
Bản thân mà đi
Coi có ngay thẳng
Hay không ngay thẳng.
(Hòa Thượng Trí Quang dịch trang 131)
Qua bài kệ trên, ta thấy không chỉ riêng đức Phật Thích Ca dạy như thế, mà tất cả chư Phật cũng đều dạy như thế. Nghĩa là đều dạy các thầy Tỳ kheo khi vào xóm làng xin ăn, chỉ gìn giữ phẩm hạnh của người xuất gia, tuyệt đối không nên xen vào việc thế sự. Vì đó không phải là chuyện của mình. Nhứt là đừng xen vào công việc của người khác mà có thái độ hay lời lẽ chỉ trích chê bai, hay bình phẩm chuyện phải trái của thiên hạ, mà Phật dạy hãy tự quán chiếu lại chính mình, đó là cách hay nhứt để bảo tồn uy tín của mình và cũng không làm mất tín tâm của các vị Đàn na thí chủ. “Ngay thẳng mà đi”, vừa nói lên cái oai nghi bề ngoài của hạnh khất thực, mà cũng vừa nói lên cái lý tế nhị bên trong. Lý bên trong là khi đi cần phải nhìn thẳng lại từng tâm niệm xấu ác của mình để lo tiêu diệt. Ngày nay, chúng ta không có ôm bát đi khất thực như các Ngài, mà ở một chỗ Phật tử dâng cúng. Như thế, thì ta phải làm gì cho tròn phẩm hạnh của người xuất gia? Dù ta không đi khất thực như các Ngài, nhưng cũng phải giữ đúng theo những gì Phật dạy ở trên, để không thẹn mình thua loài ong kia. Ngẫm lại thật kỹ, ta thấy người xuất gia thời nay, phần nhiều, chúng ta hay xen vào chuyện thiên hạ: bình luận thế sự, chỉ trích chê bai phải trái đủ thứ! Càng như thế, thì tâm ta càng xáo trộn vọng động bất an. Từ đó, mới gây ra biết bao nhiêu phiền não hệ lụy cho mình và cho người khác. Người tu, muốn được an tâm, Phật Tổ thường khuyên ta nên lánh bớt duyên trần. Có thế, thì trên đường tu, ta mới có thêm phần tiến bộ. Ngược lại, càng tu ta càng lún sâu vào phiền não.
Luận về vấn đề thọ dụng vật chất để nuôi thân, trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Qui Sơn cũng có răn dạy: “Thọ dụng ân phồn, thí lợi nồng hậu”. Nghĩa là, mình càng thọ dụng nhiều chừng nào, thì thí chủ được lợi nhiều chừng nấy. Vì mình là viên đá, mà thí chủ là con dao. Họ cứ đem dao mài miết trên viên đá của mình hoài, lâu ngày chầy tháng, tất nhiên, viên đá của mình phải bị mòn dần, còn con dao của họ càng lúc càng bén. Bởi vậy, Phật Tổ thường khuyên bảo chúng ta phải ráng lo tu. Nếu tu hành qua loa cho có lệ, thì mình sẽ mang nợ họ nhiều. Vì thiếu tu, nên bị tổn đức, thiếu phước. Để nhắc nhở chúng ta nhớ điều nầy, nên trong những giờ thọ thực, Phật Tổ đều dạy ta phải hằng quán tưởng năm phép quán. Hơn thế nữa, người xuất gia chỉ thọ dụng vật chất vừa đủ để tạm nuôi thân thôi, chớ không nên sanh tâm tham đắm. Nếu quá tham đắm đòi hỏi những nhu cầu cung phụng cho thân, thì đó là trái lại hạnh tu của người xuất gia. Tổ Qui Sơn cũng dạy: “người xuất gia phải tam thường bất túc”. Ba thứ ăn, mặc, ở, ngủ nghỉ phải vừa đủ. Nếu đòi hỏi quá nhiều, chẳng những trái với bản hạnh của người xuất gia, mà còn làm mất tín tâm của thí chủ dâng cúng nữa. Một khi họ biết mình không thật tu hành, thì tín tâm của họ cũng bắt đầu thối thất. Khác nào như loài ong, chẳng những hút hết mật hoa thôi, mà còn làm thương tổn đến hương sắc của hoa. Nhưng ở đây, ngược lại, loài ong không bao giờ làm thương tổn đến hương sắc của hoa. Nếu ta không giữ đúng những lời Phật Tổ dạy trên, thì quả thật ta sẽ thua loài ong kia vậy. Thế nên, đối với người xuất gia chúng ta cần phải lưu ý cẩn thận giữ gìn.
50. “Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm.”
51. “Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.”Lược giải
50. Chớ nên dòm ngó lỗi người, chớ nên dòm coi họ đã làm gì hay không làm gì, chỉ nên ngó lại hành động của mình, thử đã làm được gì và chưa làm được gì.
Let none find fault with others; let none see the omissions and commissions of others. But let one see one's own acts, done and undone.
Kệ Tụng
Không nên nhìn lỗi người
Người làm hay không làm
Nên tự nhìn thân ta
Có làm hay không làm.
Lược giảng
Phật dạy: Người tu chớ nên dòm ngó lỗi người, chớ nên dòm coi họ đã làm gì hay không làm gì, chỉ nên ngó lại hành động của mình. Lời dạy nầy, Phật đã nhắm đến cái căn bệnh trầm kha của con người. Cái căn bệnh hay dòm ngó lỗi người để phê bình khen chê. Ít có mấy ai nhìn thấy lỗi mình. Nhà mình đầy rác rến, mà không lo dọn quét, thích cầm chổi đi quét nhà người ta. Bởi vậy mới có câu nói:
“Chưn mình còn lắm lê mê
Mà đi xách đuốc lại rê chưn người”.
Vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó là tật xấu của con người. Ai cũng thích làm cảnh sát quốc tế. Tối ngày cứ hết thổi tu hít phạt người nầy, tới phạt người kia, mà mình không biết phạt mình, dù mình có lỗi trầm trọng hơn người. Thái độ chỉ trích chê bai kẻ khác, đó là thái độ tối kỵ của người tu. Nếu là người thật tu hành, thì mình chỉ nên nhìn ngó lại lỗi lầm của mình để lo sửa đổi. Nếu vì xây dựng tốt cho nhau, để sự tu hành của chúng ta mỗi ngày mỗi tiến bộ, thì Phật cho chỉ lỗi cho nhau. Tuy nhiên, sự chỉ lỗi nầy, hoàn toàn không có chút tự ái, vì bản ngã của mình mà hạ nhục người khác. Đó là điều không nên có. Chúng ta nhứt quyết không bao giờ để tình trạng nầy xảy ra trong chúng. Nói về thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình, trong quyển Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng tập một, do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn, trang 67, có nêu ra câu chuyện giữa đức Lục Tổ và Ngài Thần Hội. Có đoạn kể rằng: “Năm Thần Hội 14 tuổi, còn là một chú Sa di ở chùa Ngọc Tuyền. Một hôm, Ngài tìm đến yết kiến Lục Tổ. Khi đến, Tổ hỏi:
- Tri thức từ phương xa nhọc nhằn tìm đến, có đem được gốc (Bổn) theo chăng? Nếu có gốc phải biết chủ, thử nói xem?
Sư thưa:
- Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ.
Tổ bảo:
- Sa di đâu nên dùng lời đó.
Sư thưa:
- Hòa Thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?
Tổ cầm gậy đánh Sư ba gậy, hỏi:
- Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau?
- Cũng đau cũng chẳng đau.
- Ta thấy cũng chẳng thấy.
- Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?
Chỗ ta thấy là thường thấy lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy việc phải quấy của người khác. Ấy là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì đồng với cây cỏ, nếu ngươi đau thì đồng với phàm phu, ắt khởi tâm giận hờn. Trước ngươi nói thấy chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt. Ngươi không thấy tự tánh mà dám cợt với người.
Sư lễ bái sám hối.
Tổ bảo:
- Nếu ngươi tâm mê không thấy nên hỏi thiện tri thức chỉ đường. Nếu ngươi tâm ngộ liền tự thấy tánh, y pháp tu hành. Ngươi đã mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì ta tự biết, đâu thế cái mê cho ngươi được. Nếu ngươi tự thấy cũng không thế được cái mê cho ta. Tại sao không tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy?
Sư lễ bái hơn trăm lạy cầu xin sám hối.
Từ đây, Sư ở lại hầu hạ Tổ không lúc nào rời”.
Qua câu chuyện trên, Ngài Thần Hội tuy vướng phải lỗi lầm chưa được thấy tánh mà dám cợt đùa với Tổ. Nhưng có điều ta phải thán phục Ngài, vì Ngài rất thông minh lanh lợi, chỉ mới 14 tuổi thôi mà đã có cái thấy như thế, dù cái thấy đó là sai lầm. Như vậy, đủ chứng minh rằng, Ngài đã tu hành gieo trồng thiện căn sâu dầy trong nhiều đời. Nên Ngài mới sớm gặp Phật pháp và mới có được một căn cơ lanh lợi như thế.
Người tu, thường nhìn lại mình mới thật là người thật tu. Bởi vậy, nên đức Lục Tổ dạy:
“Bằng thật người tu đạo
Không thấy lỗi thế gian
Nếu thấy lỗi của người
Thì lỗi mình đã đến bên”.
51 Như thứ hoa tươi đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có hương thơm, những người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành chẳng đem lại ích lợi.
Like a beautiful flower full of colour but without fragrance, even so, fruitless are the fair words of one who does not practise them.
Kệ Tụng
Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Lời nói dẫu gấm hoa
Không làm, không kết quả.
Lược giảng
Phật dạy: “Những kẻ chỉ biết nói điều lành mà không bao giờ làm một điều gì lợi ích cho ai, khác nào như hoa tươi chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có chút hương thơm”. Ở đời, ta thấy hạng người nầy rất nhiều. Họ được tài phô trương bề ngoài rất hay. Đa số người đều lầm họ. Lời nói và việc làm của họ không bao giờ đi đôi với nhau. Họ là hạng người năng thuyết bất năng hành. Họ gạt gẫm những người nhẹ dạ cả tin. Miệng họ nói huyên thuyên điều lành, đạo đức. Họ là mẫu người quảng cáo, nói láo ăn tiền. Họ có biệt tài vẽ duyên câu chuyện. Chuyện ít họ xích cho nhiều, gây cho người nghe rất khoái tai. Họ khoác lác khoe khoang toàn là những thứ đạo đức giả hiệu. Quả thật, họ là thứ hoa tươi chỉ đẹp bề ngoài. Họ không có chút hương thơm bên trong. Họ là người thiếu lương tâm và lương tri. Họ chỉ biết nói miệng tài không làm gì lợi ích cho ai. Hạng người nầy thời nào cũng có và họ có mặt ở mọi nơi, mọi chốn. Nhứt là trong môi trường đạo đức, họ dễ bề lường gạt kiếm sống. Họ chỉ cần uốn ba tấc lưỡi đạo đức là có thể moi tiền thiên hạ. Họ làm tiền khá tinh vi. Nếu ai lỡ biết mặt họ, thì họ tìm cách mua lòng người đó. Họ bất chấp thủ đoạn, miễn sao có lợi cho họ là được. Phật cho hạng người nầy chỉ là “một đóa hoa khéo phô trương”. Nhưng, dù hoa ấy có khéo léo phô trương đến đâu, thì cũng có ngày phải héo úa tàn phai. Tại sao vậy? Vì bản chất của nó là hoa, nên trước sau gì, nó cũng phải héo tàn. Một khi đã tàn phai rồi, thì không ai thèm ngó đến. Cũng thế, hạng người nầy, dù họ khéo “đội lốt giả hiệu đạo đức” lộng giả thành chơn, khéo trang bị bề ngoài đến đâu, rồi cũng có ngày lòi mặt nạ. Vì bản chất của họ là con người giả dối, giống như đóa hoa kia không khác. Thế nên, qua Pháp cú nầy, Phật khuyên mọi người phải có hành động “tri hành hợp nhứt”. Hãy sống sao cho xứng đáng làm người, nhứt là người được mệnh danh là con Phật. Chúng ta hãy nhớ câu: “hoa thơm nhờ nhụy, người có giá trị nhờ đạo đức”. Người sống không có đạo đức, khác nào như một cây khô vô dụng. Hạng người như thế, quả thật không xứng đáng sống trong xã hội loài người. Riêng trong phạm vi của người tu xuất gia, thì ta phải nhớ câu nầy nằm lòng. Không phải chỉ nhớ suông, mà nhớ để đem ra ứng dụng. Người nào nói được, làm được mới là người xứng đáng ở trong đạo. Tuy nhiên, ngoại trừ những trường hợp trao đổi giải bày học hỏi với nhau. Trong trường hợp nầy, có đôi khi chúng ta nói quá những gì mà chúng ta có thể làm được. Nhưng dù sao, biết hướng về nhà vẫn hay hơn là người không biết. Dù chưa phải là kẻ đã tới nhà, nhưng ít ra cũng biết được cái ngôi nhà mình phải tới. Cũng thế, trong khi giải bày lời Phật dạy, dĩ nhiên, không sao tránh khỏi bàn nói nghĩa lý cao siêu. Nhưng sự trình bày đó, chẳng qua là muốn làm sáng tỏ lời Phật Tổ dạy mà thôi. Hoàn toàn không phải là kẻ nói khoác lác để phô trương sự hiểu biết của mình. Thật ra sự hiểu biết của chúng ta so với những lời Phật dạy, khác nào như con ếch ngồi dưới đáy giếng sâu ở trong miệng hang dòm trời. Và như thế, có xứng đáng gì mà phải khoe khoang! Hiểu và nhận định như thế, ta mới thấy sự nghiên cứu học hỏi của ta không bao giờ cùng. Từ đó, chúng ta mới nỗ lực cố gắng thực hành tiệm tu từng bước một, qua những gì mà chúng ta đã học hỏi được. Có thế, mới không phụ lòng thâm ân Phật Tổ và thầy bạn chỉ dạy ta vậy.
52. “Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc lại thêm hương;
Cũng vậy, lời khéo nói,
Có làm, có kết quả.”
53. “Như từ một đống hoa,
Nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy, thân sanh tử,
Phải làm nhiều việc lành.”Lược giải
52 Như thứ hoa tươi đẹp vừa có màu sắc lại có hương thơm, những người nói điều lành và làm được điều lành, sẽ đưa lại kết quả tốt.
Like a beautiful flower full of colour and also fragrant, even so, fruitful are the fair words of one who pratises them.
Kệ Tụng
Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Lời nói đã gấm hoa
Có làm, có kết quả.
Lược giảng
Đối lập với pháp cú trên. Nghĩa là Phật cho chúng ta thấy cái kết quả tốt đẹp của lời nói và thật hành đi đôi với nhau. Giống như hoa tươi vừa đẹp, vừa có màu sắc lại vừa có hương thơm. Như vậy, mới xứng đáng là một đóa hoa xinh đẹp tuyệt mỹ. Cũng thế, nếu chúng ta nói được, làm được, thì kết quả rất tốt đẹp. Người xưa nói: “Tòng thiện như đăng, tòng ác như băng”. Nghĩa là: làm theo việc lành, nó khó như người leo núi cao. Ngược lại, làm việc ác, như người ở trên cao tuột xuống giốc. Cho nên việc nói điều lành, thì rất dễ ai nói cũng được, nhưng làm được đúng như lời nói thì rất khó. Còn làm điều ác, thì khỏi phải nói, nó rất là dễ dàng. Nhưng dù khó mà làm được, thì Phật khen người đó chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp.
53. Như từ đống hoa có thể làm nên nhiều tràng hoa, từ nơi thân người có thể tạo nên nhiều việc thiện.
As from a great heap of flowers many garlands can be made, even so should many good deeds be done by one born a mortal.
Kệ Tụng
Như từ một đống hoa
Làm được nhiều tràng hoa
Từ thân người cũng vậy
Làm được nhiều thiện sự.
Lược giảng
Hai chữ “Đống hoa” là Phật cho chúng ta một hình dung từ. Từng đóa hoa kết hợp lại thành một đống hoa. Rời từng đóa hoa, thì không có đống hoa. Cũng thế, cái thân của chúng ta, khác nào như một đống hoa. Tại sao? Bởi vì do nhiều thứ kết hợp lại mà thành. Nếu nói một cách đại thể, thì do bốn đại kết hợp. Nhưng, nếu phân tích chi ly, cặn kẻ hơn, thì mỗi một bộ phận trong thân thể của chúng ta, có khác nào như từng mỗi đóa hoa. Tên gọi của mỗi một đóa hoa khác nhau. Vì có nhiều tên gọi của từng thứ hoa khác nhau, kết hợp lại thành một đống hoa. Cũng thế, thân thể của chúng ta có nhiều bộ phận tên gọi khác nhau, hợp lại tạo thành thân, nên gọi là thân. Như vậy, Phật cho chúng ta thấy rõ thân nầy là do duyên hợp mà có. Tại sao nói là do duyên hợp? Bởi vì, như đống hoa, do có nhiều loại hoa hợp lại mà thành đống hoa. Thân nầy cũng vậy, có khác gì đống hoa kia. Đã do duyên hợp, tất nhiên là không bền chắc lâu dài. Cũng như đống hoa, không tươi tốt lâu dài. Vì đã là hoa, tự bản chất của nó vốn không bền bỉ, nó héo úa tàn phai nhanh chóng. Thân chúng ta cũng vô thường nhanh chóng. Pháp cú nầy, Phật dùng hình ảnh của một đống hoa, để so sánh tỷ dụ cái thân của chúng ta không khác gì đống hoa. So sánh như thế, để cho chúng ta thấy rõ cái lý duyên sanh, vô ngã và vô thường. Nói vô ngã, vì tự thể của đống hoa không có thật. Thân ta cũng vô ngã như đống hoa. Biết rõ như thế, thì ta không nên ái luyến thân nầy. Con người vì quá coi trọng thân, quá ái luyến nó, nên tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp ác, để rồi thọ khổ dài dài. Biết nó là thứ tạm bợ giả dối, ta có nên khinh thường và hành hạ hủy hoại nó không? Xin thưa: trăm lần không, vạn lần không. Ta không nên có thái độ tỏ ra khinh thường hủy hoại nó. Ai có ý nghĩ và hành động đó, Phật cho kẻ đó là kẻ vô trí. Tại sao ta phải hành hạ, hủy hoại nó chớ? Nó có lỗi lầm gì với ta đâu? Chẳng những ta không có thái độ miệt thị khinh thường nó, mà ta còn phải biết quý trọng và hết sức lễ độ với nó nữa kìa! Xin chớ vội hiểu lầm hai chữ “quý trọng”. Quý trọng ở đây, đồng nghĩa với “lợi dụng”. Vì trên bước đường tu hành, ta rất cần đến nó. Nó như một chiếc xe, một chiếc thuyền, hay thù thắng hơn nữa như một chiếc máy bay v.v. Tất cả đều là phương tiện. Ta phải nhờ những thứ đó để chuyên chở ta. Khi đã nhờ đến chúng như thế, tất nhiên là ta phải coi trọng, quan tâm, săn sóc chúng. Nếu như chúng bị hư, thì làm sao ta có thể đi được. Thân nầy cũng vậy. Ta phải luôn để ý quan tâm chăm sóc đến nó. Chăm sóc một cách cẩn thận, từ cái ăn v.v. cho đến cái mặc. Khi nó đau bệnh, ta cần phải chữa trị. Điều nên nhớ kỹ ở đây, ta chỉ khéo lợi dụng nó, chớ không phải làm “nô lệ” cho nó. “Lợi dụng” và “nô lệ”, ý nghĩa của chúng khác nhau xa. Xin chớ có lầm nhận. Khi thân thể chúng ta còn mạnh khỏe, thì chúng ta nên khéo biết lợi dụng nó để làm những điều lành; làm những gì có lợi ích cho tha nhân. Ta nhứt quyết không từ nan, không thối chí nản lòng, dù phải cực khổ vất vả hay gặp nhiều chướng ngại đắng cay. Ta phải giữ vững ý chí lập trường. Ta coi thường sự khen chê phải trái. Vì ta coi đó là một nghĩa cử, một lý tưởng cao quý mà ta phải làm. Ta quyết định phải hoàn thành mục đích cao đẹp mà ta nhắm tới. Đó là thái độ của kẻ khôn ngoan, của người có trí huệ sáng suốt. Vì thế, nên Phật bảo: “từ nơi thân người có thể tạo nên nhiều việc thiện”. Lời dạy nầy, ta thấy, trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, hoặc gần hoặc xa, hay bên ta, đã có không biết bao nhiêu người thực hiện đúng như lời dạy nầy. Thuở xưa, chính vua A Dục đã khéo biết lợi dụng cái đầu của ông để tu tạo phước đức. Dù ông đã nhiều lần bị cận thần can ngăn, nhưng ông quyết không nghe lời họ. Cuối cùng, ông cho kẻ can ngăn ông một bài học quý giá để cho họ nhớ đời. Việc làm lợi ích cho người, chẳng những trong quá khứ, hay hiện tại mà nhẫn đến tương lai cũng thế. Đã có biết bao nhiêu người hy sinh thân mạng để phụng sự cho đạo pháp và nhơn sinh. Thậm chí họ coi thường cái chết. Họ không phải là thứ hạng người chỉ biết tham sanh úy tử. Họ khéo biết lợi dụng thân họ để làm việc thiện đúng cơ và hợp thời. Chỉ cần con người còn có chút tình người biết yêu thương lẫn nhau, thì chắc chắn lời dạy nầy của Phật sẽ còn mãi mãi là một chất liệu sưởi ấm con người. Con người có tạo nhiều việc tốt, tương trợ hành thiện trong chiều hướng tương thân tương ái và kính trọng lẫn nhau, thì xã hội mới được an vui và mọi người mới thật sự sống trong cảnh thái bình an lạc.
54. “Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời.”
55. “Hoa chiên đàn, già la,
Hoa sen, hoa vũ quý,
Giữa những hương hoa ấy,
Giới hương là vô thượng.”Lược giải
54. Mùi hương của các thứ hoa, dù là hoa chiên đàn[69], hoa đa già la[70] hay hoa mạt lỵ[71], đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp cả muôn phương.
Not the sweet smell of flowers, not even the fragrance of sandal, tagara or jasmine blows against the wind. But the fragrance of the virtuous blows against the wind. Truly, the virtuous man pervades all directions with the fragrance of his virtue
Kệ Tụng
Dầu là hoa chiên đàn
Già la hay mạt ly
Không một hương hoa nào
Bay ngược chiều gió thổi
Chỉ hương người đức hạnh
Bay ngược gió bốn phương.
Lược giảng
Thật vậy, mùi hương của các loại hoa nói trên, dù nó có mùi hương thơm phức đến đâu, cũng không thể nào chúng bay ngược gió được. Chỉ có những ai ở phía dưới gió mới có thể ngửi và thưởng thức mùi thơm đó. Vì là mùi thơm tỏa ra từ những thân cây, nên chúng vẫn còn những thứ có hình tướng vật chất. Đã có hình tướng, tất nhiên, còn có giới hạn và vô thường. Và mùi thơm đó, tất nhiên, là không bền. Ở đây, Phật muốn nhấn mạnh cho chúng ta thấy, so sánh giữa hai mùi thơm: một thứ mùi thơm của vật thể có giới hạn, và một thứ mùi thơm tỏa ra từ người có đạo đức không có giới hạn. Vì thứ mùi thơm nầy, được bào chế tẩm ướp bằng những chất liệu giới luật. Bất cứ ai, khi trang sức “nước hoa thơm giới luật” vào mình, thì mùi thơm đạo đức của người đó sẽ bay khắp vượt cả không gian và thời gian. Bằng chứng là chư Phật Tổ và các bậc đạo hạnh chân tu. Mùi hương đạo đức của các Ngài đã bay cao và bay xa không có biên giới. Một thứ mùi thơm bay trùm khắp cả pháp giới.
Trong bài nguyện hương, chư Tổ có nói rõ thứ mùi hương nầy. Đó là: mùi hương của Giới, mùi hương của Định và mùi hương của Huệ. Mùi hương của “Tam vô lậu học”. Ngoài ra, còn có ướp thêm mùi hương của Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Giải thoát tri kiến, có nghĩa là con người không còn bị kẹt dính mắc vào những cái “thấy biết” của mình. Nói rõ ra, là đã phá vở tung cái vỏ “Sở tri kiến”. Chúng ta bị khổ đau triền miên trong vòng sanh tử, cũng bởi bị hai thứ chướng: “phiền não và sở tri trói buộc”. Muốn vượt thoát khỏi sự trói buộc đó, Phật dạy chúng ta phải thật hành Giới, Định, Huệ.
Người nào có thiết thiệt thật hành đúng theo lời Phật dạy như thế, thì người đó mới thật sự là dâng lên những thứ hương thơm cúng Phật. Bằng ngược lại, thì ta chỉ có cúng dâng bằng hình thức mà thôi. Chớ thật sự chưa phải là cúng dường Phật. Tại sao? Vì dâng hương cúng Phật mà trong lòng ta còn dẫy đầy phiền não, chấp trước, còn thường xuyên dính mắc ở nơi sáu trần, thì sự dâng hương đó chỉ là làm cho có lệ trên sự tướng lễ nghi mà thôi. Và dâng cúng như thế, chắc chắn là chư Phật sẽ không chứng minh và hài lòng rồi. Hài lòng sao được? Phật dạy một đàng, chúng ta làm một nẻo. Tổ dạy người tu chúng ta, phải có đủ “Ngũ phần pháp hương”. Chính mùi thơm của loại hương Ngũ phần nầy mới thật sự là bay khắp muôn phương. Đó là mùi thơm thượng hạng, không còn thứ mùi thơm nào ở thế gian nầy có thể sánh kịp. Mong sao mỗi người tu chúng ta, ai nấy đều tẩm ướp thứ mùi thơm thượng hạng nầy đều đều mỗi ngày. Có thế, thì mới thật sự là người biết trang sức và mới thật sự là người giải thoát. Như thế, đối với người tu xuất gia chúng ta, chắc chắn không một ai muốn tẩm ướp cho mình những thứ “mùi hôi” vào mình. Nếu mùi thơm của người “đức hạnh” bay lan xa, thì ngược lại, mùi hôi của người “không đức hạnh” cũng bay lan xa không kém. Nghĩa là, cũng bay lan xa suốt thời gian và khắp cả không gian. Bởi vì, “cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, dù đó là tiếng tốt hay tiếng xấu cũng thế.
55. Hương chiên đàn, hương đa già la, hương bạt tất kỳ[72], hương thanh liên, trong tất cả thứ hương, chỉ thứ hương đức hạnh là hơn cả.
Of all the fragrances-sandal, tagara, blue lotus and jasmine-the fragrance of virtue is by far the sweetest.
Kệ Tụng
Hoa chiên đàn, già la
Liên hoa, vũ quý hoa
Tất cả hương hoa ấy
Hương đức hạnh tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật cũng chỉ lặp lại và nhấn mạnh thêm về các loại mùi thơm của những loại cây ở trên đã nói. Tại sao Phật phải lặp lại như thế? Có thừa lắm không? Làm cho người nghe có cảm tưởng như nhàm chán phải không? Xin thưa ngay: là không nhàm và cũng không dư thừa. Tại sao? Bởi vì nó quá quan trọng đối với người tu. Như trên đã nói, sở dĩ người tu có đầy đủ đức hạnh là vì người đó hành trì giới luật rất tinh nghiêm. Người tu, nếu không giữ giới luật, tức khinh thường giới luật, thì còn gì là đạo đức. Chính bản thân mình đã không được lợi lạc, thì thử hỏi làm lợi lạc cho ai? Cho nên, giới luật như là mạng sống của người tu. Nhứt là đối với người xuất gia, việc nghiêm trì giới luật là điều tối thiết yếu. Bởi vậy, Phật mới nhắc đi nhắc lại, để cho chúng ta in sâu và nhớ mãi về vấn đề nầy. Có nhiều người cho rằng, giới luật của Phật chế ra cho người xuất gia quá nhiều và quá chi ly và như thế, thì thật là khó giữ gìn cho trọn vẹn. Hơn thế nữa, như là một sự ràng buộc, mất hết tự do. Xin thưa, người nói như thế là vì họ chưa có đi sâu và chưa có nghiên cứu am tường về giới luật. Thật ra, giới luật Phật chế nhiều như thế đối với một vị thọ giới Tỳ kheo, là vì Phật muốn cho người xuất gia, phải vẹn tròn phẩm hạnh để có đủ tư cách xứng đáng độ mình, độ người. Giới luật không phải là điều ràng buộc làm cho con người mất hết tự do, như người ta lầm tưởng, mà trái lại, chính giới luật mới đem lại cho con người có nhiều tự do hơn ai hết. Lý do tại sao? Bởi vì người giữ giới là người không bao giờ sợ ai. Ví như ta giữ giới không trộm cắp chẳng hạn, thì làm gì ta sợ pháp luật bắt ta. Suy ra, các giới khác cũng đều như thế.
Tóm lại, giới luật là nền tảng của người tu, dù xuất gia hay tại gia cũng vậy. Nhứt là đối với người xuất gia, nếu thiếu sự hành trì giới luật, thì chẳng những không cảm hóa, khắc phục được chính mình mà còn không độ được ai cả.
56. “Ít giá trị hương này,
Hương già la, chiên đàn;
Chỉ hương người đức hạnh,
Tối thượng tỏa Thiên giới.”
57. “Nhưng ai có giới hạnh,
An trú không phóng dật,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Ác ma không thấy đường.”Lược giải
56. Hương chiên đàn, hương đa già la đều là thứ hương vi diệu, nhưng không sánh bằng hương người đức hạnh, xông ngát tận chư thiên.
Faint is the fragrance of tagara and sandal, but excellent is the fragrance of the virtuous, wafting even amongst the gods.
Kệ Tụng
Ít giá trị hương nầy
Hương già la, chiên đàn
Chỉ hương người đức hạnh
Xông ngát mấy trời xa.
Lược giảng
Pháp cú nầy, ý nghĩa cũng không khác mấy với những pháp cú trên. Ở đây, đức Phật muốn so sánh một lần nữa về các loại hương. Mặc dù hương của các loại cây đó, có thơm tho vi diệu tới đâu, cũng không thể nào sánh bằng hương của người đức hạnh. Chỉ có hương của người đức hạnh mới xông ngát tận chư thiên
57. Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an trụ trong chánh trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được.
Mãra never finds the path of the truly virtuous, who abide in heedfulness and are freed by perfect knowledge.
Kệ Tụng
Những ai có giới hạnh
An trụ không phóng dật
Chánh trí, chơn giải thoát
Ác ma không thấy đường.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nhắc lại ở phẩm buông lung trước. Vì người sống buông lung là người không có đạo đức. Người nào muốn thành tựu giới hạnh, Phật dạy phải an trụ trong chánh trí. Thế nào là an trụ trong chánh trí? Chánh trí tức là trí huệ chơn chánh. Nói chánh trí là để phân biệt với tà trí. Bởi ngoại đạo tu hành, họ cũng có trí huệ, nhưng trí huệ của họ không nhằm mục đích giải quyết sanh tử khổ đau. Họ có thể biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng họ chưa đoạn trừ hết vô minh phiền não. Do đó, họ vẫn còn thọ sanh trong tam giới. Chỉ có trí huệ chơn chánh, thấy rõ vạn pháp hư huyễn, không sanh tâm đắm trước, nên được thoát ly sanh tử. Người hằng an trụ trong chánh trí, tức được giải thoát. Muốn an trụ trong chánh trí, tức phiền não không còn. Nói cách khác, hành giả nhờ dứt hết phiền não, nên mới được an trụ trong chánh trí. Bởi còn phiền não là còn phân biệt thương ghét tạo nghiệp. Còn tạo nghiệp là còn đi trong sanh tử. Người đã thực sự an trụ trong chánh trí, thì quân ma nào dám bén mảng tới. Nên nói: “ác ma không thể dòm ngó”. Ngược lại, nếu ta chưa an trụ trong chánh trí, tức hằng sống trong trí huệ chiếu soi, thì quân ma luôn luôn dòm ngó. Chẳng những dòm ngó thôi, mà ta còn nhập bọn đồng lỏa với bọn chúng nữa. Bởi vậy, người tu hành muốn được giải thoát, thì phải luôn trang bị cho mình có đầy đủ trí huệ. Nhờ có thanh gươm trí huệ, nên tiêu trừ tất cả quân ma phiền não. Muốn được thế, thì không có cách nào hơn là người tu không thể sống buông lung. Vì sống buông lung là đồng lỏa với tội ác vậy.
58. “Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch, đẹp ý người.”
59. “Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Sáng ngời với Tuệ Trí.”Lược giải
58.59. Như từ trong đống bùn nhơ vất bỏ, mới sinh ra hoa sen tinh khiết ngào ngạt làm đẹp ý mọi người, cũng thế, chỉ từ nơi chốn phàm phu manh muội[73] mới sản xuất những vị đệ tử bậc chánh giác, đem trí tuệ soi sáng thế gian.
Upon a heap of rubbish in the road-side ditch blooms a lotus, fragrant and pleasing. Even so, on the rubbish heap of blinded mortals the disciple of the Supremely Enlightened One shines resplendent in wisdom.
Kệ Tụng
Như giữa đống bùn nhơ
Vất bỏ trên đường lớn
Chỗ ấy hoa sen nở
Thơm sạch đẹp ý người (58)
Cũng vậy giữa quần sanh
Phànm phu và ngu muội
Đệ tử vi chánh giác
Sáng ngời với trí tuệ (59)
Lược giảng
Hai pháp cú nầy, Phật cho chúng ta một hình ảnh quá đẹp. Một hình ảnh quá quen thuộc với chúng ta. Đó là hình ảnh hoa sen. Một hình ảnh mà rãi rác trong các Kinh điển Nguyên thủy cũng như Phát triển Phật giáo đều có đề cập đến rất nhiều. Hoa sen là biểu trưng cho tâm thuần tịnh trong sạch; cũng là biểu trưng cho tinh thần nhập thế và xuất thế của đạo Phật. Ai cũng biết chúng mọc lên từ nơi bùn lầy nước đọng. Dù mọc lên từ bùn nhơ, nhưng không vì thế mà chúng mang chất hôi tanh mùi bùn. Phật đem hình ảnh nầy để dụ cho những người tu hành đạt được quả vị giải thoát. Trước khi đạt được Giác ngộ, tất cả đều là phàm phu, là một con người rất bình thường cũng có đầy đủ những dục ái vô minh. Điển hình như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước kia, Ngài cũng là một con người như bao nhiêu con người tầm thường khác. Ngài cũng có cha mẹ vợ con. Hơn thế nữa, là một hoàng tử sống trong ngai vàng điện ngọc, gác tía lầu son, bên cạnh Ngài có kẻ hầu người hạ. Ngài có một nếp sống của một con người vương giả. Ngài chỉ khác hơn người thường là ở chỗ đó. Nói rõ ra là chỉ khác trên phần địa vị quyền uy, vật chất sang trọng mà thôi. Nhưng, những chất liệu tạo thành con người, thì Ngài vẫn có đủ không khác gì chúng ta. Cũng là một con người bằng xương bằng thịt và bằng tất cả chất người. Có khác chăng, là Ngài nhờ công đức tu hành trong nhiều đời mà Ngài có được cái báo thân phước tướng hơn chúng ta. Mọi sự hưởng thụ khoái lạc vật chất ở đời, Ngài cũng đã nếm qua. Dù sống trong cảnh đầy nhung lụa vàng son đó, nhưng Ngài không cam tâm thụ hưởng. Ngài quyết tâm tìm một lẽ sống cao thượng hơn. Đó là sự khác biệt giữa Ngài với chúng ta. Nghĩa là Ngài là một con người sớm tỉnh ngộ, nhận ra sự đau khổ của cuộc đời. Sau khi giác ngộ, Ngài nhứt quyết xuất gia tu hành để tìm cho ra một con đường giải quyết sanh tử khổ đau cho mình và cho tất cả chúng sinh. Cuối cùng, Ngài đã thành tựu được bản nguyện lớn đó. Như vậy, Ngài cũng đích thực là một con người và sống trên cõi đời nầy mà tu hành thành Phật. Chớ Ngài không phải từ hành tinh nào khác rớt xuống. Đến các vị đệ tử xuất gia của Ngài cũng thế. Nhờ theo Phật tu học mà đạt thành quả vị. Tất cả đều ở trên trái đất nầy mà tu thành. Khác nào như hoa sen kia, từ dưới sình lầy ngoi lên để khoe hương khoe sắc. Nhận hiểu như thế, ta không có gì phải tự ty mặc cảm. Nếu ta nỗ lực tinh tấn tu hành, thì quyết chắc một ngày nào đó, ta cũng thành tựu đạo quả như Ngài. Bởi vậy, nên Ngài thường tuyên bố: “Ta là Phật đã thành các người là Phật sẽ thành”. Lời tuyên bố nầy, phải chăng, Ngài đã xác quyết một cách khẳng định rằng: “Mỗi người đều có khả năng thành Phật như Ngài”. Chẳng qua chúng ta chưa khai phát đúng mức cái khả năng thành Phật hiện đang tiềm tàng trong ta đó thôi. Nếu như mọi người đều hạ quyết tâm đi đúng theo lộ trình mà Ngài đã vạch sẵn, thì chắc chắn sớm muộn gì mọi người cũng đạt thành sở nguyện. Vì Phật tánh đã có sẵn trong ta, chẳng cần tìm cầu đâu khác. Đạo Phật bình đẳng và rất tự do là ở chỗ đó. Đạo Phật là đạo sống thực. Đạo Phật không chủ trương huyền hoặc mơ hồ như một vài triết thuyết khác. Những gì Phật nói ra, là do Ngài đã thực nghiệm thân chứng. Bởi thế, đạo Phật không phải là một học thuyết. Càng không phải là một giáo điều. Đạo Phật chủ trương nhắm đến xây dựng nếp sống hạnh phúc cho nhơn sinh ngay trong đời sống hiện thực. Lập trường của đạo Phật trước sau như một: “Nói và làm phải đi đôi”. Nói cách khác người tu theo Phật phải “tri hành hợp nhứt”. Nói một đường làm một ngã, đó không phải là người tu Phật. Vì đạo Phật không nói những chuyện viễn vông mơ hồ. Thực tế như hoa sen mọc lên từ bùn. Chỉ cần cố gắng vươn lên để tiếp nhận ánh sáng: “Ánh sáng giác ngộ”. Những ai đến với đạo Phật, mà mang tâm trạng của kẻ cầu khẩn van xin để được Ngài ban ân giáng phước, thì thật là uổng phí thất vọng. Phật không bao giờ làm những chuyện ảo huyền đó. Phật chỉ làm nhiệm vụ của một vị Thầy chỉ đường, hay một vị Thầy thuốc, cho thuốc và trị bệnh mà thôi. Trước sau Ngài vẫn là con người ở vị trí giác ngộ. Xin tất cả đừng xê dịch Ngài qua vị trí khác. Nhìn Ngài bằng cặp mắt ỷ lại, van xin, thì chỉ là một cái nhìn hoài công nhọc sức vô ích mà thôi. Bởi vì giáo lý của Ngài thường dạy, chúng sanh từ trong vô minh mà phát sanh trí huệ. Rời vô minh không có trí huệ. Nhưng vô minh không phải là trí huệ. Cũng như rời nước đục không có nước trong. Nhưng nước đục không phải là nước trong. Đó là lý Bất nhị trong Kinh Duy Ma Cật đã nói. Thế nên, người tu phải từ nơi cõi đời ô trược nầy mà thành. Cực lạc không thể rời đây mà có. Cực lạc hay Ta bà, tất cả đều từ tâm ta mà ra. Đi tìm cõi Cực lạc ngoài Ta bà nầy, thì đó chỉ là ảo tưởng, xa thực tế, vì tất cả chỉ là: “Nhứt chơn pháp giới”.
Cũng thế, đi tìm Phật ngoài tâm, thì không bao giờ có. Mã Tổ nói: “Tức tâm, tức Phật”. Phật và Tâm không hai, nhưng bảo một thì không đúng. Nói tức tâm, tức Phật chính là chỉ cho chơn tâm, chớ không phải vọng tâm. Cẩn thận chớ có lầm nhận. Bốn câu kệ chót trong bài Phú của Sơ Tổ Trúc Lâm có nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Tạm dịch:
Ở trần vui đạo sống tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.
Người tu muốn thoát ra khỏi cỏi đời nầy, tách xa với cuộc sống của thế nhân, thì thật là chuyện không tưởng. Làm sao ta có thể tách biệt hoàn toàn cho được? Ngoại trừ ta không có mặt ở cuộc đời nầy. Hễ ta còn biết ăn, biết mặc, biết hít thở để sống, thì ta vẫn còn phải liên hệ chặt chẽ tiếp cận với bao nhiêu sự sống khác. Song có điều, khi tiếp cận với những cái khác, ta có còn giữ được thật chất con “Người Thật” của ta hay không? Đó mới là điều quan trọng. Cho nên, đến một giai đoạn nào đó, khi tâm ta “bừng sáng”, ta thấy ta không còn là cái ta riêng biệt, mà sự sống của ta là có mặt tất cả, chừng đó, Ngã, Pháp không còn, thì mới thật sự là con người: đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Đến đây, mới thật sự đúng với ý nghĩa: “Tùy duyên nhi bất biến”. Hay “Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”. Đến đây, không phải là chuyện dễ dàng, phải là bậc thượng căn thượng trí mới có thể đạt được. Còn như hàng hạ căn hạ trí như chúng ta, chỉ có cách niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương của đức Phật A Di Đà, thì mới bảo đảm thoát khỏi luân hồi đau khổ.
Phẩm Ngu
60. “Ðêm dài cho kẻ thức,
Ðường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu,
Không biết chơn diệu pháp.”
61. “Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.”Lược giải
60. Đêm rất dài đối với kẻ mất ngủ, đường rất xa dối với kẻ lữ hành[74] mỏi mệt. Cũng thế, vòng luân hồi[75] sẽ tiếp nối vô tận đối với kẻ ngu si không minh đạt Chánh pháp.
Long is the night to the sleepless; long is the league to the weary. Long is worldly existence to fools who know not the Sublime Truth.
Kệ T ụng
Đêm dài cho kẻ thức
Đường dài cho kẻ mệt
Đời dài cho kẻ ngu
Không hiểu chơn diệu pháp.
Lược giảng
Ai đã từng mất ngủ mới biết đêm dài. Ai trong chúng ta mà không có đôi lần trải qua những đêm không ngủ. Đối với những người bị chứng bệnh mất ngủ, thì một đêm đối với họ thật là dài lâu. Tục ngữ có câu:
“Thức đêm mới biết đêm dài
Ở lâu mới biết lòng người ra sao”!
Và ai đã từng là kẻ lữ hành mới biết đường xa. Phật nêu ra hai hình ảnh trên để so sánh về tâm trạng khổ đau của những kẻ đi mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Phật cho chúng ta biết rõ lý do, vì sao mà ta đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử như thế? Đó là tại vì chúng ta “quá ngu si không minh đạt chánh pháp”. Thử đặt vấn đề: Cái gì dẫn ta đi trong luân hồi? Ai cũng biết, đó là nghiệp. Vậy, nghiệp là gì? Nghiệp tiếng Phạn là Karma hay kamma (Pali) Trung hoa dịch là nghiệp. Nghiệp có nghĩa là một hành động. Hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Nghiệp có nghiệp lành và nghiệp dữ. Tức thiện nghiệp và ác nghiệp. Chỗ tạo thành nghiệp gồm có ba thứ: thân, khẩu và ý. Trong ba thứ nầy, ý nghiệp là chủ động. Hai thứ kia chỉ là phụ thuộc của ý. Tất cả đều do ý sai sử. Làm lành hay làm dữ đều do ý điều khiển. Nghiệp là một tác nhân trên chiều hướng nhân quả. Nhân quả là căn cứ theo dòng thời gian mà định đoạt. Tạo nghiệp là nhân, chiêu cảm quả lành hay quả dữ là quả. Từ nhân đến quả phải có thời gian. Theo Duy Thức Học chia ra làm 3 loại:
1. Dị thời nhi thục.
2. Biến dị nhi thục.
3. Dị loại nhi thục.
Thế nào là Dị thời nhi thục? Nghĩa là từ khi gây nhân cho đến khi kết quả, phải khác thời gian mới chín (thục). Như một học sinh, bắt đầu vào trường học là nhân, đến khi đổ đạt thành tài là quả. Từ khi đi học cho đến khi đổ đạt lấy bằng, phải mất một thời gian rất lâu.
Thế nào là Biến dị nhi thục? Nghĩa là từ khi gây nhân cho đến khi kết quả, phải trải qua thời gian biến đổi. Thí dụ: học sinh mới cấp sách vào trường mẫu giáo là một em bé tí hon, đến khi thi đậu lấy bằng cử nhân hay tiến sĩ, thì trở thành một cô thiếu nữ sinh đẹp, hay một nam thanh niên tuấn tú. Một thí dụ khác: khi ta gieo hạt lúa, cho đến khi thành bông lúa để gặt hái, phải trải qua thời gian biến đổi. Khi hạt lúa nẩy mầm lên khỏi mặt đất, thì người ta không còn gọi là lúa nữa, mà gọi nó là mạ. Đến khi lên hơi cao một chút, đúng ngày tháng, bấy giờ, người ta nhổ đem đi cấy, thì người ta gọi là nhổ mạ. Cấy xong lên thành cây, thành bụi, thì trở thành là cây lúa hay bụi lúa v.v. Như vậy, từ khi cái chánh nhân là một hạt lúa, đến kết thành bông lúa, phải trải qua một thời gian biến đổi và tên gọi khác nhau. Nhưng trước sau vẫn là lúa, chớ không phải là nếp hay thứ gì khác. Do đó, nên nói là Biến dị nhi thục.
Thế nào là Dị loại nhi thục? Nghĩa là khác loài mới chín. Tùy theo chỗ tạo nhân mà kết quả thọ sanh qua các loài khác nhau. Thí dụ: do nhân bỏn sẻn keo kiết mà thọ quả báo ngạ quỷ v.v
Qua đó chúng ta thấy, đầu mối của luân hồi là do nghiệp dẫn, dù nghiệp lành hay nghiệp dữ. Mà chủ động tạo thành nghiệp là do Ý thức. Như vậy, hễ còn có chú Ý, (dụ như con khỉ hay con vượn), hoạt động là chúng ta còn đi trong sanh tử luân hồi. Bao giờ chú Ý thức nầy, không còn hoạt động tạo nghiệp nữa, thì chúng ta mới chấm dứt luân hồi thọ khổ. Thế thì, gốc của sanh tử luân hồi thọ khổ là ở chỗ đó. Bởi thế, nên Phật dạy vô lượng pháp môn tu, pháp môn nào cũng nhắm thẳng vào việc dẹp chú ý thức nầy, phải cho chú ý thức nầy nằm yên (định) không hoạt động nữa, đó là Niết bàn. Nhưng hành giả muốn đạt được cảnh giới Niết bàn nầy, tất nhiên, phải có trí huệ. Vì có trí huệ mới có thể diệt trừ hết phiền não. Đối với hàng Bồ tát, thì các Ngài dùng trí huệ để chiếu phá vô minh. Ngược lại, đối với hàng Thanh văn, thì các Ngài dùng Định lực nhiều hơn để đoạn trừ phiền não. Sự khác biệt tu hành giữa Bồ tát và Thanh văn khác nhau ở chỗ đó. Dù cả hai đều nhắm đến mục đích chung là đạt được quả vị Niết bàn. Bởi do nhân tu sai khác, nên kết quả đạt được Niết bàn cũng sai khác. Niết Bàn của Bồ tát là Vô trụ xứ Niết bàn. Dù quả vị Niết bàn có sai khác, nhưng tựu trung cũng là chấm dứt vòng sanh tử luân hồi khổ đau. Bằng ngược lại, thì chúng ta sẽ đi mãi trong sanh tử luân hồi. Đúng như lời Phật nói: “Vòng luân hồi khổ đau sẽ tiếp nối vô tận đối với kẻ ngu si không minh đạt chánh pháp”.
61. Không gặp kẻ hơn mình cũng không gặp kẻ ngang mình để kết bạn, thà quyết chí ở một mình còn hơn kết bạn với người ngu.
Should a seeker not find a companion who is better or equal, let him resolutely pursue a solitary course; there is no fellowship with the fool.
Kệ Tụng
Nếu không tìm được bạn
Bằng mình hay hơn mình
Thà quyết sống một mình
Không bè bạn kẻ ngu.
Lược giảng
Trước khi giải thích qua Pháp cú nầy, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ qua về sự kết bạn. Trong Kinh Hiền Nhân, có nêu ra về 4 cách kết bạn:
1. Kết bạn như hoa.
2. Kết bạn như cân.
3. Kết bạn như đất.
4. Kết bạn như núi.
1. Thế nào là kết bạn như hoa?
Bởi vì loài hoa là loài sớm nở tối tàn. Khi bông hoa mới nở còn xinh tươi đẹp đẻ, thì ai trông thấy cũng thích thú, trầm trồ khen ngợi. Đến khi hoa héo úa phai tàn rồi, thì không một ai để ý dòm ngó. Cũng một đóa hoa đó, mới hôm qua, người ta còn yêu thích trọng vọng, nhưng hôm nay, thì cũng bông hoa đó, lại bị người ta hất hủi rẻ khinh. Đức Phật dùng hoa để dụ cho sự kết giao với bạn bè cũng thế. Khi ta còn giàu sang (như đóa hoa còn tươi tốt), thì lắm bạn nhiều bè, tới lui giao hảo, tiệc tùng chén tạc chén thù, vui cười hỷ hạ. Nhưng đến khi ta bị sa cơ thất thế, nghèo hèn túng thiếu (như hoa héo tàn), thì bạn bè ai nấy cũng lánh xa, không một người nào dám cho ta thấy mặt. Quả đúng như những câu ca dao đã nói:
Khi vui thì vỗ tay vào
Đến khi hoạn nạn thì nào có ai.
Hay:
Còn tiền còn bạc còn đệ tử
Hết tiền hết bạc hết ông tôi.
Thế thái nhơn tình là thế! Tình đời bạc bẽo là thế ấy!
2. Thế nào là kết bạn như cân?
Kết bạn như cân là vì cái cân muốn cho 2 quả cân thăng bằng với nhau, thì ta phải để trên đó hai trọng lượng bằng nhau. Nếu một cái nặng, một cái nhẹ, tất nhiên là cái cân sẽ không cân bằng. Phật dạy, kết bạn như cân cũng thế. Khi giao tiếp bạn bè, đôi bên phải giữ cho cân bằng nhau. Người đời thường nói: “Bánh ít đi, thì bánh qui lại”. Hay: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đó là nguyên tắc kết bạn, nếu ta muốn giữ cho tình bạn được lâu dài. Còn nếu như bánh ít cứ đi hoài mà bánh qui thì bặt mù tăm tít không thấy lại, tất nhiên, cán cân đã bị chênh lệch rồi và như thế, thì sớm muộn gì tình bạn cũng sẽ bị tan rã thôi! Nếu muốn giữ cho tình bạn được lâu bền, thì không cách gì hơn là ta phải theo nguyên tắc đó.
Than ôi!
Bánh ít cứ mãi đi hoài
Bánh qui không thấy mặt mày tăm hơi
Tình bạn như thế hết chơi!
Cán cân chênh lệch còn chơi nỗi gì!
3. Thế nào là kết bạn như đất?
Vì đất là nơi sản sanh ra muôn vật. Là chỗ vạn vật nương tựa an ổn. Dùng đất để dụ cho người bạn tốt đáng cho chúng ta giao du qua lại. Khi ta chơi với bạn tốt, lòng ta cảm thấy an ổn vui vẻ hơn. Vì người bạn tốt, như là một thiện hữu tri thức, đáng cho ta tin cậy nương nhờ. Như đất là chỗ cho muôn loài nương tựa. Bạn tốt là người sẵn sàng giúp đở ta khi ta gặp cơn hoạn nạn. Họ là người chia sẻ đắng cay ngọt bùi với ta. Họ là người hiểu và thông cảm ta hơn ai hết. Chính họ mới là người đáng cho ta tin cậy gởi gắm tâm sự. Những lúc lòng ta bị rối bời, chính họ là người an ủi ta. Họ không giống như người bạn xấu, lúc ta gặp hoạn nạn, thì họ lại ngoảnh mặt làm ngơ. Do đó, bạn tốt là bạn mà ta cần giao du. Giao du thân mật, để hôm sớm có nhau. Tương thân tương trợ và tương kính nhau. Điều ta nên nhớ, chơi bạn dù thân mật đến đâu, cũng phải giữ sự tương kính nhau. Có tương kính, thì tình bạn tốt mới được lâu dài. Thân nhau không có nghĩa là lợi dụng nhau. Nếu một trong hai, có ý đồ lợi dụng, thì chắc chắn, tình bạn sẽ bị nứt rạn sứt mẻ ngay. Dù cho bạn tốt tới đâu, cũng không thể nào bền lâu được. Cũng như đất, tuy rắn chắc, nhưng có đôi khi cũng bị sụp lở, nếu chúng ta đào moi hẩm sâu vào. Cho nên, muốn giữ tình bạn tốt được lâu dài, thì ta không nên có ý đồ lợi dụng.
4. Thế nào là kết bạn như núi?
Vì núi là nơi an toàn nhứt để cho chim muông bay về làm tổ. Nơi đó, vì ít người lai vãng. Dùng núi để dụ cho người có đức hạnh. Vì người có đầy đủ đức hạnh, mới xứng đáng cho chúng ta nương về học hỏi. Như chim bay về núi cảm thấy rất an toàn. Chúng không phập phòng lo sợ bị bắt giết. Quả thật, sống gần gũi với người thật sự có đạo đức, thì ta cảm thấy có rất nhiều lợi lạc an vui. Một lời dạy của họ, như là kim chỉ nam để chúng ta noi theo mà thực hiện. Bởi người có đạo đức là người có trí huệ. Gần họ càng lâu, đạo đức ta càng sâu dầy và trí huệ ta càng khai phát. Vì ta học hỏi nơi họ rất nhiều. Quả đúng với câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” .
Qua bốn hạng người trên, hai hạng người sau, Phật khuyên ta nên giao du gần gũi. Càng gần gũi họ, ta càng có thêm nhiều lợi ích trong sự tu hành cũng như trong sự giao tiếp.
Pháp cú trên, Phật dạy chúng ta về cách kết bạn. Trên đời nầy không ai là không có bạn. Nhưng bạn cũng có nhiều thành phần khác nhau. Song chung quy cũng không ngoài hai hạng người: tốt và xấu hay thiện và ác. Ở đây, Phật dạy chúng ta nên kết bạn với người hơn mình. Tại sao Phật khuyên ta nên kết bạn với người hơn mình? Điều nầy, thiết nghĩ cũng không có gì khó hiểu. Đối với những người hơn mình, như hơn về: đạo đức, tánh tình, kiến thức v.v thì ta nên giao du gần gũi họ để học hỏi. Nhờ gần họ, mà ta càng ngày càng có thêm những đức tánh tốt và kiến thức.
Tổ Qui Sơn dạy: “Đi xa cần nương bạn lành, thường thường trông nom tai mắt, ở đâu cũng phải chọn bạn, mỗi giờ nghe được những giờ chưa nghe. Cho nên có câu: Sanh ta nhờ cha mẹ, nên ta nhờ bạn lành. Nương gần người bạn lành như đi trong sương móc; tuy không ướt áo, nhưng mỗi giờ có thấm nhuần. Ngược lại, quen gần người ác, thêm chỗ tri kiến ác, sớm tối làm ác, mắc báo trước mặt, chết rồi trầm luân, một phen mất thân người, muôn kiếp không trở lại” (Bản dịch của Hòa Thượng Hành Trụ, trong quyển Sa Di Luật Giải, trang 537).
Câu nói: “Nương gần bạn lành như đi trong sương móc, tuy không ướt áo nhưng mỗi giờ có thấm nhuần”. Thật vậy, sáng sớm, bước ra ngoài trời, lúc đầu, ta không cảm thấy gì thấm ướt. Nhưng đi lâu, ta sẽ cảm nghe ướt lạnh. Gần gũi với bạn cũng thế. Nếu gần người hiền người tốt, thì ít nhiều gì, ta cũng ảnh hưởng những đức tánh hiền tốt của họ. Ngược lại, gần với kẻ xấu cũng thế. Vì tâm vô thường, nên rất dễ tiêm nhiễm. Sống chung với người tốt, có kiến thức rộng ta học hỏi ở nơi họ rất nhiều. Nhứt là qua việc hành xử của họ. Những gì ta không hiểu, hỏi họ, họ sẵn sàng chỉ giúp cho ta. Nên nói: “Học thầy không tầy học bạn” là thế. Họ không phải là hạng người ích kỷ. Họ là mẫu người có tấm lòng bao dung độ lượng. Vì họ là người có đạo đức, nên hành động, ngôn từ của họ cũng toát ra từ bản chất đạo đức. Vì thế, gần họ ta cảm thấy vui tươi mát mẻ. Họ không phải là hạng người mưa nắng bất thường. Họ là người khiêm tốn và luôn nhã nhặn với mọi người. Lời nói của họ rất hiền từ và mềm mỏng. Họ không khoác lác phô trương bản ngã. Ngần ấy đức tánh tốt, cũng đủ cho chúng ta bái phục mà kết giao học hỏi. Bởi vậy, Phật dạy ta nên kết thân với hạng người nầy. Vì Phật quá hiểu rõ tâm lý con người. Câu nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, đó là lời nói đầy kinh nghiệm của người xưa. Vì người xưa cũng đã quá hiểu rõ tâm lý dễ nhiễm nầy của con người. Ta cần học hỏi cái túi khôn của loài người, nhứt là đối với người xưa.
Tiếp theo, Phật bảo: “Ta nên kết bạn với kẻ ngang mình”. Tại sao vậy? Vì người ngang ta có nghĩa là họ dễ cảm thông với ta hơn. Họ có cùng trình độ hiểu biết như ta. Sống chung gần gũi nhau, sự cảm thông nhau rất là quan trọng. Thiếu sự cảm thông tình bạn dễ bị sứt mẻ. Cảm thông qua nhiều phương diện như trình độ, kiến thức, tánh tình, đạo đức v.v. Sống chung với nhau, không có gì bằng hiểu, thương và cảm thông nhau. Ta nói người hiểu, người nói ta nhận. Cảm thông từ ngôn ngữ và hành động. Cùng trình độ hiểu biết với nhau thì thật là dễ sống dễ thở.
Ngược lại, nếu ta kết giao với những người có trình độ hiểu biết quá kém, họ có những thái độ cứng đầu, ngang bướng, khó dạy, thì chỉ càng làm cho ta thêm bực mình mà thôi. Sống chung với những người nầy, lòng ta càng thêm phiền não. Chẳng những ta không học hỏi ở nơi họ điều gì, mà trái lại, họ còn làm cho ta càng ngày càng thêm u tối. Vì sao? Vì họ làm điều gì đó, ta cảm thấy khó chịu, không nhẫn nhịn được, thế là ta ăn thua đủ với họ. Như thế, có phải là ta đã hạ mình xuống thấp như họ không. Ở đây, ta nên hiểu về cách kết giao bạn, chớ không phải là việc cảm hóa. Xin chớ lầm lẫn điều nầy. Điều chúng ta nên nhớ phẩm mà chúng ta đang học đây có tựa đề là “Phẩm Ngu” hay kẻ “Khờ dại”. Nếu là người trí, ta không thể kết giao chơi thân với người có trình độ thấp hơn ta. Nói rõ hơn, theo đây, là kẻ ngu hơn ta nhiều. Vì gần gũi chơi thân với họ, lâu ngày sẽ xảy ra lắm chuyện phiền phức không vui. Tốt hơn hết là ta nên tránh họ trước là hay hơn. Ta nên học và làm theo lời Khổng Tử dạy: “Kính nhi viễn chi”. Nghĩa là ta vẫn kính trọng họ. Ta không tỏ thái độ khi dễ xem thường họ. Ta rất thương họ, nhưng không kết thân với họ được. Và ta nên tránh xa họ. Vì trình độ của họ quá kém, nên rất khó hiểu nhau để làm bạn đồng hành. Nếu trường hợp ta không có bạn để thân giao, thì thà không có còn hơn là có người quá đần độn dốt nát. Bởi thế, nên kế tiếp Phật mới nói: “Thà quyết chí ở một mình tốt hơn kết bạn với người ngu muội”. Điều nầy, nếu chúng ta bình tâm suy nghiệm, thì quả thật đúng như thế. Phật thường dạy: “Nói pháp cho người ngu nghe, như nói với kẻ điếc”. Kẻ đã điếc, mình có nói gì họ cũng chẳng thèm nghe. Người ngu cũng thế. Mình nói gì họ cũng không hiểu, như thế, thì có khác gì là kẻ điếc kia. Cho nên, càng gần gũi với họ, chỉ tạo thêm cho mình nhiều sự bực mình mà thôi.
Ở thế gian, có nhiều cặp vợ chồng luôn có sự bất hòa cải vả với nhau hoài, phần lớn cũng do trình độ quá chênh lệch mà ra. Như chồng có bằng cử nhân, trong khi đó, thì người vợ chưa xong cấp tiểu học. Như thế, thì thử hỏi làm sao sống chung cho được? Bởi vậy, có nhiều người nói: “Thà ở vậy còn hơn”. Chớ sống chung sao được. Chồng nói gà, vợ hiểu vịt. Vì trình độ hiểu biết không tương đồng rất khó cảm thông nhau. Cho nên, muốn sống chung được lâu bền, thì trình độ học hỏi kiến thức phải ngang nhau. Như thế, thì không ai coi thường và khinh rẻ ai. Đó là một nguyên tắc gần như là một định lý muôn đời. Cho nên qua pháp cú trên, Phật cho chúng ta một bài học về sự kết bạn. Sống không thể không có bạn. Dù người có khó tánh đến đâu, ít nhiều gì cũng có một hai người bạn. Chả lẽ suốt cuộc đời mình sống thu mình lẻ loi như thế. Tục ngữ có câu: “Nước trong quá không cá, người xét nét quá không bạn”. Thật vậy, trong trường đời cũng như trường đạo, người nào quá xét nét, đắn đo, khó tánh thì người đó chỉ có nước sống một mình mà thôi. Ai dám bảo đảm mình luôn luôn mạnh khỏe. Nếu là người tu không có gia đình, thì phải cần đến bạn đạo đồng tu. Vì bạn đồng tu cùng đồng lý tưởng.
Do đó, rất cần trong việc giúp đỡ lẫn nhau khi đau yếu bệnh hoạn. Câu nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Láng giềng gần tuy họ không là ruột thịt gì với ta, như khi ta hữu sự mà chờ tới bà con ở xa đến giúp, thì ta đã chết mất rồi. Vì vậy, người bạn sống bên cạnh ta, ta nên quý trọng tương kính giúp đở cho nhau. Nếu bạn có làm điều gì lầm lỗi, ta không vui, thì ta nên tìm cách khéo léo giải bày. Xong rồi, ta nên vui vẻ buông bỏ. Muốn buông bỏ, thì phải có hiểu và thương. Thiếu hai yếu tố quan trọng nầy, đừng mong giữ tình bạn được lâu dài. Chơi với bạn mà không hiểu được bạn mình, tốt hơn là đừng thân giao. Một điều tối kỵ nhứt là ta không nên đem chuyện của bạn mình ra để bêu xấu cho người khác biết. Đây là một hành động rất thấp hèn. Đạo đức và lương tâm không cho phép ta hành xử như thế. Như trên đã nói, việc kết bạn cũng là điều quan trọng. Thế nên, ta cần phải chọn bạn mà chơi. Nhưng khi đã chọn rồi, thì ta không nên chơi gát bạn hay dùng những mánh khóe vặt vãnh để lợi dụng bạn hoặc hại bạn. Điều tối kỵ là nói xấu bạn, một khi tình bạn đã bị sứt mẻ. Đừng có:
“Khi vui trái ấu cũng tròn
Khi ghét bồ hòn cũng méo”
Hay:
“Thương nhau thương cả đường đi
ghét nhau ghét cả tôn ti họ hàng”.
Tệ hại hơn nữa là “Uốn cong ba tấc lưỡi” để đâm sau lưng bạn mình. Hành động đó thật là vô liêm sỉ! Người như thế, thật không có chút lương tâm đạo đức. Lương tâm đạo đức không có, thì nói chi đến việc tu chứng cao xa! Đối với những hạng người nầy, ta nên tránh xa họ còn hơn tránh xa hầm lửa hay miệng rắn độc vậy.
62. “Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu.”
63. “Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu.”Lược giải
62. “Đây là con ta; đây là tài sản ta” : Kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản ta?
The fool worries, thinking, “I have sons, I have wealth”. Indeed, when he himself is not his own, whence are sons, whence is wealth?
Kệ Tụng
“Đây con tôi, tiền tôi”
Người ngu lo nghĩ vậy
Tự ta, ta không có
Con đâu, tiền của đâu?
Lược giảng
Căn bản đau khổ của kiếp người là do chấp ngã mà ra. Trong Kinh, dù Tiểu thừa hay Đại thừa, Phật đều lặp tới lặp lui về giáo lý căn bản nầy. Phật muốn lột trần cho chúng ta thấy cái bề sâu của đau khổ. Bản tánh của chúng sanh là hay khinh lờn và dễ duôi. Phật nhắc tới nhắc lui mãi để cho chúng ta phải lưu tâm mà tư duy quán sát thật kỹ về lý vô ngã nầy. Đối với người ngu, trong đó có chúng ta, thì mãi chấp chặt những gì mình đã gây tạo. Như con cái, tiền bạc của cải v.v. là những thứ ta luôn coi trọng. Ta quá đặt nặng và tham chấp. Nhưng ta quên rằng, chính bản thân ta còn không thật có, nói chi đến những gì ngoài ta mà có thật sao? Phật bảo cái nỗi khổ của con lạc đà kéo nặng suốt đời suốt kiếp cũng chưa gọi là khổ. Chỉ có những kẻ “mê muội chấp ngã” mới đáng gọi là khổ. Sự việc nghe qua đôi lần ta cho là nhàm, nhưng giải quyết được sự việc đó cho đến nơi đến chốn, thì suốt cả đời ta chưa chắc đã làm được. Khác gì câu chuyện giữa Thiền sư Ô Sào và ông Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị hay còn gọi là Bạch Lạc Thiên. Ông làm quan ở vào thời đại thạnh Đường ở Trung Quốc (772- 846). Ông là một vị quan nổi tiếng thanh liêm, công minh. Ông cũng còn là một thi nhân nổi tiếng. Một hôm, ông tìm đến để yết kiến Thiền Sư Ô Sào. Khi đến nơi, ông thấy Thiền Sư Ô Sào đang ngồi thiền ở trên chảng cây có ba nhánh và chỗ Thiền sư ngồi y như cái ổ quạ. Vì lẽ đó, mà người ta gọi ông là Thiền sư Ô Sào. Bấy giờ, ông đứng dưới ngước mắt nhìn lên và hỏi:
Bạch Thiền Sư, con từ phương xa lặn lội đến đây, chỉ xin hỏi Thiền Sư một câu và xin Thiền Sư trả lời cho con một cách tóm tắt hết cái yếu lý của Phật pháp để con y theo đó mà tu hành.
- Được! Ông cứ hỏi đi.
- Bạch Thiền Sư phải tu hành như thế nào mới hết khổ?
- Thiền Sư liền nói một bài kệ của Phật Ca Diếp:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ ý mình cho trong sạch
Đó là lời chư Phật dạy.
Nghe qua, ông mỉm cười trề môi và nói:
- Thưa Thiền Sư bài kệ mà Ngài vừa nói, thật ra đứa con nít tám tuổi còn biết và thuộc nằm lòng, có gì là quan trọng đâu.
- Ậy! Đứa con nít tám tuổi, tuy nó thuộc nằm lòng, nhưng chắc gì ông già 80 tuổi làm được.
Ông Bạch Cư Dị muốn Thiền Sư Ô Sào nói cho một câu tóm hết cái yếu lý của Phật pháp. Nhưng khi Thiền Sư nói, thì ông lại tỏ ý chê bai, cho rằng câu nói đó trẻ con đều biết. Quả thật, điều đó chứng tỏ ông chưa hiểu được yếu lý thâm huyền của bài kệ. Bài kệ trên đã tóm tắt hết giáo điển của Phật giáo. Vì quá quan trọng, cho nên chư Phật nào cũng dạy như thế.
Trở lại, pháp cú trên, Phật nhấn mạnh cho chúng ta biết, cái lầm chấp của kẻ ngu muội là như thế. Tại sao ta phải cam tâm làm kiếp ngu muội mãi! Đời người, không ai tự vỗ ngực cho mình là kẻ hạnh phúc. Có ai trong ta, dám quả quyết rằng mình không khổ. Biết khổ, chán khổ mà không tu để đoạn trừ phiền não, thì ta tự mâu thuẫn lấy ta. Lẽ ra biết khổ, ta phải cố gắng vươn lên để tìm phương thoát khổ. Muốn thoát khổ, không ai cởi trói cho ta bằng chính ta. Chúng ta hãy nghe câu chuyện sau đây giữa Tổ Tăng Xán và Đạo Tín.
- “Đời nhà Tùy khoảng niên hiệu Khai Hoàng có ông Sa di hiệu Đạo Tín được 14 tuổi đến lễ Sư thưa:
- Xin Hòa Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
Sư hỏi:
- Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc.
- Đã không trói buộc, đâu cần giải thoát.
Đạo Tín nghe liền ngộ.
Từ đây, Đạo Tín theo hầu hạ Sư suốt chín năm”.
(Tổ Thiền Tông, soạn giả Thích Thanh Từ)
Tâm lý con người từ xưa nay, thường đổ trút cho ngoại cảnh. Vì cảnh duyên trói buộc, nên không thể tu được. Thật ra, cảnh duyên không trói buộc được ta, mà chính ta tự trói ta. Những phiền não rối rắm trong tâm ta nó trói buộc ta. Chính nó làm cho ta phải nhức đầu đau khổ suốt ngày. Tâm trạng của Sa di Đạo Tín, thật chẳng khác gì tâm trạng của tất cả chúng ta hiện nay. Con người ai cũng muốn thoát khổ. Song có điều, lúc nhỏ, ta không được cái diễm phúc lớn lao như Ngài. Ta không có được cái căn duyên sâu dầy Phật pháp như Ngài. Nhờ cái căn duyên trồng sâu của Ngài, nên khi gặp Tổ, Tổ nói cho một câu là Ngài tỏ ngộ ngay. Đối với chúng ta, vì nghiệp chướng quá sâu dầy, nên cũng nghe câu nói đó, mà tâm trí ta không chút gì khai phát tỏ ngộ. Rõ ràng là chúng ta quá si mê. Dù tâm trạng của chúng ta cũng muốn thoát ly nỗi thống khổ của kiếp người.
Nhưng muốn là một chuyện, còn làm lại là một chuyện khác. Hằng ngày, ta không thường xuyên tỉnh thức để tự cởi trói, mà cứ mãi cầu mong nhờ Phật Tổ cởi trói giùm. Ai còn ôm ấp tâm niệm cầu mong đó, thì thật là trái xa với lời Phật dạy. Bằng chứng, qua câu chuyện trên, Ngài Đạo Tín cầu mong Tổ ban cho pháp giải thoát. Tổ liền hỏi vặn lại: Ai trói ngươi? Một câu hỏi có một năng lực xoáy mạnh vào tâm trí của một chú Sa di, đã từng thao thức ôm ấp nỗi đau khổ vày vò trong tâm thức muốn được giải thoát. Chú cứ ngỡ rằng, sự giải thoát phải nhờ đến bàn tay của phép lạ, hay của một bậc thầy nào đó có đạo lực cao siêu. Nhưng Chú không ngờ rằng, vấn đề mà mình nghĩ bấy lâu nay, hoàn toàn thất vọng. Cho nên trả lời một cách rất thật thà và trung thực rằng: “Không ai trói buộc”. Liền đó, Tổ bồi thêm cho một câu xoáy mạnh vào khả năng tự lực của chính mình, đánh đổ hoàn toàn ý hướng vọng ngoại mong cầu và ỷ lại ở nơi tha nhân. Tổ nói: “Đã không trói buộc, đâu cần giải thoát”. Có trói, mới có mở. Không trói thì mở cái gì? Bản tâm của chúng ta từ xưa nay vốn thanh tịnh sáng suốt, nhưng vì bị phiền não che ngăn, nên không thể hiển lộ. Chỉ cần xoay lại dẹp hết mây mù vô minh, thì mặt trời trí huệ tự nhiên xuất hiện. Như thế, thì có trói, có mở gì đâu? Tự thể bản nhiên là như vậy. Ngay câu nói nầy, chú Sa di Đạo Tín liền tỉnh ngộ ngay. Tất cả đều do mình định đoạt số phận mình, chớ không ai giải quyết thế cho mình. Đó là một yếu lý căn bản của sự tu hành và cũng là một yếu lý của Phật giáo.
63. Ngu mà tự biết ngu[76] tức là có trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là ngu.
A fool who knows his foolishness is wise at least to that extent, but a fool who thinks himself wise is called a fool indeed.
Kệ Tụng
Người ngu nghĩ mình ngu
Nhờ vậy thành có trí
Người ngu tưởng có trí
Thật xứng gọi chí ngu.
Lược giảng
Pháp cú trên, để cho rõ nghĩa, ta tạm tách chia ra làm hai câu để tìm hiểu. Câu một: Ngu mà tự biết ngu tức là có trí. Trong câu nầy, ta nên chú ý ở nơi chữ "Biết". Tại sao phải chú ý ở nơi chữ biết? Như nói người ngủ "Biết" mình thức sao gọi là ngủ? Đã ngủ thì không thức, ngược lại, đã thức thì không ngủ. Không có ai vừa ngủ lại vừa thức. Có chăng, chỉ có kẻ nào ngược kỳ đời, quá điên khùng mới nói như thế. Cho nên chữ "Biết" rất là quan trọng.
Người xưa nói: Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có Biết là sống. Chữ Biết trong câu nói nầy, hàm ý là theo cách xử thế. Biết đây là biết theo thời cơ. Phải biết chìu theo ngọn gió đùa. Nghĩa là có lúc phải biết giả dại; có lúc cần phải biết giả khôn. Giả khôn hay giả dại, chỉ tùy thời qua ải thế thôi. Biết tấn, biết thối để bảo tồn sinh mạng. Chớ “Biết” như kiểu Dương Tu, thì tránh sao khỏi chết dưới tay đa nghi và ác độc của Tào Tháo. Cái biết của Dương Tu, để tỏ ra mình là kẻ khôn hơn chủ. Biết như thế chưa phải là người khôn ngoan thật biết. Chứng tỏ thật khôn, nhưng thật ra là quá dại. Bởi do sử dụng cái biết không đúng chỗ, nên Dương Tu tự rước lấy cái họa vào thân, cuối cùng phải chết dưới tay Tào Tháo. Ở đời không ai muốn kẻ khác hơn mình.
Ngược lại, cái biết trong Phật giáo thì có khác. Cái Biết Phật dạy trên, ý nghĩa thật là sâu sắc thâm trầm. Mình muốn làm kẻ có trí, tất mình phải biết cái ngu của mình. Phải ứng dụng cái Biết thường xuyên trong đời sống, thì đời sống mới có ý nghĩa. Biết đây có thể nói là đồng nghĩa với tỉnh thức.
Con người sống trong tỉnh thức, tất nhiên là con người sáng suốt. Thí dụ: Mình là kẻ đang mắc chứng bệnh gan. Tự biết rõ bệnh trạng của mình, nên tuyệt đối không bao giờ uống rượu mạnh vào để gây ra tác hại cho gan. Nhận biết như thế, thì quả họ là người có trí. Ngược lại, mình đang bị đau như thế, mà vẫn không kiêng cử rượu, cứ uống nhiều rượu vào, bệnh càng ngày càng nặng, thì người đó quả họ là kẻ vô trí. Vì họ không tự biết họ bệnh, giống như người ngu mà không biết họ ngu, cứ ngỡ rằng mình khôn. Lỗi lầm (ngu), mình biết mình có lỗi lầm (trí), tất nhiên mình sám hối không dám tái phạm nữa, đó là người trí.
Chúng ta biết hiện tại chúng ta đang đau khổ, nên cần phải tìm cách thoát khổ. Kẻ đang say sưa nghiện ngập rượu chè hoặc ma túy (ngu) mà họ biết việc làm của họ sai (trí). Họ quyết tâm cai nghiện, kết quả họ không còn mang bệnh ghiền nữa. Người như thế quả họ chuyển ngu thành trí, chuyển họa thành phước. Trên đời nầy, không một ai không lầm lỗi. Nhưng lầm lỗi mà biết cải hối sửa đổi, thì không phải người trí là gì? Người như thế, ai dám đánh giá họ là kẻ ngu si. Trừ phi mình không còn biết gì nữa thì kẻ đó mới thật là ngu mê. Ngược lại, mình đang trong cơn mê mà mình tự nói rằng mình là kẻ tỉnh, thì đó mới thật là kẻ điên rồ.
Cho nên câu kế tiếp, Phật mới nói: “Ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là ngu”. Ý của câu nầy giống như: mình là người dân (ngu) mà cả gan tự xưng mình là vua (trí), như vậy, kẻ đó chắc chắn phải bị rơi đầu (đại ngu). Vì họ không biết thân phận của họ là dân (ngu) mà dám ngang nhiên xưng vương (trí) không sợ ai, nên cuối cùng họ bị chết một cách thê thảm. Như kẻ cướp giựt đồ của người khác, bị cảnh sát bắt bỏ tù, như vậy kẻ đó có tự nói mình là kẻ có trí được không? Nếu họ thật là người trí, thì làm gì họ đi cướp giựt đồ của người ta. Quả họ thật là kẻ ngu muội mà dám tự xưng mình là người trí. Như thế không phải ngu là gì!
Cũng thế, trong lãnh vực tu hành, nếu ta chưa diệt hết phiền não mà tự nói ta đã đạt được Niết bàn. Như vậy kẻ đó sẽ như thế nào? Chắc là ta nói kẻ đó là đại ngu. Vì dám nói láo lường gạt mọi người. Tu hành chẳng ra chi mà dám đại ngôn tự cho mình là kẻ chứng Thánh quả. Người như thế, Phật cho đó là Tăng thượng mạn. Hạng người nầy thật là nguy hiểm trong đạo pháp. Vì lợi dưỡng, họ bất chấp tội lỗi, miễn sao họ được vinh thân phì da thì thôi. Cho nên mới nói: “Kẻ ngu mà cho rằng mình trí, chính đó mới thật là kẻ đại ngu”.
64. “Người ngu, dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh.”
65. “Người trí, dầu một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.”Lược giải
64. Người ngu suốt đời gần gũi người trí[77] , vẫn chẳng hiểu gì Chánh pháp, ví như cái muỗng múc thuốc thang luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc.
Though all his life a fool associates with a wise man, he no more comprehends the Truth than a spoon tastes the flavour of the soup.
Kệ Tụng
Người ngu, dầu trọn đời
Thân cận người có trí
Khó lòng biết chánh pháp
Như muỗng đối vị bùi
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật cho ta thấy một con người quá ngu đần. Ngu đần đến nỗi, dù họ được cơ may luôn sống bên cạnh người trí mà họ không hiểu gì chánh pháp. Khác nào như một kẻ tối ngày chỉ có biết uống rượu say mèm, dù kẻ đó đang sống bên cạnh người tỉnh thức, nhưng họ say vẫn cứ say. Họ là hạng người không có chút tự trọng cầu tiến.
Đối với hạng người nầy, Phật thí dụ: “Ví như cái muỗng múc thuốc thang luôn mà (cái muỗng) chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc”. Nếu ta là người trí, thì có thương xót tội nghiệp cho cái muỗng đó lắm không?!!! Hay là ta buồn cười cho cái muỗng đó? Chắc không ai lại không thương xót và buồn cười. Tối ngày múc thuốc mà không biết chút nào về mùi vị của thuốc cả. Coi chừng, không khéo ta giống như cái muỗng múc thuốc đó. Có người còn tệ hơn cái muỗng, là vì chưa bao giờ được cái hân hạnh múc thuốc.
Nhìn lại, thân phận ta hiện giờ có khác gì cái muỗng múc thuốc đó đâu! Ta đang sống trong chánh pháp, được duyên phúc rất thù thắng làm người xuất gia, mà thật sự ta có hiểu gì về Phật pháp? Ta còn là kẻ đang đi trong đêm tối dày mịt của vô minh. Tối ngày ta đang hít thở không khí trong lành của chánh pháp, mà ta không biết gì về giá trị của cái không khí trong lành đó! Thật là tội nghiệp cho ta quá! Như thế ta là kẻ ngu hay người trí?
Quả thật ta đang sống trên đống vàng mà ta cứ than nghèo. Ta cứ muốn làm kiếp sống lang thang như gã cùng tử. Lỗi đó do ai? Do vì ta ngu mê hay do Thầy Tổ không chỉ dạy? Ta cứ nói ta là kẻ đi tìm vàng, mà kỳ thật ta hiện đang sống trong mỏ vàng. Tại sao ta không chịu nỗ lực khai phát mỏ vàng đó? Có phải ta dại khờ lắm không?! Phật Tổ hay các bậc thiện hữu tri thức đã tận tình, tận lực chỉ cho ta biết rõ, trong mỏ vàng đó có chất vàng ròng. Thế mà, ta vẫn xem thường lời dạy đó. Ta không bao giờ chịu nhận. Hằng ngày ta chỉ nhận sỏi đá mà cho là vàng. Ấy! Mới chết! Bởi vậy Phật Tổ mới cho ta là kẻ ngu. Đó là nói nghĩa sâu trong việc tu hành.
Nếu nói cụ thể hơn, ta tự hỏi: “Tại sao suốt đời ta sống bên cạnh người trí, mà nhìn lại ta dốt vẫn dốt?” Có phải người trí không chịu dạy cho ta không? Hay là tại ta không chịu học hỏi? Cái dốt đó do đâu? Tại ta ngu hay tại người trí? Người trí nói ở đây, tức thiện hữu tri thức của ta, lúc nào họ cũng thật tâm sẵn sàng chỉ dạy cho ta. Nhưng ta nào có chịu học hỏi. Không học hỏi, thì làm sao thông hiểu chánh pháp Phật dạy. Như vậy, có phải là ta khờ lắm không? Có phải mình tự phụ cái phước duyên của mình lắm không? Ta hãy tự tra vấn lại ta, ta đang ở đâu? Và ta đang làm gì trong Phật pháp? Tương lai của ta như thế nào? Nếu ta cứ sống thả trôi theo dòng thời gian, mặc cho ngày tháng qua đi, không chút ý thức luyến tiếc, đến khi gặp việc cần làm, đạo pháp cần đến ta, thì ta làm sao đáp ứng được đây?! Như thế, có đáng trách ta lắm không? Không hiểu Phật pháp, tự độ ta còn chưa xong, nói chi đến chuyện độ người. Nghĩ thế, mình có thật đáng thương mình lắm không? Nếu là người thật thương mình, thì tại sao mình sống bên cạnh người trí mà mình phải cam tâm chịu dốt? Có đáng trách lắm không? Ở đây, Phật thương xót mà thức tỉnh chúng ta hãy cố gắng vươn lên để làm người trí. Chả lẽ, suốt đời mãn kiếp mình cam tâm làm kẻ ngu. Nếu mình vô phước không sống gần gũi với những người hiểu biết Phật pháp hơn mình, thì điều đó không nói làm chi. Tại vì mình là kẻ bạc phước.
Ngược lại, có người được cái diễm phúc rất lớn là sống bên cạnh của một bậc Thầy uyên thâm Phật pháp, thế mà lại lơ là trong việc học hỏi. Ta tu học là cho ta, chớ đâu phải ta tu học cho ai nhờ. Thí như ta có ăn, thì ta mới no, còn bằng không, thì ta cứ đói. Tất cả đều do ta quyết định. Ta tự định đoạt đời ta. Ta là tài xế của chiếc xe đời ta. Nếu ta khôn khéo, thì ta lái càng ngày càng tiến bộ xa trên đường đạo. Ta phải tự ý thức bổn phận của ta. Khi khoác vào mình chiếc áo nâu là mình đã tuyên bố với mọi người, mình đang đi trên con đường giác ngộ. Cao đẹp hơn nữa là mình sẽ cứu độ mọi người được giác ngộ như mình. Đó là bản nguyện của người tu theo hạnh xuất thế. Nghĩa là mình đang quyết tâm đi theo con đường mòn mà Phật Tổ đã đi. Dù con đường đó phải gặp nhiều chướng duyên thử thách. Nhưng một khi đã tự chọn rồi, thì ta nhứt quyết thẳng tiến.
Một sự chiến thắng nào, mà không đổi lấy xương máu. Một sự thành công nào mà không trải qua nhiều thất bại. Thật vậy, thất bại là mẹ đẻ của thành công. Ta phải làm sao để xứng đáng đáp trả ân sâu của những người thiết thân lo cho ta có cuộc sống an ổn. Một đời sống thanh thoát nhẹ nhàng, không phải bạc vàng mua được. Mong tất cả chúng ta hãy cố gắng vươn lên quyết tâm làm người trí. Muốn thế, thì không gì hơn là ta phải nỗ lực tu học, dù còn một chút hơi tàn! Bằng không, thì thật là đáng tội nghiệp và đáng thương xót cho ta biết bao!
Thương mà nhắc nhở cho nhau
Gắng công tu học trồng sâu căn lành
Dẹp lòng tự ái đua tranh
Hơn nhau một tiếng khổ dành về sau.
Thật là duyên phúc biết bao!
Ngày nay mới được cạo đầu xuất gia
Xem nhau huynh đệ một nhà
Chí bền tu học Lục hòa giữ trau
Nhớ ơn Thầy Tổ trước sau
Quyết lòng tu học mới mau đáp đền.
65. Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được chánh pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc thang đã biết ngay được mùi vị của thuốc.
Though only for a moment a discerning person associates with a wise man, quickly he comprehends the Truth, just as the tongue tastes the flavour of the soup.
Kệ Tụng
Người trí dầu một khắc
Thân cận người có trí
Biết ngay chân diệu pháp
Như lưỡi nếm vị bùi.
Lược giảng
Người muốn có được trí huệ, không phải tự nhiên mà có. Ngoại trừ những bậc “thần đồng” ra, còn lại tất cả đều phải do học hỏi mà có được. Khi nói đến trí huệ, người ta hay dễ bị lầm lẫn lộn lạo giữa trí huệ trong nhà Phật nói và trí huệ thế gian. Trước khi giải thích ý nghĩa của pháp cú trên, thiết nghĩ, trước hết, chúng ta cũng cần nên biện biệt rõ giữa trí huệ thế gian và trí huệ Phật pháp. Ở thế gian, những ai học rộng hiểu nhiều, tinh thông nhiều vấn đề, phát minh khám phá nhiều điều mới lạ, thì người ta cho những người đó là thông minh trí huệ.
Do đó, để tránh sự lầm lẫn nầy, trong nhà Phật nói là “Trí huệ Bát nhã”. Hay nói cách khác là “chơn trí diệu huệ”. Vì đây là thứ trí huệ siêu xuất thế gian. Hai chữ trí huệ mà người đời dùng, thật ra cũng chưa hẳn là đúng. Muốn nói cho đúng phải gọi là trí thức. Bởi vì trí thức là do thu góp tích tụ những sở học mà có, tức vay mượn ở bên ngoài vào. Do đó mà nó còn trong vòng vọng chấp phân biệt. Nó thuộc về loại “thế trí biện thông”. Phật cho đó là một nạn trong tám nạn (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, manh lung ám á, Phật tiền, Phật hậu, sanh cõi trời trường thọ và thế trí biện thông) Tại sao gọi là nạn? Vì những nơi nầy không gặp được Phật pháp để tu hành. Ngược lại, trí huệ trong nhà Phật nói, phải là từ trong chơn tánh mà hiển lộ. Đó là nói cái trí huệ tột cùng. Thứ trí huệ nầy, nhờ công năng quán chiếu thiền định mà được. Nghĩa là không nhờ vay mượn bên ngoài. Trí huệ nầy, có tên khác là Vô sư trí. Tức cái Trí không do học hỏi nhờ thầy chỉ dạy mà được. Còn thứ trí huệ do học hỏi nghiên tầm chánh pháp mà được, thì nhà Phật gọi đó là Hữu sư trí. Nghĩa là cái trí cần phải có thầy hướng dẫn chỉ dạy.
Tuy nhiên, trí huệ trong nhà Phật cũng có chia ra nhiều loại: Trí huệ của phàm phu, trí huệ của hàng Nhị thừa, trí huệ của Bồ tát và cuối cùng là trí huệ của Phật. Đây là căn cứ vào trình độ của sự tu chứng sâu cạn mà có sai khác. Như vậy, trí huệ dù sâu hay cạn gì, hành giả cũng phải trải qua một tiến trình tu tập già dặn mới có được. Do đó, một người khi đã có một chiều sâu kích thước trí huệ rồi, người ta có thể đo đạc được những gì người khác nói năng hay hành động. Sự nhận hiểu của họ đối với các pháp một cách rất sâu sắc bén nhạy. Cái nhìn, cái hiểu của họ khác hơn người thường. Vì trí huệ của họ lúc nào cũng minh mẫn sáng suốt. Họ là người hằng sống trong tỉnh thức. Họ sống có chiều sâu. Họ không hời hợt trong sự nhận thức. Vì hằng sống trong chánh niệm như thế, nên đối với mọi sự vật xảy ra chung quanh, không một vật nào có thể lừa gạt họ được. Cho nên, khi người trí sống chung với người trí, một lời nói hay một cử chỉ của họ, thì cả hai hiểu và cảm thông nhau một cách dễ dàng. Vì cả hai đều có một trình độ lanh lợi bén nhạy ngang nhau. Một cái nhìn hay một cái nháy mắt của người nầy, thì người kia hiểu ngay. Đôi khi họ không cần phải nói ra lời. Nhiều lúc họ nói đông, nói tây, mà họ vẫn hiểu nhau. Điều nầy, khi đọc sách thiền, ta thấy có rất nhiều câu chuyện thuộc dạng thức nầy. Như trường hợp giữa Tổ Bá Trượng và Thiền sư Linh Hựu.
Một hôm, Sư đứng hầu Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:
- Ai?
Sư thưa:
- Con, Linh Hựu.
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa:
- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái nầy là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.
(Trích trong tập Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng trang 320, do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn)
Một trường hợp khác, câu chuyện xảy ra giữa Mã Tổ Đạo Nhứt và ông cư sĩ Bàng long Uẩn như sau:
Một hôm ông đến tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
- Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?
- Xin cho con theo sở nguyện không cạo tóc xuất gia.
Ông hỏi Mã Tổ:
- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Mã Tổ bảo:
- Đợi miệng ông hút hết nước Giang Tây, ta sẽ nói với ông.
Ngay câu nói nầy, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở Mã Tổ hai năm.
(Trích trong tập Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng trang 271 do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn).
Còn và còn rất nhiều những mẫu chuyện tương tợ như thế. Qua hai trường hợp dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy, khi trình độ của hai người có cùng một cung bậc ngang nhau, thì họ chỉ gần gũi với nhau trong giây lát là họ đã hiểu và cảm thông nhau ngay. Ngược lại, một người trí sống chung với người ngu, dù cho trải qua bao nhiêu năm, người ngu cũng không nhận hiểu sâu xa ở nơi chánh pháp. Bởi thế, nên pháp cú trên Phật dạy rất rõ: Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được chánh pháp (chỉ cho Bản tâm) chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc thang đã biết ngay được mùi vị của thuốc. Trong đây, Phật cho chúng ta thấy một thí dụ rất cụ thể. “Như lưỡi nếm vị bùi”. Vừa nếm là biết ngay mùi vị không cần phải trải qua phân biệt mới biết. Còn người ngu thì khác. Khi nếm, sanh tâm phân biệt ngon dở đủ thứ, từ đó mới sanh ra có thương ghét rồi tạo nghiệp thọ khổ.
66. “Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.”
67. “Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục.”Lược giải
66. Kẻ phàm phu không giác ngộ[78] nên đi chung với cừu địch[79] một đường. Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp chịu khổ báo.
Fools of little wit are enemies unto themselves as they move about doing evil deeds, the fruits of which are bitter.
Kệ Tụng
Người ngu si ám độn
Bạn đường là kẻ thù
Làm các nghiệp bất thiện
Phải chịu quả đắng cay.
Lược giảng
Phàm phu chúng ta là những người còn đang sống trong vòng vọng nghiệp. Tâm trí chúng ta còn quá si mê tăm tối. Vì si mê, nên chúng ta tạo nhiều nghiệp ác. Chính những nghiệp ác đó, trở thành kẻ thù của chúng ta. Nên Phật nói “đi chung với cừu địch một đường”. Đã đi chung với kẻ thù, thì tâm trí của chúng ta có lúc nào được thảnh thơi đâu! Lúc nào, chúng ta cũng nơm nớp phập phòng lo sợ. Còn kẻ thù, thì lúc nào cũng lo tìm cách hãm hại chúng ta. Ta thử hỏi: tại sao nghiệp ác là kẻ thù? Bởi vì, khi ta gây tạo nghiệp ác, như hành động giết người chẳng hạn, thì chính hành động giết người đó nó sẽ ám ảnh theo ta suốt đời. Dù cho kẻ thù bên ngoài không giết ta, nhưng chính kẻ thù trong tâm ta, nó sẽ hành hạ ta chết dần chết mòn trong mỗi phút giây; giết chết như vậy mới là đau khổ.
Cho nên câu kế tiếp Phật nói: “Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp chịu khổ báo”. Khổ báo nói đây có hai: Một là quả báo hiện đời. Hai là quả báo đời sau. Quả báo hiện đời, như trên đã nói, cái hình ảnh giết người nó mãi bám sát theo ta, không một phút giây nào ta quên lãng. Con người khi lòng sân hận nổi lên, thì thẳng tay hạ sát đối phương bất chấp hậu quả. Nhưng khi hết cơn nóng giận rồi, bấy giờ họ mới ăn năn hối hận. Chính cái ăn năn hối hận nầy, nó làm cho họ phải ray rứt đau khổ suốt đời. Giá khi ấy mà có người giết họ để trả thù, thì có lẽ họ đỡ khổ hơn. Đằng nầy, không ai giết họ mà chính lương tâm họ giết họ. Giả như luật pháp bắt họ tống giam vào trong lao tù chẳng hạn, thì dù cho họ trả cái quả báo ở tù, nhưng họ vẫn đau khổ như thường. Bởi lao ngục chỉ nhốt được xác thân họ thôi, còn cái lao ngục trong tâm họ, nó nhốt và hành hạ họ một cách liên tục. Cái hỏa ngục đó mới là đáng sợ. Nhứt là vào những đêm thanh vắng, bốn bề vắng vẻ tĩnh mịch, bấy giờ trong bóng tối dày đặc đó, chỉ có họ đối diện với lương tâm họ. Dù có chợp mắt đi, nhưng trong giấc ngủ vẫn cứ mãi chập chờn, nửa tỉnh nửa mê. Lúc nào họ cũng thấy kẻ thù bị họ giết như về đòi mạng họ. Sống như thế, thì còn nỗi đau khổ nào hơn! Cái đau thân xác, tuy cũng đau, nhưng còn có lúc lành lặn, còn cái niềm đau tinh thần bị dày xéo, thì biết đến bao giờ mới thật sự hết đây?!!! Quả đó là một niềm đau nhức nhối dai dẳng không dứt.
Đó là nói quả báo địa ngục hiện đời. Còn quả báo đời sau thì sao? Lẽ tất nhiên cũng phải trả. Bởi vì ác lai phải có ác báo. Đó là luật nhân quả rất công bằng. Không chạy đâu thoát khỏi! Cho nên pháp cú trên, đức Phật cảnh tỉnh phàm phu chúng ta, cần phải sớm mau thức tỉnh tu hành. Không nên gây tạo nghiệp ác. Càng gây tạo nghiệp ác là ta càng đi chung đường với kẻ thù và cuối cùng ta sẽ bị kẻ thù sát hại đời ta. Muốn thoát khỏi bàn tay của kẻ thù hãm hại, Phật dạy, ta nên tạo những điều lành. Càng gây tạo những điều lành chừng nào, thì chẳng những ta không gặp kẻ thù hãm hại, mà ta còn thêm nhiều bạn tốt giúp ta chừng nấy. Đồng thời lòng ta cảm thấy rất an vui hạnh phúc. Giữa một cuộc sống an vui hạnh phúc và một cuộc sống đau khổ ngút ngàn, thử hỏi chúng ta nên chọn cuộc sống nào? Chắc hẳn mỗi người trong chúng ta đều có câu trả lời thích đáng.
67. Người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn khóc lóc, nhỏ lệ dầm dề, vì biết mình sẽ phải thọ lấy quả báo tương lai.
Ill done is that action doing which one repents later, and the fruit of which one, weeping, reaps with tears.
Kệ Tụng
Nghiệp làm không chánh thiện
Làm rồi phải ăn năn
Mắt nhuốm lệ khóc than
Tự biết chịu quả báo.
Lược giảng
Ở đời, có lắm kẻ không biết tu hành là gì. Nói đến tu hành, họ còn trề môi chế giễu. Họ cho sự tu hành như là một sự hành hạ xác thân. Thấy ai vào chùa tu, thì họ vội cho là bi quan yếm thế. Tệ hơn nữa, họ kết án là những kẻ chán đời, trốn tránh xã hội. Tu hành là làm trở ngại bước tiến xã hội. Họ huênh hoang dùng nhiều lời lẽ chê bai trách móc. Đôi khi họ còn mạt sát thậm tệ nữa. Nhưng họ quên rằng, chính họ là những kẻ đang tu. Nếu họ không tu, tất nhiên họ tạo nghiệp ác. Một khi đã tạo nghiệp ác, thì làm gì họ được sống yên thân mà phê bình chê bai.
Đối với những người có quan niệm như thế, ta không nên vội trách họ. Chẳng những ta không trách họ, mà ta còn phải quan tâm thương họ nhiều hơn nữa. Chẳng qua, vì họ chưa có đủ cơ duyên để tìm hiểu rõ về chữ “Tu” trong đạo Phật đó thôi. Một khi họ đã hiểu rõ chữ Tu rồi, biết đâu, họ sẽ còn tu hơn chúng ta nữa không chừng. Chừng đó, họ sẽ hối hận ăn năn những lời lẽ mà họ đã khinh miệt chê bai trách móc đó. Vậy tu là gì? Nói gọn, tu là sửa. Sửa cái gì? Và sửa ở đâu? Thưa, sửa những lỗi lầm sái quấy ở nơi ba nghiệp “thân, miệng và ý”. Nếu người biết sửa ở nơi ba nghiệp một cách thường xuyên, thì làm gì có thọ khổ. Nói sửa ba nghiệp mà sửa như thế nào? Trước hết, sửa ở nơi thân nghiệp. Sửa thân nghiệp, thì Phật dạy: “Không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh”. Còn sửa ở nơi cái miệng như thế nào? Phật dạy: “Không nói dối, không nói lời hung dữ, không nói lời thêu dệt và không dùng lời nói gây chia rẽ, ly gián người ta”. Còn sửa ở nơi ý nghiệp như thế nào? Phật dạy: “Bớt tham lam, bớt sân hận và bớt si mê”.
Nói tóm lại, qua ba nghiệp nầy, ta chỉ cần thêm vào chữ “không” ở đầu, thì bảo đảm mọi việc sẽ được an ổn. Chính vì con người quên đi chữ “không” nầy, nên mới có ăn năn, khóc lóc nhỏ lệ dầm dề Chớ nếu luôn nhớ chữ “không” trong mọi hành động tạo tác của ba nghiệp, thì đời ta hạnh phúc biết mấy.
Mới nghe qua, dường như trong chúng ta ai cũng có ý xem thường! Nhưng chúng ta quên rằng, chính mười điều nầy, nếu ta đừng quên chữ “không” như trên đã nói, thì cả nhơn loại sống trong an bình hạnh phúc. Nói hoặc nghe qua thì dễ đó, nhưng khi tiếp xúc với cuộc sống thực tế, thì ta mới thấy giữ và hành được, thật vô cùng khó khăn. Khó khăn gấp trăm ngàn lần. Điều khó khăn như thế, thì tại sao ta lại dám khinh thường?
Chúng ta đừng quên rằng “Mười điều lành nầy là nền tảng căn bản vững chắc nhứt để xây dựng thiên đường nhơn gian”. Cái nền tảng chính yếu như thế, thì thử hỏi tại sao chúng ta dám có ý niệm xem thường? Chính vì cả nhơn loại xem thường nó, nên xã hội luôn luôn đảo điên bất ổn. Chẳng những họ không biết làm lành mà trái lại, họ còn gây tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp ác. Bởi thế, mà cả thế giới đều sống trong sự lo âu sợ hãi. Họ luôn tìm cách đấu đá chém giết lẫn nhau. Như vậy, thử hỏi con người có thật sự văn minh chưa? Người ta chỉ biết chạy đua hơn thua văn minh vật chất, còn “văn minh tinh thần”, thì họ lại lãng quên. Không một ai quan hoài đếm xỉa đến. Thế thì, trách sao nhơn loại sống không khổ đau cho được!
Chẳng những họ gây khổ đau cho nhau trong hiện tại, mà còn kéo dài quả báo khổ đau mãi về sau nữa. Một cá nhân gây tạo nghiệp ác, thì cá nhân trả quả báo. Còn cả nhơn loại gây tạo nghiệp ác thì sao? Đơn giản thôi! Thì cả nhơn loại phải chịu trả quả báo cọng nghiệp chớ sao! Trách ai đây? Trách trời hay trách Phật? Hay tự trách lấy ta? Xin nhớ:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”
(Truyện Kiều)
Chính vì thế, nên Pháp cú trên Phật dạy rất rõ: “Người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn, khóc lóc nhỏ lệ dầm dề, vì biết mình sẽ thọ quả báo tương lai”. Qua lời dạy nầy, nếu chúng ta chỉ cần thêm chữ “Không” vào, thì sẽ chấm dứt khổ đau và sẽ không còn ăn năn, khóc lóc nhỏ lệ dầm dề nữa. Xin thành thật nhắc lại một lần nữa: “Chỉ cần thêm một chữ “Không” vào đầu của mười điều nầy, thì bảo đảm mọi người sẽ không còn thọ khổ trong hiện tại cũng như trong tương lai”.
68. “Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục.”
69. “Người ngu nghĩ là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi,
Người ngu chịu khổ đau.”Lược giải
68. Người tạo các nghiệp thiện, làm xong chẳng chút ăn năn, còn vui mừng hớn hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo[80] tương lai.
Well done is that action doing which one repents not later, and the fruit of which one reaps with delight and happiness.
Kệ Tụng
Nghiệp làm chơn, chánh thiện
Làm rồi không ăn năn
Tâm hoan hỷ đẹp lòng
Tự biết hưởng quả báo.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy ngược lại pháp cú trên. Thay vì chúng sanh tạo những nghiệp ác thọ khổ, ngược lại, cố gắng làm những điều lành thì sẽ được hưởng quả báo an vui. Nói đến điều lành, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên biện biệt qua cho rõ. Nếu không, thì chúng ta cũng dễ lầm nhận.
Thử đặt vấn đề: thế nào là điều lành? Thế nào là điều chẳng lành? Trong Kinh định nghĩa: điều lành là những việc làm nào có lợi cho mình, cho người trong hiện tại cũng như tương lai. Đó là điều lành. Ngược lại là điều ác, điều dữ. Có người nói: lành thì không dữ, dữ thì không lành, hoặc lành là điều hiền, điều tốt Người nói như thế, mới nghe qua, thì dường như đúng, nhưng xét kỹ, thì chưa hẳn thật đúng. Thí dụ: thầy giáo đánh học trò, hành động đó, ai cũng cho là dữ. Chẳng những người ngoài nhìn vào cho là dữ, mà ngay cả chính ông ta cũng ăn năn hối hận việc mình làm. Vì mình là nhà mô phạm, tại sao có hành động như thế? Ngược lại, đứa học trò bị đánh, nó sẽ nhìn thầy giáo với cặp mắt như thế nào? Hẳn là nó sẽ oán giận lắm! Nó cho thầy hung dữ. Nhưng, xét kỹ hành động của thầy giáo có phải dữ không? Chúng ta nên giản trạch cho rõ ràng. Nếu không, thì dễ lầm nhận. Ngược lại, một học sinh tánh tình nghịch ngợm, phá phách, gặp ai nó cũng chọc ghẹo, gây phiền phức cho mọi người. Nhưng, thầy giáo làm thinh, không rầy la trách phạt. Chẳng những không rầy la trách phạt mà còn dịu ngọt với chúng nữa. Như vậy, có phải là hiền không?
Vậy, điều lành điều dữ giá trị như thế nào? Như trên đã định nghĩa về điều lành và điều dữ. Muốn biết lành dữ, cần phải đặt định trên chiều thời gian. Như hành động đánh học trò của thầy giáo nói trên, mới nhìn qua như là dữ, nhưng kỳ thật không phải. Vì mục đích của thầy giáo là muốn cho học trò mình nên. Dù hiện tại, ông ta có bị thiệt thòi, nhưng tương lai của đứa học trò kia lại tốt đẹp. Như thế là lành chớ không phải dữ. Ngược lại, một đứa học trò ngỗ nghịch phá phách, thầy giáo không rầy la trách phạt, mới nhìn, thì thấy thầy giáo như hiền từ, nhưng xét kỹ thì chưa phải. Vì tương lai, đứa học trò sẽ trở thành một người xấu trong xã hội. Như thế, thì việc làm thinh đó, có lợi ở nơi mình mà có hại ở nơi người, thì đó là ác. Vì mình không làm tròn trách nhiệm của mình. Từ đây suy ra, xác định những việc khác cũng đều như thế.
Trở lại pháp cú trên, qua kinh nghiệm bản thân của mỗi người trong đời sống, hẳn ai cũng sẽ thấy rõ điều đó. Người nào một giờ làm lành, thì một giờ được an vui. Cho đến, suốt đời làm lành, thì suốt đời được an vui. Đó là điều thực tế nhứt trong đời sống.
69. Khi ác nghiệp chưa thành thục[81], người ngu tưởng như đường mật; nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, họ nhất định phải chịu khổ đắng cay.
So long as an evil deed has not ripened, the fool thinks it as sweet as honey. But when the evil deed ripens, the fool comes to grief.
Kệ Tụng
Người ngu nghĩ là ngọt
Khi ác nghiệp chưa thành
Ác nghiệp thuần thục rồi
Người ngu chịu khổ đau.
Lược giảng
Một người tạo nhân ác, khi quả báo chưa đến, họ tưởng là không có nhân quả, hay nhân quả không đúng. Họ không biết rằng, nhân quả phải trải qua ba thời kỳ: “quá khứ, hiện tại và vị lai”. Có khi vừa gây nhân là có kết quả liền. Thí dụ: ta có ăn là có no liền, hay ta học là ta biết chữ liền. Ăn là nhân mà no là quả. Học là nhân, biết chữ là quả. Đó là nhân quả hiện tiền. Trong nhà Phật gọi là hiện báo. Đời nầy gây, thì đời nầy trả. Chẳng qua, tùy nhân gây tạo mà nó có mau chậm. Như kẻ giết người, sau đó, họ tẩu thoát và trốn tránh. Trong thời gian nầy, luật pháp chưa phát hiện ra họ. Họ tưởng không ai tìm thấy họ. Nhưng họ quên rằng, cái quả báo nó có ngay khi họ cầm súng hoặc cầm dao giết người rồi. Trước sau gì họ cũng phải đền tội. Luật pháp không bao giờ nới tay dung tha họ. Luật pháp đang truy nả họ. Họ tưởng qua rồi mọi việc êm xuôi. Không đâu. Giống như pháp cú trên nói: “khi ác nghiệp chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật.” Nên nhớ, chỉ có kẻ ngu muội mới nghĩ như thế. Sở dĩ họ thấy là đường mật, là vì quả báo chưa thành thục, tức là chưa đến giai đoạn chín mùi. Khi trái cây đã chín mùi rồi, dù ta không hái, tự nó cũng sẽ rụng. Và nó sẽ rụng bất cứ lúc nào. Khi rụng rồi, thì dù cho ta có than van trách phận, thì ôi thôi! cũng đã quá muộn màng rồi! Kinh dạy:
“Giả sử bá thiên kiếp
Sở tạo nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ”.
Nghĩa là:
Dù trải qua trăm ngàn kiếp
Chỗ tạo nghiệp không mất
Khi nhân duyên đến rồi
Quả báo phải chịu lấy.
Luật nhân quả không bao giờ sai lệch. Lưới trời tuy thưa mà lồng lộng, không lọt một ai. Dù cho ta có cao bay xa chạy đến đâu, cuối cùng rồi cũng phải trả. Bởi thế sách Nho có câu:
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng.
Hành tàng hư thiệt tự gia tri
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy.
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”.
Nghĩa là:
Làm lành hay làm dữ, cuối cùng rồi cũng phải trả.
Đừng có hòng cao bay xa chạy mà tránh khỏi,
Cũng không thể che dấu được ai.
Chẳng qua là quả báo nó đến với mình sớm hoặc muộn mà thôi.
Việc làm của mình có giả dối hay thật tình,
Thì chính mình, mình tự biết rõ.
Việc họa phước đến không cần phải hỏi ai.
Chẳng qua là nó sẽ đến với mình sớm hoặc muộn mà thôi.
Nhưng chắc chắn là nó sẽ đến. Có khi nó đến một cách hung tợn, rùng rợn; cũng có khi nó đến một cách rất âm thầm lặng lẽ. Nhưng dù hung tợn hay âm thầm, tùy theo cái nhân đã gây, điều quả quyết chắc chắn là không ai tránh khỏi. Làm sao tránh khỏi đây, khi mà cái quả báo nó luôn bám sát theo mình. Khác nào như bóng theo hình. Hình như thế nào thì bóng sẽ như thế ấy. Có người chỉ biết có hình mà quên bóng. Nếu chúng ta luôn luôn nhớ bóng, nó luôn bám sát theo mình, thì đời ta chắc sẽ bớt khổ nhiều lắm. Vì có nhớ như vậy, làm sao ta dám gây tạo nghiệp ác. Bởi thế, Phật mới quở ta là kẻ ngu khờ dại dột. Cho nên đừng nghĩ rằng, khi ta tạo nghiệp ác, không ai thấy biết. Dù cho con mắt phàm nhơn không thấy biết, nhưng dưới đôi mắt “Thần nhân quả” nhìn ngó, ta khó thoát khỏi. Đôi mắt đó như ánh đèn pha soi rõ việc làm của ta. Nó luôn theo dõi dòm ngó ta lom lom từng giây phút. Cuối cùng rồi, ta cũng phải xuôi tay mà nạp mạng. Đã có biết bao nhiêu người nạp mạng như thế. Đã gây nhân bất thiện rồi, thì khó thoát khỏi lưới Trời. Lưới trời pháp luật tuy thưa, nhưng mà rất khó lọt. Lưới pháp luật thế gian còn không lọt được, làm sao lọt lưới Nhân Quả. Hiểu như thế, mới thấy lời Phật dạy không bao giờ sai chạy. Một mảy may không sai sót. Biết vậy, ta không thể lơ là trong việc tu hành.
Ta nên nhớ luật tắc căn bản: “Ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ, không ai ăn thế hay học thế cho ai được”. Trong sự sinh hoạt hằng ngày, ta luôn nhớ đến nhân quả, thì đời ta chắc chắn sẽ được an vui. Vì sao? Vì nhớ nhân quả, nên ta cố gắng vun bồi tạo thêm điều lành. Đã gây nhân lành, vô lý ta lại thọ quả dữ. Trừ phi, quả báo của quá khứ mà ta đã gây. Đến nay, nó tới thời kỳ chín mùi, tất nhiên ta phải trả. Đúng như lời Phật dạy trong Pháp cú trên: “nhưng khi ác nghiệp đã thuần thục, họ nhất định phải chịu quả đắng cay”.
70. “Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu
Người hiểu pháp hữu vi.”
71. “Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.”Lược giải
70. Từ tháng nầy qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ cô sa[82] (cỏ thơm) người ngu có thể lấy ăn để sống, nhưng việc ấy không có giá trị bằng một phần mười sáu của người tư duy chánh pháp[83].
Month after month a fool may eat his food with the tip of a blade of grass, but he still is not worth a sixteenth part of those who have comprehended the Truth.
Kệ Tụng
Dầu tháng nầy tháng khác
Với ngọn cỏ kusa
Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu
Của người hiểu chánh pháp.
Lược giảng
Đối với người vô trí, dù cho họ có ăn uống khổ cực để hành hạ xác thân đến đâu, thì kết quả cũng chẳng đem lại lợi lạc gì. Tu khổ hạnh là điều tốt. Biết ức chế sự ăn uống cũng là điều hay. Con người đau khổ phần lớn cũng do ăn uống mà ra. Bởi thế mà tục ngữ có câu:
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
Nhưng ăn uống kham khổ để có nhiều thời giờ tu hành, đó là điều đáng quý kính. Ngược lại, nếu ăn uống kham khổ mà dành nhiều thời giờ lãng phí cho việc khác, thì đó là điều đáng trách. Thế nên cùng một việc làm mà giữa kẻ trí với người ngu khác nhau xa. Pháp cú trên, Phật dẫn dụ một hạng người ngu cho ta thấy. Từ tháng nầy đến tháng khác, họ chỉ ăn một loại cỏ thơm, kể ra, đối với chúng ta, thì chắc không ai làm nỗi. Thế mà họ vẫn giữ ăn như thế.
Giả như, bây giờ có người nào tu khổ hạnh, ngày nào họ cũng chỉ ăn một loại rau, bất cứ loại rau gì cũng được, thì chắc chắn người nầy sẽ được mọi người khen ngợi và kính nể. Trong đời, ít ai làm được như thế. Nhưng ở đây, Phật chẳng những không một chút khen ngợi, mà trái lại, Phật còn quở trách cho họ là người ngu. Tại sao vậy? Bởi vì việc ăn uống nầy, Phật đã có thừa kinh nghiệm. Chính Phật đã trải qua trong thời gian sáu năm tu khổ hạnh cùng với năm anh em Kiều Trần Như. Chính Phật đã từ bỏ lối tu ép xác nầy vì nó không phải là con đường đưa đến hạnh phúc. Chỉ hành hạ xác thân thêm đau khổ mà thôi.
Trong khi tu học, ta rất cần một thân thể khỏe mạnh. Một linh hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện. Nếu như ta mang một thân thể bạc nhược yếu đuối, bệnh hoạn, thì thử hỏi làm sao tu học và làm được gì lợi ích cho ai! Thế nên, Phật không cho việc ăn uống ép xác như thế là việc tốt.
Tuy nhiên, cũng không nên ăn uống quá sung túc. Đó là hai thái độ cực đoan mà ta nên tránh. Điều quan trọng là ta khéo biết lợi dụng việc ăn uống vừa đủ nuôi thân để tu học theo chánh pháp. Đó mới là điều đáng nói và đáng quan tâm. Đời tu của ta mà không học hỏi chánh pháp; không để tâm quán chiếu tư duy ở nơi chánh pháp, thì dù cho ta có ở lâu trong đạo, cũng không được lợi lạc gì.
Chánh pháp ở đây, Phật muốn nói đến Tứ diệu đế. Đây là bốn thứ giáo lý căn bản của hàng Thanh văn. Do đó, ta cần phải nghiên cứu học hỏi thật kỹ bốn chân lý nầy. Bởi vậy, Phật mới dạy: “Nhưng việc ấy (tức việc ăn uống kham khổ) không bằng một phần mười sáu của người tư duy chánh pháp”.
Tại sao Phật dạy thế? Bởi có tư duy chánh pháp ta mới thông hiểu được đường lối tu hành. Có thông hiểu, ta mới thật hành đúng theo chánh pháp. Có thật hành đúng chánh pháp, thì đời ta mới hết khổ. Như vậy, mới thật sự có lợi ích trong việc tu hành. Còn như ăn uống dù cho có cực khổ đến đâu, cũng chẳng đem lại lợi lạc gì. Mình không lợi lạc, thì nói chi đến việc lợi lạc cho người. Thậm chí còn gây nên nhiều tác hại chướng ngại cho việc tu học của ta nữa.
Cho nên pháp cú trên, Phật nhằm thức nhắc người tu nên cẩn trọng tránh những lối cực đoan vô ích. Điều quan trọng là phải đem hết tâm tư để tu học đúng theo chánh pháp. Tức đúng theo con đường diệt khổ mà Phật đã dạy. Có thế, thì đời tu của ta mới được giải thoát và mới đem lại sự lợi lạc cho mọi người.
71. Người cất sữa bò không chỉ sáng chiều đã thành vị đề hồ[84] được. Cũng thế, kẻ phàm phu tạo nghiệp ác tuy chẳng thụ ác quả liền, nhưng nghiệp lực vẫn âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than.
Truly, an evil deed committed does not immediately bear fruit, like milk that does not turn sour all at once. But smouldering, it follows the fool like fire covered by ashes.
Kệ Tụng
Làm hạnh ác nghiệp dữ
Như sữa, không đông ngay
Ngấm ngầm theo kẻ ngu
Như tro che lửa ngún.
Lược giảng
Có người khi gây tạo nhân lành, họ muốn có quả lành đáp trả liền cho họ. Tuy nhân quả không bao giờ sai chạy, nhưng rất phức tạp. Nói gây nhân nào có quả nấy, tuy không sai, nhưng cũng không phải đơn giản như vậy. Bởi vì nhân quả nó còn đòi hỏi phải hội đủ nhiều nhân tố khác nữa mới tạo thành. Nói cách khác, dù có chánh nhân, nhưng còn phải có nhiều trợ duyên giúp cho chánh nhân đó. Có khi, có chánh nhân tốt mà trợ duyên không tốt, thì cái chánh nhân kia cũng không thể phát triển tốt đẹp được. Có khi, chúng ta gây nhân, nhưng bị nghịch duyên, thì cái nhân kia cũng đổi khác đi.
Thí dụ: Khi chúng ta gieo hạt cải, vì không chăm sóc kỹ, nên những hạt cải kia bị kiến tha hết (nghịch duyên). Ngày nào ta cũng tưới nước, vài hôm sau, thấy lên lún phún, ta cứ ngỡ là hạt cải, nhưng cuối cùng đó là cỏ. Cũng có khi ta gieo những hạt bông, kết quả lại lên cỏ không. Ta tự hỏi tại sao như thế? Tại vì khi ta gieo hạt, ta không để ý đến kiến, nên chúng cắn tha hết hạt cải và hạt hoa. Bấy giờ ta kết luận: Nhân cải mà quả cỏ hoặc nhân hoa mà quả cỏ. Cho nên, từ nhân tới quả, còn đòi hỏi phải có đủ thuận duyên thì cái nhân đó mới kết quả tốt được. Bởi thế, nếu nghiên cứu kỹ, ta thấy nhân quả rất phức tạp, không phải đơn thuần như người ta lầm tưởng.
Điều Phật nêu thí dụ trên cho ta thấy, từ nhân tới quả phải có thời gian. Tùy theo cái nhân đã gây mà có kết quả mau chậm khác nhau. Như từ sữa muốn cho nó trở thành đề hồ, phải có thời gian. Thời gian mau chậm, còn tùy thuộc vào trợ duyên tốt xấu. Như phải có máy lạnh đông đặc tốt, cọng thêm thời tiết tốt v.v. thì chất đề hồ kia mới tốt và mau. Bằng ngược lại, thì thời gian phải lâu hơn và có đôi khi sữa bị hư không thành đề hồ, nếu trường hợp không có điện và thời tiết quá nóng. Như thế ta có thể kết luận, chưa hẳn là nhân nào quả nấy. Từ nhân tới quả còn tùy duyên. Tuy cái nhân không mất, nhưng khi đổi duyên, thì cái quả sẽ sai khác.
Thí dụ: trong lớp có hai học sinh A và B trình độ học vấn ngang nhau. Nhưng em A vào cuối tuần, học kèm thêm với một thầy giỏi. Trong khi đó, em B không có học. Kết quả em A giỏi hơn bỏ xa em B. Như vậy, ta thấy, nhân thì đồng nhau (cùng học một lớp một thầy) duyên đổi khác (A học thêm) kết quả A giỏi hơn B. Cho nên, chỉ căn cứ trên nhân mà đánh giá, ta không chịu xét đến duyên, thì sự đánh giá của ta chưa hẳn đúng. Đôi khi kết luận quá sai lạc và hàm hồ. Trường hợp vì nhân quá nhỏ nhiệm ta không thấy, tưởng rằng không có, đến khi thấy quả, ta không biết nhân từ đâu. Như khi ta dọn đất nhổ cỏ thật sạch, không còn sót một rễ cỏ nào, ta yên trí là khoảnh đất đó không bao giờ có cỏ mọc lên. Nhưng khi qua vài đám mưa, ta lại thấy cỏ nẩy mầm lên lún phún. Thế là, ta tức giận không biết cỏ nầy từ đâu lên? Nhưng ta quên rằng, khi dọn nhổ cỏ, có những hạt cỏ quá li ti nhỏ nhiệm mà mắt ta không nhìn thấy, đến khi gặp duyên (trời mưa ướt đất) là cỏ mọc lên ngay. Cũng thế, có những nhân khi chúng ta gây, chúng ta không để ý đến, đến khi kết quả, chúng ta lại nói, tôi không có tạo, tại sao xảy ra.
Cũng có khi gây nhân rất lâu xa, mới có kết quả. Cho nên, xét nhân quả, ta phải xét qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có nhân mới gây là có kết quả liền. Thời gian từ nhân đến quả rất ngắn. Như khi ta ăn cơm chẳng hạn. Có nhân từ khi gây cho đến khi kết quả phải trải qua thời gian, dài ngắn không nhứt định. Song có điều, một khi đã có gây nhân, thì sớm muộn gì cũng phải có kết quả. Kết quả xấu tốt, còn tùy thuộc có chuyển nhân hay không chuyển nhân. Thí dụ: khi sáng anh A đánh anh B bị trọng thương, lẽ ra là anh A sẽ bị anh B và thân nhân của anh B đánh trả thù nặng. Nhưng ngày hôm sau, anh A biết lỗi lầm mình đã gây, liền đến nhà anh B để xin lỗi về việc đã gây ra. Anh A thú nhận mọi lỗi lầm và xin anh B tha lỗi. Sau đó, anh A được anh B tha lỗi. Và anh B chỉ nói đôi điều cho hả giận thôi chớ không có đánh trả thù. Như vậy, ta thấy khi gây nhân thì có nặng, nhưng khi trả quả thì nhẹ đi. Lý do là vì chuyển nhân đã gây từ nặng thành nhẹ. Bởi thế, nên tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được, thì ai tu làm gì.
Câu pháp cú trên, Phật nêu ra giữa dụ và pháp về lý nhân quả, tuy thời gian kết quả có chậm, nhưng một khi đã gây nghiệp ác rồi khó thoát khỏi cái quả báo ác đáp lại. Bởi thế, nên Phật nói: “Kẻ phàm phu tạo nghiệp ác tuy chẳng cảm thụ ác quả liền, nhưng nghiệp lực vẫn âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than”. Nhìn thấy tro, ta tưởng là không có lửa, nhưng có ngờ đâu, lửa đã ngún sâu trong than. Cũng thế, khi gây nhân ác, trải qua thời gian lâu, ta không thấy có trả quả. Bấy giờ, ta cứ tưởng là quả không có, nhưng kỳ thật, quả vẫn bám sát theo nhân, như lửa vẫn bám sát theo tro. Chẳng qua chưa tới thời tiết nhân duyên hiện rõ đấy thôi. Xin chớ có lầm tưởng cho là mất hẳn!
72. “Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Ðầu nó bị nát tan.”
73. “Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước tỷ kheo,
Ưa quyền tại tịnh xá,
Muốn mọi người lễ kính.”Lược giải
72. Kẻ phàm phu lòng muốn được tri thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, nên hạnh phúc bị tổn hại mà trí tuệ cũng tiêu tan.
To his own ruin the fool gains knowledge, for it cleaves his head and destroys his innate goodness.
Kệ Tụng
Tự mình rước nguy hại
Người ngu được trí danh
Hạnh phúc bị tổn hoại
Não đầu bị nát tan.
Lược giảng
Ở đời, có đôi khi làm những chuyện mâu thuẫn mà chúng ta không hay biết. Hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng tạo cái nhân để được hạnh phúc thì không có. Như thế có phải là trái ngược không? Cũng như người tu Tịnh độ, ai cũng muốn vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, nhưng niệm Phật thì cho có lệ. Như thế, thì thử hỏi làm sao vãng sanh cho được? Vì nhân và quả không đồng nhau.
Như pháp cú trên, Phật dạy: “Kẻ phàm phu lòng muốn được tri thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, nên hạnh phúc bị tổn hại mà trí tuệ cũng tiêu tan”. Có thể nói, đây là tâm bệnh chung của tất cả chúng ta. Muốn một đàng mà làm một ngã. Một cậu học sinh, vì tự ái không muốn thua sút chúng bạn mỗi khi thi cử, nhưng hằng ngày thì lại rong chơi, không cố gắng học hành. Như vậy, trách gì không thi rớt. Muốn trở thành một nhà thông thái, thông kim bác cổ, mà tối ngày ta chưa từng cầm quyển sách lên đọc, thì thử hỏi ta thành cái gì? Thành kẻ dốt nát thì có! Khác nào muốn được tri thức mà hành động dẫn tới diệt vong. Diệt vong là không có, là mất hẳn. Bấy giờ hạnh phúc cũng không mà trí tuệ cũng không. Làm sao có được, khi mà cái chánh nhân “tri thức” không gây tạo. Nếu nói ngược lại, thì người nào muốn có trí tuệ và hạnh phúc, thì người đó phải chịu khó cần cù học hỏi. Bằng không, thì xin bắt thang lên hỏi ông trời:
- Thưa ông Trời, tại sao tôi không có trí tuệ và hạnh phúc?
- Sao không hỏi lại ngươi mà ngươi lại hỏi ta. Thôi! Để khỏi phụ lòng ngươi cực khổ bắt thang leo lên tới đây, ta thấy cũng đáng thương xót tội nghiệp. Bây giờ, ta chỉ cho ngươi một vị Thần để ngươi tới đó mà hỏi ổng.
- Dạ! Cám ơn ông Trời. Xin ông chỉ hộ cho.
- Được rồi! Ngươi hãy lóng nghe cho thật kỹ đây!
- Dạ! Hạ thần đang hết lòng lắng nghe!
- Ngươi chịu khó đến cái miễu thờ.
- Dạ ! thờ ai? Vậy…vậy…Trời!
- Từ từ đừng có nóng, sao nhà ngươi tu hành mà tâm còn nóng nảy quá vậy?
- Dạ! Tại tập khí “sân hận” của hạ thần nó còn quá sâu dầy.
- Sao ngươi không ráng lo niệm Phật cho nó bớt.
- Dạ! Đêm nào, thần cũng có niệm chớ, nhưng không hiểu tại sao nó chưa giảm bớt.
- Tại ngươi niệm cho có lệ, chớ ngươi có hết lòng tha thiết niệm đâu mà phiền não sân hận của ngươi nhẹ được.
- Thần đang nóng nảy muốn nghe Ngọc Hoàng chỉ cho cái miễu thờ
- Được rồi! Ngươi hãy nghe đây: Đó là cái miễu thờ “Thần lười biếng”. Ngươi có biết không? Ngươi lười biếng tu học mà bảo có trí tuệ hạnh phúc sao được! Thôi! ráng về dưới cố gắng tu học cho khá, thì ngươi sẽ được toại nguyện.
- Cám ơn ông Trời chỉ dạy. Phen nầy, hạ thần sẽ cố gắng hết sức mình để lo tu học. Xin cám ơn bái bai ông Trời!
73. Kẻ ngu thường muốn hư danh[85]: chỗ ngồi cao trong Tăng chúng, viện chủ[86] trong Tăng viện, mọi người xin đến cúng dường.
The fool seeks undeserved reputation, precedence among monks, authority over monasteries, and honour among householders.
Kệ Tụng
Ưa danh không tương xứng
Muốn ngồi trước Tỳ kheo
Ưa quyền tại già lam
Muốn mọi nhà cung kính.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nhắm thẳng vào người xuất gia để răn dạy. Người xuất gia là người từ bỏ tất cả thế gian. Nói đến những vật chất thế gian không ngoài ngũ dục, lục trần. Tài, sắc, danh, thực, thùy, đó là những thứ mà không ai thoát khỏi. Người đời bị đắm chìm trong những thú vui nầy. Nhưng họ quên rằng:”Thú vui chỉ mở đường cho đau khổ, hay vui trong chốc lát mà khổ sầu ngàn năm”.
Với cái nhìn của người giác ngộ, thì những thứ nầy, chỉ đem lại cho con người thêm đau khổ mà thôi. Các Ngài xem đó là những thứ hư danh như đôi dép bỏ. Người thế gian, vì không nhận rõ bản chất khổ đau của chúng, nên họ đua nhau tranh giành chiếm đoạt. Phật cho họ là những kẻ đang tắm mình trong ao tù ngũ dục. Họ không có một niệm nhàm chán để cầu thoát ly.
Ngược lại, người xuất gia chúng ta (chỉ nói nhỏ trong phạm vi chúng ta thôi) khi đã cạo đầu là đã tự nguyện với lòng không bao giờ để tâm vướng bận vào những thứ đó nữa. Khi mới phát tâm, thì nó có một sức mạnh lớn lao như thế. Nhưng khi trải qua một thời gian ở chùa, cái niệm thoát ly ban đầu từ từ yếu dần và cuối cùng đi vào quên lãng vì tâm nhiễm trước thế gian chưa trừ.
Trong Kinh Phật nói: “Người xuất gia xa lánh ngũ dục, như kẻ khạc đàm giải ra ngoài. Nếu ai còn vướng mắc vào danh lợi, thì Phật nói, kẻ đó đã khạc ra mà còn liếm trở lại”. Nên tuy sống trong chùa lâu mà tâm ham mê danh lợi vẫn còn. Trong năm thứ dục lạc nầy, ở đây, đức Phật chỉ nêu ra có một thứ thôi. Đó là danh vọng địa vị. Chỉ một thứ nầy, cũng làm cho người xuất gia điên đảo, chớ nói chi đến những thứ khác.
Thường danh nó đi đôi với lợi, hễ có danh là có lợi, vì hiểu rất rõ tâm bệnh nầy, nên Tổ Qui Sơn cũng thường răn nhắc. Tổ Qui Sơn nói: Người xuất gia vì ham mê danh lợi mà lỗi đạo. Ngài dạy: “Sao bèn mới lên đàn thọ giới, liền nói rằng ta đây là Tỳ kheo; của đàn việt tiêu xài, ăn dùng của thường trụ. Không biết xét nghĩ của đâu đem đến, cứ nói rằng phép ta nên chịu của cúng, ăn rồi nói chuyện xào xào, chỉ nói những chuyện thế gian bậy bạ. Song một thuở đua vui, nào có biết vui đó là “nhơn” của cái khổ” (Sa Di Luật Giải, Hòa Thượng Hành Trụ dịch). Lời thức nhắc nầy, ngẫm lại, đa số người xuất gia chúng ta đều mắc phải. Có người khi còn là một chú tiểu, tánh tình rất dễ thương. Thấy ai, chú cũng khiêm cung kính chào lễ độ. Trông chú rất hồn nhiên hiền từ. Ai nhìn thấy chú cũng mến thương. Nhưng, sau khi thọ giới Sa di, tánh tình của chú có phần thay đổi. Chú thấy mình khác hơn xưa. Từ đây cái “Ta” của chú cũng bắt đầu xuất hiện. Chú cảm thấy, chú lớn hơn những người chưa thọ giới như chú. Ngày xưa, chú sống hài hòa vui vẻ cùng chư huynh đệ, bây giờ thì có đổi khác. Đối với Phật tử tại gia, chú cũng thấy chú đã hơn họ. Chú muốn mọi người phải cung kính chú. Phật tử thấy chú mà không chào hỏi, chú cho họ là vô phép, thiếu lễ độ. Chú nhìn họ với đôi mắt thiếu cảm tình. Họ nhìn chú cũng thấy khác xưa. Cả hai, từ từ tạo thành hố xa cách. Cái “Ta” của chú xưa kia rất nhỏ, nay bắt đầu xuất hiện lớn dần
Thời gian trôi qua, chú đúng tuổi thọ giới Cụ túc. Thầy cho chú ta đến giới đàn để thọ. Thọ xong, chú thấy chú không còn là một Sa di như thuở nào, mà nay chú đã trở thành một bậc thầy của thiên hạ. Ai gặp chú mà lỡ kêu chú bằng chú như dạo nào, thì mặt chú đỏ gay, buồn giận không tiếp chuyện với họ. Hoặc có khi họ gọi chú bằng thầy, lòng chú cũng không mấy vui. Gọi bằng Đại Đức, thì chú cảm thấy vui hơn. Bấy giờ cái “Ta” của chú lớn hơn hồi còn Sa di nhiều lắm.
Vì thế, nên Tổ Qui Sơn mới quở: “Sao bèn mới lên đàn thọ giới, liền nói rằng ta đây là Tỳ kheo”. Bệnh nầy, xét kỹ, ít có mấy ai tránh khỏi. Dù biết cái “Ta” là cái đáng ghét, nhưng có mấy ai chẳng bị vướng vào. Vì “chấp ngã” là cái căn bệnh trầm trọng truyền kiếp của chúng sanh.
Từ bệnh chấp ngã nầy, nó sanh ra nhiều thứ chứng bệnh tệ hại khác. Có người ít ham tài sắc mà lại háo danh. Miễn sao có được địa vị cao, được mọi người kính trọng nể nang, thì họ rất lấy làm hãnh diện. Một khi đã có địa vị cao, thì theo sau đó là lợi lộc. Cho nên câu kế tiếp Phật nói: “mọi người xin đến cúng dường”. Danh và lợi thường đi đôi với nhau, chúng như cặp bài trùng. Khi có lợi dưỡng rồi, họ bắt đầu quên tu. Càng lúc càng chạy đua theo danh lợi.
Bởi thế Tổ Qui Sơn nói: “Của đàn việt tiêu xài, ăn dùng của thường trụ. Không biết xét nghĩ chỗ đâu đem đến cứ nói rằng phép ta nên chịu của cúng”. Một bề tiêu phí của Tam Bảo, không chút hối tiếc. Có người còn cho rằng, mình có phước hơn nên được Phật tử dâng cúng nhiều. Nhưng quên rằng, chúng ta thọ dụng càng nhiều, thì người thí chủ càng thêm lợi lớn (Thọ dụng ân phồn, thí lợi nồng hậu).
Tổ quở tiếp: “Ăn rồi dụm đầu nói chuyện xào xào, chỉ nói những chuyện thế gian bậy bạ”. Có lẽ, thời của Tổ, người xuất gia ít bàn chuyện thế sự chánh trị, mà còn bị quở như thế. Nếu Tổ sống ở thời đại nầy, không biết Tổ quở đến bực nào! Chuyện bậy bạ là những chuyện tào lao, toàn những chuyện bù khú của thiên hạ mang ra phê bình chỉ trích. Ít có mấy ai bàn chuyện đạo lý.
Câu kế tiếp Tổ cảnh giác: “Song thời một thuở đua vui, nào có biết vui đó là “nhơn” của cái khổ”. Cái vui của ngày hôm nay lại là cái quả khổ của truyền kiếp mai sau. Với người trí, họ quyết tránh nhân thì không có quả.
Người xưa nói:
Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý vinh hoa giấc mộng tràng.
Hay:
Danh mà chi, lợi lắm mà chi!
Của công danh như bọt nước có ra gì
Mùi phú quý như vầng mây tan hiệp
Sang cho mấy cũng rồi một kiếp
Than ôi!
Phú quý lợi danh như nước chảy
Sắc tài tửu khí tợ mây tan
Ngựa xe áo mão không bền bỉ
Nhắm mắt hoàn ra đống cốt tàn.
Cuối nẻo đường trần, thân ai cũng hoàn ra đống cốt tàn cả. Biết thế, còn ham danh lợi làm gì!
Than ôi!
“Cái vòng danh lợi cong cong
Người mong ra khỏi người trông bước vào.
Bước vào tất phải té nhào
Bò lăn bò lóc, bò cào tét da.
Chúng ta là kẻ xuất gia
Bạc tiền chẳng có của nhà cũng không.
Lợi danh danh lợi lòng vòng
Thoát ra rồi lại lấy còng đeo vô.
Đến khi nhắm mắt ô hô!
Mọi vật để lại bộ đồ mang theo.
Danh lợi chỉ là thứ hư danh hào nhoáng, cuối cùng chính nó đưa ta vào cửa tử. Lịch sử đã chứng minh, có biết bao người tu hành mà còn ham mê danh lợi, địa vị cao sang, cuối cùng, bị hậu quả chuốc lấy thảm họa đau thương!
Như trường hợp Ngài Ngộ Đạt Quốc Sư do vua Ý Tông ban cho Ngài bửu tòa bằng trầm hương, cao hơn hai trượng để Ngài thuyết pháp. Vì một niệm móng tâm danh lợi mà phải bị Triệu Thố theo hãm hại đòi mạng. Thọ tòa trầm hương còn tổn phước mà mắc báo như thế, há chẳng đáng sợ lắm sao!
Hãy nhìn tấm gương đức Phật và các bậc Tổ sư. Đức Phật đã từ bỏ ngai vàng địa vị giàu sang, để đi xuất gia. Sau khi xuất gia, suốt đời Ngài chỉ có một cái bình bát và ba lá y che thân mang theo mình.
Người ta tôn xưng Ngài là người giác ngộ, hoặc Thế Tôn (bậc cao quý trên đời) chớ không tôn xưng Ngài một chức vụ gì khác. Đến hàng đệ tử xuất gia của Ngài cũng thế.
Ngày nay, đôi khi chúng ta vì chức vụ mà làm chướng ngại cho sự tu hành của chúng ta rất lớn. Vì chức vụ càng lớn chừng nào, thì cái “Ta” càng cao chừng đó. Đây là một sự thật, ta không thể qua mắt che đậy được người đời.
Do Phật từ bỏ tất cả, nhờ vậy, mà ngày nay chúng ta mới được thừa hưởng cái gia tài sự nghiệp vẻ vang của đức Phật để lại.
Ở Việt Nam, thời Trần, có Sơ Tổ Trúc Lâm, một vị vua nhà Trần, cũng từ bỏ ngai vàng, địa vị cao sang, quyền uy tột đỉnh, vào núi Yên Tử, tu hạnh đầu đà. Cho đến trọn đời Ngài chỉ đi bộ, không đi xe cộ thuyền bè. Tu như thế, cho đến ngày viên mãn đạo quả.
Gương Phật Tổ còn đó, xét lại mình thì sao? Thật đáng tủi hổ lắm thay! Nói thế, không có nghĩa là chúng ta không cần đến chức vụ, vì xã hội ngày nay phải cần như thế. Nhưng chúng ta không nên coi đó là quan trọng. Chúng ta coi đó như là một phương tiện hoằng đạo. Chúng ta đừng để tâm dính mắc vào đó. Đó là thái độ khôn ngoan của chúng ta. Nếu chúng ta ham mê chạy theo danh lợi địa vị, những thứ mà Phật Tổ cho là hư danh đó, thì ta có để lại cái gì cho người sau thừa hưởng? Chả lẽ đời tu của chúng ta chỉ biết có hai thứ: Lợi và Danh không sao? Nếu thế, thì ở ngoài đời, ta thụ hưởng sướng hơn! Ngẫm lại, đời ta có những thứ thật là trái ngược. Khi còn ở ngoài đời thì chán, chạy vào đạo để tu. Khi vào đạo rồi, thì chán tu, chạy theo danh lợi để thụ hưởng. Cứ chạy lòng vòng, cuối cùng bị quỷ vô thường chận hỏi. Khi quỷ vô thường hạch hỏi, bấy giờ mới giật mình thức tỉnh, thì ôi thôi! Đã muộn lắm rồi! Lúc đó, đã cận kề với tử thần rồi, đâu còn thời giờ tu hành gì nữa!
Thôi thì xin hẹn kiếp sau
Bao giờ khô lệ mới vào chùa tu
Bây giờ danh lợi lu bu
Đâu còn rảnh rỗi mà tu với hành
Bụng làm dạ chịu cam đành
Phật Đà dạy kỹ ham danh đáng đời!
Chớ than trách Phật trách trời
Trách ta vụng dại uổng đời xuất gia!
74. “Mong cả hai tăng, tục,
Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta ”
Người ngu nghĩ như vậy
Dục và mạn tăng trưởng.
75. “Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.”Lược giải
74. Hãy để cho người Tăng kẻ tục nghĩ rằng: “Sự nầy do ta làm, mọi việc lớn nhỏ đều theo lệnh của ta”. Kẻ ngu cứ tưởng lầm như thế nên lòng tham lam ngạo mạn[87] tăng hoài.
“ Let both laymen and monks think that it was done by me. In every work, great and small, let them follow me” - such is the ambition of the fool; thus his desire and pride increase.
Kệ Tụng
Mong cả hai tăng tục
Nghĩ rằng “chính ta làm
Trong mọi việc lớn nhỏ
Phải theo mệnh lệnh ta”
Người ngu nghĩ như vậy
Dục mạn cùng tăng trưởng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Người xuất gia là người mong cầu thoát ly tam giới. Cái bản nguyện thật cao sáng tuyệt vời. Ai cũng ý thức đến sự đau khổ của cuộc đời mà đi tu. Ý thức sự đau khổ, không có nghĩa là chối bỏ tất cả. Không phải đi tu rồi là cắt đứt mọi liên hệ xã hội. Làm sao cắt đứt cho được? Bởi vì sự sống của ta là một sự liên hệ của tất cả người khác. Sự sống của người khác là liên hệ mật thiết với ta. Nói rộng ra là liên hệ chằng chịt với tất cả muôn loài. Không loài vật nào chẳng có mặt trong ta.
Do sự liên hệ hình thành theo lý duyên sinh đó, nên một việc làm lành hay dữ của ta đều có ảnh hưởng liên hệ đến mọi người mọi vật. Vì lẽ đó, nên người xuất gia, dù đã từ bỏ xa lánh hết những sự nghiệp thế gian, nhưng không vì thế mà ta không tạo sự nghiệp làm lợi ích cho thế gian.
Sự nghiệp ở đây không phải là chùa cao Phật lớn, hay những công trình kiến trúc vĩ đại nguy nga. Dù rằng, đó cũng là một hiện tướng góp mặt làm lợi ích cho đời. Nhưng không phải vì thế mà ta bám chặt vào hiện tướng đó. Nếu bám chặt vào đó, thì rõ ràng vật thể đó là ta. Ta và vật thể đó bất khả phân ly. Đó chính là làm mà còn chấp tướng. Còn chấp tướng, tất nhiên còn thấy có ta, có người, có chúng sanh và có thọ giả. Nói rõ ra, mình làm, mình thấy có việc mình làm và bắt mọi việc phải theo sự chỉ định của mình. Nếu trái ngược lại, tất nhiên mình sanh phiền não.
Bởi thế Phật dạy: “Sự nầy do ta làm, mọi việc lớn nhỏ đều theo lệnh của ta”. Giả sử không theo lệnh của ta thì sao? Ta có để yên hay không? Hay ta sẽ làm lớn chuyện? Bao nhiêu cái “Ta” xuất hiện trong việc làm của mình? Sự nghiệp của người xuất gia không phải ở cái ta tầm thường đó. Mà sự nghiệp của người xuất gia phải là cao thượng hơn. Đó là sự nghiệp “Trí tuệ”. Chính sự nghiệp nầy mới siêu xuất thế gian. Không phải thứ sự nghiệp thường tình như người đời. Nếu xây dựng sự nghiệp thường tình như người đời, thì sao gọi là xuất gia? Ý nghĩa xuất gia, tự ta đã đánh mất rồi. Như vậy, thì có khác gì người đời đâu! Khác chăng chỉ còn lại là trên hình thức thôi. Trên hình thức, thì sao đánh giá được người tu? Bởi vì “chiếc áo không làm nên thầy tu” kia mà!
Tổ Qui Sơn dạy: “Người xuất gia phải là tâm hình dị tục”. Thân đã khác người đời mà tâm cũng phải khác nữa. Nếu tâm không khác, thì coi chừng ta sẽ biến chất thành người thế gian khi nào không hay. Và như thế, thì việc làm của ta cũng vướng vào vòng hệ lụy của bản ngã. Rồi cũng tham sân si chấp trước như ai. Đã chấp ngã, thì việc đạo hay đời cũng thế.
Đối với người đời, lúc nào họ cũng chủ quan. Họ coi họ là quan trọng. Ngoài họ ra không có ai. Họ sai người phải làm. Không làm là kẻ đó chống báng họ. Nếu họ là người có oai quyền thế lực, thì cái Ta của họ rất là cao lớn. Cao lớn còn hơn núi Tu di. Vì họ thấy họ có quyền lực. Quyền lực càng lớn, thì bản ngã của họ càng cao. Kẻ nào dám khinh khi xem thường họ, thì kẻ đó phải chết. Cứ thế mà cái “Ta” của họ càng ngày càng lớn dần.
Bởi vậy, kế tiếp Phật mới nói: “Kẻ ngu cứ tưởng lầm như thế nên lòng tham lam ngạo mạn tăng hoài”. Ở thế gian, lúc nào họ cũng coi cái ngã của họ cao trọng. Họ cố bảo thủ đến kỳ cùng. Họ dám chết vì sự nghiệp của họ. Họ coi sự nghiệp của họ trên hết. Bởi thế, lòng tham lam của họ càng ngày càng tăng. Họ càng tham lam chấp trước, thì đời họ càng khổ lụy dài dài. Dù biết khổ, nhưng họ vẫn tham. Nghiệp lực của họ sâu nặng là thế đấy! Bao giờ nhắm nghiền đôi mắt lại, họ mới chịu buông bỏ hết việc đời. Chừng đó, họ mới không còn tham lam nữa. Nếu còn một hơi tàn thoi thóp, thì họ vẫn còn nuối tiếc sự nghiệp mà họ đã tạo nên. Bởi thế, mà cổ đức đã than:
Ôi! Chúng sanh mê muội
Cứ nhận khổ cho là vui
Chấp giả cho là thường
Mà lăn lóc trong non sầu bể hận!
75. Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết bàn, hàng Tỳ kheo đệ tử Phật, hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm thế lợi[88] để chuyên chú vào đạo giải thoát.
One is the quest for worldly gain, and quite another is the path to Nibbãna. Clearly understanding this, let not the monk, the disciple of the Buddha, be carried away by worldly acclaim, but develop detachment instead.
Kệ Tụng
Khác thay đường thế lợi
Khác thay hưởng Niết bàn
Tỳ kheo đệ tử Phật
Hãy như vậy tư tưởng
Chớ ưa thích thế lợi
Hãy chuyên tu giải thoát.
Lược giảng
Thế nào là một đàng đưa tới thế gian? Cái gì đưa ta tới thế gian? Động cơ nào thúc đẩy ta? Nghiệp! Chính là nghiệp nhân phiền não. Nó là động cơ thúc đẩy ta đi mãi trong Tam giới. Ta muốn dừng chân, nó không chịu, cứ đẩy ta tới. Ta cứ mãi cúi đầu nô lệ và đầu hàng nó. Bởi vậy, suốt đời ta chạy theo nó. Lũ giặc phiền não nhiều lắm, không thể đếm hết. Nhưng nhà Duy Thức tóm lại, chúng có hai thứ: Căn bản phiền não và Tùy phiền não. Nói gọn là Kiến Tư hoặc phiền não. Bọn chúng toa rập nhau, để đẩy ta đi mãi trong thế gian. Bọn giặc nầy ta đã rõ. Nhưng làm sao ta trừ chúng ? Mặt mũi hình hài của chúng ra sao? Có ai nhận diện nghiệp dụng và hành tướng của chúng chưa? Quả chúng là loại thiên biến vạn hóa. Tuy ta không thấy hình hài hiện thể của chúng ra sao. Nhưng chúng có một sức mạnh rất lớn. Chỉ cần chúng dấy khởi lên và ra lệnh cho ta phải làm, khi đó, nếu ta nghe theo mệnh lệnh của chúng sai khiến mà thực hiện ngay, thì ôi thôi! Sẽ có biết bao nguy cơ tai hại xảy đến.
Hẳn chúng ta còn nhớ, cách đây không lâu, bọn khủng bố lái hai chiếc máy bay đâm đầu thẳng vào hai tòa nhà chọc trời (biểu trưng cho quyền lực và sức sống) ở Mỹ. Kết quả, một thảm cảnh xảy ra là có hằng ngàn người chết.
Lúc đầu, chỉ là một niệm “sân” dấy lên quyết định phải trả thù. Nhứt định phải giết bọn họ. Họ là ai? Cũng là đồng loại! Thế là những tên đại gian, đại ác khủng bố nầy, nghe theo mệnh lệnh của chúng xúi giục sai sử mà hành động, chỉ trong phút chốc đã tạo thành một thảm cảnh đau thương. Đau thương không những cho những người nằm xuống, vì họ đã ra đi yên phận, nhưng những người thân ruột thịt của họ còn lại thì sao? Có phải buồn khổ lắm không? Có ai chứng kiến cảnh tượng nầy, mới thấy được sự đau khổ ngút ngàn của họ. Đó cũng là một cái tang chung cho toàn thể nước Mỹ.
Rồi sau đó thì sao? Khi mà hận thù đã tràn ngập dâng cao, đến mức độ mà chánh quyền và nhơn dân Mỹ không còn kềm chế được nữa, thì chúng ta thấy gì sau đó? Tất nhiên, máu đổ, thịt nát, đầu rơi! Vì họ cũng đã nghe theo bọn “chúng” mà đánh trả thù. Trả thù ai? Bọn khủng bố ư? Bọn nầy đã chết được bao nhiêu? Quả thật bọn chúng chết không có bao nhiêu, mà toàn dân Iraq phải lãnh đủ. Những trận mưa bom kinh hồn đổ xuống ập lên đầu quân dân Iraq.
Không cần phải làm con số thống kê, chúng ta cũng biết, có hằng vạn sanh linh vô tội đã chết. Tất cả thảm trạng nầy do đâu? Ai là kẻ chủ mưu đầu độc sai khiến? Không ai khác hơn là bọn “vô minh phiền não” nầy. Bọn chúng tuy nhiều, nhưng có ba tên đáng sợ nhứt. Đó là “Tham, Sân, Si”. Ba chú nầy là ba tên đầu đảng. Chúng có oai quyền rất lớn. Chúng xúi giục ta làm những điều bất chánh.
Thế giới ngày nay, cả nhơn loại sống trong sự lo âu sợ hãi, phần lớn cũng do bọn đầu đảng nầy gây ra. Chúng tác oai tác quái, gây ra biết bao thảm cảnh tang thương cho đồng loại. Nay chúng thúc đẩy một bọn người bất lương đi gây khủng bố đồng loại chỗ nầy, mai chúng thúc đẩy đi tới chỗ khác. Người ta điên đầu vì bọn chúng. Nói chung thế giới bất ổn loạn lạc, đều do chúng cầm đầu sai sử.
Muốn thế giới được yên bình ta phải làm sao? Câu trả lời khẳng định là phải thanh trừng tiêu diệt bọn chúng. Câu hỏi được đặt ra là thanh trừng tiêu diệt bọn chúng bằng cách nào? Vì chúng không có chỗ nơi và hình dáng, thì làm sao mà thanh trừng tiêu diệt? Bình thường ta không nhận diện được chúng. Nhưng khi xúc duyên trái ý nghịch lòng, chúng khởi lên ta kịp thời nhận diện là biết chúng ngay. Chúng không qua mặt tránh né ta được, nếu lúc đó ta sáng suốt kịp thời. Dù chúng có tài thăng thiên độn thổ tàng hình đến đâu, cũng không thể che dấu được “ chàng dũng sĩ trí tuệ”. Chàng dũng sĩ trí tuệ với thanh bảo kiếm sắc bén có sẵn trong tay, chúng không thể nào dám hành hung qua mặt. Trừ phi là chàng ta lơ là không cảnh giác. Khi đó, chúng mới có cơ hội vùng lên để làm mưa làm gió. Chúng gây rối loạn trật tự an ninh.
Vậy thì, muốn tiêu diệt chúng, không gì hơn là ta phải nhờ đến anh chàng dũng sĩ trí tuệ, ngày đêm dè dặt cẩn mật canh chừng bọn chúng. Phải luôn luôn canh chừng đề phòng một cách nghiêm nhặt. Không lơ là, không chểnh mảng, không xem thường khinh địch có thế, thì mới mong tiêu diệt chúng được. Nghĩa là giặc trong và giặc ngoài (lục trần) đều phải tiêu diệt. Khi đã tiêu diệt được bọn chúng rồi, thật sự ta mới được an bình nghỉ ngơi. Bấy giờ, ta mới thật sự ca khúc khải hoàn.
Nhờ có anh chàng Dũng sĩ trí tuệ với một thanh bảo kiếm sáng ngời, mà tiêu diệt được bọn chúng. Ta cám ơn chàng dũng sĩ nầy. Thật trông anh rất hiên ngang oai phong hùng dũng. Ta vui cười reo hò chiến thắng. Đó là con đường duy nhứt đưa ta đến cảnh giới “Niết bàn” an lạc. Không còn có con đường nào khác hơn. Chỉ có một con đường duy nhứt là phải đoạn trừ tập nhân phiền não. Khi tập nhân phiền não không còn, thì cảnh giới Niết bàn hiện khởi. Bấy giờ, “đất nước tâm” mới thật sự thanh bình. không còn có cảnh binh đao chiến tranh giết chóc.
Ôi! vui sướng biết bao! Trải qua bao ngày gian lao cực khổ chiến đấu. Bây giờ, ta mới thật sự an hưởng. Cảnh thái bình đã hiện ra. Nơi đó, mặt trời “trí tuệ” đã lên cao, có nắng ấm trải rộng soi sáng khắp muôn phương. Có đầy dẫy hoa thơm cỏ lạ và có suối nước tươi mát dịu hiền “Từ bi”, ngày đêm tuông chảy róc rách để tưới tẩm cho những tâm hồn còn đầy bất hạnh.
Trên không trung, từng đàn bướm lượn bay trước cơn gió thoảng; từng đàn ong tìm hoa hút mật. Đó là nhụy mật hương hoa “giải thoát”. Đó đây, có những khúc nhạc hoan ca reo mừng ngày chiến thắng huy hoàng. Ngàn cánh chim trời bay lượn tự do không chút âu lo sợ hãi. Tất cả đều mừng vui reo hò hát ca trong nắng ấm; trong cảnh thái bình thịnh trị an lạc. Còn đâu những ngày gian lao cực khổ, vầng trán nhăn nheo, mắt lệ đằm đìa đã qua rồi. Trong ánh mắt vui tươi của các hàng Tỳ kheo đang đi dạo tự tại thảnh thơi trong khung trời giải thoát, vì các Ngài đã thật sự chiến thắng, chiến thắng một cách vẻ vang oai hùng trong lịch sử nhơn loại. Quả thật đúng với câu:”Chiến thắng vạn quân không bằng tự thắng lấy mình, tự thắng lấy mình mới là chiến công oanh liệt nhứt”. Các Ngài quả thật xứng đáng cho mọi người noi gương và tung hô vạn tuế. Vì thế, nên Phật dạy: “Hàng Tỳ kheo đệ tử Phật, hay biết rõ như thế (biết rõ tập nhân phiền não), chớ nên tham đắm thế lợi (không làm nô lệ cho bọn chúng sai sử đam mê danh lợi) để chuyên chú vào đạo giải thoát” (tập trung thiền quán, đoạn trừ phiền não, an trụ Niết Bàn)
Phẩm Hiền Trí
76. “Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.”
77. “Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Ðược người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.”Lược giải
76. Nếu gặp được người hiền[89] trí chỉ bày lầm lỗi và khiển trách mình những chỗ bất toàn, hãy nên kết thân cùng họ, xem như bậc trí thức chỉ cho kho tàng bảo vật. Kết thân với người trí lành mà không dữ.
Should one find a man who points out faults and who reproves, let him follow such a wise and sagacious person as one would a guide to hidden treasure. It is always better, and never worse, to cultivate such an association.
Kệ Tụng
Nếu gặp bậc hiền trí
Chỉ lỗi và khiển trách
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy kết thân người trí
Kết thân với vị ấy
Chỉ có lợi không hại.
Lược giảng
Thuở xưa, môn đồ của đức Khổng Phu tử là thầy Tử Lộ, mỗi khi có lầm lỗi, được người bạn đồng môn chỉ lỗi xây dựng, thầy kính lễ đội ơn rất mực. Chẳng những thầy không lộ vẻ phiền hà khó chịu, mà còn cám ơn người chỉ lỗi mình một cách thành kính. Người xưa, họ có những đức tánh xử sự với nhau sao quá đẹp và đáng kính phục.
Người ta tu theo đạo Nho mà còn được như thế, hà tất gì chúng ta là những người tu theo đạo Phật. Hơn nữa lại là người xuất gia. Bởi đức Phật có đầy đủ ba công hạnh siêu việt: “tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn”. Muốn được giác hạnh viên mãn, thì phải hoàn thành Tự giác và Giác tha. Tự giác là phải tự biết lỗi mình. Nếu mình không thể nhận ra được lỗi của mình, thì phải nhờ đến thầy bạn chỉ giúp. Mặt mình dính lọ, không tự thấy biết, thì phải nhờ người khác chỉ giùm. Khổng Tử nói: “Nhơn vô thập toàn”. Con người không có ai hoàn toàn không lỗi.
Duy Thức Học cho chúng ta biết, trong tâm của chúng ta có hai loại tâm sở: thiện và ác. Tâm sở ác thì lại nhiều hơn tâm sở thiện. Cho nên trong khi hành xử, không ai tránh khỏi lỗi lầm. Có lỗi lầm mà được thầy hiền bạn tốt chỉ giúp cho ta, thì quả thật là ta có phước. Bởi thế, nên Phật dạy: “Nếu gặp được người hiền trí chỉ bày lầm lỗi khiển trách mình những chỗ bất toàn, hãy nên kết thân cùng họ”. Tại sao thế? Bởi họ muốn cho ta trở thành một con người tốt và hữu ích cho đạo và đời. Tốt đời đẹp đạo là bản chất của người tu. Người chỉ lỗi mình là vì họ thương mình. Họ là người thân thiện với mình. Họ không phải là kẻ có ác cảm với mình. Nếu họ có ác cảm với mình, thì họ không phải là người tốt. Đã không phải là người tốt, thì sự chỉ lỗi của họ không nhằm mục đích xây dựng. Đối với hạng người nầy, ta không nên giao du gần gũi họ.Ta nên bắt chước theo lối xử sự của người xưa là: “Kính nhi viễn chi”. Mình có lỗi lầm mà được người hiền trí chỉ bày, thật quý giá biết bao! Khi được chỉ hộ, lẽ ra ta phải bắt chước thầy Tử Lộ vui mừng nhận lỗi sửa đổi và cám ơn họ mới phải. Vì họ là người bạn tốt của mình. Phật dạy: “Ta nên kết thân cùng họ”.
Tinh thần tự giác là tinh thần cao quý trong đạo Phật. Sống trong vòng nghiệp thức, con người có vô số tội lỗi. Có tội lỗi mà không chịu nhận để cải hối, thì không phải là người tốt. Chính vì Phật Tổ thấy rõ điều nầy, nên mới bày ra phương cách sám hối. Sám hối có nhiều cách. Nhưng cách nào cũng nhằm mục đích để cải thiện thân tâm chúng ta. Cái áo lỡ dính dơ, nếu ta chịu khó giặt sạch, thì cái áo sẽ trở nên như khi chưa dính. Phật nói: Nếu người có lỗi, biết ăn năn sám hối, thì lỗi kia sẽ không còn. Giống như cái áo kia vậy. Người không có lỗi và người có phạm lỗi mà biết cải hối, Phật nói, cả hai đều có sức mạnh như nhau. Sức mạnh của người trước là cố gắng gìn giữ không để cho phạm. Sức mạnh của người sau đã phạm mà biết cải hối sửa đổi, thì cả hai không khác.
Cũng pháp cú trên, Phật lại dạy tiếp: “Xem như bậc trí thức chỉ cho kho tàng bảo vật. Kết thân với người trí lành mà không dữ”. Người chỉ lỗi ta, Phật cho đó như là người trí thức chỉ cho ta kho tàng bảo vật. Người trí thức Phật nói ở đây, có nhiều hạng. Phật Tổ cũng là Thiện tri thức. Thầy bạn cũng là Thiện tri thức. Người trực tiếp hướng dẫn chỉ giáo ta, gọi là Giáo thọ thiện tri thức. Còn người lo tứ sự cúng dường cho ta, đó là Ngoại hộ thiện tri thức. Phật Tổ là bậc Thiện tri thức cao. Các Ngài chỉ bảo cho chúng ta kho tàng vô giá. Mỗi người chúng ta ai cũng sẵn có cái “kho tàng vô giá” đó. Nhưng vì mê mờ chúng ta không nhận ra. Nên Phật Tổ chỉ dạy cho ta. Thật là công ân của các Ngài quá lớn.
Đến thầy bạn cũng thế. Những người đi trước ta, chỉ lại cho ta. Họ chỉ cho ta qua sự kinh nghiệm tu học của họ. Tuy họ chưa phải là người giác ngộ thâm sâu như Phật Tổ. Tùy sở học sở giác của họ tới đâu, họ đem ra chỉ lại cho chúng ta tới đó. Rồi đến những vị ngoại hộ cho ta cũng thế. Ta phải thành thật mang ơn họ. Nhờ họ mà ta tiến xa trên đường đạo. Nói rõ hơn, nhờ sự chỉ điểm những chỗ bất toàn lỗi lầm của ta mà ta chưa bao giờ nhận ra, nay nhận ra, nhờ đó mà ta được tiến bộ. Gốc của lỗi lầm là vô minh. Vì vô minh mà ta gây ra tội lỗi. Vì tội lỗi, nên ta bị sa đọa. Muốn cho ta không bị sa đọa, nên Phật Tổ, nói chung là các bậc Thiện tri thức mới chỉ bày cội gốc gây ra lỗi lầm cho ta. Nhờ thế, nên ta mới biết sửa đổi tu hành, nên mới sớm thành tựu được đạo quả. Người như thế, thử hỏi còn có ân đức nào lớn hơn?
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta cách tiến thân trên đường tu. Phật chỉ dạy gốc ngọn rõ ràng. Từ những lỗi lầm nhỏ đến những lỗi lầm lớn. Từ cạn đến sâu, để chúng ta quán chiếu lại những lỗi lầm tiềm tàng sâu kín của ta. Có nhìn lại như thế, ta mới thật sự là người chơn thật tu hành. Bằng không, thì ta chỉ là kẻ gieo duyên lành với Phật pháp mà thôi.
Tóm lại, ta phải luôn nhớ ơn người chỉ lỗi ta, dù lỗi nhỏ hay lỗi lớn. Đồng thời, Phật cũng dạy: ta nên thân cận với những thầy bạn hiền từ để ta học hỏi. Nhờ đó, ta mới khai phá cái kho tàng vô giá của ta mà lâu nay nó bị chôn vùi dưới lớp dầy bùn nhơ vô minh phiền não.
77. Những người khéo khuyên răn dạy dỗ, can ngăn tội kẻ khác, được người lành kính yêu bao nhiêu thì bị người dữ ghét bỏ bấy nhiêu.
Let him admonish, instruct and shield one from wrong; he, indeed, is dear to the good and detestable to the evil.
Kệ Tụng
Những người hay khuyên dạy
Ngăn người khác làm ác
Được người lành kính yêu
Bị người ác ghét bỏ.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nói rõ tâm bệnh của chúng sanh nói chung, nói riêng tâm bệnh của chúng ta. Thật vậy, hành động hoặc lời nói khuyên răn kẻ khác là xuất phát từ tâm thiện của người khuyên răn. Như thế, tất nhiên, nó sẽ đồng cảm với những người lành. Vì bản chất người hiền từ đạo đức, họ muốn ai cũng phải hiền từ đạo đức như họ. Do đó, mà họ sẽ bị kẻ ác ghét ganh. Kẻ ác, bao giờ họ cũng muốn có thêm người bạn ác. Tâm lý nầy ta quá rõ. Thường kẻ hiền hay bị kẻ ác hãm hại.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng: kẻ ác mà hại người hiền, khác nào như ngước mặt lên trời phun nước miếng. Nước miếng kia không bao giờ lên đến trời mà trở lại rớt vào mặt mình. Cũng ví như kẻ đứng dưới gió giê bụi, bụi không bao giờ lên ngược gió mà trở lại rớt vào mình. Phật nói kẻ ác tâm hại người hiền lương cũng như thế. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
Kẻ có đạo đức làm sao có thể sống chung với kẻ không đạo đức. Kẻ không đạo đức chuyện gì mà họ chẳng dám làm. Bạn hiền khó kiếm, chớ bạn ác dễ tìm. Chơi chung với bạn hiền, mình cảm thấy an tâm hơn. Nhưng kẻ ác họ không để mình yên. Lúc nào họ cũng tìm cách hãm hại. Đôi khi, vì lòng ganh ghét, họ bất chấp thủ đoạn. Họ làm cho đôi bạn hiền, từ đang chơi thân với nhau trở thành thù hận ganh ghét lẫn nhau. Vì hiền từ, nên dễ bị lầm kế mắc mưu ly gián của họ.
Khi khuyên can bạn về bất cứ vấn đề gì, ta cũng nên khéo léo mà can ngăn. Bởi vì kẻ bị khuyên răn dạy dỗ lúc nào cũng có nhiều tự ty mặc cảm. Khi phải khuyên răn, ta nên khéo dùng lời. Không phải vì sợ kẻ ác dòm ngó ganh tỵ ta, mà ta không dám khuyên răn bạn mình. Vẫn biết họ là kẻ phá đám ta. Biết thế, lúc nào ta cũng nên cẩn thận phòng thủ. Phòng thủ họ còn hơn phòng thủ rắn độc. Vì rắn độc, nếu có cắn ta, thì ta chỉ chết một đời. Ngược lại, nếu bị kẻ ác hại ta mà ta không nhẫn nhịn được, tất nhiên là ta phải gây tạo nghiệp ác giống họ. Như thế, thì chẳng những ta bị đau khổ hiện đời mà còn kéo dài nhiều đời sau nữa.
Do đó, Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy rõ hai hạng người. Một hạng người hiền lành và một hạng người hung dữ. Người hiền lành, thấy ai khuyên kẻ khác, thì họ biểu đồng tình ủng hộ. Vì họ là người bạn đồng hành với người lành. Ngược lại kẻ ác, thì tìm cách hãm hại sau lưng. Lòng kẻ ác bao giờ cũng nham hiểm, khó lường. Họ là hạng người:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Hạng người nầy, bề ngoài họ tỏ ra như thân thiện với mình, nhưng bên trong là họ đang tìm cách hại mình. Biết bao người đau khổ điêu đứng, vì lầm họ. Họ là kẻ bãi buôi lịch sự ngọt dịu bề ngoài. Đối với ai, họ cũng tỏ ra bặt thiệp vui vẻ. Nhìn họ khó biết. Người mà họ muốn hại, thì họ lại càng chơi thân thiện hơn. Có thân thiện, thì họ mới dễ gần gũi hãm hại. Người bị hại khó phản ứng trở tay kịp.
Tóm lại, pháp cú nầy, Phật dạy chung cho người xuất gia và tại gia. Dù giới nào, Phật cũng cho ta biết trước tâm lý con người mà cẩn thận trong việc giao du và khuyên can bạn bè.
78. “Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.”
79. “Pháp hỷ đem an lạc,
Với tâm tư thuần tịnh;
Người trí thường hoan hỷ,
Với pháp bậc Thánh thuyết.”Lược giải
78. Chớ nên kết bạn với người ác, chớ nên kết bạn với người kém hèn, hãy nên kết bạn với người lành, với người chí khí[90] cao thượng.
Do not associate with evil companions; do not seek the fellowship of the vile. Associate with good friends; seek the fellowship of noble men.
Kệ Tụng
Chớ thân với bạn ác
Chớ thân với tiểu nhân
Hãy thân người bạn lành
Hãy thân người quân tử.
Lược giảng
Pháp cú nầy, một lần nữa, Phật lại đặt nặng vấn đề kết giao bạn. Hai pháp cú trên, Phật đề cao và nói rõ về việc chỉ lỗi khuyên răn bạn. Riêng Pháp cú nầy, Phật dạy rõ và khuyên ta về việc kết bạn. Lý do tại sao Phật nhắc đi nhắc lại vấn đề nầy nhiều lần? Chúng ta còn nhớ ở Phẩm Ngu, pháp cú 61, Phật cũng đã nói đến vấn đề kết bạn. Phật bảo, khi kết bạn, phải kết bạn với kẻ ngang mình, hoặc hơn mình, chớ không nên kết bạn với kẻ kém hơn mình. Nói rõ ra là kẻ ngu hơn mình. Ở đây, tức Phẩm Trí nầy, Phật dạy ta không nên kết bạn với người ác. Để hiểu rõ hơn ta tạm chia pháp cú nầy ra thành 4 đề mục nhỏ:
1. Tại sao Phật dạy ta không nên kết bạn với người ác?
Vì giao du với kẻ ác, ít nhiều gì ta cũng sẽ bị ảnh hưởng ở nơi họ. Chắc ai cũng quá rõ, không cần phải giải thích. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin góp chút ý mọn cùng với quý vị về vấn đề nầy. Như trên đã nói, người ác, tâm địa của họ rất khó lường. Họ là kẻ gian lừa tráo trở lật lọng đủ thứ. Họ thuộc hạng người lòng lang dạ sói. Người ta thường nói, những kẻ ác là những kẻ bán Trời không mời Thiên lôi. Kẻ ác cũng có nhiều hạng, tùy theo tâm địa của mỗi người. Thật ra, bản chất của họ không phải sanh ra là ác liền. Mặc dù chủng tử ác trong tâm ai ai cũng sẵn có. Nhưng hầu hết, những người trở nên đại gian ác đều do huân tập ở nơi môi trường sống của xã hội mà ra. Một kẻ, trước kia rất là hiền từ, nhưng khi giao du với bạn bè, cậu ta cứ bị đám bạn bất lương lấn hiếp mãi. Tức nước phải vỡ bờ, vì một phút không còn kềm chế được sự giận tức căm hờn, nên cậu ta đã ra tay giết người. Từ đó, biến cậu ta, từ một con người ngoan hiền, trở thành một tay anh chị gian ác. Thực trạng nầy đã xảy ra quá nhiều. Lòng ác của con người, dù nó có sẵn, nhưng nếu gặp môi trường tốt, thì hạt giống ác kia khó mà phát sanh tăng trưởng. Vì thế, mà Phật dạy: “Chớ nên giao du với người ác”. Nếu là một người hiền mà thường xuyên giao du với họ, tất nhiên, khó tránh khỏi sự tiêm nhiễm ảnh hưởng. Gần họ có khác nào giao trứng cho ác. Nghĩa là sớm muộn gì mình cũng sẽ trở thành như họ. Tiêm nhiễm ở nơi tánh hiền thì khó, chớ còn tiêm nhiễm theo tánh ác thì rất dễ. Sách Nho có câu: “kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang, kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh giả”. Nghĩa là: thấy người làm việc thiện, cho mình như chẳng bằng người. Thấy người làm ác, như đút bàn tay vào nước đang sôi. Thấy người hiền từ nhân hậu, mình phải cố gắng làm cho bằng người. Thấy kẻ bất lương, mình nên tự xét lại ở nơi mình và đừng giao du chơi thân với họ.
Thấy người làm việc tốt lành
Mình như thua kém tiến nhanh bằng người
Thấy ai làm ác hại đời
Như rờ nước nóng phải dời lánh xa.
Thấy người hiền hậu ôn hòa
Phải nên cố gắng để ta bằng người.
2. Tại sao Phật dạy chớ nên kết bạn với người kém hèn?
Nói kém hèn ở đây, tất nhiên, kém hèn về mặt đạo đức và kiến thức. Chớ không phải kém hèn về mặt vật chất nghèo nàn. Vì người thiếu đạo đức, họ chưa hẳn là kẻ ác, nhưng mà họ không biết tu niệm gì cả. Họ sống buông lung trụy lạc. Họ thiếu chất liệu tình người. Họ dửng dưng trước cảnh thương tâm. Vì họ thiếu kiến thức học hỏi, nên trình độ hiểu biết của họ rất kém. Ta gần họ, chỉ chuốc thêm phiền phức bực mình. Vì ta với họ không hợp trên trình độ trao đổi kiến thức. Bởi thế, Phật dạy, tốt hơn hết, là ta không nên gần, để tránh hậu quả không hay. Điều nầy, trên thực tế xã giao hằng ngày ta đã thấy rõ. Không cần phải lý luận bàn nhiều.
3. Tại sao Phật dạy ta hãy nên kết bạn với người lành?
Ai cũng biết người lành là người có đạo đức. Người có tánh tình hiền hậu rất dễ kính mến. Gần họ, ta cảm thấy an vui. Vì họ lúc nào cũng cho ta niềm vui. Người hiền là người có cung cách hành xử. Nói hiền ở đây, xin chớ vội hiểu như cục đất. Nghĩa là họ là người thiếu hiểu biết. Hay nói theo người đời, gọi họ là kẻ: “hiền giả quá ngu”. Mà người hiền nói ở đây, phải là người có đầy đủ đạo đức, hiểu biết, và tình người. Họ là người hướng dẫn ta trên bước đường tu tập hành thiện. Chẳng những hiện đời được lợi lạc, mà tương lai ta cũng được lợi ích. Đó là mẫu người mà Phật khuyên ta nên kết thân với họ.
4. Phật dạy: Hãy kết thân với người chí khí cao thượng.
Chí khí cao thượng ở đây, theo Hòa Thượng Thiện Siêu giải thích trong quyển Pháp cú do Hòa Thượng phiên dịch, thì nó có nghĩa là: “Người không còn điều ác ở thân, khẩu, ý nữa, chuyên việc tế độ chúng sanh”. Đây là hạng người mà ta cần thân thiện. Nhưng ở thế gian, khó tìm cho ra hạng người nầy. Không phải là không có, nhưng rất hiếm thấy. Nếu ta gặp bậc cao đức nầy, thì thật ta là kẻ đại phước. Gần gũi với bậc nầy, đời ta chắc chắn sẽ được thăng hoa. Có những người tuy chưa được trọn vẹn ở nơi ba nghiệp, nhưng họ là người có một nếp sống rất hiền từ đáng kính. Có thể nói, phần thô của ba nghiệp, họ đã dứt trừ. Trong ba nghiệp, cái khó đoạn trừ nhứt là Ý nghiệp. Vì ý nghiệp là động cơ tạo nghiệp mà nó lại là thứ rất khó biết. Vì nó không có hình tướng cụ thể như thân và khẩu. Thế nên, muốn trừ nó cho đến tận gốc, thì không phải là chuyện dễ dàng một sớm một chiều mà dứt trừ được. Nói trừ là nói theo tương đối. Nếu nói theo giáo lý Đại thừa, thì ta chỉ cần chuyển nó, chớ không có trừ đoạn. Nói theo Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca thì, “tam độc thủy bào hư xuất một” hay “Vô minh thật tánh tức Phật tánh”. Đã thế, thì có chi là trừ là đoạn. Ngài Tú Tài Trương Chuyết cũng nói:
“Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh
Thú hướng Chân như tổng thị tà”
Như vậy, nếu ta gần gũi với người có ý chí cao thượng, tất nhiên, không sớm thì muộn ta cũng sẽ trở thành giống như họ. Điều nầy, đọc Thiền sử ta thấy rất rõ. Có biết bao Thiền sinh được ngộ đạo, cũng nhờ có duyên phước sống gần gũi với những bậc cao thâm đức độ. Nếu không sống gần gũi với những vị nầy để học hỏi, thì làm gì có cơ duyên ngộ đạo. Đó là một lẽ thật không ai có thể phủ nhận được.
79. Được uống nước Chánh pháp thì tâm thanh tịnh[91] an lạc[92], nên người trí thường vui mừng nghe thánh nhơn[93] thuyết pháp.
He who drinks deep the Dhamma lives happily with a tranquil mind. The wise man ever delights in the Dhamma made known by the Noble One (the Buddha).
Kệ Tụng
Người thấm nhuần chánh pháp
Sống hạnh phúc an lạc
Với tâm niệm thuần tịnh
Người trí thường hoan hỷ
Nghe thánh nhân thuyết pháp.
Lược giảng
Tại sao được uống nước Chánh pháp thì tâm thanh tịnh an lạc?
Hai chữ “uống nước” là diễn tả tâm trạng của người đang khao khát. Một bác nông phu đang làm việc ngoài đồng áng, dưới ánh nắng chói chang như thiêu đốt, bác cảm thấy rất là khát nước. Cổ họng của bác khô khan. Bác thèm khát một bát nước lạnh. Bác mong có được nước uống từng giây từng phút. Giữa lúc khao khát đến cực độ đó, bác cảm thấy không có gì quý hơn nước. Bác có thể nhịn ăn đôi ba ngày không sao, nhưng bác không thể nhịn uống được. Vàng bạc châu báu, đối với bác lúc nầy thật vô nghĩa lý. Dù cho người ta đổ trước mặt bác một đống vàng hoặc kim cương, bác cũng không thấy gì quý giá. Vật quý giá nhứt của bác bây giờ phải là nước và nước. Vâng! chỉ có nước uống là trên hết. Nhưng nước uống, tuy cũng có nhiều thứ, nhưng thứ mà bác cần nhứt bây giờ là nước đá lạnh. Không cần thứ gì khác.
Giữa lúc thật là khao khát đó, b?ng có người đem nước đến cho bác, bác ta vui mừng khôn xiết và hai tay bưng bát nước uống một cách ngon lành.
Điều nầy, ai đã từng một lần khát nước qua thảy đều biết rõ. Nhứt là trên những chiếc tàu vượt biên, không may lênh đênh trên biển cả nhiều ngày. Lúc bấy giờ, lương thực khô cạn. Thức ăn nước uống không còn. Cơn khát hoành hành dữ dội không sao diễn tả. Vàng bạc của quý trên tàu đều có đó, nhưng tất cả đều là vô dụng. Chỉ cần nước, dù phải đổi bao nhiêu vàng cũng được. Đấy! Khi nào cơn khát thèm thuồng lên đến cực độ như thế, thì người ta mới thấy được giá trị của nước. Một giá trị mà không có gì đổi được. Vì sao mà nước có giá trị quan trọng đối với họ như thế? Bởi vì nó rất thiết yếu cho nhu cầu mạng sống của họ. Thiếu nó là mạng sống của họ không còn. Vì quý trọng mạng sống, nên người ta phải cần đến nó.
Nêu ra hai sự kiện trên, để chúng ta thấy được giá trị của nước đối với người đang khát biết là ngần nào! Cũng thế, đối với Chánh pháp của Phật, chỉ làm đã khát đối với những ai đang khao khát. Còn đối với những ai không khao khát, thì họ rất coi thường. Cũng như nước uống, có giá trị tuyệt đối, là đối với những ai đang khao khát. Còn đối với những người không khát, thì họ lại xem thường. Dù rằng, lúc bình thường, người ta cũng biết giá trị cần thiết của nó. Nhưng họ chưa lâm vào hoàn cảnh cực kỳ thèm khát đó, thì họ không nhận ra giá trị tuyệt đối của nó. Hình ảnh làm lụng mệt nhọc vất vả của bác nông phu và hình ảnh khổ đau ngút ngàn tuyệt vọng của thuyền nhân nói trên, để nói lên tâm trạng của con người đang đau khổ trong sanh tử mong cầu thoát ly. Chỉ có những con người khao khát muốn thoát ly ra khỏi nỗi thống khổ của tam giới, thì mới gấp rút tìm nước Chánh pháp của Phật để uống vào. Họ uống một cách chân thành tha thiết, như những người khát nước nói trên. Nhờ đó, mà họ mau đạt được tâm thanh tịnh an lạc.
Ngoài ra, đối với những người không có tấm lòng tha thiết học hỏi chánh pháp, mặc dù chánh pháp vẫn có đó, nhưng đối với họ vẫn coi thường. Giống như người không khát nước. Dù nước có trước mặt họ, họ cũng không thèm uống. Họ là hạng người thiếu căn duyên Phật pháp. Hạng người nầy, Phật cho họ là những người còn đang sống trong si mê. Khác nào như những người đang say mê trong giấc mộng.
Ngược lại, người trí họ ý thức được nỗi đau khổ của kiếp sống con người, nên họ tìm cách thoát ly. Khi tiếp nhận được giáo pháp của Phật, họ rất say mê thích thú nghiên tầm học hỏi. Họ rất tôn trọng khi nghe pháp. Họ kính trọng giáo pháp, vì chỉ có giáo pháp của Phật mới cứu thoát được nỗi thống khổ của họ mà thôi. Nên họ cần phải uống. Họ uống vào cảm thấy tươi mát, nhẹ thoát tâm hồn. Giống như người đang khát uống nước vào cảm nghe thật là tươi mát khỏe khoắn vui sướng. Không có niềm vui nào hơn, khi đáp ứng được lúc đang tuyệt vọng khao khát đó. Bởi thế, nên người ta thường nói giáo pháp của Phật như nước cam lồ. Đó là nước cam lồ từ bi. Nó có công năng xoa dịu mọi tâm hồn đang đau khổ. Những ai có duyên gặp được Chánh pháp của Phật, mà không chịu khó nghiên tầm học hỏi, hoặc không nghe các bậc Tôn đức thuyết giảng, thì đó là điều thiếu sót lớn lao. Nhứt là đối với hàng Phật tử chúng ta, dù tại gia hay xuất gia, tất cả cần nên gia công nỗ lực học hỏi Phật pháp không ngừng. Từ đó, ta đem ra áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày. Có thế, thì đời ta mới được an nhàn giải thoát. Ta nên nhớ không ai cởi trói cho ta, bằng chính ta tự cởi trói cho ta.
80. “Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.”
81. “Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào giao động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Người trí không giao động.”Lược giải
80. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nảy mực đo cây, còn người trí thì lo tự điều phục lấy mình.
Irrigators regulate the waters; fletchers straighten the arrow shaft; carpenters shape the wood; the wise control themselves.
Kệ Tụng
Người dẫn thủy dẫn nước
Kẻ bắn cung nắn tên
Người thợ mộc uốn ván
Kẻ trí thức nhiếp thân.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nêu ra ba thí dụ qua ba hình ảnh của mỗi công việc chuyên môn và cần thiết, việc ai nấy lo. Qua ba thí dụ nầy, nếu suy rộng ra, ta thấy rất hay trong việc áp dụng tu hành. Mặc dù đây không phải là thâm ý của Phật muốn nói đến.
Người tưới nước thì lo dẫn nước. Hình ảnh nầy cho ta thấy, một thí dụ cụ thể trong việc khéo ứng dụng học hỏi tu hành. Ngoài việc nói lên tính chất chuyên môn ra, nó còn gợi lên đất bị khô cằn cần phải dẫn nước vào. Người làm ruộng, cần phải dẫn thủy nhập điền. Muốn lúa tốt không thể thiếu nước. Đất quá khô khan, thì lúa làm sao phát triển tốt tươi được. Tất nhiên, nó phải héo và chết dần. Nhứt là bị hạn hán lâu. Cũng thế, đất tâm của chúng ta cũng đang bị khô cằn, vì thiếu nước Chánh pháp tưới vào. Vì thiếu nước Phật pháp tưới vào, nên những “cây lúa trí tuệ” càng ngày càng bị khô héo và chết rụi dần. Muốn cho chúng được tươi tốt, kẻ biết lo chăm sóc, thì không thể không lo dẫn nước Phật pháp vào. Phải dẫn nước và tưới vào một cách thường xuyên. Có thế, thì mới mong đạt được thành quả tốt đẹp.
Đến điều dụ thứ hai, Phật nêu ra người thợ lo uốn nắn cung tên. Đây là một thí dụ, một hình ảnh rất lý thú. Công dụng của cung tên là để bắn. Người muốn bắn giỏi cần phải học cách bắn. Đồng thời phải thường xuyên luyện tập. Có thế, thì mới mong bắn bách phát bách trúng. Khi bắn, tất nhiên phải nhắm thẳng mục tiêu mà bắn. Người bắn giỏi không thể để lệch mục tiêu. Cũng vậy, cung tên Thiền định và Trí tuệ là hai thứ rất cần thiết đối với người tu hành. Vì người tu hành mà thiếu hai thứ nầy, thì thử hỏi: “làm sao có thể bắn được lũ ma quân phiền não?”. Vì lũ giặc nầy, không giây phút nào mà chúng không tấn công ta.
Thế nên, người chiến sĩ giải thoát, muốn đạt được mục đích của mình nhắm tới, thì không thể nào dám bỏ rơi cung tên. Có thể nói, cung tên như bùa hộ mạng của ta. Không có chúng là chúng ta sẽ mất mạng ngay. Và chỉ có hai loại cung tên nầy, mới có thể tiêu diệt được bọn giặc ma quân phiền não. Trong sách Thiền có nêu ra câu chuyện về việc bắn tên nầy.
Thiền Sư Huệ Tạng cũng gọi là Thạch Cũng, lúc còn tại gia, Sư chuyên nghề săn bắn, không thích gặp các nhà tu. Một hôm, nhơn đuổi bầy nai chạy qua trước am Mã Tổ, gặp Mã Tổ đứng trước.
Sư hỏi:
- Hòa Thượng thấy bầy nai chạy qua đây chăng?
Mã Tổ hỏi lại:
- Chú là người gì?
- Thợ săn.
- Chú bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con?
- Một mũi bắn được một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Hòa Thượng bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên Hòa Thượng bắn được mấy con?
- Một mũi tên bắn được một bầy.
- Sanh mạng chúng nó, đâu nên bắn một bầy.
- Chú đã biết như thế, sao không tự bắn?
- Nếu dạy tôi bắn tức không có chỗ hạ thủ.
- Chú nầy phiền não vô minh nhiều kiếp, ngày nay chóng dứt.
Ngay khi đó, Sư ném cung bẻ tên, tự lấy dao cạo tóc, theo Mã Tổ xuất gia.
Một hôm, Sư làm việc ở nhà trù, Mã Tổ xuống hỏi:
- Làm việc gì?
Sư thưa:
- Chăn trâu.
- Làm sao chăn?
- Một khi vào cỏ, bèn nắm mũi kéo lại.
- Con thật là chăn trâu. (Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng, trang 209, do Thiền Sư Thích Thanh Từ soạn dịch).
Đến thí dụ thứ ba, Phật nêu ra một hình ảnh thí dụ: “người thợ mộc lo nảy mực đo cây”. Người thợ mộc mà thiếu mực giây, thì còn gì là thợ mộc. Dù cho người thợ mộc có tài ba đến đâu, cũng không thể nào thiếu hai thứ dụng cụ nầy. Vì nó có công dụng làm cho ngay thẳng. Muốn cưa cắt cây mà không nảy mực, tất nhiên, là cưa phải xéo và đôi khi còn bị hư cây. Còn nếu không có thước tấc, thì làm sao đo cây. Cả hai thứ rất quan trọng đối với người thợ mộc. Cũng thế, người tu hành nếu thiếu thước, mực “giới luật” thì còn gì là người tu. Tu hành không có dùng mực thước giới luật để gìn giữ đo đạc cho ngay thẳng, không cong quẹo, thì tất nhiên, người đó sẽ rơi vào hố trụy lạc khổ đau.
Muốn biết người tu có đức hạnh hay không, là phải cần lấy mực thước giới luật để đo. Thiếu hai thứ nầy, thì không thể nào đo đạc chính xác được. Cũng thế, người tu thiếu gìn giữ giới luật, thì không thể nào tiến đến đạo quả cao thượng được. Vì giới luật là nền tảng của đạo giải thoát vậy.
Sau khi nêu ba thí dụ trên, cuối cùng, đức Phật so sánh và kết luận: “còn người trí thì lo tự điều phục lấy mình”. Câu kết luận nầy của Phật làm cho chúng ta nhớ lại pháp cú thứ 9 trong Phẩm Song Yếu. Phật dạy: “mặc áo ca sa mà không rời bỏ những điều uế trược, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn”. “Điều phục lấy mình” đâu có khác gì là “thành thật khắc kỷ”. Người tu hành muốn được giải thoát mà tối ngày cứ để cho tâm buông lung phóng túng chạy rong theo trần cảnh, thì làm sao giải thoát cho được. Muốn giải thoát, chúng ta cần phải chế phục tâm mình. Chúng ta không cho nó tự do buông lung vào ngũ dục, lục trần. Phải thường xuyên cảnh giác khắc chế sáu căn. Trong sáu căn, đầu đảng là Ý căn. Tên đầu đảng nầy sắp đặt chủ mưu mọi việc. Thiện hay ác đều do nó chủ động tạo thành. Cho nên, Phật dạy nhiệm vụ chính của người tu không luận xuất gia hay tại gia, đều phải nhiếp hộ sáu căn. Vì luân hồi hay giải thoát, đều do sáu căn nầy mà ra. Điều nầy, trong Kinh Lăng Nghiêm Phật đã chỉ bày rất rõ cho Ngài A nan. Phật nêu ra và so sánh với ba việc làm của ba hạng người chuyên môn trên, để Phật nói rõ về nhiệm vụ của người tu. Người đời thường nói: “nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh”. Chỉ cần một nghề, chuyên tinh làm tới nơi tới chốn, thì kết quả rất thành công tốt đẹp. Ngược lại, người nhiều nghề, không nghề nào tới đâu, cái gì cũng biết mưa mứa, không ra chi, thì thử hỏi người đó sẽ ra sao? Chắc chắn là họ sẽ thất bại trong nghề nghiệp của họ. Cũng thế, người tu hành, muốn có kết quả thành công như ý muốn, thì không thể tạp tu được. Mỗi người phải chọn cho mình một pháp môn hành trì. Tất nhiên, phải phù hợp với căn cơ của mình. Sau khi chọn xong (trạch pháp) mình phải chuyên cần tinh tấn tu tập.
Thí như, chúng ta đã chọn pháp môn niệm Phật, thì ngày đêm đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta phải hết lòng chuyên tâm niệm Phật. Nhờ sự chuyên tâm đó, mà kết quả chúng ta sẽ chóng được thành công. Nghĩa là chúng ta sẽ đạt được “nhứt tâm bất loạn”. Có người, vì thiếu quyết tâm chọn cho mình một pháp môn tu hành vững chắc, rồi cứ nay chạy chỗ nầy, mai chạy chỗ kia. Nghe đâu lạ lạ là chạy theo. Chạy theo mà không cần dùng trí huệ biện biệt. Người như thế thuộc dạng người “ba phải”. Nghĩa là cái gì đối với họ cũng phải hết. Cuối cùng, họ chẳng được lợi lạc gì! Hạng người như thế, tu cả đời, rốt lại chỉ là con số không to tướng.
Có người còn tệ hơn, cái gì họ cũng tin và tu theo, họ không cần biết tà chánh gì cả. Hỏi họ lý do tại sao? Họ bảo: họ là người tu theo kiểu mới: “Hòa đồng Tôn giáo”. Giáo nào họ cũng tu theo được. Dù đó là tà giáo. Miễn sao có chữ Giáo là được. Quả thật, họ là hạng người rất đáng thương!
Tóm lại, qua pháp cú Phật dạy trên, chúng ta cần phải lưu tâm suy tư chính chắn. Vì nó rất quan trọng cho việc tu hành của chúng ta. Nếu muốn thành công trên đường tu, chúng ta cần phải nhìn lại mình thật kỹ. Phải thường xuyên quán chiếu vào pháp môn mình đang tu. Có nhìn lại và hành trì miên mật pháp môn mình đang chọn tu như thế, thì chắc chắn con đường thành công đối với chúng ta sẽ không còn xa vời nữa.
81. Như ngọn núi kiên cố, chẳng bao giờ bị gió lay, những lời phỉ báng hoặc tán dương, chẳng bao giờ lay động được người đại trí[94] .
Just as a solid rock is not shaken by the storm, even so the wise are not affected by praise or blame.
Kệ Tụng
Như hòn đá kiên cố
Không gió nào lay động
Giữa tiếng đời khen chê
Người trí không giao động.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật lấy hòn núi vững chắc để làm thí dụ và so sánh. So sánh cái gì? So sánh giữa hòn núi cùng lời khen chê. Hòn núi đứng sừng sững vững chắc, dù bị trải qua biết bao nắng táp mưa sa, phong ba bảo tố, nhưng không bao giờ làm lay động hòn núi. Hòn núi vẫn vươn mình thẳng đứng trơ gan cùng tuế nguyệt, không hề lay động. Hòn núi để dụ cho sức Định thâm sâu của bậc đại trí. Người tu hành có một định lực kiên cố và trí huệ sáng ngời, thì thử hỏi có ngọn gió khen chê nào thổi mà làm lay động họ được. Đối với những vị nầy, chẳng những một hay hai ngọn gió thổi thôi, mà dù cho cả tám ngọn gió thổi tới tắp cùng một lúc, thì đối với họ, thật cũng không hề hấn gì. Ngược lại, đối với chúng ta thì sao? Chừng mấy ngọn gió thổi chúng ta lay động? Chúng ta có chịu nỗi tám ngọn gió thổi không? Hay là chỉ cần một ngọn thổi thôi là chúng ta đã bị trốc gốc rồi. Mỗi người tự kiểm điểm lại mình, coi sức tu hành của mình tới đâu? Và có thể chịu đựng được bao nhiêu ngọn gió thổi? Nếu chỉ một ngọn gió khen hoặc chê thổi tới mà chúng ta không đủ sức chịu đựng được, thì sự tu hành của ta còn quá kém. Một ngọn gió chịu không nỗi, thì làm sao chịu nỗi tám ngọn? Mà tám ngọn gió nầy, không lúc nào lại không thổi tới chúng ta. Chúng thổi thường xuyên và có khi thổi lên tới cấp tám, cấp chín.
Thế thì phải làm sao? Muốn chống lại chúng, thì chúng ta phải chuyên cần trau giồi thêm định lực. Giống như người tập võ phải chịu khó vận công luyện tập thường xuyên. Dù cho một người có võ lực cao cường đến đâu, mà hằng ngày anh ta thiếu gia công kiên trì luyện tập chuyên cần, thì chắc chắn võ lực của anh ta sẽ bị suy kém lụt dần. Lúc đó, bất thần, khi bị địch thủ hạng nặng tấn công, thì anh ta không thể nào trở tay cho kịp. Thế là hậu quả đối với anh thật là tai hại. Người tu hành cũng thế. Nếu mình không vận dụng công phu tu tập, cho có một nguồn định lực khá, thì khi đối cảnh xúc duyên mà cụ thể như Phật nói ở đây là những lời khen chê phải trái đưa tới, thì chắc chắn không làm sao giữ tâm không lay động. Đã có lay động, tất nhiên, theo sau đó là có những tệ hại phiền não xảy ra. Định lực đối với người tu rất là quan trọng. Dù tu bất cứ pháp môn nào, cũng phải tiêu trừ phiền não để có được định lực.
Nhưng muốn có định lực, hành giả cần phải có huệ. Trí huệ có một năng lực rất lớn trong việc phá tà hiển chánh. Nhờ có trí huệ, hành giả mới thấy rõ được bản chất của sự vật. Bản chất của sự vật là không. Tất cả đều hư huyễn, giả có. Chúng chỉ là những thứ duyên hợp, như tia điện chớp. Điện chớp loé lên rồi chợt tắt, có đó rồi lại không. Nhưng bầu trời trong sáng vẫn luôn luôn an định bất biến. Vạn vật ở đời cũng thế. Mọi sự biến động qua lại, chỉ là trò đùa đối với người đạt đạo. Có gì mà phải bận tâm dính mắc. Vạn vật đã thế, thì bát phong cũng chỉ là tám ngọn gió thổi chơi trong bầu trời trong tạnh. Vấn đề thị phi, đối với một con người chứng đạo, như Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói:
“Tùng tha báng, nhậm tha phi
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lồ
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”.
Nghĩa là:
Tốt và xấu nhà nhà đều có
Thị với phi chốn chốn “hưởng” đồng nhau
Mặc tâng khen, mặc phỉ báng, đừng nao
Họ tự bỏng, bằng ngọn lửa đốt trời trong tay họ
Lời phỉ báng, nghe như ru, như gió thoảng
Ngọt như cam lồ, mát tợ xuân phong
Tìm đâu ra! bực bội với u sầu?
Nó tan biến trong cảnh giới “Bất tư nghì” giải thoát.
(Hòa Thượng Từ Thông dịch)
Với cái nhìn của người chứng đạo, các Ngài coi chuyện thị, phi, nhơn, ngã, bỉ, thửnhư trò đùa của những đứa trẻ giởn chơi bắt bóng. Những chuyện đó, ở đâu lại không có, nhà nào lại không vào, xứ nào mà tránh khỏi. Nhưng, ta nên nhớ rằng:
Thị phi chung nhựt hữu
Bất thính tự nhiên vô.
Nghĩa là:
Chuyện thị phi mỗi ngày đều có
Chẳng nghe tự nhiên không.
Muốn chẳng nghe, ta cần phải tập có “chánh niệm”. Khi có chánh niệm, ta có thể đối phó với những nghịch cảnh dễ dàng. Điều nầy là chuyện có thật không phải nói ngoa. Nếu ta chịu khó cố gắng tập cho có chánh niệm, thì ta sẽ thấy hiệu quả của nó. Nhưng muốn có được chánh niệm, ta phải cố gắng vun bồi trí huệ. Nhờ có năng lực trí huệ bát nhã, ta mới thường xuyên quán chiếu các pháp, nhứt là đối với sáu trần. Nhờ thế, mà tâm ta bớt nhiễm ở nơi sáu trần. Từ đó, ta mới có được tâm an định. Như vậy, định và huệ là hai yếu tố, chúng hỗ tương nhau rất là mật thiết.
Trên bước đường tu tập, Phật dạy chúng ta phải cố gắng trau dồi hai loại vũ khí: “Trí huệ và Thiền định” nầy. Phải có được sức định như hòn núi, vững chắc bất động, thì sự tu hành mới có thể thành công được. Nếu chưa được rắn chắc như thế, thì ta không thể nào xao lãng trong việc tu hành. Phải thường xuyên huấn luyện tâm ta, như một viên sĩ quan tập lính. Hay giống như một tên lính giữ thành nghiêm nhặt. Đã giữ thành mà xao lãng, không canh chừng theo dõi đề phòng quân giặc cẩn mật, thì ta đánh giá tên lính đó như thế nào? Có thể nói, tên lính đó không còn, mà thành trì cũng mất về tay quân giặc. Có người chẳng những xao lãng không thôi, mà còn bỏ thành đi rong chơi. Thành trì đã bỏ trống, mặc cho quân giặc cứ vào. Tệ hơn nữa, có người còn đồng lỏa rước giặc vào thành. Bao nhiêu đồ quý giá trong thành đều dâng hiến cho quân giặc hết. Những tưởng lo lót như thế kẻ giặc thương tình mà cho mình được yên thân, nào có ngờ đâu họ lại lầm to. Quân giặc, sau khi tom góp hết đồ đạc quý báu trong thành rồi, chúng còn thẳng tay hạ sát tên giữ thành không chút nương tay. Thế là cả chùy lẫn chày đều mất hết.
Thật là đau đớn lắm thay! Bấy giờ, biết than van cùng ai đây! Có ăn năn hối hận cũng đã muộn lắm rồi! Chúng ta có cảm thương cho tên giữ thành đó lắm không?! Hay là chúng ta đều một mặt lên án chê trách, kết tội tên giữ thành đó là con người phản bội, chết đáng kiếp? Nếu chúng ta đồng thanh lên án kết tội anh ta là kẻ phản bội như thế, thì chúng ta hãy thật tâm nhìn lại mình xem có giống tên giữ thành đó hay không? Nếu giống thì sao? Ai kết tội lên án mình đây? Hiện tại mình đang làm gì? Mình có phải là kẻ giữ thành cẩn mật hay là kẻ rước giặc vào thành? Cửa thành luôn luôn mở trống để cho quân giặc tự do ồ ạt tấn công vào. Giặc trong giặc ngoài đều nổi dậy phá nát thành trì. Thử hỏi mình là kẻ trí hay ngu? Ai cũng trách tên giữ thành kia là kẻ ngu muội. Nếu là người trí thì ai mà rước giặc vào thành? Để bọn giặc vào thành và lấy hết của báu. Và nếu là người trí, thì phải giữ thành nghiêm mật. Chẳng những giữ thành thôi, mà còn xây dựng cho thành trì của mình càng ngày càng thêm kiên cố để chống lại giặc trong và giặc ngoài. Có thế mới mong vươn cao ngọn cờ chiến thắng và mới được an bình giải thoát. Đằng nầy, ngược lại, chẳng những thành trì bị mất về tay quân giặc, mà tất cả đồ đạc quý báu trong thành do ông cha nhiều đời để lại một phút chốc mất hết về tay quân giặc. Nghĩ thế, có đau thương rơi lệ lắm không?! Nếu có, thì tự hỏi lòng mình phải làm sao đây? Làm sao khôi phục lại thành trì? Xin mỗi người trong chúng ta hãy suy gẫm kỹ và hãy tìm câu trả lời thích đáng.
82. “Như hồ nước sâu thẳm,
Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp,
Người trí hưởng tịnh lạc.”
83. “Người hiền bỏ tất cả,
Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc khổ,
Bậc trí không vui buồn.”Lược giải
82. Như hồ nước sâu, yên lặng trong sạch, những người có trí sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng.
On hearing the Teachings, the wise become perfectly purified, like a lake deep, clear and still.
Kệ Tụng
Như hồ nước sâu thẳm
Phẳng lặng và trong sạch
Cũng vậy nghe chánh pháp
Người trí hưởng tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dùng hồ nước sâu, yên lặng trong sạch, để thí dụ so sánh cho người trí, sau khi nghe pháp tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng. Thử chúng ta đặt vấn đề, để tìm hiểu lý do: Tại sao người trí sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng? Trong lời dạy nầy, ta nên chú ý cụm từ “những người có trí”. Điều chúng ta nên nhớ, phẩm nầy là Phẩm Hiền Trí, dĩ nhiên, người có trí phải khác hơn người thường vô trí. Nghe pháp thì có rất nhiều người nghe. Trường hợp như chúng ta đã nghe pháp qua bao nhiêu lần? Vấn đề nghe pháp như thế nào, chúng ta sẽ bàn giải sau. Ở đây, chúng ta nên tìm hiểu người trí là người như thế nào? Người trí Phật nói ở đây, không phải là người trí thức thông thường ở thế gian.
Người trí trong Phật pháp, là người có kích thước chiều sâu. Họ thường quán chiếu nội tại hơn ngoại tại. Nhờ quán chiếu như thế, nên họ biết rõ tự ngã của họ hơn. Từ đó, họ nghe pháp lãnh hội dễ dàng. Bởi vì, những lời Phật thuyết pháp, chung quy, cũng chỉ nói lại những gì mà trong người chúng ta sẵn có. Phật không nói những gì ngoài con người. Song rất tiếc, ta chưa có đủ trí huệ sáng suốt, để hiểu thông hết những lời Phật nói. Do đó, nếu chúng ta nghe pháp mà không xoay lại con người của mình để tìm hiểu, thì khó mà lãnh hội được lời Phật dạy.
Nghe pháp của người trí, không phải nghe pháp theo kiểu thường tình của chúng ta.Thường, chúng ta nghe hay chạy theo nắm bắt âm thanh bên ngoài, ít có ai quán chiếu lại mình. Nghe với một tâm hồn dao động, xáo trộn, vọng ngoại, thì làm sao nhận ra lời Phật nói. Ngược lại, người trí thì không như thế. Người trí họ nghe trong sự tỉnh thức. Tâm thức của họ lắng trong như hồ nước trong xanh. Họ nghe lại họ, nhiều hơn là ở ngoại cảnh. Họ nghe câu nào là họ quán chiếu sâu sắc ở nơi câu đó. Họ coi văn tự như là phương tiện, để họ nương đó mà thực tập quán chiếu. Nhờ quán chiếu một cách sâu sắc như thế, nên tâm họ được lắng trong. Xin nhớ quán chiếu, chớ không phải suy tư tìm hiểu. Vì suy tư tìm hiểu là có sự tìm tòi lục lọi của ý thức. Còn quán chiếu thì không. Quán chiếu giống như ánh sáng mặt trời chiếu soi vào muôn vật. Chiếu một cách rõ ràng không qua ý niệm đắn đo phân biệt. Phân biệt là xé nát sự vật ra làm muôn mảnh. Ngược lại, quán chiếu chỉ tương ưng với chánh niệm. Chánh niệm, thì không phân tách chia chẻ sự vật chi ly. Hãy để sự vật giữ nguyên tự thể của nó. Nghe pháp như thế, mới thật sự là nghe pháp của người trí. Và như thế, thì tâm của họ không thanh tịnh, yên lặng là gì!
Cứ nhìn vào hồ nước trong xanh, lặng yên không một gợn sóng lăn tăn, thì ta có thể hình dung được tâm trí yên lặng như thế nào! Ta tự hỏi: Tại sao hồ nước trong xanh yên lặng như thế? Dễ hiểu thôi. Bởi lẽ, không có gì làm chao động nó. Gió không, cặn cáu không, không thứ gì làm đục. Nói gọn, là hồ nước không bị điều kiện gì làm cho nó bị dao động. Vì không có ngoại duyên và nội duyên xen vào, nên nó giữ được tự thể bản chất nước trong xanh. Đơn giản thế thôi.
Nhìn hồ nước trong xanh đó, ta có thể hiểu, tại sao Phật so sánh người trí sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng. Nếu sau khi nghe pháp mà tâm ta thả chạy rong ngao du sơn thủy, thăm nơi nầy, viếng nơi nọ, thì thử hỏi tâm ta có thanh tịnh yên lặng không? Pháp của Phật dạy để cho ta làm gì? Có phải dạy để cho tâm ta được thanh tịnh an lạc không? Mà muốn có thanh tịnh, an lạc ta phải làm gì? Ta cứ lấy tay quậy hoài trong hồ nước tâm của ta, thì bảo sao nó yên lặng được. Tại sao ta không để yên như Phật dạy, mà ta cứ thích quậy. Một mặt thì quậy không ngừng, mặt khác, thì lại muốn yên như hồ nước trong xanh. Như thế, ta có tự mâu thuẫn lấy ta hay không? Tại sao ta lại tự mâu thuẫn như thế? Cái gì bắt ta phải mâu thuẫn lấy ta? Có phải Phật chỉ dạy một đàng, ta làm một nẻo không? Ta hãy thành thật tự vấn và tự trả lời với chính ta. Có trả lời một cách thành thật, thì ta mới có thể tìm ra lý do của sự mâu thuẫn đó.
Đạo Phật là đạo như thật. Đạo Phật đưa ta trở về với cội nguồn của ta. Đạo Phật không muốn cho chúng ta phải phiêu lưu trong ảo tưởng. Vì còn ảo tưởng là còn rơi vào hố thẩm của vọng chấp hai đầu. Ta hãy tập nghe pháp của người trí nghe. Đã lâu rồi, ta nghe theo tiếng gọi của vọng thức. Nghe như thế, thì có khác nào như Ngài Pháp Đạt tụng Kinh Pháp Hoa ba ngàn bộ. Vì Ngài đã bị Pháp Hoa chuyển. Tụng Kinh mà Ngài không chuyển nỗi Kinh. Phải đến Tào Khê gặp Lục Tổ và nhờ Lục Tổ chỉ điểm trúng bệnh, nên Ngài mới hết bị Kinh chuyển.
Tâm trạng nghe pháp của ta hiện nay cũng thế. Vì ta chưa làm nổi theo kiểu nghe pháp của người trí. Bệnh vọng chấp của ta còn nặng quá! Ta chưa dám buông như Ngài Pháp Đạt. Ta viện lý do, vì nghiệp nặng. Thế là ta an trí khỏi phải tìm sâu. Cứ một câu: nghiệp chướng sâu dầy là hết chuyện. Cả đời trôi lăn, cũng theo nghiệp chướng sâu dầy. Nếu ta biết ta nghiệp chướng sâu dầy, thì tại sao ta không cố gắng vươn lên để dũa mòn nghiệp chướng! Nói dũa mòn là một cách nói thôi. Kỳ thật nghiệp chướng bổn lai không, thì có gì phải dũa, phải mài!
Pháp cú nầy, Phật dạy ta cố tập cho được cách nghe pháp của người trí. Cách nghe pháp của người trí là không bị ngoại thanh trần lôi cuốn họ. Họ có một chánh niệm tự chủ vững vàng. Ở đây, Phật muốn cho ta phải tập làm người trí. Phải biết cách nghe pháp. Hãy xoay lại nghe pháp ở nơi chính mình. Vì tâm mình là bài pháp lớn. Có nghe như thế, thì tâm ta mới thật sự thanh tịnh và yên lặng.
83. Người lành thường xa lìa mà không bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí không còn có niệm[95]mừng lo, nên chẳng bị lay động vì khổ, lạc.
The good renounce (attachment for) everything. The virtuous do not prattle with a yearning for pleasures. The wise show no elation or depression when touched by happiness or sorrow.
Kệ Tụng
Người lành bỏ tất cả
Không bàn đến dục lạc
Kẻ trí đối vui buồn
Lòng không vư?ng mừng lo.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nêu ra cho ta thấy rõ hai hạng người: Hiền và Trí. Để hiểu rõ hơn, ta thử đặt vấn đề: tại sao người lành thường xa lìa mà không bàn đến những điều tham dục? Nói xa lìa mà xa lìa cái gì? Tức xa lìa ở nơi ái trước. Ở thế gian, con người đau khổ, đều do ái trước mà ra. Chúng ta nhớ lại, trong mười hai nhân duyên, ái là cái nhân chính trong hiện tại, để có ra đời sau.
Sau “Ái” là “Thủ” (trước) tức chấp chặt, bảo thủ đến cùng không buông ra. Từ “Thủ” rồi tạo nghiệp mà có ra “Hữu” (cõi), đó là thọ sanh qua các cõi ở đời sau. Như vậy, Phật nói người hiền là người mà họ đã nhàm chán ngũ dục. Họ không còn ham muốn những dục lạc thế gian. Vì họ ý thức được vấn đề đau khổ. Càng lún sâu trong ái dục, càng chuốc thêm khổ sầu mà thôi. Cho nên, một khi được thoát ra rồi, họ không muốn bàn đến những thứ đó.
Giống như đàm dãi, khi đã khạc ra khỏi cổ họng, rớt xuống đất, họ nhờm gớm không còn muốn ngó tới. Họ là mẫu người trái ngược với những kẻ còn đầy tham vọng.
Thậm chí, có những hạng người hưởng tất cả dục lạc ở thế gian, mà họ cũng không thấy thỏa mãn. Họ còn muốn phải hưởng cho được những thứ dục lạc ở cõi trời mới vừa ý họ. Như trường hợp vua Đảnh Sanh chẳng hạn. Đối với ông vua nầy, sự thụ hưởng dục lạc, không bao giờ thấy đủ. Nhờ phước báo gây tạo đời trước, nên kiếp nầy ông được làm vua, vui hưởng ngũ dục. Nhưng đối với ông, không bao giờ biết đủ. Do đó, ông thèm thuồng ngôi báu của trời Đế Thích. Vì ông nghe nói, trên cõi trời Đao Lợi có đầy dẫy ngọc ngà châu báu và nhiều cung phi mỹ nữ nhan sắc tuyệt trần. Ông khao khát thèm muốn. Vì những dục lạc thế gian, ông đã hưởng qua, không thấy gì thích thú nữa.
Do đó, với lòng dục vọng thúc đẩy, ông ao ước có được thần thông lên trên đó. Nhờ phước báo, ước gì được nấy, nên ông được lên trên cõi trời Đao Lợi. Khi đến nơi, vua trời Đế Thích đón tiếp ông rất nồng hậu và chia cho ông nửa tòa ngồi chung. Khi đó, ông móng khởi lòng tham ác, muốn xô vua trời Đế Thích rớt xuống trần gian, để ông hưởng trọn ngôi báu nầy. Vừa móng khởi ác tâm như thế, ông liền mất hết thần thông và rơi nhào trở lại thế gian và rồi sau đó, ông lâm trọng bệnh ngặt nghèo. Trước khi chết, ông trăn trối với quần thần, sở dĩ ông đau khổ như thế nầy là vì lòng tham muốn của ông quá độ. Suốt đời, ông thấy không bao giờ biết đủ
Qua câu chuyện trên, cho ta thấy, một con người có quá nhiều tham vọng, không khi nào thấy thỏa mãn. Thử hỏi: con người đó có hạnh phúc không? Dù ở địa vị của một ông vua, nhưng ông không bao giờ có hạnh phúc. Vì sao? Vì lòng ham muốn của ông quá nhiều. Bởi thế, nên trong Kinh bát Đại Nhơn Giác, Phật có dạy: “Đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”. Nghĩa là: Phật dạy: “Người nào ham muốn nhiều, thì khổ nhiều. Vì ham muốn, nên tạo nghiệp ác. Đã có tạo nghiệp ác, tất nhiên, phải thọ quả báo ác. Trải qua bao sanh tử nhọc nhằn, cũng bởi do lòng tham dục chất chồng mà ra. Người nào muốn không khổ, thì phải biết đủ. Nhờ có biết đủ mà vui sống với đạo Vô Vi, thì thân tâm sẽ được tự tại”.
Qua lời Phật dạy tuy ngắn, nhưng chứa đựng đầy ý nghĩa giải thoát. Yếu lý của sự sống, qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta thấy rất rõ về vấn đề nầy. Không có một người nào, lòng họ chứa đầy dục vọng, mà họ sống cảm thấy an vui. Đối với họ, không bao giờ biết đủ dừng lại. Họ đang lái chiếc xe đời của họ càng lúc càng đâm sâu vào tội lỗi. Họ là kẻ đau khổ ngút ngàn. Đời họ chưa bao giờ biết hạnh phúc là gì.
Ngược lại, người biết đủ là người có tràn trề hạnh phúc. Phật khen người đó là người lành. Vì họ biết an phận sống, không bon chen tranh danh đoạt lợi. Do đó, họ có đời sống rất an nhàn, thanh thoát. Kinh Di Giáo Phật dạy: “Tri túc giả, tuy ngọa địa thượng, du vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường diệc bất xứng ý”. Nghĩa là: “Người biết đủ, tuy họ nằm trên đất mà họ vẫn cảm thấy an vui. Còn kẻ không biết đủ, dù họ ở trên trời, cũng không sao vừa ý”.
Đến vấn đề thứ hai, Phật nói: “Kẻ trí không còn có niệm mừng lo, Nên chẳng bị lay động vì khổ lạc”. Ở đời, có những điều không đáng lo mà ta lo. Có những điều không đáng mừng mà ta mừng. Mừng và lo đó là hai trạng thái bất an của kẻ vô trí.
Trường hợp như vua Ba Tư Nặc, khi mẹ ông chết, ông cư tang lo buồn thảm não. Một hôm, ông đến thăm Phật, đức Phật thấy ông thân hình tiều tụy khổ não. Phật hỏi duyên cớ: Vì sao mà nhà vua buồn lắm thế? Ông liền kể bày tự sự hết tình cảnh của ông cho Phật nghe, về cái chết của mẫu thân ông. Ông rất đau lòng, nên mất ăn, mất ngủ, đâm ra thân hình nó bị hốc hác tiều tụy.
Nghe qua, Phật rất thương cảm cho ông và nhân đó, Phật dạy cho ông một bài học về những cái không đáng lo mà lo. Còn những cái đáng lo thì lại quên lãng không lo. Phật nói: Có thân, thì phải có bệnh, có chết. Đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ. Thân của nhà vua cũng không tránh khỏi quy trình đó. Ngay cả thân Như Lai cũng không tránh khỏi. Đã không ai tránh khỏi, thì nhà vua lo buồn có ích lợi gì! Trước mắt là nhà vua đang khổ. Còn cái đáng lo mà nhà vua lại quên mất. Đó là cái sanh tử khổ đau về sau. Biết thế, thì nhà vua gắng chí tu niệm, để đời sau được an vui. Nghe qua những lời Phật dạy, nhà vua thức tỉnh và không còn bi lụy khóc than. Từ đó, vua Ba Tư Nặc càng tinh tấn tu hành nhiều hơn (tóm lược câu chuyện trong truyện cổ Phật giáo).
Người trí, vượt ra ngoài cái mừng lo. Sở dĩ con người đau khổ nhiều, cũng chỉ vì “được thì mừng, mất thì lo”. Mừng, lo, khổ, vui, lúc nào cũng luôn xảy ra đối với con người. Hằng ngày, chúng ta sống trong sự âu lo sợ hãi. Mừng vui không lâu, thì khổ sầu lại đến. Chúng cứ đắp đổi thay nhau, gây cho tâm ta không lúc nào an ổn. Đó là tâm bệnh của kẻ phàm phu. Những con người còn đầy chấp trước. Ngược lại, kẻ trí thì không như thế. Kẻ trí coi chuyện mừng lo, khổ vui của cuộc đời, như trò huyễn hóa. Các Ngài không có gì phải bận tâm. Bởi những thứ đó là những thứ giả trá tạm bợ. Vì họ thấy rõ như thế, nên lòng họ rất bình thản an vui. Họ không khởi niệm suy tư kẹt dính vào những thứ mà người đời u mê dính mắc. Họ biết rõ, trên đời không có gì quan trọng. Bản thân họ không thật, thì thử hỏi, ngoài họ có gì thật đâu mà phải quan tâm lo lắng. Tâm niệm của họ “sống chơi, chết chơi!” Đã có mặt với đời, thì cứ diễn cho hết vở tuồng làm kiếp con người. Lúc nào họ cũng biết, họ là kẻ diễn viên đang diễn xuất trên sân khấu trường đời. Điều chắc chắn của một kẻ diễn viên là phải có lúc mãn tuồng. Biết thế, thì còn âu lo chi đến việc diễn xuất. Khen chê, chỉ là trò đùa, hơi sức đâu để tâm nghĩ tới.
Chuyện khen chê ngày nào chẳng có
Chẳng bận lòng quăng xó ngoài tai
Dù cho ai nói dở hay
Lòng không dính mắc vui thay! Gì bằng.
Chuyện thế sự thăng trầm phải hỏi
Thâu càng nhiều thêm chán lỗ tai
Việc mình mình biết mình hay
Việc người, người biết thày lay làm gì.
x x
x
Lo chi những chuyện không đâu
Để ta phải khổ âu sầu ngày đêm
Lá rơi trước gió bên thềm
Khổ vui, vui khổ, mãi chìm khổ vui.
Thăng trầm bởi tại cái “tôi”
Suy đi, nghĩ lại trọn đời không ra
Bao giờ hết khổ Ta bà
An vui niệm Phật mới là người khôn.
Tại sao ta suy nghĩ nhiều về sự sống, mà ta không chịu sống ngay trong giây phút hiện tại? Chỉ có từng giây phút sống trong chánh niệm mới thật sự là người biết sống. Đã thế, thì chuyện khổ, lạc làm gì lay động được họ. Vì họ là người biết quý trọng và nâng cao sự sống trong từng bước đi an lạc trong chánh niệm. Họ là người đáng sống nhứt trên trần gian nầy.
84. “Không vì mình, vì người.
Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ,
Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp.
Vị ấy thật trì giới,
Có trí tuệ, đúng pháp.”
85. “Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại,
Xuôi ngược chạy bờ này.”Lược giải
84. Không vì mình cũng không vì người để làm chuyện ác, không vì cầu con trai, giàu có hay mưu việc thiên hạ để làm việc ác, không vì cầu phồn vinh cho mình bằng những phương tiện[96] bất chánh. Người nầy thật là người giới hạnh[97], trí tuệ và chánh pháp.
He is indeed virtuous, wise and righteous who neither for his own sake nor for the sake of another (does any wrong), who does not crave for sons, wealth or kingdom, and does not desire success by unjust means.
Kệ Tụng
Không vì mình vì người
Không cầu con, ruộng tiền
Không mưu thần chước quỷ
Chỉ sống thuần đức hạnh
Chánh trí, hợp chánh pháp.
Lược giảng
Thường, con người vì mình mà làm chuyện ác, ít khi vì người mà làm chuyện ác. Ở đây Phật dạy, không vì mình và vì người mà làm chuyện ác. Thế nào vì mình mà làm chuyện ác? Vấn đề nầy, không ai trả lời xác thực hơn bằng chính tự mỗi người. Bởi vì việc làm ác, chính mình hiểu rõ hơn ai hết. Thế gian, từ ngàn xưa đến nay, chỉ vì sự sống cho riêng mình mà tạo ra không biết bao nhiêu tội ác, làm khổ đau không biết bao nhiêu người và loài khác. Hễ muốn cho đời sống của mình được giàu có sung túc, thì phải triệt hạ những ai có cuộc sống hơn mình. Mục đích, muốn thâu gồm tất cả lợi lộc về mình. Lòng tham lam ích kỷ của con người là thế. Đó là nói vì mình mà gây tạo tội ác.
Còn đối với người thì sao? Vì người ở đây, ta có thể hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Về nghĩa hẹp, người ở đây là chỉ cho những người có liên hệ ruột thịt của mình. Như cha mẹ vợ con v.v, có người vì người thân của họ mà họ dám làm tất cả không sợ tội lỗi. Miễn sao những người thân của họ được sung sướng, thì họ bất chấp thủ đoạn tạo ác.
Nói vì người, chớ thật ra cũng vì họ mà thôi. Vì họ muốn cho những người khác phải nể nang trọng vọng họ. Phải lo lắng phục vụ cho họ. Phải đền trả xứng đáng những gì mà họ ra tay giúp đỡ. Họ dám làm tất cả để đổi lấy chút hư danh. Thậm chí họ dám giết người. Họ bất chấp luật pháp. Họ là người cao ngạo. Họ muốn nêu cao cái bản ngã của họ. Nói chung, hạng người ích kỷ, lúc nào họ cũng đặt sự sống của họ lên trên hết. Ai chết mặc ai!
Ở đây, Phật dạy: Không vì mình cũng không vì người để làm chuyện ác. Dạy điều nầy, Phật chẳng những nghĩ tới sự ích lợi cho cá nhân của mỗi người về hiện tại cũng như trong tương lai, mà Phật còn muốn nhắm tới đem lại sự ích lợi cho xã hội. Bởi nếu mỗi người không vì mình cũng không vì người mà làm những điều ác, thì xã hội sẽ được an bình.
Kế tiếp Phật dạy: Không vì cầu con trai, giàu có hay mưu việc thiên hạ để làm việc ác, không vì cầu phồn vinh cho mình bằng những phương tiện bất chánh. Qua lời dạy nầy, để hiểu rõ hơn, chúng ta nên tuần tự tìm hiểu từng vấn đề một.
Không vì cầu con trai, giàu có hay mưu việc thiên hạ để làm việc ác.
Nếu phân tích kỹ hơn của câu nầy, ta thấy Phật nêu ra ba vấn đề không nên làm ác.
a. Không vì cầu con trai mà làm ác.
Tại sao thế? Có thể thời Phật, người ta trọng nam khinh nữ. Theo Trung Hoa thời xưa, thời đại của Khổng Mạnh thì người ta rất trọng nam mà khinh nữ. Bởi thế, mới có câu: “Nhứt nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Nghĩa là: trong gia đình sanh được một đứa con trai quý hơn mười người con gái. Nói cách khác, đem mười người con gái đổi lấy một cậu con trai, không ai thèm đổi. Bởi quan niệm người xưa, sanh con trai là để nối dõi tông đường. Còn con gái thuộc về nữ sanh ngoại tộc. Do đó, mà các cụ quý trọng con trai hơn là con gái. Cho nên, ta thường thấy trong sách vở ghi lại, là người nào không con, hoặc ít con, hoặc sanh nhiều gái mà không có trai, thì họ hay đi cầu con trai. Gọi là cầu tự. Chớ ta không nghe ai nói đi cầu con gái bao giờ. Đấy là theo tập tục trọng nam khinh nữ của thời xưa ở các nước Á Châu.
Tục lệ ở Ấn Độ, thời Phật cũng thế. Do đó, mà những nhà giàu có, họ vì cầu con trai mà họ giết hại những loài sinh vật khác để cúng tế thần linh. Họ van vái nguyện cầu thần linh hộ độ cho họ được sanh con trai. Do mê tín mà họ gây ra nghiệp ác. Bởi cớ đó, nên Phật mới dạy, không vì cầu con trai mà làm ác.
b. Vì giàu có mà làm ác.
Những người vì muốn cho mình được giàu có mà làm những chuyện bất lương. Điều nầy, ta thấy thời nào cũng có. Xã hội nào cũng xảy ra như trấu. Vì muốn mình giàu sang hơn thiên hạ, nên họ bất chấp việc ác, miễn sao thủ lợi về mình cho nhiều thì được. Ngày xưa, ở Việt Nam, thời đại phong kiến, đã có biết bao kẻ nghèo đói đau khổ, kêu trời không thấu, vì bị sự áp chế, bốc lột, hiếp đáp, chà đạp của bọn điền chủ đối với dân nghèo. Họ muốn làm giàu, nên họ dùng mọi thủ đoạn để hãm hại người khác. Điều nầy, trong thực tế, cũng như trong sách sử ghi lại rất nhiều. Nói sao cho xiết.
c. Vì mưu việc thiên hạ mà làm ác.
Vấn đề nầy, Phật dạy cho mấy nhà làm chánh trị thời Phật. Thời đại của Phật, đọc sử ta thấy, có nhiều ông vua, vì chủng tộc, quốc gia của mình mà đem quân đi đánh chiếm các quốc gia khác. Gây nên biết bao cảnh thương tâm chết chóc. Những kẻ tham chiến chết đã đành, còn những người dân vô tội vạ cũng bị chết lây. Cuộc chiến tranh nào mà chẳng thế. Xưa cũng như nay đều thế cả. Chỉ vì một số người nào đó, mà họ kéo cả đại hùng binh để tiêu diệt quốc gia khác. Than ôi! cảnh máu đổ đầu rơi, thịt nát xương tan, biết đến bao giờ nhơn loại mới hết cảnh chém giết lẫn nhau.
Thời đại của Phật, cảnh tranh giành chém giết nhau cũng xảy ra ghê gớm. Bởi thế, nên Phật mới dạy điều nầy. Mục đích chính là Phật nhắm vào những ông vua có quyền uy cai trị. Nhờ đó, mà họ thức tỉnh hãm bớt đà chém giết nhau để thiên hạ được sống an ổn, thái bình.
Không vì cầu phồn vinh cho mình bằng những phương tiện bất chánh.
Lời dạy nầy, Phật nhắm vào những kẻ chuyên sống về nghề nghiệp kinh doanh, kinh tế thị trường. Vì thương mãi, muốn cho mình được phồn vinh, là phải có sự cạnh tranh. Đã có cạnh tranh, tất nhiên, phải dùng đến thủ đoạn. Cũng chỉ vì mưu sinh, làm giàu, mà sống trên sự đau khổ của biết bao kẻ khác. Trên thương trường, thời nào cũng vậy. Họ sát phạt nhau không nương tay. Họ giết nhau bằng kinh tế. Tranh giành chiếm hữu nhau. Mạnh được, yếu thua, khôn sống dại chết. Kẻ nào có tài sản vốn liếng nhiều, thì đè bẹp kẻ ít vốn hơn mình. Đè kẻ khác xuống để mình được vươn cao. Từ đó, gây ra sự thanh toán hại nhau. Cũng chỉ vì mục đích muốn giàu có hơn thiên hạ mà xử dụng nhiều phương tiện bất chánh. Thậm chí, họ đầu độc giết người qua những thực phẩm chứa đầy độc tố. Ai chết mặc ai. Miễn sao họ có nhiều tiền lắm bạc là được. Tình cảnh bị nhiễm độc thức ăn, thỉnh thoảng ta vẫn nghe thấy. Trên thương trường cạnh tranh là như thế.
Bởi thế, nên Phật mới dạy điều nầy. Nói thế, không phải Phật cấm người Phật tử không được kinh doanh thương mãi. Kinh doanh thương mãi là một việc làm vừa lợi mình, lợi người trên bình diện quốc gia. Điều nầy, ta thấy Phật chẳng những không ngăn cấm mà Phật còn khuyến khích. Vì kinh tế là huyết mạch lưu thông của một quốc gia. Sống không nhờ đến kinh tế, thì làm sao sống được. Tuy nhiên, ở đây, Phật cấm là cấm cái tâm độc ác, vì sự lợi lộc của mình gây ra bao điều bất chánh, bất lương làm hại kẻ khác. Phật cấm là cấm như thế.
Cuối cùng, kết luận của pháp cú nầy, Phật dạy: Người nầy thật là người giới hạnh, trí tuệ và chánh pháp. Đây là lời tán thán khen ngợi của Phật. Tại sao Phật khen ngợi người nầy? Cứ đọc lại toàn câu pháp cú trên ta thấy Phật nêu ra bốn chữ KHÔNG :
- Không vì mình cũng Không vì người để làm chuyện ác.
- Không vì cầu con trai, giàu có hay mưu việc thiên hạ để làm việc ác.
- Không vì cầu phồn vinh cho mình bằng những phương tiện bất chánh.
Một người do gìn giữ được bốn điều không làm như vậy, nên Phật khen là người có giới hạnh , trí tuệ và chánh pháp.
85. Trong đám nhân quần[98], một ít người đạt đến bờ kia, còn bao nhiêu người khác thì đang quanh quẩn ở bờ nầy.
Few among men are those who cross to the father shore. The rest, the bulk of men, only run up and down the hither bank.
Kệ Tụng
Ít người giữa nhơn loại
Đến được bờ bên kia
Số lớn người còn lại
Xuôi ngược bên bờ nầy.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nêu ra cho chúng ta thấy rõ giữa hai hạng người: một hạng người giải thoát và một hạng người trầm luân. Trong câu trên, Phật nói, một ít người đạt đến bờ kia. Bờ kia, tức là chỉ cho bờ Niết bàn. Đây là quả vị giải thoát của hàng Thanh Văn. Nói rõ hơn là quả vị Niết bàn của A la hán.
Nên biết, Phật nói, trong đám người mà chỉ có một ít người đạt được, còn lại thì không. Đám người đây là chỉ cho toàn thể nhơn loại. Cả nhơn loại mà chỉ có một số ít người đạt được giải thoát, thì, than ôi! Sự tu hành thật khó khăn biết là dường nào! Như nói dân chúng trong một nước thì đông mà số người biết tu hành thì ít. Phật tử toàn quốc thì đông mà số người xuất gia thì ít. Số người xuất gia thì đông, nhưng số người tu chứng thì ít. Có so sánh như thế, ta mới thấy sự tu hành đạt được kết quả giải thoát hoàn toàn không phải là chuyện dễ dàng. Và cũng chỉ có một số ít người đạt đến mà thôi. Nhưng làm thế nào để đạt được quả vị đó? Đây là một vấn đề, thiết nghĩ, chúng ta cần phải biết rõ.
Trong Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tập là nguyên nhân gây ra chúng sanh đau khổ. Muốn hết khổ, phải đoạn trừ nhân. Nhân đó chính là những thứ căn bản phiền não và tùy phiền não.
Căn bản phiền não gồm có mười món: 1. Tham, 2. Sân , 3. Si, 4. Mạn, 5. Nghi, 6. Thân kiến, 7. Biên kiến, 8. Tà kiến, 9. Kiến thủ và 10. Giới cấm thủ.
Tùy phiền não gồm có hai mươi thứ: 1.Phẩn, 2. Hận, 3. Phú, 4. Não, 5. Tật, 6. Xan, 7. Cuống, 8. Xiểm, 9. Hại, 10. Kiêu, 11. Vô tàm, 12. Vô quý, 13. Trạo cử, 14. Hôn trầm, 15. Bất tín, 16. Giải đãi, 17. Phóng dật, 18. Thất niệm, 19. Tán loạn, 20. Bất chánh tri. Chung lại là ba mươi thứ. Những thứ nầy là tác nhân gây cho chúng ta đau khổ. Đến quả vị A La Hán là đã đoạn sạch những thứ nầy. Đó là Phật nói một ít người đạt được bờ kia.
Câu kế tiếp Phật nói: Còn bao nhiêu người khác thì đang quanh quẩn tại bờ nầy. Bờ nầy là bờ nào? Là đối lại với bờ kia. Tức là bờ sanh tử. Số người quanh quẩn ở bờ nầy thì nhiều. Tại sao vậy? Tại vì ở bờ nầy vui hơn. Bờ bên nầy có nhiều hoa thơm trái ngọt ngũ dục. Bởi vậy, chúng sanh thích đam mê ngũ dục lạc mà ít ai chịu đi qua bờ kia.
Muốn vượt biên qua bờ kia, đâu phải chuyện ngẩu nhiên mà đi được. Phải là hạng người có ý chí cương quyết, với một tâm hồn sắt đá đầy dũng lực hiên ngang. Rồi phải trang bị cho mình một số hành trang cần thiết. Trước hết là phải sắm chiếc tàu cho thật lớn và thật chắc. Rồi phải có tài công lái tàu cho thật giỏi. Đồng thời, người tài công đó phải biết sử dụng rành hải bàn để canh tọa độ cho đúng hướng. Nếu không, thì sẽ đi lạc hướng ngay. Cũng thế, muốn vượt biên qua bờ Niết bàn, hành giả phải sắm tàu thuyền Bát nhã. Có tàu thuyền bát nhã rồi, hành giả cần phải trang bị cho mình có một bảo kiếm trí huệ sắc bén, để tiêu diệt những tên giặc cướp biển phiền não nói trên. Chính những tên nầy, chận đường bước tiến đến bến bờ “tự do hoàn toàn an vui” của hành giả. Nhờ có bảo kiếm trí huệ và có hải bàn Phật chỉ dẫn, nên hành giả không sợ đi lạc đường.
Như vậy, muốn thực hiện cuộc hành trình đó, hành giả cũng phải trải qua đầy cam go thử thách, dạn dày sương gió, mới có thể đạt được mục đích. Vì quá khó khăn, hơn nữa, trên đường đi có quá nhiều nguy hiểm gian lao, nên ít có mấy ai chịu đi. Tâm lý chung của chúng sanh, là thích những cái gì dễ dãi và thích thỏa mãn lòng ham muốn hưởng thụ mà thôi. Không mấy ai thích khó khăn nguy hiểm. Nhứt là bờ bên kia nghe sao nó xa xôi quá! Và cũng không có “hoa trái ngũ dục” hấp dẫn như bờ bên nầy.
Do đó, mỗi khi nghe nói đến bờ bên kia, thì họ lại ngao ngán, chùn chân hết muốn đi. Thôi thì, cứ ở lại bờ bên nầy hưởng thụ cho nó sướng cuộc đời, tới đâu hay đó. Chừng nào khổ đến sẽ hay. Khi khổ đến, thì khóc lóc kêu than, van vái đủ thứ. Nhưng có ai khuyên bảo nên vượt biên qua bờ bên kia, thì họ lại hẹn lần, hẹn lữa, hẹn nay, hẹn mai. Hẹn riết rồi già đến khi nào không hay. Bấy giờ nhìn lại thì, ôi thôi! Mái tóc đã bạc màu trắng toát. Thật là:
Khuyên tu niệm thì hẹn mai hẹn mốt
Quỷ sứ đòi thì khóc một khóc hai
Tu thì lười biếng lai rai
Vãng sanh thì muốn liên đài phẩm cao.
Lòng người chẳng biết nói sao!
Khỏe thì ham muốn khi đau lại buồn!
Nói thì chỉ biết nói suông
Thật hành thì ít, ngông cuồng thì hay
Tương rau dưa muối qua ngày
Tụng kinh niệm Phật lai rai được rồi.
Đến khi ngả bệnh ôi thôi!
Làm sao cho kịp bồi hồi ra đi!
Mịt mù nơi cõi âm ty!
Kíp mau sửa lại xét suy tu hành
Họ viện lý do đủ thứ. Khi khổ đến, thì nghĩ cũng muốn đi. Khi khổ qua rồi, thì dặm chân tại chỗ, không muốn cất bước. Cứ thế, mà dần dà ngày qua tháng lại, cho đến ngày nhắm mắt. Quả thật Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả là vậy! Đó là tâm bệnh chung của tất cả chúng sanh.
86. “Những ai hành trì pháp,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.”
87.Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Sống viễn ly khổ lạc.”Lược giải
86. Những người hay thuyết pháp, theo chánh pháp tu hành[99], thì được đạt tới bờ kia, thoát khỏi cảnh giới tà ma[100] khó thoát.
But those who act according to the perfectly taught Dhamma will cross the realm of Death, so difficult to cross.
Kệ Tụng
Những ai chơn hành trì
Theo chánh pháp khéo dạy
Sẽ đạt bờ bên kia
Vượt ma giới khó thoát.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy ý nghĩa cũng giống như pháp cú trên. Tuy nhiên, có điều chúng ta nên chú ý là Phật nói: “Những người hay thuyết pháp, theo chánh pháp tu hành”. Câu nầy ngầm ý Phật nhắc nhở chúng ta năng thuyết phải năng hành. Hai chữ thuyết pháp Phật nói đây, không có nghĩa là chỉ có khi nào lên pháp tòa mới gọi là thuyết pháp. Đó là theo nghĩa thông thường mà mọi người đều hiểu. Nhưng trong nhà Phật nói, có nhiều loại thuyết pháp. Có khi thuyết pháp bằng lời và có khi thuyết pháp không lời; cũng có khi thuyết pháp bằng cử chỉ hoặc hành động. Đọc sách Thiền, ta thấy, các Thiền Sư hay dùng những loại vô tình như: cây, gậy, phất trần v.v. để thuyết pháp. Mục đích của những loại thuyết pháp nầy, là các Ngài nhắm thẳng vào đương cơ để đánh thức cho họ ngộ đạo. Để chứng minh, xin dẫn chứng ra đây một vài mẫu chuyện ngắn:
Thiền Sư Lương Giới (Động Sơn) là vị Tổ khai Tông Tào Động. Một hôm, ông đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:
- Được nghe Quốc Sư Huệ Trung nói: Vô tình thuyết pháp, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?
Qui Sơn bảo:
- Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.
Sư thưa:
- Con chưa hiểu, xin thầy chỉ bày.
Qui Sơn dựng đứng phất tư,û hỏi:
- Hội chăng?
Sư thưa:
- Chẳng hội, thỉnh Hòa Thượng nói.
Qui Sơn bảo:
- Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói
Một hôm khác, ông đến Vân Nham, Sư hỏi:
- Vô tình thuyết pháp người nào được nghe?
Vân Nham bảo:
- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.
Sư hỏi:
- Hòa Thượng nghe chăng?
Vân Nham bảo:
- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.
Sư thưa:
- Con vì sao chẳng nghe?
Vân Nham dựng phất tử, hỏi:
- Lại nghe chăng?
Sư thưa:
- Chẳng nghe.
Vân Nham bảo:
- Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?
Sư hỏi:
- Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?
Vân Nham bảo:
- Đâu không thấy kinh Di Đà nói: nước, chim, cây, rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp?
Ngay câu nầy Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:
Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!
Vô tình thuyết pháp bất tư nghì
Nhược tương nhĩ thính chung nan hội
Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.
Dịch:
Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!
Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì
Nếu lấy tai nghe trọn khó hội
Phải đem mắt thấy mới liễu tri
(Trung Hoa Chư Thiền ĐứcTập hai, Hòa
Thượng Thích Thanh Từ soạn dịch)
Một trường hợp khác, như Hán Văn Công đến tham vấn Thiền Sư Bảo Thông:
Hán Văn Công hỏi Sư:
- Hòa Thượng tuổi được bao nhiêu?
Sư cầm xâu chuỗi dở lên bảo:
- Hội chăng
Văn Công thưa:
- Chẳng hội.
Sư bảo:
- Ngày đêm trăm lẻ tám.
Văn Công không hiểu trở về.
Còn và còn rất nhiều những mẫu chuyện như thế nầy, không thể dẫn chứng ra hết.
Khi chúng ta tụng đọc kinh điển, cũng gọi là thuyết pháp. Nói chung, hai chữ thuyết pháp nghĩa nó rất rộng. Như vậy, thuyết pháp dù dưới dạng thức nào, cũng nhằm mục đích là vừa nhắc lại lời Phật Tổ dạy, mà cũng vừa đánh thức mình và đương cơ. Nếu chỉ có nhắm vào đương cơ không thôi, thì việc thuyết pháp đó, chẳng khác nào một cái máy phát ra tiếng người. Đã là cái máy, thì tự nó, nó có biết gì đâu. Cứ đầy đủ bộ phận, để cho người sử dụng. Chỉ có thế thôi. Như thế, tự nó có được lợi ích gì? Và nó có kinh nghiệm gì để truyền đạt cho người. Cũng vậy, nếu người thuyết pháp mà tự mình thiếu kinh nghiệm thật hành, khi giảng nói cho người khác nghe, thì không khác gì cái máy phát thanh. Sở dĩ con người hơn cái máy là ở chỗ có hiểu biết, có kinh nghiệm và có thật hành. Cho nên, ở thế gian, ta thấy những nhà giáo dục, trước khi họ giảng dạy môn học nào, thì ít nhiều gì họ cũng phải có thực nghiệm qua. Dù đó là những môn học thế gian. Nhứt là về môn khoa học và khoa học thực nghiệm. Người ta đều phải trải qua những phương pháp thí nghiệm, thật hành trước khi đem ra giảng dạy.
Pháp thế gian còn thế, huống gì là Phật pháp. Vì đạo Phật là đạo sống thực. Đạo Phật không chú trọng và đặt nặng lý thuyết suông. Đạo Phật chủ trương nói và hành đi đôi. Do đó, người thuyết pháp (hiểu theo nghĩa rộng) là người phải có ít nhiều kinh nghiệm trong sự tu hành. Sau đó, mới đem ra giảng dạy cho người khác. Văn tự ngữ ngôn chỉ là những xác chết. Ta có thể biến đổi những xác chết đó trở thành một thứ giáo lý sống động làm lợi ích cho con người. Bằng không, thì giáo lý đạo Phật, chỉ còn là một thứ đồ cổ được trưng bày trong các bảo tàng viện mà thôi.
Vì vậy, nên Phật dạy: những người hay thuyết pháp, theo chánh pháp tu hành. Theo chánh pháp tu hành, ta có thể hiểu hai nghĩa: cạn và sâu. Nghĩa cạn là ta noi theo những lời Phật dạy làm lành lánh dữ trong kinh điển mà nỗ lực thật hành. Nghĩa sâu là ta xoay trở lại bản tâm để chiếu phá vô minh, đoạn trừ phiền não, đạt được Niết bàn an lạc. Đây mới là ý chánh mà Phật dạy trong câu pháp cú nầy. Nhờ noi theo chánh pháp tu hành mà đạt tới bờ kia, thoát khỏi cảnh giới tà ma khó thoát. Ta có thể nói ngược lại, nếu ta không noi theo chánh pháp Phật dạy tu hành, thì ta khó thoát khỏi cảnh giới tà ma.
87. Người trí hãy mau từ bỏ hắc pháp (ác pháp) tu tập bạch pháp (thiện pháp), xa gia đình nhỏ hẹp, xuất gia sống độc thân theo phép tắc Sa môn.
Abandoning the dark way, let the wise man cultivate the bright path. Having gone from home to homelessness, let him yearn for that delight in detachment, so difficult to enjoy. Giving up sensual pleasures, with no attachment, let the wise man cleanse himself of defilements of the mind.
Kệ Tụng
Kẻ trí bỏ hắc pháp
Tu tập theo bạch pháp
Bỏ nhà, sống không nhà
Độc thân, rất khó hưởng.
Lược giảng
Giáo điển của Phật giáo tuy nhiều, nhưng thâu tóm lại không ngoài bài kệ bốn câu của Phật Ca Diếp đã nói:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.
Nghĩa là:
“Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ ý mình cho trong sạch
Đó là lời chư Phật dạy”.
Người trí là người hướng thượng, là người tự xây dựng đời mình mỗi ngày mỗi thăng hoa trong cuộc sống. Muốn hướng thượng, tất nhiên, là không tạo các điều ác. Vì gây tạo các điều ác, đó là cái nhân sa đọa. Con người sở dĩ tạo ác, là vì họ còn thấy có thân tâm thật. Từ đó, mới gây ra vô số tội lỗi. Trong kinh Bát Đại Nhơn Giác, Phật dạy: “Tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu.” Nghĩa là: “Tâm nầy là nguồn ác, thân hình của mình là rừng của tội lỗi”.
Lý do tại sao Phật dạy như thế? Vì trên thế gian nầy, sở dĩ người ta tranh giành, hơn thua, chém giết lẫn nhau, cũng đều từ ở nơi cái tâm vọng mà ra. Nó là nguồn gốc gây ra ác nghiệp. Đến như cái thân ta cũng thế. Tại sao nói thân là rừng tội lỗi? Là vì mọi nhu cầu vật chất, đều muốn cho thân được đầy đủ, sung sướng. Như muốn ăn ngon, thì phải sát sinh hại vật v.v.
Tóm lại, vì muốn cho thân nầy được êm ấm, sung túc, nên con người tạo ra nhiều tội lỗi. Như vậy, người trí là người sáng suốt. Nhờ sáng suốt mà các Ngài biết rõ đâu là nhân của khổ đau và đâu là nhân của an lạc. Hễ tránh nhân khổ, thì làm gì có quả khổ. Chẳng những thế, mà các Ngài luôn nghĩ đến chúng sanh. Mình được hết khổ, tất nhiên, phải làm sao cho mọi người cũng được hết khổ như mình. Do nghĩ thế, nên các Ngài quyết chí làm mọi việc lành. Dù việc lành đó rất là nhỏ nhặt, các Ngài cũng không bỏ qua. Quả đúng với câu:
“Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần
Vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”.
Nghĩa là:
Ở trong chỗ thật tế (bản tâm) không thọ một mãy may trần cảnh.
Còn ở trong sự tướng, muôn việc không bỏ qua một pháp nào mà chẳng làm.
Câu trên, có khác nào câu nói của đức Lục Tổ “bản lai vô nhứt vật”. Nghĩa là, xưa nay, không phải là một vật. Dù không phải là một vật, nhưng các Ngài ra làm mọi việc để độ sanh. Cho nên bài kệ trên nói:
Không làm các điều ác
Mà làm các điều lành.
Tuy làm các điều lành, nhưng đối với người trí, thì họ không bao giờ sanh tâm chấp trước. Vì họ biết tất cả đều là hư huyễn. Đem thân huyễn làm việc huyễn. Trong kinh Viên Giác nói: “Dĩ huyễn độ huyễn” là như thế. Tuy tất cả là huyễn tướng, nhưng các Ngài làm lợi ích cho chúng sanh không biết mỏi mệt, điển hình như đức Phật và chư vị Tổ Sư. Gần nhứt là các bậc Thầy của chúng ta. Các Ngài đã hy sinh cả cuộc đời để làm lợi ích cho Phật pháp và phục vụ cho chúng sinh. Sở dĩ các Ngài khi làm Phật sự mà tâm không dính mắc, chấp trước, là vì nhờ tâm của các Ngài đã được thanh tịnh.
Như câu thứ ba, trong bài kệ trên nói: “Tự tịnh kỳ ý”. Nghĩa là phải giữ tâm ý mình cho được trong sạch. Tâm ý có trong sạch, thì mới được giải thoát. Ngược lại, tâm phàm phu thì không như thế. Vì phàm phu sống trong vô minh vọng chấp, nên đối với họ, chẳng những không làm lành mà họ còn tạo ra không biết bao điều tội ác. Tâm ý của họ lúc nào cũng tối tăm, khác nào như một bầu trời đen tối ảm đạm. Do đó, mà họ phải chịu trầm luân mãi trong vòng sanh tử khổ đau, thật không biết đến bao giờ mới được thoát ly.
Kế tiếp, Phật nêu ra hình ảnh sống giải thoát của một bậc Sa môn. Là người xuất gia, rời bỏ tất cả những điều uế trược. Nhà của người xuất gia, là khắp cõi Ta bà. “Cõi Ta bà đâu chẳng phải nhà ta”, không phải là ngôi nhà nhỏ hẹp, ngôi nhà đó, chỉ là một giả tướng tạm bợ nhỏ nhoi để cho ta dung thân mà thôi. Dù đó là một ngôi chùa cũng thế. Tất cả chỉ là huyễn tướng vô thường sanh diệt. Lấy huyễn tướng vô thường bên ngoài, để che mát cho cái huyễn tướng hình hài tứ đại giả tạm của ta. Rốt lại, cả hai đều phải bị luật vô thường chi phối. Cả hai đều phải tan hoại. Biết thế, người xuất gia không nên sanh tâm ái nhiễm. Có ái nhiễm là có khổ đau, càng khổ đau, thì càng xa hạnh phúc. Người xuất gia, sống đời độc thân, là chấp nhận từ bỏ mọi luyến ái, kể cả luyến ái ở nơi thân tâm, vì thân tâm cũng chỉ là duyên hợp không thật.
Hạnh Sa môn là hạnh sống cao thượng tuyệt vời. Hạnh sống mà người thế gian không bao giờ vói tới. Người xuất gia thời Phật, quá giải thoát an lạc siêu nhân. Người xuất gia thời nay, đã đánh mất nhiều yếu tính thời Phật. Dù có biện minh dưới dạng thức nào, ta thấy, ta cũng đã đi quá xa, quá xa tất cả mọi mặt. Mỗi người hãy tự kiểm điểm lại bản thân mình thì sẽ rõ. Ta thật sự là kẻ lai căn.
Đôi khi, vì viện dẫn lý do thời đại, mà ta đã không còn cấm rễ sâu những phẩm hạnh quý giá của người xuất gia. Những cái hay đẹp của người xưa, ta không còn đủ sức vươn tới. Rồi ta viện dẫn đủ lý do hợp lẽ. Xin đừng viện dẫn lý do, để mà chạy trốn sự thật. Một sự thật mà mỗi khi nhìn, kiểm điểm lại, ta cảm thấy thật là tội lỗi, xấu hổ. Có nhìn thẳng và đối chiếu vào sự thật giữa người xuất gia thời xưa và người xuất gia thời nay (không dám quơ đủa cả nắm) thì ta mới thấy được sự cách xa đó. Hãy khoan vội nói đến việc tu hành. Cứ nhìn vào hình thức và lối sống: ăn, mặc, ở của những nhu cầu vật chất ngày nay, thì đủ đánh giá cho sự lai căn của ta rồi. Ta đã đi quá đà cho sự sống. Ta đã hưởng thụ quá nhiều. “Tam thường” của ta khó mà “bất túc”. Ta đã viện cớ đủ điều để biện hộ. Ta không dám nhìn lại khuyết điểm của mình. Như thế, ta chỉ còn là hình thức của cái đầu tròn. Chỉ có đầu tròn thôi sao, còn những cái khác thì sao? Những cái khác đều méo và sai lệch; không cái nào giống các Ngài cả. Đó là một sự đáng tủi và đáng đau buồn nhứt cho chúng ta! Nói cho cùng, ta chỉ than một câu là hết chuyện: “Tại nghiệp chướng của tôi quá sâu dầy”. Thế là không còn ai khuyên lơn hay bắt bẻ gì ta được nữa. Ai khuyên lơn nhắc nhở, chẳng những ta không mang ơn nghe theo, mà ta còn cho người khuyên là cỗ lỗ xĩ, là đủ thứ cái, là
Càng khuyên, thì ta càng đem con người thời đại ra chứng minh. Chẳng những thế, ta còn đem thân ta ra chứng minh. Có hằng lô để chứng minh và biện hộ. Thôi thì người khuyên ta chỉ còn nước ngậm bồ hòn mà câm miệng! Đôi khi, họ còn bị phản tác dụng ngậm hờn nuốt tủi nữa không chừng! Họ bị múi mặt, vì bị những gáo tát nước lạnh của người được họ khuyên. Đó là phần thưởng vinh dự của họ. Quá đúng rồi, còn gì nữa phải nói!!!
So với lời Phật Tổ dạy, ta thấy đời sống ta cách xa quá chừng! Nói thế, để chúng ta nhớ lại bổn phận của mình mà mỗi người tự ý thức. Không ai thương ta bằng chính ta thương ta. Người ta thường nói: “giúp lời giúp đũa, chớ ai giúp của, giúp cơm”. Của và cơm, phải do chính ta tự tạo lấy.
Hôm nay, được duyên phước lớn, chúng ta quây quần bên nhau dưới một mái chùa khang trang êm ấm và dưới sự chỉ giáo hướng dẫn của một bậc Thầy đầy đức độ. Mùa an cư là mùa mà chúng ta có dịp ngồi lại bên nhau để cùng tu cùng học và cùng thức nhắc cho nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Ta không dám mống ý cao xa, lên mặt dạy đời thức nhắc ai. Mà ta chỉ cùng nhau đánh lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho nhau, để cố gắng tu học. Có thế, ta mới thật sự là người báo đáp thâm ân Phật và Thầy Tổ ta cũng như những vị Đàn na thí chủ. Những người đã gián tiếp hoặc trực tiếp lo lắng cho ta được tiến thân tu học. Tất cả đó là công ơn rất lớn. Là người xuất gia, ta không bao giờ quên được.
Dầu sao, ta cũng cố gắng vươn lên trong niềm đau chưa tuyệt vọng! Miễn sao, ta còn hy vọng cố gắng thức nhắc cho nhau, không đến nỗi nào phải chìm sâu dưới đáy sông Cầu, loi ngoi lội nước như qua giấc mộng của Ngài A Nan bạch Phật.
88. “Hãy cầu vui Niết Bàn,
Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.”
89. “Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ.
Không lậu hoặc, sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời.”Lược giải
88. Người trí cần gột sạch cấu uế[101] trong tâm, cầu cái vui chánh pháp, xa lìa ngũ dục, chẳng còn vướng mắc chi.
Kệ Tụng
Hãy cầu vui Niết bàn
Bỏ dục không nhiễm uế
Kẻ trí tự rửa sạch
Mọi cấu uế nội tâm.
Lược giảng
Muốn gột sạch cấu uế trong tâm, người trí phải làm gì? Người trí là người tỉnh thức, khác với kẻ mê. Người tỉnh thức là người luôn sáng bên trong. Muốn sáng bên trong, người trí phải thường xuyên nhìn lại mình. Ta hãy bình tâm nhìn lại thật kỹ, từ xưa tới nay, từ Phật Tổ cho đến các bậc tu hành đạt đạo, có vị nào để tâm chạy rong bên ngoài, đeo đuổi theo trần cảnh mà được ngộ đạo hay không? Hay là tất cả đều phải nhìn lại chính mình (phản quan tự kỷ) để thiền quán, gạn lọc hết phiền não mà được đắc đạo.
Đức Phật đã ngồi dưới cội Bồ đề tư duy quán sát nội tâm trải qua 49 ngày, để gột trừ hết những cấu uế vô minh phiền não, cuối cùng mới được thành tựu được đạo quả. Đến chư Tổ sư cũng thế, không một vị nào hướng ngoại tìm cầu mà được ngộ đạo. Phật Tổ thường nói: “ngoài tâm cầu đạo là ngoại đạo”. Bởi vì, nói thành Phật hay thành đạo không có gì xa lạ ngoài con người. Đạo Phật lấy con người làm gốc. Con người biết quay lại và sống trọn vẹn với chơn thể của chính mình, thì gọi đó là người giác ngộ. Như vậy, đạo Phật nhắm thẳng vào con người để khám phá phát minh những điều mới lạ.
Đạo Phật khác với khoa học là ở chỗ: một đàng chinh phục nội giới và một đàng chinh phục ngoại giới. Khoa học dù phát minh tiến bộ đến đâu, cũng chỉ là chinh phục nhiên giới mà thôi. Các nhà khoa học chưa trọn vẹn làm chủ được con người họ. Bản thân họ vẫn còn đầy dẫy vô minh phiền não tham sân si Họ vẫn còn những nỗi âu lo và những sự bất đồng nội tại. Đời sống của họ vẫn còn đau khổ dài dài. Họ chưa bao giờ có hạnh phúc. Tâm trí họ vẫn rối bời. Dù trí họ vẫn sáng. Nhưng cái sáng của họ là để chiếu soi nghiên tầm ngoại giới. Do đó, họ phát minh nhiều loại cơ khí tối tân. Nhơn loại ngày nay đều mang ơn và phục tài họ. Nhưng dù họ có tài giỏi phát minh đến đâu, họ cũng vẫn là một con người đau khổ như bao nhiêu con người tầm thường khác. Lý do, là vì họ chưa nhìn kỹ lại họ. Họ chưa khắc phục và làm chủ chính họ. Họ vẫn còn bị ngoại giới lôi kéo. Bên trong, họ vẫn còn những thứ rối bời làm họ bất an. Họ thua các nhà tu Phật là ở chỗ đó.
Ngày nay, họ hướng về đạo Phật cũng là ở điểm siêu việt đó. Họ kính trọng đức Phật, vì đức Phật là một con người quá vĩ đại. Vĩ đại ở chỗ đức Phật hoàn toàn giác ngộ. Một khi đã gột sạch hết vô minh rồi, thì đức Phật không có gì là không biết. Cho nên đức Phật còn có danh hiệu là đấng Chánh biến tri, là một con người biết khắp tất cả. Biết một cách đúng như thật ở nơi các pháp. Biết một cách rõ ràng qua sự thực chứng của Ngài, chớ không phải qua suy luận.
Trong Kinh A Hàm có nói, trong đêm thứ 49, Ngài chứng được Tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Do chứng Tam minh nầy, Ngài nhìn thấu suốt tất cả vạn vật vượt qua thời gian và không gian. Kinh diễn tả, như một người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng.
Ngược lại, khoa học vì chưa khám phá và thực chứng nội tại như Phật, nên họ chỉ dùng trí óc suy luận mò mẫm phát minh những gì thuộc về nhiên giới mà thôi. Ngày nay cả nhơn loại ca tụng và quy hướng về đạo Phật chính là ở điểm đó. Bởi những gì Phật nói ra, tất cả đều xuất phát từ chỗ chứng ngộ của Ngài. Sự chứng ngộ đó, là chứng ngộ một cách toàn triệt ở nơi chơn lý. Bởi vậy, người ta gọi đạo Phật là đạo “nội quan” hay là một đạo hoàn toàn “nhân bản”. Đó là điều vinh hạnh cho chúng ta theo một đạo giáo phù hợp với chân lý. Tất cả đều tôn trọng sự thật. Được thế do đâu? Phải chăng do Phật quán chiếu sâu thẩm vào tự ngã. Gột sạch hết mọi phiền não cấu uế mà được thành tựu.
Nhưng muốn thế, tất nhiên là ta cần phải có phương pháp. Bất cứ phương pháp nào mà ta thấy thích hợp với căn tánh và sở thích của ta. Như niệm Phật, trì chú, hoặc thiền định v.v. Tất cả đều phải nhắm thẳng vào mục đích chính là tiêu diệt phiền não. Dù là căn cơ bậc thượng hay bậc hạ gì cũng thế. Chỉ khác nhau trên phương diện hành trì có Đốn có Tiệm mà thôi. Đốn, như Tổ Huệ Năng, Tiệm, như Ngài Thần Tú. Với căn cơ hạ liệt của chúng ta, tất nhiên là ta không thể nào Đốn tu như đức Lục Tổ, thì tại sao ta không áp dụng theo phương pháp Tiệm tu của Ngài Thần Tú?
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhạ trần ai
Nghĩa là:
Thân như cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn thường lau chùi
Chỗ nào dính bụi bặm.
Hiện tại chúng ta chọn pháp môn Tịnh độ để tu, lấy trì danh niệm Phật làm chính, mục đích cũng là để tiêu trừ phiền não. Phiền não có hết, thì con đường vãng sanh của ta mới bảo đảm chắc chắn. Nếu chúng ta nỗ lực gia công tinh tấn lau chùi thường xuyên, tất nhiên sẽ có ngày hết bụi bặm phiền não. Đó là điều xác quyết khẳng định, không có con đường nào khác.
Ngày nay, tu theo đạo Phật, chúng ta không thể đi lệch hướng của Phật đã đi. Lệch hướng là ta sẽ rơi vào tà kiến. Đã thế, thì làm sao ta nhận chân được lẽ thật? Kìa! một hồ nước trong xanh, vạn vật đang soi mình in hình rõ bóng. Mặt nước phẳng lì, không một gợn sóng lăn tăn. Đàn chim trời bay ngang qua, không lưu lại dấu vết. Hồ nước vẫn đứng yên, dù muôn vật soi hình vào đó.
Hồ nước tâm của mọi người cũng thế. Một khi những cáu bợn đã gột sạch rồi, thì nó vẫn trong xanh chiếu soi muôn hình vạn vật. Ta cố gắng tự tạo cho mình có được một hồ nước trong xanh tươi mát như thế. Được vậy, thì mới xứng hợp với lời Phật dạy: Người trí cần gột sạch cấu uế trong tâm.
Khi cấu uế đã sạch rồi, thì ta không muốn an lạc, tự nó cũng an lạc. Trên đời không có một niềm vui nào cao tột bằng niềm vui chánh pháp. Nói thế, ta có chủ quan lắm không? Không. Tại sao ta lại khẳng định như thế? Bởi vì, đã có biết bao người đi ngang qua cuộc đời, không ai là không để lại những dấu ấn sâu đậm của vết thương lòng. Những vết thương đã hằng sâu vào tâm khảm của họ. Cả đời họ, chưa có được một niềm vui hạnh phúc chân thật, dù chỉ trong một phút giây thôi! Niềm vui của thế nhân chỉ là niềm vui giả trá tạm bợ, che đậy bởi một lớp sơn hào nhoáng bên ngoài. Vui đó, rồi khổ đó! Người ta nói: “thú vui chỉ mở đường cho đau khổ” là thế.
Ngược lại, một người đã từng có nếm qua mùi vị niềm vui của chánh pháp, họ mới cảm nhận được một niềm vui hạnh phúc chân thật. Tuy nó không nhộn nhịp, sống động như niềm vui của thế nhân, mà nó rất nhẹ nhàng tươi mát như xuân phong, làm vơi đi những sầu muộn ưu phiền. Trong nhà Phật có nói nhiều về những thứ vui nầy. Nào là hỷ lạc, pháp lạc, và cao hơn là Thiền duyệt. Trong Đạo Phật, có một loại Thiền định của phàm phu, gọi là Tứ thiền.
Tứ thiền gồm có:
Sơ thiền ly sanh hỷ lạc.
Nhị thiền định sanh hỷ lạc.
Tam thiền ly hỷ diệu lạc.
Tứ thiền xả niệm thanh tịnh.
Tất cả chỉ có một niềm vui. Một niềm vui rất nhẹ nhàng thanh thoát. Đó mới thật sự là niềm vui chân hạnh phúc. Muốn an hưởng được niềm vui của chánh pháp, tất nhiên, hành giả phải xa lánh ngũ dục. Vì còn tham đắm ngũ dục, thì làm gì có được niềm vui đó. Ta không thể nào bắt cá hai tay. Phải buông bỏ tất cả, không còn vướng mắc điều chi, thì ta mới có được niềm vui trọn vẹn. Đó là chân lý muôn đời.
89. Người nào chính tâm tu tập các pháp giác chi[102] xa lìa tánh cố chấp, rời bỏ tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não để trở nên sáng suốt, thì sẽ chứng Niết bàn ngay trong đời hiện tại.
Those whose minds have reached full excellence in the factors of enlightenment, who, having renounced acquisitiveness, rejoice in not clinging to things-rid of cankers, glowing with wisdom, they have attained Nibbana in this very life.
Kệ Tụng
Những ai thường chính tâm
Tu tập pháp giác chi
Xa lìa mọi chấp trước
Hoan hỷ không nhiễm ái
Sẽ sống không lậu hoặc
Sáng chói, chứng Niết bàn
Ngay trong đời hiện tại.
Lược giảng
Pháp cú trên, Phật đưa chúng ta trở về với đời sống hiện thực. Nếu chúng ta muốn có được một cuộc sống an vui hạnh phúc ngay trong lòng cuộc đời nầy, thì chúng ta không thể nào xem thường, thờ ơ xao lãng lời Phật dạy.
Để có một nhận định rõ hơn, chúng ta sẽ chia pháp cú trên ra từng vấn đề nhỏ để tìm hiểu:
1. Chính tâm tu tập các pháp giác chi.
Chính tâm là tâm ngay thẳng. Đã tu, thì không thể dùng tà tâm. Trong đạo Phật không chấp nhận tà tâm. Vì tà tâm, tự nó đã là bất chánh, sa đọa. Cho nên, Phật dạy, khi tu, ta phải sử dụng chánh tâm để tu. Kinh Duy Ma Cật nói: “Trực tâm tức thị đạo tràng”. Người có tâm ngay thẳng, thì nơi nào đối với họ, cũng là đạo tràng cả. Vì đạo tràng là thanh tịnh. Đem tâm thanh tịnh mà tu tập các pháp thanh tịnh, thì mới có kết quả.
Trong đạo Phật có vô lượng pháp môn tu. Pháp môn nào cũng nhằm mục đích hướng dẫn hành giả thẳng đến Phật quả. Đó là mục tiêu tối hậu nhắm tới của người tu. Tuy nhiên, muốn thẳng đến mục tiêu đó, Phật dạy có nhiều cách tu để chúng ta lựa chọn. Thất giác chi hay Thất Bồ đề phần là một trong muôn ngàn pháp tu của Phật giáo. Pháp tu nầy, Phật chỉ dạy cho hàng Thanh Văn. Nó là một trong 37 phẩm trợ đạo, thuộc Đạo đế. Nói dạy cho Thanh Văn, kỳ thật nó cũng là nền tảng cho Đại thừa. Vậy, Thất giác chi là gì? Chúng gồm có bảy thứ: 1. Trạch pháp. 2. Tinh tấn. 3. Hỷ. 4. Khinh an. 5. Niệm. 6. Định. 7. Xả. Bảy thứ nầy, khi hành trì, nó có sự liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
Trạch pháp, là lựa chọn một pháp môn để tu hành. Như trên đã nói, pháp môn Phật dạy tuy nhiều, nhưng chúng ta cần phải lựa chọn cho thật kỹ. Đây là một điều rất hệ trọng cho việc tu hành của chúng ta. Sau khi đã dùng trí huệ lựa chọn kỹ càng rồi, kế tiếp, chúng ta phải tinh tấn. Có tinh chuyên tu hành, thì chúng ta mới có kết quả tốt. Cái kết quả của bước đầu, là chúng ta có được một niềm hỷ lạc nhè nhẹ thoải mái êm dịu trong tâm. Tâm chúng ta sẽ bớt dần những rối rắm, bức bách khó chịu. Đó là nhờ sự nỗ lực chuyên cần tu hành của chúng ta. Khi tâm thức của chúng ta cảm thấy được nhẹ nhàng tươi mát, thì đó là chúng ta có được trạng thái khinh an. Khinh an là một trạng thái có thật, chớ không phải mơ hồ. Điều nầy, nếu ai đã từng có những giây phút thiền quán hay niệm Phật, thì họ có một chứng nghiệm rất rõ ràng. Chỉ trừ phi những ai tu lơ là, không thiết thiệt hành trì, tất nhiên là không có. Muốn kéo dài hoặc muốn có được thường xuyên những giây phút an lạc nhẹ nhàng nầy, tất nhiên, là chúng ta phải hằng nhớ đến pháp mình đang tu. Chúng ta nhớ một cách liên tục. Càng tập trung tư tưởng nhớ đến chừng nào, thì chúng ta lại càng có sức định nhiều chừng nấy. Như ta tha thiết nhớ đến danh hiệu Phật, miệng niệm, tâm gắn chặt vào tiếng, không cho hở ra, tất nhiên, tâm ta sẽ được an định.
Điều quan trọng nên nhớ, muốn có được sự an định đó lâu dài, là ta cần phải buông bỏ mọi dính mắc ở nơi trần cảnh (xả). Nhứt là đừng khởi tâm kẹt dính vào pháp môn mình đang tu. Bởi dính mắc vào bất cứ điều gì, cũng là một chướng ngại lớn cho việc tu hành. Làm đâu bỏ đó, không để tâm chấp trước bất cứ điều gì, đó là một thái độ rất khôn ngoan trong việc tu hành của chúng ta. Và như thế, chắc chắn là chúng ta sẽ dễ dàng tiến đến thành công.
2. Xa lìa tánh cố chấp
Cố chấp là một chứng bệnh trầm trọng của con người. Mọi sự đau khổ của con người bởi do tính cố chấp mà ra. Cố chấp là con đẻ của bảo thủ và định kiến. Người có tánh cố chấp, lúc nào họ cũng bảo thủ ý kiến của họ. Dù ý kiến họ sai, việc làm không đúng, nhưng họ vẫn cố chấp tới cùng. Họ là người không bao giờ biết hối cải sửa sai. Người như thế, thì thử hỏi làm sao họ tiến bộ cho được. Từ tánh cố chấp, họ nhìn đời một cách cao ngạo. Họ thấy mọi người đều sai, chỉ có họ là đúng. Giống như tâm trạng của Khuất Nguyên: “Đời đục cả chỉ mình ta trong”. Người tu hành mà mang nặng tánh cố chấp nầy, thì con đường giải thoát đối với họ rất là xa xôi diệu vợi. Muốn được giải thoát, thì phải dẹp bỏ cái bệnh trạng nầy.
Phật dạy, người tu phải xa lìa tánh cố chấp. Hoa giải thoát không bao giờ mọc lên trong khu vườn cố chấp bảo thủ. Hoa giải thoát chỉ mọc và nở rộ trong khu vườn “hỷ xả” mà thôi. Theo lời Phật dạy, ta phải quyết chí vươn lên tiêu diệt cái tánh xấu nầy, vì chính nó sẽ làm trở ngại lớn trên bước đường tu tiến của ta.
3. Rời bỏ tâm nhiễm ái
“Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh độ, ái bất nhiễm bất sanh Ta bà”ø. Nhiễm ái là cội gốc của đau khổ. Muốn dứt khổ, ta phải dứt trừ ái nhiễm. Ái nhiễm là con đẻ của bản ngã. Đây là loại nguy hiểm nhứt. Thật khó trừ khó đoạn. Cuộc đời nầy tràn đầy đau khổ, nguyên nhân cũng do ái nhiễm mà ra. Vì ái ngã, mới tìm đủ mọi cách để bảo vệ và lo lắng cho nó được sung sướng. Rồi đến ái luyến người thân và mọi vật liên hệ mật thiết với ta. Bởi do lòng ái nhiễm nặng, nên không bao giờ thoát khỏi cõi Ta bà nầy.
4. Diệt hết mọi phiền não, để trở nên sáng suốt
Trăng Phật tánh bị lu mờ, vì bị mây mù phiền não che ngăn. Dù vẫn biết, ánh trăng lúc nào cũng vẫn sáng. Muốn cho ánh sáng hiển lộ, thì phải phá tan mây mù. Mây mù phiền não che mờ trí giác ta. Ta bị khổ đau truyền kiếp cũng chỉ vì nó. Nhưng bản chất của mây là giả dối không thật. Tuy nó dầy thật, nhưng nó cũng dễ tan biến. Nếu ta dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi, thì nó sẽ tan biến ngay. Bởi vì: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh” (Chứng Đạo Ca). Dụ như, căn nhà dù bỏ hoang bóng tối lâu năm, nhưng chỉ cần một ngọn đuốc soi vào, thì bóng tối kia sẽ tan biến ngay. Phiền não cũng thế. Điều quan trọng là ta có ngọn đuốc trong tay hay không? Cho nên, đối với người tu, không sợ bóng tối phiền não mà chỉ sợ không có ngọn đuốc trí tuệ. Muốn diệt hết phiền não, để cho tâm ta trở nên sáng suốt, đúng như lời Phật dạy ở trên, không phải một sớm một chầy, hay một ngày một bữa mà ta có thể dứt hết được. Tất nhiên, điều nầy, nó đòi hỏi ta phải bền chí tu hành. Giống như lau bụi nói ở trên. Gương lòng của chúng ta bị bụi bám lâu ngày, vì bỏ lâu quá không lau, nay ta biết được giá trị của cái gương đó, nên ra sức lau chùi, quyết định có ngày gương kia sẽ hết bụi mà thôi. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, ta có bền chí và thiết thiệt lau hay không? Hay là một ngày lau, năm, ba ngày nghỉ, như thế, thì gương kia không biết đến bao giờ mới hết bụi.
5. Sẽ chứng Niết bàn ngay trong đời hiện tại
Kết luận của pháp cú nầy, Phật cho chúng ta thấy rõ sự lợi ích của việc tu hành có kết quả ngay trong thực tế. Do đâu Phật nói như thế? Do Phật lấy bản thân của Phật cũng như của tất cả những vị đệ tử của Ngài để chứng minh.
Thật vậy, Phật và đệ tử của Ngài thành tựu đạo quả ngay trong cõi đời nầy. Không mơ ước ở một cảnh giới nào xa xôi. Có tu là có giải thoát. Như nói có ăn là có no. Có học là có biết chữ. Trừ những kẻ muốn no bụng mà không ăn. Chẳng những không ăn, mà tối ngày họ chỉ mơ mộng thức ăn. Cứ mơ tưởng những thức ăn xa xôi ở nơi đâu, mà thực tế là bụng vẫn đang đói. Dù đói, cam chịu, nhưng thức ăn hiện tại thì họ không bao giờ ngó đến. Người như thế, thì thử hỏi làm sao họ no bụng cho được. Thế thì trách ai đây? Phật đã cho chúng ta quá đầy đủ thức ăn. Chỉ cần ta chọn lựa cho đúng thức ăn hạp với khẩu vị của ta và rồi ăn ngay, thì sẽ có kết quả no bụng. Đó là một thực tế. Đạo Phật là thực tế như thế. Người ta thích đến với đạo Phật, bởi do đạo Phật rất tôn trọng sự thật. Không huyền đàm viển vông, hứa suông, hứa cuội. Phật tu Phật thành. Đệ tử tu, đệ tử thành. Ta tu ta thành. Quả đúng với câu: “ai tu nấy thành, ai hành nấy đắc”. Chỉ cần mọi người nỗ lực tha thiết chuyên cần tu hành, đúng theo lời Phật dạy, phù hợp với căn cơ của mình, tất nhiên là sẽ có kết quả tốt đẹp ngay. Bởi đó là một định luật nhân quả, bất di bất dịch. Ta tu theo Phật mà không tin chắc vào nhân quả Phật dạy, vậy thử hỏi ta tin cái gì? Bởi căn cứ theo luật nhân quả, nên Phật nói một cách khẳng định rằng: “người nào hết phiền não, thì người đó sẽ được Niết bàn”. Như vậy, Niết bàn chính trong tầm tay của mỗi người chúng ta. Xin đừng tìm “Niết bàn” ở một nơi nào khác. Người nào còn có tâm vọng động muốn đi tìm Niết bàn ở một cảnh giới xa xôi nào đó, thì người đó không phải là người tu theo đạo Phật. Và tệ hơn mữa chỉ là kẻ mò trăng dưới nước hay bắt bóng mà thôi.
Phẩm A-La-Hán
90. “Ðích đã đến, không sầu,
Giải thoát ngoài tất cả,
Ðoạn trừ mọi buộc ràng,
Vị ấy không nhiệt não.”
91. “Tự sách tấn, chánh niệm,
Không thích cư xá nào,
Như ngỗng trời rời ao,
Bỏ sau mọi trú ẩn.”Lược giải
90. Người đã giải thoát hết thảy, đã dứt hết thảy buộc ràng[103], là người đi đường đã đến đích, chẳng còn chi lo sợ khổ đau.
The fever of passion exists not for him who has completed the journey, who is sorrowless and wholly set free, and has broken all ties.
Kệ Tụng
Đến đích, không ưu phiền
Giải thoát ngoài tất cả
Trừ diệt mọi buộc ràng
Không còn lửa tham ái.
Lược giảng
Phật dạy pháp cú nầy là để trả lời câu hỏi của một vị cư sĩ tên là Jìvaka ở trong rừng xoài. Truyện tích kể lại, bởi do Đề Bà Đạt Đa cấu kết cùng vua A Xà Thế để hãm hại Phật. Một hôm, Đề Bà Đạt Đa lên trên chót núi Linh Thứu, xô một tảng đá to, từ trên cao rớt xuống, đá bể văng trúng chân Phật. Chân Phật bị chảy máu. Các đệ tử đưa Phật đến vườn xoài để Phật nghỉ. Jìvaka là một thầy thuốc hay tin liền đến đắp thuốc và băng bó vết thương cho Phật. Nhưng, sau đó, ông có việc phải đi. Ông hứa là sẽ trở lại tháo băng cho Đức Phật. Nhưng khi ông trở lại, thì cửa thành đã đóng kín. Ông không vào được. Ông lo nghĩ đến vết thương của Phật chắc bị đau nhức lắm. Phật biết ý nghĩ của ông, Phật liền bảo Ngài A Nan tháo băng. Hôm sau, ông đến thăm Phật. Ông hỏi: “Phật có đau đớn gì không?” Phật trả lời: “Jìvaka, Như Lai đã dập tắt mọi phiền não ngay khi lên ngôi chánh giác”. (Phỏng theo tích truyện Pháp cú tập II- Viên Chiếu).
Qua mẫu chuyện ngắn trên, Phật cho chúng ta thấy, một bậc tu hành khi đã dứt trừ phiền não rồi, thì không có những đau đớn rên la như người thường. Đối với xác thân, khi bị thương tích, đối với người thường, tất nhiên, là nó có đau nhức. Đau, không phải là thân đau mà rõ ràng là tâm đau. Vì thân và tâm, nói cách khác giữa thể xác và tinh thần của ta, nó có một sự liên hệ với nhau rất mật thiết. Thường, chúng ta chưa tách biệt được giữa thân và tâm ra làm hai. Cho nên, hễ thân bị chuyển gân cốt hay bị thương tích là ta cảm thấy đau đớn khó chịu vô cùng. Ngược lại, đối với các bậc tu chứng, sạch hết phiền não, các Ngài đã làm chủ được xác thân. Tâm của các Ngài không còn lệ thuộc xác thân như ta. Các Ngài sống trọn vẹn với cái thực thể thanh tịnh (Bản tâm) đó, nên các Ngài thoát ra ngoài những cái sinh lý tầm thường.
Nói cách khác rõ hơn, là các Ngài có một định lực rất mạnh, nên không gì có thể làm các Ngài bị dao động. Vì làm chủ được xác thân một cách hoàn toàn, nên các Ngài điều khiển nó theo ý muốn của các Ngài. Khác nào như anh tài xế điều khiển chiếc xe. Anh muốn cho chiếc xe chạy đâu, thì chiếc xe phải chạy theo đó. Bởi thế, ta không lấy gì làm lạ, khi các Ngài muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Vì các Ngài đã làm chủ được hơi thở của các Ngài. Cho nên, đối với việc sống chết, các Ngài rất tự tại. Điển hình như trường hợp Thiền Sư Đặng Ẩn Phong. Trước khi thị tịch, Sư hỏi chúng:
- Tôi thường thấy các vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?
Chúng thưa:
- Có
Sư hỏi:
- Có vị nào lộn ngược tịch chăng?
- Chưa từng thấy.
Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như đứng. Chúng định để vào áo quan trà tỳ, mà xô không lung lay. Dân chúng xa gần đồn đãi nhau kéo đến xem đông vô số. Sư có người em gái xuất gia làm ni cũng có mặt tại đây. Cô ni ấy nắm thân Sư vừa trách:
- Lão Huynh ngày trước chẳng giữ Luật, khi chết lại làm mê hoặc người.
Trách xong, cô xô một cái, thân Sư ngã xuống.
Chúng đem trà tỳ lấy xá lợi.
(Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng tập I, trang 206, Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn).
Việc sống chết tự tại như trò đùa nầy, trong nhà Thiền có nêu ra rất nhiều Thiền Sư ra đi một cách tự tại như thế. Ở đây, chỉ xin nêu ra một vị điển hình thôi. Ngược lại, sự tu hành của chúng ta quá kém, không có chút định lực, nên bất cứ việc gì xảy đến với chúng ta, thì chúng ta đều mất bình tĩnh và rối loạn tâm thần. Chứng tỏ sự tu hành của chúng ta so với các Ngài còn quá kém, nếu không muốn nói là chưa có được một phần nào cả. Do đó, mà chúng ta phải chịu đau khổ triền miên.
Do hết phiền não, nên các Ngài không còn mọi buộc ràng. Đó là hình ảnh của một con người thật sự tự tại giải thoát. Cho nên, Phật nói: “Người đi đường đã đến đích, chẳng còn chi lo sợ khổ đau”.
Nói ngược lại, những ai còn lo sợ khổ đau, là vì những kẻ đó chưa thật sự đến đích. Điển hình như Jìvaka. Ông ta là một thầy thuốc giỏi và có lương tâm. Nhưng vì ông còn phiền não như chúng ta, nên ông lo sợ Phật bị đau nhức. Đó là một tâm lý rất bình thường của những con người bình thường. Còn sống trong vòng nghiệp chướng phiền não, thì mọi việc lo toan của ta, đều do bọn phiền não sai sử. Ta là kẻ làm nô lệ cho bọn chúng. Bọn chúng không bao giờ muốn cho ta yên. Vì chúng là giặc, nên luôn luôn khuấy rối ta. Ta vì nghe theo mệnh lệnh của chúng, không một chút trái lệnh, nên suốt đời làm tên tay sai trung thành đắc lực cho chúng. Đã thế, thì biết đến bao giờ chúng ta mới thoát khổ và mới làm chủ được xác thân. Và biết đến bao giờ mới được sanh tử tự tại như các Ngài.?!!! Than ôi! Thật là chua xót cho thân phận tu hành của chúng ta lắm thay!
91. Kẻ dũng mãnh chánh niệm, tâm không ưa thích tại gia; ví như con ngỗng trời, khi ra khỏi ao, chúng bỏ lại cái ao hồ không chút nhớ tiếc.
The mindful ones exert themselves. They are not attached to any home; like swans that abandon the lake, they leave home after home behind.
Kệ Tụng
Kẻ dõng mãnh chánh niệm
Không thích cư xá nào
Như ngỗng trời rời ao
Bỏ sau mọi trú ẩn.
Lược giảng
Theo truyện tích kể lại, thì pháp cú nầy có liên quan đến Tôn giả Đại Ca Diếp và Phật nói tại tinh xá Trúc Lâm.
Sau mùa hạ, Phật loan tin cho các vị Tỳ kheo biết là nửa tháng sau, mọi người sẽ rời khỏi thành Vương xá để lên đường du hóa khất thực nơi khác. Mọi người đều lo chuẩn bị, giặt y, rửa bát. Trong khi đó, thì Tôn giả Đại Ca Diếp, đã bị một số các Tỳ kheo nói mỉa rằng, dễ gì Ngài Ca Diếp ra khỏi thành. Dân khắp trong thành nầy, nếu không phải là thân thuộc, thì cũng là những người quen thân, thuộc Đàn na thí chủ của Ngài. Dễ gì mà Ngài đi xa được. Dẫu có theo Thế Tôn, thì cũng không ra khỏi thành xa.
Khi ra đi được một đoạn đường, Đức Phật bảo Ngài trở về để trông coi tinh xá. Đó là cái cớ để cho các vị Tỳ kheo càng xầm xì hơn nữa. Phật biết, trong đoàn có ý nói xấu Ngài Ca Diếp, nên Phật lên tiếng bảo rằng: “Ca Diếp trở về tinh xá là do lệnh của Ta. Không phải tự ông luyến tiếc thân quyến hay tứ sự cúng dường mà không đi theo đoàn”. Nhân đó, Phật kể lại tiền thân nhiều kiếp của Ngài chưa bao giờ dính mắc vào người cúng dường, của cúng dường và tinh xá cũng như tịnh thất; như con ngỗng chúa xuống hồ bơi lội tự tại trong đó. Bởi vì, khi con ngỗng ra khỏi ao thì chẳng còn nghĩ tưởng đến mồi, cỏ, nước trong ao của mình.
Qua chuyện tích tóm lược trên, cho chúng ta thấy, trong hàng đệ tử của Phật thời bấy giờ, ngoài những vị Tỳ kheo đã chứng quả A la hán, tất nhiên, đã sạch hết phiền não, thì đối với các Ngài nầy, không còn gì phải nói mỉa mai xiên xỏ. Ngược lại, những vị chưa sạch hết phiền não, đôi khi cũng còn khởi lên những phiền muộn bất bình, nên mới có câu chuyện trên. Ngài Ca Diếp là vị đệ tử lớn của Phật. Ngài tu hạnh Đầu đà đệ nhất. Ngài thường bị các vị Tỳ kheo trẻ khinh khi và chế giễu. Nhưng vì Ngài là một bậc Đại A La Hán, mọi phiền não dứt sạch, nên dù có bị chê bai hay nói xấu, Ngài cũng vẫn thản nhiên, vô sự. Ngược lại, nếu trường hợp chúng ta thì sao? Chắc là ăn thua đủ. Vì chúng ta còn phiền não. Chúng ta nên cố gắng tập theo hạnh của Ngài, mỗi khi bị người khác mỉa mai chê trách.
Quan trọng của lời Phật dạy trên là ở nơi “dũng mãnh chánh niệm”. Người có chánh niệm mà chánh niệm một cách dũng mãnh, thì thử hỏi, còn có việc gì mà làm lay động họ được. Chánh niệm là con đường dẫn tới an lạc. Ngược lại, thất niệm là con đường dẫn tới đau khổ. Thế gian nầy, lắm người bị đau khổ vì mất chánh niệm. Người có chánh niệm, biết rõ hậu quả của việc mình làm. Chẳng những biết rõ trong mỗi hành động, mà họ còn biết rõ khi khởi niệm lành hay dữ. Có chánh niệm như thế, thì làm sao không an lạc cho được? Bởi họ có làm điều gì sái quấy đâu. Ngài Ca Diếp luôn sống trong chánh niệm, nên tất cả lời chê bai mai mỉa, đối với Ngài quả thật như uống nước cam lồ và mát tợ xuân phong. Đúng như Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói:
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lồ
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Phật cho chúng ta thấy giữa hai hạng người. Ai còn cưu mang phiền não và ai đã thoát ra khỏi. Lòng ganh tỵ của con người thời nào cũng có. Người có tài đức thường bị kẻ bất tài ganh ghét. Người được người khác kính nể, cúng dường trọng hậu, cũng bị kẻ khác dèm pha nói xấu. Nói cho cùng, thì vì sống trong nghiệp thức, nên không ai tránh khỏi những sự tỵ hiềm ganh ghét đó. Điều quan trọng là mình có nhẫn nhịn được hay không? Nếu không, thì mình cũng tạo nghiệp và sa đọa như ai. Không có chút gì tiến bộ
trên đường tu. Đã tu, thì ta phải chấp nhận sự khen chê phải trái. Chúng ta phải tập cho được cái hạnh nhẫn nhục của Ngài Ca Diếp. Phải tập cho có chánh niệm dũng mãnh kiên cường. Không vì hư danh, cúng dường lợi dưỡng mà ta đánh mất đạo đức cao đẹp của chính ta. Phải tập làm con ngỗng trời, khi ra khỏi ao, chúng bỏ lại cái ao hồ không chút nhớ tiếc. Cái ao hồ là nơi trú ẩn êm ấm của chúng. Đây là Phật mượn hình ảnh của con ngỗng trời để dụ cho các hàng Tỳ kheo, đừng vì lợi dưỡng nhỏ nhoi mà quên đi cái lý tưởng vĩ đại tu hành giải thoát.
92. “Tài sản không chất chứa,
Ăn uống biết liễu tri,
Tự tại trong hành xứ,
“Không vô tướng, giải thoát, ”
Như chim giữa hư không,
Hướng chúng đi khó tìm.”
93. “Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ,
“Không, vô tướng giải thoát. ”
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm. ”Lược giải
92. Những vị A la hán[104] không chất chứa tài sản biết rõ mục đích sự ăn uống, tự tại đi trong cảnh giới: không[105], vô tướng[106], giải thoát, như chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dấu vết.
Those who do not accumulate and are wise regarding food, whose obiect is the Void, the Unconditioned Freedom-their track cannot be traced, like that of birds in the air.
Kệ Tụng
Tài sản không tích chứa
Ăn uống biết suy tư
Tự tại trong cảnh giới
Không, vô tướng, giải thoát
Như chim bay hư không
Hướng đi thật khó tìm.
Lược giảng
Theo truyện tích kể lại, pháp cú nầy, Phật dạy có liên quan đến Tôn giả Belattthisìsa.
“Tôn giả Trưởng lão nầy thấy việc khất thực hằng ngày phiền toái. Sau khi đi một vòng khất thực trong làng, ông thọ thực, rồi lại đi khất thực tiếp qua con đường khác, nhận cơm không có nước xốt hay cà ri, mang về tinh xá cất để dành. Nhập định được vài ngày, đói bụng ông lấy ra dùng. Các Tỳ kheo biết được phàn nàn với Thế Tôn. Phật bèn công bố luật cấm chư tăng tích trữ thức ăn. Nhưng vì Trưởng lão nầy phạm lỗi trước khi chế luật nên vô tội”. Nhân đó Phật nói pháp cú nầy.
(Trích nguyên văn Tích truyện pháp cú tập II, Viên Chiếu, trang 50)
Đọc qua pháp cú trên, ta thấy có ba vấn đề, Phật nêu ra rất quan trọng, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tìm hiểu khái lược qua:
1.Tại sao Phật dạy một vị A la hán không được chất chứa tài sản?
Tài sản là mối họa hại. Nó là hiện tướng của lòng tham. Vì lòng tham con người phải tìm đủ mọi cách để chiếm hữu. Người đời, vì tài sản mà họ tranh giành cấu xé với nhau chí tử. Họ bất chấp thủ đoạn thanh toán lẫn nhau. Cha con có thể giết nhau.
Ngược lại, người xuất gia thì có khác. Người xuất gia thời Phật, như chúng ta đã biết, tài sản của các Ngài chỉ là ba lá y và một bình bát. Nếu có thêm, thì chỉ có một số dụng cụ lặt vặt như dao cạo tóc, tọa cụ, vải lược nước và kim chỉ để may vá v.v. Ngoài ra, các Ngài không được cất chứa bất cứ những thứ gì khác. Lý do, vì đời sống của các Ngài là đi khất thực. Đã sống cuộc đời hành khất rày đây mai đó, không có chỗ nơi nhứt định, thì thử hỏi tạo tài sản của cải để làm gì.
Phật biết rõ, những thứ vật chất tài sản là những sợi giây trói buộc con người, nhứt là đối với người xuất gia. Sống đời vô sản khỏi phải hệ lụy phiền hà. Từ đó dễ đối trị lòng tham. Vì lòng tham lam của con người không có cơ hội phát triển. Càng có tài sản nhiều, thì càng hệ lụy phiền toái nhiều. Điều nầy không thể nào tránh khỏi.
Đọc câu chuyện trên, ta thấy thật cảm thương cho vị trưởng lão. Chỉ cất chứa một ít đồ ăn, không phải thứ cao lương mỹ vị gì, nước xốt cà ri còn không để vào, thì thử hỏi có thứ gì là ngon đâu? Cà ri là thức ăn chính của Ấn Độ mà Ngài còn không để vào bát. Thế thì, ta biết các Ngài ăn kham khổ đến mức độ nào! So với vật thực thời nay thì sao? Chắc là khỏi phải nói. Cất chứa thức ăn của Đàn việt dâng cúng để tạm nuôi sống qua ngày tu hành, mà Phật còn cấm như thế, thử hỏi, còn những thứ khác thì sao? Chắc chắn đối với các Ngài thì không bao giờ có. Như vậy không giải thoát sao được. Bởi có gì quý giá để sanh tâm tham đắm đâu.
Ngày nay, đối với các nước Phật giáo Nguyên thủy, thì các tăng sĩ vẫn còn giữ truyền thống khất thực như thời Phật. Tuy nhiên, vấn đề không cất chứa tài sản, như thời Phật e rằng rất khó. Bởi những nhu cầu thời đại ngày nay có khác. Giới luật của những vị nầy, so với tăng sĩ Phật giáo Phát triển (Đại thừa) thì có phần nghiêm nhặt hơn, ít ra, cũng trên phương diện hình thức.
Đối với Phật Giáo Đại thừa, việc sinh hoạt trong các tự viện khác hơn thời Phật nhiều lắm, nếu không muốn nói là hoàn toàn. Lý do của sự biến đổi nầy, theo các nhà Đại thừa, thì cần phải thích nghi với thời đại. Việc thích nghi thời đại là điều cần thiết và hợp lý. Nhưng đứng trên phương diện giới luật mà nhận xét, thì ít nhiều gì chúng ta cũng đã đi quá đà, nhứt là vấn đề tạo mãi tài sản. Dù viện dẫn bất cứ lý do gì, ta cũng thấy nó là một trong những nguyên nhân gây ra sự tệ hại trong tăng đoàn. Chính sự tạo mãi nhiều tài sản, mang tính cách đầu tư thương mãi kinh tế để được có nhiều lợi nhuận cho cá nhân mình thụ hưởng, thì đây là một việc làm phải nói khác xa thời Phật quá chừng.
Nếu đầu tư vì đáp ứng nhu cầu kinh tế tự túc cho tăng chúng có đủ phương tiện tu học, thì việc làm đó thật đáng kính và đáng ủng hộ tán dương. Bằng ngược lại, thì đó là điều trái luật Phật chế và làm giảm mất thanh danh giá trị tăng đoàn rất nhiều. Đó là một thực trạng mà đã và đang xảy ra.
Nói lên điều nầy, để chúng ta ý thức cẩn trọng trong việc tu hành theo lời Phật dạy nếu chúng ta muốn thật sự tu hành để giải thoát. Bởi vì giữa giải thoát và ràng buộc nó là hai phạm trù đối nghịch nhau. Hễ có cái nầy thì không có cái kia.
Ngẫm kỹ lại, thời Phật có đủ cơ duyên giải thoát rất lớn. Nhờ vào oai đức lớn lao của Phật và nhờ vào sự bảo hộ chặt chẽ của tăng đoàn, nên việc tu hành thật mau kết quả giải thoát. Đối với thời đại chúng ta ngày nay, những yếu tính đó đã không có. Có chăng, chỉ trên chút hình thức và quá hời hợt.
2. Thế nào là biết rõ mục đích của sự ăn uống?
Câu nói “ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn” tự nó đã có một giá trị hạn chế lòng tham ăn của con người. Người đời thường nói: “tham thực cực thân”. Thật vậy, con người cũng vì muốn ăn cao lương mỹ vị cho béo bổ xác thân mà ngày đêm phải lao tâm mệt xác. Làm trối chết để cung phụng cho xác thân. Có lắm người vì tham ăn món ngon vật lạ, mà ra tay giết hại sinh vật không một chút từ tâm. Thật là đáng ghê sợ!
Ngược lại, đối với người tu hạnh giải thoát, Phật dạy, nên biết rõ mục đích của sự ăn uống. Mục đích của sự ăn uống là gì? Có phải ăn uống cho nhiều để nuôi vóc thân hư huyễn nầy ngày càng cho béo bổ phì nộn hay không? Chắc không ai trả lời là phải. Vì ngày nay, thân thể ai càng béo phì, thì người đó càng cảm thấy đau khổ, chớ không sướng ích gì!
Người tu càng tiết chế ăn uống chừng nào, thì càng lợi ích chừng nấy, lợi ích trên mọi phương diện, lợi ích trong sự tu học. Nói tiết chế, chớ không phải khổ hạnh. Chúng ta cần biện biệt điều đó. Không nên hiểu lầm lời Phật dạy. Ở đây, Phật không nhằm thức nhắc chúng ta về mặt ăn uống cho phù hợp với vệ sinh hay kiêng cữ chọn lựa thức ăn. Vì thức ăn mỗi thời, mỗi nước có khác. Tùy theo tập quán và truyền thống ăn uống của mỗi quốc gia. Nhứt là trong thời đại kỹ nghệ tân tiến ngày nay, việc ăn uống so với thời Phật khác xa.
Gạt ngoài những điều kiện nói trên, ở đây, Phật nhằm bảo người xuất gia nên phải biết ăn uống vừa đủ. Ăn để mà có thêm sức khỏe tu học. Không nên có tâm tham đắm. Vì tham đắm là trái với hạnh người tu. Ăn là một nhu cầu cần thiết đáp ứng cho cơ thể về mặt sinh lý. Nhưng đừng vì thế mà quên lãng cái căn bản của sự tu học. Đừng vì miếng ăn mà tranh giành với nhau làm mất đi phẩm giá cao thượng của người tu.
Trong năm phép quán tưởng của người xuất gia, khi thọ thực Phật Tổ đã dạy rất kỹ. Nhứt là điều phép quán thứ năm “ăn là vì thành đạo nghiệp, nên mới thọ cơm nầy”. Ăn vì muốn sớm thành tựu đạo quả, chớ không phải ăn vì nuôi lớn vóc thân. Đó là lời cảnh tỉnh thiết yếu cho chúng ta trong mỗi khi thọ thực. Chúng ta cần phải nhớ rõ điều nầy.
3. Thế nào là tự tại đi trong cảnh giới “không, vô tướng, giải thoát?”
Đây là một vấn đề thật khó hiểu và cũng thật hệ trọng trong việc thật hành. Người tu, muốn được tự tại qua lại trong thế giới hiện tượng đầy cám dỗ của vật chất, không phải là chuyện dễ dàng. Nên ở đây, Phật dạy, mỗi người phải trang bị cho mình đầy đủ ba yếu tố: không, vô tướng, và giải thoát.
Thế nào là không? Chữ Không ở đây, chúng ta chớ vội hiểu chữ không đối lại với có. Mà Không ở đây, nó có nghĩa là tánh không của các pháp. Vạn vật do duyên hợp mà thành hình. Đã do duyên hợp, tất nhiên, các pháp chỉ là giả tướng. Trên mặt hiện tượng thì giả có, trên mặt bản thể, thì không. Nói gọn, thực thể của các pháp là không. Thí dụ cái đồng hồ chẳng hạn. Ai dám bảo cái đồng hồ là không có. Nếu không có, thì tại sao ta biết được giờ khắc để đánh kẻng. Ta không thể phủ định là không có. Nhưng sự có mặt của đồng hồ, chỉ là giả có. Nó chỉ có tạm thời, nói theo lý vô thường. Nói theo lý vô ngã, thì thực thể của nó là không, mặc dù nó đang chạy tít tắt từng giây phút. Sở dĩ nó hoạt động như thế là vì do nó có đủ duyên. Khi không đủ duyên, thì nó không còn hoạt động bình thường nữa được. Chữ “Không” nầy là chữ không của Bát nhã. “Tánh của các pháp là Không”.
Thế nào là Vô tướng? Vô tướng là không có cái tướng chơn thật. Tuy không có tướng chơn thật, nhưng mọi sự vật trên đời không phải là không. Tất cả đều có hình tướng sai khác. Nhưng những hình tướng nầy, chỉ là tướng không rỗng tuếch, không có cái tướng thật. Thí dụ, thân tướng mỗi người chúng ta, tuy có mập ốm, cao thấp khác nhau, nhưng tánh chất của mỗi người đều giống nhau. Tất cả đều do 4 yếu tố tứ đại kết hợp mà thành.
Thế nào là giải thoát? Nhận hiểu vạn vật chỉ là huyễn ảo, tánh của nó là không. Nên chúng ta không sanh vọng tâm chấp trước. Do không chấp trước mà tâm ta được an vui giải thoát. Nói theo yếu lý của nhà thiền, thì tâm cảnh không đến với nhau, chính ngay đó là giải thoát. Như vậy, giải thoát không tìm đâu xa, chính ngay nơi các pháp hiện tiền mà tâm ta không nhiễm trước, thì ngay đó là giải thoát rồi. Bởi vậy, câu cuối cùng Phật nêu ra một hình ảnh thí dụ cụ thể là như: “chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dấu vết”. Làm sao tìm thấy được dấu vết của chim? Tuy không có dấu vết của chim mà bầu trời vẫn có.
Cũng vậy, mọi hiện tượng của cuộc đời đều hiện bày nhan nhãn trước mắt chúng ta, nhưng nếu chúng ta không để tâm dính mắc vào bất cứ một thứ gì, thì có khác nào như chim bay ngang qua bầu trời mà không có để lại dấu vết gì cả. Mong sao, mỗi người chúng ta nên bắt chước hình ảnh của con chim kia tự tại thong dong bay trong bầu trời mà không vướng mắc thứ gì. Đó là một hình ảnh siêu thoát vô cùng.
93. Những vị A la hán đã dứt sạch các lậu, không tham đắm ăn uống, tự tại đi trong cảnh giới “không, vô tướng, giải thoát”, như chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dâu vết.
He whose cankers are destroyed and who is not attached to food, whose object is the Void, the Unconditioned Freedom-his path cannot be traced, like that of birds in the air.
Kệ Tụng
Các lậu hoặc dứt sạch
Ăn uống không tham lam
Tự tại trong cảnh giới
“Không, vô tướng, giải thoát”
Như chim bay hư không
Dấu chân thật khó tìm.
Lược giảng
Cần nhắc lại, phẩm nầy có tên là A la hán. A la hán đã đạt được quả vị Niết bàn, ra khỏi tam giới. Một quả vị đánh dấu một quá trình nỗ lực tu tập vươn lên trong chiều hướng thánh thiện. Khi đạt được quả vị nầy, mọi lậu hoặc không còn. Do đó, khi giáo huấn cho các thầy Tỳ kheo, Đức Phật xoáy mạnh vào quả vị mà các Ngài đã chứng đắc.
Pháp cú trên, ta thấy, những lời Phật dạy nội dung không khác mấy với pháp cú 92. So sánh, phân tích kỹ, ta thấy chỉ khác nhau ở câu đầu (tạm gọi như thế). Pháp cú 92. Phật dạy: “Những vị A la hán không chất chứa tài sản, biết rõ mục đích ăn uống”. Trong khi đó, pháp cú nầy Phật dạy: Những vị A la hán đã dứt sạch các lậu hoặc, không tham đắm uống ăn Còn lại, phần sau cả hai câu đều giống nhau.
Phật nói pháp cú nầy tại tịnh xá Trúc Lâm. Duyên do, vì các vị Tỳ kheo nghĩ quấy về Trưởng lão Anuruddha. Họ cho rằng Trưởng lão Anuruddha muốn phô trương thân thuộc và thí chủ của mình về vấn đề dâng cúng thức ăn quá nhiều. Nhưng họ không biết, đó là do thần lực của thiên nữ, tức nữ thần Jàlinì. Chính vị nầy đã vào làng khuyến khích dân cư cúng dường (Theo truyện tích kể lại).
Một vị A la hán, khi lậu hoặc đã hết, thì các Ngài không bao giờ nghĩ đến sự tham đắm thức ăn ngon dở như kẻ thường tình. “Suy bụng ta ra bụng người”, đó là lối nghĩ của kẻ phàm phu. Vì bản thân họ, còn dẫy đầy phiền não, tham đắm ngũ dục. Họ nghĩ, ai cũng như họ. Việc đánh giá suy luận như thế, thì thật là sai lầm. Phật dạy cho các vị Tỳ kheo chưa chứng thánh quả, không nên có những ý nghĩ đánh giá sai lầm đó.
Qua lời Phật dạy nầy, cho chúng ta một bài học về sự nhận xét con người. Đánh giá con người đúng hay sai, tùy theo trình độ của người nhận xét. Thái độ “trông mặt mà bắt hình dung”, coi chừng chúng ta dễ bị sai lầm. Muốn đánh giá hay nhận xét một người nào đó, thái độ khôn ngoan nhứt của người nhận xét, là bao giờ cũng phải dè dặt và cẩn trọng. Không nên có thái độ quá nông cạn hàm hồ. Thường người ta hay có tánh bốc đồng, thấy đâu nói đó. Chính thái độ bất cẩn nầy, dễ gây ra mất lòng cho nhau. Muốn xét lỗi lầm của ai, ta cần phải có thời gian tra cứu gạn lọc kỹ càng. Càng tránh vấn đề để ý nghi kỵ càng hay. Khi nghi ai làm sai về vấn đề nào đó, đừng nên đem trí phán đoán nông nổi, thiếu suy tư chín chắn để mà lên án kết tội họ. Đây là việc làm mà Phật cho đó là của những kẻ thiếu trí.
Ta thử hỏi: làm thế nào biết vị đó là một bậc tu hành dứt hết lậu hoặc? Nói theo thời đại của chúng ta, là làm thế nào biết đó là một bậc tu hành chân chánh?
Phật dạy, muốn biết thế, chỉ có một cách duy nhứt là dùng cây thước Bát phong (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) để đo. Trong tám ngọn gió nầy, bất cứ ngọn gió nào thổi đến, mà họ vẫn thản nhiên, coi như không có gì xảy ra. Họ không có thái độ hoặc cử chỉ gì là bất mãn, khó chịu. Nói rõ ra, là họ không bị những thứ đó sai sử họ. Ngược lại, họ đã làm chủ được họ. Hạng người như thế, mới thật là một bậc tu hành chơn chánh. Nếu chưa được vậy, thì tất cả còn đang trên đường tu tập. Đã đang trên đường tu tập, thì không ai mà không có những lỗi lầm. Người có lỗi, mình cũng có lỗi. Lấy lỗi mình mà suy lỗi người, đó chưa phải là người thật sự có thái độ chín chắn. Đó là nói giữa cá nhân với nhau.
Ngược lại, trong một tập thể tu hành, với người có trách nhiệm hướng dẫn đại chúng tu học, thì họ có bổn phận chỉ lỗi để xây dựng cho nhau. Mục đích là để cho tập thể đó mỗi ngày mỗi thêm tốt đẹp. Từ xưa tới nay, vấn đề nầy, ở trong các tu viện hay học viện đều là như thế. Nếu không có sự nhắc nhở chỉ bảo cho nhau, mạnh ai nấy làm gì theo ý riêng tư của mình, sống không có quy cũ, nề nếp, thì ta thử hỏi tập thể đó sẽ như thế nào? Người ngoài nhìn vào họ sẽ đánh giá ra sao? Cho nên, ta chớ có lầm lộn giữa hai cách xử sự nói lỗi nầy. Một đàng vạch lỗi, vì sự tỵ hiềm. Ngược lại, một đàng thức nhắc, vì xây dựng. Mục đích của hai vấn đề xử sự khác nhau.
Thấy thức ăn nhiều, đại chúng dùng không hết, không biết thức ăn nguyên nhân từ đâu mà có, vội kết tội cho Trưởng lão Anuruddha là người có ý phô trương tài đức uy tín của mình bằng sự đông đảo của thí chủ và nhiều thức ăn. Nhưng những vị đó không ngờ rằng, thức ăn đó là do sự vận động khuyến khích của nữ thần. Bởi thế, Phật mới nói pháp cú nầy để răn nhắc họ.
94. “Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến.”
95. “Như đất, không hiềm hận,
Như cột trụ, kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ,
Không luân hồi, vị ấy.”Lược giải
94. Những vị A la hán đã tịch tịnh được các căn như tên kỵ mã đã điều luyện được ngựa lành, nên không còn phiền não ngã mạn, được hàng nhơn thiên kính mộ.
Even the gods hold dear the wise one, whose senses are subdued like horses well trained by a charioteer, whose pride is destroyed and who is free from the cankers.
Kệ Tụng
Ai nhiếp phục các căn
Như kỵ mã điều ngựa
Mạn trừ, lậu hoặc dứt
Chư thiên đều ái mộ.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Pubbàràma, liên quan đến Trưởng lão Đại ca chiên diên. Đại ca chiên diên là một trong mười đệ tử lớn của Phật. Tại sao Phật dạy pháp cú nầy? Lý do là vì, Ngài Đại ca chiên diên, nhờ nhiếp phục các căn một cách nghiêm mật, mà được trời Đế Thích kính trọng và khen ngợi. Do đó, các vị Tỳ kheo khác thấy thế sanh tâm bất bình không hài lòng, buông lời trách móc, nên Phật mới dạy như thế.
Đọc qua pháp cú trên, ta có thể đặt vấn đề ngược lại: sở dĩ hàng nhơn thiên kính mộ một vị A la hán, là bởi vì, vị nầy đã nhiếp hộ các căn và không còn phiền não ngã mạn. Ở đây, Phật cho chúng ta thấy việc quan trọng của người tu hành. Vấn đề nhiếp hộ sáu căn là một vấn đề tối hệ trọng của người tu. Trong Kinh A Hàm, Ngài Phú Lâu Na xin Phật chỉ dạy cho một câu vắn tắt ngắn gọn, để Ngài đến một nơi yên tĩnh ứng dụng tu hành. Phật chỉ dạy một câu thật ngắn gọn đó là: “Ông nên nhiếp hộ sáu căn, như người giữ thành trì”. Không còn lời dạy nào ngắn gọn hơn và đầy đủ ý nghĩa như thế. Cũng chính qua lời dạy nầy, ta mới thấy được yếu lý của sự tu. Người tu hành, dù hành giả đã chọn tu bất cứ pháp môn nào, mà muốn được giải thoát khổ đau, trong hiện tại cũng như mai sau, thì không thể nào xem thường vấn đề nầy. Vì vấn đề nhiếp hộ sáu căn, nó thông cả giáo lý Nguyên thủy (Tiểu thừa) và Phát triển (Đại thừa). Cả hai hệ giáo lý đều rất quan tâm và chú trọng đến. Vì sao nó quan trọng đến thế? Bởi trong cuộc sống hằng ngày, không lúc nào chúng ta không dùng sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Chỉ trừ lúc chúng ta nằm ngủ. Vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần như thế nào?
Sáu căn tiếp xúc Sáu trần
Mắt thấy Sắc
Tai nghe Tiếng
Mũi ngữi Mùi
Lưỡi nếm. Vị
Thân chạm Xúc
Ý duyên Pháp trần
Chính sáu căn nầy, hằng ngày chúng ta tiếp xúc với trần cảnh như thế. Nhưng, nếu chúng ta không nhiếp phục gìn giữ ở nơi sáu căn, cứ để cho nó chạy theo dính mắc ở nơi sáu trần, từ đó mà sanh ra biết bao nhiêu điều phiền lụy. Bởi thế, trong Kinh thường nói là Lục tặc. Tức sáu đứa giặc hằng ngày chúng nó quậy phá chúng ta không một lúc nào yên. Trong Kinh Phật dạy: “luân hồi hay giải thoát cũng từ nơi sáu căn mà ra”. Khi còn là phàm phu, thì chúng là Lục tặc. Nhưng khi lên thánh vị, thì chúng là Lục thông. Khi ở địa vị Thánh, thì không còn gọi là sáu trần nữa, mà gọi chúng là sáu cảnh. Tại sao? Bởi vì nói trần là vì chúng ta còn nhiễm trước. Nếu khi chúng ta tiếp xúc với chúng mà không sanh tâm đắm nhiễm, thì chúng không phải là trần. Vì chúng không phải là thứ gây ra phiền não. Thế nên, cùng một sự vật, mà trần hay cảnh là tùy theo cái nhìn của mỗi người. Nếu người nào nhìn mà gìn giữ sáu căn không để cho sáu trần lôi cuốn, thì Phật cho người đó là tên kỵ mã khéo điều ngự được ngựa lành. Bằng ngược lại, thì không phải là người khéo điều ngự được ngựa. Chẳng những không điều ngự được ngựa, mà còn bị ngựa dày xéo dẫm đạp làm cho thân thể của người đó bị nát nhừ đau điếng.
Thiền Sư Bổn Tịnh có bài kệ dạy chúng:
Kiến văn giác tri vô chướng ngại
Thinh hương vị xúc thường tam muội
Như điểu không trung chỉ ma phi
Vô thủ vô xả vô tắng ái
Nhược hội ứng xứ bổn vô tâm
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:
Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.
Bởi nhận thấy tầm mức quan trọng rất lớn của việc nhiếp phục sáu căn trong việc tu hành hằng ngày như thế, nên một Thiền Sư cư sĩ đời Trần là vua Trần Thái Tông đã sáng tác bài khoa nghi Sám hối lục căn. Bài sám hối nầy, Thiền Sư viết trong Khóa Hư Lục mà hiện nay ở các thiền viện thuộc hệ Thiền tông của Hòa Thượng Thanh Từ hướng dẫn chỉ giáo đều sám hối theo nghi thức của sám pháp nầy.
Tại sao phải sám hối sáu căn? Vì theo cái nhìn riêng của các Thiền Sư cũng như cái nhìn chung của Phật giáo, bất luận tông phái nào, cũng đều bảo chúng ta phải tu ở nơi sáu căn. Một người tu hành mà không gìn giữ ở nơi sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần, thì không thể nào có sự an vui giải thoát được. Bởi vậy, pháp cú trên, Phật nhấn mạnh và ca ngợi sự nhiếp hộ sáu căn của Tôn giả Đại ca chiên diên. Một người nhiếp hộ cẩn mật như thế, thì làm gì có phiền não. Phiền não không có, thì làm gì có ngã mạn. Có ngã mạn là vì còn chấp ngã. Căn, Trần, Thức không còn cấu kết với nhau trong chiều hướng tạo nghiệp, thì mọi khổ đau ngang đây đều chấm dứt. Như thế, thì Niết bàn hiện thực ngay trong cuộc đời, chớ có tìm đâu xa. Hãy tìm Niết bàn ở nơi sáu căn của mỗi người. Giây phút nào mà sáu căn của chúng ta không bị dính mắc phân biệt xấu tốt, phải trái v.v. ở nơi sáu trần, thì ngay giây phút đó chúng ta có an lạc Niết bàn rồi. Người tu học Phật không nắm vững yếu lý nầy để ứng dụng tu hành, thì đó là một điều khuyết điểm rất lớn. Mọi người nên ghi nhớ pháp cú Phật dạy nầy mà tu hành. Nếu chúng ta cố gắng thường xuyên áp dụng như thế, thì con đường giải thoát không hẹn mà chúng ta cũng vẫn tới. Bằng ngược lại, thì con đường giải thoát sẽ mờ xa diệu vợi.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán Có dạy:
Dục thú Nhứt thừa
Bất ố lục trần
Lục trần bất ố
Hoàn đồng chánh giác.
Nghĩa là:
Muốn đến nhứt thừa
Chớ ghét sáu trần
Sáu trần chẳng ghét
Hoàn đồng chánh giác.
Bài kệ nầy ý nghĩa rất là sâu sắc. Thường chúng ta có hai quan niệm: một là thương, hai là ghét. Thương thì thích, ghét thì chán. Người tu còn thương còn ghét, thì đó là đầu mối của phiền não khổ đau. Thế nên, ở đây, Tổ dạy, người tu muốn được giải thoát, phải bỏ hai quan niệm đó. Tại sao mình phải ghét sáu trần? Chúng nó phạm tội gì? và xâm phạm gì đến danh dự của mình? Ghét hay thương là ta tự hỏi lại ta, chớ ta không nên đổ lỗi cho chúng. Tại sao cùng một vật thể, mà có kẻ ghét, người thương? Nếu ta bỏ được hai quan niệm thương và ghét nầy, thì tức khắc, ta sẽ hoàn đồng chánh giác, tức ngay đó là Phật rồi, chẳng cần tìm kiếm đâu xa nữa.
95. Những vị A la hán đã bỏ hết sân hận, tâm như cõi đất bằng, chí thành kiên cố như nhân đà yết la[107], như ao sâu không bùn, nên chẳng còn bị luân hồi xoay chuyển.
There is no more worldly existence for the wise one, who, like the earth, resents nothing, who is as firm as a high pillar and as pure as a deep pool free from mud.
Kệ Tụng
Như đất, không sân hận
Như trụ đá, kiên trì
Như hồ, không bùn nhơ
Vị ấy không luân hồi.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nói ra tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Xá lợi Phất. Trước khi lên đường du phương khất thực, Ngài Xá lợi Phất điểm danh các vị Tỳ kheo đi cùng, nhưng sơ ý, Ngài bỏ sót một vị. Vị Tỳ kheo nầy tức giận, liền bạch với đức Phật vu khống Ngài. Phật kêu Ngài đến hỏi duyên cớ, Ngài tự sự trình bày, và các Tỳ kheo khác cũng nói vào, nên Phật mới biết là vị Tỳ kheo kia vu cáo cho Ngài. Nhân đó Phật dạy lời dạy nầy (Tóm ý theo truyện tích).
Trong pháp cú trên, đọc qua, ta thấy, Phật nêu ra ba hình ảnh để thí dụ cho một vị A la hán khi tâm đã hết sân hận. Ba hình ảnh thí dụ đó là:
1. Đất bằng.
2. Nhân đà yết la .
3. Ao sâu không bùn.
Điều đáng cho chúng ta lưu tâm qua pháp cú nầy, là Phật nêu cao đức độ của một bậc tu hành đã dứt hết sân hận. Khi phiền não không còn, thì dù cho gặp chướng duyên nghịch cảnh xảy đến, tâm các Ngài cũng vẫn an nhiên, tự tại. Điều đó, nói lên cái kết quả của sự tu hành. Nếu không có một sự nỗ lực tiến tu, thì làm gì có được trạng thái thanh thoát đó.
Ngài Xá lợi Phất là một vị đệ tử lớn của Phật. Ngài đã được Đức Phật giao phó một trọng trách rất lớn lao. Ngài gần như một vị lãnh đạo trong tăng đoàn. Trên Ngài là Tôn giả Ca Diếp. Tôn giả Ca Diếp được xem như là một vị Trưởng thượng thuộc hàng sư huynh của Ngài. Ngài là một người vừa có đức độ, lại vừa có một trí huệ siêu việt. Ngài có biệt tài biện luận, không một ai biện luận qua Ngài. Ngài đã hỗ trợ cho đức Phật rất nhiều trong công cuộc giáo hóa và lãnh đạo tăng đoàn. Ngài đã trải qua biết bao lần đương đầu tranh luận với ngoại đạo và không lần nào thua cuộc. Điều nầy, đã được sử liệu ghi lại chứng minh rất rõ ràng.
Nêu ra đức độ và tài cao của một con người siêu quần bạt chúng như thế, để chúng ta thấy chung quanh Ngài vẫn còn có biết bao nhiêu người ganh tỵ hãm hại Ngài. Phật còn đó và tăng đoàn còn đó, với biết bao nhiêu vị tu chứng. Đa số các Ngài đều là những bậc vô lậu A la hán. Dù chứng quả, nhưng các Ngài cũng không sao tránh khỏi sự dèm pha xuyên tạc, nói xấu của những vị kém đạo đức khác.
Nêu ra như thế, để chúng ta thấy, thời nào cũng thế. Hễ con người chưa diệt trừ hết phiền não tham, sân, si thì mọi tranh chấp thị phi, không bao giờ hết được. Đó là nói những người biết tu, cùng tôn thờ một thầy, cùng một môi trường sống và cùng chung một lý tưởng mà còn như thế, thì trách gì những người chưa biết tu hành là gì. Hoặc giả, họ chỉ là những người mới chập chững bước chân vào đạo, tu hành ngoài da thôi, thì thử hỏi họ làm sao tránh khỏi những lỗi lầm.
Suy cho cùng, đâu phải chỉ có Ngài Xá lợi Phất mới bị nói xấu dèm pha như thế, mà ngay cả đức Phật, ngoài Đề Bà Đạt Đa ra, còn có Thiện Tinh Tỳ kheo và đám Lục quần Tỳ kheo luôn luôn bám sát Ngài để tìm đủ mọi cách hãm hại. Nhưng tất cả không thoát ngoài luật nhân quả. Hại người trở lại hại mình. Ác lai ác báo nhãn tiền là như thế! Đó là một định luật nhân quả bất di bất dịch. Không ai có quyền thay đổi được luật nhân quả. Luật pháp thế gian, còn tùy theo mỗi chế độ cai trị mà có đổi khác, còn luật nhân quả là một định luật tự nhiên của vũ trụ vạn hữu, thì không một bàn tay nào có thể thay đổi được. Vì nó là một chân lý phổ biến muôn đời.
Điều rõ ràng nhứt, trong câu chuyện nầy cho chúng ta thấy, cuối cùng, vị Tỳ kheo có ác ý kia, cũng bị phơi bày trước ánh sáng công lý nhân quả.
Điểm đặc biệt và kỳ thú trong câu chuyện nêu trên, cho chúng ta một bài học tuyệt hảo quý giá, đó là kẻ ác tâm hại người hiền, cuối cùng bị lãnh lấy hậu quả về mình. Người hiền không bao giờ hại được. Nhưng với điều kiện, là phải có một đức nhẫn thâm hậu. Như trường hợp Ngài Xá lợi Phất. Nếu Ngài còn sân hận như chúng ta, thì chắc chắn cuộc diện sẽ biến đổi khác. Bởi vì còn sân hận là còn có hơn thua tranh chấp lẫn nhau. Nếu đối phương không nhẫn nhịn được, thì hậu quả sẽ xảy ra rất tai hại cho đôi bên.
Ngược lại, ở đây thì khác. Ngài Xá lợi phất, dù biết vị Tỳ kheo có ác ý hại mình, nhưng Ngài vẫn bình thản an nhiên. Vì Ngài là người chứng quả A la hán, nên Ngài thừa biết tâm địa của những con người chưa gạn lọc hết phiền não. Hễ còn phiền não là còn chứa rắn độc trong tâm. Do đó, mà rắn sẽ phun nọc độc bất cứ lúc nào.
Hiểu thấu được tâm trạng đó, nên Ngài không lấy gì làm lạ. Chẳng những không một chút khởi tâm oán giận người hại mình, mà Ngài còn rộng lượng bao dung tha thứ và xin lỗi họ nữa. Xin lỗi những gì tôi đã gây ra người không vừa ý. Ôi! Thật là cao cả! Thật là một lối hành xử cao đẹp biết ngần nào! Nếu không phải là một con người có đức hạnh thật sự, thì làm gì có cung cách hành xử được như thế. Bởi thế, Phật hết lời tán dương khen ngợi Ngài. Quả tâm địa của Ngài giống như đất bằng không bao giờ dậy sóng.
Ngược lại, tâm địa của chúng ta thì đất cũng bằng, nhưng luôn luôn dậy sóng. Hình ảnh đất bằng, không gồ ghề, gò nổng, không có cao thấp, để nói lên tâm địa của một người đạt được quả vị Niết bàn, không còn thấy có hai bên cao thấp sai biệt như chúng ta.
Một thí dụ hình ảnh thứ hai là nhân đà yết la. Nhân đà yết la, tuy có nhiều bản dịch nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung, cũng chỉ cho cột trụ rắn chắc, không gì có thể làm lay động nó được. Mục đích, cũng để nói lên cái tâm an định của Ngài Xá lợi Phất giống như thế. Không gì có thể làm lay chuyển tâm an định của Ngài được.
Đến thí dụ thứ ba, Phật nêu ra hình ảnh ao sâu không bùn. Ao sâu không bùn là nói lên nước ao trong vắt, không cặn cáu nổi lên. Đây là diễn tả tâm vắng lặng tịch tịnh của người đạt đạo, đã sạch hết phiền não. Cuối cùng Phật kết luận, người được như thế, tất nhiên, là ra khỏi sanh tử luân hồi.
Tóm lại, qua pháp cú nầy, Phật vừa nêu cao hình ảnh của một người đạt đạo giải thoát, không còn vướng kẹt vào dư luận khen chê, đồng thời, Phật cũng nhằm thức nhắc mọi người, không nên có ác tâm hại người chân chánh tu hành. Hơn thế nữa, Phật cho chúng ta thấy, trong tăng đoàn, cũng có kẻ vầy người khác, tùy theo trình độ tu chứng cạn sâu, mà có những điều xử sự khác nhau. Ai còn nhiều tánh xấu, chưa được gột rửa khá, mặc dầu sống lâu trong đạo, thì những người đó thật đáng thương hơn đáng trách. Bởi vì căn nghiệp của họ còn quá sâu dầy. Vả lại, sự tu hành của họ còn lôi thôi chưa hết lòng tinh tấn để diệt trừ phiền não. Và như thế, thì những người có trình độ tu khá hơn, nên hết lòng thương yêu chỉ bảo thức nhắc và sẵn lòng tha thứ những gì mà họ gây ra lầm lỗi. Có hành xử hiểu thương và cảm thông nhau như thế, thì đời sống trong tăng đoàn mới có lợi ích. Bằng không, thì chuốc thêm phiền não mà thôi. Dù tu lâu, nhưng không bao giờ tiến bộ trên đường giải thoát. Chúng ta nên noi gương Tôn giả Xá lợi phất để hành xử với những kẻ có lỗi lầm
96. “Người tâm ý an tịnh,
Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Tịnh lạc là vị ấy.”
97. “Không tin, hiểu vô vi.
Người cắt mọi hệ lụy
Cơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật tối thượng.”Lược giải
96. Những vị A la hán ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng, lại có chánh trí giải thoát, nên được an ổn luôn.
Calm is his thought, calm his speech and calm his deed, who, truly knowing, is wholly freed, perfectly tranquil and wise.
Kệ Tụng
Người tâm ý an tịnh
Thân ngữ thường an tịnh
Chánh trí, chơn giải thoát
Vị ấy luôn tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện một Sa di của Trưởng lão Tissa.
Trưởng lão Tissa được một Phật tử cho cậu bé xuất gia làm thị giả cho ông. Vị Sa di nầy đã chứng quả A la hán, trong khi đó, Trưởng lão Tissa mới được quả dự lưu (Tu đà hoàn). Một hôm, Trưởng lão Tissa thẩy cây quạt văng trúng mắt chú Sa di làm cho chú bị mù một con mắt. Nhưng chú ta cố che giấu không cho Thầy biết. Dù bị tật nguyền như thế, nhưng chú không một chút lộ vẻ buồn phiền trách giận. Khi biết được cớ sự, Trưởng lão Tissa cùng với người đệ tử trung thành đến bạch trình duyên cớ cùng đức Phật. Nhân đó Phật dạy pháp cú nầy (Tóm ý chính truyện tích).
Bất cứ hành động nào cũng phát xuất từ ba nghiệp. Trong đời sống hằng ngày, người ta lo ăn, lo mặc đủ thứ, nhưng ít ai nghĩ đến việc tạo nghiệp của mình. Nhân quả có ra từ nghiệp. Tất cả việc làm lành hay dữ, đều từ ý nghiệp mà ra. Vấn đề nầy, trong kinh Phật thường lặp đi lặp lại nhiều lần. Vì tánh cách hệ trọng của nghiệp, nên Phật thường nhắc nhở cho chúng ta nhớ để ngăn ngừa. Muốn không có quả khổ, thì đừng gây nhân khổ.
Trong đạo Phật, đối với người tu hành, vấn đề đạo đức, thâm chứng thật khó nói. Kính trọng người có tuổi tác giới đức, nó thuộc về phần giới luật, niên trưởng hạ lạp. Truyện dẫn trên cho ta thấy, Trưởng lão Tissa, tuy là một bậc thầy của chú Sa di, nhưng trình độ tu chứng lại không bằng. Đạo đức thâm hậu bên trong thật khó biết. Dù bị thầy liệng cây quạt văng trúng mù mắt, nhưng chú không một lời than van oán trách. Cố tình che đậy con mắt, sợ thầy trông thấy mà sanh tâm ăn năn hối hận. Vì không muốn cho thầy có chút buồn lòng, nên cam tâm âm thầm chịu đựng. Cho đến khi bị thầy phát hiện, bấy giờ, chú mới chịu trình bày thưa thật. Ôi! Quả thật một đức hạnh khó lường! Sở dĩ được thế do đâu? Do sức huân tu sâu dầy của chú, không phải hiện đời mà đã trải qua nhiều đời.
Qua chuyện nầy, ta càng cẩn trọng hơn trong việc đối xử tiếp người. Bồ tát hiện thân dưới mọi hình thức thật khó biết. Đôi lúc, ta khinh thường một chú nhỏ, nhưng có biết đâu chú nhỏ đó lại là bậc thầy của ta. Không phải thầy ta trong hiện đời mà thầy ta trong nhiều kiếp. Với mắt phàm tục làm sao ta biết được. Tốt hơn hết, khi tiếp người, với bất cứ ai, ta không nên có thái độ khinh khi coi thường. Chú Sa di, tuổi tác tuy nhỏ, mà phiền não không còn vì đã chứng quả A la hán. Đã thế, thì làm gì có hiện tướng tham, sân, si.
Chuyện nầy, đối với chúng ta, lấy trí phàm xét đoán, thì thật là khó tin. Tại sao bị thầy làm mù mắt mà vẫn âm thầm chịu đựng, không một lời oán trách? Hỏi thế, là vì chúng ta đang sống trong vòng nghiệp thức phiền não, nên việc hiểu biết của chúng ta, chỉ xoay quanh theo “bản ngã nghiệp thức phân biệt”. Nên việc đó, đối với chúng ta, quả là khó khăn, chỉ có thánh nhơn mới làm được. Nhưng trong việc tu hành, nếu chúng ta không tập cho mình có những đức tánh thánh nhơn nho nhỏ, thì làm sao có được thánh nhơn lớn hơn. Một hành động, dù không phải cố tình của một vị thầy gây ra, nhưng hậu quả rất lớn đối với con người. Nhứt là đối với một chú bé còn nhỏ tuổi.
Sự đo đạc, đánh giá con người qua trình độ kiến thức rộng hay cấp bằng cao, đối với đạo Phật, không cho đó là quan trọng. Chớ nên ỷ lại cấp bằng cao mà nguy hiểm. Trong tập thơ Diệu Lý Pháp Đăng, Hòa Thượng Giác Nhiên có bài thơ nói về cấp bằng cao như sau:
Người tu chớ ỷ cấp bằng cao
Ỷ lại buông lung cũng té nhào
Đạo quý nhờ nơi người có đức
Đâu màng danh vọng kẻ tài cao
Chữ tài thường vướng tai, tai hại
Chữ đức bền lâu đức mãi hoài
Vậy kẻ tầm tu tìm học đạo
Răn lòng khiêm tốn thực hành mau.
Điều quan trọng là con người đó thật có đạo đức hay không? Và có thật là người tu hành chơn chánh hay không? Đó mới là điều mà đạo Phật đánh giá, nhắm tới. Vì đạo đức là cội gốc của con người, học thức chỉ là một thứ đáp ứng nhu cầu cho đạo đức. Nói khác hơn, học thức chỉ là bổ túc cho đạo đức vững chắc, phong phú hơn. Cây học thức muốn được có hoa trái tươi tốt, thì phải có rễ đạo đức cấm sâu vào lòng đất nhân bản. Thiếu rễ đạo đức, thì cây học thức không thể nào đứng vững được. Chú Sa di trên, học lực chẳng có gì, nhưng mà đạo lực của chú quá thâm hậu cao siêu. Dù cho một người có kiến thức rộng, cấp bằng cao, nhưng gặp việc có tác hại cho cái “ta” của mình, thì thử hỏi, có mấy ai xử sự được như chú?
Đó là chưa nói đến cái chướng ngại lớn của “Sở tri”. Học thức càng cao, “sở tri chướng” càng nặng. Sở tri chướng càng nặng, thì cái “ta” lại càng lớn. Từ đó, nảy sanh ra lắm điều tệ hại và làm chướng ngại trên bước đường tu chứng rất lớn.
Ta nên nhớ, kiến thức không thể giải quyết được vấn đề sanh tử. Nếu kiến thức giải quyết được vấn đề sanh tử, thì Thái tử Sĩ Đạt Ta sẽ không ngồi dưới cội Bồ đề trải qua 49 ngày tư duy quán sát. Vì trước đó, Ngài có một kiến thức học lực siêu quần, nhờ thời gian quán chiếu thiền định sâu xa, nên Thái tử Sĩ Đạt Ta mới trở thành một bậc Đại Giác. Như thế, đủ đánh giá con người, nếu chỉ biết trau giồi cho mình có kiến thức sâu rộng mà không chịu huân tu cho mình có một đạo lực khá cao, thì sự hiểu biết đó, chỉ là một thứ rổng tuếch mà thôi. Nói khác đi, là chỉ phô trương để khoe khoang lòe thiên hạ. Do đó, đạo Phật chủ trương đạo đức (chân tu) là chánh mà học vấn là phụ. Chính cái đạo đức mới giải quyết con người thoát khỏi khổ đau.
Con người có thực chất đạo đức mới hành xử cao thượng. Họ thận trọng gìn giữ ở nơi ba nghiệp. Họ thừa biết, cõi đời nầy, đau khổ hay hạnh phúc, đều từ ba nghiệp mà ra. Thân, miệng, ý là ba thứ cấu kết với nhau tạo thành nghiệp lành hay dữ. Ở đây, Phật khen chú Sa di, vì không còn dục lậu, nên mọi hận thù tranh chấp không có, do đó, mà tâm ý chú luôn được an tịnh.
Sự tu hành chỉ ngần ấy. Đừng luận thuyết huyền đàm cao siêu. Chúng chỉ có tác dụng là những thứ bánh vẽ. Chúng không làm no bụng ta được. Càng say mê theo bánh vẽ, ta chỉ càng chết đói khô mà thôi. Muốn được no bụng, không gì hơn là ta phải đích thực làm ra bánh thiệt và phải ăn cho được bánh thiệt. Đó là thái độ khôn khéo nhứt của người biết thưởng thức. Hãy sống với thực tế. Xin đừng bắt bóng viễn vông mà sau rồi ăn năn không kịp. Chỉ có dẹp trừ phiền não, mới cứu thoát được đời ta. Ngoài ra, chỉ là những kẻ nói suông ăn bánh vẽ mà thôi.
Nương bánh vẽ để làm ra bánh thiệt
Bánh thiệt kia đã có sẵn trong ta
Tại sao ta chẳng chịu làm ra?
Để cứ nói ăn toàn bánh vẽ
Ăn bánh vẽ có no chăng nhỉ?
Hay rốt rồi bụng đói trơ gan
Nghĩ cười nôn đếm bạc thế gian
Rốt cuộc lại mình không đồng điếu
Khác gì kẻ nghèo hèn túng thiếu
Mà trong mình mang sẵn báu châu
Cứ mãi lo tìm kiếm ở đâu đâu
Mà không biết hạt châu trong túi áo!...
97. Những vị A la hán chẳng còn phải tin ai, đã thấu hiểu đạo vô vi[108], dứt trừ vĩnh viễn nguyên nhân cùng quả báo ràng buộc, lòng tham dục cũng xa lìa. Thật là bậc Vô thượng sĩ[109].
The man who is without blind faith, who knows the Uncreate, who has severed all links, destroyed all causes (for karma, good and evil), and thrown out all desires-he, truly, is the most excellent of men.
Kệ Tụng
Bất tín hiểu Vô vi
Cắt đứt mọi hệ lụy
Nhân diệt tham ái diệt
Vị ấy thật tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Ngài Xá lợi Phất. Nhân có 30 vị Tỳ kheo đến vấn an Phật và Phật biết cơ duyên của những vị nầy có thể đắc quả A la hán. Do đó, Phật hỏi Xá lợi Phất:
-”Xá lợi Phất! Ông có tin rằng tín lực khi được khai mở và phát triển, sẽ đưa đến bất tử không?”
Ngài Xá lợi Phất thưa rằng: Ngài không hành trì hoàn toàn dựa vào niềm tin nơi Phật, mà chính Ngài phải tự nỗ lực khai mở và phát triển niềm tin mới có thể đưa đến Bất tử (Niết bàn). Tuy nhiên, đối với những ai chưa đủ khả năng phát triển tự tín, thì cũng cần dựa theo niềm tin của người khác để được thành tựu Bất tử. Nghe thế, các Tỳ kheo khác cho rằng, Ngài Xá lợi phất còn tà kiến.
Nhân đó, Phật dạy pháp cú nầy, mục đích là để minh định về sự chứng đạt của Ngài Xá lợi Phất; đồng thời, Phật cũng chỉ bày rõ về niềm tin ở nơi chính mình để tự phát triển trí huệ và thiền định mới có thể chứng đạt đạo quả (Tóm lược truyện tích).
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tin là mẹ đẻ của các công đức. Lòng tin làm thêm lớn căn lành v.v” Nhưng đặt định niềm tin phải đúng với chánh pháp. Bước đầu vào đạo, đa số Phật tử đến với đạo Phật đều đến bằng niềm tin. Dựa theo lời Phật dạy trên, thì niềm tin rất quý đối với người tu Phật. Tuy nhiên, niềm tin phải được hướng dẫn bởi lý trí. Nghĩa là phải do trí huệ chỉ đạo. Nếu thiếu trí huệ dẫn đường, thì niềm tin kia dễ bị rơi vào tà kiến. Một khi rơi vào tà kiến, thì đó là một họa hại vô cùng. Thế nên, người Phật tử luôn được khuyến khích tin vào Tam bảo.
Tin Tam bảo là chánh tín. Tam bảo là nền tảng vững chắc để chúng ta xây dựng cột trụ niềm tin. Ngoài ra, chúng ta còn phải tin một cách mãnh liệt vào lý nhân quả. Nếu chúng ta đặt niềm tin lệch quỹ đạo nhân quả, tất nhiên là chúng ta sẽ đi vào con đường mê tín, vô lối thoát.
Bước đầu, ta có thể xây dựng niềm tin dựa vào tha nhân, như tin Phật, tin Pháp, tin Tăng v.v. Nhưng, khi chúng ta có được niềm tin vững chắc rồi, ta cần phải tự lực phát triển niềm tin ở nơi chính mình. Vì Phật cũng do Ngài tự tin vào khả năng thành Phật của Ngài mà Ngài được thành tựu đạo quả. Phật không tin vào bất cứ ai. Ta tin theo Phật, vì Phật chỉ cho ta con đường sáng suốt để tiến đến giác ngộ. Hơn nữa, Phật cũng không bắt buộc chúng ta phải tin nơi Ngài một cách hoàn toàn. Nếu tin như thế, hóa ra là ta hoàn toàn ỷ lại nơi Ngài. Ngài chỉ là người khai sáng niềm tin cho ta. Và khi chúng ta học hỏi hiểu được những gì Ngài dạy, bấy giờ, ta phải tự nỗ lực tin vào khả năng giác ngộ của mình. Vì khả năng thành Phật của chúng ta cũng có tiềm tàng như Phật. Chẳng qua chúng ta chưa thật sự khai triển phát huy một cách đúng mức đó thôi.
Truyện dẫn trên, sau khi Phật hỏi, Ngài Xá Lợi Phất trình bày, các vị Tỳ kheo vội cho Xá Lợi Phất còn tà kiến. Phật phủ bác điều đó.
Phật dạy: Một người muốn đạt được quả vị Bất tử, thì không thể hoàn toàn tin vào người khác. Mà tự mình phải khai triển ngũ lực, trí huệ và thiền định của chính mình, mới mong đạt được kết quả.
Đạo Phật là đạo rất công bằng và tự do. Phật không bắt buộc ai tin theo Ngài. Những lời Ngài dạy, do những gì Ngài thấy qua sự kinh nghiệm thực chứng. Ngài trả lại niềm tin và sự chọn lựa ở nơi chúng ta. Dựa vào những lời Ngài dạy, ta cần phải suy tư chín chắn, trước khi phát khởi niềm tin. Bởi niềm tin là một năng lực rất mạnh quyết định cuộc đời ta. Tin đúng chân lý, thì những việc làm, tu học của chúng ta mới thật sự có Lợi ích cho mình và tha nhân. Bằng ngược lại, chính ta đã lao đầu xuống hố sâu của mê tín và dẫn theo sau đó là một hệ quả đau khổ trải bao kiếp đời sau. Khi đó, muốn hồi đầu cũng không phải là chuyện dễ.
Những ai có được cơ duyên tốt hôm nay, gặp được chánh giáo Phật dạy, không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà là do gieo trồng hạt giống chánh pháp đã từ lâu đời trong quá khứ. Không có một kết quả nào mà không bắt nguồn từ ở nơi cái nhân. Do đó, ta không nên phụ lòng tin của ta. Ta cần phát triển vun bồi chánh tín nhiều hơn nữa. Tam bảo chỉ là để cho ta nương tựa ngoại diện. Nhờ có Tam bảo bên ngoài, ta mới có thể tự phát niềm tin Tam bảo tự tâm. Tam bảo tự tâm là cội gốc của sự thoát khổ. Tam bảo bên ngoài không thể cứu được ta. Nếu chúng ta chỉ một bề tin theo và ỷ lại, thì ta đã và đang rơi vào tà tín, dù ta đang khoác chiếc áo tu theo Phật giáo. Ta phải hết sức dè dặt cẩn trọng trong khi đặt niềm tin. Phật chỉ cứu thoát ta hết khổ bằng lời dạy của Ngài, nếu chúng ta y theo đó mà thật hành. Bằng không, thì ta tự chôn sống cuộc đời ta trong ngôi mồ “ỷ lại, tà ngoại”.
Đã có niềm tin vững chắc ở nơi bản tâm, bấy giờ, hành giả chuyên tâm tinh tấn tu hành cho đến khi đạt được lý Vô vi. Vô vi là tên khác của Niết bàn, nghĩa là quả vị bất sanh bất diệt. Một khi hành giả đã đạt được quả vị nầy rồi, thì những nguyên nhân ràng buộc sẽ không còn. Nói rõ hơn là những nghiệp thiện, nghiệp ác thế gian sẽ không còn. Như diều đã hoàn toàn đứt giây. Bấy giờ, diều sẽ tự do thênh thang bay lượn khắp cả bầu trời. Một bầu trời chánh pháp an vui tự tại. Đó là cảnh giới giải thoát của bậc Vô thượng sĩ.
98. “Làng mạc hay rừng núi
Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào,
Ðất ấy thật khả ái “.
99. “Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích,
Vì không tìm dục lạc.”Lược giải
98. Dù ở xóm làng, dù ở núi rừng, dù ở đất bằng, dù ở gò trũng, bất cứ ở chốn nào mà có vị A la hán thì ở đấy đầy cảnh tượng yên vui.
Inspiring, indeed, is that place where Arahats dwell, be it a village, a forest, a vale or a hill.
Kệ Tụng
Làng mạc hay rừng núi
Thung lũng hay đồi cao
La hán trú chỗ nào
Chỗ ấy được tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật nói tại Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Khadiravaniya Revata.
Revata là em út của Tôn giả Xá Lợi Phất. Xá Lợi phất có ba người chị và hai người em đều đi tu, chỉ còn có cậu em út là chưa đi tu. Cậu em út Revata nầy, mới lên bảy tuổi, vì cha mẹ của Tôn giả sợ cậu con trai nầy theo anh chị em đi tu, nên hai ông bà cưới vợ cho cậu út nầy rất sớm, chỉ mới 7 tuổi thôi. Một hôm, đang rước dâu ở nhà gái, mọi người đến chúc phúc cho cô dâu sống lâu già như bà nầy (chỉ bà già 120 tuổi, rụng hết răng, tóc bạc, má cóp da nhăn, còn da bọc xương)
Bấy giờ, chú rể nhìn thấy sửng sốt. Trời ơi! Nếu vợ ta già như thế nầy, thì còn gì là nhan sắc đẹp đẽ nữa đâu. Chàng ta lo nghĩ trong lòng chẳng nói ra. Đến khi, trên đường rước dâu từ nhà gái về nhà chàng, chàng giả bộ đi cầu rồi trốn luôn đi tu. Xá Lợi Phất hay tin và Ngài đến thăm em. Cậu em Ly bà Đa sợ gia đình hay tin đến bắt về, nên cậu nhờ các vị Tỳ kheo chỉ dạy thiền quán và không bao lâu cậu bé chứng quả A la hán. Sau đó, Ly bà Đa giả từ mọi người lên đường khất thực
Sau cậu trở thành một Trưởng lão có đầy đủ oai đức lớnChỗ ở của Ngài là một rừng gai. Phật và Xá Lợi Phất đến thăm Có thầy Tỳ kheo phiền trách về chỗ ở của Ly bà Đa là thế nầy thế kiaNhân đó, Phật nói pháp cú nầy.
Cảnh thanh vắng u tịch rất thích hợp cho những ai có chủng tử thích sống cô tịch để dễ gạn lọc phiền não. Ngược lại, nó sẽ không thích hợp cho những ai có chủng tử thích sinh hoạt náo động. Vì thế, ta không lấy gì làm lạ khi thấy những người xuất gia có vị thích ở phố thị, có người thích ở núi rừng. Đấy là do chủng tử sai biệt trong quá khứ. Một người thích sống ở núi rừng, lòng họ cảm thấy rất nhẹ nhàng thanh thoát. Ngược lại, cũng cảnh đó, nhưng với người thích sống thành thị, thì họ cảm thấy rất là buồn tẻ.
Ở đây, Phật dạy, đối với những bậc đã hết phiền não, thì dù ở đâu, họ cũng cảm thấy an vui. Còn những ai phiền não chất chồng, đầy ấp, thì dù sống ở cảnh nào cũng không bao giờ cảm thấy hài lòng vui vẻ. Như vậy, pháp cú nầy, Phật cho chúng ta một bài học về cảnh và tâm. Giữa cảnh và tâm, tuy nó có liên quan mật thiết với nhau như da với thịt, nhưng bao giờ tâm cũng là quan trọng hơn. “Vì trong tất cả các pháp tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả”
Người tu, dù xuất gia hay tại gia, bao giờ Phật cũng dạy chúng ta, phải nỗ lực chế ngự điều phục tâm. Vì tâm là nguyên nhân chính gây ra nghiệp khổ vui. Tâm ai còn phiền não, thì người đó khó được giải thoát. Muốn được an vui hạnh phúc, người tu cần phải tiêu trừ phiền não.
Trong khi nhiếp tâm gạn lọc tiêu trừ phiền não, đối với người mới tập tu, thì cảnh trí chung quanh cũng tác động ảnh hưởng rất lớn. Do đó, thời xưa, ta thấy ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, phần lớn, các bậc thiền đức tu hành, sau khi tham vấn ngộ đạo, các Ngài hay vào rừng sâu núi thẳm để ẩn tu. Vì cảnh trí ở núi rừng là môi trường sống rất yên tĩnh dễ được định tâm hơn. Càng tránh bớt duyên đời chừng nào, thì càng dễ yên tu hơn chừng nấy. Tổ Quy Sơn có dạy: “Muốn gội tâm nuôi đức, phải ẩn tích mai danh, muốn uẩn tố tinh thần, phải xa nơi huyên náo”.
Trừ những bậc đã được thánh quả, hay đạo lực cao thâm, còn lại, những ai đang trên đường tu tập, để đoạn trừ phiền não, mà sống giữa nơi phồn hoa đô hội, rộn rịp ồn ào, thì không làm sao tránh khỏi sự chi phối ở nơi bản tâm. Đó là chưa nói đến những công việc bận rộn, rối rắm, cần phải giải quyết.
Từ sáng tới tối, hết làm việc nầy, đến giải quyết việc kia, còn thời gian đâu nữa mà tham thiền, niệm Phật. Ngoại trừ những bậc căn cơ bậc thượng, tu trong mọi hành động, mọi hoàn cảnh, làm mà không thấy có mình làm trong đó. Làm trong chánh niệm, hay hành xả. Nếu chưa được như thế, thì công việc đã chiếm hết thời giờ tu.
Tâm ta lúc nào cũng chạy theo công việc khó được an định. Dù viện dẫn với bất cứ lý do nào, theo tôi, thì đây là một sự thật. Muốn tâm an, mà cảnh luôn luôn xáo động, thì tâm ta thật khó dừng. Làm sao khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không dính mắc cho được? Nếu ai được đối cảnh vô tâm, thì dù ở bất cứ nơi đâu cũng là Cực lạc. Những người được như thế, thì cần gì phải nói đến Tịnh đến Thiền. Lý thuyết bao giờ cũng là lý tưởng, nhưng thật hành thì thật là chanh chua gian khổ. Bởi cớ đó, điều mà chúng ta phải thật tâm nhìn nhận, thời nay, sự tu hành của người xuất gia, so với thời xưa, thật khó mà đạt được an định. Tu mà tâm không an định, thì thử hỏi: làm sao tương ưng với Phật?
Sống thời đại khoa học, theo nhu cầu của sự sống, con người dù ngoài đời hay trong đạo, ai cũng có nhiều bận rộn. Nếu không khéo, thì mọi người sẽ trở thành “cái máy biết nói”. Hiện nay, có biết bao người đang kêu gào về sự bật gốc và nhơn loại đang tiến dần vào ngỏ cụt của sự sống!. Nhơn loại ngày nay đang trên đà chạy đua vật chất. Cuộc sống của họ là đồng nghĩa với xáo trộn, nổi loạn, bất an. Tâm trí của họ luôn luôn quay cuồng như chong chóng.
Môi trường sống toàn là náo động ồn ào bởi những thứ động cơ máy móc gây ra. Con người sống hướng động như thế, trách gì mà không nổi loạn! Bệnh tâm thần càng ngày càng nhiều. Con người không còn phương cách chạy chữa. Nương về với Tôn giáo ư? Tìm nơi yên tĩnh để di dưỡng tinh thần, tìm đâu ra đây? Chùa, nhà thờ, hay thánh thất? Tất cả đều như trong một guồng máy sinh hoạt náo động. Nơi nào cũng có những cảnh động bởi do người gây ra.
Chính vì lẽ nầy, nên có nhiều vị tu hành đang nghĩ đến tìm nơi tháo gỡ bớt những rối rắm trong lòng của mọi người. Nếu không, nó có ngày sẽ nổ tung và thế giới nầy sẽ trở thành thiêu hủy trong nháy mắt. Đó là một viễn tượng hãi hùng không thể không xảy ra, nếu nhơn loại không tự tìm phương giải quyết. Con người sống phóng thể như thế, làm sao có được an tĩnh đây? Các nhà lãnh đạo của các Tôn giáo, các Ngài đang ưu tư một thảm họa của nhơn loại như thế! Tất cả như đang dồn hết mọi nỗ lực để tìm phương tháo gỡ: những âu lo, những sợ hãi, những nổi loạn, mà con người vừa là một tác nhân mà cũng vừa là một tác quả.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta như một báo động về cuộc sống của nhơn loại. Hơn lúc nào hết, thế giới ngày nay, rất cần những con người tỉnh thức. Nhơn loại rất cần những con người hành động, tu chứng. Phật nói một cách rõ ràng rằng: “bất cứ nơi nào có vị A la hán, thì ở đấy đầy cảnh tượng an vui”.
Chỉ có con người hết khổ bởi tham sân si hoành hành, thì mới đem đến cho nhơn loại những suối nguồn yêu thương tươi mát. Suối nguồn yêu thương càng tuôn chảy, thì càng xoa dịu bớt nỗi khổ đau của con người. Muốn có được con người đó, mỗi người cần phải xoay lại tìm nơi chính mình. Có xoay lại, mới tìm thấy. Có tìm thấy và sống được với “con người thật” đó, thì nhơn loại mới hy vọng thoát được nỗi khổ đau tự hủy diệt. Chừng đó, mới thật sự thoát kiếp lưu vong đọa đày
Tích truyện trên cho ta thấy, một cậu bé mới bảy tuổi đã nhìn thấy đầu nguồn của sự khổ. Sanh, già, bệnh, chết, đó là bốn quy trình sinh diệt, thống khổ, không một ai thoát khỏi. Nhận thức được cảnh tượng già nua, khi cuộc đời tàn tạ, thì con người không còn nhựa sống vươn lên, bấy giờ, muốn thoát ra khỏi cảnh tượng đó, thì than ôi! đã quá muộn màng rồi! Chi bằng, phải tìm phương giải cứu khi đã ý thức. Không chần chờ, không hứa hẹn, và không nhờ ai khuyên bảo. Chính mình phải tự cởi trói cho mình.
Bằng vào ý thức sáng suốt đó, cậu bé đã trốn thoát. Trốn thoát trong hệ phược của gia đình và thoát luôn khỏi những trói buộc của não phiền. Thế là, không bao lâu cậu bé đã trưởng thành trong nếp sống cao đẹp của một con người thoát tục. Ánh sáng của mặt trời, không còn bị những đám mây mù che khuất. Từ đó, cậu bé đã thật sự lột xác, chuyển hóa con người phàm trở thành một con người thánh. Phàm thánh cũng từ một con người mà ra. Chỉ cần một chữ “Biết” chuyển đổi mà thôi. Chuyển phàm thành thánh, đó là một yếu lý của sự tu hành.
99. Lâm dã là cảnh rất vui với vị A la hán, nhưng người đời chẳng ưa thích; trái lại, dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A la hán lại lánh xa.
Inspiring are the forests in which worldling find no pleasure. There the passionless will rejoice, for they seek no sensual pleasures.
Kệ Tụng
Khả ái thay núi rừng
Người phàm lại không ưa
Vị giải thoát ưa thích
Vì không theo dục lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Kỳ Viên, có liên quan đến một phụ nữ. Người phụ nữ hẹn hò với người yêu, nhưng chờ mãi không được, nàng liền đi đến lạc viên. Khi đến nơi, nàng thấy có một thầy Tỳ kheo đang ngồi kiết già tĩnh tọa dưới cội cây. Nàng đi đến trước mặt vị Tỳ kheo, quyến rủ bằng cách cởi hết xiêm y, lõa thể, cứ cởi ra mặc vô nhiều lần, rồi vỗ tay cười. Khi đó, thầy Tỳ kheo lòng rất hoang mang, không hiểu cớ sự vì sao?!
Đức Phật quan sát thấy hết mọi việc, Ngài vẫn ngồi yên lặng trong hương thất và rồi sau đó, Ngài bảo:
“Các Tỳ kheo! Chẳng thích thú gì chỗ sống của những người chạy theo dục lạc. Nhưng chỗ những người thoát khỏi dục lạc thì thật là thích thú.
Nói xong, Phật phóng quang hiện thân trước vị Tỳ kheo dạy pháp cú nầy”.
Đối với việc hưởng thụ lạc thú ở đời, ta có thể tạm chia ra làm ba hạng người. Một, hạng người chạy theo dòng đời hưởng thụ trụy lạc. Hạng người nầy, họ chơi bời trác táng, sống buông thả, không cần biết đến ngày mai. Họ là hạng người:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mãi sầu.
Đại biểu cho hạng người nầy là đa số các thanh thiếu niên nam nữ ngày nay khắp nơi trên thế giới. Xã hội điên đầu lo lắng vì họ. Họ sống trụy lạc bê tha, đi vào con đường phạm pháp. Họ sống bất cần đời. Đương nhiên là họ có lý do riêng của họ. Môi trường sống của họ là những nơi hý trường, hay bụi đời. Họ bỏ ngang sự học. Họ không cần biết đến tương lai. Họ chỉ biết hưởng thụ những lạc thú gây mê. Họ là người bạn đời thân thiết của các “nàng phù dung tiên nữ”. Họ không thể vắng thiếu các “nàng bàn đèn” nầy. Họ có thể nhịn ăn được, nhưng không thể nhịn hút. Họ đã và đang đi vào con đường nghiện ngập. Đây không phải thuộc về loại thú vui giải trí. Mà là một lạc thú sa đọa. Một hiện trạng đau thương nhứt cho gia đình và xã hội. Bản thân họ, họ đã chuốc lấy khổ đau. Họ đã tự hành hạ xác thân họ rất nhiều. Họ giống như những con thiêu thân đang lao đầu vào ánh sáng để tự đốt mình. Họ cũng biết đau khổ và đôi khi họ cũng muốn vùng vẫy thoát ra.
Nhưng họ lại bị những bàn tay vô hình kéo họ. Họ bị xiết chặt, không cách nào vùng vẫy. Càng vùng vẫy, họ càng bị xiết chặt hơn. Khi họ thức tỉnh, muốn quay về nẻo thiện, thì họ lại bị xã hội rẻ khinh. Mọi người nhìn họ bằng cặp mắt khinh thường và ghê tởm. Thế là, họ lại càng mặc cảm và càng bất mãn xã hội dữ dội hơn.
Ngựa quen đường cũ, thế là họ trở lại con đường xưa. Không phải con đường xưa em đi, có đầy hoa thơm cỏ lạ, có suối nước thơm ngát dịu hiền, mà là con đường xưa đầy cạm bẫy, gai gốc, móc tét lằn da nỏn nà trắng đẹp của những lứa tuổi thanh xuân. Một lứa tuổi tràn đầy nhựa sống vươn lên để làm đẹp cho đời và xã hội. Họ là những đứa con thân yêu tương lai của quốc gia. Chỉ một phút chốc sẩy chân, thì chao ôi! Ngàn đời ân hận! Từ đó, họ rất ghét thù đời và họ lại càng đi sâu hơn nữa. Họ muốn bước ra ánh sáng để xây dựng tìm lại cuộc đời mới, một cuộc đời của dạo nào mà họ còn hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Nhưng họ lại bị xã hội xô họ trở lại vào trong bóng tối. Một bóng tối dày đặc của hãi hùng của đau thương tràn đầy giọt lệ. Thật là kinh hồn khiếp đảm!
Xin mọi người hãy mở rộng cõi lòng cảm thông và thương yêu họ hơn. Đôi khi, họ vì hoàn cảnh nào đó mà ta không biết được. Dù sao, họ cũng là con người, cũng có tràn đầy máu nóng, cũng có đầy đủ những chất liệu tình người. Nhưng không may, họ lại bị sẩy chân sa lầy. Họ đã và đang lún sâu vào bùn nhơ của tội lỗi. Đó là tiêu biểu cho một hạng người, lầm đường lạc bước, từ lúc chập chững bước vào đời. Họ bị cơn gió trốt vật chất trụy lạc, xoáy cuộn cuốn hút họ trôi dạt vào biển đời sa đọa. Có những lúc, trong đêm đen, họ nhìn lại thân hình của họ, như một bóng ma trơi, thân tàn ma dại. Thật là tội nghiệp đáng thương lắm thay!
Hạng người thứ hai, không đến nỗi đau thương như hạng người nói trên. Hạng người nầy, họ còn có chút may mắn hơn, nhưng họ lại thích say sưa cờ bạc. Ngày đêm, họ la cà nhốt mình trong những sòng bài hay những bên ly rượu nồng cháy. Họ không màng tới việc gia đình. Họ bỏ liều vợ con. Đôi lúc, vì sạch tiền túi, họ lại hành hạ đánh đập vợ con. Và cuối cùng, gia đình tan nát, vợ con ly tán chia ly mỗi người một ngã.
Họ sống một mình thui thủi ôm ấp hận buồn chôn sâu đời mình trong bóng tối dày đặc của vô minh tội lỗi. Có người vì đam mê vui hưởng lạc thú nhứt thời, đi vào lầu xanh mua vui, nhưng vui đâu không thấy, mà thấy họ mang bệnh tật suốt đời! Làm khổ mình, khổ người, thật là một họa lây cho xã hội!
Ngoài hai hạng người tìm lạc thú sa đọa trên, còn có người đi tìm thú vui, tương đối lành mạnh hơn. Họ mua vui giải trí bằng cách tiêu khiển đánh cờ hay ca vũ nhạc v.v. Đây là những thú vui không mang lại tác hại cho ai. Họ cho rằng, đời sống cực nhọc vì lam lũ mưu sinh, cần phải có những phút giây thư thả, thoải mái tâm hồn. Hạng người nầy, ta thấy ở mọi lứa tuổi
Có người, họ có những thú vui khác, tùy theo sở thích của mỗi người. Đầu tuần, họ trông riết cho đến cuối tuần, để họ đi câu bằng một chiếc thuyền con nho nhỏ, thả trôi bềnh bồng trên biển cả bao la. Họ rủ rê đôi bạn bè thân thích, đem theo vài miếng mồi ngon và vài lon bia hoặc một chai rượu ấm, thế là họ vừa câu, vừa thưởng thức. Họ thích ngấm cảnh trời trong mây bạc. Họ sống giữa biển trời nước bao la, tâm hồn họ trải rộng, không vướn bận chuyện đời phiền toái. Mặc cho thế sự thăng trầm. Họ không cần biết tới việc “chánh chị chánh em”.
Cũng theo ý hướng nầy, có ngườiï có trình độ khá hơn, nhứt là ở Việt Nam thời xưa, có nhiều cụ đồ nho, trải qua bao cuộc bể dâu thăng trầm với cuộc đời, đến tuổi xế chiều, các cụ thường trở về vườn vui thú điền viên. Chẳng hạn như cụ Nguyễn Bĩnh Khiêm có bài thơ nói lên niềm vui trong lòng dưới đêm trăng thu:
Xanh biếc cây già tỏa bóng râm
Đêm về phóng khoáng thảnh thơi ngâm
Vi vu gió thổi, tan niềm tục;
Vằng vặc trăng soi, rõ đạo tâm.
Tóc bạc giục người, than tuổi lớn
Cúc vàng chiếu rượu, biết thu thâm
Lợi danh cuồn cuộn, theo chi mãi
Bao cuộc hưng vong nghĩ kẻo lầm
Ngược lại, những hạng người nói trên, đối với thú vui của người đạo sĩ có khác. Họ vui sống với thiên nhiên với hoa lá cây rừng. Tâm hồn của họ cảm thấy nhẹ thàng thanh thoát. Vì cảnh trí thiên nhiên rất nên thơ, lặng lẽ, đưa các Ngài trở về gần gũi với nếp sống đạo đức hơn. Bởi cảnh trí càng vắng vẻ, thì đối với người đạo sĩ, dễ di dưỡng tinh thần và đi sâu vào nội tâm hơn.
Tìm vào chốn cô tịch, không có nghĩa là trốn đời hay bi quan yếm thế. Mà các Ngài muốn có một cơ hội tốt, nhìn kỹ lại mình nhiều hơn. Thiền sư Không Lộ có bài thơ diễn tả cảnh yên tịnh của thiên nhiên như sau:
Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui thú tình quê quên sớm trưa
Có lúc trèo lên đầu chót núi
Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.
Thiền Sư Trúc Lâm có bài Cư Trần lạc đạo:
Cốc một chân không. Dụng đòi chân khí.
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Ngược lại, đối với người đời, vì đua đòi say mê dục lạc, làm sao họ biết được và cảm nhận thú vui nầy.
Cùng một nhịp điệu vui, nhưng thấp hơn một bậc, tức thú vui của những người biết chút ít tu hành thì có khác. Họ không dại khờ đắm mình trong những thú vui giết người không dao như những hạng người sống bê tha phóng dật. Họ tự tạo cho họ một thú vui nhẹ nhàng thanh thoát. Họ không tách mình ra khỏi cuộc đời. Họ vẫn hòa mình trong cuộc sống. Họ vẫn đóng góp những ích lợi cho xã hội. Họ biết họ phải làm gì để nâng cao giá trị làm người. Họ sống với tất cả tâm tư và nguyện vọng. Họ muốn có một nguồn vui đích thực; một nguồn vui được hấp thụ bởi đạo đức mà họ đã cưu mang. Đời họ đã đau khổ nhiều rồi. Họ đã đi qua những đoạn đường đầy chua cay trái đắng. Họ đã biết rõ và chứng kiến: “cuộc thành bại hầu cằn mái tóc”.Và hơn thế nữa là:”Đường thế đồ gót rổ khi khu”. Gót chân họ đã quá dạn dày sương gió. Họ không muốn dẫm chân lên những tấm thãm xanh của cuộc đời dàn trải, mà trong đó toàn là những thứ độc tố giết người. Họ là người sống có ý thức. Họ đang đi tìm một lẽ sống an vui cho mình và cho người. Cái vui của người đạo sĩ vượt thoát những thú vui tầm thường. Thú vui của họ là rừng cây, là khe núi, là gộp đá v.v…Đây! ta hãy nghe và thưởng thức niềm vui của người chứng đạo. Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có nói:
Nhập thâm sơn trụ lan nhã
Sầm ngâm u thúy trường tòng hạ
Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia
Khuých tịch an cư thật tiêu sái.
Dịch:
Vào rừng thẳm, trụ am thanh tĩnh mịch
Dưới cội tùng, bên gọp đá bóng râm che
Là tăng quê, vui sâu trong tĩnh tọa, trong êm đềm
Cảnh lặng lẽ an lành sao nói hết.
(H T. Thích Từ Thông)
Vâng! Đúng vậy! Làm sao có thể nói hết được cái vui của một con người đạt đạo giải thoát. Thú vui của họ khác hẳn thú vui của người đời. Một niềm vui thâm trầm, sâu kín và an nhiên tự tại. Vui với gió mát, với trăng thanh, với rừng cây khóm trúc. Các Ngài sống lặng lẽ âm thầm, nhưng lại hòa mình trong muôn ngàn điệu nhạc của thiên nhiên. Tiếng chim kêu, tiếng gió thổi vi vu tất cả là những nhạc điệu thiên nhiên, có một sức mạnh đi sâu vào lòng người tỉnh thức. Đó là cái vui pháp lạc của những con người đạt đạo. Những con người rắn chắc và hùng tráng đi vào đời để độ sanh. Là tu sĩ, chúng ta cũng nên đi tìm một thú vui an tĩnh của tâm hồn trong niềm vui hòa mình với thiên nhiên của núi rừng hoa lá, của cảnh tịch tịnh u nhàn Đó là cảnh trí đầy thơ mộng của một tâm hồn siêu thoát.
So sánh những hạng người trên, dù họ chọn thú vui nào, vui lành mạnh hay vui sa đọa, cũng đều là những thú vui phàm tục. Chỉ có những thú vui của các bậc tu hành, mới thoát khỏi vòng tục lụy.
Bởi thế, trong câu pháp cú trên, Phật đã ca ngợi tán dương tinh thần của một vị A la hán đã vui sống với cảnh trí núi rừng thiên nhiên. Trái ngược với hình ảnh siêu thoát nầy, bên cạnh đó, là một hình ảnh trụy lạc sa đọa trong dục lạc của thế nhân. Điển hình cho hạng người nầy là cô thiếu nữ đã phơi bày hình thể trước mắt của một nhà tu hành thoát ngoài phàm tục. Giải thoát hay sa đọa, rốt lại, chỉ ở nơi lòng người
Phẩm Ngàn
100. “Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc.”
101. “Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong, được tịnh lạc.”Lược giải
100. Tụng[110] đến ngàn câu vô nghĩa chẳng bằng một câu có nghĩa lý, nghe xong tâm liền tịch tịnh.
Better than a thousand useless words is one useful word, hearing which one attains peace.
Kệ Tụng
Dầu nói ngàn ngàn lời
Nhưng không chút lợi ích
Không bằng nói một lời
Nghe xong được tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Trúc Lâm có liên quan đến chuyện tên đao phủ Răng Đồng.
Tên đao phủ nầy, khi được gia nhập vào bọn cướp khoảng 499 người, nhưng sau đó ít lâu, cả bọn cướp đều bị bắt. Khi nhà vua ra lệnh tử hình bằng cách chặt đầu, thì không có ai dám đứng ra để làm đao thủ phủ. Tên Răng Đồng nầy, vì hung dữ, nên hắn ta được tên cướp đầu đảng, cử hắn đứng ra làm việc nầy. Hắn lãnh sứ mạng và chặt đầu tất cả. Những kẻ cướp ở các nơi trong nước, sau khi bị bắt, đều dẫn đến và bị hắn chặt đầu, cọng chung có cả gần hai ngàn người.
Về già, hắn vẫn còn giữ hành nghề chặt đầu người, nhưng đôi khi chặt không đứt như khi còn trẻ. Có khi phải chặt hai ba nhát mới đứt.
Một hôm, Ngài Xá lợi Phất, sau khi xảû thiền, đến trước nhà tên đao phủ nầy. Hắùn ta mừng rỡ liền mang sữa và mật dâng cúng. Ngài Xá lợi Phất bảo ông uống đi, vì ông rất thèm khát. Hắn bạch với Ngài Xá lợi Phất, rằng: mỗi khi nhớ lại cảnh giết người, hắn quá sợ hãi, đâm ra rối loạn tinh thần.
Ngài Xá lợi Phất hỏi: “Ông tự ý giết người hay là do người khác sai bảo?”
Hắn thưa: “Do người khác sai bảo”.
Xá lợi Phất nói: “Nếu thế thì ngươi đâu có lỗi gì”.
Sau khi hắn chết được sanh lên cõi trời Đâu Suất.
Chuyện nầy, đến tai Phật. Các vị Tỳ kheo thắc mắc, bạch trình với Phật và nhân đó Phật mới dạy câu pháp cú nầy. (Tóm lược truyện tích)
Qua câu chuyện lược dẫn trên, chắc chắn, chúng ta sẽ thắc mắc và tự hỏi: Tại sao tên đao phủ ác ôn kia, cuộc đời của hắn chuyên giết người như thế, mà sau cuối cùng, hắn lại được sanh thiên? Như vậy, thì giải thích nhân quả như thế nào? Luật nhân quả có đúng không? Tại sao và tại sao lại có chuyện ngược đời như thế? Chắc chắn, sẽ còn có nhiều câu thắc mắc hơn nữa?
Ở đây, tuy cuối câu chuyện không có lời giải đáp lý do tại sao. Và Phật chỉ nói một bài kệ:
Người đao phủ trong thành
Nghe những lời khéo nói
Được nhẫn và sau đó
Lên cõi trời hưởng vui.
Điều mà chúng ta nên lưu ý, đọc qua pháp cú nầy, mục đích chính là Phật khuyên dạy chúng ta, chỉ cần nói một câu ngắn gọn mà có đầy đủ ý nghĩa, còn hơn nói nhiều lời mà vô nghĩa. Như thế, thì làm cho người nghe cũng không được lợi ích gì. Đó là ý chính của lời Phật dạy nầy. Tuy nhiên, để chứng minh lời Phật dạy, người ta dẫn câu chuyện tóm lược trên.
Qua câu chuyện được trích dẫn ngắn gọn đó, chắc hẳn mỗi người chúng ta, sẽ có mỗi ý nghĩ và có thể hiểu khác nhau. Mục đích của chúng ta ở đây, không phải là bàn giải sâu vào câu chuyện, mà mục đích của chúng ta là tìm hiểu sơ qua về lời Phật dạy nầy. Tuy nhiên, theo thiển nghĩ và chỗ hiểu của chúng tôi, thì qua câu chuyện trên, không phải là không đúng nhân quả. Lý do tại sao? Vì tên đao phủ nầy, thứ nhứt, hắn ta không phải tự ý làm ác. Mà hắn làm với một động cơ bị kẻ khác sai sử. Khi bị kẻ khác sai sử, thì rõ ràng hắn không có chủ tâm. Mà tội có ra nặng là phải do từ ý nghiệp chủ động phát sanh. Nên qua câu nói của Ngài Xá lợi Phất: Nếu ngươi làm vì người khác sai sử thì ngươi đâu có lỗi gì. Do lời nói nầy mà tên đao phủ hết mặc cảm tội lỗi và không còn hối hận ăn năn nữa. Chính câu nói ngắn gọn đó, là mấu chốt của câu pháp cú Phật dạy nầy.
Quả thật, nếu xét kỹ, ta thấy, một việc làm mà hoàn toàn bị động, thì lỗi đó rất nhỏ. Vì chính họ không phải là người chủ mưu hay đồng lỏa. Trường hợp đồng lỏa thì khác. Đồng lỏa, có nghĩa là đã biểu đồng tình với việc mình làm. Tuy mình không phải là người đứng ra lãnh đạo chủ chốt. Nhưng mình vẫn đóng vai trò hợp tác chặt chẽ với người chủ mưu. Tội đó, chỉ nhẹ hơn người chủ mưu một chút mà thôi. Nhưng vẫn phải có tội. Gọi là tội đồng lỏa.
Trường hợp ở đây, tên đao phủ nầy, tuy bề ngoài thấy hắn ta làm ác, nhưng tay của hắn ta làm theo lệnh của người khác, chớ không phải nghe theo lệnh của tâm hắn sai sử. Do đó, mà tội của hắn, nếu có cũng rất nhẹ. Vấn đề nầy, cũng giống như vua Trần Nhân Tông, khi điều binh khiển tướng chống quân Nguyên, hoàn toàn không phải làm theo lệnh của nhà vua. Mà nhà vua chỉ làm theo ý kiến của toàn dân, qua hai cuộc đại hội: Bình Than và Diên Hồng. Do thế, vì không phải nhà vua chủ định, nên tội đó rất nhẹ, chỉ cần sám hối là hết. Nhờ thế mà nhà vua sau khi tu mới chứng quả thành Tổ được.
Điều thứ hai, tên đao phủ nầy, được sự giáo hóa của Tôn giả Xá lợi Phất. Đồng thời, tâm của hắn ta vẫn là tâm lương thiện. Hắn mang thức ăn ra cúng dường Tôn giả Xá lợi phất. Hơn nữa, hắn đã biết cải hối việc làm của hắn trước kia, mặc dù không phải hắn ta tự ý làm. Nhưng có tâm hối cải ăn năn, thì đó là tâm lành. Nhờ đó, khi hắn được Ngài Xá lợi Phất khai thị cho hắn một câu ngắn gọn, nhưng xoáy mạnh vào tâm thức của hắn, nên bao nhiêu những ray rức ưu tư sợ hãi, phút chốc tan biến hết. Bởi hắn tin tưởng vào câu nói của một bậc tu hành có đầy đủ đức độ và uy tín lớn. Chính nhờ lời dạy đó, như một tiếng chuông vang dội cảnh tỉnh cho hắn và từ đó hắn biết tu hành và cuối cùng được sanh thiên.
Qua lời dạy nầy, ta thấy cái chủ ý của Phật là muốn thức nhắc chúng ta, khi phát ngôn muốn chỉ bảo ai, trước hết, cần phải biết đối cơ của mình muốn nói. Và khi nói, chỉ cần nói một câu chứa đựng đầy ý nghĩa sâu sắc, làm cho người nghe bắt buộc họ phải lưu tâm và suy nghĩ thật kỹ, nhứt là phải đúng bệnh và hợp cơ. Như thế, mới có kết quả. Bằng không, thì dù mình có nói tràng giang đại hải, toàn là những lời nói rỗng suông, không đâu vào đâu, tức không đúng lẽ thật, thì làm sao người nghe tin tưởng và được lợi ích. Thế nên, nói ít mà phải đúng với chánh lý. Nhờ đó, mà tâm của người nghe được an vui tịch tịnh. Đây là một nghệ thuật và cũng là một tâm lý khi chỉ dạy đối cơ và phải là người thật có uy tín đạo đức. Vì có như thế, người ta mới tin. Có tin, lòng họ mới không nghi. Vì không nghi ngờ, nên mới có được sự an lạc. Đây là Phật nói trong trường hợp chỉ một hai người đối diện, chớ không phải là ở giữa đại chúng. Nếu trường hợp thuyết pháp cho đại chúng nghe thì có khác. Ngoại trừ, có một vài vị Thiền sư khi thượng đường, các Ngài không giảng thuyết nhiều, chỉ nói một vài câu ngắn gọn, nhưng rất súc tích, nhằm mục đích khai thị cho đương cơ lãnh hội. Nhưng trường hợp nầy cũng rất ít thôi.
101. Tụng đến ngàn câu kệ[111] vô nghĩa, chẳng bằng một câu kệ có nghĩa lý, nghe xong tâm liền tịch tịnh.
Better than a thousand useless verses is one useful verse, hearing which one attains peace.
Kệ Tụng
Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không chút lợi ích
Không bằng nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc.
102 “Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc.”
103. “Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng.”Lược giải
102. Tụng đến trăm câu kệ vô nghĩa chẳng bằng một pháp cú, nghe xong tâm liền tịch tịnh.
Better than reciting a hundred meaningless verses is the reciting of one verse of Dhamma, hearing which one attains peace.
Kệ Tụng
Dầu tụng trăm câu kệ
Nhưng không chút lợi ích
Không bằng một câu pháp
Nghe xong được tịnh lạc.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy ý nghĩa cũng giống như pháp cú số 100. Chỉ khác nhau số trăm và số ngàn câu kệ mà thôi. Ngoài ra, thì không có gì khác cả. Vì vậy, ở đây, xin được thông qua. Xin quý vị đọc kỹ lại pháp cú 100.
103. Thắng ngàn quân giặc ở chiến trường chẳng bằng tự thắng. Người tự thắng là chiến sĩ oanh liệt nhất.
Though one may conquer a thousand times a thousand men in battle, yet he indeed is the noblest victor who conquers himself.
Kệ Tụng
Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Không bằng tự thắng mình
Thật chiến thắng tối thượng.
Lược giảng
Một chiến sĩ khi ra chiến trận, có thể chiến thắng hằng vạn quân địch, Phật cho đó còn dễ. Nhưng tự thắng lấy mình, Phật cho đó mới thật là khó. Nhưng có thắng được giặc của chính mình, Phật nói đó là một chiến công oanh liệt nhất. Lý do tại sao? Vấn đề nầy, chúng ta sẽ bàn sau.
Yếu tố chiến thắng quân giặc của người chiến sĩ ở ngoài trận địa, tuy có nhiều, nhưng yếu tố chính là ở nơi tinh thần chiến đấu. Phải có tinh thần dũng cảm, yêu nước và ý thức quốc gia. Ngoài ra, còn phải nắm vững tình hình, địa hình, địa vật, và phải điều binh khiển tướng giỏi, biết mình, biết người, tức biết thế giặc mạnh yếu v.v. Nghĩa là những yếu tố phụ, thì có rất nhiều, không thể nói hết. Chỉ có những người giỏi binh pháp và có nhiều kinh nghiệm chiến trường mới hiểu rõ mà thôi.
Ở đây, vì không phải trong lãnh vực chuyên môn của chúng ta, nên chúng ta không thể lý giải bàn sâu. Chỉ nói lên cái yếu tố chính mà giữa người chiến sĩ và tăng sĩ, ít ra, trên ý chí quyết thắng giặc, thì cả hai đều giống nhau. Chỉ khác nhau, một đàng nhằm tiêu diệt giặc ngoài và một đàng nhằm tiêu diệt giặc ở trong tâm. Đó là điểm khác nhau giữa chiến sĩ và tăng sĩ.
Đối với người tăng sĩ, muốn được giải thoát để độ mình độ người, trong tinh thần tự lợi và lợi tha như chư Phật Bồ tát v.v, thì trước hết, cần phải tiêu diệt những lũ giặc vô minh phiền não nội tâm. Phải thắng cho được những dục vọng luôn sai sử chúng ta. Đó là trách nhiệm chính yếu của người tăng sĩ trong vai trò chuyển hóa nội tâm. Và đó cũng là điều mà Phật nhắm đến để chỉ dạy trong pháp cú nầy. Tuy nhiên, muốn được thế, chúng ta cần phải trang bị cho mình những thứ vũ khí để chiến đấu với giặc. Vũ khí tuy nhiều, nhưng tóm lại không ngoài ba thứ:
1. Áo giáp sắt tinh tấn.
2. Cây cung Thiền định.
3. Mũi tên Trí huệ.
Đó là ba loại vũ khí chính yếu mà người tu không lúc nào rời ra. Nếu rời ra, chỉ cần một phút giây thôi, thì chúng ta sẽ bị chết về tay quân giặc ngay. Vì ba loại vũ khí nầy rất là hệ trọng. Bởi thế, Phật dạy, muốn chiến thắng quân giặc, thì chúng ta phải luôn trang bị sẵn sàng, không phút giây nào xao lãng. Có thế, thì mới mong chiến thắng.
Đã có vũ khí trong tay rồi, chúng ta cũng cần phải học hỏi để biết cách sử dụng chúng. Cũng như người chiến sĩ, cũng phải học hỏi cách sử dụng vũ khí, khi ra chiến trận. Mặc dù vũ khí có đó, nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng cho có hiệu quả tốt đẹp. Đó là nói vũ khí bên ngoài có hình tướng, mà người chiến sĩ cũng cần phải học hỏi để biết cách sử dụng qua. Hà tất gì thứ vũ khí bên trong không hình không tướng. Đối với loại vũ khí nầy, chúng ta muốn sử dụng cho đúng phương pháp có hiệu quả, tất nhiên, thì thật là muôn ngàn khó khăn. Chính vì những khó khăn đó, nên chúng ta cần phải học hỏi không ngừng để biết cách ứng phó khi sử dụng.
Ba loại vũ khí trong mỗi người chúng ta đều sẵn có. Tại vì chúng ta quên và không biết đem ra sử dụng đó thôi. Vậy, sử dụng chúng như thế nào khi gặp giặc? Nhưng trước hết, chúng ta phải biết giặc là gì?
Giặc có nhiều loại. Có loại giặc bên trong và cũng có loại giặc bên ngoài. Giặc bên ngoài nói chung là những thứ có năng lực cám dỗ ta. Như “Ngũ dục”, “Lục trần” hay “Bát phong” chẳng hạn. Những thứ nầy, gọi chúng là ma vương. Vì chúng hay phá phách và làm cho chúng ta mất hết chánh niệm. Từ đó, chúng ta dễ bị sa đọa. Đại loại, giặc bên ngoài cũng có nhiều thứ, nhưng tựu trung cũng không ngoài những thứ đó.
Nhưng đối với người tu, thì giặc bên ngoài không đáng sợ lắm, mà chỉ sợ nhứt là giặc bên trong. Vì giặc bên ngoài, dù sao, chúng ta cũng còn biết được để ứng phó và diệt trừ. Còn giặc phiền não trong tâm, thật là khó thấy khó biết và rất khó trừ.
Giặc bên trong, nói chung là những loại thuộc Kiến Tư hoặc phiền não. Những loại nầy, có cạn, sâu khác nhau. Có loại dễ trừ và có loại khó đoạn. Có loại thuộc về căn bản, có loại thuộc về chi mạt. Nhưng dù loại nào, chúng cũng có tác dụng làm cho ta luôn bất an. Chúng ta muốn được thật sự an ổn, là phải tiêu diệt bọn chúng không còn một tên giặc nào. Bấy giờ, đất tâm của chúng ta mới được thật sự thanh bình an ổn. Và chừng đó, chúng ta mới thật sự buông bỏ vũ khí. Còn như chỉ còn một tên giặc, dù nhỏ hay lớn, dù thô hay tế, ta cũng không thể nào thờ ơ khinh thường giặc đươc.
Người tu, đối với lòng dục vọng, thì thật là khó thắng. Thắng giặc ngoài còn hơi dễ, nhưng thắng được giặc trong thật là muôn vàn khó khăn. Giặc ngoài chỉ là ngọn ngành, giặc trong lòng mới là gốc. Sở dĩ có gịặc ngoài là do đâu? Có phải do từ lũ giặc bên trong tham, sân, si làm nội ứng gây ra không? Con người, nếu chỉ một bề lo đi tiêu diệt giặc bên ngoài, mà không tiêu diệt giặc bên trong của mình, thì thử hỏi bao giờ thế giới mới được hòa bình? Thế giới muốn sống trong cảnh thái bình an lạc, thì mỗi con người cần phải nhìn lại để tiêu diệt giặc thù dục vọng bên trong. Một khi cái gốc không có thì làm gì có ngọn?
Thế nhưng, ngày nay con người không lo tiêu diệt giặc bên trong, mà chỉ lo tiêu diệt giặc bên ngoài. Tức là lo đấu đá giữa người với người. Như thế, rõ ràng là họ lo chạy chữa giành hơn thua với nhau trên ngọn mà quên hẳn cái gốc.
Pháp cú trên, Phật muốn chỉ thẳng cho chúng ta diệt thẳng ở nơi cái gốc. Mà muốn diệt thẳng ở nơi cái gốc không phải là chuyện dễ dàng. Tại sao không dễ? Bởi dục vọng phiền não là những thứ có gốc rễ sâu dầy. Không phải chúng có hiện đời mà nó có từ vô lượng kiếp. Cho nên, muốn tảo thanh nó, không phải một sớm một chiều mà có thể hết được. Đó là nói những người có ý chí muốn thoát ly sanh tử. Còn đối với những ai hài lòng và chấp nhận cuộc sống khổ đau, thì khỏi phải bàn đến. Những thứ phiền não trong tâm thức của chúng ta, tuy chúng vô hình, nhưng chúng có một sức mạnh vô cùng. Chúng sai sử chúng ta. Chúng coi chúng ta như là một kẻ nô lệ. Chúng không bao giờ cho chúng ta sống được yên ổn.
Muốn chiến thắng giặc lớn hay mạnh, trước tiên, chúng ta cần chiến thắng những giặc nhỏ, hay yếu trong tâm trước. Những lũ giặc, tuy nói nhỏ hay yếu, nhưng thật ra chúng cũng có sức mạnh sai sử chúng ta làm những việc bất chánh. Nếu chúng ta không thắng được chúng ngay từ bước đầu, thì hậu quả rất là tai hại khốc liệt. Những loại giặc nhỏ hay chi mạt nầy, trong Duy Thức chia chúng ra làm 20 thứ. Hai mươi thứ nầy, như trong bài trước chúng ta đã biết qua.
- Có người, khi lên bàn ăn, chỉ thiếu có trái ớt thôi, mà họ không dằn được cơn nóng giận, la ó vợ con om sòm. Từ đó, gây ra có chuyện lớn, chỉ vì không thỏa mãn đòi hỏi khẩu vị của họ.
- Một người nghiện thuốc lá, sai con đi mua, chúng lỡ mua sai hiệu thuốc, về nhà, bị họ la ó chưởi cho chúng một trận. Thế là tình cha con từ đó đã có sự nứt rạn, sứt mẽ tình cảm không tốt, cũng chỉ vì một chuyện rất nhỏ nhoi mà không thắng được cơn giận.
- Có người vào trong siêu thị, vì không ngăn được lòng tham, nên chôm chỉa đồ đạc, bị phát giác và cảnh sát đến bắt họ bỏ tù.
- Có Phật tử đến chùa dự tu, vì giành chỗ ngủ nghỉ mà xảy ra có chuyện cải vả rầy rà lớn tiếng với nhau, đó là do không chế ngự được niệm tranh giành. Một việc nhỏ như thế mà không thắng được dục vọng của mình, nói chi đến việc lớn.
Những việc xảy ra như thế, không bút mực nào kể ra cho hết. Chỉ xin nêu ra một vài việc điển hình thôi. Tất cả đều do con người không chiến thắng được những giặc nhỏ tầm thường đó, cuối cùng, hậu quả rất tai hại. Đối với những dục vọng nhỏ nhặt mà họ không chiến thắng được chúng, thì thử hỏi: những dục vọng lớn hơn gấp trăm ngàn lần, thì làm sao họ có thể chiến thắng cho được? Thế nhưng phải chiến thắng chúng bằng cách nào?
Điều nầy, trong kinh điển, Phật dạy có nhiều phương cách đối trị, tùy theo thế giặc mạnh yếu. Như người có lòng sân hận nặng, thì Phật dạy phải dùng pháp quán Từ bi để đối trị. Vì người có lòng thương, thì không nhẫn tâm làm đau khổ kẻ khác. Hoặc người có lòng ham muốn sắc dục nặng, thì Phật dạy phải dùng pháp quán bất tịnh để đối trị. Phải hằng quán sát thân thể mình và thân thể người không có chi là sạch sẽ. Từ đó, lòng ham muốn sắc dục sẽ nhẹ dần v.v.
Về những phương cách đối trị nầy, tất cả đều nằm trong những kinh điển thuộc Bất liễu nghĩa và thuộc về hệ kinh điển A Hàm hay Nguyên thủy Phật giáo.
Cao hơn một bậc, thì Phật dạy người tu phải áp dụng những phương pháp nói trên. Nghĩa là phải ứng dụng Thiền định và Trí huệ để hóa giải mọi mê lầm chấp trước. Muốn sử dụng hai loại nầy cho có kết quả tốt đẹp, thì Phật dạy người tu phải luôn mặc vào áo giáp sắt tinh tấn. Nếu thiếu áo giáp nầy, thì khó mà thắng được lũ giặc phiền não hung bạo kia. Bởi vì thế giặc quá mạnh, mà chúng ta ở thế quá yếu. Nên muốn chiến thắng bọn chúng, thì chúng ta phải thường xuyên tinh tấn. Không lúc nào chểnh mãng xem thường bọn chúng. Vì mỗi phút giây, ta luôn đối đầu trực diện chiến đấu với bọn chúng. Nếu thiếu cảnh giác là chúng ta sẽ bị bại trận ngay.
Trong lịch sử nhơn loại, từ xưa tới nay, sử sách ghi lại chưa có một chiến công oanh liệt nào bằng chiến công oanh liệt của đức Phật. Ngài đã chiến thắng một cách oai hùng và vẻ vang. Nhưng, Đức Phật sở dĩ được thế, Ngài cũng đã trải qua một trận thư hùng ác liệt với bọn ma vương . Một trận địa do lũ ma quân bày chiến trận thật là như thiên la địa võng. Lớp ma trong, ma ngoài bao vây đức Phật tứ phía. Nhưng nguy hiểm và đáng sợ nhứt là bọn nội ma. Đây là bọn nội công nằm vùng thật đáng ghê sợ. Bọn nầy, bình thường ta rất khó biết và khó nhận diện chúng. Chúng chuyên môn đánh chúng ta bằng lối đánh du kích. Nếu ta không đề phòng cẩn mật, thì tất bị chúng tấn công ngay.
Nhìn lại, cuộc chiến đấu của đức Phật thật đầy cam go, gian lao thử thách. Thời gian chiến đấu tranh tối, tranh sáng, một mất, một còn, phải trải qua mất 49 ngày đêm. Đến đêm thứ 49, đức Phật mới hoàn toàn tuyên bố thắng trận. Vũ khí chiến đấu của đức Phật chỉ có hai loại “cung Thiền định” và “tên Trí huệ”. Ngoài ra, Phật còn phải mặc áo giáp tinh tấn. Phật trang bị cho mình thật kỹ trước khi xuất quân đối địch.
Sau khi chiến thắng một cách vẻ vang oai hùng, bấy giờ Phật mới thật sự lên ngôi Chánh giác. Và tất cả quân ma đều xếp giáp quy hàng. Không một tên nào mà không đầu phục. Tuy Phật chiến thắng có một không hai trong lịch sử nhơn loại như thế, nhưng Ngài không một chút lộ vẻ đắc thắng. Ngài rất khiêm tốn. Ngài tỏ ra rất hiền từ để chiêu dụ quân ma. Bọn quân ma sau khi đầu hàng rồi, chúng xin tình nguyện theo Phật để ủng hộ Phật trên đường giáo hóa. Phật đồng ý hứa khả chấp nhận.
Qua đó, chúng ta thấy, sở dĩ đức Phật thành công trong việc chuyển hóa vô minh phiền não, do Ngài có một quyết tâm kiên trì bền bỉ. Nhờ vào sự quyết tâm kiên cường mãnh liệt đó, nên Ngài tự khắc phục và chiến thắng quân ma một cách vẻ vang anh hùng.
Ngày nay, chúng ta tu theo Phật, thì không có con đường nào khác hơn là chúng ta phải theo con đường mà đức Phật đã đi. Nghĩa là muốn tiêu diệt quân ma phiền não, chúng ta cũng phải sử dụng ba loại vũ khí nói trên:cung thiền định, tên trí huệ và áo giáp sắt tinh tấn. Ba loại vũ khí nầy, người tu chúng ta phải sử dụng thường xuyên, luôn cảnh giác đề phòng và sẵn sàng tiêu diệt giặc phiền não. Muốn được giải thoát, thì không có con đường nào chọn lựa khác hơn. Bất cứ ứng dụng tu theo pháp môn nào Phật dạy, trọng tâm của hành giả nhắm tới cũng nhằm vào một mục đích duy nhứt đó thôi. Ngoài mục đích nầy ra, thì dù tu cả đời, cũng không mong gì thành công được.
Sau đây, chúng ta hãy nghe bài thơ nói về sự chiến đấu oai hùng giữa một bên là chiến sĩ và một bên là tăng sĩ.
CHIẾN SĨ VÀ TĂNG SĨ
Anh chiến sĩ còn tôi là Tăng sĩ
Hai chúng ta cùng ý chí như nhau
Anh đấu tranh vì lợi ích đồng bào
Đem sức sống tự do về cho dân tộc
Người Tăng sĩ đấu tranh vì Tam độc
Quyết hiên ngang diệt lũ giặc tham tàn
Cho nước nhà tâm luôn được bình an
Mang hạnh phúc cho muôn dân được hưởng.
Anh chiến sĩ đấu tranh vì lý tưởng
Anh nêu cao chí khí với tình thương
Anh xông pha diệt giặc ở chiến trường
Dành sự sống cho quê hương đầy no ấm
Là tăng sĩ, tôi luôn giữ gìn giới cấm
Quyết hiên ngang bằng chí khí kiên tâm
Tôi luôn luôn chống giặc lũ mê lầm
Tôi cương quyết bền tâm luôn chiến đấu
Anh chiến sĩ trừ gian diệt xấu
Anh oai hùng diệt lũ ngoại bang
Anh phơi gan tử chiến chẳng đầu hàng
Dù thế giặc ngoại xâm nhiều hung bạo
Là tăng sĩ tôi kiên cường vì đạo
Không đầu hàng dù giặc bạo đến đâu
Trí gươm thiêng mặc chiến giáp áo nâu
Thề tử chiến can trường không lùi bước.
Anh chiến sĩ mưu mô đầy dũng lược
Anh chiêu hàng quân giặc bỏ gươm đao
Anh xông pha diệt giặc chẳng hề nao
Mang vũ khí không lúc nào anh buông bỏ.
Là tăng sĩ tôi luôn luôn bày tỏ
Khuyên ma quân nên bỏ ngỏ qui hàng
Lũ giặc kia nào ranh giới ngoại bang
Theo tiếng gọi đầu hàng giành thắng lợi.
Anh chiến sĩ quyết một lòng đi tới
Anh tuyên thề tròn nghĩa với non sông
Cho phỉ tình nghĩa khí chí tang bồng
Cho đất nước thoát khỏi vòng nô ách
Là tăng sĩ tôi vượt qua muôn ngàn thử thách
Tôi nêu cao đạo pháp khắp bốn phương
Vượt gian lao qua muôn vạn nẻo đường
Truyền chánh pháp cho mọi người am tường đạo lý.
(T. Phước Thái)
104. “Tự thắng, tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự.”
105. “Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy.”Lược giải
104. Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác. Muốn thắng mình phải luôn luôn tiết chế lòng tham dục.
Kệ Tụng
Tự thắng vẻ vang hơn
Hơn chiến thắng người khác
Kẻ khéo điều phục mình
Thường sống tự chế ngự.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, liên quan đến một Bà la môn đã hỏi Phật về vấn đề được và mất.
Một Bà la môn hỏi Phật về vấn đề được mất. Ông nghĩ chắc là Phật chỉ biết có được, chớ không biết mất. Phật cho ông ta biết là Phật biết cả hai. Phật nói bài kệ như sau:
Những thứ không ích lợi
Gồm: thứ nhất, ngủ muộn
Biếng lười, chiếm thứ hai
Thứ ba, ánh trăng soi
Thứ tư, giàu sang mãi
Thứ năm, hay đi lại
Sáu, vụng trộm vợ người
Chạy theo những việc ấy
Hởi nầy, Bà la môn
Ngươi sẽ được những thứ
Không ích lợi cho mình.
Nghe xong, Bà la môn tán thán Phật và sau đó Phật hỏi về đời sống thường nhựt của ông ta để Phật hóa độ. Ông cho Phật biết, ông chuyên sống bằng nghề bài bạc. Nghề bài bạc, họ thắng ăn được của người khác thì vui, ngược lại, nếu bại bị thua sạch túi, thì u sầu áo não. Do đó, Phật mới dạy ông về pháp cú nói về sự thắng bại nầy.
Vấn đề chơi bài bạc, tuy là chuyện nhỏ của mỗi cá nhân, nhưng nó cũng là mầm móng của tham lam, gây nên tranh giành hơn thua đau khổ. Chính mầm móng tham lam hơn thua nầy, rộng ra là cả thế giới đang điên đầu khổ đau vì nó. Muốn chiến thắng lòng dục vọng nầy, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Trên đời nầy, chỉ có đức Phật mới là người chiến thắng mình một cách hoàn toàn mà thôi. Ngoài ra, chưa có ai chiến thắng một cách hoàn toàn như thế. Nói chiến thắng là chiến thắng những gì? Như pháp cú 103 chúng ta đã có nói qua. Đó là chiến thắng vô minh dục vọng.
Thông thường, người ta tranh đấu, với mục đích chính là để chiến thắng đối phương. Vì muốn chiến thắng cai trị kẻ khác, bắt kẻ khác phải nghe theo mệnh lệnh sai khiến của mình, nên người ta bất chấp sử dụng mọi thủ đoạn, mọi mánh khóe mưu mô, gian xảo, lừa bịp đối phương để họ được chiến thắng dễ dàng. Do đó, nhơn loại đấu tranh không bao giờ ngừng. Đấu tranh vì mục đích chiếm hữu nêu cao danh vọng, địa vị, từ cá nhân với cá nhân và rộng hơn nữa, là từ đoàn thể với đoàn thể và rồi quốc gia với quốc gia v.v
Khi đánh gục ngã đối phương, thì họ rất tự kiêu đắc thắng. Họ cho họ có đủ tài ba mưu lược. Họ có quyền hơn kẻ khác. Họ bắt mọi người phải trọng vọng phục tùng họ. Kẻ nào có ý tưởng manh nha chống họ, thì họ sẽ thanh toán ngay. Họ luôn kết bè phái để xây dựng địa vị quyền uy của họ cho được vững chắc. Vì họ không phải là kẻ mạnh bên trong. Họ là người chỉ phô trương thế lực bề ngoài. Họ cảm thấy chinh phục người ngoài nghe theo họ dễ hơn là chính họ chinh phục họ. Vì họ chưa thắng được dục vọng của họ. Dục vọng của họ có quyền hành hơn họ. Chúng nó sai sử họ như một kẻ tôi đòi. Họ có thể hò hét thật oai phong nơi trận mạc. Nhưng họ không thể tự hò hét chống lại dục vọng sai khiến họ. Họ rất sợ và luôn luôn ở vào thế bị động. Một kẻ oai phong hùng dũng như thế, mà không tự thắng họ được. Chính vì họ không tự thắng lấy họ, nên cuối cùng, họ tự chuốc lấy thảm họa rất đau thương.
Hạng người chỉ phô trương huênh hoang thắng kẻ khác, xưa nay không thiếu gì. Nhưng những người tự khắc chế điều ngự dục vọng chính mình, thì thật chẳng có bao nhiêu. Vì thế giới thiếu những hạng người nầy, nên nhơn loại mãi sống trong sự âu lo sợ hãi. Và chiến tranh cứ mãi bùng nổ khắp nơi. Thế giới càng bất an, thì chứng tỏ hạng người hèn nhát quá nhiều. Vì nhát hèn, nên họ không đủ năng lực tự chế. Do đó, nên họ sợ hãi mà phải ra tay trước. Kẻ đi đường hay hút gió hoặc lên tiếng la ó, là chứng tỏ kẻ đó đang sợ ma. Ngược lại, những kẻ gan dạ, thì họ không bao giờ có sự sợ hãi như thế.
Phật dạy, muốn thắng mình phải luôn luôn tiết chế tham dục, đó là một nguyên tắc sống hướng thượng. Những ai muốn trở thành những con người thánh thiện, thì không thể quên nguyên tắc nầy. Đây là một nguyên tắc cơ bản của đạo làm người và tiến xa hơn là làm Thánh. Các bậc Thánh nhơn từ xưa đến nay, không một ai không áp dụng nguyên tắc nầy. Có tiết chế lòng tham dục, con người mới có đủ sáng suốt. Và từ đó, lòng người mới cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát. Lòng thương người, thương vật, cũng từ đó mới có cơ hội phát triển hơn lên. Vì họ sống không còn sống cho riêng họ, mà họ sống hài hòa cùng muôn vật. Cái ngã của họ bởi do lòng tiết chế dục vọng, nên càng ngày càng nhẹ bớt dần và đến một lúc nào đó, tự nhiên họ hòa nhập vào Đại Ngã. Chừng đó, họ sống không còn ranh giới trong phạm trù nhân ngã nhị nguyên.
Con người sở dĩ vùng vẫy không thoát ra khỏi cái lưới đau khổ là vì họ còn quá nhiều tham vọng. Khi đau khổ, thì họ muốn thoát ra. Đến khi cơn đau khổ qua đi, thì lòng tham dục của họ lại tràn ngập chiếm cả tâm hồn. Cứ sống trong sự mâu thuẫn như thế, trách gì mà họ không sa đọa. Bao lâu con người chưa đủ sáng suốt để thoát ra khỏi ngục tù tham vọng, thì bấy lâu con người vẫn còn đi mãi trong bóng tối dày đặc của vô minh, tội lỗi. Cứ thế, thì biết đến bao giờ mới được thoát ra.
Qua câu chuyện lược kể, Phật dẫn dạy cho một vị Bà la môn về việc đắc thất. Con người ai cũng như ai, được thì mừng, mất thì lo buồn. Thắng thì vui mừng hớn hở, bại thì đau khổ buồn lòng. Đó là một định luật xưa nay của nhơn loại. Điều nầy, chúng ta thấy quá rõ qua những kỳ Thế vận hội (world cup) . Cứ nhìn vào những bộ môn vận động thể thao mà các vận động viên thế giới tranh giải hơn thua với nhau, thì đủ chứng minh họ tranh giành hơn thua với nhau quyết liệt. Vì sự tranh chấp hơn thua thắng bại nầy, thậm chí còn gây ra nhiều cuộc ấu đả đổ máu dữ dội. Vào trận đấu, ai cũng muốn chiếm hữu phần thắng về mình. Họ ra sức tranh nhau chí tử, bất kể thân thể. Miễn sao giành phần thắng lợi về cho mình và đội nhà là được. Họ biểu dương lực lượng, tài nghệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa đội nầy và đội kia. Tất cả cũng chỉ vì muốn ăn thua mà ra. Dù đó là những loại bộ môn tranh tài vì nghệ thuật cao thấp. Rồi đến các khán giả cũng thế. Quốc gia nào cũng muốn ủng hộ bênh vực đội nhà của mình. Từ đó, gây ra những tranh chấp trở nên hận thù và có khi chém giết nhau. Tất cả cũng chỉ vì niệm hơn thua, thắng bại, được mất, theo kiểu thắng thì làm vua, còn thua thì làm giặc. Do đó, mà gây ra biết bao cảnh tượng thảm trạng đau thương!
Đối với những kẻ ham mê bài bạc, cũng do lòng dục vọng tham lam muốn ăn thua mà ra. Họ bị con ma tham sai sử họ. Bất cứ ai bước chân vào sòng bài, khi chơi, cũng đều khởi niệm muốn ăn thua cả. Nhứt là những người có máu nóng đỏ đen, thì càng thua, họ càng đánh lớn. Người nào cũng khởi lòng tham, muốn lấy hết túi của người khác. Có ai vào sòng bài mà không muốn ăn thua bao giờ. Chính niệm tham hơn thua nầy, khi đã thua trắng tay, thì lại sanh ra nhiều tật xấu. Như nào là gian lận, tranh cãi, đánh đập, chém giết nhau. Có người vì thua quá phải tiền vay bạc hỏi nợ nần chồng chất v.v. Đến nỗi hết phương trả nổi, rồi bán hết tài sản mà cũng không trang trải hết nợ nần. Bà la môn nầy là một tay chuyên nghiệp cờ bạc. Sống về nghề đỏ đen. Người ta thường nói, cờ bạc là bác thằng bần. Từ xưa tới nay, chưa có ai chơi nghề cờ bạc mà làm giàu cả. Nghèo sạt nghiệp, tiền khô cháy túi thì có.
Ngày nay, quốc gia nào cũng có tổ chức những sòng bài lớn công khai. Họ trang bị cảnh trí thật hấp dẫn lôi cuốn, để cho dân chúng đến chơi. Tiếng Anh gọi những sòng bài bạc nầy là Casino. Có biết bao người chết dài dài vì những sòng bài nầy. Dù là những tay chuyên nghiệp, sành điệu tứ đổ tường, cũng phải bỏ mạng sa trường, khó thoát khỏi bàn tay hung thần đỏ đen. Biết bao gia đình tan nát cũng vì nó. Thậm chí, có người vì thua quá nợ nần chồng chất, không sao trả nổi, nên đành phải ôm 52 lá bài tự tử. Dù chết, cũng mang chúng theo để xuống suối vàng đánh tiếp. Vì muốn cảnh tỉnh những ai quá nghiện ngập, cứ mãi đắm say mê bài bạc, sẽ có ngày tán gia bại sản, nên có bài thơ với nhan đề là: “Casino đường vào cửa tử”.
Casino thần kỳ quyến rũ
Tấm lòng tham biết đủ là bao
Bởi đắm mê nên phải té nhào
Chừng hối hận làm sao cho kịp
Ai cũng biết bạc bài là bịp
Nhưng dễ gì tự hối ăn năn
Bởi lòng tham ai cũng muốn ăn
Nhưng chung kết thua là phần chắc.
Lời tục ngữ thế gian đã đặt
Bài bạc thì gọi bác thằng bần
Anh cha mình, là gốc khổ đau
Lao tâm trí hao mòn thân xác
Đều cũng bởi đam mê bài bạc
Suốt kiếp đời, khốn đốn ưu sầu
Bằng như ai, giác ngộ quay đầu
Mới cứu vãn gia đình thống khổ
Nhờ biết đạo, dứt lòng tham hoen ố
Tiền của người, chớ ham muốn về mình
Nhơn phi hiền, thì chẳng có giao liên
Vật phi nghĩa, lòng thẳng ngay bất thủ
Người tu phải quyết tự mình làm chủ
Đừng để cho quỉ tham muốn dẫn đường
Dắt đi vào địa ngục chốn tai ương
Kẻ đánh bạc mấy ai đâu giàu có?
Vâng thầy dạy, kể từ nay dứt bỏ
Trở nên người Phật tử biết tu hiền
Quyết trì trai, giữ giới kết thiện duyên
Đặng trau sửa, trở nên người toàn thiện
Nhờ Phật pháp nay được phần tân tiến
Cả gia đình, đều hạnh phúc an toàn
Nguyện đời đời, quyết vâng giữ lời vàng
Của đức Phật, để xứng danh con Phật .
(Trích tập thơ Diệu lý pháp đăng của HT Giác Nhiên)
105. Dù là Thiên thần, Càn thát bà[112] , Ma vương, hay Phạm thiên, không một ai chẳng thất bại trước người đã tự thắng.
Self-conquest is far better than the conquest of others. Not even a god, an angel, Mãra or Brahmã can turn into defeat the victory of such a person who is self-subdued and ever restrained in conduct.(104 and 105).
Kệ Tụng
Dầu Thiên thần, thát bà
Dầu Ma vương, phạm thiên
Không ai chiến thắng nổi
Người tự thắng như vậy.
Lược giảng
Đối với những Thiên thần hay ma vương, đều có thế lực rất lớn. Nhờ phước báo tu hành mà họ được thụ hưởng thú vui hơn người. Tuy nhiên, nếu luận về sức mạnh ở nơi tự chiến đấu khuất phục mình để vươn lên thành tựu đạo quả cao hơn, thì họ sẽ không tự thắng lấy họ được. Dù hưởng phước báo vui thích sang trọng như thế, nhưng làm sao họ không có ngày sa đọa thoát khổ. Họ thuộc về loại chỉ biết hưởng thụ mà không biết tự khắc chế lo tu. Nhưng, phước báo kia có ngày sẽ hết.
Một người, dù cho có tiền rừng bạc bể đến đâu, nhưng chỉ biết một bề tiêu xài xả láng, thì thử hỏi làm sao không tiêu hao cạn kiệt cho được. Cho nên, ở đây, Phật nêu ra những hình ảnh Thiên thần nầy, mục đích là để Phật so sánh giữa con người biết chế ngự những dục vọng của mình, thì dù cho những Thiên thần kia cũng không thể nào so sánh được. Vì sao? Vì những ai biết chế ngự dục vọng, tất nhiên, là họ đang hướng tiến trên đường giải thoát. Khi họ được giải thoát mọi đau khổ buộc ràng, chừng đó, họ hóa độ mọi người, mọi loài thoát khổ như họ. Thế thì, họ sẽ đạt được thành công trong tiến trình hướng thượng.
Pháp cú nầy, cũng như pháp cú trên, Phật xoáy mạnh vào tinh thần tự thắng. Tại sao thế? Bởi việc tự thắng lấy mình là một việc khó khăn nhứt trên đời. Nói thì nghe dễ dàng lắm, nhưng khi đối diện với thực tế, thì lúc đó mới thấy được hiện tướng của lòng dục vọng nổi lên. Chúng nổi lên như cuồng phong vũ bão. Chúng bất kể ai, ở vào bậc nào. Miễn sao họ thỏa mãn được lòng tự ái nuôi lớn bản ngã của họ thôi.
106. “Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cùng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.”
107. “Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.”Lược giải
106. Mỗi tháng bỏ ra hàng ngàn vàng để sắm vật hy sinh tế tự[113] cả đến trăm năm, chẳng bằng giây lát cúng dường bậc chân tu; cúng dường bậc chân tu trong giây lát thắng hơn tế tự quỉ thần cả trăm năm.
Though month after month for a hundred years one should offer sacrifices by the thousands, yet if only for a moment one should worship those of perfected minds that honour is indeed better than a century of sacrifice.
Kệ tụng
Tháng tháng bỏ ngàn vàng
Tế tự cả trăm năm
Chẳng bằng trong giây lát
Cúng dường bậc chân tu
Sự cúng dường như vậy
Hơn trăm năm tế tự.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Trúc Lâm, liên quan đến chú của Xá lợi Phất.
“Một hôm, Ngài Xá lợi Phất đến thăm chú và Ngài hỏi người chú có từng làm việc thiện không? Người chú đáp: Có. Và ông cho biết, mỗi tháng ông cúng dường cho các đạo sĩ Kỳ na giáo (lõa thể) một ngàn đồng. Họ bảo rằng: Nhờ phước bố thí cúng dường như thế mà được sanh thiên. Vì muốn cho người chú hiểu rõ con đường chánh đạo, nên Xá lợi Phất dẫn người chú đến gặp Phật và trình bày việc làm trên. Nhân đó Phật mới dạy pháp cú nầy”. (Lược truyện tích)
Trong pháp giới, chúng sanh có nhiều loại. Riêng về loài người, chủng duyên của mỗi người rất sai biệt. Sự sai biệt đó là do nghiệp nhân gây tạo của mỗi người sai khác. Từ sự huân tập chủng tử sai khác, nên căn tánh trình độ của mỗi người sai khác. Trong kinh có nêu ra năm loại chủng tánh:
1. Chủng tánh phàm phu.
2. Chủng tánh ngoại đạo.
3. Chủng tánh bất định.
4. Chủng tánh Tiểu thừa.
5. Chủng tánh Đại thừa.
Qua năm loại chủng tánh trên, xét kỹ, mỗi người trong chúng ta, không ai lại không rơi vào một chủng tánh. Tùy theo chủng duyên gieo trồng mà có sự nặng nhẹ khác nhau. Nếu người nào rơi vào chủng tánh ngoại đạo, thì thật là nguy hiểm. Bởi người có chủng tánh ngoại đạo, họ không bao giờ tin vào lý nhân quả. Họ theo tà đạo, họ thích những việc cúng bái cầu nguyện van xin thần linh. Họ là hạng người hoàn toàn ỷ lại vào thần linh. Họ nghĩ rằng, cuộc sống của họ đều do thần linh an bài và sắp xếp mọi việc. Do đó, họ tin tưởng vào các đấng thần linh một cách tuyệt đối. Vì họ cho rằng các đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa. Dù vậy, có những ngoại đạo mà chủng tánh ngoại đạo của họ không sâu dầy lắm, một khi họ gặp được Minh sư chỉ dạy cho họ con đường chánh lý, thì họ có thể hồi đầu quay về chánh đạo.
Vấn đề nầy, thời Phật, đọc kinh A Hàm, chúng ta thấy Phật đã từng tranh luận với ngoại đạo qua mọi phương diện. Nhứt là về phương diện niềm tin và chân lý. Kết quả, có nhiều vị lãnh tụ của các giáo phái đều xin quy y với Phật và trở thành những Phật tử chơn chánh. Trong hàng đại đệ tử của Phật, phần lớn, là do Phật cảm hóa thâu nhận từ ngoại đạo. Có những vị là những bậc giáo chủ của các giáo phái lớn. Như trường hợp Ngài Xá lợi Phất, Mục kiền Liên và ba anh em Ca Diếp v.v.
Ngoài ra, cũng có những vị thuộc về chủng tánh Bất định, nghĩa là họ không thuộc về một loại chủng tánh nào đặc biệt trong 4 chủng tánh kia. Họ thuộc về hạng người gặp đâu xâu đó. Nghe triết thuyết, đạo giáo nào hay, họ chạy tìm đến. Họ không theo một tôn giáo nào cố định. Nay theo đằng nầy, mai chạy đằng kia. Có người nói, họ thuộc về loại “đạo vòng”. Họ cứ chạy lòng vòng, không có nơi nào mà họ đặt niềm tin vững chắc. Họ thuộc dạng người ba phải. Cái gì đối với họ cũng phải hết. Vì căn tánh của họ thuộc loại bất định. Nên sự tu hành của họ không có lập trường vững chắc. Họ chạy trong vòng chánh đạo còn đỡ. Ngược lại, họ chạy theo tà đạo, thì thật là nguy hiểm vô cùng. Niềm tin của họ như cây không rễ cái. Họ thuộc về hạng người rất dồi dào niềm tin. Nơi nào, họ cũng tin. Ngay cả bình vôi, cà ràng, ông táo, ông tà, bà năm, cậu bảy gì họ cũng tin cả. Niềm tin của họ giống như thức ăn xà bần hay loại mì xào thập cẩm. Thật không đâu ra đâu. Hạng người nầy, họ tu không có mục đích. Mục đích của họ có chăng, đó là Đạo Vòng, như trên đã nói. Họ thật là hạng người đáng thương xót!
Trở lại câu chuyện lược dẫn trên cho ta thấy, chú của Ngài Xá lợi Phất, đang tôn thờ ngoại đạo. Niềm tin của ông rất mạnh. Ông tin tưởng vào việc làm phước cúng tiền của ông để được sanh vào cõi Phạm Thiên. Tu phước để được sanh thiên, đó là điều tốt. Trong kinh Thập thiện, Phật cũng thường hay khuyến khích người Phật tử tu mười điều lành để được sanh thiên. Thế nhưng, tại sao ở đây, Phật chẳng những không tán thán khuyến khích mà Phật còn bài bác và dạy cho ông ta điều nầy? Như vậy, Phật có tự mâu thuẫn không? Vấn đề nầy, không khéo ta sẽ dễ sanh nghi.
Trước hết, nói về kinh Thập thiện, Phật có khuyến khích người Phật tử nên làm lành ở nơi ba nghiệp, để được sanh về cảnh giới lành. Thường trong kinh gọi là cõi trời. Nhưng chúng ta nên nhớ, Phật giáo có chia ra năm thừa. Tất cả năm thừa đều là Quyền phương tiện. Phật tạm bày ra như thế, để chiều theo căn tánh sai khác của chúng sanh. Chớ đó không phải là mục đích Phật nhắm tới, mà mục đích Phật nhắm tới chỉ có một Phật thừa mà thôi. Còn lại, tất cả đều là phương tiện. Sở dĩ phân chia như thế, mục đích là Phật muốn nâng cao trình độ chuyển hướng mọi người từ thấp lên cao. Giống như những chặng đường nghỉ chân trên lộ trình dài tiến đến Phật quả. Tùy theo căn tánh của mỗi người mà Phật khuyến khích họ hướng thiện. Từng bước hướng lên, càng ngày càng tiến. Chớ không phải như chủ đích của ngoại đạo, họ xem sự sanh thiên là mục đích cứu cánh của họ. Họ không có con đường tiến lên. Họ bế tắc ở đó. Nếu chỉ có thế, thì con người không thể nào giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau được.
Chính vì thế, nên ở đây, Phật muốn chuyển hóa cho ông có một hướng tiến cao xa hơn trên lộ trình tu chứng. Nếu chỉ biết bố thí, cúng tế để được sanh thiên, thì chưa phải là đạt đến mục đích hoàn thiện. Vì bố thí cúng dường, tuy là điều lành, điều tốt, nhưng vẫn còn hướng ngoại để được hưởng phước. Đó thuộc về phước báo hữu lậu, có giới hạn. Khi hưởng hết, tất nhiên, phải sa đọa. Cúng dường cho những kẻ tu theo ngoại đạo, tà giáo, sao bằng cúng dường cho bậc chân tu. Vì bậc chân tu là người hướng dẫn mình đúng chân lý. Nếu mình nương theo đó, nỗ lực tu hành, tất nhiên có ngày mình sẽ đạt thành thánh quả. Do đó, nên Phật nói: “cúng dường cho bậc chân tu trong giây lát thắng hơn tế tự quỉ thần cả trăm năm”. Vì quỉ thần họ vẫn là chúng sanh. Họ tự cứu họ không nổi, nói chi đến việc cứu ai? Quỉ thần làm sao họ hiểu được chánh pháp. Nên dù cho cúng tế cho họ cả hằng triệu năm, họ cũng vẫn là họ và ta cũng vẫn là ta. Nghĩa là ta vẫn mê tín và không tiến bộ chút nào.
Cúng dường hiểu theo nghĩa sâu hơn, có nghĩa là tự mình trưởng dưỡng pháp thân huệ mạng của mình càng ngày càng thêm lớn. Đó mới thật sự là cúng dường pháp thân thanh tịnh. Và chỉ có cúng dường như thế mới mong thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Người biết tự tu là người tự khắc chế làm chủ lấy mình, là người không còn nô lệ ngoại cảnh. Người không mong cầu những phước báo nhỏ nhoi. Cúng dường cho bậc chân tu, dĩ nhiên, vượt hơn bố thí cúng dường cho những người tu theo tà ngoại gấp trăm ngàn lần. Vì ý hướng tu hành của họ còn kẹt vướng trong tự ngã. Bậc chân tu là bậc thoát ngoài vòng tranh chấp nhị nguyên. Chỉ có những ai thoát ngoài đối đãi, người đó mới thật sự là bậc chân tu. Và cúng dường cho những người đó là có phước hơn cả. Nói về sự bố thí cúng dường, phước báo hơn kém nhau, trong kinh Tứ thập nhị chương có một bài kinh nói về vấn đề nầy như sau:
Phật dạy rằng: “Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; cho một muôn người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu đà hoàn ăn; cúng dường cho một trăm muôn vị Tu đà hoàn ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tư đà hàm ăn; cúng dường cho một ngàn muôn vị Tư đà hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A na hàm ăn; cúng dường cho một ức vị A na hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A la hán ăn; cúng dường cho mười ức vị A la hán ăn, không bằng cúng dường cho một vị Bích chi Phật ăn; cúng dường cho một trăm ức vị Bích chi Phật ăn, không bằng cúng dường một Tam thế chư Phật ăn; cúng dường cho một ngàn ức Tam thế chư Phật ăn, không bằng cúng dường cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn”.
Qua bài kinh nầy, Phật so sánh cho chúng ta thấy về hơn kém trong việc bố thí. So sánh phước báo hơn nhau ở chỗ qua tiến trình tu chứng của người tu do đoạn trừ phiền não nhiều ít mà có sự hơn kém khác nhau. Nhưng tại sao cúng dường cho Tam thế chư Phật mà không bằng cúng dường cho một bậc Vô niệm Vô Trụ Vô tu Vô chứng? Bởi Tam thế chư Phật ứng hóa trong chúng sanh giới, cũng chỉ từ nơi Pháp thân chân thật tức là “Vô vi Chơn như tánh”. Vô vi chơn thật pháp tánh là căn bản của chư Phật. Tất cả chư Phật đều dùng vô phân biệt trí mà chứng Pháp vô vi bình đẳng. Pháp thân không thể dùng trí suy nghĩ đến được, nó không trụ chỗ nào, không cần tu mới có, cũng không cần chứng ngộ mới được. Trí Vô lậu phân biệt lại cũng không bị sanh diệt, không dời đổi. Ấy là chơn thân của Phật tự tha bình đẳng, tức Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng, chính là Vô phân biệt trí, thân chứng chơn như tánh rốt ráo thành Phật. Cúng dường như thế mới gọi là cứu cánh. Do đây, trong Phật pháp bất cứ pháp nào cũng đều phải đến chỗ cứu cánh.
107. Cả trăm năm ở tại rừng sâu thờ lửa, chẳng bằng trong giây lát cúng dường bậc chân tu, cúng dường[114] bậc chân tu trong giây lát thắng hơn thờ lửa cả trăm năm.
Though for a hundred years one should tend the sacrificial fire in the forest, yet if only for a moment one should worship those of perfected minds that worship is indeed better than a century of sacrifice.
Kệ Tụng
Dầu trải một trăm năm
Thờ lửa tại rừng sâu
Chẳng bằng trong giây lát
Cúng dường bậc chân tu
Sự cúng dường như vậy
Hơn trăm năm tế tự.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Trúc Lâm, có liên quan đến người cháu của Trưởng lão Xá lợi Phất.
Truyện tích kể lại: “Trưởng lão cũng đến người cháu hỏi thăm có từng làm việc thiện không. Hằng tháng anh ta giết một con thú để tế lửa, vì tin rằng sẽ lên cõi Phạm thiên như thầy anh ta bảo. Trưởng lão cũng khuyên anh đến gặp và thỉnh Phật dạy cho. Phật thuyết như sau:
“Bà la môn, dù ông thờ lửa một trăm năm như thế, công đức cũng chưa bằng giá trị lễ kính đệ tử ta trong một khoảnh khắc”. (Tích truyện Pháp cú tập II trang 98).
Tế tự là một tín ngưỡng của người dân Ấn đã có trước khi Phật ra đời. Con người đứng trước vũ trụ bao la, họ đâm ra sợ hãi. Từ đó, họ nảy sanh ra ý niệm tín thành sùng bái thiên nhiên. Họ cho rằng, mỗi một hiện tượng thiên nhiên, đều có một vị thần ngự trị điều khiển cai quản. Như Thần mây, Thần mưa, Thần gió, Thần lửa v.v. Và cũng từ đó, họ sáng tác ra những bản thánh ca và nghi thức cúng tế Thần linh. Thời nầy, sử ghi lại, gọi là thời đại Đa thần giáo. Đã có nghi thức, tất nhiên phải có người đứng ra chủ tế. Cho nên, từ đó nảy sanh ra một giai cấp nắm quyền chủ tế, tức là hạng tăng lữ, đó là nguyên nhân có ra Bà la môn giáo sau nầy.
Bà la môn, Trung Hoa dịch là Tịnh hạnh hoặc Phạm hạnh, chỉ cho phái tu hạnh trong sạch. Kinh điển của phái nầy gọi là Phệ đà (Veda), Trung Hoa dịch là Minh luận hoặc Trí luận. Kinh điển của Bà la môn gồm có 4 thứ:
1. Lê câu phệ đà (Rig-Veda)
2. Dạ du phệ đà (Yajur Veda)
3. Sa ma phệ đà (Sàma Veda)
4. A thát bà phệ đà (Atharva Veda)
Bốn thứ kinh điển nầy, được gọi chung là Tứ Phệ đà thánh điển. Đó là một hệ thống tư tưởng triết lý về thời xưa của xứ Ấn Độ.
Trong bốn loại thánh điển trên, thì Dạ du phệ đà, được xem như là bộ thánh điển chuyên thuyết minh về việc cúng tế Thần linh. Do đó, hầu hết những người theo Bà la môn giáo, đều phải nằm lòng bốn thánh điển nầy. Đối với việc cúng tế Thần linh, họ rất tôn sùng và kính trọng. Vì theo giáo thuyết của đạo Bà la môn, người nào cúng tế như thế, thì sau khi mạng chung, sẽ được sanh lên cõi trời Phạm thiên để hưởng phước báo. Đó là một tập quán tín ngưỡng lâu đời của họ. Thế mà, khi gặp Phật, họ được Phật chuyển hóa và rồi sau đó, họ từ bỏ tập quán tín ngưỡng lâu đời mà quy y với Phật. Như thế, chúng ta mới thấy sự hóa độ của Phật, ít ra là bước đầu, chắc chắn là không phải chuyện dễ dàng.
Đọc qua các bộ Thánh điển A hàm, ta thấy rất rõ về vấn đề nầy. Nghĩa là Phật đã đương đầu tranh luận với ngoại đạo, nhứt là đối với các vị tăng lữ Bà la môn. Vì kinh điển của họ cũng có những tư tưởng cao thâm. Chính đức Phật cũng hấp thụ và thu thái tinh hoa của tư tưởng kinh điển nầy. Sử liệu đã ghi lại cho chúng ta thấy như thế. Thế nên, trên bước đường giáo hóa của Phật, nếu như Ngài không có đủ uy đức và có nguồn giáo lý với hệ thống tư tưởng siêu việt vượt lên trên các trào lưu tư tưởng học thuyết đương thời, thì thử hỏi làm sao, họ có thể quy phục trở về với đức Phật cho được?
Điều quan trọng nhứt, và đáng nói ở đây, là đức độ cảm hóa của đức Phật. Vì các vị giáo chủ lãnh tụ đương thời, chưa có vị nào có một đức độ và hiểu biết hơn Phật. Cho nên, nhờ đó, mà Phật mới dễ cảm hóa. Điều nầy, cũng cho chúng ta một bài học rất lớn về việc nhiếp hóa độ chúng. Muốn độ chúng cho có hiệu quả, tất nhiên, một vị tăng sĩ phải hội đủ hai yếu tố căn bản: đức độ và tài năng. Nhưng giữa hai yếu tố nầy, thì từ xưa tới nay, qua kinh nghiệm của chư Tổ sư cũng như của các bậc tăng già cho chúng ta biết, thì đức độ bao giờ cũng được nêu cao và đặt lên hàng đầu.
Một người dù cho họ có tài giỏi, học rộng thông suốt đến đâu mà thiếu đức độ, thì họ cũng không hóa độ được ai. Đức độ có ra là nhờ vào giới luật. Người nào gìn giữ giới luật nghiêm minh, thì chắc chắn người đó sẽ được mọi người quy kính. Tuy nhiên, bên cạnh giới đức, người tăng sĩ cần phải có khả năng về học lực. Với thời đại khoa học văn minh tân tiến ngày nay, nó đòi hỏi người tăng sĩ phải có kiến thức rộng cả hai lãnh vực: “thế pháp và nội điển”. Trong hai điều nầy, thì phần nội điển là chính yếu, người tăng sĩ, bao giờ cũng phải coi trọng, vì nó là mạch sống căn bản của người tăng sĩ. Nói cách khác, nếu mang hình thức của một tăng sĩ mà giáo lý nội điển Phật giáo không thông, thì tự mình đã không được lợi ích, nói chi đến việc làm lợi ích cho người. Và như thế, thì người tăng sĩ, chắc chắn là sẽ bị người ta đánh giá rất thấp. Do đó, rất trở ngại trong việc hoằng hóa độ sanh.
Hơn thế nữa, người ta đến với mình, không phải họ đến với cấp bằng học lực cao ngoài đời. Bởi những thứ nầy, đối với họ, họ coi thường. Vì họ cũng đã có và có khi họ còn có cao hơn chúng ta. Họ đến với đạo, mục đích là để tìm hiểu những gì khác hơn cái mà họ đã có. Cho nên, vấn đề được minh định rõ ràng rằng, đối với người tăng sĩ, bao giờ kiến thức Phật học cũng phải đặt nặng và tìm hiểu nghiên cứu học hỏi không ngừng. Vì đó là trách vụ và sở trường chuyên môn của người tăng sĩ. Còn thế pháp, kiến thức phổ thông, chỉ là phụ lực trong việc nghiên cứu và truyền bá chánh pháp mà thôi. Nếu người tăng sĩ đánh lộn sòng, thì rất là tai hại trong việc nghiên cứu và truyền bá chánh pháp.
Trở lại vấn đề trên, việc tôn thờ Thần lửa để cúng tế của những vị theo đạo Bà la môn giáo, mà tiêu biểu như người cháu của Tôn giả Xá lợi Phất, sau khi đến gặp Phật, Phật dạy cho ông ta pháp cú nầy, bởi vì việc tế tự chỉ gây thêm nghiệp sát hại chúng sanh mà thôi, thực tế, không được lợi ích gì. Cứ mỗi lần cúng tế như thế, thì giết chết những mạng sống khác. Việc làm nầy, thử hỏi làm sao có phước cho được? Vì mê tín mà họ làm, bởi họ chưa được khai thông hiểu chánh lý nhân quả, nên khi đến với Phật, Phật sẽ chỉ bày và chuyển hóa họ được ngay, bởi do đức độ và uy tín của Phật quá rộng lớn, trùm khắp.
Bên cạnh đó, Phật còn có nhiều người đệ tử tài giỏi. Hầu hết, các Ngài đều xuất thân từ giới lãnh tụ ngoại đạo quy kính đức Phật. Nhờ thế mà các vị ngoại đạo nầy, khi được gặp Phật là họ được khai thông và hồi đầu quy y Phật ngay. Từ đó, họ sẽ không còn theo con đường tà ngoại nữa.
108. “Suốt năm cúng tế vật,
Ðể cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.”
109. “Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.”Lược giải
108. Suốt năm cúng dường để cầu phước, công đức chẳng bằng một phần tư sự kính lễ bậc chánh trực, chánh giác.
Whatever gifts and oblations one seeking merit might offer in this world for a whole year, all that is not worth one fourth of the merit gained by revering the Upright Ones, which is truly excellent
Kệ Tụng
Suốt năm trường cúng dường
Bố thí để cầu phước
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Trúc Lâm, có liên quan đến người bạn của Tôn giả Xá lợi Phất.
Theo tích truyện kể lại: Trưởng lão cũng đến hỏi bạn mình như đối với chú và cháu của mình trước đây. Việc thiện của anh bạn từng làm là mổ vật tế lễ để được sanh thiên. Ngài cũng khuyên và dẫn bạn đến gặp Phật, thưa thỉnh và được Phật chỉ dạy như sau:
“Bà la môn, dù ông có dâng tế vật một năm, cũng không công đức bằng một phần tư công đức của một thiện tín bố thí cho dân chúng, hay người biết tôn kính đệ tử ta”.
Tại sao dâng tế vật một năm, không bằng công đức của người bố thí cho dân chúng? Hoặc là người biết tôn kính đệ tử Phật? Phân tích lời Phật dạy cho vị Bà la môn trên, chúng ta thấy có ba vấn đề được bàn đến:
1. Vấn đề cúng tế.
2. Bố thí cho dân chúng.
3. Tôn kính đệ tử Phật.
1. Vấn đề cúng tế.
Khi nói đến cúng tế, tất nhiên, người ta sẽ nghĩ ngay đến việc làm mê tín. Vì sao? Vì không có lẽ thật. Ở đây, nếu phân tích ta thấy có ba vấn đề:
a. Người cúng tế
b. Vật cúng tế
c. Đối tượng được cúng tế.
a. Người cúng tế: Với tâm niệm của người cúng tế là mong cầu phước báo cho riêng mình. Đó là động cơ, do lòng ích kỷ thúc đẩy mà làm. Dù cúng với bất cứ lý do nào, tựu trung, họ cũng chỉ vì bản ngã muốn hưởng lợi cho cá nhân mình mà thôi. Từ quan niệm ích kỷ đó, mà họ ra tay sát hại sinh vật để cúng tế. Và khi cúng tế, họ chỉ tin tưởng vào một đấng Thần linh vô hình nào đó, mà họ chưa từng biết mặt mũi ra sao. Đó là một việc làm quá mê tín. Họ tin một điều không có lý lẽ gì hết.
b. Vật cúng tế: Đây là những sinh vật bị họ giết hại. Những sinh vật nầy, chúng cũng có mạng sống như con người. Chúng cũng ham sống sợ chết như con người. Mạng sống của chúng tuy nhỏ, nhưng sự ham sống của chúng không khác gì con người. Như vậy đoạn mạng sống của chúng, thì đây là một việc làm rất tàn nhẫn và độc ác.
c. Đối tượng dâng cúng: Họ hoàn toàn mờ mịt không hiểu. Chỉ nghe nói Thần linh, mà họ không biết Thần linh ra sao. Như vậy, đối tượng mà họ tin tưởng để cúng bái chỉ là một ảo tưởng, huyền hoặc mông lung mà thôi.
Phân tích đại khái qua 3 điều đó, ta thấy họ hoàn toàn là mê tín. Họ hành động theo kiểu xưa bày nay làm, không có một chút trí tuệ nhận xét. Do đó, Phật mới nói là một việc làm vô ích. Chẳng những không có ích lợi cho ai mà còn tổn hại cho chính mình. Vì thế, nên Phật mới nói là không bằng một người bố thí cho dân chúng.
2. Bố thí cho dân chúng.
Thật vậy, tiền bạc hay sinh vật mà họ cúng tế, nếu như họ đem ra bố thí cho những người nghèo, thì đó là một ích lợi thiết thực. Lợi cho họ và lợi cho mọi người.
Xã hội thời xưa hay xã hội thời nay cũng thế. Xã hội nào cũng rất cần những con người giàu lòng nhân ái. Những con người biết yêu thương đồng loại. Biết chia ngọt xẻ bùi, theo tinh thần lá lành đùm lá rách. Và xã hội nào, những con người bất hạnh, nghèo khổ đói rách cũng rất nhiều. Thành phần nầy rất cần sự giúp đỡ yêu thương của mọi người. Giúp đỡ cho họ có được một cuộc sống tương đối thoải mái, phước báo còn hơn gấp mấy ngàn lần cúng tế Thần linh. Thần linh thời nay là những thành phần nghèo khổ. Đó là một đối tượng rất cần mọi người quan tâm thương tưởng đến. Và Thần linh nầy có mặt khắp nơi trên thế giới. Họ đang gào thét cầu cứu. Thay vì cúng tế cho một Thần linh ở một thế giới mông lung vô hình nào đó, sao bằng giúp đỡ bố thí cho những Thần linh cụ thể bằng xương bằng thịt đồng loại. Bởi thế, nên Phật luôn đề cao sự tương trợ nầy. Ngài luôn khuyến khích những ai có được phước báo giàu sang, nên trải rộng lòng thương để bố thí cho dân chúng nghèo đói. Không những Ngài khuyến giáo trong thời đại của Ngài, mà còn trải dài qua mọi thời đại, bất luận thời gian hay không gian nào. Hễ còn có nhơn loại trên quả địa cầu nầy, thì vấn đề bố thí của cải san sẻ tình thương đến cho mọi người vẫn còn có giá trị và cần thực hiện.
Như vậy, cho chúng ta thấy, đức Phật bao giờ cũng dạy cho người ta nên có lòng từ bi hiểu và thương. Cần thực hiện những gì thực tế, đừng mơ tưởng ảo vọng viễn vông. Việc làm nào cũng phải dựa trên lẽ thật mà làm. Có thế, thì mới đem lại sự lợi lạc cho mình và người.
Trở lại câu pháp cú Phật dạy trên, Phật nhấn mạnh và so sánh cho chúng ta thấy giữa một việc làm hữu ích thực tế và một việc làm vô ích.
3. Tôn kính đệ tử Phật.
Như những bài trước chúng ta cũng đã có nói qua về việc cúng dường bố thí. Cúng dường, bố thí là một hạnh lành. Việc làm nầy cần được khuyến khích và tán dương. Tuy nhiên, căn cứ theo pháp cú nầy, Phật dạy, thì vấn đề cúng dường để cầu phước báo nhơn thiên, nó chỉ được hưởng phước báo giới hạn tạm thời thôi. Ở đây, Phật muốn khuyến khích và chỉ dẫn chúng ta vượt hơn phước báo đó bằng cách là kính lễ bậc chánh trực, chánh giác. Tại sao kính lễ bậc chánh trực, chánh giác mà phước báo hơn cúng dường để cầu phước? Vấn đề nầy, có nghĩa cạn và sâu khác nhau. Nếu nói theo nghĩa thông thường, chúng ta kính lễ bậc chánh trực, chánh giác, thì sẽ được vị nầy hướng dẫn chỉ giáo chúng ta thẳng tiến trên đường giác ngộ. Vì họ là người tu hành đạt đạo và như thế là chúng ta đã gặp được bậc minh sư, một người thầy đã giác ngộ. Tất nhiên, vị thầy nầy sẽ hướng dẫn, chỉ dạy chúng ta tu hành đúng theo chân lý. Nhờ đó, mà chúng ta mau được giác ngộ giải thoát. Đó là nói theo nghĩa thường.
Còn nói theo nghĩa sâu hơn, thì chánh trực, chánh giác là chính bản tâm chúng ta. Bản tâm của chúng ta vốn là thanh tịnh sáng suốt, lúc nào cũng chánh giác chánh trực. Nếu chúng ta biết kính lễ (hết lòng bảo hộ tôn trọng và sống thực) ở nơi bản tâm đó, thì chúng ta sẽ được giác ngộ giải thoát. Không cần tìm kiếm ở đâu xa. Tại sao? Bởi vì các bậc A la hán hay Phật, Bồ tát, cũng từ nơi bản tâm đó mà thành. Phật và bồ tát, các Ngài khéo nhận ra và sống thực trọn vẹn với cái chân lý đó, mà được thành tựu đạo quả. Nếu chúng ta khéo nhận và khéo tu như các Ngài, thì chúng ta cũng sẽ được như các Ngài không khác. Đó là một lẽ thật. Vì các Ngài cũng là con người như chúng ta. Các Ngài làm được, thì tại sao chúng ta không làm được? Nếu chúng ta có quyết tâm thẳng tiến, thì dù một đời không được, trải qua nhiều đời cũng phải được. Chỉ cần chúng ta có ý chí kiên cố và bền vững. Nghĩa là cho đến bao giờ đạt được kết quả thì thôi. Đó là nói theo nghĩa sâu và cũng là nghĩa thực tế nhứt, vì không ỷ lại bên ngoài.
Đức Phật không chấp nhận cho chúng ta chỉ biết một bề ỷ lại cầu khẩn van xin bên ngoài, dù là cầu khẩn van xin ở nơi Ngài. Ngay cả đức Phật, chúng ta còn không ỷ lại van xin, thì thử hỏi trên đời nầy, chúng ta còn cầu khẩn van xin ai nữa chớ? Chỉ có những ai mê muội mới làm việc vô nghĩa mê tín đó mà thôi!
109. Thường hoan hỷ tôn trọng, kính lễ bậc trưởng lão thì được tăng trưởng bốn điều: sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh.
To one ever eager to revere and serve the elders, these four blessings accrue: long life and beauty, happiness and power.
Kệ Tụng
Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng
Được tăng trưởng bốn pháp:
Thọ, sắc, lạc, sức khỏe.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật chú trọng đến phần lễ nghĩa của con người. Vì lễ nghĩa là cội gốc nhân bản của con người. Người sống không có lễ độ, phép tắc, thì quả thật họ là người thiếu nhơn cách và phẩm giá con người. Dù sống trong xã hội nào, xưa hay nay cũng thế. Tối thiểu, con người phải biết xử sự với nhau cho có lễ độ. Vì lễ độ là nâng cao cung cách của đạo làm người. Con người có lễ độ, biết kính trên nhường dưới, đó là nét đẹp, lịch sự từ bên trong lẫn bên ngoài của con người.
Ngày xưa, đối với các nước Á Đông, nhứt là Trung Hoa, người ta rất xem trọng lễ nghĩa. Trung Hoa, thời xưa là một nước theo nền triết lý Khổng Mạnh. Cho đến ngày nay, dù trải qua bao nhiêu biến thiên lịch sử, đổi đời, nhưng vấn đề lễ nghĩa, họ vẫn còn gìn giữ. Tuy không được như xưa, nhưng họ quyết duy trì, bảo vệ truyền thống tốt đẹp nầy của họ. Như chúng ta đã biết, lễ nghĩa đối với Nho giáo, được đặt lên hàng đầu.
Dân tộc Việt Nam ngày xưa cũng thế. Vì chịu ảnh hưởng của Nho giáo trải qua nhiều thế kỷ, nên việc lễ nghĩa, dân ta rất coi trọng. Bước đầu vào trường học, một em học sinh phải học lễ nghĩa trước. Bởi thế mới có câu châm ngôn: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Các cụ ta ngày xưa quan niệm, lễ nghĩa là cội gốc của con người. Người nào thiếu lễ độ trong việc cư xử, không biết lễ phép kính trên nhường dưới, thì người đó sẽ được các cụ cho đó là thứ thất học, mất dạy.
Đối với trong gia đình, việc lễ nghĩa các cụ rất nghiêm khắc. Mọi người cư xử với nhau phải có tôn ty trật tự. Phải biết kính trọng yêu thương kẻ lớn người nhỏ. Đi phải thưa về phải trình. Mở lời, thì phải dạ thưa. Càng giữ lễ nghĩa chừng nào, thì càng tốt chừng đó. Người nào có giữ gìn lễ độ, thì người đó mới được xã hội kính trọng nể vì. Nhờ thế mà duy trì được nếp sống kỷ cương trong gia đình rất tốt đẹp. Đối với ngoài xã hội cũng thế. Những vị bô lão trong làng, có nhiều kinh nghiệm già dặn trong cuộc sống, rất được mọi người kính trọng. Họ coi những vị đó là những bậc trưởng thượng. Bởi thế mới có câu: “Kính lão đắc thọ”. Nghĩa là phải kính trọng những người già cả sống lâu. Vì xã hội Việt Nam thời xưa, người nào càng sống lâu, thì được người ta càng nể nang, trọng vọng.
Đó là nói theo phong tục xã hội ngoài đời. Còn trong đạo, riêng đạo Phật của chúng ta thì sao? Tất nhiên, việc lễ nghĩa, phép tắc của một vị tăng sĩ phải gìn giữ hơn người đời. Một người mới bước chân vào đạo tập tu theo hạnh người xuất gia, tất nhiên, những vị nầy phải được học tập rất kỹ về những phép tắc oai nghi. Ngoài những giới luật Sa di, các vị đó còn phải học 24 thiên oai nghi. Oai nghi là dạy những phép tắc lễ độ của một người tu xuất gia. Đây là những phép tắc lễ độ rất lịch sự của người tu. Sự lễ độ của người đời, nếu đem so sánh với những oai nghi phép tắc nầy, thì thật chẳng có nghĩa lý gì.
Nói dài dòng như thế để chúng ta thấy sự lễ độ của con người thời xưa rất là quan trọng. Dĩ nhiên thời nay, thì sự lễ độ nầy đã sút giảm đi nhiều. Theo trào lưu văn minh tân tiến của các nước xã hội tây phương, con người phần nhiều đã biến chất. Những cái nét đẹp lễ nghi của thời xưa, như bị phủ mờ. Dù rằng, ngày xưa vấn đề lễ nghĩa, các cụ quá đặt nặng, thành thử nó quá lễ mễ, rườm rà. Nhưng dù sao, nó cũng là cái nét đẹp hơn một thời của người Á Đông. Chẳng những đẹp thôi, mà nó còn duy trì được nếp sống tôn ty trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là văn hóa cao đẹp của mỗi quốc gia dân tộc.
Ngày nay, dù sống trong những xã hội tây phương, nhưng người Việt Nam chúng ta thuộc thế hệ lớn, họ vẫn còn duy trì truyền thống lễ nghi của một vài tập tục quý giá cao đẹp. Trong khi tiếp xúc xã giao giữa mọi người, không phân biệt màu da chủng tộc, người Việt Nam theo thói quen, họ vẫn giữ lễ độ kính trọng người già nua trọng tuổi. Chẳng những lễ độ đối với người trọng tuổi, mà còn đối với tất cả mọi người. Đây là một nét đẹp truyền thống đáng kính.
Thể hiện lễ độ không có nghĩa là khúm núm, dạ bẩm thưa, mà là thể hiện bằng những cử chỉ hay hành động rất lễ phép. Điều đó, là nói lên sắc thái văn hóa của dân tộc từ ngàn xưa truyền lại. Thế hệ con em của chúng ta, dù chúng chịu ảnh hưởng đời sống của xã hội tây phương rất nhiều, nhưng không vì thế mà chúng lại đánh mất sự lễ độ với mọi người. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta đánh giá rất thấp xã hội tây phương không có lễ độ. Họ là những con người rất lịch sự đó chớ. Họ có nhiều thái độ, cử chỉ nói năng đáng kính lắm. Nhưng mỗi nước có mỗi sắc thái văn hóa, tập tục khác nhau. Đối với những người trọng tuổi già nua, họ rất kính trọng. Điều nầy, không phải trên lý thuyết, mà họ đã thể hiện ngay trong đời sống hiện thực. Đây cũng là chánh sách giúp đỡ người già của chánh phủ. Tuy nhiên, vấn đề nầy, nó thuộc về lãnh vực xã hội. Chúng ta không lạm bàn đến.
Trở lại vấn đề, qua lời Phật dạy trên, ta thử tìm hiểu: Tại sao thường hoan hỷ tôn trọng kính lễ bậc trưởng lão thì được tăng trưởng bốn điều: sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh? Nói thế, thì ta có thể đặt ngược lại vấn đề: Những ai không biết kính trọng bậc trưởng lão, thì họ không sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh sao? Nhưng thực tế, ta thấy, có biết bao nhiêu người, họ không biết kính nể ai, dù đó là cha mẹ hay ông bà họ, chớ chưa nói đến người ngoài, thế nhưng tại sao họ lại hội đủ những điều nói trên? Thế thì, lời Phật dạy trên có còn đúng với xã hội ngày nay không? Nói rõ ra là đã lỗi thời rồi chăng? Chúng ta sẽ nghĩ sao về những vấn đề nầy?
Đối với những lời Phật dạy, nếu xét về phương diện đối cơ, có đôi khi chúng ta thấy, có những điều không còn phù hợp với thời đại con người ngày nay. Tuy nhiên, trong trường hợp nầy, xét qua lời Phật dạy, ta thấy thời nào cũng vẫn đúng và có giá trị như thường.
Điều quan trọng mà chúng ta cần chú ý trong pháp cú trên là ba chữ: “Thường hoan hỷ”. Trong cuộc sống hằng ngày, ta thấy người nào luôn luôn hoan hỷ với mọi người, thì đó là người rất vui tánh. Sở dĩ họ hoan hỷ với mọi người là vì trong lòng họ không chất chứa những độc tố sầu muộn ganh ghét. Họ sống với một tâm hồn hỷ xả cởi mở vui vẻ. Họ không cố chấp bất cứ ai hay việc gì. Gặp ai, họ cũng niềm nở vui tươi. Họ không phải hạng người chỉ biết sống bề ngoài. Họ không bãi buôi theo lối xã giao thường tình. Họ là mẫu người đạo đức sống thật lòng. Họ không màu mè làm ra vẻ kiểu cách, lập dị. Do sống thật với lòng, nên họ có quá nhiều hạnh phúc. Họ không bắt bẻ phiền muộn ai, cái gì qua rồi thì thôi, họ không bao giờ để lòng. Do đó, mà họ không cần phải bóp trán suy tư. Đời họ không có để vướng bận gút mắc việc gì dù nhỏ hay lớn. Nên họ không có những nếp nhăn nheo trên vầng trán.
Từ một nếp sống hoan hỷ đó, thấy ai, nhìn ai họ cũng cảm kính vui tươi. Vì họ không thuộc hạng người nặng chấp ngã, nên họ rất lễ độ kính trọng mọi người. Đối với kẻ lớn hay người nhỏ, họ cũng đều tỏ thái độ thương kính. Phật dạy, tất cả đều do tâm. Tâm người hoan hỷ, thì nhìn đâu cũng hoan hỷ. Đối với người trọng tuổi, họ còn kính nể, hà tất gì đối với những bậc trưởng lão đức độ. Hai chữ trưởng lão Phật nói ở đây, là nói lên người có đức độ khác hơn người thường. Lòng ta càng kính trọng đối với những bậc nầy, thì ta càng tăng thêm phước đức.
Phước đức có ra là do ở chỗ ta biết khiêm cung. Mà người luôn khiêm cung là người rất có lễ độ. Do đó, nên bản thân họ không làm mích lòng ai. Nhờ đó mà họ có một đời sống đạo đức. Điều ta nên nhớ là đừng quên hai chữ “tăng trưởng” của pháp cú trên. Tăng trưởng có nghĩa là cái đã có rồi, chỉ làm cho thêm lớn mạnh hơn lên, chớ không phải cái chưa có mà ta làm cho có. Không phải chúng ta kính trọng bậc trưởng lão rồi thân hình của chúng ta lại biến đổi đẹp đẽ hay sống lâu, khỏe mạnh v.v. Ở đây, Phật dạy chúng ta phải luôn hoan hỷ tôn trọng, kính lễ bậc trưởng lão, tất nhiên là chúng ta sẽ được tăng trưởng phước báo. Bốn điều nói trên là do con người có phước mà có. Đã có rồi, tất nhiên, Phật khuyên bảo chúng ta nên tài bồi thêm cho những điều phước báo đó càng ngày càng thêm lớn. Bốn thứ đó đều do từ tâm hoan hỷ vui vẻ kính trọng mọi người mà ra. Hoan hỷ có ra là do người biết trải rộng tấm lòng yêu thương hỷ xả. Như vậy, người nào có được tâm hồn luôn hoan hỷ với mình và mọi người, thì chắc chắn người đó sẽ được tăng trưởng bốn điều phước báo đó. Và điều nầy, chúng ta thấy, cũng rất là phù hợp với ngành y khoa. Đối với ngành học nầy đều khuyên con người nên vui sống, đừng bao giờ chứa chấp những sầu muộn, lo lắng trong lòng. Càng chứa chấp những thứ đó nhiều chừng nào, thì con người càng đau khổ và dễ sanh bệnh nhiều chừng nấy. Bởi chúng là những thứ độc tố tàn hại con người. Do đó, những ai muốn được sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh, thì hãy nhớ và thật hành đúng như lời Phật dạy trong câu pháp cú nầy.
110.Dầu sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu thiền định.”
111. “Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu thiền định.”Lược giải
110. Sống trăm năm mà phá giới, không tu thiền, chẳng bằng chỉ một ngày mà trì giới[115], tu thiền định[116].
Better it is to live one day virtuous and meditative than to live a hundred years immoral and uncontrolled.
Kệ Tụng
Dầu sống một trăm năm
Phá giới, không thiền định
Không bằng sống một ngày
Trì giới, tu thiền định.
Lược giảng
Đời sống của một đời người, nếu chỉ ước định theo thời gian dài hay ngắn, sống lâu hay chết non, thì sự ước định đó, quả là điều rất nông cạn và vô nghĩa. Giá trị của con người không phải ở thời gian lâu hay mau. Nếu sống lâu mà con người toàn gây tạo những điều ác đức, lợi mình hại người, thì sự sống lâu đó, chỉ là một họa hại cho nhơn loại. Xã hội loài người không thể chấp nhận những hạng người đó. Vì muốn củng cố địa vị quyền lợi danh vọng của mình, mà họï bất chấp mọi thủ đoạn gian ác. Họ sống bất chấp luật pháp. Họ coi luật pháp như là một sự trói buộc. Họ thích sống tự do muốn làm gì thì làm theo ý muốn của họ. Họ luôn gây ra những xáo trộn bất an trong xã hội. Họ làm theo mệnh lệnh dục vọng sai sử. Hạng người nầy, thì dù cho họ có kéo dài sự sống đến ngàn tuổi thọ đi chăng nữa, thì cũng chỉ gây thêm những ung nhọt độc cho xã hội mà thôi!
Giả sử những con người chuyên gài bom khủng bố giết người, mà họ càng kéo dài sự sống của họ lâu chừng nào, thì thế gian nầy, càng đại loạn nhiều chừng nấy. Con người cứ mãi sống trong sự phập phồng lo âu sợ hãi. Sống nơm nớp lo sợ như thế, thì thử hỏi còn gì là ý nghĩa của sự sống?
Nhìn vào thảm trạng của thế giới bất ổn ngày nay, không biết con người có đủ tỉnh thức để tìm ra nguyên nhân gây ra hay không? Theo Phật giáo, không có một việc làm nào mà không có nguyên nhân. Và cũng không có nguyên nhân nào mà không có kết quả. Nhân và quả là một luật định tự nhiên, như bóng theo hình. Mọi việc xảy ra, nếu mọi người bình tâm suy xét, thì không có việc nào là ngẫu nhiên cả. Lòng người bất ổn vì nhiều lý do ngoại tại và nội tại gây ra. Nhưng điều quan trọng vẫn là nguyên nhân nội tại. Tìm rõ nguyên nhân nội tại, để rồi mọi người tìm phương giải quyết, và phải thành thật nghiêm trọng giải quyết. Có thế, thì nhơn loại mới mong có cuộc sống an ổn. Bằng không, thì dù cho cả thế giới cùng đứng chung một chiến tuyến với nhau, để chống lại khủng bố, thì việc làm đó, chỉ là chạy chữa trên bề mặt và nhứt thời mà thôi. Và như thế, sẽ không bao giờ tiêu diệt được kẻ thù khủng bố. Vì kẻ thù khủng bố, chính nó lại nằm sâu kín trong lòng của con người. Có người sẽ hỏi, luận cứ vào đâu mà nói như thế?
Bởi vì, như chúng ta đã thấy, trên thế giới, hệ thống an ninh của mỗi quốc gia, cũng như toàn thế giới, đều rất là chặt chẽ. Thế mà, không hiểu tại sao, cứ thỉnh thoảng lại xảy ra những cuộc khủng bố giết chết người hằng loạt. Như thế, thì sự an ninh phòng bị của mỗi quốc gia, lấy gì làm bảo đảm? Và nguyên nhân khủng bố phát xuất từ đâu? Làm sao chận đứng được? Rõ ràng, sự phòng thủ của mỗi quốc gia, chỉ ở một mức định giới hạn nào đó, và cũng chỉ ở ngoại diện mà thôi. Làm sao họ có đủ năng lực phòng thủ từ trong lòng tham, sân, si sâu kín của mọi người? Ai có đủ năng lực phòng thủ và triệt tiêu mầm mống phát sanh khủng bố nầy? Chỉ có mỗi người tự trả lời. Và phải trả lời một cách thành thật. Sau khi trả lời, thì cũng tự mỗi người tìm cách giải quyết mà thôi. Cuối cùng, không có một hệ thống an ninh quốc gia nào toàn hảo, dám bảo đảm một cách chắc chắn rằng, sẽ không có khủng bố xảy ra trên quốc gia của họ. Ai dám đứng ra bảo đảm một cách chắn chắn trước quốc dân đồng bào như thế?
Muốn bảo đảm an toàn một cách hữu hiệu, chỉ có một con đường duy nhứt, theo Phật giáo, là mỗi người phải tự tu và giữ giới. Giới luật ở đây, không nhứt thiết là phải giữ đúng theo giới luật Phật dạy. Mỗi Tôn giáo đều có giới luật của họ. Và trên hết vẫn là giới luật Nhân bản của mỗi người. Nghĩa là, dù cho người nào đó không có theo một Tôn giáo nào, nhưng chính bản thân họ là một Tôn giáo của đạo làm người. Là con người, đúng theo ý nghĩa của nó, tất nhiên là ta phải sống tròn nhơn cách, phẩm giá của con người. Nếu không, thì không còn là con người nữa.
Pháp cú trên, Phật nhắm thẳng vào việc xây dựng con người và xã hội loài người. Sống lâu mà phá giới, không làm lợi ích cho ai, thì thử hỏi sống lâu để làm gì? Càng sống lâu chỉ thêm chật đất mà thôi. Một sự sống như thế, có khác gì một khúc cây khô bên đường. Chỉ làm cho chướng ngại người đi đường mà thôi.
Điều quan yếu hơn nữa, Phật đề cao những ai biết trì giới và tu thiền, vì có giữ giới tất nhiên là sẽ đem lại sự lợi lạc cho mình và người. Có tu thiền thì tâm ta mới được an tĩnh. Lòng có an tĩnh, thì sự sống mới có giá trị hạnh phúc. Sống có hạnh phúc, dù chỉ một ngày thôi, nó cũng mang lại một sự sống có đầy đủ ý nghĩa. Như người biết thưởng thức giá trị hương vị của món ăn ngon, không cần phải ăn nhiều, mới là thưởng thức. Ăn nhiều, đôi khi chỉ chuốc thêm khổ, chớ chẳng lợi lạc gì. Điều nầy cũng rất là thực tế. Cho nên, người khéo biết thưởng thức hương vị tuyệt diệu của món ăn, chỉ cần ăn chút ít là đủ. Bởi thế, con người sống và phải biết sống cho có giá trị của sự sống. Sống như thế, mới thật sự có ý nghĩa, chỉ cần sống thời gian một ngày là đủ. Đây là đứng trên phương diện giá trị của đạo đức mà nói, chớ không phải đứng về mặt thời gian lâu mau. Sống lâu mà như một cục thịt biết đi, thử hỏi sống lâu để làm gì?
Thế giới ngày nay, rất cần đến những con người biết sống yên tĩnh. Muốn có được nếp sống đó, Phật dạy hãy xoay lại nhìn kỹ lại chính mình. Có nhìn lại mình, thì mới tìm ra được nguồn sống an vui hạnh phúc. Bằng không, thì không mong gì thế giới sống trong sự an bình!
111. Sống trăm năm mà thiếu trí tuệ, không tu thiền, không bằng chỉ sống một ngày mà đủ trí tuệ, tu thiền định.
Better it is to live one day wise and meditative than to live a hundred years foolish and uncontrolled.
Kệ Tụng
Dầu sống một trăm năm
Không tuệ, không thiền định
Không bằng sống một ngày
Có tuệ, tu thiền định.
Lược giảng
Trong đạo Phật, thiền định và trí tuệ vô cùng quan trọng. Người tu hành muốn tiến đến Phật quả mà thiếu hai pháp tu trọng yếu nầy, thì không mong gì thành công được. Nhờ có thiền định mà tâm an lạc. Thiền định như một cái phao nổi. Người nào muốn không bị chết chìm trong biển khổ sanh tử, thì không còn cách nào hơn là phải bám chặt vào cái phao nổi thiền định. Tuy nhiên, có thiền định mà thiếu trí huệ, cũng không được. Theo Đại thừa, trí huệ và thiền định phải được quân bình đồng đẳng với nhau, không trước không sau. Như ngọn đèn và ánh sáng. Nhưng trí huệ, nhà Phật chia ra cũng có nhiều thứ: cạn, sâu, thấp, cao khác nhau.
Lực dụng của trí huệ là để biện biệt chánh tà, phải trái, chân ngụy. Đối với người đời, nếu thiếu trí huệ, thì họ cũng không thể thành công trong nghề nghiệp sinh tồn của họ. Cho nên, trong mọi lãnh vực sinh hoạt, lãnh vực nào cũng cần phải có trí huệ điều khiển. Trí huệ thế gian là do sự tích tụ kinh nghiệm mà có. Nói rõ hơn là nhờ họ học hỏi ở nhà trường cũng như qua sự tiếp xúc ứng xử theo môi trường xã hội. Đáng lý phải gọi là trí thức, chớ không phải là trí huệ. Nhưng vì người đời họ quen gọi như thế. Trí huệ thế gian, tùy theo trình độ học hỏi, tiếp cận kinh nghiệm sự sống mà cũng có sâu cạn, cao thấp khác nhau.
Người nào khéo biết ứng dụng trí huệ vào trong đời sống, thì tương đối, người đó đỡ khổ. Bất cứ việc làm nào, họ cũng dùng trí huệ để cân nhắc lợi hại, thành bại, nên hư, đắc thất v.v. Nhờ sự cân nhắc suy xét kỹ càng, nên việc làm của họ, ít bị thất bại và thường đưa đến có kết quả tốt đẹp hơn. Ngược lại, đối với những người không khéo biết vận dụng trí huệ để suy nghiệm kỹ càng trong những hành động, lời nói, việc làm của mình, thì những người nầy, kết quả thường bị thất bại, có đôi khi đưa đến đau khổ ngút ngàn. Thế nên, bất cứ hạng người nào và bất cứ lãnh vực sinh hoạt nào trong xã hội, đối với việc sử dụng trí huệ vào đời sống, thật là thiết yếu. Thiết yếu như hơi thở và mạng sống. Xin nhắc lại, người nào làm việc gì mà thiếu trí huệ soi sáng, thì khó mà được thành công tốt đẹp.
Trong Phật giáo, tùy loại chủng tánh mà có các loại trí huệ sai khác. Như trí huệ của hàng phàm phu, Nhị thừa, Bồ tát và đỉnh cao nhứt là trí huệ Phật. Dù phân chia có nhiều loại trí huệ, tùy chủng tánh và trình độ căn cơ sai khác, nhưng tựu trung cũng nhằm tiến đến mục đích giác ngộ giải thoát. Trên đường tiến đến Phật quả, mỗi hành giả đều phải tự trang bị cho mình một thứ trí huệ. Tu hành thiếu trí huệ, thì cũng như kẻ ở trong căn nhà tối. Tệ hại hơn nữa, như là kẻ bị mù mắt. Tuy chưa bị mù mà ở trong nhà tối, thì cũng như mù. Dù đôi mắt của người đó vẫn còn sáng. Cho nên, trí huệ đối với người tu mong cầu thoát ly sanh tử khổ đau, nó quan trọng còn hơn là mạng sống. Vì có trí huệ, mới biện biệt được lẽ chánh, tà, chơn, giả và từ đó mới nhận định đúng chân lý. Có nhận định đúng, hành đúng theo chân lý, thì mới mong thoát khổ. Bằng ngược lại, thì dù cho sống một trăm năm hay hơn, mà tâm hồn ngu si tăm tối, tạo vô số nghiệp quả, đi mãi trong khổ đau, thì thử hỏi sống như thế có nghĩa lý gì?
Nhơn loại đang sống trong ngôi nhà lửa. Một ngôi nhà lửa không chỉ riêng hạn cuộc trên quả địa cầu, mà cả Tam giới. Nhà lửa đang bốc cháy dữ dội. Hằng ngày, có biết bao tiếng kêu la thảm khốc, cầu cứu của nhơn loại. Dù kêu la trầm thống như thế, nhưng con người vẫn không có ý muốn chạy thoát ra khỏi ngôi nhà lửa. Nhơn loại cam tâm chịu chết cháy. Lửa si mê tham dục càng lúc càng bốc cháy cao ngọn. Một số ít người, dù có ý muốn chạy thoát ra, nhưng vì thiếu ý chí cương quyết và thiếu trí tuệ soi sáng, nên cuối cùng, họ cũng bị thiêu hủy trong ngọn lửa si mê tham dục.
Những ai muốn thoát khỏi ngọn lửa tham dục và thoát ra khỏi ngôi nhà lửa, Phật dạy, chỉ có một con đường duy nhứt, đó là thiền định và trí huệ. Trí huệ là ngọn hải đăng có công năng soi sáng và phá tan mọi bóng tối si mê. Người tu, nếu không có ánh sáng của ngọn hải đăng trí huệ nầy, thì chắc chắn khó được giải thoát. Nhờ có trí huệ mà con người tránh được mọi sai lầm. Nhưng muốn cho cây trí huệ luôn được tốt tươi, thì ta phải trồng nó cắm sâu vào đất thiền định. Thiếu đất thiền định, thì cây trí huệ sẽ không thể nào tươi tốt được.
Cũng như pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy, những ai dù sống lâu đến đâu, nhưng nếu không tu thiền định và trí huệ, thì chỉ là vô ích. Ngược lại, những ai mà biết tu thiền định và trí huệ, thì dù chỉ sống một ngày thôi, cũng là đầy đủ ý nghĩa. Lý do tại sao? Vì Phật không đặt định căn cứ vào thời gian. Vì thời gian không có nghĩa lý gì đối với một người đã đạt đạo. Thời gian có ra, chỉ đối với những ai còn bị dính mắc hai đầu. Nói rõ ra là những người còn quá nhiều tham vọng chấp trước. Còn đối với những người sống được với cái thực thể chơn thật rồi, thì đó mới thật là sống thực. Và đó mới chính là sống với con người thật của chính mình.
Pháp cú trên, Phật chỉ rõ con đường giác ngộ giải thoát. Con đường Tam vô lậu học: “Giới, Định, Huệ”, đó là một đại lộ thênh thang rộng lớn mà bất cứ hành giả nào muốn tiến đến Phật quả, thì không thể nào không đi trên đại lộ đó. Vì không có con đường nào khác hơn. Đó là con đường chư Phật Tổ đã đi qua. Dù hành giả đi qua bất cứ con đường nào khác, nhưng muốn tiến đến cái đích cuối cùng của sự giác ngộ giải thoát, thì nhứt quyết cũng phải đi con đường đó mà thôi.
Tóm lại, pháp cú trên, Phật cảnh giác cho mọi người thức tỉnh về lẽ sống. Sống mà với một tâm trí u mê, như một kẻ lữ hành đi trong đêm tối, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi khổ đau sa đọa hầm hố. Sống như thế, dù có kéo dài sự sống đến đâu, cũng chỉ là một cái xác chết ướp khô. Đã thế, thì có chi là giá trị của sự sống. Nếu sự sống chỉ có biết ăn, mặc, ở không thôi, cả đời làm nô lệ cho dục vọng, miệt mài chạy theo nhu cầu vật chất, tâm trí luôn bấn loạn điên cuồng, không có một phút giây an lạc, hạnh phúc, thì, than ôi! Càng sống lâu chừng nào, chỉ là một kiếp sống thừa thãi, sa đọa, chìm sâu vào trong bóng tối khổ lụy ngàn đời mà thôi!
112 “Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày
Tinh tấn tận sức mình.”
113. “Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt.”Lược giải
112. Sống trăm năm mà giải đãi không tinh tấn, chẳng bằng chỉ sống một ngày mà hăng hái tinh cần.
Better it is to live one day strenuous and resolute than to live a hundred years sluggish and dissipated.
Kệ Tụng
Dầu sống một trăm năm
Lười nhác, không cố gắng
Chẳng bằng sống một ngày
Hăng hái tận sức mình.
Lược giảng
Ngoài đời hay trong đạo, đức tánh siêng năng bao giờ cũng rất cần thiết. Trên cõi đời nầy, ta chưa từng nghe thấy ai cả đời lười biếng không làm gì hết mà họ thành công. Một em học sinh, muốn có được mảnh bằng trong tay, thì ngày đêm phải miệt mài đèn sách. Một bác nông phu, muốn tới mùa thu hoạch cao, thì ngày đêm phải lặn lội vất vả nơi đồng ruộng. Một chị bán hàng muốn có tiền khá, thâu lợi nhuận nhiều, thì cũng thức khuya dậy sớm, chạy lo buôn bán. Một khoa học gia, muốn phát minh những máy móc tối tân tinh vi, thì cũng phải ngày đêm giam mình trong bốn bức tường để tâm nghiên cứu không ngừng. Nói tóm lại, trên thế gian nầy, trăm ngành, vạn nghề, không có một ngành nghề nào, mà người ta không chịu khó bỏ công sức ra mà được thành tựu.
Tuy nhiên, những người siêng năng làm việc nầy, với mục đích của họ là mong cầu danh lợi. Do lòng tham dục thúc đẩy mà họ phải chịu vất vả. Làm vì muốn được giàu sang, ăn trên ngồi trước hơn người. Cả đời, họ chỉ biết lam lũ, tận tụy với công việc. Họ cũng thuộc thành phần siêng năng trong xã hội. Những hạng người nầy, đương nhiên là họ thuộc thành phần tốt trong xã hội. Họ được xã hội kính nể trọng vọng.
Ngược lại, hạng người lười biếng ăn không ngồi rồi, tất nhiên là họ bị xã hội khinh bỉ chê bai. Họ càng sống lâu chừng nào, chỉ tổ làm khổ cho xã hội chừng nấy. Thường những kẻ làm biếng hay lánh nặng tìm nhẹ và chém vè công việc. Kẻ lười biếng, bản thân họ vô bổ, vô ích. Đối với gia đình, họ là một gánh nặng. Hạng người nầy, ở đâu và thời nào cũng có. Tệ hơn nữa, họ sống kiếm ăn bằng cách trá hình, như họ hóa trang làm một kẻ ăn mặc rách rưới, sống lang thang rày đây mai đó, để đi xin ăn. Thật tế, họ không phải là kẻ tàn tật hay bệnh hoạn. Hạng người nầy, ta thấy họ hay kiếm sống ở những nơi đô thị đông đúc. Họ đi xin ăn ở những người buôn bán thị thành. Họ lợi dụng lòng tốt của một số người giàu lòng từ tâm thương người.
Nói tóm lại, kẻ lười biếng bao giờ cũng có mưu mô và lý luận của họ. Miễn sao họ sống vinh thân phì gia mà không cực khổ vất vả là được. Họ sử dụng nhiều thủ đoạn mánh lới để được ấm no. Họ là hạng người không cần đến cung cách nhân phẩm. Đối với hạng người nầy, những từ ngữ đẹp, đối với họ đều vô nghĩa.
Đó là nói sơ qua hai hạng người thuộc xã hội ngoài đời. Còn đối với người tu trong đạo thì sao? Về người tu, theo đạo Phật đại khái có hai giới: tại gia và xuất gia. Đối với hàng Phật tử tại gia, nếu lười biếng không siêng năng tu hành thì sao? Câu trả lời đơn giản là họ sẽ không có kết quả tốt đẹp trên đường đạo. Dù họ đã quy y, mệnh danh là Phật tử, nhưng nếu họ không tinh tấn tu hành làm lành, làm phước v.v, thì bản thân họ hiện tại chẳng những không được lợi ích mà đời sau cũng chẳng có gì. Bởi nhân không gây tạo, thì làm sao có kết quả. Họ không biết hướng thượng tu hành, thì dù là Phật tử, nhưng không khác gì người đời. Cho nên, hai chữ tinh tấn trong nhà Phật nói, nó có nghĩa là phải luôn luôn phát triển hạnh lành. Nói rõ và cụ thể hơn, người Phật tử phải noi theo Tứ chánh cần, là một pháp tu trong 37 phẩm trợ đạo. Trong Tứ chánh cần Phật dạy:
Điều lành chưa phát sanh, thì siêng năng làm cho nó phát sanh. Nếu như nó đã phát sanh, thì nên cố gắng siêng năng làm cho nó phát triển mạnh hơn nữa. Ngược lại, điều ác chưa phát sanh, thì cố gắng siêng năng tu hành đừng cho nó phát sanh. Nếu như nó đã phát sanh, thì hành giả nên siêng năng tinh cần tu các pháp lành để nhằm tiêu diệt nó, không cho nó tăng trưởng.
Đó là bốn pháp chuyên cần tu hành của người Phật tử không phân biệt tại gia hay xuất gia. Đây là phương pháp hướng thiện mà Phật dạy chung cho cả hai giới hành trì. Tuy nhiên, đối với người xuất gia, Phật dạy còn nhiều phương pháp tu cao hơn. Nhưng dù pháp tu nào, Thiền, Tịnh, Luật, Mật tất cả cũng đều xoáy mạnh vào trung tâm điểm là diệt trừ phiền não. Có siêng năng hành trì tu tập, mới chóng mau diệt trừ hết phiền não. Hết phiền não, tất sẽ được giải thoát. Ngược lại, thì là một cuộc sống phóng túng buông lung sa đọa. Vì lười biếng là hiện thân của sa đọa. Bởi thế, nên trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác Phật dạy: “Giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục”.
Nghĩa là:
Phật dạy: Lười biếng sẽ bị đọa lạc, thường tu hành tinh tấn, phá phiền não ác, nhiếp phục bốn loại ma, có thế mới mong ra khỏi cái ngục ấm giới.
Qua đó, cho chúng ta thấy, người xuất gia, nếu lười biếng, tất nhiên là sẽ bị sa đọa, chẳng những ngay trong hiện đời mà còn mãi mãi về sau nữa. Vì người xuất gia với một ý nguyện cao siêu là mong cầu thành tựu Phật quả. Với sự mong cầu tối thượng đó, mà tối ngày lười biếng không siêng năng nỗ lực tu hành, thì thử hỏi sẽ thành cái gì? Chắc chắn là thành ma thì có! Bởi vì không nhiếp phục được bốn ma, thì làm sao ra khỏi ngục tù ấm giới?
Tóm lại, qua pháp cú trên, Phật dạy người nào không nỗ lực siêng năng tu hành, để cầu thoát ly sanh tử khổ đau, thì dù cho họ có kéo dài mạng sống hằng sa kiếp đi nữa, thì chỉ đi sâu trong khổ đau mà thôi. Và như thế, thì sự sống thật là vô ích. Đó là kẻ sống suông chết uổng! Sống như thế, mỗi người hãy tự hỏi có thật đáng sống hay không?!
113. Sống trăm năm mà không thấy pháp vô thường sanh diệt, không bằng sống chỉ một ngày mà được thấy pháp sinh diệt vô thường.
Better it is to live one day seeing the rise and fall of things than to live a hundred years without ever seeing the rise and fall of things.
Kệ Tụng
Dầu sống một trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Chẳng bằng sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt.
Lược giảng
Vô thường sanh diệt là một trong Tứ pháp ấn thuộc hệ giáo lý Nguyên thủy. Tứ pháp ấn là: khổ, không, vô thường và vô ngã. Có thể nói suốt mười hai năm thuyết giáo độ cho hàng Tiểu cơ, Phật chỉ xoay quanh bốn chân lý nầy. Đây là bốn chân lý mà về sau đã được các nhà kết tập kinh điển Phật giáo liệt vào giáo hệ A Hàm. Bốn chân lý nầy, thật vô cùng quan trọng cho những ai thật tâm nghiên cứu giáo lý Phật giáo. Chúng là nền tảng cơ bản của hệ Phật giáo Đại thừa sau nầy. Nói cách khác, các nhà Đại thừa chỉ dựa vào bốn chân lý nầy mà triển khai rộng ra thêm. Dĩ nhiên, có những điều siêu việt hơn. Nhưng dù diễn dịch dưới hình thức nào, bước đầu nghiên cứu, các nhà Đại thừa không thể bỏ qua.
Nhìn vào vạn hữu vũ trụ, chúng ta thấy không vật nào thoát khỏi bốn quy trình sanh diệt. Đối với các pháp thuộc hiện tượng vật lý, thì chúng chịu chung một quy luật: sanh, trụ, dị, diệt. Đối với những loại khoáng vật như đất, đáthì chúng có chung một luật định: thành, trụ, hoại, không. Đối với con người thì: sanh, lão, bệnh, tử. Đối với thời tiết thì chúng cũng có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Những quy luật thiên nhiên nầy chi phối và vận hành toàn bộ. Tất cả đều có chung một quy luật: vô thường. Nói đến vô thường, người ta thường chia ra có ba thứ:
1. Hoàn cảnh vô thường.
2. Thân vô thường.
3. Tâm vô thường.
Ba thứ hiện tướng vô thường nầy, trong các kinh điển, Phật thường nhắc đi nhắc lại rất nhiều. Tại sao Phật thường lặp đi lặp lại như thế? Bởi nó rất quan yếu về mặt tu hành cũng như về mặt cảnh giác thức nhắc con người. Bởi Phật biết rõ, con người rất dễ mau quên. Dù vô thường luôn luôn xảy đến với họ trong từng giây phút. Đối với ngoại cảnh, sự đổi thay dễ thấy nhứt. Dễ thấy, nhưng không phải dễ tỉnh giác. Đối với những ai có căn cơ trình độ nhạy bén, khi họ nhìn vào sự vật như hoa rơi, lá rụng, thì họ liền giác ngộ lý vô thường ngay. Từ sự tỉnh giác đó, họ quyết tìm phương giải thoát. Ngược lại, cũng cùng một cảnh vật đó, nhưng đối với những con người thuộc căn cơ chậm lụt, hay nghiệp chướng sâu dầy, thì họ không một chút tỉnh giác. Họ coi sự chuyển biến đó như không có gì xảy ra.
Nhằm thức nhắc con người luôn nhớ đến lý vô thường để lo tu hành sớm được giải thoát, trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác, mở đầu có bài kinh, Phật dạy: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ. Tâm thị ác nguyên, hình nhi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sanh tử”.
Điều giác ngộ thứ nhứt, Phật dạy: “Thế gian nầy là vô thường, cõi nước dòn bở, là tạm bợ, thân tứ đại là khổ, là không, năm ấm không có cái ta chân thật, sanh diệt đổi dời luôn luôn, luống dối không chủ. Tâm là nguồn gốc tội ác, thân là rừng tội lỗi, hằng quán sát như thế, lần lần xa lìa sanh tử”.
Bài kinh nầy, Phật dạy để thức nhắc cho chúng ta phải hằng để tâm ghi nhớ. Có hằng nhớ đến lẽ vô thường như thế, chúng ta mới nỗ lực huân tu. Có nỗ lực huân tu và thường xuyên quán sát, thì chúng ta mới mong hết khổ.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trong đó cũng có hai bài Kinh Phật dạy về quán vô thường và vô ngã.
Phật ngôn: Quán thiên địa niệm phi thường, quán thế giới niệm phi thường, quán linh giác tức Bồ đề, như thị tri thức đắc đạo tật hỷ.
Phật ngôn: Đương niệm thân trung tứ đại các tự hữu danh, đô vô ngã giả; ngã ký đô vô, kỳ như huyễn nhỉ.
Dịch nghĩa:
Phật dạy: Quán trời đất nghĩ là chẳng phải thường, quán thế giới nghĩ là chẳng phải thường, quán linh giác tức Bồ đề, hiểu biết như thế được mau đắc đạo.
Phật dạy rằng: Phải quán bốn đại trong thân, mỗi đại tự nó có tên, đều không có cái gì là ngã, ngã đã không có thì chúng chỉ như huyễn mà thôi. (Bản dịch của giáo sư Hoàn Quan)
Diễn dịch văn vần:
Dù trời đất bao la rắn chắc
Luật vô thường hữu sắc tức không
Đã do duyên hợp khó mong
Bền lâu vĩnh viễn biển sông đổi dời
Chỉ linh giác đời đời chẳng đổi
Đạo Bồ đề lãnh hội an vui
Đường tu quyết chẳng thối lui
Viên thành quả giác mới nguôi dạ nầy
Quán bốn đại thân nầy giả dối
Mỗi đại kia đều có tên riêng
Suốt thông đạo lý nhân duyên
Huyễn thân vô ngã bền kiên được nào.
(T. Phước Thái)
Qua hai bài kinh trên, Phật dạy chúng ta phải quán lý vô thường từ thô đến tế. Thô, thì rộng lớn như trời đất bao la, tất cả cũng đều biến hoại. Tế, thì thân và tâm, tất cả đều vô thường huyễn hóa, chúng thay đổi từng sát na. Tất cả như giòng nước chảy trôi, luôn luôn biến dịch không ngừng. Tuy nhiên, Phật dạy chúng ta phải tế tâm quán sát trong cái vô thường có cái không vô thường, chính đó là linh giác hay bản tâm chân thật của ta.
Pháp cú trên, Phật dạy, nếu chúng ta nhận được cái lý vô thường sanh diệt của vạn vật như thế, thì không uổng một kiếp sống, dù chỉ sống thời gian rất ngắn một ngày thôi. Tại sao thế? Bởi trong Kinh Phật thường dạy, người nào thấy được pháp sanh diệt là thấy được Đạo. Tức là đã nhận ra được pháp bất sanh bất diệt. Đã thế, thì sự sống chết, còn mất, đối với người đã nhận ra được lẽ thật (Niết bàn) thì đối với họ thực sự có nghĩa lý gì đâu! Vì họ đã nhận ra được trong cái vô thường có cái “chơn thường”, như thế, thì còn gì là ước định thời gian lâu hay mau! Đó là đã thể nhận được “Cành mai” không rụng trước cảnh mùa xuân thiên nhiên của đất trời, dù tất cả hoa lá đều rơi rụng. Đó là “cành mai bất hoại” của Ngài Mãn Giác Thiền Sư và cũng là của tất cả chúng ta. Vì ai cũng có sẵn cành mai đó. Được thế, thì còn gì phải luận bàn đến thời gian và sự sống nữa chớ!
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ Nhứt chi mai”.
114. “Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.”
115. “Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp tối thượng.”Lược giải
114. Sống trăm năm mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy đạo vô vi tịch tịnh.
Better it is to live one day seeing the Deathless than to live a hundred years without ever seeing the Deathless.
Kệ Tụng
Dầu sống một trăm năm
Không thấy pháp bất tử
Chẳng bằng sống một ngày
Thấy được pháp bất tử.
Lược giảng
Vô vi tịch tịnh là tên khác của Niết bàn. Trong bài kệ, thì gọi là pháp Bất tử. Pháp bất tử là pháp bất sanh bất diệt. Chỗ khác gọi là con người bất tử. Tức là con người không còn sanh diệt, biến đổi trong thế giới hiện tượng vô thường. Niết bàn là cảnh giới an lạc. Cảnh giới nầy vượt ngoài thời gian và không gian. Đây là cảnh giới mà bất cứ người tu hành nào cũng mong cầu đạt đến. Trong kinh có chia ra hai loại Niết bàn: Tiểu thừa và Đại thừa. Niết bàn của Tiểu thừa gồm có hai loại: Hữu dư y và vô dư y. Niết bàn của Đại thừa cũng có hai loại: Vô trụ xứ và Tự tánh thanh tịnh. Niết bàn của Tiểu thừa là Niết bàn của A la hán. Niết bàn của Đại thừa gồm có Niết bàn của Bồ tát và của Phật. Tự tánh thanh tịnh Niết bàn là Niết bàn của Phật. Đạt đến Niết bàn của Phật mới là quả vị cứu cánh. Còn quả vị Niết bàn A la hán, tuy cũng thoát khỏi vòng sanh tử, nhưng chưa phải là quả vị rốt ráo. Đó chỉ là hóa thành dụ như trong Kinh Pháp Hoa nói mà thôi.
Người tu cần phải đạt cho kỳ được quả vị Phật. Đó là mục tiêu cuối cùng mà các hành giả Đại thừa đều nhắm tới. Muốn đạt đến quả vị Phật, tất nhiên hành giả phải trải qua nhiều khó khăn, chướng ngại, thử thách. Nhưng, nếu đã tu mà không nếm được mùi vị an lạc giải thoát, thì chúng ta chưa phải thật sự tu. Đó là điều quả quyết như thế.
Pháp cú trên, Phật muốn so sánh cho chúng ta thấy giữa hai thế giới trầm luân và giải thoát. Con người dù sống một trăm năm hay hơn thế nữa, mà không có những giây phút an lạc hạnh phúc, thì thử hỏi đời sống đó như thế nào? Có phải là một cuộc sống đồng nghĩa với khổ đau không? Tuy nhiên, muốn có được một đời sống an lạc, không phải tự nhiên có được. Tất nhiên, hành giả phải diệt trừ những nguyên nhân gây ra khổ đau. Có tìm ra được nguyên nhân và rồi tiêu diệt chúng, thì bấy giờ muốn có được hạnh phúc an lạc.
Nhân lời dạy nầy của Phật, mỗi người chúng ta hãy thành thật nhìn lại mình thật kỹ, xem mình thật sự có được hạnh phúc an lạc chưa? Và sự an lạc hạnh phúc đó, nếu có, thì thời gian được bao lâu? Nên nhớ là an lạc thực sự, nghĩa là tâm ta không còn có chút phiền não nào dấy khởi. Giống như mặt nước phẳng lì không một gợn sóng lăn tăn. Trong một ngày, nếu chúng ta thật sự có được những phút giây đó, thì ta mới nhận ra được giá trị đích thực của sự sống. Và mới nhận ra được sự quý giá của lời Phật dạy đây. Còn bằng không, chỉ là đọc suông vô ích. Chúng ta hãy cố gắng thực tập cho mình có những phút giây yên tĩnh và chánh niệm. Chúng ta đừng sống hoạt động như cái máy nữa. Chúng ta nên tập và giữ chánh niệm từng hơi thở. Sau khi nắm vững được hơi thở và giữ vững được chánh niệm trong mỗi hơi thở ra vào, từ đó, chúng ta mới tập qua những bước đi và hành động. Nghiệm lại thật kỹ, đời sống của mỗi chúng ta, từ trẻ đến già, chúng ta chưa thực sự có được những giây phút sống thực cho mình. Chúng ta chưa hoàn toàn làm chủ lấy mình. Chúng ta sinh hoạt trong sự loạn động của tâm thức sai sử. Chúng ta luôn luôn mất mình. Chúng ta làm việc trong sự quay cuồng, vọng động và buồn chán. Chúng ta đi tìm lạc thú trong công việc. Đó là một cách chạy trốn với chính mình. Vì mình không dám nhìn thẳng vào chính mình. Chúng ta hãy bình tâm mà nhận xét, từng phút giây, chúng ta đã bị đồng hóa theo công việc. Thậm chí, những lúc rỗi rảnh, chúng ta ngồi chơi một mình, tưởng chừng như mình sống lại cho mình, kỳ thật mình vẫn sống theo ngoại cảnh. Đến lúc ngồi yên tu, những pháp trần vẫn luôn khuấy động ta. Chúng luôn luôn làm cho ta bất an.
Có thiền quán sâu sắc, chúng ta mới thấy cuộc sống của chúng ta thật sự là vô nghĩa. Sống cứ quay lăn theo vòng danh lợi, theo vọng chấp duyên trần, không một phút giây yên tĩnh và sống thực, sống như thế, thì có gì là ý nghĩa của sự sống ? Cả nhơn loại ngày nay, từ sinh chí tử, đều sống như thế. Chỉ trừ một số ít người, nhận ra được đâu là giá trị đích thực của sự sống và đâu là con đường giải thoát. Sau khi họ ý thức và nhận ra, họ quyết chí tìm phương cởi trói và nhờ thế họ mới đến được đầu nguồn của sự sống. Đến đó, chỉ họ tự biết họ mà thôi. Đúng với câu: “Như nhơn ẩm thủy, lãnh noãn tự tri”. Nghĩa là: như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Và chừng đó, mới thấy được nguồn hạnh phúc an lạc mà cả trần gian nầy thật khó tìm.
115. Sống trăm năm mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy pháp tối thượng.
Better it is to live one day seeing the Supreme Truth than to live a hundred years without ever seeing the Supreme Truth.
Kệ tụng
Dù sống một trăm năm
Không thấy pháp tối thượng
Chẳng bằng sống một ngày
Thấy được pháp tối thượng.
Lược giảng
Pháp thế gian chỉ là pháp đối đãi sanh diệt. Mọi hiện tượng đều nằm trong phạm trù duyên sinh. Đã do duyên sinh hình thành, thì tất cả chỉ là giả tướng. Sống cả đời chỉ chạy theo hiện tượng, khác nào như một kẻ đùa giỡn bắt bóng. Như một người nhặm mắt, nhìn trong hư không thấy hoa đốm lăng xăng, họ cho là thật có hoa đốm. Họ không biết rằng, hoa đốm có ra là do họ bị bệnh nhặm mắt. Cũng thế, mọi hiện tượng ở đời, giống như hoa đốm. Vì mê, nên chúng ta tưởng là thật. Khác nào chúng ta nằm mộng. Do ngủ mê nên thấy những cảnh buồn vui xảy ra trong giấc ngủ. Đang lúc còn mộng, làm sao ta biết đó là mộng? Sau khi thức giấc, bấy giờ, ta mới biết cảnh đó là mộng. Cũng thế, hiện tại, chúng ta là những người đang sống trong mộng. Không phải là mộng nhỏ mà là trường kiếp đại mộng. Phật nói, tất cả chúng sanh đang sống trong mê mộng là thế. Đã sống trong mộng, thì mọi hoạt động của ta cũng đều là mộng cả. Từ ngoại cảnh cho đến thân tâm ta đều là mộng. Biết là mộng, nhưng thực tế chúng ta chưa thực sự tỉnh thức. Có tỉnh thức chăng, cũng chỉ là tỉnh thức từng chập, từng cơn. Nghĩa là hốt tỉnh, hốt mê. Được hốt tỉnh hốt mê cũng là khá. Có người suốt cả đời sống trong mê muội mà họ không hay biết. Họ không có một phút giây nào tỉnh thức. Họ cho tất cả đều là thật. Từ đó, họ tạo không biết bao nhiêu nghiệp ác, để rồi lãnh lấy mọi hậu quả khổ đau.
Pháp cú trên, Phật nói pháp “tối thượng” là pháp chân thật. Pháp nầy là tên khác của “bản thể” hay “bản tâm” của mỗi chúng ta. Pháp tối thượng là pháp không sanh diệt; là pháp thường trụ bất biến; là pháp mà chư Phật đã chứng và tất cả chúng ta đều sẵn có. Chúng sanh và chư Phật đều có giống nhau không sai khác. Chỉ sai khác là chư Phật tròn chứng, tức sạch hết vô minh phiền não. Ngược lại, chúng ta cũng sẵn có đó, nhưng vì mê mờ không nhận ra. Khác nào, Phật cùng chúng ta sẵn có chất vàng ròng. Thể chất của vàng thì giống nhau không khác. Nhưng chỉ khác là một cái đã hoàn toàn trong sạch và ra khỏi quặng, còn một cái thì còn đang ở trong quặng. Quặng nhơ là dụ cho vô minh phiền não. Chất vàng ròng là dụ cho Phật tánh. Chúng ta sẵn có Phật tánh sáng suốt đồng với Phật, nhưng vì bị vô minh phiền não che phủ quá sâu dầy, nên Phật tánh chúng ta tuy có đó, nhưng không hiển lộ được. Ngược lại, Phật thì hoàn toàn giác ngộ, như vàng hết quặng nhơ. Nhà Phật gọi là: Như lai tại triền và Như lai xuất triền.
Muốn cho chất vàng ròng hiển lộ, tất nhiên, mỗi ngày chúng ta phải gia công lau chùi bụi bặm. Sự gia công lau chùi đó, tức là mỗi người tinh tấn tu hành diệt trừ phiền não. Muốn diệt trừ phiền não cho có hiệu quả, tất nhiên, ta phải biện biệt biết rõ chân giả. Phải dùng trí huệ nhận rõ các pháp chỉ là giả tướng. Chúng chỉ là những cái bóng trong gương. Lâu nay, chúng ta nhận lầm bóng mà quên gương. Bây giờ, chúng ta y theo lời Phật dạy, dùng trí bát nhã quán chiếu cho thật rõ, nên bỏ bóng nhận gương. Tức không còn lầm chấp vọng tưởng cho là thật mình nữa. Đối với các pháp hiện đời cũng thế. Tất cả đều không thật, chỉ là ảo ảnh phù du mà thôi. Chúng ta phải dùng trí tuệ bát nhã thể nhận như thế. Lâu nay, sở dĩ chúng ta bị đau khổ triền miên là bởi do nhận lầm các pháp giả mà cho là thật. Từ đó, khởi sanh biết bao vọng chấp, tạo nghiệp. Ngày nay, nghe theo lời Phật, Tổ chỉ dạy, ta kiên quyết không còn nhận lầm nữa. Đã từ lâu, ta đã bị giặc vô minh đồng hóa. Nay, khi nhận diện ra chúng, quyết không để chúng lừa ta nữa. Người nào hằng sống được như thế, tức nhận ra được pháp tối thượng.
Một khi đã nhận được pháp tối thượng rồi, thì hành giả sẽ không còn đau khổ nữa. Khác nào mắt của hành giả đã được chữa trị lành mạnh trong sáng trở lại. Chừng đó, không còn nỗi vui mừng hạnh phúc nào hơn. Bấy giờ, hành giả sẽ không còn thấy hoa đốm lăng xăng như trước kia nữa. Mà hành giả sẽ thấy cả một bầu trời trong tạnh. Trước mắt hành giả là bầu trời xanh bao la. Bao nhiêu cảnh đẹp phơi bày trước mắt. Núi là núi, sông là sông. Mọi hiện tượng là như thế. Hành giả đến đây rồi, thì chỉ có mây trắng và trời xanh mà thôi.
Phẩm Ác
116. “Hãy gấp làm điều lành,
Ngăn tâm làm điều ác.
Ai chậm làm việc lành,
Ý ưa thích việc ác.”
117. “Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ.”Lược giải
116. Hãy gấp rút làm lành, chế chỉ tâm tội ác. Hễ biếng nhác làm lành giờ nào thì tâm liền ưa chuyện ác chừng ấy.
Hasten to do good; restrain your mind from evil.
He who is slow in doing good, his mind delights in evil.
Kệ Tụng
Hãy gấp rút làm điều lành
Ngăn tâm làm điều ác
Ai chậm làm việc lành
Ắt tâm ưa việc ác.
Lược giảng
Thiện và ác là hai phạm trù đối nghịch. Hễ có cái nầy thì không có cái kia. Đối nghịch như sáng và tối. Tuy chúng đối nghịch nhau như thế, nhưng cả hai đều phát xuất từ tâm. Như hiện tượng sáng và tối có ra cũng từ hư không mà có. Tâm, thì có tâm thiện và tâm ác. Các nhà Duy Thức phân tích tâm lý con người, họ chia chẻ ra tâm sở ác nhiều hơn tâm sở thiện. Những tâm sở thiện ác nầy, chúng thuộc quyền sở hữu của tâm vương. Vì là những kẻ tùy tùng, nên tâm vương có quyền ra lệnh sai sử chúng.
Vì trong tâm mỗi người ác nhiều hơn thiện, nên khi hiện hành ra bên ngoài, thì đương nhiên ác phải nhiều hơn. Bởi thế, nên không lạ gì, chúng ta thường thấy xã hội loài người có nhiều nổi loạn, chiến tranh. Con người tạo ra những điều bất thiện, từ nơi ba nghiệp: thân, miệng và ý. Trong ba nghiệp nầy là do ý nghiệp chủ động. Tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ đều do Ý thức sai sử. Công năng của ý là suy tư tính toán lợi hại. Nó suy nghĩ điều lành thì ít, mà suy nghĩ điều ác thì nhiều. Do nghĩ ác, nên nó sai sử thân làm ác và miệng nói ác. Từ đó, gây ra không biết bao nhiêu điều thảm họa cho nhơn loại.
Việc làm lành đối với con người thật khó khăn. Khó khăn như người trèo lên dốc núi cao. Ngược lại, làm ác thì rất dễ dàng như từ trên núi cao tuột xuống. Cho nên sách Nho có câu: “Tòng thiện như đăng, tòng ác như băng”. Nghĩa là: “Làm theo điều lành như trèo lên cao, làm theo điều ác như tuột xuống dốc”. Xưa nay, trong xã hội loài người, ta thấy những người hiền từ ít hơn những người hung dữ. Do đó, mà xã hội luôn xảy ra nhiều bất ổn. Thành phần tạo loạn nhiều hơn thành phần xây dựng. Kẻ xấu lúc nào cũng nhiều hơn kẻ tốt. Họ kết bè lập phái phá rối trật tự an ninh thường xuyên như cơm bữa. Tạo ác cũng có nhiều hạng trong xã hội. Nhưng dù hạng nào, cũng gây ra những xáo trộn bất an cho xã hội. Thế nên, bao lâu con người còn nghĩ ác, làm ác, thì bấy lâu con người vẫn còn phải chịu nhiều đau khổ.
Muốn giảm bớt khổ đau, không gì hơn, con người phải mau mau hướng thiện làm lành. Đồng loại không biết yêu thương tương trợ cho nhau, thì thử hỏi làm sao mọi người có thể vươn lên để sinh tồn? Muốn sinh tồn con người cần phải làm lành nhiều hơn.
Pháp cú trên, Phật dạy: Hãy gấp rút làm lành, chế chỉ tâm tội ác. Thời đại của Phật, dù sao, tâm ác của con người chắc hẳn không đến nỗi như hiện nay. Chứng minh là có nhiều người tu chứng. Những người có thiện duyên gặp Phật, được Phật giáo hóa, không bao lâu, họ đã tu hành chứng quả. Họ chuyển đổi tâm thức rất nhanh. Chuyển mê khai ngộ rất lẹ. Chứng tỏ lòng lành của họ nhiều hơn ác. Thiện căn của họ rất sâu dầy. Điều nầy, đọc sử Phật giáo chúng ta thấy rõ như thế. Thế mà, Phật còn khuyên bảo phải gấp rút làm lành.
Nhìn lại, xã hội loài người hiện nay ra sao? Ác tâm của con người gia tăng cực độ. Mặc dù bên họ vẫn còn có mặt các Tôn giáo. Nhưng khổ nỗi, không phải Tôn giáo nào cũng tốt hết. Nếu tốt hết, thì làm gì có xảy ra những cuộc thánh chiến. Trong quá khứ, lịch sử Tôn giáo cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy như thế. Dù bản chất của Tôn giáo là thánh thiện. Nhưng, những kẻ chủ trương và thừa hành Tôn giáo lại bất thiện. Do đó, họ hành động ngược lại. Họ nhân danh Tôn giáo để tàn sát lẫn nhau. Thế thì, tin vào ai đây? Tin vào tâm mình chăng? Phật dạy, tâm mình không thể tin được. Khi nào chứng quả A la hán mới có thể tự tin vì A la hán đã dứt hết phiền não. Niềm tin, nếu đặt không đúng chỗ, cũng rất là tai hại, nguy hiểm. Chỉ còn có một con đường duy nhứt, là tin ở nơi Phật, Bồ tát và A la hán. Những bậc nầy đã giác ngộ giải thoát. Phật là một bậc cho chúng ta đáng tin hơn cả. Tin ở nơi Phật, thì phải cố gắng làm theo những lời Phật dạy. Có hành trì đúng theo lời Phật dạy, thì chúng ta mới mong hết khổ.
Phật dạy: con người hãy gấp rút làm lành. Không cho những điều ác phát sanh. Nếu điều ác đã lỡ phát sanh, thì ta nên tìm cách tiêu diệt chúng. Ta hãy nhìn sâu vào tâm thức để chuyển đổi từng tâm niệm. Nghĩ lành, làm lành, đó là con đường thăng hoa thánh thiện. Không có con đường nào khác hơn, nếu con người muốn hết khổ. Nếu như mọi người, ai cũng tỉnh giác tu hành, thì lo gì thế giới nầy không được an bình.
Phật dạy: Hễ biếng nhác làm lành giờ nào thì tâm liền ưa chuyện ác giờ ấy. Sách Nho có câu: “Nhàn cư vi bất thiện”. Con người nhàn rỗi hay làm những việc bất lương. Đây là một tâm lý không thể chối cãi được. Bận rộn lu bu với công việc, không còn thời giờ nghĩ đến hay làm những việc sái quấy. Đó là một hiện thực. Có người nói làm công việc bận rộn khó tu. Lời nói nầy, nếu đứng về phương diện ứng dụng tu theo thời khóa tụng niệm, thì đúng. Còn đứng về phương diện ứng dụng tu giữ chánh niệm hay niệm Phật theo công việc làm, nói thế thì không đúng. Nếu vì bận rộn công việc không tu được, thì tại sao các vị vua chúa họ tu thành công. Thử hỏi công việc của chúng ta có bận rộn bằng các vị đó hay không? Họ bận rộn làm việc cả ngày lẫn đêm. Một ông vua phải giải quyết biết bao nhiêu công việc triều chánh, như trường hợp vua Trần Thái Tông chẳng hạn. Thế mà, khi Ngài khéo biết ứng dụng tu thiền trong mọi việc làm, kết quả Ngài đã được thành công. Đó là nói, khéo biết ứng dụng tu trong khi làm. Như thế, cũng vừa lợi mình và cũng vừa lợi người.
Ở đây, Phật khuyên con người ngoài việc tự tu ra, cần nên siêng năng làm những việc lành. Nhờ siêng năng làm việc giúp ích cho người, chúng ta mới có một niềm vui. Chính niềm vui đó là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta tạo nhiều thiện nghiệp hơn nữa.
Bởi thế, chúng ta thấy những người phát tâm làm việc thiện nguyện, họ đều có một niềm vui nhẹ nhàng trong tâm thức của họ. Chúng ta thấy đa số người tây phương, họ rất hăng say làm việc từ thiện. Họ thích phục vụ làm lợi ích cho xã hội, họ không ích kỷ. Dù họ không biết bố thí là gì. Nhưng, họ có tấm lòng yêu thương người. Họ trải rộng lòng bác ái ra. Lắm khi, chúng ta nói nhiều việc bố thí thương người, nhưng gặp việc thì chúng ta lại không bằng họ. Có khi nào chúng ta chịu khó đến từng nhà gõ cửa để xin từng đồng từng cắc của những người có tấm lòng tốt không? Không phải người nào cũng có tấm lòng tốt hết. Đến gõ cửa gặp người lịch sự không nói chi, nếu gặp người mất lịch sự, thì sao? Có buồn giận họ không? Việc nầy chúng ta có làm được không? Thế mà, người Tây phương thỉnh thoảng ta thấy có một số người họ tình nguyện làm việc nầy. Họ đến từng nhà xin, ai cho cũng tốt mà không cho cũng không sao. Cho hay không, họ vẫn tỏ thái độ vui vẻ, không tỏ thái độ bực bội khó chịu.
Có người, nhứt là thanh thiếu niên nam nữ trẻ tuổi, họ cầm lon đứng xin tiền ở các nơi công lộ. Đến ngãõ tư, đèn xanh đèn đỏ, xe ngừng lại, họ cầm lon đến từng chiếc xe một, ai có từ tâm thì cho, không có thì thôi. Cứ thế mà họ đứng ngoài trời, có khi giữa trưa trời nóng đổ lửa, hay có khi trời lạnh như cắt. Thế mà, họ vẫn vui vẻ tươi cười với công việc. Thật đây là một việc làm thiện nguyện đáng kính và một nghĩa cử đáng phục.
Thử hỏi, chúng ta có làm được việc nầy như họ không? Chúng ta hãy thử trả lời thành thật với chính mình. Đấy là hạnh làm lành tuy nhỏ, mà không phải dễ làm. Điều nầy là một sự thực. Xã hội rất cần những hạng người như thế, nhưng rất tiếc, những hạng người như thế không nhiều. Nếu số người nầy càng tăng nhiều chừng nào, thì xã hội loài người chắc chắn là sẽ giảm bớt khổ đau nhiều chừng đó. Hơn ai hết, họ ý thức cảm thông được nỗi khổ của con người. Vì họ là con người, một con người có đầy đủ chất liệu tình người. Họ cảm thông những điều bất hạnh của con người, cho nên, họ cố gắng làm lành. Cả đời, họ làm lành mà họ không bao giờ thấy đủ. Quả đúng như sách Nho nói: “Chung thân hành thiện, thiện dư bất túc, nhứt nhựt hành ác, ác tự hữu dư”. Câu nầy có nghĩa là: “Trọn đời làm lành, điều lành chưa đủ, một ngày làm ác, ác tự có thừa”. Người xưa nói: “Chớ thấy điều ác nhỏ mà làm, chớ nên thấy điều thiện nhỏ mà không làm”. Nước nhỏ từng giọt lâu ngày cũng đầy lu. Đó là điều mà mỗi người chúng ta nên nhớ và cố gắng thực hiện. Có thế, thì xã hội mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn lên.
117. Nếu đã làm làm ác, chớ tiếp tục làm thêm, chớ vui làm việc ác. Hễ chứa ác nhứt định thọ khổ.
Should a person commit evil, let him not do it again and again.
Let him not find pleasure therein, for painful is the accumulation of evil.
Kệ Tụng
Người lo làm điều ác
Chớ tiếp tục theo làm
Chớ vui trong điều ác
Chứa ác, tất thọ khổ.
Lược giảng
Hành động tạo ác là hành động bất an ổn cho mình và người. Một khi đã lỡ làm ác, thì lòng bối rối, ray rức, hối hận không vui. Nếu tạo ác vì vô tình, thì lòng không mấy gì ân hận lắm. Ngược lại, một hành động cố tâm gây tạo, thì đó là một trọng tội. Tội càng nặng, thì cõi lòng càng đau khổ luôn bất an. Kéo dài cuộc sống đau khổ, thì có khác nào sống trong cảnh địa ngục. Chính vì hiểu thấu tâm trạng đau khổ nầy, nên trong nhà Phật, Phật chế ra có nhiều loại giới luật. Mục đích của giới là : “phòng phi chỉ ác”. Nghĩa là ngăn ngừa những hành vi xấu ác.
Bản chất của con người, thích làm ác hơn làm lành. Vì căn bản phiền não của con người nhiều và nặng. Do đó mà con người mãi tạo ác. Muốn ngăn chận phần nào trong việc tạo ác nầy, nên Phật chế ra giới luật. Tùy theo căn tánh của mỗi người mà nhận giữ những giới luật khác nhau. Phải phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình đang sống.
Nhờ có giới luật, nên ngăn chận bớt những nghiệp ác của con người. Ở đây, Phật dạy: “nếu ai đó đã lỡ làm ác, chớ tiếp tục làm thêm”. Vì càng gây thêm, thì càng lún sâu vào tội lỗi. Như thế, thì con người chỉ chuốc thêm họa hại cho mình mà thôi. Một người vì lòng tham lam, cướp giựt đồ đạc của người khác, có thể lần đầu, anh ta không bị luật pháp truy nả bắt được. Nhưng, hành động của anh đã có bản án rồi. Anh đã có tên trong sổ bìa đen rồi. Nếu anh ăn quen tiếp tục gây tạo nữa, thì chắc chắn những lần sau, anh khó mà thoát khỏi được. Vì “chơi dao sẽ có ngày bị đứt tay”. Hay “đi đêm có ngày sẽ gặp ma”. Đó là những câu nói của người xưa. Lời nói nầy, phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của người xưa. Túi khôn của loài người dạy ta như thế.
Anh có thể thoát được luật pháp thế gian, nhưng còn luật nhân quả thì sao? Hẳn là luật nhân quả khó mà dung tha anh. Làm lành hay làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả. Luật nhân quả rất công bằng là ở chỗ đó. Nếu gây nhân mà không có quả, thì thế gian nầy sẽ trở thành đại loạn mất rồi ! Nghĩa là không còn là xã hội loài người nữa. Mọi người sẽ sống trong sự hỗn loạn đảo điên. Và rồi, con người không biết sẽ đi về đâu ?!!!
Nếu ai vì một phút giây mê muội, không kềm chế được lòng dục vọng sai sử, mà tạo ra nghiệp ác, thì Phật khuyên, nên hồi tâm cải hối và không nên tiếp tục làm ác. Có người, khi bước vào con đường tội ác, có đôi khi, họ cũng muốn hồi đầu thoát ra, nhưng cũng thật khó khăn. Khó khăn vì chung quanh họ còn có nhiều áp lực. Đó là nói những người còn có chút lương tâm phục thiện. Bởi những người nầy, bước đầu vì một hoàn cảnh lý do nào đó, nên họ mới sa chân mắc bẫy vào trong một tổ chức tội ác. Thật ra, lúc đầu, họ không phải là hạng người có tâm độc ác. Thực trạng nầy, ta thấy xảy ra rất nhiều trong xã hội.
Ngược lại, có người đã lỡ tạo ác, thì họ cho lỡ luôn. Họ không bao giờ dừng lại. Hạng người nầy, họ không có tâm phục thiện. Họ chủ trương đã làm thì làm tới nơi, để chứng tỏ cho mọi người thấy họ là anh hùng , một con người gan dạ không sợ chết. Họ bảo, dừng lại cũng chết. Đã lỡ phóng lau, thì phải theo lau. Họ cho rằng, đã leo lên lưng cọp rồi, thì không thể tuột xuống. Hạng người nầy, họ không có tâm cải hối. Họ thuộc hạng người cố chấp và cứng đầu. Họ coi việc làm ác, gây rối rắm, bất an cho xã hội, là một hành động thích thú, vì họ đã trả được mối thâm thù xã hội . Họ thù ghét xã hội vì họ bị đối xử bất công v.v. Nghĩa là, đối với hạng người nầy, họ có nhiều lý do viện dẫn để biện hộ cho việc làm của họ. Họ là hạng người thích vui làm ác. Nhưng họ quên rằng luật pháp khó dung tha họ. Lương tâm họ cũng không dung tha họ. Và luật nhân quả cũng không quên họ. Đã gây nhân ác rồi, trước sau mau chậm gì cũng phải bị trả quả mà thôi. Không một ai có tài cao bay xa chạy mà thoát khỏi. Nên nhớ câu : “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Nghĩa là, lưới trời lồng lộng chớ không lọt một ai. Điều nầy, hẳn mọi người đều biết rõ. Bởi vậy, trong câu Pháp cú trên Phật dạy : “Hễ chứa ác nhất định thọ khổ”.
Trong Kinh Phật dạy :
Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhơn duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ.
Nghĩa là :
Dù cho trải qua trăm ngàn kiếp
Chỗ tạo nghiệp không bao giờ mất
Một khi thời tiết nhân duyên đã đến
Thì quả báo phải tự thọ lấy mà thôi.
Xin mọi người khắc ghi sâu đậm lời dạy nầy. Có nhớ đến luật nhân quả như thế, thì con người mới bớt gây thêm tội ác. Chẳng những không gây tội ác, mà con người còn làm những điều phúc thiện. Nếu mọi người nghĩ lành và làm lành, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình, thì không những bản thân mình được lợi lạc an vui mà những người khác cũng được an vui như mình. Được thế, thì con người sống trong một cộng nghiệp an ổn hài hòa và hướng thiện. Đó là niềm ước vọng chung của nhơn loại. Mong sao mọi người, bất luận thành phần nào trong xã hội, nếu ai cũng làm theo những điều Phật dạy trên đây, thì chắc chắn mọi người sẽ chấm dứt khổ đau và cùng nhau sống trong sự an vui hạnh phúc. Thật là tốt đẹp biết bao ! Nhưng biết đến bao giờ kỳ vọng nầy mới mong đạt được ? !
118. “Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc.”
119. “Người ác thấy là hiền.
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác.”Lược giải
118. Nếu đã làm việc lành, hãy nên tiếp làm mãi, nên vui làm việc lành. Hễ chứa lành nhứt định thọ lạc.
Should a person do good, let him do it again and again. Let him find pleasure therein, for blissful is the accumulation of good.
Kệ Tụng
Người đã làm điều thiện
Nên tiếp tục mà làm
An vui trong điều thiện
Chứa thiện, tất an lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy ngược lại pháp cú trên. Phật khuyên bảo những ai đã làm lành, chớ nên bỏ cuộc, mà hãy tiếp tục làm mãi. Có người lúc đầu hăng say làm việc thiện, nhưng khi gặp một vài nghịch cảnh chướng duyên thử thách nào đó, thì họ liền thối thất đạo tâm và bỏ cuộc. Khi mới phát tâm, họ phát tâm rất mạnh. Họ làm bất kể khó khăn. Nhưng rất tiếc, chỉ mạnh được lúc đầu, nhưng sau đó, họ lại thối bước lần. Thậm chí, họ không còn làm nữa. Họ thuộc hạng người đầu voi đuôi chuột. Nghĩa là họ thiếu ý chí và lập trường. Hoặc giả, họ đặt mục tiêu không đúng chỗ. Họ làm vì háo danh, háo lợi, muốn có tiếng tăm trong xã hội. Vì thiếu lập trường và đặt sai mục tiêu, nên khi gặp chướng ngại là họ dễ thối chí nản lòng buông bỏ.
Việc làm lành, Phật dạy chung cho mọi người. Dù xuất gia hay tại gia cũng thế. Làm lành có nhiều phương diện và nhiều lãnh vực khác nhau. Nhưng làm lành dưới dạng thức nào, cũng nhằm mục đích lợi mình, lợi người, lợi vật hiện tại và mai sau. Người làm lành, tất nhiên, là người có tâm tốt. Nhưng tâm tốt không chưa đủ mà cần phải có tâm hỷ xả. Không nên để tâm vướng mắc vào việc mình làm. Làm mà còn có tâm chấp trước, thì việc làm lành đó còn có chấp tướng. Còn thấy việc mình làm quan trọng. Vì thấy quan trọng, nên dễ bị mắc kẹt vào sự khen chê.
Khen thì vui mà chê thì buồn. Còn vướng mắc trong niệm vui buồn, thì sự làm lành của mình khó đạt được thành công. Điều quan trọng là khi làm lành phải có tâm bền chí và nhẫn nại. Bền chí và nhẫn nại đó là hai đức tánh mà một người đã quyết tâm làm lành, vì lợi ích mọi người cần phải có.
Điều quan trọng nên nhớ là khi chúng ta làm những việc thiện nguyện giúp người. Phật dạy, chúng ta nên vui vẻ mà làm. Làm với tâm vui vẻ hoan hỷ, tất nhiên, là ai cũng thích. Chính mình được lợi lạc mà người khác cũng được lợi ích. Trái lại, làm với tâm bực dọc, nổi cáu, quạu quọ, nóng nảy, thì chẳng những thiệt hại cho mình mà còn làm mất thiện cảm ở nơi người khác. Có lắm người, khi làm việc thiện mà không được người ta ưa thích cảm tình cũng với lý do đó. Họ tỏ thái độ khinh thường người khác. Khi trái ý nghịch lòng là họ liền nổi sân la ó nạt nộ om sòm. Họ dùng lời lẽ nặng nề mạt sát mọi người. Vì họ thấy họ là quan trọng. Họ làm với tâm cống cao ngã mạn. Như những trường hợp họ đi ủy lạo, phát thuốc, tặng quà v.v. chẳng hạn. Trường hợp nầy, ta thấy xảy ra rất nhiều.
Ngược lại, có người họ làm với một ý thức trong sáng và với tâm khiêm cung trân quý mọi người. Họ âm thầm cặm cụi mà làm. Họ vui thích với công việc. Họ không màng ai biết đến họ. Ai biết đến họ cũng tốt mà không biết đến họ cũng không sao. Họ nghĩ đơn giản, họ tự biết họ là được rồi. Đối với mọi người, họ rất vui vẻ. Hạng người nầy, họ rất dễ gây cảm tình với những bạn đồng nghiệp. Những ai làm chung với họ, cảm thấy có một niềm vui tươi mát. Tâm hồn mọi người đều thoải mái, cười nói tự nhiên. Ai nấy cũng đều thích mến họ. Họ khéo léo trong việc cư xử với mọi người. Họ thật tâm phục vụ cho mọi người. Mọi người vui, tức là họ vui. Thật đây là hạng người hiếm có. Đây là hạng người thật sự làm lành và làm với tâm ý như thế, thì chắc chắn là họ sẽ được tăng thêm phước đức. Tập làm lành với tâm ý như thế, không những mình được lợi lạc mà còn đem lại sự lợi lạc cho mọi người. Hạng người nầy, thật đáng cho chúng ta kính trọng và cũng đáng để người khác noi theo.
Lời Phật dạy tuy đơn giản, chỉ có mấy chữ thôi, nhưng thực tế, không phải dễ gì thực hiện. Cũng một việc làm, nếu không khéo, thay vì có công mà trở thành có tội. Công hay tội đều từ tâm phát khởi. Làm với tâm hoan hỷ, không dính mắc chấp trước vào việc mình làm, thì việc làm đó rất là có phước. Bằng ngược lại, thì chẳng những không có phước báo mà còn thêm tội. Thêm tội ở chỗ cái tâm bất bình. Đối với mọi người, tất nhiên là không ai ưa thích.
Câu kế tiếp Phật dạy: “Hễ chứa lành nhất định thọ lạc”. Tại sao chứa lành mà được thọ lạc? Vấn đề nầy, chúng ta cần phải lưu tâm tìm hiểu thật rõ. Chứa lành là chứa ở đâu? Điều lành có hình tướng hay không mà chứa? Dùng cái gì để chứa? Cái gì phát khởi thúc đẩy chúng ta làm lành? Và sau khi làm lành, Phật nói hễ chứa lành nhất định thọ lạc. Vấn đề nầy có liên quan đến Duy thức học. Theo Duy thức, mỗi người chúng ta đều có Tám thức tâm vương. Tám thức đó là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, Mạt na và A lại da. Trong tám thức nầy, thì thức A lại da làm căn bản cho các thức. Thức A lai da, có ba nghĩa: năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng.
Năng tàng nghĩa là thức nầy có công năng hay chứa các chủng tử thiện ác. Sở tàng là chỗ để chứa các chủng tử thiện ác. Ngã ái chấp tàng là thức nầy bị thức thứ bảy (Mạt na) chấp làm tự ngã.
Như vậy, thức A Lại da còn gọi “trì nghiệp chủng tử”, nó có công năng gìn giữ tất cả chủng tử thiện ác. Mọi hành động, lời nói thiện hoặc ác, đều huân vào trong tạng thức nầy. Cho nên, nó là cái kho để chứa các chủng tử. Chủng tử là tên khác của tập khí. Những tập khí được chứa nhóm trong thức nầy, đến khi thuần thục, thì cái nào mạnh, cái đó hiện hành và dẫn nghiệp. Như người ghiền rượu, đến cơn ghiền họ tự đi tìm rượu để uống. Hoặc vào quán rượu hoặc đi tìm bạn bè hay bất cứ nơi đâu miễn có rượu uống là được. Đấy gọi là nghiệp ghiền rượu. Hạt giống rượu của họ được huân vào trong thức A lại da quá mạnh. Hiện đời như thế, thì sau khi chết cũng thế. Nghiệp nào mạnh dẫn họ đi trước để thọ sanh. Cứ tùy duyên mà chiêu cảm thọ báo. Ngược lại, người nào trong đời sống hằng ngày, huân tập nhiều hạt giống lành vào trong A lại da thức, như niệm Phật chẳng hạn, đến khi thuần thục, chính thói quen niệm Phật nầy, hiện đời họ được an lạc và sau khi nhắm mắt nó dẫn họ thọ sanh vào cảnh giới lành. Bởi thế nên Phật nói: Hễ chứa lành nhất định thọ lạc là vậy.
119. Khi nghiệp ác chưa thành thục, kẻ ác cho là vui; khi nghiệp ác đã thành thục, kẻ ác mới hay là ác.
It may be well with the evil-doer as long as the evil ripens not. But when it does ripen, then the evil-doer sees (the painful results of) his evil deeds.
Kệ Tụng
Ác nghiệp chưa thuần thục
Người ác vẫn thấy vui
Ác nghiệp thuần thục rồi
Người ác mới thấy ác.
Lược giảng
Người đời vì không rõ luật nhân quả, hay có hiểu đi chăng nữa, nhưng vì si mê, tham lam nên họ cũng vẫn gây tạo việc ác. Trong khi gây tạo việc ác, họ không nghĩ gì đến nhân quả. Vì ham lợi lộc hay danh vọng mà họ bất chấp những thủ đoạn gian ác. Họ tìm đủ mọi cách hãm hại người khác. Ai đau khổ mặc ai, miễn sao họ sung sướng là được. Nhưng họ quên rằng, không một ý nghĩ, lời nói hay hành động nào mà có thể thoát khỏi luật nhân quả.
Trong lịch sử nhơn loại, từ cổ chí kim, đã chứng minh cho chúng ta thấy vấn đề nầy quá nhiều. Một Tần Thủy Hoàng, vì muốn xây dựng cơ đồ vương nghiệp cho được lâu dài, nên ông đã bất chấp mọi thủ đoạn gian ác, nào là xây Vạn lý trường thành, đốt sách chôn học trò v.v. Ông đã hạ lệnh giết chết biết bao người. Sử ghi lại, thời gian xây Vạn lý trường thành để chống giặc Hung nô, số người lao công tử vong vì công việc nầy lên đến hằng triệu người. Kết quả, cuộc đời và vương nghiệp của ông ra sao? Có được tồn tại lâu dài hay không? Hay là sau đó, để lại một hậu quả vô cùng khốc hại!
Một Ngô Đình Diệm, vì muốn cũng cố quyền uy tột bực, địa vị cai trị của ông và gia đình cho thật vững chắc, đồng thời lại thêm kỳ thị tôn giáo, nên ông và gia đình ông đã ra tay hạ sát, tiêu diệt không biết bao nhiêu người thuộc các đảng phái quốc gia yêu nước đối lập khác và tệ hại hơn nữa, là sát hại nhiều người dân vô tội. Cuối cùng, ông và gia đình ông đã phải trả một cái giá rất đắt. Ông và người bào đệ thân cận cố vấn cho ông, tức người em ruột của ông là ông Ngô Đình Nhu bị chết một cách rất thê thảm. Điều nầy, đã có nhiều sách sử ghi lại chứng minh rất rõ ràng. Thế mới biết, luật nhân quả thật không thiên vị một ai. Người ta thường nói “ngày xưa trả báo thì chầy (lâu) ngày nay trả báo phút giây nhãn tiền”. Đã thế, nhưng khổ nỗi, trong khi tạo ác, người ta cứ nghĩ đến quyền lợi, danh vọng, địa vị, chức tước, giàu sang v.vkhông thôi, có mấy ai nghĩ đến nhân quả tội ác mà mình đã gây tạo đâu. Chừng nào trả quả rồi sẽ hay! Càng giết chết nhiều người chừng nào, họ lại càng thích thú nhiều chừng nấy. Xưa nay, các nhà lãnh đạo cai trị với tâm ác độc nào cũng thế. Họ nhân danh chủ nghĩa nầy nọ, toàn là những thứ giả tạo, để sát hại vô số sanh linh. Nói là ích nước lợi dân, nhưng thực tế là vì quyền lợi, địa vị cho cá nhân của họ hơn. Họ thuộc hạng người vị kỷ số một. Bản ngã của họ quá cao lớn.
Họ đã gây ra biết bao đau khổ cho mọi người. Họ vui sống trên những nỗi thống khổ kêu than ngút ngàn của những người khác. Họ không bao giờ có chút từ tâm đoái hoài thương tưởng. Nhưng than ôi! Trong khi gây nhân bất thiện như thế, họ lại quên đi cái quả báo đã có sẵn trong cái nhân mà họ đã gây tạo rồi, chẳng qua nó tới với họ mau hay chậm mà thôi. Vì nhân quả phải trải qua thời gian. Khi quả báo chưa thuần thục, người ta cứ ngỡ là không có. Nhưng thực ra, nó không sai chạy một mảy may nào!
Cứ nhìn vào sự sống của con người xưa và nay, đã có biết bao tấm gương xấu có, tốt có, cho chúng ta thấy rõ. Và gần hơn hết là qua kinh nghiệm nhân quả bản thân của mỗi người. Ít nhiều gì, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ thấy rõ. Thiết nghĩ, hơn ai hết, chúng ta nên bình tâm xét kỹ soi rõ ôn lại những hành động nhân quả của chính mình. Có soi rõ như thế, ta mới có cái nhìn thẩm thấu về luật nhân quả. Có sợ nhân quả, ta mới biết cải hối làm lành. Ta mới ý thức từng lời nói và việc làm. Ta mới thực sự xây dựng đời ta theo chiều hướng vươn lên để trở thành những con người tốt cho hiện tại và mai sau. Nếu không, thì đời ta sẽ mãi mãi đi trong khổ đau. Vì không có cái nhân nào mà không có cái quả. Và ngược lại, cũng không có cái quả nào mà không có cái nhân. Muốn có cuộc sống an vui cho mình và người, thì ta nên hằng tâm niệm về luật nhân quả. “Ngừa bệnh bao giờ cũng hay hơn là chữa bệnh”. Ta nên nhớ câu “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Tránh nhân ác, thì không bao giờ có quả ác. Bất cứ làm điều gì, dù lớn hay nhỏ, dù quan trọng hay không, ta cũng nên nằm lòng câu: “Phàm làm việc gì trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó”. Đây là một câu nói có giá trị ngàn vàng. Người ta đã bỏ ra cả ngàn lượng vàng mua câu nói nầy, nhưng xét kỹ thật cũng chưa xứng đáng.
Bất cứ ai, thuộc thành phần nào, nhớ và áp dụng thường xuyên câu nói nầy, thì chắc chắn, người đó sẽ chỉ gặt hái những kết quả tốt đẹp không thôi và không bao giờ có thất bại trong lời nói và việc làm. Ngược lại, thì họ sẽ chuốc lấy những khổ đau mà do họ đã gây ra. Chừng đó, dù có ăn năn hối hận, thì cũng đã muộn màng rồi. Bởi thế, nên Phật dạy: khi nghiệp ác đã thành thục (chín mùi), kẻ ác mới hay là ác. Pháp cú nầy, Phật nhằm cảnh tỉnh cho mọi người nhớ mà đừng gây tạo nghiệp ác.
120. “Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi.
Khi thiện được chín muồi,
Người hiền thấy là thiện.”
121. “Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng “chưa đến mình “,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần.”Lược giải
120. Khi nghiệp lành chưa thành thục, người lành cho là khổ; khi nghiệp lành đã thành thục, người lành mới biết là lành.
It may be ill with the doer of good as long as the good ripens not. But when it does ripen, then the doer of good sees (the pleasant results of) his good deeds.
Kệ Tụng
Thiện nghiệp chưa thuần thục
Người thiện vẫn thấy ác
Thiện nghiệp thuần thục rồi
Người thiện mới thấy thiện.
Lược giảng
Pháp cú nầy trái lại với pháp cú trên. Một bên làm ác đưa đến quả ác và một bên làm lành sẽ đưa đến quả lành. Nhưng có điều, Phật muốn nhấn mạnh cho chúng ta thấy, khi làm lành mà quả lành chưa đến, thường thì chúng ta dễ đâm ra chán nản. Có người cả đời chăm làm những điều lành, lẽ ra, họ sẽ luôn luôn gặt hái quả lành mới phải. Nhưng, đôi khi, nó ngược lại. Chẳng những họ không hưởng quả lành như họ đã gây tạo, mà họ toàn gặp những chuyện tai bay họa gởi không thôi. Thế thì, họ than trách cho rằng, làm lành chi cho nhọc xác, để rồi lãnh lấy toàn là những thứ ác không! Ngược lại, có những người cả đời họ làm ác, mà sao đời sống của họ toàn gặp những điều lành, nói theo người đời là toàn gặp vận may. Như thế, thì luật nhân quả có công bằng không? Lắm người, vì chưa nghiên cứu kỹ, hiểu rõ nhân quả qua ba đời, nên họ dễ thắc mắc và đâm ra chán nản ngã lòng. Từ đó, họ bất mãn và không còn tin nhân quả nữa. Thật ra, đây là một điều ngộ nhận sai lầm đáng tiếc. Đó là điều người Phật tử cần phải hiểu rõ. Nếu không, thì dễ thối thất bồ đề tâm.
Như trong những bài trước, nhiều lần chúng tôi cũng đã có trình bày qua về vấn đề nầy. Vì nhân quả không phải đơn giản, nó rất phức tạp. Nó đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ và rõ ràng. Nếu bảo rằng, nhân nào quả nấy, thì lời nói đó chưa hẳn đúng. Chỉ đúng một phần nào mà thôi. Bởi từ nhân tới quả, nó còn đòi hỏi phải có nhiều trợ duyên. Duyên thì có duyên tốt, duyên xấu, hoặc thuận duyên và nghịch duyên. Nếu khi gây nhân mà không thuận duyên, thì chưa chắc cái chánh nhân đó hình thành như ý mình muốn được. Thí dụ: gieo hạt cải xuống đất, mà ta không chăm sóc kỹ càng, bị kiến tha hết, như thế, thì làm sao có kết quả cây cải được. Như vậy, muốn có kết quả cây cải, tất nhiên, phải có nhiều trợ duyên và thuận duyên tốt mới được. Ngoài ra nó còn đòi hỏi thời gian, ngắn dài, tùy theo hạt nhân đã gây tạo.
Như trên đã nói, nhân quả phải trải qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Như đời trước mình tạo toàn nhân ác, theo nhân quả, thì đời nầy sanh ra phải trả quả ác. Thí như, năm rồi mình toàn gieo giống ớt, thì năm nay, mình muốn có lúa ăn sao cho được? Có người, đời nầy làm lành mà gặp toàn việc ác, đấy là do nghiệp nhân ác gây tạo trong nhiều đời đến nay quả ác đã thuần thục cho nên phải trả. Còn cái nhân lành chỉ mới gây tạo trong đời nầy nên nó chưa thuần thục, mà phải chờ thời gian, có khi qua đời sau hoặc nhiều đời sau nữa mới thuần thục. Khi nó thuần thục, tức chín mùi là ta phải trả quả mà thôi. Thí như, năm rồi ta không có gieo hạt lúa, tất nhiên, là ta không có lúa đổ vào bồ. Mà ta mới ra công gieo trồng năm nay thôi. Như vậy, từ khi gieo hạt cho tới có kết quả cây lúa và đến khi gặt hái đổ vào bồ còn phải chờ thời gian. Ngược lại, có người, tuy năm nay, họ không gieo trồng lúa, nhưng họ vẫn có lúa ăn, đấy là do năm rồi họ đã gieo trồng. Cũng thế, những người đời nầy, tuy làm lành mà gặp nhiều quả ác là do đời trước đã gây nhân ác phải trả. Cũng như năm rồi không cấy lúa, tất nhiên, năm nay họ phải đói khát. Còn những người hiện đời họ gây tạo nhiều điều ác đức, nhưng họ vẫn hưởng quả lành, là do đời trước họ gây tạo nghiệp lành, nên đời nay họ hưởng. Tuy nhiên, cái nhân gây tạo ác hiện đời, chắc chắn đời sau hoặc nhiều đời sau nữa họ sẽ phải trả thôi. Cũng như năm rồi, họ đã gieo lúa và có nhiều lúa đổ trong bồ, năm nay tuy họ không gieo, nhưng sẵn có lúa trong bồ cứ ăn. Đến khi hết lúa, sang năm tới chắc chắn là họ phải đói khổ.
Hiểu nhân quả qua ba thời gian như thế, tất nhiên, ta không còn thắc mắc nữa. Do đó, nếu ngày nay, ta chăm lo làm lành mà gặp nhiều quả khổ, thì ta nên an vui mà trả quả. Đừng trách ai! Tất cả tốt xấu đều do ta tạo lấy. Luật nhân quả rất công bằng là ở chỗ đó. Cho nên Phật dạy, khi chúng ta làm lành mà quả lành chưa đến, thì chúng ta cũng không nên than trách. Bởi vì quả lành chưa thuần thục. Khi nào, nghiệp lành mà ta đã gây tạo, đến một lúc nào đó nó thuần thục, thì dù chúng ta không muốn nó vẫn đương nhiên cứ tới. Người hiểu rõ nhân quả rồi, thì họ vẫn vui sống. Bởi tất cả chính do mình gây tạo. Mình phải chịu trách nhiệm với chính mình. Không oán trời trách đất. Không đổ trút cho ai. Mọi việc thành bại, đắc thất đều do mình tạo lấy. Hiểu vậy rồi, ta cứ lo tạo nghiệp lành. Nếu như ta đang làm lành mà quả dữ cứ tới dồn dập ập lên đầu chúng ta, chúng ta cứ coi đó như là một sự dồn nghiệp phải trả. Trả một lần cho hết nợ. Người trả nợ là vì họ có tiền. Trước kia, họ vì nghèo túng phải chạy vay nợ để sinh sống. Nay làm ăn có tiền rồi, tất nhiên, những người chủ nợ tới đòi. Trước kia, họ không tới đòi là vì họ thừa biết dẫu có đòi, thì người kia cũng không có tiền đâu mà trả. Cũng thế, sở dĩ chúng ta trả quả dồn dập hết chuyện nầy tới chuyện nọ, là do vì chúng ta ra sức siêng năng tu hành, nên có phước. Khi đã có phước, như người có tiền, thì những nghiệp nhân đã gây tạo từ trước phải trả. Thử hỏi, một người trả hết nợ thì có nên vui hay không? Trong đời, những người thiếu nợ người ta, sau khi thanh toán hết nợ nần, đó là một sự vui mừng hết lớn. Có ai trả hết nợ mà buồn không? Như vậy, tại sao ta không vui để trả nợ?
121. Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng “chẳng đưa lại quả báo cho ta”. Phải biết giọt nước nhểu lâu ngày cũng nay bình. Kẻ ngu phu sở dĩ nay tội ác bởi chứa dồn từng chút mà nên.
Think not lightly of evil, saying, “It will not come to me”. Drop by drop is the water pot filled. Likewise, the fool, gathering it little by little, fills himself with evil.
Kệ Tụng
Chớ khinh điều ác nhỏ
Cho rằng “chưa đến mình”
Như giọt nước nhỏ dần
Lâu ngày cũng đầy bình
Người ngu si cũng vậy
Dần dần ác chứa đầy.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy nhằm cảnh giác thức nhắc chúng ta. Thông thường, người ta thích phô trương làm những việc lớn chuyện. Ít có ai chú ý đến những việc nhỏ nhặt. Nhưng người ta quên rằng, nếu không có những việc nhỏ nhặt, thì không thể hình thành một việc lớn lao được. Cũng như thấy một đống cát, người ta nghĩ ngay đến số lượng to của nó, chớ không mấy ai nghĩ đến từng hạt cát. Nhưng thực tế, nếu không có từng hạt cát kết hợp lại, thì làm gì có ra một đống cát to. Ấy thế mà, người ta cứ nhìn trên cái kết quả to lớn, mà người ta không chú ý đến những hạt nhân nhỏ nhiệm. Thử đặt vấn đề ngược lại, nếu không có những hạt nhân nhỏ nhiệm, thì làm gì có cái kết quả to lớn kia. Ở đời, ít có mấy ai nhìn thấu suốt được vấn đề nầy. Từ lối nhìn hời hợt cạn cợt đó, mà họ đâm ra khinh thường những điều nhỏ nhặt. Phật dạy, việc lành hay việc dữ, tất cả cũng bắt nguồn từ những hành động hay lời nói nhỏ nhặt rời rạc kết hợp lại mà thành to lớn.
Người đào giếng, lúc đầu không thấy nước. Họ tưởng nước không có bao nhiêu. Nhưng qua ngày hôm sau, họ trông thấy đầy cả giếng. Nước đó từ đâu mà có? Tại sao lúc đầu không thấy gì, mà sau lại nhiều nước như thế? Nước có ra từ mạch nước. Càng đào sâu vào lòng đất chừng nào, thì càng có nhiều mạch nước chừng ấy. Như vậy, chính những mạch nước chảy rịn ra, người ta gọi là lỗ mội. Nhờ những lỗ mội nhỏ nầy mà nó cứ ngày đêm rỉ chảy. Trải qua thời gian, kết quả có ra đầy cả giếng nước. Người có cái nhìn cạn cợt, họ chỉ biết giếng nước để xài, chớ chẳng màng tìm hiểu nước có ra từ đâu? Tức là họ chỉ nhìn trên cái kết quả mà họ không chịu khó nhìn lại cái nguyên nhân. Có thể họ khinh thường những cái nguyên nhân nhỏ kia. Mà chính cái nguyên nhân nhỏ đó, họ không ngờ nó lại là một kết quả rất lớn.
Một người cầm vũ khí giết người hoặc dao hay súng v.v. không phải một sớm một chiều mà họ có tâm sát hại gớm ghê đó. Mặc dù hành động nầy đều từ do lòng sân hận mà ra. Tuy nhiên, lòng sân hận đó, kết quả cũng từ do sự huân tập từng việc nhỏ nhặt mà thành tập khí lớn. Tập khí là thói quen. Như lúc đầu, khi còn nhỏ, họ đã khởi lên những niệm ác, như bắt châu chấu, bắt dế cho chúng đấu đá với nhau, con nào bị đá thua, thì chúng ngắt đầu quăng xuống đất v.v. Lớn hơn chút, thì họ lại dùng dàn thun để bắn chim, hay dùng nôm để bắt cá. Từ những ác niệm nho nhỏ đó, mới nhìn qua thì ta thấy không có gì, nhưng chính đó là nguyên động lực để trở thành một thói quen sát sanh hại vật lớn sau nầy. Đến khi lớn lên, họ quen theo niệm ác đó, mà có thể đi đến giết người không chút gớm tay. Tất cả cũng từ ở nơi những niệm ác và những hành vi ác nhỏ tạo thành. Khi thói quen đã thuần thục rồi, nó có một tác hại rất ghê tởm, khủng khiếp. Vì Phật quá hiểu rõ cái tâm lý và những cái thói quen hung ác nhỏ nầy, để rồi dần dần trở nên tánh hung dữ, nên Phật dạy: Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng chẳng đưa lại quả báo cho ta.
Kế tiếp, Phật nêu ra cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cụ thể. Phật nói: Phải biết giọt nước nhểu lâu ngày cũng đầy bình. Đại đa số chúng ta, hay có niệm khinh thường những lỗi nhỏ. Cứ cho cái gì lớn mới là quan trọng. Nhưng nếu không có nhỏ thì làm sao có lớn. Không có từng giọt nước nhểu vào bình, thì làm gì có kết quả đầy bình. Một lời nói ác, lúc đầu thấy như không có gì, nhưng nếu chúng ta cứ tiếp tục như thế, tất nhiên, nó sẽ trở thành một tai hại vô cùng. Người xưa nói: “Lời nói ác, như búa ở trong miệng”. Sở dĩ chém mình là do chúng ta bất cẩn ngôn mà ra.
Hút một vài điếu thuốc hay uống một vài ly rượu, lúc đầu, thật sự, không thấy gì là tai hại cả. Nhưng, nếu chúng ta không biết ngăn ngừa, cứ để thói quen đó tiếp diễn, lâu ngày sẽ trở thành bệnh ghiền. Một khi đã trở thành bệnh ghiền nặng rồi, thì chừng đó khó phương chạy chữa. Một khi cơn ghiền nổi lên, thì phải làm sao cho nó thỏa mãn. Có biết bao người, vì lúc đầu xem thường những thói quen có tác dụng tai hại nầy, nên sau khi bị lún sâu vào, thì than ôi! Bấy giờ, chẳng những hại mình mà còn gây ra biết bao khổ cảnh cho những người chung quanh khác nữa! Điều nầy, đã và đang xảy ra như cơm bữa. Họ chết vì rượu, vì bài bạc, vì ma túy, vì cướp bóc, vì đam mê sắc dục vân vân và vân vân. Còn và còn biết bao nhiêu thảm cảnh khác. Tất cả cũng chỉ vì khinh thường những thói quen nhỏ. Cứ cho rằng, chúng là những giọt nước rỉ chảy không sao. Đến khi đầy bình hay đầy giếng, thì than ôi! Đã quá muộn rồi! Bởi thế, kết thúc câu pháp cú nầy, Đức Phật dạy: Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng chút từng chút mà nên.
Lời dạy nầy như là một câu châm ngôn mà ta phải nằm lòng nếu ta không muốn tiếp tục làm người ngu. Chỉ có người ngu mới khinh thường những điều ác nhỏ. Ngược lại, người trí thì rất sợ. Vì rất sợ, nên họ không bao giờ dám có niệm khinh thường. Họ tiêu diệt những niệm xấu ác từ trong trứng nước. Tiêu diệt nhân, thì làm gì có quả. Người trí bao giờ họ cũng nghĩ đến cái nhân nhiều hơn. Họ lo chỉnh hình hơn là sửa bóng. Nhờ thế, mà họ ít có khổ lụy. Ngược lại, kẻ ngu thì nghĩ tới sửa bóng mà quên chỉnh hình. Bóng có ra từ hình. Quả có ra từ nhân. Ai cũng sợ quả mà không lo sửa ở nơi nhân. Đó là sự khác biệt giữa kẻ trí và người ngu. Người trí là người nhìn rõ cái gốc của nó. Biết gốc khổ đau, họ không dại dột gì gây tạo. Nhờ thế mà họ vượt qua mọi ách nạn. Và đời sống của họ sẽ đem l?i nhiều hạnh phúc an vui. Như thế, khổ hay vui, ngu hay trí, đều do con người tự chọn và tự quyết định lấy.
122. “Chớ chê khinh điều thiện
Cho rằng “Chưa đến mình, ”
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.”
123. “Ít bạn đường, nhiều tiền,
Người buôn tránh đường hiểm.
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy.”Lược giải
122. Chớ khinh điều lành nhỏ cho rằng: “chẳng đưa lại quả báo cho ta”. Phải biết giọt nước nhểu lâu ngày cũng làm nay bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng chút từng chút mà nên.
Think not lightly of good, saying, “It will not come to me.” Drop by drop is the water pot filled. Likewise, the wise man, gathering it little by little, fills himself with good.
Kệ Tụng
Chớ khinh điều thiện nhỏ
Cho rằng “chưa đến mình”
Như giọt nước nhỏ dần
Lâu ngày cũng đầy bình
Người có trí cũng vậy
Dần dần thiện chứa đầy.
Luợc giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tương phản với pháp cú trên. Pháp cú trên, Phật nói rõ về kẻ ngu. Đã ngu, cho nên họ hay khinh thường những điều ác nhỏ. Từ đó, mà dẫn đến những hậu quả rất tai hại cho mình và người.
Ở đây, Phật nêu rõ hình ảnh của kẻ trí. Như trên, chúng tôi có nói sơ qua về sự ý thức và hành động của người trí. Người trí, vì họ ý thức được luật nhân quả báo ứng một cách đúng đắn, nên họ không dám khinh thường những điều lành nhỏ. Đối với người trí, điều ác nhỏ, họ không làm đã đành, nhưng đối với những điều lành nhỏ, họ cũng không thể bỏ qua. Bởi vì họ biết chắc rằng, giọt nước nhểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Họ làm và giữ đúng như lời Phật dạy.
Nhưng việc lành nhỏ là như thế nào? Vấn đề nầy, thật có thiên hình vạn trạng, không thể kể ra cho hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra một vài hình ảnh làm lành nhỏ nhặt, mà chúng ta thường thấy qua, để từ đó, chúng ta chiêm nghiệm kỹ hơn.
- Một người đi đường, thấy một cây gai hay một miểng chai nằm giữa đường, họ liền khum xuống nhặt liệng vào trong bụi cây rậm. Nhờ thế, mà người khác không sơ ý đạp nhầm để gây ra thương tích đau đớn.
- Một cô thiếu nữ, thấy cụ già muốn băng qua đường, nhưng có v? sợ sệt, cô liền đến nắm lấy tay cụ và dìu qua bên kia đường một cách an toàn. Cụ ngỏ lời cám ơn cô ta r?i rít.
- Một người đến chùa làm công quả giúp cho chùa những chuyện lặt vặt như lặt rau, lượm rác hay lau quét v.v.
- Một cụ già cầm lá đơn trên tay, nhưng rất lo lắng không biết phải điền như thế nào, đang lúc lo lắng đó, thì có anh A đến giúp cho cụ điền giùm. Thế là cụ ta cảm thấy nhẹ nhỏm trong lòng và bao nhiêu sự lo lắng đều tan biến hết.
Đó là những điều lành thật nhỏ nhặt mà ai cũng có thể làm được. Chỉ cần có một tấm lòng từ thiện thương và giúp người là được.
Thuở xưa, Ngài Trì Địa Bồ tát đối với những điều lành nhỏ như thế, Ngài không bao giờ bỏ qua. Ngài thường hay đắp đường sửa cầu. Nghĩa là Ngài làm bất cứ điều gì nhằm lợi ích cho tha nhân, thì dù việc lớn hay việc nhỏ, có khó nhọc đến đâu, Ngài cũng kiên nhẫn làm không bỏ qua. Nhờ thế, mà Ngài có tên là Trì Địa Bồ tát. Chữ Trì Địa có nghĩa là giữ gìn đường xá cho được sạch s?û, bằng phẳng và cho mọi người dễ đi. Do Ngài chuyên làm những việc nhỏ nhặt như thế, nên được người đời tán thán và kính trọng, gọi Ngài là Bồ tát Trì Địa. Như vậy, Bồ tát là một con người rất bình thường và rất gần gũi với chúng ta. Bất cứ ai, làm với một tâm niệm nhắm vào mục đích lợi ích cho tha nhân, đều gọi là Bồ tát. Bồ tát là một con người giác ngộ. Sau khi giác ngộ, đem sự giác ngộ đó giúp cho mọi người bớt khổ được vui, đó là Bồ tát.
Kinh Pháp Hoa có nêu ra hình ảnh của Ngài Thường Bất Khinh Bồ tát. Ngài là một con người kỳ đặc. Việc làm lành của Ngài cũng rất là nhỏ nhặt. Đi đâu, gặp ai, Ngài cũng chấp tay xá mọi người và chỉ nói một câu ngắn gọn: “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài sẽ là Phật”. Đã là Phật, tức Ngài muốn chỉ cho chúng ta biết mỗi người đều có sẵn Phật nhân, tức cái chánh nhân để thành Phật. Ngài luôn nhắc nh? mọi người như thế. Chỉ nhắc nhở cho mọi người nhớ lại ông Phật của chính mình. Nếu mọi người biết xoay lại và nhận ra tánh Phật đó, rồi tu hành, tất có ngày sẽ được thành Phật. Việc làm mới nhìn qua, thật là nhỏ nhặt, tầm thường, nhưng xét kỹ, thì thật là vô cùng quan trọng.
Làm với một tâm thành như thế, nhưng Ngài phải hứng chịu biết bao nhiêu điều sỉ nhục. Ngài đã bị mọi người khinh bỉ và đánh đập mắng nhiếc. Thế nhưng, Ngài luôn nhẫn nhịn và không bao giờ bỏ cuộc. Bởi thế, người đương thời mới đặt cho Ngài cái tên là Thường bất khinh. Nghĩa là luôn luôn chẳng dám khinh thường ai, dù đó là một đứa bé hay một kẻ cùng đinh.
Đến như đức Phật, dù đã thành Phật rồi, nhưng đối với những điều lành nhỏ, Ngài cũng không bỏ qua. Có lần, Ngài giúp xỏ kim cho một bà già. Ngài cũng đã từng giúp vá lại chiếc y cho Ngài A na luật. Vì Ngài A na luật bị mù đôi mắt. Ngoài việc giúp người ra, Ngài còn thương và giúp cho loài vật. Như có lần Ngài ôm vào lòng một con bồ câu đã bị trúng tên. Sau khi nh? mũi tên ra, chính Ngài lấy thuốc băng bó lại vết thương cho nó. Còn và còn rất nhiều những việc làm lành nhỏ nhặt của Ngài, nói sao cho hết.
Thật là cao cả thay! Một tấm lòng từ bi vô lượng! Một người đã hoàn toàn giác ngộ mà còn không bỏ qua những việc lành nhỏ, ngẫm lại, chúng ta thì sao?! Chúng ta còn là phàm phu, thế mà không chịu khó làm lành để được thăng tiến như Ngài sao?! Nghĩ đến các Ngài, chúng ta cảm thấy thật là tủi hổ. Các Ngài đã là Bồ tát, là Phật mà gặp việc lành dù nhỏ nhặt đến đâu cũng không bỏ qua.
Người đời thường nói: “Góp gió thành bão hay tích thiểu thành đa”. Có người còn cụ thể hơn, họ thường bảo: “Thủng thẳng mà nhặt hoa rơi”. Ý nói, nhờ làm những điều nhỏ nhặt mà kết thành những việc lớn. Việc đời hay việc đạo không có một việc làm nào mà không có điểm khởi đầu.
Một người văn hay chữ đẹp, có cấp bằng cao, cũng bắt đầu học vỡ lòng từ những mẫu tự a, b, c
Một người muốn đi xa, cũng phải nhờ ở bước khởi đầu và lần đi từng bước chân một rồi mới tới đích đã nhắm.
Một vị A la hán, Bồ tát hay Phật, các Ngài được thành tựu đạo quả như thế, cũng nhờ làm từng việc lành nhỏ nhặt. Trên đời, không có điều gì tự nhiên mà thành lớn lao được. Tất cả cũng đều bắt nguồn từ những việc nhỏ mà thành. Muốn xây dựng một căn nhà, tất cũng phải nhờ đến những vật liệu nhỏ bé. Và với một khối óc sáng suốt mới tạo nên. Muốn trở thành một con người hoàn toàn thánh thiện, tất cũng phải như thế.
Tóm lại, Pháp cú trên, Phật khuyên chúng ta nên cố gắng làm người trí. Muốn làm người trí cũng không có khó khăn gì. Chúng ta chỉ cần nhìn vào những gì chúng ta làm. Chúng ta biết rõ cái nào lợi cái nào hại. Lợi thì làm mà hại thì tránh. Lợi đây là lợi mình và lợi người. Dùng trí huệ soi sáng mọi ngôn từ và hành động. Nhờ có trí huệ soi sáng như thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ không vướng khổ. Sự sống có giá trị là ở chỗ chúng ta biết rõ điều nào đáng làm và điều nào không nên làm. Đó là lẽ sống hướng thượng mà người Phật tử cần thực hiện. Không riêng gì Phật tử, mà bất cứ ai nghe và làm theo lời Phật dạy đây, thì chắc chắn mọi người sẽ thăng hoa trong cuộc sống và chắc chắn sẽ chấm dứt mọi khổ đau.
123. Như người đi buôn mang nhiều của báu mà thiếu bạn đồng hành, tránh xa con đường nguy hiểm làm sao, như kẻ tham tránh xa thuốc độc như thế nào, thì các ngươi cũng phải tránh xa điều ác thế ấy.
Just as a trader with a small escort and great wealth would avoid a perilous route, or just as one desiring to live avoids poison, even so should one shun evil.
Kệ Tụng
Ít bạn nhưng nhiều tiền
Người buôn tránh đường hiểm
Muốn sống tránh thuốc độc
Hãy tránh ác như vậy.
Lược giảng
Phật dạy, người nào muốn được sống yên thân, thì phải tránh xa kẻ ác. Tránh xa kẻ ác, thì không chuốc họa vào thân. Tránh xa như thế nào? Để cụ thể hóa vấn đề cho dễ hiểu, Phật nêu ra hai hình ảnh thí dụ:
1. Như một người đi buôn mang theo nhiều của báu, không có bạn đồng hành, tất nhiên, phải tránh xa con đường nguy hiểm.
2. Người muốn được sống lâu, tất phải tránh xa thuốc độc.
Con đường nguy hiểm và thuốc độc là để dụ cho kẻ ác. Càng tránh xa hai điều nầy chừng nào, thì càng được yên thân chừng nấy. Cũng thế, kẻ ác là kẻ không có lương tâm. Họ có thể hại mình bất cứ lúc nào. Họ là con người có nhiều thủ đoạn gian trá. Không ai có thể đoán định và suy lường lòng họ được. Họ nói một đàng làm một nẻo. Như thế, thì làm sao ta có thể tin họ.
Tốt hơn hết là ta nên tránh xa họ. Vì ta không muốn gây ra những chuyện không hay. Người hiền làm sao sống chung với kẻ ác. Vì hai tâm niệm và hai lối sống khác nhau. Người ác là người luôn luôn toan tính thủ lợi. Làm bất cứ điều gì miễn sao có lợi cho họ thì được. Họ không màng đến dư luận. Việc khen chê đối với họ bằng thừa. Họ thuộc dạng người trái bom nổ chậm. Ngòi nổ đã có sẵn trong họ. Khi cần là họ cho nổ tung ngay. Mở miệng ra, họ nói chuyện toàn là dao to búa lớn. Họ coi mạng sống kẻ khác rẻû như bèo. Họ giết người như trò chơi.
Thuở xưa, ở Việt Nam, dưới triều đại nhà Tiền Lê (980 – 1009), có một vị hôn quân là vua Lê Long Đỉnh, có biệt danh là Lê Ngọa Triều. Ông vua nầy rất tàn ác. Ông xem việc giết người như là một trò đùa để giải trí mua vui. Lúc buồn, ông ra lệnh cho quân hầu bắt những tù nhân phạm tội, bỏ vào trong bao bố, rồi quăng xuống nước sâu cho chết ngộp. Khi người trong bao giãy chết, thì ông khoái chí vỗ tay reo cười.
Hôm nào nổi trận lôi đình, ông cho người róc mía trên đầu các nhà sư để giải buồn. Trước khi thi hành, ông ra lệnh cho các nhà sư phải cạo tóc cho láng sạch. Xong, ông bảo quân hầu cầm dao thật bén, để một khúc mía dựng đứng trên đầu, rồi từ trên róc xuống. Khi róc, làm bộ giả vờ cho dao rớt xuống đầu nhà sư chảy máu ra lênh láng, thấy thế, ông vui cười đắc chí. Thật là một việc làm vô cùng tàn ác.
Ác hơn nữa, kẻ nào có tội, ông bắt phải trèo lên cây thật cao, đến chót vót của cây, bấy giờ ông sai người chặt vào gốc cây cho cây ngã xuống. Thế là, người kia khi từ trên cao theo cây ngã xuống đất giãy chết, thấy thế, ông vỗ tay vui cười thỏa thích.
Thật là một vết nhơ cũng là một tủi nhục cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Đất nước sản sanh ra một con người quá tàn bạo độc ác với dân. May mà ông làm vua ngắn ngủi, chỉ có 4 năm, thọ 24 tuổi, chớ nếu kéo dài, thì không biết dân tộc sẽ sống ra sao? Con người bạo ác như thế thì làm sao có thể sống lâu cho được. Một con người vừa ác lại vừa hoang dâm vô độ. Hoang dâm đến độ kiệt lực, không còn sức để ngồi khi lâm triều. Mỗi khi lâm triều, ông đều nằm dài, không ngồi nỗi. Sử ghi lại, mỗi khi lâm triều, ông nằm dài để nghe các quan tâu rỗi, xong rồi, ông bảo các tên hề nhạy lại lời của các quan tâu. Nhạy theo kiểu làm trò hề, để mọi người nhìn nhau cười trêu nhạo. Ông lấy đó làm một trò cười vui thích.
Suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam ta, sử ghi lại chỉ có mỗi một ông vua nầy là bạo ngược đó thôi. Ngoài ra, tất cả đều là những vị minh quân làm vẻ vang cho dân tộc.
Người có tâm tu hành, muốn hướng đời mình về đạo giải thoát, Phật khuyên bảo nên tránh xa điều ác. Gần gũi với điều ác hay những người chuyên làm ác, như cướp của, giết người, đâm heo, thuốc chó, đập đầu bò v.v. không những bất lợi cho mình trong hiện đời, mà còn kéo dài hậu quả đau khổ đến tương lai. Bởi tánh của con người dễ bị tiêm nhiễm. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần họ, ít nhiều gì cũng bị lây nhiễm theo thói ác của họ. Tánh ác bao giờ cũng nhiều hơn tánh thiện. Ảnh hưởng điều ác thì dễ mà ảnh hưởng điều lành thì khó. Bản chất của con người là thế. Phật hiểu rõ tâm lý nầy. Nên Ngài bảo chúng ta phải tránh xa điều ác.
Vấn đề tiêm nhiễm điều ác ta thấy nhan nhãn trước mắt. Em A trong gia đình em là một đứa bé ngoan hiền, nói năng nhỏ nhẹ hiền từ lễ độ. Tánh tình của em thật dễ thương. Ai đến nhà em chơi, thấy em lễ độ trong cách cư xử, cũng đều khen ngợi thích mến. Bởi em là đứa bé đã được sự hướng dẫn dạy dỗ của cha mẹ rất kỹ càng. Do đó, phải nói, em là một cậu trai rất dễ dạy ngoan hiền. Thế nhưng, chẳng bao lâu, người ta lại thấy tánh tình của em đã đổi khác. Đổi khác một cách hoàn toàn. Em không còn ngoan hiền dễ thương dễ mến như trước kia nữa. Lý do, là vì em đã giao du với những đứa bạn bất lương. Từ đó, em đã bị tiêm nhiễm theo và rồi không mấy chốc, em đã trở thành một tay anh chị hung ác. Đã biết trước sự tình, cha mẹ em dùng mọi cách giáo dục và ngăn chận. Nhưng tất cả đều vô hiệu quả. Cha mẹ chỉ còn biết kêu trời khóc than mà thôi! Và rồi đành buông tay theo số phận, tới đâu hay đó! Do đó, cho ta thấy, việc tiêm nhiễm điều ác rất là dễ dàng. Vì đầu óc của các em còn non dại. Gần bạn ác, tất nhiên dễ bị ảnh hưởng. Đó là điều khó tránh. Sáng sớm tinh sương, ta bước ra ngoài trời đi dạo, mới đầu, không thấy gì thấm ướt, nhưng đi lâu trong sương, ta mới cảm thấy thấm ướt và lạnh buốt cả người. Thói quen nhiễm của con người cũng thế. Mới đầu, thì thấy không gì, nhưng lâu ngày sẽ thành ra bệnh trạng hết chữa. Biết thế, tốt hơn hết là theo người xưa nói: “ngừa bệnh hơn là chữa bệnh”. Tức càng tránh xa càng tốt. Đó là cách khôn khéo và hay nhứt để trở thành một con người tốt đẹp cho mình và cho xã hội.
124. “Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc.
Không thương tích, tránh độc,
Không làm, không có ác.”
125. “Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.”Lược giải
124. Với bàn tay không thương tích, có thể nắm thuốc độc mà không bị nhiễm độc; với người không làm ác thì không bao giờ bị ác.
If on the hand there is no wound, one may carry even poison in it. Poison does not affect one who is free from wounds. For him who does no evil, there is no ill.
Kệ Tụng
Bàn tay không thương tích
Có thể cầm độc dược
Không bị độc xâm nhiễm
Cũng vậy, không làm ác
Không bị ác độc hại.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật bảo: Với bàn tay không thương tích, có thể nắm thuốc độc mà không bị nhiễm độc. Điều nầy thật cụ thể. Một bàn tay, khi đã bị thương tích, khi cầm nắm vật gì dơ bẩn, tất dễ bị nhiễm trùng. Ngược lại, bàn tay không thương tích có thể nắm mọi vật không sao. Dù vật đó là thuốc độc.
Qua hình ảnh thí dụ nầy, cho ta thấy, một thực tế trong đời sống. Thực tế là những kẻ đã nhúng tay vào tội ác, có khác nào như tay bị nhiễm độc. Một khi đã tạo nghiệp ác rồi, họ luôn sống trong sự lo âu, sợ hãi. Đi đâu, họ cũng luôn nơm nớp đề phòng cẩn thận. Lúc nào, họ cũng cảm thấy bên họ có nhiều kẻ thù. Những kẻ thù như luôn tìm cách ám hại họ. Sống trong hồi hộp, họ mất hết tự do. Họ không thể đi chơi thong thả như người thường. Họ có cảm giác luật pháp như đang bủa vây bắt họ. Giống như bàn tay của họ đã bị thương tích, nên cầm nắm bất cứ thứ gì cũng sợ bị nhiễm trùng. Họ phải luôn để tâm bảo vệ bàn tay thương tích của họ. Sống như thế, thì thử hỏi còn gì là ý nghĩa của sự sống?
Muốn sống có ý nghĩa, điều quan trọng là ta cố giữ làm sao cho bàn tay của mình đừng bị thương tích. Nghĩa là, Phật dạy, chúng ta đừng làm ác. Các điều ác không làm, thì con người sống rất tự do, thoải mái. Nhìn lên không thấy thẹn với trời, ngó xuống không thấy hổ với mình. Đi đến đâu cũng chẳng sợ ai. Người không làm ác là người có một sức mạnh tinh thần rất lớn. Đúng là: “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Không phải thứ dọc ngang của một sức mạnh bên ngoài; của sự phô trương lực lượng binh hùng tướng mạnh. Dọc ngang theo kiểu của người hùng Từ Hải. Mà là một thứ dọc ngang, họ đã làm chủ được tình cảm của họ trước ngoại cảnh. Họ không còn là kẻ nô lệ hoàn toàn cho ngoại cảnh. Họ là người sống có lý tưởng. Do đó, họ sống ngang dọc trong trời đất. Một thứ ngang dọc có ý hướng cao thượng.
Họ xem tất cả mọi người đều là bạn. Họ không phân biệt màu da chủng tộc. Tâm họ lúc nào cũng nghĩ đến thương người. Vì họ biết rất rõ ở nơi họ. Họ là con người theo đúng nghĩa của nó. Họ chẳng những không làm ác mà họ còn làm các điều lành. Họ là người thấu suốt nhân quả. Họ biết, nếu mình không gieo gió, thì không bao giờ gặp bão. Họ tự kềm chế những trận bão lòng của họ. Họ luôn đề cao cảnh giác. Họ biết, thiếu bảo vệ nghiêm mật, thì bàn tay của họ dễ bị xảy ra thương tích. Người sống như vậy, thì còn gì là sợ ác quả. Họ luôn cố giữ cho bàn tay của họ không bị thương tích. Giả như lỡ đã bị, thì họ gấp rút tìm phương chạy chữa. Họ không để kéo dài. Càng kéo dài, họ càng đau khổ.
Mỗi người hãy nhìn lại bàn tay của chính mình. Xem nó có bị thương tích gì không? Bàn tay vật lý dù sao cũng còn dễ thấy và dễ trị liệu hơn bàn tay tâm lý. Có nhìn kỹ lại cả hai, thì cuộc sống của ta mới thật sự có ý nghĩa và mới xứng đáng làm người. Đừng để bàn tay vật lý hoen ố! Hãy để cho nó trong sạch và nở như hoa sen. Cứ mỗi lần chấp hai bàn tay lại, ta chịu khó nhìn nó thật kỹ và thật lâu. Ta thấy vạn vật sơn hà đại địa đều có mặt. Có mặt thực sự. Ta thấy ta là tất cả, tất cả cũng chỉ là ta. Ta có quyền mĩm cười mỗi khi chấp bàn tay lại. Ta cười cho sự sống có mặt của ta. Ta tiếp cận và vui sống với mọi vật. Ta không còn là cái ta riêng rẽ, mà ta là tất cả.
Đã thế, thì còn gì là cô đơn và không còn gì mà phải lo âu sợ hãi. Hãy cố gắng thực tập cho mình có những giây phút trở về với chánh niệm. Một chánh niệm sáng ngời với bàn tay không thương tích. Một bàn tay dịu hiền và nắm bắt tất cả mà không thẹn với lòng
125. Đem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, người thanh tịnh vô nhiễm, tội ác sẽ trở lại làm hại kẻ ác như ngược gió tung bụi.
Like fine dust thrown against the wind, evil falls back upon that fool who offends an inoffensive, pure and guiltless man.
Kệ Tụng
Kẻ ác hại người hiền
Thanh tịnh không cấu uế
Tội ác đến kẻ ngu
Như ngược gió tung bụi.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật cho chúng ta thấy rõ lòng dạ của con người đố kỵ. Kẻ có tâm đố kỵ, ganh tỵ, bao giờ cũng tìm đủ mọi cách nói xấu người hơn họ. Họ là kẻ thích làm nô lệ cho bản ngã. Nói xấu, chê bai, dìm kẻ khác xuống, mục đích là để nâng cao bản ngã của họ lên. Họ thuộc hạng người hay khoác lác phô trương. Gặp ai, họ cũng tự đề cao họ. Họ khoe khoang những việc họ làm. Ai chạm đến bản ngã của họ, thì người đó khó sống với họ. Hạng người nầy, rất nhiều trong xã hội. Họ ít khi nhìn lại họ. Họ thích nhìn lỗi người để phê bình, chỉ trích nói xấu. Đối với họ, không người nào tốt cả. Họ sống ba hoa bằng cái miệng. Họ nói tía lia, và có tài phịa chuyện đặt điều rất hay. Sở trường của họ là nói khoác, nói móc, chuyện không họ bươi ra cho có, chuyện có họ khỏa lấp lại thành không. Đối với hạng người nầy, khi giao tiếp, ta nên cẩn thận. Phật cho họ là kẻ luôn có ác ý, hay hãm hại kẻ hiền lương. Họ có nhiều mưu sĩ thủ đoạn. Người hiền sợ họ còn hơn sợ rắn độc.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: Người ác nghe ai làm điều lành quyết đến phá đó, vậy các ông nên tự ngăn dứt chớ không nên giận trách. Kẻ mang điều ác đến thì họ sẽ chịu điều ác đó. (Thích Hoàn Quan dịch)
Phật dạy rằng kẻ mang lòng ác
Hãm hại người lòng dạ thẳng ngay
Nghe ai hành thiện hằng ngày
Tìm đủ mọi cách hại ngay tức thì
Người biết tu nhẫn suy ngăn dứt
Chớ sanh lòng tức bực mà chi
Hơn nhau một tiếng ích gì
Chỉ thêm chuốc lấy thị phi vào mình
Thà nhẫn nhịn làm thinh chịu dại
Kẻ hơn ta chuốc mãi khổ đau
Nhân nào quả nấy trả mau
Đã gieo nhân ác đáo đầu lụy thân.
(T. Phước Thái)
Bài kinh nầy, Phật khuyên những ai đã và đang hành thiện, khi bị kẻ ác tâm hãm hại, thì phải nên cố gắng nhẫn nại, đừng vì đó mà nổi sân si lên trách mắng họ. Nếu thế, thì hậu quả sẽ rất là tai hại. Cho nên, ta phải vận dụng trí huệ để mà hóa giải mọi ngôn từ hay hành động giả trá, do lòng si mê của họ gây ra. Chỉ có trí huệ mới thực sự đem lại sự lợi lạc cho chúng ta. Còn kẻ nào gieo gió thì ắt sẽ gặp bão. Luật nhân quả tất yếu là như thế. Người sáng suốt, nên thương kẻ mê mờ.
Một bài kinh khác, cũng trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy:
- Có người nghe ta giữ đạo, thật hành lòng đại nhân từ, nên đến mắng ta, ta làm thinh không đáp.
Người kia thôi mắng, ta hỏi rằng:
- Ông đem lễ vật cho người, người kia không nhận, lễ ấy có về ông chăng?
Đáp rằng:
- Về chứ!
Phật nói rằng:
- Nay ông mắng ta, giờ ta không nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân ông rồi, cũng như vang theo tiếng, bóng theo hình, hẳn không rời nhau. Vậy thì cẩn thận chớ có làm ác”.
(Giáo sư Hoàn Quan dịch)
Bài kinh nầy, ngoài việc Phật khuyên con người không nên ôm ấp tâm niệm ác để hại người. Đức Phật còn cho chúng ta một bài học nhẫn nhục thật sống động mà nó được biểu hiện qua hình ảnh bản thân đức Phật. Trên bước đường tu tập, hẳn nhiên chúng ta sẽ gặp nhiều chướng duyên từ nội tâm cho đến ngoại cảnh. Mà ngoại cảnh dù cảnh thuận hay cảnh nghịch thật khó nhẫn nại. Trong trường hợp nầy, chúng ta thấy có người (dĩ nhiên là ngoại đạo) thấy đức Phật đang thật hành lòng từ ban rãi khắp cho mọi người, thế là họ sanh tâm đố kỵ, ganh ghét, tìm cách hại Phật, bằng cách thô bạo là mắng chưởi thậm tệ đức Phật. Đức Phật vẫn giữ một thái độ rất khoan dung, từ tốn, không biểu lộ khó chịu dù là một thái độ khó chịu nhỏ nhặt cũng không có. Từ tấm lòng rộng lượng bao dung đó, đức Phật ôn tồn nêu ra một thí dụ hết sức cụ thể mà đối phương không thể nào nói được. Đồng thời, Đức Phật còn thương và khuyên họ nên cố gắng làm lành, vì luật nhân quả rất công bằng không chừa một ai cả. Hễ có gây nhân thiện hoặc bất thiện đều phải lãnh lấy hậu quả sướng khổ tùy theo chỗ tạo nhân, dụ như vang theo tiếng và bóng theo hình, không bao giờ sai chạy.
Bài học nhẫn nhục nầy tạo cho chúng ta có thêm nghị lực sức chịu đựng trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch khen chê, để chúng ta vững tiến trên bước đường tu học giải thoát.
Khổng Tử nói: “Hàm huyết phún nhơn, tiên ô tự khẩu”. Nghĩa là ngậm máu phun người, thì sẽ dơ miệng mình trước. Mình muốn chưởi người, lòng mình đã bất an xáo trộn trước. Thế nên, ở đây, Phật dạy, kẻ ác hại người hiền như ngược gió tung bụi. Hành động nầy, khác nào như kẻ cầm lửa đốt trời, hay phun nước bọt lên trời, tất cả đều rước họa hại vào thân, tức là hại người trở lại hại mình vậy.
126. “Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Niết Bàn.”
127. “Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp.”
128. “Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn khỏi tay thần chết.”Lược giải
126. Con người sinh ra từ bào thai, nhưng kẻ ác thì đọa vào địa ngục, người chính trực thì sinh lên chư thiên, còn cõi Niết bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp sanh tử.
Some are born in the womb; the wicked are born in hell; the devout go to heaven; the stainless pass into Nibbãna.
Kệ Tụng
Một số sinh bào thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người chánh lên cõi trời
Vô lậu chứng Niết bàn.
Lược giảng
Nhìn trên hiện tượng sinh lý, tất cả mọi người khi thụ thai đều giống nhau. Không một ai thoát khỏi bào thai mà hình thành. Ở đây, Phật muốn nói rõ cái nhân duyên hiện tại phát sanh từ đó. Như thế, thì mọi người đều giống nhau. Giống nhau khi ở trong thai bào. Nhưng khi ra khỏi thai bào, tiếp cận với môi trường sinh sống, từ đó, khi lớn lên, con người có những huân tập khác nhau. Tùy theo mỗi hoàn cảnh, môi trường sống mà có những tập khí khác nhau. Như vậy, trên hành nghiệp không ai giống ai. Và lẽ dĩ nhiên, cái nghiệp nhân quá khứ thúc đẩy con người khi thọ sanh cũng có khác. Vì nghiệp nhân có khác, nên quả báo khổ vui cũng có sai khác.
Tổ Qui Sơn nói: “Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành”. Nghĩa là, xét ra, do nghiệp mà ràng buộc có thân. Đã có thân, thì không ai thoát khỏi những điều hình lụy. Do tinh cha và huyết mẹ và nhờ các điều kiện chung hợp lại mà thành. Do nghiệp nhân quá khứ mà có ra thân hình hiện tại. Nói cách khác, cái thân hiện tại nầy, là kết quả của cái nghiệp nhân đời trước. Các duyên chung hợp lại, gọi là sanh. Khi nhân duyên tan rã, gọi là diệt (tử). Nhưng khi có thân, con người vì nhu cầu của thân mà tạo nghiệp. Kẻ ác tạo nghiệp dữ, thì đọa địa ngục. Người hiền, tạo nghiệp lành, thì được sanh thiên. Đó là luật nhân quả tất yếu. Vấn đề quan trọng ở đây, là vấn đề tạo nghiệp. Phẩm nầy, có tên là phẩm Ác. Rõ ràng, Phật muốn nói rõ về ác nghiệp. Con người vì mang chủng tử ác, nên khi sanh ra, do tham, sân, si thúc đẩy mà gây tạo nhiều nghiệp ác. Do tạo ác mà thọ khổ. Muốn hết khổ, Phật khuyên mọi người nên hoán cải làm lành. Có làm lành, thì mới được an vui. Đó là cái yếu lý của sự chuyển mê khai ngộ vậy.
Nghiệp lành và nghiệp dữ, vẫn còn trong vòng đối đãi. Phật vì thương xót chúng sanh, không muốn cho họ tiếp tục thọ khổ, nên Ngài phương tiện chỉ bày ra nhiều pháp môn tu. Ngũ giới và thập thiện là hai pháp tu trong vòng đối đãi, để được sanh vào cõi người hoặc cõi trời. Nếu người nào giữ đúng ngũ giới Phật dạy, thì hiện tại được bớt khổ và tương lai cũng được an vui. Còn nếu giữ được mười điều lành, thì sẽ được hưởng phước báo ở cõi trời. Tuy nhiên, dù sanh trong cõi người hay cõi trời, cũng vẫn là hưởng phước báo có giới hạn. Vì vẫn còn đi trong tam giới. Đó là những phước báo hữu lậu. Ngược lại, Chỉ có cõi Niết bàn mới thật sự dứt hết mầm mống sanh tử khổ đau. Vì Niết bàn là cảnh giới an lạc. Một vị A la hán, nhờ công phu tu hành, dứt trừ hết “Kiến”, “Tư” hoặc phiền não, nên các Ngài đạt được quả vị Niết bàn. Nên Phật dạy: “Cõi Niết bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp sanh tử”. Đến dây, các Ngài mới thực sự được giải thoát. Bất cứ ai dứt sạch hết phiền não đều gọi là A la hán.
127. Phật dạy: chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian nầy, chẳng có nơi nào trốn khỏi nghiệp ác đã gây.
Neither in the sky nor in mid-ocean, nor by entering into mountain clefts, no-where in the world is there a place where one may escape from the results of evil deeds.
Kệ Tụng
Hoặc trên trời dưới biển
Hay trốn vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Tránh được quả ác nghiệp.
Lược giảng
Một người sau khi gây nghiệp ác rồi, họ tìm đủ mọi cách để trốn tránh, nhưng chỉ được một thời gian. Cuối cùng, họ cũng sa vào lưới pháp luật. Vì quả đất tròn, nên họ có chạy đâu, cũng ở trong vòng trái đất. Họ còn sống, dù trá hình với bất cứ hình thức nào, cũng không thể qua mắt được luật pháp. Nhờ thế, mà con người tương đối sống được có chút yên ổn. Chớ nếu như luật pháp lỏng lẻo, mọi người sẽ khinh thường. Chừng đó, ai muốn gây tội ác chi thì cứ gây, vì luật pháp không đủ khả năng bảo vệ họ. Nhờ sự bảo vệ chặt chẽ của luật pháp, nên con người mới có chút dễ thở để sống. Thật vậy, có người sau khi gây ra án mạng, họ cố trốn tránh biệt tích, nhưng sau đó ít lâu, họ cũng bị truy nã tìm ra. Điều nầy, thỉnh thoảng, ta thấy báo chí thường hay đăng tải. Như vậy, đối với luật pháp thế gian, thì kẻ đã gây ra tội ác, không thể trốn thoát được. Trừ phi, họ biết phép tàng hình hay độn thổ, như Vương Tiễn hay Thổ Hành Tôn, thì mới mong thoát khỏi. Bằng không, thì đừng hòng cao bay xa chạy nơi đâu.
Giả như, họ chết đi, thì họ thoát khỏi luật pháp thế gian, nhưng còn luật nhân quả thì sao? Luật nhân quả cũng không thể nào dung tha họ. Dù họ sanh ra ở nơi đâu, và loài nào, thì cũng phải trả những gì mà họ đã gây tạo. Thế mới là công bằng chớ! Nếu không, thì sao gọi là luật nhân quả cho được? Nhân đã gây, thì quả phải trả. Cho nên, câu pháp cú nầy Phật dạy: chẳng phải bay lên không trung (dù dùng phi thuyền bay trong không trung, nhưng cũng còn phải quay trở lại trái đất, đâu có ở luôn trên đó được. Nhưng, giả sử con người khi tạo trọng tội rồi, lên trên đó trốn được, thì cũng bị người khác lên trên đó kéo xuống, không dễ gì trốn thoát được đâu) Như vậy, bay lên không trung, thì không được rồi. Không bay lên không trung, thì đi đâu? Thì lặn sâu dưới đáy biển. Bây giờ cũng có người lặn sâu dười đáy biển đó chớ! Nhưng rất tiếc, lặn sâu thì được, mà trốn tội lỗi đã gây thì không. Tại sao? Giả như, họ dùng tàu ngầm đi dưới đáy biển, thì có lúc họ cũng phải trồi lên. Nếu không trồi lên, thì có tàu ngầm khác truy tìm họ. Như vậy, tất nhiên là có chiến tranh dưới biển. Điều nầy cũng đã có xảy ra. Sống trong thế giới văn minh, kỹ thuật máy móc tinh vi tối tân, thì không có cái gì mà có thể qua mặt họ được. Thế thì lặn xuống đáy biển cũng không xong. Chỉ còn có cách là chui vào trong hang sâu núi thẳm. Hiện tại có người đã trốn thoát bằng cách chui hang sâu núi thẳm đó chứ. Nhưng liệu họ có trốn thoát được không? Nhưng dẫu có trốn được trong đó, thì chỉ có nước bỏ xác trong đó luôn. Cuối cùng, họ làm mồi ngon cho những con kênh kênh hay loài quạ diều ăn thịt mà thôi.
Tóm lại, pháp cú nầy, Phật cảnh tỉnh cho con người không nên làm ác. Vì làm ác khó trốn thoát khỏi quả báo. Luật pháp tuy vô hình, nhưng đừng hòng thoát khỏi. Luật pháp còn không thoát khỏi, thì làm sao thoát khỏi luật nhân quả? Ý thức được lời Phật dạy, trong đời sống hằng ngày, ta cố tránh gây nghiệp ác chừng nào thì tốt cho ta chừng nấy. Mong sao mọi người cố gắng tạo nghiệp lành, để bản thân mình không khổ và người khác cũng được vui lây. Đó mới thực sự đúng với ý nghĩa con người và mới xứng đáng sống trong xã hội loài người.
128. Phật dạy: Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian nầy, chẳng có nơi nào trốn khỏi tử thần.
Neither in the sky nor in mid-ocean, nor by entering into mountain clefts, no-where in the world is there a place where one will not be overcome by death.
Kệ Tụng
Hoặc trên trời dưới biển
Hay trốn vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Thoát khỏi tay tử thần.
Lược giảng
Chết là một định luật tất yếu. Xưa nay, không một ai tránh khỏi. Cái mà không ai tránh khỏi, thì trốn nơi đâu thoát được. Trốn không được, thì phải đối diện. Đối diện để quán chiếu. Quán chiếu thật sâu vào lý vô thường. Đời người một thoáng qua, như bóng câu cửa sổ. Thấy rõ lý vô thường sinh diệt, con người không còn sợ chết. Không sợ hãi, thì có gì mà phải chạy trốn. Chạy trốn vô ích. Hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào cái chết. Chết là hoại diệt mà hoại diệt không có nghĩa là mất hẳn. Làm sao cắt đứt dòng sinh mạng? Sinh mạng là một nguồn sống vĩnh cữu. Đi tìm cái vĩnh cữu trong cái sanh diệt. Lội xuống dòng nước để nhìn nước chảy trôi, đó không phải là cái hứng thú lắm sao? Có lội xuống và chiêm nghiệm thật sâu vào dòng nước đang chảy, ta mới thấy được sự sinh động của nước. Cứ đứng trên bờ nhìn xuống, làm sao cảm nhận được cái lạnh, cái ấm của nước. Vô thường cũng là một sự sống của muôn vật. Sự đổi thay là một nguồn sống luôn đổi mới. Không ai muốn cuộc đời cứ ngưng đọng một chỗ. Thế thì, còn gì đáng chán cho bằng. Một đứa bé sanh ra, rồi muôn đời vẫn là đứa bé. Như vậy, đứa bé đó có gì là sống. Giá trị sống để tiếp nhận những cái đẹp của đứa bé không có. Cứ đứng yên như thế, thì thật là vô vị. Và cuộc sống của con người và muôn loài chỉ còn là những cái xác chết khô cứng.
Nhờ sự đổi thay của vạn vật, con người mới có những cái đổi mới thích thú trong đời sống. Hôm nay phải có tiến bộ hơn hôm qua. Như vậy, hiện tượng vô thường cho ta nhiều bài học thú vị. Tại sao ta phải sợ vô thường? Ta sợ vô thường là vì ta không bắt kịp với sự sống mới. Ta sống cứ theo một nhịp điệu ôn lại. Cũng ngần ấy công việc, rồi cũng lặp đi lặp lại như cái máy. Không gì buồn chán bằng, cứ hát đi hát lại một bản nhạc cũ rích suốt ngày. Làm công việc mà ta cảm thấy buồn chán, tại vì ta không mấy hứng thú với công việc mà ta đang làm. Làm vì một lý do bắt buộc phải cho xong việc. Làm trong sự uể oải, buồn ngủ. Rõ ràng, là ta đã mất hết cái hứng thú làm việc. Bởi ta muốn công việc đứng lại nguyên vị thế trong cái vô thường. Nhưng làm sao ta cho nó đứng nguyên vị thế đây? Trong cơ thể ta đang vận chuyển, từng tế bào của ta hiện đang thay đổi. Các tế bào của ta, chúng cũng đang đi tìm nguồn sống. Chúng cũng đang vươn lên từng sát na để tìm khuynh hướng đổi mới. Thế thì, muốn cho cuộc sống luôn luôn linh động, thì ta phải cám ơn vạn vật vô thường.
Tìm cái chơn thường trong cái vô thường, đó cũng chỉ là một cách nói. Trong cái vô thường đã sẵn có cái chơn thường, chớ có đâu khác mà tìm. Ý niệm tìm, từ căn bản của nó đã là sai rồi. Ta cứ hồn nhiên vui sống theo cái lương tâm của ta. Ta không bỏ công tìm kiếm gì cả. Cứ nhìn thẳng vào sự sống mà sống. Chết, chỉ là một hiện tượng sinh diệt biến đổi. Một trạng thái sinh thành chuyển tiếp. Không chết là bế tắc của dòng sống. Nước vẫn chảy và mây vẫn trôi. Không ai có quyền bắt nước phải dừng lại và bắt mây phải ngừng trôi. Thật là vô lý. Người nào bắt mây nhốt gió, thì đó là thái độ của kẻ điên rồ. Ngay ý niệm khởi bắt và nhốt đã là một sự lầm lẫn rất lớn. Chân lý là chân lý, làm sao bắt nhốt. Có ai dại dột bắt nhốt một nguồn sống bao giờ. Nguồn sống vẫn luôn linh động trong sự đổi thay kia mà!
Đối diện khác với nghĩa chạy trốn rất xa. Còn có ý niệm chạy trốn, là còn sống trong sống thế giới ảo tưởng. Tất nhiên, không phải là thế giới hiện thực. Thế giới hiện thực là thế giới đang xảy ra. Điều quan trọng là ta có bắt kịp và tỉnh thức cái đang xảy ra đó hay không? Hay là ta cứ thả trôi cuộn mình theo một thế giới hiện tượng. Đuổi theo thế giới hiện tượng sinh diệt là ta đã tiêu diệt nguồn sống. Ta thực sự là kẻ biến dạng, mất mình. Mất mình một cách đáng thương!...Trốn chạy một chân lý có được không? Câu hỏi đặt ra như thế, thật là ngớ ngẩn. Ngớ ngẩn đến độ mà bạn phải ôm bụng cười. Có thể cười đến vỡ bụng ra cũng không chừng. Đã là chân lý làm sao trốn chạy? Đời sống của chúng ta hiện nay đã và đang lâm vào tình trạng ngớ ngẩn đó. Phật nói, tử thần không ai trốn khỏi. Không trốn khỏi mà chúng ta vẫn sợ. Thật sự chúng ta không muốn nghe tới và cũng không muốn nhận diện. Rõ ràng là chúng ta không dám nhìn thẳng vào lẽ thật. Tử thần là sự sinh diệt khôn lường. Chữ thần là một sự biến hóa không lường. Sinh sinh hóa hóa, hóa hóa sinh sinh. Cứ thế mà thay đổi không dừng. Một lẽ thật như thế mà chúng ta lại quên đi. Chúng ta bị cuốn hút theo thế giới vật chất. Chúng ta đuổi rượt theo những cái bóng dợn hay xây dựng những tòa lâu đài trên bãi cát. Giống như những Càn thát bà thành. Chúng ta bỏ ra cả cuộc đời để chạy theo những ảo ảnh giả danh đó. Nhưng thực tế, chúng ta không hay biết, dù đã được Phật Tổ thức nhắc rất nhiều. Xin mọi người hãy nắm bắt lấy mình trong mỗi phút giây hành động…
Phẩm Hình Phạt
129. “Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ
Không giết, không bảo giết.”
130. “Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.”Lược giải
129. Ai ai cũng sợ gươm đao; ai ai cũng sợ sự chết; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.
All tremble at violence; all fear death. Putting oneself in the place of another, one should not kill nor cause another to kill.
Kệ Tụng
Mọi người sợ đao trượng[1]
Mọi người sợ tử thần
Hãy so sánh tự thân
Không giết, không bảo giết.
130. Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng thích được sống còn; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.
All tremble at violence; life is dear to all. Putting oneself in the place of another, one should not kill nor cause another to kill
Kệ Tụng
Mọi người sợ đao trượng
Mọi người thích sống còn
Hãy so sánh tự thân
Không giết, không bảo giết.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nhóm lục quần Tỳ kheo. Truyện tích kể lại, “mười bảy vị Tỳ kheo vừa sửa soạn xong chỗ ở thì nhóm lục quần Tỳ kheo tới bảo :
- Chúng ta lớn hơn, chỗ nầy thuộc về chúng ta.
Mười bảy vị kia không chịu vì sửa soạn trước nhất. Lục quần Tỳ kheo liền đánh các Tỳ kheo huynh đệ của mình. Khủng khiếp vì sợ chết , họ gào đến bể phổi. Thế Tôn nghe tiếng la thét hỏi chuyện, rồi Ngài ban hành giới luật về việc hành hung:
- Các Tỳ kheo! Từ nay trở đi, một Tỳ kheo không được hành hung. Ai làm điều nầy thì phạm tội.
Và Ngài dạy tiếp:
- Nầy các Tỳ kheo! Ta phải nhớ rằng cũng như ta, người khác run rẩy trước gậy gộc và sợ chết. Do đó chớ đánh hay giết người”. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr.71 ).
Ham sống sợ chết là một đặc tính cố hữu của muôn loài. Không một loài động vật nào mà không biết quý trọng mạng sống. Nói rộng ra, là ngay cả đến loài thực vật như cây cỏ chúng vẫn biết quý tiếc mạng sống của chúng. Chẳng qua, chỉ vì cái “Biết” của chúng quá yếu ớt, nên chúng không đủ khả năng để biểu lộ phản kháng như những loài động vật khác, khi bị tàn sát mà thôi. Nếu chúng không có năng lực vươn lên để sinh tồn, thì thử hỏi tại sao khi chúng ta bẻ cành hay ngắt đọt, thì chúng lại đâm ra chồi non và cành lá khác? Đã có mạng sống, dù thượng đẳng hay hạ đẳng, dù động vật hay thực vật, tất cả đều có mạng sống và biết ham sống sợ chết như nhau.
Chính vì lẽ muốn sinh tồn đó nên 2 pháp cú trên, Phật dạy chúng ta cần phải biết tôn trọng sự sống. Tôn trọng sự sống là một lẽ rất công bằng. Muôn loài đã có mạng sống, thì không một loài nào lại không sợ chết. Vì quý tiếc thân mạng mà sợ chết, nhất là đối với loài người. Loài người, tất nhiên là có trí khôn hơn các loài động vật khác. Mình biết quý trọng mạng sống của mình, thì tại sao mình lại nhẫn tâm chà đạp và giết chết mạng sống của kẻ khác? Như thế, thì còn gì là lẽ công bằng?! Và còn gì là lòng nhân ái từ bi?! Tôn trọng sự sống cũng là một đặc tính sẵn có cao thượng của con người. Người xưa nói: “bạo động là cá tánh của loài thú, bất bạo động là cá tánh của loài người”. Bởi loài người có trí khôn hơn các loài động vật khác, nhờ có trí huệ sáng suốt tinh khôn, nên con người mới phân biệt được lẽ phải trái, chánh tà, chân ngụy. Bản chất hướng thượng của con người là xây dựng hơn là phá hoại. Phá hoại hay tàn sát đó không phải là cá tánh đặc hữu của con người. Sở dĩ loài người hơn những loài động vật khác là ở chỗ có trí năng hiểu biết hướng thượng đó.
Sát sanh hại vật là một trọng tội. Tội nặng nhất là giết người. Vì muốn cho xã hội được an bình, không có chiến tranh chém giết lẫn nhau, nên Phật dạy người Phật tử không được sát sanh. Đó là giới cấm thứ nhất trong 5 giới cấm của người Phật tử tại gia. Nếu mọi người tuân thủ giữ gìn nghiêm nhặt giới cấm đầu tiên nầy, thì lo gì thiên hạ chẳng thái bình. Tổ sư có dạy:
Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp
Thập phương hà xứ động đao binh
Gia gia hộ hộ đồng tu thiện
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.
Tạm dịch:
Tất cả chúng sanh không nghiệp giết
Mười phương nào có nổi đao binh
Nhà nhà chốn chốn đều tu thiện
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.
Nhơn loại chỉ cần giữ một giới bất sát sanh thôi, nói rõ ra là không giết người, thì cả thế giới đều vui sống trong cảnh thái bình an lạc. Nhưng tiếc thay! nhơn loại không giữ được, nên thế giới cứ mãi gây ra cảnh thù hận chiến tranh tàn sát lẫn nhau. Hết quốc gia nầy đến quốc gia khác.
Có lẽ, thời Phật không có những thứ vũ khí hạng nặng giết người hàng loạt nhanh chóng và dữ dội như hiện nay, mà chỉ có những thứ vũ khí thô sơ như gươm giáo hay đao trượng. Do đó, mà sự tàn sát sinh mạng còn có giới hạn. Thế mà, Phật còn khuyên con người không nên sát hại lẫn nhau, dù đó chỉ là những thứ vũ khí thô sơ. Nếu như Đức Phật sống trong thời đại khoa học nguyên tử hiện đại nầy, thì Ngài sẽ rất đau lòng, khi chứng kiến cảnh giết người hàng loạt bởi những trái bom có trọng lực công phá tàn sát ác liệt. Đó là một thảm cảnh bi thương nhất mà ngày nay nhơn loại đã và đang hứng chịu.
Sự sát sanh hại vật có nhiều cách: “tự sát, giáo tha sát hoặc tùy hỷ sát”. Tự sát là tự mình ra tay giết hại sinh vật. Có khi mình không ra tay mà sai khiến ra lệnh bảo người khác giết, hoặc thấy người khác giết mình lại vui thích khen ngợi, tùy hỷ theo. Tất cả, đều phát xuất từ lòng tham, sân, si, độc ác của con người mà ra.
Trong truyện tích dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy, dù đã xuất gia tu hành, nhưng tập khí ác nghiệp còn quá sâu nặng, nên nhóm lục quần Tỳ kheo đã có những hành động hung bạo đánh đập gây thương tích cho các Tỳ kheo khác. Vì sợ hãi và vì muốn bảo vệ mạng sống, nên các Tỳ kheo khác phải kêu gào la thét lên để cầu cứu. May thay! Phật đã biết và can thiệp kịp thời, nếu không, thì hậu quả sẽ không thể nào lường được!
Thế mới biết, tập khí sân hận si mê của con người thật quá sâu dầy và tai hại vô cùng. Do đó, nên Phật dạy hai pháp cú trên để ngăn ngừa lòng sân hận dục vọng tàn bạo của con người. Là con người, không ai lại không tham sanh úy tử. Suy lòng mình biết được lòng người. Điều gì mình không muốn, thì chớ nên gây ra cho người khác khó chịu. Mình sợ chết, thì người khác hay loài khác cũng sợ chết. Thế thì, không nên gây đau khổ, oán thù tương báo cho nhau. Hơn ai hết, người Phật tử nên vì lòng từ bi mà tôn trọng mạng sống, tự mình không sát sanh và cũng không nên xúi giục sai bảo người khác giết. Có thế, thì mọi oán thù tranh chấp sẽ chấm dứt và nhơn loại mới thực sự vui sống trong một xã hội thái bình an lạc.
131. “Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau không được lạc.”
132. “Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau được hưởng lạc.”Lược giải
131. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà lại lấy dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ không được hạnh phúc.
One who, while himself seeking happiness, oppresses with violence other beings who also desire happiness, will not attain happiness hereafter.
Kệ Tụng
Cầu hạnh phúc cho mình
Lại dùng đao, dùng trượng
Hại hạnh phúc kẻ khác
Đời sau không hạnh phúc.
132. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà không lấy dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ được hạnh phúc.
One who, while himself seeking happiness, does not oppress with violence other beings who also desire happiness, will find happiness hereafter.
Kệ Tụng
Cầu hạnh phúc cho mình
Không dùng đao với trượng
Hại hạnh phúc kẻ khác
Đời sau được hạnh phúc.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy, Đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến đám trẻ con. Truyện tích kể lại: “Nhân đi vào Xá Vệ khất thực, Thế Tôn thấy một đám trẻ lấy gậy đánh rắn. Ngài hỏi vì sao, chúng bảo vì sợ rắn cắn. Phật liền dạy:
- Nếu các con đánh rắn nầy vì nghĩ rằng như thế sẽ bảo vệ được hạnh phúc của mình, hậu quả là sau nầy tái sanh vào các nơi khác nhau, các con sẽ không được hạnh phúc. Ai tìm hạnh phúc cho mình thì không đánh đập kẻ khác”. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II , Viên Chiếu, tr 174 ).
Sống trên cõi đời nầy, không ai lại không muốn cho mình được vui sướng hạnh phúc. Bản chất của con người rất hẹp hòi ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến hạnh phúc cho riêng mình. Chính vì mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình, nên lại sanh ác tâm muốn chà đạp làm thương tổn đến hạnh phúc của kẻ khác.
Truyện tích trên, dẫn chứng cho chúng ta thấy, dù là trẻ con, nhưng chúng cũng rất sợ tổn thương mất đi hạnh phúc của chúng. Vì muốn bảo vệ mạng sống hạnh phúc của mình, nên bất chấp mọi thủ đoạn, dù thủ đoạn đó rất tàn nhẫn, người ta cũng có thể làm được. Bằng chứng, là bọn trẻ dùng gậy gộc để đánh đập những con rắn, mà chúng cho là có thể những con rắn đó cắn hại chúng. Nhân đó, Phật khuyên: “Ai tìm hạnh phúc cho mình thì không nên đánh đập kẻ khác”.
Lợi mình hại người, đó chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là chúng ta phải làm như thế nào vừa có lợi cho mình và lợi cho người không những hiện đời mà cho đến đời sau nữa, chính đó mới thực sự là hạnh phúc. Đã sống, tất nhiên không ai lại không có mưu cầu hạnh phúc. Nhưng, sự mưu cầu đó phải là hành động không có tác hại cho mình và người. Bằng ngược lại, thì khó có hạnh phúc.
Cứ nhìn vào đời sống thực tế hằng ngày, chúng ta thấy, có nhiều người vì muốn bảo vệ hạnh phúc cho cá nhân họ, mà họ thiếu suy nghĩ, lại nhẫn tâm gây tổn hại trên thể xác và tinh thần kẻ khác. Dùng dao gậy gây thương tích, tương đối cũng còn nhẹ, có người, vì nổi cơn ghen tuông, nóng giận; vì không thỏa mãn cho nhu cầu bản ngã, mà họ nhẫn tâm ra tay tạt a xít (acid) đối phương, gây ra một thảm cảnh lắm tang thương trên thân thể của kẻ bị họ ám hại. Ôi! Còn nỗi đau đớn nào hơn! Khi thân thể của người bị họ hại không còn nguyên vẹn.
Một hành động vì si mê sân hận nhất thời thúc đẩy, chỉ trong một phút chốc thôi, đã hủy hoại nhan sắc của người mà họ muốn trả thù. Thật ghê gớm lòng độc ác của con người! Hành động mưu hại trả thù, chỉ vì quá nô lệ, coi trọng bản ngã, đó đâu phải là hành động của kẻ muốn được hạnh phúc. Hại người, chắc gì mình được an ổn. Ngày đêm mình mãi phập phồng nơm nớp lo sợ bị người ta ám hại lại. Cứ như thế, thì biết đến bao giờ cuộc sống mới có được hạnh phúc an vui?
Thật ra, hạnh phúc rất đơn giản trong tầm tay ta. Chỉ cần mỗi hành động, ta đều có chánh niệm, tất nhiên là ta sẽ có hạnh phúc an lạc ngay. Hạnh phúc trong từng hơi thở, trong từng bước đi và trong từng nụ cười. Nếu ta biết sống trong tỉnh thức, thì lúc nào và ở đâu, ta cũng có được cuộc sống hạnh phúc. Ta không cần tìm kiếm ở đâu xa. Ta chỉ cần tìm lại ở lòng ta. Mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động, ta sống có ý thức trong sáng theo con đường thiện nghiệp là ta đã có hạnh phúc tràn trề rồi.
Ta nên nhớ, phá hoại hạnh phúc của kẻ khác, chính ta đã phá nát hạnh phúc của đời ta! Đức Phật khuyên chúng ta nên mở rộng cõi lòng để yêu thương và giúp đỡ mọi người. Không còn gì hạnh phúc hơn là ta làm cho mọi người có được cuộc sống an vui. Người vui là ta vui. Ngược lại, người khổ là ta khổ. Thế nên, cách hay nhất trong đời là ta tìm hạnh phúc ở nơi tấm lòng rộng lượng vị tha buông xả của ta. Ta hãy cố gắng tập sống buông xả :
Buông xả tâm an vui
Buông xả miệng mỉm cười
Buông xả lòng tươi mát
Buông xả thắm tình người
Buông xả có gì hơn
Buông xả hết giận hờn
Buông xả niềm an thoát
Buông xả trở về nguồn.
Đó mới thật là chơn hạnh phúc tuyệt vời trên thế gian nầy.
133. “Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẩn nộ,
Ðao trượng phản chạm mình.”
134. “Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể.
Ngươi đã chứng Niết Bàn
Ngươi không còn phẩn nộ.”Lược giải
133. Chớ nên nói lời thô ác. Khi ngươi dùng lời thô ác nói với người khác, người khác cũng dùng lời thô ác nói với ngươi, thương thay những lời nói nóng giận, thô ác chỉ làm cho các người đau đớn khó chịu như dao gậy mà thôi.
Speak not harshly to anyone, for those thus spoken to might retort. Indeed, angry speech hurts, and retaliation may overtake you.
Kệ Tụng
Chớ nói lời thô ác
Nói ác, bị nói lại
Khổ thay lời thù hận
Hình phạt tất đến thân
Lược giảng
Phật nói pháp cú nầy cũng ở tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến thầy Tỳ kheo Kundadhàna. Trong quá khứ, thầy Tỳ kheo Kundadhàna đã bị một thiên nữ bám sát ám hại, bằng cách dùng lời lẽ ly gián mạ lỵ. Cuối cùng, vị thiên nữ đó lãnh lấy một hậu quả vô cùng khốc hại.
Lời nói thô ác là một trong bốn cách của giới nói vọng. Bốn cách là: “vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu”.Vọng ngôn là lời nói dối trá, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Quấy nói phải, phải nói quấy…Đây là thứ ngôn ngữ không thành thật. Ỹ ngữ hay thêu dệt là thứ lời nói trau chuốt, dùng lời ngon tiếng ngọt, nịnh hót để mê hoặc lòng người. Lưỡng thiệt là lời nói hai lưỡi. Thường gọi là đòn xóc hai đầu, vì cả hai đầu đều nhọn. Đây là thứ ngôn ngữ “đâm bị thóc, thọc bị gạo”, làm cho đôi bên ganh ghét, thù hằn tàn hại lẫn nhau. Thứ ngôn ngữ ly gián phá hoại nầy cũng thật là độc hại. Ác khẩu là lời nói thô tục, trù rủa chưởi mắng v.v…
Người xưa nói: “Tâm là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc”. Miệng phát ra thành lời là do cái tâm sai sử. Nếu cái tâm nghĩ lành thì miệng nói điều lành. Ngược lại, khi cái tâm nổi giận, thì giục cái miệng thốt ra toàn là những lời cay cú hiểm độc. Cho nên, trong ba nghiệp, thì ý nghiệp là chủ động tạo nghiệp. Bởi vậy, nên nói nó là gốc. Tuy nhiên, cái lưỡi cũng không vừa gì. Nó giống như con dao hai lưỡi. Người ta thường nói: “cái lưỡi không xương nhiều đường lắc léo”. Nó lắc léo uốn cong thế nào cũng được. Nó uốn cong cả hai mặt: lợi và hại. Nó uốn xuôi cũng được, mà uốn ngược cũng xong. Khi thương, thì nó rót ra toàn là những lời đường mật bùi tai. Dù trái ấu có méo đến đâu, nó vo uốn riết rồi cũng thành tròn. Ngược lại, khi ghét, thì dù trái bồ hòn có tròn trịa đến đâu, nó cũng uốn biến thành méo xẹo. Quả cái lưỡi khi thốt ra lời nói, thật là lợi hại hiểm độc.
Ác khẩu là những lời xuyên tạc, vu khống, chưởi bới, trù rủa, khiêu khích, mạ lỵ v.v… Đôi khi, những lời hoa mỹ, trau chuốt, còn độc hại hơn là lời hung ác. Một thứ ái ngữ mà mầm mống thực chất lại là một thứ quái ác ngữ.
Ở đời, lời thô ác, tuy không ai ưa, nhưng không tác hại bằng lời hoa mỹ có ác ý. Người ta chết vì lời đường mật hơn là lời cay đắng. Vì lời cay đắng, tuy gây cho đối phương rất khó chịu nhất thời thật, nhưng không gây tác hại lớn lao bằng những lời ái ngữ ngầm chứa quái ác ngữ. Chính đó mới là điều mà người ta dễ lầm tưởng và rồi chết như mìn nổ chậm, không tài nào trở tay cho kịp. Giết người không cần đến vũ khí dao búa, hay súng đạn, thứ đó mới là điều đáng sợ. Nói thế, để chúng ta thấy rằng, trong bốn cách nói vọng mà Phật cấm, luận cho cùng, thì cách nào cũng đều là nguy hiểm cả, nhứt là một khi có chú ác ý xen vào làm chủ động.
Nghiệp nhân đã gây, thì không sao tránh khỏi nghiệp quả. Dùng lời thô ác trù dập chửi rủa người, thì tránh sao khỏi cái quả báo bị người chửi lại. Sở dĩ nói ác là do lòng sân hận. Lòng sân nổi lên không tự kềm chế, phát ra lời nói rồi tới hành động, thật là tai hại vô cùng. Người xưa có câu nói: “Sân hỏa nhứt khởi, xung khẩu thiêu tâm”.Nghĩa là, lửa sân một phen nổi lên, phừng miệng, đốt lòng. Đốt lòng mình và đốt cháy cả lòng đối phương. Điều ta nên nhớ, đã gây nhân ác, thì phải chịu quả ác. Quả báo ác không phải chỉ trả trong hiện đời thôi mà còn liên hệ kéo dài nhiều đời sau nữa.
Trong kinh có kể câu chuyện của một vị Pháp sư dạy cho 500 đồ chúng học. Những vị đồ chúng nầy, học hành lôi thôi, bài vở không hiểu, nên ông ta nổi giận mắng nhiếc một câu thậm tệ: “Các ngươi ngu như con bò”. Nghe thế, chạm tự ái, những vị đó không chịu nổi lời mắng nhiếc nặng nề của ông thầy, liền nói lại: “Thầy bảo chúng tôi ngu như bò, mà thầy là người dạy chúng tôi học, vậy thầy cũng là kẻ chăn bò, chớ có hơn gì chúng tôi đâu!”
Chính những lời nói ác đó, mà vị Pháp sư phải đọa làm loài bò suốt năm trăm đời, và những người học trò đồ chúng kia cũng năm trăm đời sinh trong nhà hạ tiện, phải làm nghề chăn bò mướn cho người!
Lại như, trong Luật Sa Di cũng có nêu ra chuyện của một thầy Sa di khinh cười chế nhạo giọng tụng kinh của một thầy Tỳ kheo già, tụng kinh như chó sủa, nhưng vị Sa di đó không biết thầy Tỳ kheo kia lại là một vị đã chứng quả A la hán. Nghe thế, thầy Tỳ kheo già bảo ông Sa di mau mau sám hối. Ông Sa di vâng lời sám hối, tuy thoát khỏi tội đọa địa ngục, nhưng phải chịu trải qua 500 đời làm thân con chó.
Qua hai chuyện dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy, phải hết sức cẩn thận khi nói năng. Nhất là trong những lúc nóng giận bất hòa, ít ai quan tâm kiểm soát được lời mình nói. Có người thốt ra toàn là những lời dao búa thô ác, bất chấp hậu quả như thế nào. Chúng ta đừng quên rằng, không một lời nào thốt ra khỏi nhân quả. Kinh nói:
Người sống ở trên đời
Búa bén sẵn trong miệng
Sở dĩ chém thân mình
Do lời nói thô ác.
Cùng ý tưởng đó, Thiền sư Nguyễn Trãi cũng nói:
Miệng thế nhọn hơn chong mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh.
Hay :
Nào ai dễ có lòng chân thật
Ở thế tin gì miệng đãi bôi
Không thấy kẻ cười cùng kẻ thuyết
Khó khăn, người giục mấy người sui.
(Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành Động, Võ Văn Ái trang 135)
Hơn ai hết, người Phật tử nên nhớ lời Phật dạy qua pháp cú trên, để lấy đó làm kim chỉ nam trong khi xử sự giao tiếp với đời. Hễ tránh nhân xấu thì không bao giờ gặt hái quả xấu.
134. Nếu ngươi mặc nhiên như cái đồng la bể trước những người đem lời thô ác cãi vã đến cho mình, tức là ngươi đã tự tại đi trên đường Niết-bàn[2], người kia chẳng làm sao tìm được sự tranh cãi với ngươi được nữa.
If, like a broken gong, you silence yourself, you have approached Nibbãna, for vindictiveness is no more in you.
Kệ Tụng
Nếu như chiếc chuông bể
Tự mình giữ yên lặng
Ngươi đã chứng Niết bàn
Tự mình không sân hận.
Lược giảng.
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên cũng có liên quan đến thầy Tỳ kheo Kundadhàna, nhưng đây là chuyện xảy ra trong thời hiện tại của Phật. Vị thiên nữ, vì ác ý tạo nghiệp đọa địa ngục, sau khi thoát khỏi địa ngục, trở thành vị xuất gia làm Tỳ kheo. Nhưng vì dư báo còn, nên sau khi đi tu, luôn luôn có một nữ nhân đi theo, do đó, có tên là Kundadhàna. Dư báo đó là gì? Là cái kết quả, do lòng độc ác đố kỵ ganh tỵ hại người, nên phải chịu quả báo.
Dùng lời vu khống, chụp mũ, mạ lỵ, hủy nhục người khác, đó là thái độ hành xử của kẻ tiểu nhân. Đã là tiểu nhân làm gì họ có đạo đức. Đối với hạng người nầy, thời nào, xã hội nào cũng không thiếu họ. Kẻ tiểu nhân mà lại thêm có quyền thế, thì họ sẽ hại người ta đến mức độ nào! Ở đời, có biết bao người bị họ hãm hại một cách oan ức, kêu trời không thấu, mà chẳng dám hé môi. Người bị họ hại, chỉ vì cái tội hơn họ ở một phương diện nào đó mà họ không có. Thế là, lòng ganh tỵ đố kỵ nổi lên, và rồi họ tìm mọi cách để hãm hại.
Kẻ có quyền thế bao giờ cũng là kẻ có lẽ phải. Quả đúng với câu người đời thường nói:“Chân lý lúc nào cũng ở kẻ mạnh”. Họ là kẻ thường hống hách tác oai tác quái, khinh người dưới mắt. Ai đụng chạm tới họ là kẻ đó sẽ chuốc họa vào thân. Họ muốn hại ai là người đó phải chết. Nếu không chết liền, thì cũng bị tù tội mục gông. Kẻ yếu thế, tuy có miệng mà không lời. Xưa nay, xã hội nào, cũng có lắm kẻ cậy vào quyền thế mà hà hiếp dân lành. Tội nghiệp cho những người dân thấp cổ bé miệng, lương thiện hiền hòa, quanh năm suốt tháng chỉ lo lam lũ làm ăn, thế mà cũng không thoát khỏi bàn tay ác độc của họ, một khi họ đã cố ý manh tâm hãm hại.
Đó là hạng người mà lý luận hay tranh cãi bao giờ họ cũng dành phần thắng về họ. Đối với hạng người nầy, ta không thể đối chất ăn thua với họ. Vì họ là kẻ có thế lực. Ta sợ họ, không phải vì thế lực của họ. Ta nhịn nhục họ cũng không phải là vì ta hèn nhát. Ta ý thức rằng, ta không muốn gây thêm khổ đau cho ta và cho họ. Hơn hay thua, rốt cuộc, cả hai cũng chỉ chuốc lấy thảm họa đau khổ mà thôi. Kẻ thắng thì cao ngạo vênh váo, tự đắc, khiến lòng bất an. Người thua thì tức bực đau khổ, mất ăn mất ngủ, sanh bệnh, vì nỗi căm hờn ray rứt mãi trong tâm. Cả hai đều bị lửa sân hận thiêu đốt, đó là chưa nói, khi tranh cãi đấu đá với nhau bằng võ lực. Bất luận cuộc ấu đả nào cũng đưa đến một hậu quả rất tai hại cho cả đôi bên. Chi bằng, ta nghe theo lời Phật dạy, nhẫn nhục không tranh cãi để có được đời sống an vui hạnh phúc. Chỉ cần “nhẫn nhứt thời chi khí, miễn bá nhựt chi ưu”.Nghĩa là, chỉ nhịn trong một hơi thở thôi, mà ta tránh được hậu quả lo sợ cả trăm ngày. Như vậy, nhẫn là một sức mạnh, chớ không phải là hèn nhát.
Nhẫn là sức mạnh tự xưa nay
Rạng rỡ thanh danh kẻ nhẫn tài
Hàn Tín hạ mình nơi giữa chợ
Văn Vương ăn thịt chốn lao tai
Cối Kê Vương Việt nằm gai mật
Hàn Quốc Tử Phòng báo hận dai
Thế thượng cổ kim thành đại sự
Chí bền nhẫn nại rõ anh tài.
&
Tu hành học đạo phải bền tâm
Lập chí kiên gan nhẫn nhục thầm
Mặc thế cười chê ai nhạo báng
Vui mùi kinh kệ nín như câm
Cho hay chữ Nhẫn là cao thượng
Giận tức làm chi phải khổ tâm
Nầy hởi ai ơi! Mau lượng xét
Tu hành học đạo phải bền tâm.
(Thích Phước Thái)
Ở đời, sự tranh cãi không đi đến đâu, vì sự vật không có gì gọi là chân lý tuyệt đối. Phải với người nầy, thì lại quấy với người kia. Trời là cao mà miệng thế hãy còn bia, cơn mưa nắng thì có kẻ ưa người trách. Cùng là một sự vật, nhưng kẻ thấy thế nầy, người thấy thế khác. Khác nào như năm anh mù sờ voi. Mỗi anh sờ vào một bộ phận của con voi, rồi hô hoán quả quyết hình con voi giống như thế nầy, thế kia. Do đó, họ cãi vã với nhau quyết liệt, không ai chịu nhượng bộ ai. Nhượng bộ sao được, vì chính họ sờ vào kia mà! Song, rất tiếc, mỗi người chỉ sờ vào một bộ phận của con voi mà thôi. Không ai sờ hết nguyên hình của con voi. Đã thế, rồi họ lại tranh cãi hơn thua với nhau. Trong khi tranh cãi nhau, họ quên rằng họ là kẻ đang mù. Ngược lại, đối với người sáng mắt thì không thấy và tranh cãi như thế. Vì chân lý là cái hiện thực toàn diện. Vì mù, nên chỉ sờ phiến diện cục bộ, rồi phán quyết theo sự cảm quan độc đoán của mình, nên mới xảy ra cớ sự tranh cãi choảng nhau như thế.
Thật là đáng thương xót tội nghiệp! Tội nghiệp cho các anh mù và cũng đáng tội nghiệp cho ta! Vì sao ? Vì phải trái hay thiện ác ở đời, không có một tiêu chuẩn nhất định. Sự thấy đó chẳng qua là do trình độ nhận thức sâu cạn của mỗi người. Như trường hợp hai thầy Sa di cãi nhau về lá phướng. Một thầy cho là gió động, thầy khác cho là phướng động. Đó là cái nhìn cục bộ phiến diện theo lăng kính của nghiệp thức. Đức Lục Tổ Huệ Năng cho rằng, không phải phướng động, cũng không phải gió động, mà tại cái tâm của hai nhân giả động.
Thật là chí lý! đó là cái nhìn tận gốc rễ của vấn đề. Vì rằng, nếu không có tâm dấy niệm khởi động, thì làm gì có tranh cãi. Tranh cãi là hệ quả của vọng chấp do nghiệp thức “Biến kế” phân biệt sai lầm mà ra. Nguồn gốc của mọi tranh chấp, phát xuất từ động cơ nhận thức sai lầm. Không có tri giác sai lầm, thì mọi sự tranh chấp hơn thua sẽ không có. Đối với cái nhìn của người thấu đạt chân lý, thì sự vật thế nào chỉ nhìn theo thế ấy. Ngược lại, đối với phàm phu chúng ta thì khác. Vì chúng ta có quá nhiều tham vọng, muốn mọi vật phải theo chủ quan của mình. Không theo chủ quan của mình, thì tất cả đều sai trái.
Từ đó, sanh ra tranh chấp, cãi vã và tạo nên hận thù sát hại triền miên với nhau. Tại sao ta không bắt chước nhìn sự vật như ông cư sĩ họ Bàng đã nhìn. Đối với vạn vật, ông có cái nhìn thẩm thấu như sau :
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tợ mộc nhơn khán họa điểu
Mộc nhơn bản thể tự vô tình
Họa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ giá thị
Hà lự bồ đề đạo bất thành.
Tạm dịch :
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật
Ngại gì vạn vật thường vi nhiễu
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống
Giống như người gỗ xem chim vẽ
Người gỗ bản thể tự vô tình
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy
Nào sợ Bồ Đề đạo chẳng thành.
Đó là cái nhìn của người đạt đạo. Cái nhìn phóng khoáng vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Chủ và khách thể đã biến mất, chỉ còn sự vật là sự vật. Cái nhìn không còn ý thức phân biệt can dự vào sự vật. Can dự là có chiếm hữu độc tôn, là bóp méo vo tròn sự vật theo chủ quan của mình. Ở đây, ta thấy cái nhìn của họ Bàng đã thoát ra ngoài trói buộc định kiến vào sự vật. Còn dính kẹt là còn thương ghét, đó là gốc rễ của vô minh. Thoát ngoài chấp trước, định kiến, đó mới thật là cái nhìn tuyệt vời hạnh phúc. Và đó cũng là cái nhìn : “Tri kiến vô kiến, tư tức Niết bàn”. Bởi vì: “Tâm cảnh như như chỉ thế ấy, nào sợ Bồ Đề đạo chẳng thành”.
Rốt cuộc, bồ đề hay tánh giác, thật vô cùng đơn giản. Đơn giản đến độ mà ta không thể lường được. Lâu nay, ta cứ nghĩ, tìm đạo phải là cái gì cao siêu xa xôi lắm. Nhưng ta không ngờ rằng, “Đạo” hay “Chân lý” chỉ phô bày sờ sờ hiện hữu trước mắt ta. Chỉ cần ta nhìn sự vật thật đơn giản: Thế ấy là thế ấy! đó là cái nhìn hiện lượng tánh hay trực giác. Khổ nỗi, ta không chịu nhìn như thế. Ta lại thích nhìn sự vật, bằng cách phóng đại tỷ lượng, vì ta quá dồi dào óc tưởng tượng.
Càng tưởng tượng càng xa vời thực tại. Không ai chịu nhìn sự vật một cách đơn thuần. Thử hỏi có mấy ai chịu nhìn sự vật thế ấy là thế ấy đâu! Mà ta muốn sự vật phải được tô điểm vẽ vời hơn lên. Càng vẽ vời lại càng xa tít đạo lý, đó là ta đã vẽ rắn thêm chưn. Rắn vốn không chưn, mà ta muốn cho nó có nhiều chưn. Đó là cái nhìn điên đảo vọng tưởng phiền não, gây ra bao nỗi khổ đau hệ lụy cho mình và người. Ta tự hỏi lỗi đó do đâu và tại ai? Trong câu hỏi, tự nó đã chứa sẵn câu trả lời rồi vậy.
Người ta không chịu lo chỉnh hình mà cứ mãi đổ thừa cho bóng. Người ta quên rằng, nếu không có hình, thì làm gì có bóng. Cũng vậy, nếu không có vô minh vọng chấp sai lầm, thì làm gì có tranh cãi hơn thua phải trái để làm khổ đau cho nhau.
Pháp cú nầy, Phật chỉ dạy cho ta về cách sống có được an thân hạnh phúc. Phật nêu ra cái chuông đồng la bể để làm thí dụ. Cái chuông đồng la bể, dù người ta có đánh như thế nào, thì âm thanh của nó cũng không còn kêu lên tiếng to trong trẻo. Phật dùng cái đồng la bể để dụ cho người không còn muốn tranh luận hơn thua. Phê bình, chỉ trích, vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó không phải là thái độ của người khéo biết tu hành.
Người khéo biết tu là người luôn luôn nhìn lại mình. Có nhìn lại mình, mới thấy được lỗi lầm của mình mà lo tự sửa. Nhờ thế, mà cây đạo đức càng lúc càng tươi tốt sum sê. Người có đạo đức, biết cách cư xử, lời của họ luôn đem lại cho người khác an vui. Vì họ là người có đời sống trầm tỉnh, điềm đạm. Họ không thích phê bình, chỉ trích ai. Vì bản thân họ, còn quá nhiều tật xấu.
Ngược lại, đối với những người hay có tật tánh thích phê bình, chỉ trích nói xấu kẻ khác, ta nên tránh xa họ. Giả như, ta bị họ dùng những lời lẽ không nhã nhặn, nói xấu mạ nhục ta thậm tệ, thì Phật dạy, ta nên học bắt chước như cái chuông đồng la bị bể. Nghĩa là, ta phải khôn ngoan sáng suốt bình tĩnh, giữ thái độ yên lặng, không cần dùng nhiều lời với họ. Cứ nghĩ rằng, ta giống như cái chuông đồng la bể. Thế là hết chuyện. Đối phương sẽ cục hứng không còn đối tượng để tấn công ta.
Nếu ta giữ được như thế, là ta sẽ có Niết bàn ngay trong cuộc sống hiện tại. Niết bàn hay hạnh phúc rất gần ta, ở bên ta và trong ta. Không cần phải tìm kiếm ở đâu xa. Hạnh phúc ở ngay từng bước chân ta đi. Và sự an lạc sẽ có ngay trong từng hơi thở. Nếu chúng ta biết hít thở và hành động trong chánh niệm. Có chánh niệm là ta có hạnh phúc an lạc ngay. Còn có tranh cãi phải quấy hơn thua, là ta đã đánh mất chánh niệm. Như vậy cảnh giới Niết bàn, chỉ có, khi nào ta biết dừng lại cái tâm sân hận và si mê. Hãy thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên trong mỗi phút giây hành động. Được thế, thì chắc chắn đời ta sẽ hết khổ đau ngay.
135. “Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung.”
136. “Người ngu làm điều ác,
Không ý thức việc làm.
Do tự nghiệp, người ngu
Bị nung nấu, như lửa.”Lược giải
135. Như với chiếc gậy, người chăn trâu xua trâu ra đồng; sự già, sự chết cũng thế, thường xua chúng sanh [3] đến tử vong.
Just as a cowherd drives the cattle to pasture with a staff, so do old age and death drive the life force of beings (from existence to existence).
Kệ Tụng
Với gậy, người chăn bò
Lùa bò ra bãi cỏ
Già và chết cũng vậy
Lùa người đến tử vong.
Lược giảng.
Pháp cú nầy, Phật dạy tại Pubbàràma, liên quan đến Tỳ xá Khư và các nữ cư sĩ của bà trong ngày thọ Bát quan trai.
Tại Xá Vệ, ngày đại lễ trai giới, năm trăm phụ nữ tuân giữ giới luật trai giới và đến tinh xá. Tỳ xá Khư hỏi họ vì mục đích gì mà giữ giới luật.
Người già nhất trả lời :
- Chúng tôi mong phước báo cõi trên.
Người trung niên :
- Để thoát khỏi quyền lực của chồng.
Người trẻ :
- Chúng tôi muốn có con.
Thiếu nữ mới lớn :
- Chúng tôi muốn có chồng.
Tỳ xá Khư dẫn tất cả đến gặp Phật kể lại các câu trả lời, và được Phật dạy:
- Tỳ xá Khư ! chúng sanh trong thế gian đều bị sanh, già, bệnh, chết, giống như mục đồng cầm gậy trong tay. Sanh đuổi họ đến già , già đuổi họ đến bệnh, và bệnh đuổi họ đến chết. Bốn khổ nầy như rìu cắt ngắn đời sống. Tuy thế, chẳng ai muốn đừng tái sanh. Tái sanh là mong ước của mọi người. (Trích nguyên văn tích truyện, Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 180)
Sanh, già, bệnh, chết là một định luật bất di bất dịch, là một quy trình sinh diệt. Đã có thân không một ai thoát khỏi sanh tử. Cũng như mùa đông không ai tránh khỏi giá lạnh. Sanh tử hay mùa đông là lẽ thường nhiên. Đã thế, thì dù cho ta có lo sợ cũng không tránh khỏi. Sanh, già, bệnh, chết, giống như bốn mùa. Xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Đời người cũng thế. Theo thời gian mà sinh diệt, diệt sinh.
Pháp cú trên, Phật nêu ra một hình ảnh thí dụ cụ thể: kẻ chăn trâu lùa trâu ra đồng, con nầy chạy trước, con kia chạy sau. Con chạy sau đuổi theo con chạy trước. Phật so sánh sự sanh, già, bệnh, chết của con người đuổi theo nhau cũng như thế.
Thời tiết xoay vần xuân đến thu
Cái già sòng sọc đã lên đầu
Giàu sang nghĩ lại trơ tràng mộng
Năm tháng mang theo chất hộc sầu
Nẻo khổ vành xe lăn lóc khắp
Sông yêu bọt nước mất còn đâu
Trường đời nếu chẳng sờ lên mũi
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
(Tuệ Trung Thượng Sỹ -Trúc Thiên dịch)
Trong Khóa Hư Lục, Thiền sư cư sĩ Trần Thái Tông có nêu ra để giảng về bốn trái núi. Bốn núi là dụ cho bốn tướng sanh, già, bệnh, chết. Trong Hán Tạng, Kinh Tạp A Hàm bài kinh 1147 có nói về bốn núi. Tạng Pali Kinh Tương Ưng Bộ bài 136 (Hòa Thượng Minh Châu dịch) cũng có đề cập về bốn trái núi. Nguyên do Phật nêu ra bốn trái núi, là vì nhằm cảnh tỉnh vua Ba Tư Nặc.
Vua Ba Tư Nặc, sau khi hành quân thắng trận trở về, ghé thăm Phật, nhà vua lộ vẻ kiêu ngạo trên sắc diện, nhân đó, Phật mới nói bài kinh nầy. Phật nêu ra từng trái núi một để hỏi nhà vua. Phật nói: giả như mỗi phương: Đông,Tây, Nam, Bắc, đều có một trái núi to đang lăn đến Đại Vương. Trên đường lăn đến, nó nghiền nát sỏi đá cỏ cây và người vật. Như vậy, Đại vương có thể cử đội binh hùng mạnh nào có thể ngăn được bốn trái núi lớn đó chăng? Vua Ba tư Nặc trân trọng thưa:
- Bạch đức Thế Tôn! không có binh hùng tướng mạnh nào mà có thể ngăn được bốn trái núi đó.
- Phật nói: cũng thế, bốn núi sanh, già, bệnh, chết đang lăn đến Đại Vương. Nghe xong, nhà vua không còn kiêu khí nữa.
Câu chuyện tuy đơn giản, nhưng ngẫm kỹ lại, thật là chí lý. Thử hỏi trong chúng ta có ai thoát khỏi bốn trái núi lớn: sanh, già, bệnh, chết đang lăn tới nghiền nát chúng ta không? Đã không ngăn được, thì chúng ta phải đối diện. Đối diện bằng cách nào? Đối diện không có nghĩa là nhìn ngó để mà chơi. Đối diện, để chúng ta chuẩn bị khi núi lăn đến. Chuẩn bị bằng cách nào? Thiết nghĩ, câu hỏi nầy, tốt nhất là hãy để mỗi người trong chúng ta tự trả lời lấy.
Như mùa đông đến ta biết là lạnh. Nếu biết sợ lạnh, thì ta hãy chuẩn bị cho cái lạnh đến. Chuẩn bị áo ấm, lò sưởi v.v… Sau khi chuẩn bị thật kỹ càng rồi, thì ta không còn lo âu sợ hãi mùa đông nữa. Cũng thế, ta biết ai rồi cũng phải chết, vì đó là cuối nẻo đường trần, ai rồi cũng phải đến nơi. Nhưng một khi ta đã chuẩn bị cho tích lũy nghiệp tu hành làm lành lánh dữ rồi, thì ta không còn lo sợ nữa. Hành trang tư lương cho cuộc hành trình xa, ta cần phải nghĩ đến, vì đó là một cuộc hành trình đơn độc nhất, mà ta cần phải chuẩn bị cho ta thật kỹ càng và chu đáo. Chuẩn bị xong, ta cứ vui vẻ mà tiến bước lên đường. Lên đường một cách an nhiên tự tại. Ta biết chắc mục tiêu ta đến, chỉ có hoa và trái hạnh phúc mà thôi. Thế là ta yên tâm mà vui sống với đất trời. Ta không còn ngờ vực và hết lo âu sợ hãi mông lung!
Nhìn vào kiếp sống của con người, thật quá ngắn ngủi mỏng manh vô thường, khác nào:
Con người kiếp sống tợ phù âu
Thọ yểu trời người chớ vọng cầu
Bóng ngã nương dâu chiều sắp đến
Thân như bồ liễu tạm qua thu
Phan Lang thuở nọ còn xanh tóc
Lữ Vọng ngày nay đã bạc đầu
Cuồn cuộn việc đời trôi chẳng đoái
Vầng ô gác núi nước trôi xuôi.
(Thiền sư cư sĩ Trần Thái Tông)
Hay:
Thân như bọt nước hợp rồi tan
Chìm nổi lênh đênh khóc khổ than
Mấy kẻ nhận ra mình bọt nước
Bao người biết rõ cảnh hoa tàn
Hơn thua phải trái tranh nhau mãi
Cấu xé bon chen lệ ướt tràn
Nầy hởi ai ơi! Mau tỉnh giác
Chóng lo niệm Phật vãng Tây phang.
(Thích Phước Thái)
Đời người ngắn ngủi như hạt sương mai, thoáng qua, rồi mất. Tan hợp bất thường khác gì bọt nước. Từ sanh đến tử, nhìn lại như giấc mộng đêm qua. Tất cả chỉ là ảo mộng. Vui cười, buồn khóc, chìm nổi, vinh nhục, thăng trầm, thành bại… tất cả chỉ là trò đùa, là hoa đốm, là huyễn ảo, là bọt nước chiều hôm! Biết thế, mà con người còn một hơi thở tàn vẫn còn tranh chấp phải trái hơn thua. Nhưng người ta quên rằng, cuối cuộc đời, chỉ còn lại một nắm tro tàn, một vùa hương lạnh, một tấm hình lốm đốm phai màu. Cái thân xác, mà khi còn sống, thì bon chen danh lợi, hơn thua tranh chấp, tàn hại lẫn nhau, bây giờ đã đi đâu mất rồi?! Phải chăng, đã trở về nguyên quán của nó. Nguyên quán của nó là: đất, nước, gió, lửa.
Sống là vay mượn. Đã có vay mượn là phải có trả. Còn vay, còn mượn, thì tạm gọi là còn sống. Hết vay, hết mượn, thì gọi là chết. Nhưng chết chỉ là chấm dứt của sự vay mượn thân nầy, nhưng vẫn tiếp tục vay mượn của thân khác nữa. Thế thì, cuộc đời, rốt lại, chỉ có hai chữ mượn trả. Mượn suông sẻ, trả thông suốt, thì đó là hạnh phúc nhất của đời người. Ngược lại, thì đau khổ nhất của đời người. Thật là :
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Cảnh phù du trông thấy mà đau
Trăm năm thoáng chốc sương bào
Vui lòng mượn trả tự hào bền lâu.
Nhìn lại, mỗi người chỉ sống bằng cách mượn trả, trả mượn mà thôi. Nếu không còn mượn trả không khí của đất trời, thì ngang đó, đời ta sẽ hoá ra người thiên cổ. Như vậy, có gì mà tự hào: giàu sang, danh vọng, chức tước quyền cao, cỡ nào rồi cũng trở thành một nắm xương tàn lạnh tanh mà thôi! Bởi vì :
“Thông minh tài trí anh hùng
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê…”
Nghĩ thế, không có nghĩa là ta bi quan chán đời, buông xuôi phó mặc cho định mệnh an bày tới đâu hay đó, mà nghĩ thế, để ta có đủ thời gian chuẩn bị cho ngày ra đi của ta sẽ được an nhàn giải thoát. Có thiền quán như thế, ta mới thấy rõ được sự thật của cuộc đời. Từ đó, mọi hơn thua tranh chấp thị phi, ta xem như trò đùa, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ta không còn mê chấp đắm mình theo cảnh mò trăng bắt bóng dưới nước nữa.
Đời ta, rốt lại chỉ là kẻ đáng thương hại, nếu ta không biết lo tu hành, ăn chay, niệm Phật, để một mai kia, thần chết kéo lôi, chừng đó ta có ăn năn thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Nếu ta biết thương ta, thì ta hãy tự lo cho mình trong lúc còn mạnh khỏe, đừng đợi đến lúc nước tới chân, rồi mới lo nhảy. Than ôi! sẽ không còn nhảy kịp nữa đâu! Không ai thương mình bằng mình tự thương lấy mình. Không ai thay thế nỗi khổ niềm đau cho mình. Dù đó là người thân nhất đời mình, tất cả cũng chỉ vì họ mà thôi. Thí như khi ta tạo nghiệp ác, vi phạm luật pháp chẳng hạn, bị luật pháp bắt bớ giam cầm, thử hỏi có ai thay thế tù tội cho ta được không ? Hay tất cả đều do ta tự lãnh lấy. Ai gây nấy chịu, không ai thay thế cho ai. Biết thế, thì mỗi người chúng ta nên tự lo lấy mình là hơn!
136. Kẻ ngu tạo ác nghiệp vẫn không tự biết có quả báo gì không? Người ngu tự tạo ra nghiệp [4] để chịu khổ, chẳng khác nào tự lấy lửa đốt mình.
When the fool commits evil deeds, he does not realize (their evil nature). The witless man is tormented by his own deeds, like one burnt by fire.
Kệ Tụng
Người ngu làm việc ác
Chẳng biết đến quả báo
Vì tự nghiệp, người ngu
Bị thiêu đốt, như lửa
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm. Duyên do Phật dạy, là do câu chuyện ngạ quỷ hình trăn. Ngài Mục Kiền Liên trên đường đến Linh Thứu sơn, Ngài dùng thiên nhãn thấy một con quỷ hình thù ghê tợn. Nó dài hai mươi lăm dặm bị lửa thiêu đốt khắp mình mẩy. Nhìn thấy, Ngài chỉ mỉm cười. Đến khi gặp Phật, Phật mới kể lại nguyên do của con quỷ nầy.
Thời Phật Ca Diếp, có một vị chưởng khố giàu có. Ông bị kẻ trộm ganh ghét đốt phá nhà cửa ruộng vườn đất đai của ông. Chưa hết, do lòng sân hận ganh tức thúc đẩy, kẻ trộm đốt phá hương thất do ông chưởng khố xây dựng cúng dường Phật và đập bể bình bát, đồng thời đánh đập gia nhân của ông. Do nhân ác đó, nên tên trộm sau khi chết đọa địa ngục A tỳ, chịu hình phạt khổ sở rất lâu, nhưng quả báo chưa hết, hắn phải đọa làm thân quỷ bị lửa thiêu đốt, chịu hình phạt ở trên núi Linh Thứu.
Nhân đó, Phật dạy các Tỳ kheo: Khi làm điều ác, kẻ ngu không biết việc ác của mình. Nhưng về sau, hắn sẽ bị thiêu đốt do nghiệp ác đã tạo, như rừng bị lửa cháy.
Nghiệp tuy có nhiều loại, nhưng không ngoài hai loại chính, đó là thiện nghiệp và ác nghiệp. Nghiệp, như ta đã biết qua về ý nghĩa của nó. Nó là một hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Chính thói quen đó, trong nhà Phật gọi nó là nghiệp. Nghiệp là hành động tạo thành nhân. Chỗ xuất phát tạo thành nghiệp, gồm có 3 nơi: thân, miệng và ý. Trong ba nghiệp, thì ý nghiệp là chủ động tạo tác. Ba nghiệp nầy chúng cấu kết với nhau để tạo thành nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Đã có nhân, tất nhiên phải có quả. Nhân tốt, thì quả tốt. Ngược lại, nhân xấu, thì quả xấu. Quả tùy nhân, như bóng tùy hình. Hình cong thì bóng vạy, hình thẳng thì bóng ngay. Nhân quả một mảy may không hề sai chạy.
Pháp cú trên, Phật cảnh tỉnh cho chúng ta biết rằng, khi chúng ta bị vô minh thúc đẩy, không sợ quả báo, nên mới có những hành động hoặc lời nói tạo thành ác nghiệp. Vì thiếu trí huệ biện biệt, nên chúng ta không nghĩ đến hậu quả tai hại của việc làm. Thấy lợi trước mắt mà quên hại về sau. Giống như con thiêu thân lao đầu vào ánh sáng, mà không biết sự lao đầu đó là một tai họa. Bởi thế, nên Phật cho đó là kẻ ngu muội. Như kẻ trộm cướp, chỉ thấy lợi trước mắt, mà quên (hoặc có nhớ cũng vẫn làm) đi cái quả báo bị tù tội giam cầm trong ngục thất. Phật cho đó là kẻ tự cầm lửa đốt cháy mình. Vừa khởi niệm gian tham rồi thể hiện ra hành động cướp giựt, đó là ta đã tự châm ngòi lửa đốt cháy ta rồi. Thật là một hành động điên rồ. Ngược lại, người có trí, khi làm việc gì là họ nghĩ ngay đến cái hậu quả của nó. Nhờ đó, mà họ tránh được những cái hậu quả không tốt cho họ.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, tên trộm đã gây nhân bất thiện, tất nhiên, phải chịu trả cái quả báo thật là đau khổ thê thảm. Khi hiểu được luật nhân quả, chúng ta phải cẩn thận gìn giữ ở nơi 3 nghiệp. Nghiệp quả rất công bằng. Khi đã tạo thành nghiệp, thiện hay bất thiện, chính ta phải chịu trách nhiệm lãnh lấy hậu quả mà do chính ta đã gây ra. Không có một bàn tay nào thưởng hay phạt ta cả. Ý thức được nhân quả, mỗi người nên tự tạo cho mình có một đời sống hướng thượng an vui hạnh phúc. An vui hạnh phúc chẳng những trong hiện đời mà cho cả đời sau nữa. Tuy nhiên, như chúng ta cũng đã biết qua về nhân quả rất phức tạp. Muốn hiểu nhân quả, chúng ta phải nhìn suốt qua 3 thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu chỉ nhìn hạn cuộc trong đời hiện tại không thôi, thì ta chưa hiểu rõ nhân quả.
Sống trong cuộc đời đầy những biến động tranh chấp, hận thù, gian xảo, thủ đoạn khuynh loát lừa bịp hại nhau, tất cả đó là một hệ quả của duyên nghiệp trong sự tương quan ít nhiều giữa biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp là nghiệp của mỗi cá nhân tạo thành. Cộng nghiệp là nghiệp chung của gia đình, của quốc gia xã hội, rộng hơn là cả nhơn loại. Sự tác động của biệt nghiệp cũng gây ảnh hưởng đến đời sống cộng nghiệp. Bởi sự tác nghiệp ảnh hưởng nầy, nên tục ngữ ta có câu:
Một người làm xấu cả bọn mang nhơ
Một người làm tốt cả bọn được nhờ.
Một người phá rừng hay gây ô nhiểm môi sinh, có thể gây ra tác động ảnh hưởng không tốt cho nhiều người khác. Nếu cả nhơn loại đều gây ra ô nhiểm môi sinh, thì cả nhơn loại phải chịu lãnh lấy hậu quả khốc hại, do thiên nhiên giáng xuống trừng phạt. Đó là cộng nghiệp đồng gây cộng khổ. Biệt nghiệp cá nhân tuy có ảnh hưởng đến người khác, nhưng tác hại của nó không bằng cộng nghiệp. Một tên trộm tuy có hành động bất lương, nhưng sự tác hại do hắn gây ra không ảnh hưởng rộng lớn lắm. Tuy rằng, hành động đó cũng gây ra cho một số người đau khổ. Thế nên, nhìn theo lý duyên sinh của nhà Phật, thì mỗi hành động, lời nói, ý nghĩ của mỗi cá nhân, đều có tác động ảnh hưởng đến mọi cá thể khác.
Từ đó, ta có thể nói, một xã hội tốt là do mỗi cá nhân tốt. Ngược lại cũng thế. Cho nên, sự xây dựng một xã hội tốt, phải bắt nguồn từ sự giáo dục xây dựng đạo đức tốt ở nơi mỗi cá nhân. Mà mỗi cá nhân muốn được tốt đẹp, thì mỗi người phải nhìn lại ở nơi chính mình. Nhìn lại mình là nhìn lại ở nơi ba nghiệp tạo tác. Có nhìn lại ba nghiệp, ta mới kiểm soát được từng ý nghĩ, lời nói và hành động của ta. Có như thế, ta mới điều chỉnh ba nghiệp, hành động theo con đường hướng thiện làm lợi ích cho mình và người trong chiều hướng phát triển xây dựng tốt đẹp cho quốc gia xã hội mà ta đang sống. Đó là một đóng góp tích cực lớn lao cho công cuộc đem lại nguồn an vui hạnh phúc cho mình và xã hội vậy.
137. “Dùng trượng phạt không trượng,
Làm ác người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ.”
138. “Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm.”
139. “Hoặc tai họa từ vua,
Hay bị vu trọng tội;
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.”
140. “Hoặc phòng ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt.
Khi thân hoại mạng chung,
Ác tuệ sanh địa ngục.”Lược giải
137 – 140. Nếu lấy dao gậy hại người toàn thiện, toàn nhân, lập tức kẻ kia phải thọ lấy đau khổ trong mười điều này: thống khổ về tiền tài bị tiêu mất, thân thể bị bại hoại, hoặc bị trọng bệnh bức bách, hoặc bị tán tâm loạn ý, hoặc bị vua quan áp bức, hoặc bị vu trọng tội, hoặc bị quyến thuộc ly tán, hoặc bị tài sản tan nát, hoặc phòng ốc nhà cửa bị giặc thiêu đốt, và sau khi chết bị đọa vào địa ngục.[5]
He who inflicts violence on those who are unarmed, and offends those who are inoffensive, will soon come upon one of these ten states:
Sharp pain, or disaster, bodily injury, serious illness, or derangement of mind, trouble from the government, or grave charges, loss of relatives, or loss of wealth, or houses destroyed by ravaging fire; upon dissolution of the body that ignorant man is born in hell.
Kệ Tụng
Dùng đao phạt không đao
Làm hại người vô hại
Phải thọ gấp một loại
Trong mười loại khổ đau.
Chịu khổ thọ khốc liệt
Thân thể bị thương vong
Hoặc thọ bệnh kịch liệt
Hay loạn ý tán tâm.
Hoặc bị vua áp bức
Hay bị vu trọng tội
Bà con phải ly tán
Tài sản bị nát tan.
Hoặc phòng ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt
Khi thân hoại mạng chung
Kẻ ngu sanh địa ngục.
Lược giảng
Phật dạy 4 pháp cú trên tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến cái chết của Tôn giả Mục Kiền Liên. Theo truyện tích, Mục Kiền Liên bị đám du đảng cướp bóc đánh chết tại Hắc Thạch. Nguyên do, vì sự ganh tỵ thù ghét của phái ngoại đạo Lỏa Thể về việc cúng dường thực phẩm cho đức Phật, mà họ quy kết tất cả đều do Ngài Mục Kiền Liên vận động tín chúng cúng dường.
Từ đó, họ đâm ra căm tức thù ghét và rồi thuê bọn du đảng du thực sát hại Ngài. Trải qua đôi lần bao vây mà không giết được Ngài. Cuối cùng, Ngài biết đây là nghiệp quả của mình phải trả, nên Ngài để cho bọn cướp giết chết. Đây là cái quả báo, mà chính do Phật kể lại. Phật nói rằng, trong đời quá khứ, Tôn giả Mục Kiền Liên là một đứa con chí hiếu, nhưng vì nghe lời vợ mà Ngài đã giả dạng bọn cướp ra tay giết chết cha mẹ già mù lòa. Do quả báo đó, dù đã trải qua nhiều đời chịu quả báo địa ngục, nay lại phải chịu chết dưới tay bọn cướp xé xác nghiền nát thây Ngài.
Theo luật nhân quả, dù trải qua trăm ngàn kiếp, một khi ác nghiệp đã gây, sớm muộn gì cũng phải trả. Trong những tội ác nặng nhất, đó là tội hành hung giết cha, giết mẹ, vì đây là một trong ngũ nghịch tội. Ngũ nghịch tội là: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng và xúc chạm gây thương tích thân Phật ra máu. Ở đây, ta thấy, tiền kiếp của Tôn giả Mục Kiền Liên, đã nhẫn tâm giết chết cha mẹ ruột của mình, đó là một cực trọng tội mà Ngài phải trải qua nhiều đời trả quả. Và cuối cùng, phải lãnh lấy cái quả báo, do bọn cướp giết chết không toàn thây. Đó là một định nghiệp phải trả. Dù Ngài là người có thần thông đệ nhất, nhưng cũng không sao tránh khỏi nghiệp quả đã gây.
Nghĩ đến sự tu hành đắc Thánh quả của Tôn giả Mục Kiền Liên, mà Ngài còn phải chịu trả quả báo thê thảm như thế, đối với chúng ta thì sao? Tuy nhiên, có điều ta cũng cần nên hiểu rõ, đối với người tu hành đạt đạo, thì sự trả quả đối với các Ngài, trả cũng như không trả. Có nghĩa là các Ngài không còn phải đau khổ như chúng ta. Vì các Ngài đã dứt trừ được ngã chấp. Do đó, mà phiền não của các Ngài không còn. Đã phá ngã, các Ngài đâu còn hệ thuộc vào thân. Bởi thế, mà tâm các Ngài vẫn an nhiên tự tại, đó là điều khác biệt với phàm phu chúng ta. Đối với chúng ta khi trả quả, chúng ta thật là đau khổ, bức bách khó chịu, vì sự tu hành, đạo lực của chúng ta còn quá kém đâu có được như các Ngài. Nghiệp đã gây trong quá khứ trải qua nhiều đời làm sao chúng ta biết được? Dù biết hay không biết, thiện ác đáo đầu cũng phải trả. Không ai có thể thoát khỏi, một khi nghiệp ác đã gây. Đó là chúng ta xét qua một cách khái quát về nhân quả báo ứng theo lời Phật dạy là như thế.
Qua những pháp cú trên, Đức Phật còn cho chúng ta biết, bất cứ ai dùng các loại vũ khí, như dao gậy hại người Toàn thiện, thì kẻ đó sẽ phải chịu 10 điều ác báo khổ đau như sau :
1. Đau khổ vì tiền bạc bị mất mát.
2. Thân thể bị hư hoại.
3. Thân thể bị bệnh hoạn.
4. Tâm ý tán loạn.
5. Bị vua quan bức bách.
6. Bị vu trọng tội.
7. Quyến thuộc ly tán.
8. Tài sản bị tiêu diệt.
9. Nhà cửa bị thiêu cháy.
10. Chết đọa vào cảnh khổ.
Đó là mười tội báo phải trả, một khi đã gây nhân bất thiện bằng cách sát hại một bậc tu hành Toàn thiện. Một hành động sai lầm, bởi do chủ động của lòng si mê dục vọng sai sử, nên kết quả phải lãnh lấy một hậu quả lắm bi đát tang thương. Bậc tu hành chứng Thánh quả như các vị A la hán, các Ngài không gây ra và làm hại ai, thế mà vẫn có kẻ dùng mọi cách bám sát hãm hại các Ngài. Kẻ ác hại người hiền, dù xưa hay nay, xã hội nào, thường cũng đều có xảy ra. Bởi do đầu óc hẹp hòi, kỳ thị, tỵ hiềm, ích kỷ mà họ hành động hãm hại, hay bởi những nghiệp nhân ân oán xa xưa. Nhưng dù gì, đó cũng là một hành động bất nhân không thể tha thứ.
Mười điều Phật nói trên để chứng minh rằng, kẻ nào có những hành động bất thiện, hiểm độc xấu xa, ngầm hại người tu hành hiền lương, thì chắc chắn kẻ đó phải nhận lấy những kết quả khổ đau do chính mình đã gây tạo, đó là luật nhân quả tất yếu rất công bằng. Song có điều, khi người hiền bị kẻ ác hại, ta nên bắt chước hạnh nhẫn nhục của các bậc hiền thánh mà cam tâm chịu đựng. Ta nên nhớ và ý thức rằng, kẻ ác tâm hại người hiền lương, tuy đây là việc khó nhẫn, khó hành, nhưng đã là người hiền, tất nhiên là có thể chịu đựng được. Khổng Tử nói: “Kẻ ác hại người hiền, khác nào như ngậm máu phun người, thì miệng mình dơ trước”.
Trong giáo lý nhà Phật, có nhiều bài kinh đề cập đến vấn đề nầy. Như Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật có dạy: “Kẻ ác hại người hiền, khác nào như kẻ ngước mặt lên trời phun nước miếng, nước miếng không lên tới trời mà trở lại rớt vào mặt mình. Cũng thí như kẻ đứng dưới gió giê bụi, bụi không đến người kia, mà bụi trở lại vào mình. Phật kết luận: kẻ ác hại người hiền cũng thế. Người hiền không bao giờ hại được, mà tai họa sẽ về kẻ ác hết”.
Một bài kinh khác, cũng trong Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy rằng: “Người ác nghe ai làm điều lành quyết đến phá đó, vậy các ông nên tự ngăn dứt chớ không nên giận trách. Kẻ mang điều ác đến thì họ sẽ chịu điều ác đó”.
Phật dạy tiếp : “Có người nghe ta giữ đạo, thật hành lòng đại nhân từ, nên đến mắng ta, ta làm thinh không đáp. Người kia thôi mắng, ta hỏi rằng: ông đem lễ vật cho người, người kia không nhận, lễ ấy có về ông chăng ?
Đáp rằng : Về chứ!
Phật rằng, nay ông mắng ta, giờ ta không nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân ông rồi, cũng như “vang theo tiếng, bóng theo hình” hẳn không hề rời nhau. Vậy thì cẩn thận chớ có làm ác”.
Đây là những bài kinh, mà Phật đã khuyến giáo và cho chúng ta thấy rõ điều đó. Việc tu nhân hành thiện, đó là hành động gây nhân tốt từ ba nghiệp. Kẻ ác hại ta, ta không sợ, mà ta chỉ sợ rằng mình không giữ vững lập trường chí nguyện hành thiện của mình. Chỉ sợ mình không đủ sức nhẫn nại chịu đựng. Một khi có những hành động bất thiện trả đủa lại, thì than ôi! thật là uổng phí cả đời hành thiện của mình. Bởi thế, mà Phật khuyên chúng ta cần phải an nhẫn trước mọi chướng duyên thử thách. Nếu chúng ta áp dụng những lời Phật dạy trên đây, thì mọi việc sẽ đem đến cho ta những điều tốt đẹp. Bằng ngược lại, thì dù ta có tích lũy hành thiện lâu ngày, chỉ cần một đốm lửa sân cũng đủ thiêu hủy cả khu rừng công đức của chúng ta đã gây tạo rồi. Có biết bao người cả đời làm lành, nhưng chỉ một phút giây, không nhẫn nhịn được, rồi hành động theo lòng dục vọng sân hận sai khiến, kết quả phải chịu quả báo khổ đau! Đây gọi là đốn củi ba năm, chỉ thiêu trong một giờ. Thật là đáng tiếc biết bao!
141. “Không phải sống lõa thể
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch,
Nếu không trừ nghi hoặc.”
142 “Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, phạm hạnh,
Không hại mọi sinh linh,
Vị ấy là phạm chí,
Hay sa môn, khất sĩ.”Lược giải
141. Chẳng phải đi chân không, chẳng phải để tóc xù (bờm), chẳng phải xoa tro đất vào mình, chẳng phải tuyệt thực, chẳng phải nằm trên đất, chẳng phải để thân mình nhớp nhúa, cũng chẳng phải ngồi xổm mà có thể trở nên thanh tịnh, nếu không dứt trừ nghi hoặc.
Neither going about naked, nor matted locks, nor filth, nor fasting, nor lying on the ground, nor smearing oneself with ashes and dust, nor sitting on the heels (in penance) can purify a mortal who has not overcome doubt.
Kệ Tụng
Không phải sống lõa thể
Bện tóc, tro trét mình
Tuyệt thực, lăn trên đất
Sống nhớp nhúa, ngồi xổm
Con người được thanh tịnh
Nếu không trừ nghi hoặc.
Phật dạy pháp cú nầy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo chứa nhiều của cải. Theo truyện tích, có một gia chủ ở thành Xá Vệ, sau khi vợ chết, ông xin Phật xuất gia làm Tỳ kheo. Thầy Tỳ kheo nầy không ở trong tinh xá. Ông ở một tịnh thất gần bên. Vì là người giàu có nên sau khi xuất gia, ông chứa cất nhiều của cải. Khi phát giác, Phật liền quở trách ông. Ông nóng giận liền quăng ngoại y giữa đại chúng. Nhân đó, Phật mới ôn tồn khuyến giáo và cảnh cáo về hành động của ông. Đồng thời, Phật kể lại chuyện tiền kiếp của ông là một tên Dạ Xoa, có liên quan đến Phật, Xá Lợi Phất và Tôn giả A Nan. Sau khi nghe Phật kể, ông thành tâm ăn năn sám hối và nguyện tuân hành giữ gìn những lời Phật dạy. Đó là nguyên nhân chính mà Phật nói ra pháp cú nầy.
Như chúng ta đã biết, Ấn Độ trước khi Phật ra đời cũng như trong thời kỳ Phật, người dân Ấn, họ rất quan tâm chú trọng đến những hình thức lễ nghi, nhất là trong lãnh vực cúng tế Thần linh. Ngoài ra, họ cũng rất thiết tha trung thành với việc chuyên tu khổ hạnh. Theo họ, người nào muốn đời sau có được cảnh giới giải thoát an vui là phải chuyên cần tu khổ hạnh. Lối tu khổ hạnh của họ là một nếp sống hành xác quá khắc khổ. Những hình thức khổ hạnh tuy nhiều, nhưng đại khái không ngoài những loại hình thái như : Nằm phơi nắng suốt ngày ngoài trời, lấy cây đập vào mình, nhai lá cây có chất đắng làm cho lưỡi bị tê cứng mất cảm giác, hình thù lỏa thể, đầu bù tóc rối, không bao giờ tắm gội, không súc miệng đánh răng, trây trét tro hay bùn nhơ khắp mình cho thật dơ dáy, tuyệt thực, ngủ ngồi, ngồi xổm, hoặc ngồi chồm hổm rồi nhảy nhảy để di chuyển v.v…
Lối tu khắc khổ hành xác nầy, chính Đức Phật đã trải qua một thời gian và cuối cùng, Ngài đã quyết định từ bỏ và không chấp nhận lối tu nầy. Vì đây là lối tu mà họ quá đặt nặng ở nơi hình thức, chỉ biết hành hạ xác thân cho cực kỳ đau đớn, trong khi đó, thì họ lại quên đi sự gạn lọc phiền não ở nơi tự tâm. Khổ đau hay giải thoát không phải ở nơi thân mà ở nơi tâm. Người ta quên rằng, một linh hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện. Thử hỏi hành hạ xác thân như thế được lợi ích gì? Chính cái tâm mới là cái chủ động quan trọng. Người tu hành, theo Phật, chúng ta cần phải tránh hai thái độ cực đoan: một là quá khắc khổ; hai là quá xa hoa. Một đời sống chỉ biết thụ hưởng dục lạc vật chất không thôi, thì đó cũng là một tai họa cho sự sa đọa. Cuối cùng, con đường Phật chọn để thật hành, đó là một nếp sống trung đạo. Một nếp sống hài hòa giữa thân và tâm.
Trong kinh, Phật thường nêu ra dẫn dụ, cái thân nầy dụ như chiếc bè, nếu nói theo bây giờ như một chiếc xe. Hãy khéo biết lợi dụng nó để tu hành. Cũng như khéo lợi dụng chiếc bè hay chiếc xe để đi đến nơi mà mình muốn đến. Lợi dụng khác với nghĩa nô lệ hay cung phụng. Nô lệ hay cung phụng là ta hoàn toàn mất hết tự chủ tự do. Do đó, ta sẽ chuốc lấy bao nhiêu khổ lụy vì thân. Thế nên, thái độ khôn khéo của người biết tu, là ta nên điều hòa thân tâm. Đối với tự thân, ta cũng phải tỏ thái độ trân kính không nên hành hạ hủy hoại, vì nó giúp ta rất nhiều trên bước đường tu học. Khi chưa đạt được mục đích, ta không nên khinh thường nó. Chưa qua đến bờ, mà ta lại hủy hoại thuyền bè, thì đó là thái độ của người kém khôn ngoan.
Tóm lại, qua lời Phật dạy trong pháp cú trên, mọi khổ hạnh hành hạ xác thân, đó không phải là biện pháp hay để đạt được tâm thanh tịnh. Mà muốn đạt được tâm thanh tịnh, chúng ta cần phải thường xuyên phản quán nhìn kỹ lại mình để gạn lọc phiền não. Vọng tưởng phiền não có vơi đi, thì bản tâm ta mới có được phần nào sáng suốt thanh tịnh.
Nghi hoặc là con đẻ của si mê. Người tu hành mà không trừ nghi hoặc, thì khó được giải thoát. Bởi nghi hoặc là một chướng ngại lớn trên bước đường hành thiện của người tu. Thế nên, người tu muốn được an lạc giải thoát, cần phải dứt trừ nghi hoặc. Muốn đoạn trừ nghi hoặc, tất nhiên phải có trí huệ. Có trí huệ soi sáng, thì bóng tối nghi hoặc sẽ không còn.
Chính vì thế, mà pháp cú trên Phật nhấn mạnh đến lối tu hành chuyên khổ hạnh hành xác, thật chẳng có lợi lạc gì, nếu như người ta cứ mãi ôm lòng nghi hoặc.
142. Người nào nghiêm giữ thân tâm tịch tịnh [6], chế ngự, khắc phục ráo riết trên đường tu Phạm hạnh[7], không dùng dao gậy gia hại sinh linh, thì chính người ấy là Bà-la-môn, là Sa-môn, là Tỳ-kheo [8] vậy.
Even though he be well-attired, yet if he is poised, calm, controlled and established in holy life, having set aside violence towards all beings – he, truly, is a holy man, a renunciate, a monk.
Kệ Tụng
Ai sống trang nghiêm thân
Nhưng an tịnh, nhiếp phục
Sống kiên trì, phạm hạnh
Không gia hại sinh linh
Xứng danh Bà La Môn.
Lược giảng
Phật nói pháp cú nầy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến quan đại thần Santati.
Theo truyện tích, do lòng trung thành, sau khi dẹp giặc xong trở về, ông được vua Ba tư Nặc cho ông ta làm vua nhiếp chánh cai trị trong vòng bảy ngày. Trong thời gian ngắn ngủi nầy, Santati không màng đến việc nhiếp chánh mà chỉ một bề vui chơi hưởng lạc thỏa thích. Trên đường du ngoạn hành lạc cùng với các cung phi, ông gặp Đức Phật, nhưng ông không để ý đến. Đức Phật biết ông không bao lâu nữa sẽ chứng quả A la hán. Đức Phật nói với Ngài A Nan, nhưng các Tỳ kheo khác không tin và bất bình cho rằng, một kẻ đang trụy lạc thỏa thích như thế làm gì đắc quả A la hán? Chứng quả A la hán đâu phải là chuyện dễ dàng mà sao Đức Thế Tôn lại nói như thế. Dù bất bình không tin, nhưng họ không nói ra. Song, quả thật, ông nầy, vì một nàng cung phi mà ông yêu thương nhất, trong khi đang vui chơi lại ngả bệnh và chết ngay tức khắc. Buồn quá, ông đến đức Phật và được đức Phật nói pháp cho ông nghe. Nghe xong, ông liền tỉnh ngộ và chứng quả A la hán. Sau đó, Phật bảo ông thuật lại chuyện tiền kiếp của ông cho mọi người nghe. Vâng lời Phật dạy, ông kể hết mọi việc… Và cũng nhân đó, Phật mới nói pháp cú nầy.
Xưa nay, là con người không ai lại không ham địa vị chức tước quyền cao và cũng không ai lại không thích thụ hưởng những khoái lạc thỏa mãn dục tính. Đó là bản chất cố hữu của con người phàm tục. Tuy nhiên, thú vui chỉ mở đường cho đau khổ. Cờ bạc, rượu chè, hút xách, đĩ điếm, dâm ô v.v… Đó là những thú vui hành lạc. Nhưng trong khi hưởng lạc, người ta lại quên rằng, vui đó rồi khổ đó. Khi vui chơi ít ai nghĩ đến đau khổ. Đời là tương đối, hễ có vui là có khổ. Vì trong khi vui sướng đã nẩy mầm khổ đau trong đó rồi. Cũng như trong hội ngộ đã ngầm chứa mầm chia ly. Phật dạy, người Phật tử phải có cái nhìn như thế. Đó là cái nhìn của một con người có tuệ giác sắc bén.
Nhưng có điều, nhơn vô hoạn họa bất hồi đầu. Nếu ở đời, chỉ có một con đường vui sướng không, không có khổ, thì chắc chắn không ai nghĩ đến chuyện tu hành. Santati nhờ lòng trung thành, nên ông được phần thưởng đích đáng do vua Ba tư Nặc ban cho. Được thay quyền vua, lòng ông vô cùng phấn khởi, dành hết thời gian để hưởng lạc. Vì thời gian quá ngắn ngủi, chỉ có bảy ngày. Nhưng ông quên rằng, cuộc vui hưởng lạc nào rồi cũng tàn. Đối với ông, cuộc vui chưa tàn thì tai họa lại xảy đến.
Nhờ cái chết của nàng cung phi mà ông đã hết lòng yêu thương sủng ái, nên đã thức tỉnh ông để ông đến gặp đức Phật. Và nhờ nghe Phật thuyết giảng xoáy mạnh vào bản chất sinh diệt vô thường của con người, nên ông được tỉnh ngộ và đắc quả A la hán. Như thế, trong niềm đau cùng cực, người ta lại tỉnh ngộ rất nhanh. Đúng là trong họa có phước và trong phước có họa. Nhưng, ở đây ông Santati đã khéo chuyển họa thành phước. Ở đời, người ta thường nói sau cơn mưa trời lại nắng, hay cực dương lại sanh âm. Chớ nếu mưa hoài thì cũng chết mà nắng hạn hoài thì cũng tiêu ma. Còn sống trong vòng tương đối là như thế. Nhơn cùng thì phải tắc biến, mà có biến thì mới tắc thông vậy.
Nghiêm giữ thân tâm tịch tịnh, đây là Phật minh định rõ con đường dẫn đến an lạc hạnh phúc cho người Phật tử hành trì. Hành trì điều gì ? Tức nghiêm trì giới luật. Có nghiêm trì giới luật Phật cấm, thì người Phật tử mới có được đời sống tự do giải thoát. “Chế ngự khắc phục ráo riết, thường tu phạm hạnh”. Cụm từ nầy, đã nói lên cái cốt tủy của Phật giáo. Chế ngự khắc phục có khác gì là “phản quan tự kỷ”. Mà phản quan tự kỷ là cốt lõi của người tu. Có nhìn lại mình, mới thấy được cái gốc rễ lỗi lầm của mình để mà thanh lọc chuyển hóa.
Ngày xưa, khi còn là thái tử, vua Trần Nhân Tôn đã được Tuệ Trung Thượng Sĩ khai hóa bằng một câu nói ngắn gọn súc tích nầy: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự bất tùng tha đắc”. Hằng xem xét lại mình đó là phận sự gốc của người tu, đừng để tâm chạy theo ngoại cảnh. Có thể nói, qua câu nói đó, đã tóm thâu hết yếu lý của hành giả tu Thiền hay tu bất cứ pháp môn nào khác. Qua câu nói đó, vua Trần Nhân Tôn đã lãnh hội được yếu chỉ tu Thiền. Và cũng chính nhờ câu nói đó, mà về sau nhà vua đã trở thành một vị sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đó là câu chuyện đã xảy ra vào đời nhà Trần ở Việt Nam.
Còn ở Trung Hoa thì sao? Xưa kia, chính Ngài Thần Hội cũng nhờ đức Lục Tổ Huệ Năng khai hóa một câu nói: “Ta thấy là thấy lỗi mình, còn không thấy là không thấy lỗi người”. Một câu nói tuy ngắn gọn, nhưng nó có một tác dụng xoáy mạnh vào tâm trí của Sa Di Thần Hội. Và từ đó, câu nói ấy luôn luôn hun đúc tưới tẩm một con người về sau trở thành vị Tổ sư Thiền Tông nối thạnh dòng Thiền Tào Khê bất diệt. Đó là câu chuyện xảy ra vào đời Đường Trung Hoa. Tuy không gian và thời gian có sai khác, nhưng tinh thần giác ngộ vẫn như nhau.
Phạm hạnh là thanh tịnh. Là Sa môn hay Tỳ kheo hạnh tu của các ngài là đoạn dục khử ái, nhận rõ nguồn tâm. Có xa lìa ái dục, thì tâm mới trong sáng và thanh tịnh. Chuyển hóa thân tâm, không hẳn chỉ dành riêng cho các vị xuất gia, mà cư sĩ tại gia, nếu có quyết tâm tu hành, thì cũng đạt được thánh quả. Điều nầy, trong lịch
sử thời Phật cũng như trải qua các thời đại sau nầy, đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Có biết bao cư sĩ tại gia tu hành đạt được giải thoát. Trong Tịnh Độ Tông, có rất nhiều cư sĩ nam nữ niệm Phật được vãng sanh Cực Lạc. Về Thiền tông, thì đời Trần, có vua Trần Thái Tông và Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đạt ngộ lý Thiền và có một đời sống xuất cách tự tại giải thoát, khó ai có thể sánh kịp. Ngoài ra, còn nhiều người tu tại gia mà bản thân họ đã đạt được an lạc hạnh phúc khá cao. Thế nên, luận về việc tu hành, chuyển hóa vô minh phiền não, thì không luận là tại gia hay xuất gia, nếu ai có nỗ lực quyết chí tu hành, đều có thể đạt được thành quả tốt đẹp cả.
Một người tu hành, dù tại gia hay xuất gia, chỉ biết một bề mưu cầu lợi lạc hạnh phúc cho riêng mình, mà không nghĩ đến hạnh phúc của kẻ khác, thì chưa phải xứng danh là người Phật tử. Giết hại sanh linh, gây đau khổ tổn thương đến sanh mạng của những loài khác, đó là điều cấm kỵ mà Phật thường khuyến nhắc người Phật tử không nên hành động sát hại. Mình biết bảo vệ hạnh phúc cho mình, thì người khác hay loài khác cũng muốn bảo vệ hạnh phúc của chúng. Hiểu và thương như thế, thì trong đời sống hằng ngày, ta không nên gây tổn hại cho bất cứ ai. Đó là phương cách sống hay nhất mà Phật thường khuyến khích người Phật tử nên có tấm lòng rộng lượng vị tha hòa ái và nên yêu thương tất cả muôn loài.
143. “Thật khó tìm ở đời,
Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích
Như ngựa hiền tránh roi.”
144. “Như ngựa hiền chạm roi,
Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn,
Thiền định cùng trạch pháp.
Minh hạnh đủ, chánh niệm,
Ðoạn khổ này vô lượng.”
145. “Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân.”Lược giải
143. Biết lấy điều hổ thẹn để tự cấm ngăn mình, thế gian ít người làm được. Nhưng người đã làm được, họ khéo tránh điều khổ nhục như ngựa hay khéo tránh roi da.
Only rarely is there a man in this world who, restrained by modesty, avoids reproach, as a thoroughbred horse avoids the whip.
Kệ Tụng
Người biết thẹn, tự chế
Thật khó tìm ở đời
Ai cũng tránh chỉ trích
Như ngựa hay tránh roi.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến trưởng lão Pilotika. Vị trưởng lão nầy, trước khi xuất gia, ông ta là một thanh niên đói rách ăn xin lang thang rày đây mai đó. Sau khi gặp Tôn giả A Nan, được A Nan thâu nhận cho xuất gia. Khi xuất gia, ông trở nên một Tỳ kheo đắp y, do tín thí dâng cúng và đi hành hóa khắp nơi.
Một hôm, ông nghĩ đến cái tấm y giẻ rách mà xưa kia ông đã mặc vào mình để đi xin ăn. Nay trở lại tìm kiếm nơi mà trước kia ông đã quăng nó trên một cành cây. Trong khi tìm kiếm, ông khởi niệm thiền quán và tự thống trách với tấm lòng hổ thẹn. Ông tự trách: tại sao mình phải tìm kiếm nó? Tìm kiếm nó để làm gì ? Vì cái đó đã mất rồi. Cái gì đã mất rồi, tại sao mình phải tìm kiếm lại? Tìm kiếm thế có ích lợi gì không ? Ông cứ mãi thiền quán về những câu hỏi đó. Không bao lâu, ông đã chứng quả A la hán. Và từ đó, mọi vọng tưởng phiền não ràng buộc thế gian coi như chấm dứt. Khi trở về tinh xá, ông trình bày sự thật về sự chứng quả của ông. Khi ông nói, các vị Tỳ kheo khác không tin, cho là ông nói dối. Liền đó, ông được đức Phật xác chứng lời ông nói là sự thật. Và do đó, Phật nói pháp cú nầy.
Trong đạo Phật thiền quán rất quan trọng. Bất cứ thiền quán về vấn đề gì. Tu học mà thiếu thiền quán, khác nào như người đầu bếp nấu ăn mà không có muối. Dù người đầu bếp đó có tay nghề thiện xảo đến đâu, mà thiếu muối cũng không làm sao nấu thức ăn ngon được. Thiền quán đối với người tu học cũng thế. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, nếu thiếu thiền quán, cũng không thể nào đạt được sở nguyện. Nhờ thiền quán mà trí tuệ khai phát. Bởi thiền quán tự nó đã có định rồi. Khi ta tập trung vào một đối tượng nào đó để quán sát, tất nhiên, tâm ta sẽ dễ được an định. Như chúng ta quán niệm hơi thở chẳng hạn. Nhờ theo dõi quán sát hơi thở lâu ngày mà tâm ta được an định. Điều nầy là một lẽ thật. Nếu như chúng ta cố gắng thật hành, thì chúng ta sẽ thấy cái kết quả của nó.
Hổ thẹn là nghĩa của hai chữ tàm quý. Tàm quý là hai món tâm sở thiện trong mười một món thiện của Duy Thức Học. Tàm nghĩa là hổ thẹn với chính mình. Còn quý là hổ thẹn với người khác. Cả hai đều nói lên một ý nghĩa cao đẹp hướng thượng. Hai món tâm sở thiện nầy rất cần thiết trong đời sống. Con người sở dĩ hơn loài cầm thú là vì con người còn biết hổ thẹn. Nhờ biết hổ thẹn nên con người không làm những điều sai quấy xấu ác. Nghiệp dụng của hai tâm sở nầy là ngăn ngừa hai món tâm sở ác là “vô tàm và vô quý”. Người không biết xấu hổ, chuyện gì họ cũng dám làm. Dù đó là chuyện tội ác tày trời. Họ bất chấp dư luận khen chê. Họ thuộc hạng người mà người ta thường gọi họ là thứ mặt chai mày đá hay vô liêm sỉ. Dù xã hội có lên án hay chê trách nguyền rủa họ đến đâu, họ cũng chẳng màng để ý đến. Thói nào vẫn tật nấy. Thật đây là hạng người rất khiếp đảm và vô cùng tai hại cho xã hội.
Sống trong xã hội loài người, tất nhiên, con người cần phải có nhân phẩm. Mất đi đặc tánh cố hữu nầy, con người đâu khác gì loài cầm thú. Vì tự trọng thể diện nhân phẩm, nên người ta không làm những chuyện bậy bạ trái với luân thường đạo lý. Người biết tự trọng xấu hổ khi nghĩ quấy làm sai, họ đều biết ăn năn hối cãi. Trừ phi con người mất hết lương tâm đạo đức, mới không biết tự trọng nhân phẩm. Nếu người còn có chút lương tâm lương tri đạo đức, thì không ai lại không biết xấu hổ. Dù việc làm sai trái đó không ai biết, nhưng chính họ cũng tự cảm thấy xấu hổ. Họ tự thầm trách hối hận chính họ. Họ bị lương tâm cắn rứt giày vò khó chịu. Họ là người đang đi trên con đường thánh thiện. May mắn thay! Nhơn loại cũng còn có những hạng người biết hướng thiện nầy. Nếu không, thì cả thiên hạ đều đại loạn.
Điều quan yếu hơn nữa, trong pháp cú trên, Phật muốn dạy chúng ta phải có tâm tàm quý trước khi nói năng hay hành động. Nếu biết lời nói hay hành động của mình nhằm mục đích: thủ đoạn, lừa bịp, gian xảo, dối trá… lợi mình hại người, thì Phật khuyên chúng ta nên biết xấu hổ ngăn ngừa. Một khi đã ngăn ngừa tiêu diệt ngay trong trứng nước, thì chắc chắn không có hậu quả xấu xảy đến với chúng ta. Người nào biết ngăn ngừa từ trong ý tưởng như thế, Phật cho đó là người khéo biết tu và thật hiếm có trên thế gian nầy.
Tuy khó, nhưng nếu ai cố gắng thật hành được, thì Phật nói người đó khéo tránh khổ nhục, như ngựa hay khéo tránh roi da. Con ngựa hay, khi thấy người ta nhá roi lên là nó sẽ biết tránh ngay. Nhờ thế, mà nó không bị ăn đòn để phải chịu đau khổ. Qua so sánh nầy, Phật ngầm ý nhắc nhở mọi người, nên phải có tâm tàm quý ngay từ trong ý nghĩ, chớ đừng để cho nó phát hiện ra ngoài thành hậu quả không tốt. Chừng đó, có ăn năn hối cãi thì cũng đã muộn rồi. Chi bằng ta khéo tránh nhân xấu, thì sẽ không có quả xấu.
Nếu ai cũng hằng nhớ đến hai tâm sở thiện “Tàm” và “Quý” nầy, thì chắc chắn trong đời sống hằng ngày của chúng ta sẽ ít gây ra những cảnh đau khổ cho mình và người. Vì đó là người sống có ý thức. Sống có ý thức là có chánh niệm. Mà có chánh niệm là không có khổ đau. Mong sao, mọi người nên nhớ lời Phật dạy trên để xây dựng một nếp sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội. Có thế, mới thật xứng đáng và đúng với ý nghĩa làm người vậy.
144. Các ngươi hãy nỗ lực sám hối như ngựa đã hay còn thêm roi. Hãy ghi nhớ lấy chánh tín, tịnh giới, tinh tiến, tam-ma-địa (Thiền định) trí phân biệt Chánh pháp, và Minh hạnh túc để tiêu diệt vô lượng thống khổ.
Like a thoroughbred horse touched by the whip, be strenuous, be filled with spiritual yearning. By faith and moral purity, by effort and meditation, by investigation of the truth, by being rich in knowledge and virtue, and by being mindful, destroy this unlimited suffering.
Kệ Tụng
Như ngựa hay bị roi
Hãy nhiệt tâm, tinh cần
Với tín, giới, tinh tấn
Thiền định cùng trạch pháp
Đầy đủ trí, giới đức
Hãy trừ vô lượng khổ
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nói tại tinh xá Kỳ Viên, cũng liên quan đến trưởng lão Politika đã nói ở trên.
Đọc qua pháp cú nầy, chúng ta nên chú ý những từ ngữ mà Phật răn dạy. Để hiểu phần nào qua lời Phật dạy trên, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ qua từng vấn đề một.
1. Nỗ lực Sám Hối: Sám hối là một thuật ngữ của Phật giáo. Sám hối nguyên tiếng Phạn là samma, người Trung Hoa dịch là hối quá. Sám có nghĩa là ăn năn lỗi trước. Hối nghĩa là nguyện chừa bỏ lỗi sau. Nguyện từ đây về sau không bao giờ tái phạm lại lỗi lầm đó nữa. Sám hối có nhiều cách: Hồng danh sám hối. Tác pháp
sám hối. Thủ tướng sám hối và cuối cùng là Vô sanh sám hối. Ba sám hối trước thuộc về “Sự”, cái sau thuộc về “Lý”. Về ý nghĩa của các loại sám hối nầy, trong Pháp Cú tập một, chúng tôi đã có giải thích qua. Ở đây, chúng tôi không lặp lại. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, là con người sống trên đời nầy, không một ai là không lầm lỗi, chỉ trừ các bậc Thánh nhơn. Đã có tội lỗi mà chúng ta muốn hết, thì Phật dạy người Phật tử phải thường xuyên sám hối. Hoặc phát lồ sám hối hay thủ tướng sám hối v.v… tùy theo căn cơ trình độ và sức khỏe của mỗi người mà chọn cho mình một phương pháp sám hối thích hợp. Phương pháp sám hối tuy có cao thấp, sâu cạn, khó dễ khác nhau, nhưng mục đích chính vẫn là sám hối ở nơi tự tâm mình. Vì tội từ tâm khởi, thì cũng phải từ tâm mà sám. Có thế, thì tội lỗi mới thuyên giảm và hết được. Còn sám hối theo kiểu chỉ biết chạy theo hình thức bên ngoài, hì hục khum lên lạy xuống mà không thành tâm cải hối ở nơi tự tâm, thì đó không phải là sám hối đúng cách theo đạo Phật. Người Phật tử sám hối như thế, thì vạn kiếp cũng không hết tội. Cho nên ở đây Phật dạy, người Phật tử phải nỗ lực chuyên cần sám hối từng giây phút nơi tâm mình. Một vọng niệm sai quấy khởi lên, chúng ta liền sám hối. Có sám hối thường xuyên như thế, thì mới chuyển hóa được những hạt giống xấu trong tâm. Như thế, chúng ta mới thực sự sám hối và mới thực sự có lợi ích cho mình và người.
2. Ghi nhớ lấy chánh tín: Chánh tín là niềm tin chơn chánh, là niềm tin đúng với chân lý nhân quả. Nếu chúng ta tin lệch ra quỹ đạo nhân quả Phật dạy, thì đó là mê tín hay tà tín. Do đó niềm tin của người Phật tử rất quan trọng. Nếu người Phật tử đặt định niềm tin sai lệch theo tà ngoại, thì than ôi! Đời ta sẽ rơi vào con đường ác đạo và không biết đến bao giờ mới được thoát ly. Vì thế, nên ở đây, Phật dạy chúng ta cần phải ghi nhớ khắc sâu hai chữ “Chánh Tín”.
3.Tịnh giới và tinh tiến: Phật dạy, người tu hành dù tại gia hay xuất gia, nếu muốn được giải thoát, thì mỗi người phải giữ gìn tịnh giới một cách nghiêm nhặt. Có giữ giới thì tâm ta mới được thanh tịnh, nên gọi là tịnh giới. Ngược lại, nếu chúng ta khinh thường giới luật, không giữ gìn, thì chúng ta sẽ tự chuốc lấy những đau khổ ràng buộc vào thân. Cho nên, giới luật là căn bản của đạo giải thoát mà Phật dạy người Phật tử cần phải nghiêm trì. Hơn thế nữa, sự tu hành không chỉ một ngày một bữa, mà phải thường xuyên áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày. Phải luôn luôn tinh tấn nỗ lực kiên trì. Dù hành trì bất cứ pháp môn nào, người Phật tử muốn có kết quả tốt đẹp, thì phải siêng năng giữ vững ý chí lập trường, quyết lòng đi tới không hề thối bước lui sụt. Có tinh tấn, mới đạt được thành công như ý nguyện.
4. Tam ma địa hay Thiền định: Thiền định là pháp tu căn bản của đạo Phật. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, nếu tâm không an định, thì đó là tu sai với chánh pháp. Và như thế, thì không phải pháp tu của đạo Phật. Vì tâm có định, thì trí huệ mới khai phát. Theo giáo lý Nguyên Thủy, Phật dạy, muốn có định, thì hành giả phải giữ giới nghiêm minh như đã nói ở trên. Nhờ giữ Giới nên mới có Định và từ Định mới phát Huệ. Đây gọi là “Tam vô lậu học”, là ba môn học giải thoát phiền não, chấm dứt sanh tử khổ đau. Hành giả tu theo ba môn học nầy, thì chắc chắn sẽ được an lạc giải thoát.
5. Trí phân biệt chánh pháp: Trong bài kệ thì gọi là Trạch pháp. Người tu cần phải chọn cho mình một pháp môn thích hợp với căn cơ trình độ của mình. Vì trong đạo Phật có vô lượng pháp môn tu. Thế nên, tu hành muốn có kết quả, tất nhiên, chúng ta phải trạch pháp. Trạch là chọn lựa. Pháp là giáo pháp hay pháp môn. Muốn chọn lựa đúng pháp, thì cần phải có trí huệ biện biệt, nên nói là Trí phân biệt chánh pháp.
6. Minh hạnh túc để tiêu diệt vô lượng thống khổ: Minh hạnh túc còn gọi là Minh thiện hành hay Minh hạnh viên mãn. Nghĩa là đầy đủ Minh và Hạnh. Đây là một trong mười danh hiệu của Phật. Minh có nghĩa là sáng suốt, tức trí huệ. Còn Hạnh là công hạnh, biểu hiện ở nơi oai nghi hình tướng, tức chỉ cho phần giới luật. Nói cách khác, Minh thuộc về Trí, còn Hạnh thuộc về Phước. Người tu hành cần phải đủ cả hai phước trí trang nghiêm. Đức Phật nhờ tu cả hai, nên Ngài mới tiêu diệt vô lượng thống khổ và đạt được giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Tóm lại, người tu từ địa vị phàm phu mà muốn tiến lên Thánh quả, thì Phật dạy, trước hết phải sám hối những tội lỗi đã gây và nguyện một lòng tiến tu không tái phạm như ngựa hay lại thêm roi. Trong khi tiến tu, cần phải ghi nhớ chánh tín nhân quả, không được tin sằn nghĩ quấy, theo tà ma ngoại đạo. Chỉ một lòng tin Tam Bảo đúng theo chánh pháp Phật dạy. Phải luôn luôn lấy giới luật làm thầy. Ngày đêm luôn nhớ giữ gìn tịnh giới một bề tinh tấn như con tuấn mã thẳng tiến không hề bê tha giải đãi. Nhờ đó, mà được thiền định và có trí huệ sáng suốt để biện biệt rành rõ pháp môn tu hành. Bằng vào nỗ lực quyết chí tu hành nên hành giả được đầy đủ phước đức và trí huệ. Từ đó, mọi phiền não không còn và được an lạc giải thoát.
145. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm tên lo uốn tên, thợ mộc lo nẩy mực cưa cây, người làm lành thì lo tự chế ngự [9].
Irrigators regulate the waters, fletchers straighten arrow shafts, carpenters shape wood, and the good control themselves.
Kệ Tụng
Người dẫn thủy dẫn nước
Kẻ làm cung nắn tên
Người thợ mộc uốn ván
Bậc chí thiện tự điều.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên có liên quan đến Sa di Sukha. Tên Sukha là do Tôn giả Xá Lợi Phất đặt cho. Chữ Sukha có nghĩa là hạnh phúc. Khi lớn lên được 7 tuổi, chú bé Sukha liền xin mẹ đi xuất gia và được bà mẹ vui vẻ bằng lòng. Bà mẹ giao chú bé và xin được thế phát xuất gia với Ngài Xá Lợi Phất. Từ đó, chú Sa di Sukha được Ngài Xá Lợi Phất chỉ dạy cho một phương pháp thiền quán. Một hôm, Sa di Sukha trông thấy người làm ruộng thì lo dẫn thủy nhập điền, người thợ làm tên thì đang uốn từng mũi tên, thợ mộc thì đẻo bánh xe v.v… Thấy thế, Sukha liền nghĩ đến cách điều phục tâm mình. Nhờ biết cách điều phục tâm, nên không bao lâu Sukha chứng quả A la hán. Nhân đó, Phật nói pháp cú nầy.
Qua pháp cú trên, ta thấy Phật nêu ra ba hình ảnh rõ rệt. Mỗi hình ảnh là một công việc chuyên môn. Việc ai người nấy làm, không xen tạp lộn lạo. Người làm ruộng thì lo dẫn nước vào ruộng. Người làm tên, thì cứ miệt mài làm tên. Thợ mộc thì lo đẻo làm bánh xe. Tất cả, đó chỉ là những công việc làm thường nhựt. Đối với những việc làm nầy, chúng ta cũng vẫn thấy hằng ngày. Nhưng đối với chúng ta, thấy thì thấy, tâm ta không có gì khác lạ. Nhưng đối với sư chú Sa di Sukha thì có khác. Mặc dù tuổi đời còn nhỏ, nhưng sư Chú được đào tạo trong một môi trường khá đặc biệt. Sư Chú được sự hướng dẫn dạy dỗ của một vị Thầy giáo thọ rất giỏi. Một bậc trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn. Đó là Ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất chỉ dạy cho sư Chú biết cách thiền quán. Nhờ thực tập hằng ngày, nên công phu thiền quán của sư Chú đã đến độ chín mùi. Do đó, khi thấy những việc làm đó hiện ra trước mắt, sư Chú liền phản quán và biết rõ cách điều phục chế ngự tâm mình. Từ đó không bao lâu, sư Chú Sukha đạt được quả vị A la hán.
Qua đó, cho chúng ta một bài học kinh nghiệm quá rõ. Khi vào đạo, được nhân duyên xuất gia, lại gặp một bậc Thầy đầy đủ kinh nghiệm trong sự hướng dẫn tu tập, thì đó là một cơ may rất lớn. Gặp được Minh Sư không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chúng ta có được đầy đủ phước duyên, thì mới có thể gặp được. Như thế, thì chắc chắn cơ hội đạt đạo đối với chúng ta sẽ không còn xa lắm. Cho nên, đồng thời xuất gia, cùng tu, cùng học, nhưng sự tiến đạo nghiêm thân của mỗi người có sai khác. Lý do, một phần là vì ta không gặp được vị thầy hướng dẫn giỏi. Người xưa, họ rất kỹ trong việc tầm sư học đạo. Dù vị thầy không có danh vọng tên tuổi, hằng sống ẩn dật trong chốn thâm sơn cùng cốc hay ở một nơi nào đó mà ít người biết đến, thế mà với cặp mắt tinh đời hiểu đạo, người ta vẫn mang khăn gói đi tìm tới vị thầy đức độ đó để nương tựa cầu pháp tu học.
Ngược lại, ngày nay thì có khác. Phần nhiều, người ta hay tìm đến những vị thầy có tên tuổi địa vị cao trong đạo. Vì có địa vị cao, nên được nhiều người biết đến. Người ta lại thích tìm đến để nương tựa, vì như thế sẽ được ảnh hưởng danh tiếng lây. Người chơn tu không cần địa vị. Địa vị của người xuất gia là khất sĩ. Khất sĩ là người xin ăn. Về vật chất, thì xin cơm áo của đàn na thí chủ để nuôi thân. Về tinh thần, thì xin giáo pháp của Phật để nuôi lớn pháp thân huệ mạng. Phật không có địa vị chức tước gì cả. Người ta gọi Phật là Như Lai hay Thế Tôn. Ngoài ra, không gọi một chức vụ gì khác, dù đức Phật là người lãnh đạo cầm đầu Tăng đoàn.
Đối với người xuất gia thời nay, sao có quá nhiều chức vụ. Có người có hằng lô chức vụ. Chức vụ nào cũng kêu to. Rốt lại, cả ngày mãi quây quần chạy theo những chức vụ đó mà quên đi sự tu hành. Vì mỗi chức vụ là một trách nhiệm nặng nề phải làm. Không làm thì bị người ta chê trách, cho rằng, không chu toàn trách nhiệm. Ấy mới chết! Nhưng thà chết, biết nói sao hơn! Danh càng cao, thì té càng nặng. Dù biết trước là sẽ té và chắc chắn là té nặng, té đau! Nhưng vì háo danh vẫn không từ bỏ. Nhưng cái danh vị đó chỉ là thứ hư danh rỗng tuếch. Hễ có danh là có lợi. Cuối cùng, đời tu bị chết đuối trong biển danh lợi, khác nào như con chó chết đuối giữa dòng sông. Thật là tội nghiệp quá!
Nếu ta may mắn gặp được vị Thầy chơn chánh tu hành, không màng danh lợi, thì đó là đại phước. Nhưng đối với thời nay, thì thật là khó tìm. Thường những vị nầy, ít xuất hiện trên trường danh lợi. Vì họ lo ẩn tích mai danh để dưỡng tâm nuôi đức. Nếu nói theo ngôn ngữ nhà Thiền, thì gọi là nuôi lớn Thánh thai. Đến tu học với những vị Thầy như thế, đối với xã hội, tuy vô danh tiểu tốt, nhưng đối với đạo lý giải thoát, thì lại rất gần. Đó là một sự thật. Gương hạnh giải thoát người xưa còn đó. Những tấm gương xưa, đủ chứng minh cho chúng ta thấy rõ. Thấy rõ để noi theo và trên hết là chọn cho mình có một hướng đi đúng Chánh pháp. Có thế, thì trên đường tu hành mới có hy vọng an lạc giải thoát phần nào. Bằng không, thì dù tu lâu ở trong chùa, chỉ còn lại là tính theo thời gian năm tháng lâu mau mà thôi!
Nói thế, không có nghĩa là chúng ta quơ đủa cả nắm. Dĩ nhiên, cũng có những vị tuy có chức vụ trong đạo, vì muốn để thuận theo thời thế cho thích nghi với xã hội văn minh tân tiến thời nay, nhưng các Ngài vẫn tu hành có kết quả cao. Nghĩa là vẫn có phần nào an lạc giải thoát tự tại trong cuộc sống. Tuy nhiên, đối với những bậc Thầy có đầy đủ đạo lực đức hạnh như thế, thử hỏi được có bao nhiêu người trên thế gian nầy? Dù cho viện dẫn biện minh dưới hình thức nào, chúng ta cũng không thể qua khỏi cặp mắt tinh tế của người đời. Dù người đời không biết, nhưng mỗi người chúng ta cũng tự biết. Chỉ có lòng ta mới biết rõ ta nhất. Giấu được người chớ làm sao giấu được mình? Chỉ có đức tánh thành thật mới thực sự lâu bền và mới thực sự là người có đạo đức. Nói rõ hơn mới thực sự là bậc chơn chánh tu hành. Ngoài ra, chỉ là giả dối lợi dụng chiếc áo nhà tu để mưu cầu lợi dưỡng mà thôi!
Phẩm Già
146. “Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn?”
147. “Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu.”Lược giải
146. Làm sao vui cười, có gì thích thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thiêu đốt. Ở trong chỗ tối tăm bưng bít sao không tìm tới ánh quang minh?
When this world is ever ablaze, why this laughter, why this jubilation? Shrouded in darkness, will you not seek the light?
Kệ Tụng
Làm sao cười thích thú
Khi đời mãi bị thiêu
Sống trong cảnh tối tăm
Sao không tìm ánh sáng?
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến những nữ cư sĩ bạn của bà Tỳ xá Khư. Vì tin tưởng tín nữ Tỳ xá Khư, nên các ông chồng cho một số bà vợ theo để học hỏi với bà Tỳ xá Khư. Vì họ cho rằng những người vợ của họ sẽ sửa đỗi tánh nết và có chánh niệm tốt.
Một hôm, vào ngày lễ hội, họ cùng nhau đến lạc viên vui chơi, đồng thời hầu rượu cho những ông chồng. Sau ngày lễ hội, những bà vợ lén chồng đến một lạc viên vui say chè chén, đến đổi say mèm không còn biết trời đất là gì. Sau đó, các bà nầy bị các ông chồng biết được đánh đập hành hạ.
Hôm khác, vì ngựa quen đường cũ, nên các bà lại rũ nhau tụ tập ở lạc viên uống rượu nữa. Vì muốn bảo vệ uy tín cho các bà và nhất là sợ bọn ngoại đạo chê cười, nên Bà Tỳ xá Khư dẫn họ đến tinh xá Kỳ Viên gặp Phật. Đến trước Phật, trong lúc các bà nầy với cơn men say vẫn còn. Lợi dụng cơ hội nầy, ma vương nhập vào điều khiển thân xác các bà để quậy phá Phật. Biết rõ sự việc, Phật liền dùng thần lực nhiếp phục ma quân và làm cho các bà tỉnh táo trở lại. Nhân đó, Phật nói pháp cú nầy.
Thời Phật là thời của Chánh pháp. Phật và các Thánh đệ tử còn đó. Pháp âm của Phật vẫn vang dậy hằng ngày. Nhưng không phải ai ai cũng được thừa hưởng. Dù sống trong thời đại của Phật, nhưng nếu không có duyên lành gặp Phật, tu tập hành thiện, thì những tệ nạn xã hội vẫn xảy ra. Song có điều, khi gặp Phật, thì mọi đau khổ sẽ chấm dứt.
Các bà nầy, tuy có gia đình, nhưng vì thiếu tu học, không có thực tập Thiền quán, chánh niệm, nên các bà làm nô lệ cho dục vọng, bước chân vào con đường trụy lạc sa đọa. Nhưng may mắn thay! Các bà còn có người bạn tốt là bà Tỳ xá Khư, một người nữ cư sĩ tu học đàng hoàng, thật hành đúng theo chánh pháp, nên hướng dẫn các bà đến gặp Phật. Từ đó, các bà nghe Phật dạy, rồi ăn năn hối lỗi nguyện sửa đổi tâm tánh và thật hành đúng theo lời Phật dạy. Nhờ đó, mà các bà được an lạc không còn đau khổ nữa.
Là con người, không luận phái tính, ai ai cũng thích thụ hưởng khoái lạc. Ham thích thụ hưởng ngũ dục lạc: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ham ăn, mê ngủ, có người nào lại không ham muốn. Chỉ trừ có hai hạng người: một là các bậc Thánh nhơn, hai là những kẻ cuồng tâm loạn trí. Ngoài ra, ai ai cũng đua đòi ham thích.
Rượu là một trong những thứ có chất men say kích thích. Nó là thứ độc tố giết hại con người. Ngoài sự gây tác hại bệnh hoạn ra, nó còn làm cho con người mất hết nhân cách. Khi đã uống quá chén, con người mất hết tự chủ. Rượu tuy không lỗi, nhưng lỗi ở nơi con người sử dụng. Ở một chừng mực nào đó, thì rượu là mối tương giao trong ân tình lễ nghĩa. Vì vậy, ngày xưa, người ta hay dùng trà rượu để giao tình. Nhưng là con người còn quá nhiều dục vọng thèm khát, nên khó có ai tự biết khắc chế chừng mực. Từ đó, rượu không còn là lễ nghĩa nữa, mà nó trở thành chén tạc chén thù, và rồi gây ra lắm điều họa hại. Chẳng những hại bản thân mình mà còn hại lây đến những người chung quanh khác. Một khi thần men đã nhập vào đưa đường chỉ lối, thì than ôi! Con người mất hết bình tĩnh. Khi không còn bình tĩnh, thì dễ gây ra lắm cảnh tang thương hệ lụy.
Như những trường hợp xảy ra nhan nhãn hằng ngày trong xã hội. Nào là gây ra tai nạn xe cộ, đụng chết người, làm trở ngại lưu thông, đánh lộn, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vân vân và vân vân. Chính vì thế, mà Phật cấm người Phật tử vô cớ không được uống rượu. Ngoài ra, những loại kích thích tố gây mê khác, như á phiện, cần sa v.v… nói chung là những loại ma túy, thì Phật cấm người Phật tử không được dùng đến.
Xã hội ngày nay, phần lớn người ta đi tìm hạnh phúc trong khoái lạc. Họ vui cười thích thú trong khi thụ hưởng. Nhưng người ta quên rằng những cảm thọ khoái lạc đó, chính nó lại là nguyên nhân đưa người ta đến chỗ thân bại danh liệt và cuối cùng là tử vong. Hút chích xì ke, cờ bạc rượu chè, hành lạc dâm ô v.v… tất cả đều là những cảm thọ khoái lạc. Một khi, con người đã lậm vào con đường nghiện ngập nầy, thì hậu quả sẽ ra sao? Câu hỏi nầy, chỉ có những người trong cuộc mới có câu trả lời thích đáng. Chính vì vậy, mà trong pháp cú trên, Phật đã chỉ bày vạch trần cho chúng ta thấy rõ tai hại của sự thụ hưởng khoái lạc.
Phật dạy: “làm sao vui cười, có gì thích thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thiêu đốt” ? Kinh Pháp Hoa Phật dạy:“Tam giới bất an du như hỏa trạch”. Nghĩa là Ba cõi không an dường như nhà lửa. Hiện nhơn loại đang ở trong nhà lửa. Tất cả chúng ta không ai lại không bị lửa tham dục, lửa vô thường thiêu đốt. Thế mà, chúng ta vẫn vui chơi thỏa thích không hay biết gì cả. Dù có biết, nhưng chắc gì chúng ta đã thực sự chịu chạy ra. Thà cam lòng chịu cho lửa tham dục thiêu đốt, miễn sao thụ hưởng được những khoái lạc của ngũ dục, lục trần, là chúng ta đã mãn nguyện lắm rồi! Lửa có đốt cháy chết thân ta ra thành tro bụi cũng chẳng sao! Quả thật, Phật cho chúng ta là những kẻ quá si mê. Cứ mãi cam chịu ở trong cảnh khổ tối tăm giam mình trong ngục tù ngũ dục, không chịu tìm cách thoát ra!
Cứ nhìn vào hiện trạng xã hội, chúng ta thấy, có biết bao người đã và đang nướng mình trong lạc thú. Kết quả ra sao? Là khổ đau tràn ngập, là kéo lê kiếp sống đọa đày trong cảnh thân tàn ma dại. Muốn chết cũng không được, mà muốn sống cũng chẳng kham. Thế là hết! Chết cả cuộc đời! Thật uổng phí làm một kiếp người! Rồi theo luật nhân quả, đời nay đã vậy, đời sau sẽ ra sao? Nỗi khổ nầy, tiếp nối chồng chất nỗi khổ kia. Cứ từng hạt đau thương chảy dài trên chuỗi hạt thương đau. Một chuỗi dài đau khổ triền miên, không kỳ hẹn có ngày thoát ra!
Muốn thoát ra, chỉ có một con đường là chúng ta phải hồi tâm chuyển ý. Phải mạnh dạn cương quyết thiết tha chuyển nghiệp. Phải dùng trí huệ để soi sáng cho việc làm hành động của mình. Nhờ vào trí huệ soi sáng đó, chúng ta mới có đủ nghị lực sáng suốt, can đảm mà dứt trừ. Những ai đã và đang lâm vào con đường nghiện ngập, xin các bạn hãy vì tương lai và vì sự sống làm người của mình mà hãy mạnh dạn đứng lên quyết tâm cai nghiện làm lại cuộc đời. Có thế, thì mọi khổ đau ngang đó sẽ chấm dứt.
Mong sao, những ai đã lỡ bước đi vào con đường nghiện ngập, chúng ta không nên bi quan, hãy mạnh dạn đứng lên tự cứu lấy đời mình. Một khi đã có quyết tâm, dù chết, ta cũng phải trừ bỏ những nghiệp xấu, không thể để kéo lê cuộc đời mãi đi trong bóng tối của sự đày đọa thể xác và tinh thần trong nỗi tuyệt vọng khổ đau. Sự chuyển hướng làm lại cuộc đời đó là cả một quyết tâm hùng tráng vươn lên. Đó là chúng ta đã thực sự chạy ra khỏi nhà lửa dục vọng thiêu đốt. Và như thế, chúng ta đã tìm lại con đường sống trong ánh quang minh của trí giác. Đó là chúng ta đã thực sự bắt gặp ánh sáng cuối đường hầm. Không có ai và cũng không có bàn tay phép lạ nào cởi trói cho ta, mà chính ta phải tự cởi trói cho ta. Chỉ có ta làm chủ nhân ông quyết định đời ta mà thôi. Mong lắm thay!
147. Hãy ngắm cái thân tốt đẹp này chỉ là đống xương lở lói, chồng chất tật bệnh mà người ta tưởng là êm ái, trong đó tuyệt đối không có gì trường tồn.
Behold this body – a painted image, a mass of heaped up sores, infirm, full of hankering – of which nothing is lasting or stable!
Kệ Tụng
Hãy ngắm thân đẹp này
Nơi tụ hội, chồng chất
Bệnh hoạn, bận tâm nhiều
Thật không gì trường cửu.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Veluvana, có liên quan đến Sirimà.
Sirimà vốn là một cô gái giang hồ ở thành Vương Xá. Cô có một nhan sắc tuyệt đẹp, chuyên sống bằng nghề mãi dâm. Tuy là một cô gái bán thân sinh sống, nhưng hạt giống lành trong tâm cô vẫn có. Một hôm, cô gặp Phật và cô tỏ ra rất hổ thẹn. Đồng thời cô đến trước Phật cầu xin sám hối, vì một sự lỗi lầm gây xúc phạm với nữ cư sĩ Uttarà, vợ của Sumana. Hai vị nầy là con của một phú gia có thế lực. Khi đó, Phật nói kệ cho cô nghe:
Lấy không giận thắng giận
Lấy thiện thắng không thiện
Lấy thí thắng xan tham
Lấy chơn thắng hư ngụy.
Nghe xong bài kệ, cô liền chứng quả Dự Lưu (Tu đà hoàn).
Sau đó, Sirimà xin quy y với Phật và đã được Phật chấp nhận. Kể từ đó, cô ta trở thành một Phật tử tại gia rất thuần thành. Cô thường cúng dường thức ăn cho Phật và chúng tăng. Vì nhan sắc quá đẹp, cho nên cô ta đã làm cho bao nhiêu chàng trai mê say đắm đuối vì cô. Có người, chỉ một lần nhìn qua nhan sắc kiều diễm, thiên kiều bá mỵ của cô, liền đâm ra thầm yêu trộm nhớ và rồi mang bệnh tương tư.
Thời gian không lâu, Sirimà lâm trọng bệnh và chẳng bao lâu cô ta qua đời. Phật hay tin, bảo vua quàng xác để trong nhà thiêu, không nên hỏa táng sớm. Bốn ngày sau, thi thể Sirimà sình trướng lên, giống như một đống thịt lở lói và những con dòi lúc nhúc từ chín lỗ bò ra, trông rất ghê tởm. Vua đánh trống rao truyền cho mọi người đến xem xác Sirimà. Lệnh vua loan truyền, không bao lâu mọi người đến xem đông đúc. Đức Phật và các hàng Tỳ kheo tăng, Tỳ kheo ni cũng có mặt dự kiến.
Sau đó, nhà vua ra lệnh, nếu ai bỏ ra ngàn đồng, thì được quyền sở hữu thi thể của Sirimà. Từ giá cao hạ xuống giá thấp nhất và cuối cùng cho không, cũng không ai thèm lưu tâm để ý đến. Nhân đó, Phật liền nói pháp cú nầy.
Sắc đẹp của con người, ngoài phước báo do người ta tu tạo ra, nó còn được người ta luôn quan tâm chăm sóc, nhất là phái nữ. Hầu hết phái nữ, đều muốn làm đẹp. Đó là đặc tính cố hữu mà không có một người nữ nào lại không muốn. Ngày nay, có nhiều thẩm mỹ viện chuyên sửa sắc đẹp. Đối với thân thể ngoại diện, không chỗ nào mà người ta không sửa được. Tuy nhiên, ở đời tương đối không có gì là hoàn hảo. Có người nhờ sửa mà trông đẹp ra. Ngược lại, có người do sửa mà xấu đi, thậm chí đưa đến cái chết. Chuyện đời, không ai bảo đảm và lường trước được. Tuy nhiên, cũng có người họ có sắc đẹp rất tự nhiên, không cần phải trang điểm hay sửa nhiều.
Sirimà nhờ tiền kiếp tu hành khá, nhất là nhờ tu hạnh nhẫn nhục, nên đời nầy cô ta được thân hình đẹp đẽ, sắc nước hương trời. Nhưng rất tiếc, người con gái hồng nhan nầy lại bạc mệnh phải nuôi sống bằng nghề mua hương bán phấn. Có lẽ tâm cảnh của Sirimà cũng không khác gì nàng Kiều. Tâm cảnh ở đây là cả hai đều hành cái nghề bán mình, đưa người cửa trước rước người cửa sau. Hơn thế nữa, còn giống nhau ở điểm hồng nhan bạc phận. Tuy nhiên, Thúy Kiều trải qua mười lăm năm luân lạc, không phải do tự ý Kiều muốn như vậy, mà tất cả chỉ vì hoàn cảnh trớ trêu bạc mệnh đưa đẩy Kiều phải hứng chịu như thế. Ra vào lầu xanh, đó là chuyện bất khả kháng!
Kiều tuy trải qua nhiều nỗi gian truân dạn dày sương gió éo le như thế, nhưng cũng còn có chút cơ may là gặp được sư bà Giác Duyên. Lúc gặp sư bà Giác Duyên, thì Kiều đã xuất gia có pháp danh là Trạc Tuyền. Song có điều, không biết Kiều xuất gia với ai và ai là thầy làm lễ thế phát xuất gia cho Kiều (lúc Kiều ở trong Quan Âm Các của Hoạn Thư) đặt pháp danh là Trạc Tuyền? Chuyện đó xin được gát qua. Ở đây, chúng ta thấy sư bà Giác Duyên đạo hạnh và tuệ giác không sâu sắc. Vì thế, mà sư bà không độ nỗi ni cô Trạc Tuyền, để Trạc Tuyền phải tái sanh vào thanh lâu một lần nữa.
Ngược lại, ở đây, Sirimà có duyên phúc hơn Thúy Kiều nhiều. Mặc dù mang thân phận là một cô gái giang hồ, nhưng chỉ một lần gặp Phật, nghe Phật thuyết giáo, tức thời tâm thức của cô ta hoàn toàn chuyển đổi và từ đó cô ta nỗ lực dụng công tu hành, không bao lâu đắc thành thánh quả. Đó là sự khác biệt rất lớn giữa hai cô gái sắc nước hương trời nầy.
Tuy nhiên, dù có đẹp đến đâu, bản chất của con người cũng vốn là bất tịnh. Dù chúng ta có quan tâm chăm sóc lo sửa đến mấy chăng nữa, rốt lại, nó cũng hiện bày nguyên hình xấu xa của nó. Như gương mặt, làn da, hay mái tóc chẳng hạn. Mắt có cắt sửa đẹp, rồi tới ngày nó cũng xụ xuống. Tóc có nhuộm cho đen để nhìn thấy trẻ ra, nhưng rồi hết thời kỳ, nó cũng bày ra trắng toát. Làn da có căng ra ủi thẳng đến đâu, cuối cùng rồi nó cũng phải nhăn nheo trở lại. Vì đó là sự thật. Không ai có đủ quyền năng sửa đổi được sự thật. Chỉ sửa được trong một giai đoạn ngắn ngủi tạm thời mà thôi.
Ngày xưa, chính vua Trần Thái Tông, khi còn tại vị, có lần Ngài nói: “Đầu da sọ trăm cài lược giắt, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy máu tanh, dồi son phấn át thùng phân thúi”. (Bản dịch của HT Thanh Từ trong Khóa Hư Lục)
Là một ông vua cư sĩ, quyền uy tột đỉnh, chung quanh kẻ hầu người hạ, có biết bao cung phi mỹ nữ, toàn là những nàng tuyệt thế giai nhân, thế mà đối với Ngài, nhan sắc của các mỹ nhân kia, dù có đẹp đến đâu, tất cả cũng chỉ là một lớp sơn hào nhoáng phủ che bên ngoài để mê hoặc lòng người. Nhưng thực chất bên trong, nó chứa toàn là những thứ ô uế, bất tịnh.
Sirimà là một cô gái cũng thuộc về hạng tuyệt thế giai nhân. Cô là người chuyên nghề buôn hương bán phấn, thuộc hạng làng chơi thứ thiệt. Nhưng khi gặp Phật, thì cô hồi tâm thức tỉnh quay về nẻo thiện. Đương thời, có biết bao chàng trai say mê đắm đuối, thậm chí có người tương tư nhan sắc của cô mà sanh bệnh. Thế mà, sau khi cô chết, không ai muốn nhìn ngó đến cái tử thi của cô. Vì cái đẹp tuyệt trần kia, giờ đây chỉ còn lại là một đống thịt thúi tha hôi tanh làm mồi ngon cho ruồi bu dòi đục.
Bởi thế, pháp cú trên, Phật bảo chúng ta hãy “ngắm nhìn cho thật kỹ cái thân tốt đẹp nầy chỉ là đống xương lở lói, chồng chất tật bệnh, đã được người ta tưởng là êm ái, trong đó tuyệt đối không có gì trường tồn”.
Ở đời, người ta không dám nhìn sự thật. Thiên hạ đua nhau sống bằng giả dối. Dùng thứ giả dối nầy phủ che lên thứ giả dối kia. Cái thân là thứ giả hợp, bất tịnh, nhưng có mấy ai nhìn thấy được sự thật đó. Vì do nhân duyên giả hợp bởi bốn chất: đất, nước, gió, lửa, mà người ta cứ tưởng là thật, là trường tồn. Kỳ thật nó là thứ vô thường huyễn ảo tan hợp bất thường, khác gì bọt nước. Cái thân nầy, ngoài vô thường, bất tịnh ra, nó còn là một ổ vi trùng. Vì là ổ vi trùng, nên nó có nhiều tật bệnh. Cho nên Phật mới nói cái thân nầy chồng chất nhiều tật bệnh. Bệnh là một hiện tượng hư hoại bởi một bộ phận nào đó, nếu chữa không lành, thì sẽ đưa đến tử vong. Nhưng dù có chữa lành đi chăng nữa, cũng chỉ tạm duy trì kéo dài thêm sự sống một thời gian ngắn nữa thôi. Cuối cùng, nó cũng sẽ hoại diệt. Hiểu như thế, ta không nên cố chấp vào thân nầy, để tạo thêm ác nghiệp mà thọ khổ. Ta hãy lợi dụng nó khi còn mạnh khỏe để tích lũy tu hành tạo thêm nhiều thiện nghiệp lợi mình, lợi người trong hiện tại và mai sau.
148. “Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống.”
149. “Như trái bầu mùa thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?”Lược giải
148. Cái hình hài suy già này là cái rừng tập trung bệnh tật, dễ hư nát. Đã có tụ [10] tất có tán [11], có sinh tất có tử.
Fully worn out is this body, a nest of disease, and fragile. This foul mass breaks up, for death is the end of life.
Kệ Tụng
Hình hài suy già này
Một rừng bệnh, biến hoại
Nhóm bất tịnh tiêu hủy
Đã sống tất diệt vong.
Lược giảng:
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ni cô Uttarà.
“Ni cô vẫn tiếp tục hành hương khất thực cho đến một trăm hai mươi tuổi. Một hôm, gặp một Tỳ kheo, bà dâng hết thức ăn trong bát, không chừa lại gì cho mình. Ngày thứ hai và tiếp ngày thứ ba, Uttarà cũng lại gặp và dâng cúng cho vị Tỳ kheo đó tại chỗ cũ.
Đến ngày thứ tư, Uttarà đang đi khất thực như thường lệ thì gặp Phật nơi thật đông người. Bà bước lui, lá y bà bị tuột, bà giẫm chân lên, vướng víu nên té ngã. Thế Tôn đến gần bà và bảo:
- Sư muội, thân của ngươi suy yếu theo tuổi già, không còn bao lâu sẽ hoại diệt”. Nhân đó, Phật nói pháp cú nầy.(Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 214)
Già là một trạng thái suy nhược thoái hóa. Mọi cơ phận đều suy dần. Dù biết thân già có nhiều bệnh tật, khổ mình, khổ người, thế mà người ta vẫn muốn sống lâu. Người xưa nói: “đa thọ, đa nhục”. Càng sống lâu, càng chịu đựng khổ nhục nhiều. Khổ nhục đủ mọi phương diện, từ thể xác đến tinh thần. Về thể xác, không cần nói ai cũng biết, ngoài phần tứ chi đau nhức rã rời ra, rồi nào là lưng còng, má cóp, da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc v.v… Sức khỏe ngày càng kiệt lực dần, như đèn cạn dầu, ăn không ngon, ngủ không yên giấc. Về tinh thần thì lú lẫn, nhớ trước quên sau, nghĩa là trí óc không còn minh mẫn nữa. Tuy nhiên, tuổi già, nếu người ta biết thức tỉnh gắng chí tu hành cũng là điều tốt. Ở đây, chánh phủ Úc thường quan tâm đến sức khỏe và trợ cấp tiền cho người già. Nhờ vậy, mà người già khỏi phải lo lắng đến việc cơm ăn áo mặc làm phiền con cháu chăm sóc dưỡng nuôi.
Tuổi già lụm cụm ốm đau hoài
Tóc bạc da mồi trí lẫn sai
Nương gậy cậy con, con mắng nhiếc
Nhờ tiền trợ cấp sống qua ngày
Tuổi già ở Úc tuy buồn chán
Nhưng bệnh ngặt nghèo cấp cứu ngay
Quăng gánh lo đi và vui sống
Được thế lo gì chẳng sống dai.
(Thích Phước Thái)
Người già ít nhiều hay mang bệnh cố chấp. Do cố chấp, mà tuổi trẻ cho là người già khó tánh. Vì người già hay sống lại quá khứ. Tại sao? Tại vì không dám nhìn về tương lai. Mỗi khi nghĩ đến tương lai, thì cảm thấy như cái chết gần kề. Vì đoạn đường tương lai còn quá ngắn ngủi. Do đó, mà người già ít dám nghĩ đến tương lai. Thứ hai, tuổi già nó chồng chất không biết bao nhiêu thứ tật bệnh. Phật nói: “Cái rừng già tập trung bệnh tật, dễ hư nát”. Thân già mòn mỏi, tứ chi đau nhức hoành hành, thử hỏi như thế còn ham muốn cái gì nữa mà tranh giành hơn thua để nghĩ đến tương lai chớ?
Phật dạy, dù sống về quá khứ hay sống về tương lai, cả hai đều là bất ổn. Vì sao? Vì càng nghĩ ngợi tâm ta càng bất an. Chi bằng, cứ lo niệm Phật và tập sống ngay trong giây phút hiện tại. Đừng vọng niệm nghĩ nhớ mông lung, chẳng ích lợi gì. Tuổi già được có cái lợi hơn tuổi trẻ là có nhiều thời gian rảnh rỗi. Hãy khéo biết lợi dụng thời gian rảnh rỗi để dốc lòng gia công niệm Phật, thì thật là lợi ích biết bao! Như vậy, không phải trong cái hoạn họa mà ta tìm được cái phước báo đó sao?
Qua câu chuyện ngắn trích dẫn trên, cho ta thấy vị Tỳ kheo ni già luôn đi khất thực. Trong khi đi khất thực, Sư bà lại nhịn ăn để đem thức ăn trong bát của mình dâng cúng cho vị Tỳ kheo khác. Cứ thế, trải qua hai ba ngày, cho đến Sư bà yếu đi và ngã té xuống. Lúc đó, may mắn, Sư bà gặp đức Phật và đức Phật khuyến nhắc Sư bà hãy nghĩ đến tuổi già suy yếu, không bao lâu nữa sẽ hoại diệt. Ngầm ý cảnh tỉnh Sư bà nên cố gắng tinh tấn tu hành, vì ngày chết gần kề. Đó là lời cảnh tỉnh không những cho vị Tỳ kheo già đó, mà Phật còn thức nhắc cho những ai đã đến tuổi già nên ý thức mà ráng lo tu niệm. Vì cái chết cận kề. Cái chết nó đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Nó không bao giờ hẹn trước với bất cứ một ai…
149. Trái hồ lô (trái bầu) về mùa thu thì khô tàn, thân này cũng vậy, khi đã hư hoại, thì chỉ còn một đống xương màu lông hạc; rõ thật chẳng có gì vui.
These dove- coloured bones are like gourds that lie scattered about in autumn. Having seen them, how can one seek delight?
Kệ Tụng
Như trái bầu mùa thu
Bị vất bỏ quăng đi
Nhóm xương trắng cũng vậy
Màu trắng bạc bồ câu
Thấy vậy ai còn vui?
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nhóm Tỳ kheo cả tin.
“Năm trăm Tỳ kheo nhận đề mục thiền quán từ Thế Tôn, rút vào rừng nỗ lực phấn đấu thiền định. Nghĩ rằng, mình không còn tham ái và đã hoàn thành tu tập, họ ra khỏi rừng đến báo với Thế Tôn đã chứng đắc. Họ vừa đến ngoài cổng tinh xá, Thế Tôn vội bảo Trưởng lão A Nan rằng, họ chưa có duyên gặp Phật, bảo họ đến lò thiêu trước rồi trở lại gặp Phật sau.
Thay vì thắc mắc tại sao, các Tỳ kheo bảo nhau: “Đức Phật là bậc đại trí, chắc chắn Ngài có ý”. Họ tuân hành đến lò thiêu và trông thấy các thi thể. Với các thi thể để lâu đến một hai ngày thì họ thấy ghê tởm, các thi thể mới chết còn tươi rói lại kích động lòng dục của họ. Lúc đó mới nhận ra tham ái vẫn còn trong lòng. Thế Tôn ngồi trong hương thất phóng quang ảnh đến đối diện với các Tỳ kheo bảo:
- Nầy các Tỳ kheo, thấy nguyên bộ xương mà các ông thích thú tham đắm xấu xa thì có hợp lẽ không? Nhân đó, Phật dạy pháp cú nầy”. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 216)
Qua truyện tích dẫn chứng trên, ta thấy Phật dạy cho các thầy Tỳ kheo một bài học thiền quán cụ thể về thân người. Phật biết, các vị Tỳ kheo nầy tuy có vào rừng sâu để thực tập thiền quán, nhưng lòng tham ái sắc dục vẫn còn. Cho nên thay vì đến gặp Phật, Phật bảo hãy đi thẳng đến lò thiêu để quán sát tận mắt các tử thi chưa thiêu hoặc đã thiêu rồi.
Khi nhìn thấy các thi thể sình trướng lên, thật là ghê tởm. Còn những thi thể thiêu xong, thì còn lại một đống xương trắng. Thân con người, khi còn hơi thở ra vô, các tế bào làm việc, nên nhìn thấy còn tươi trẻ đẹp đẽ. Nhưng khi tắt hơi thở rồi, máu đặc lại, toàn thân lạnh ngắt, chừng đó thi thể cứng đơ ai cũng như ai. (Ngoại trừ các bậc tu chứng đắc đạo, những vị nầy, thân thể của họ mềm mại khác hơn người thường. Điều nầy là một sự thật đã được nhiều người chứng kiến và thí nghiệm qua).
Chết rồi, người ta phải nghĩ ngay đến việc đem cái xác cất giấu vào trong hòm. Vì để ngoài không ai chịu nỗi mùi hôi thúi. Vài ngày sau, người ta phải mau mau đem đi chôn hoặc thiêu đốt. Không ai dám để lâu cái thây chết. Vì để lâu nó sẽ gây ra ô nhiểm môi trường gây tác hại cho những người chung quanh.
Thế thì, cũng cái thân đó, khi sống thì ai cũng trầm trồ khen đẹp, lắm khi người ta còn tranh giành nhau vì sắc đẹp mà phải ra tay tàn hại lẫn nhau. Đến khi chết, ai ai cũng ghê tởm và xa lánh. Nghĩ cho cùng, con người sau khi chết còn thua con vật. Vì con vật người ta còn bỏ tiền ra để mua ăn. Còn con người thì sao? Đến gần, người ta còn không dám, đừng nói chi đến việc gì khác. Như thế, thì giá trị của con người ở chỗ nào? Nếu nó có giá trị thật, thì khi sống cũng như lúc chết, người ta cũng phải đối xử quý trọng như nhau. Tại sao lúc còn sống thì thương yêu quý kính, đến khi chết rồi, thì lại coi thường ghê sợ rẻ khinh?
Thử ngẫm kỹ, con người ngay khi còn sống, bản chất của nó cũng vẫn là hôi thúi, chớ đâu phải đợi đến chết mới là hôi thúi. Nhưng vì lúc sống, người ta năng tắm rửa kỳ cọ và khéo trang sức xông ướp vào những thứ nước hoa thơm giả tạo bề ngoài. Do đó, mà người ta quên đi cái bản chất bất tịnh của nó. Sự xông ướp nầy, có khác gì người ta dùng ngũ vị hương ướp thịt. Thịt nhờ ướp ngũ vị hương vào nên khi nướng người ta chỉ nghe mùi thơm mà không nghe mùi cháy khét hôi tanh của nó.
Đó là vì người ta không muốn nhìn thẳng vào sự thật. Vì người ta sợ sự thật bày ra lộ liễu chán chường! Nên cần phải che giấu cái xấu xa hôi tanh của nó. Con người vốn đã giả dối, người ta lại che đậy lên bao thứ giả dối khác nữa. Như vậy, cuộc sống ở thế gian, toàn là sống bằng giả dối. Càng dùng những thủ đoạn khéo léo giả dối tinh xảo che mắt người ta chừng nào, thì người ta lại càng đánh giá khen tốt chừng đó. Bởi vậy mới có câu nói: “Thế gian là trường chuyên lường gạt giả dối với nhau”. Biết đến bao giờ người ta mới sống thật với nhau! Phật dạy, người Phật tử phải có chánh niệm thiền quán. Nhờ có chánh niệm thiền quán, người Phật tử mới nhận ra được sự thật của cuộc đời. Trước hết, Phật dạy, người Phật tử phải quán chiếu tự thân. Thấy rõ thân nầy chỉ là giả dối tạm bợ và bất tịnh. Hằng quán chiếu như thế, thì mọi dục vọng tham ái chấp trước ở nơi thân mình và người sẽ lần lần suy giảm.
Có chi là sạch ở nơi thân
Phèo phổi ruột gan máu thịt gân
Mũi dãi tanh hôi đường cửu khiếu
Nhớp nhúa ra vào tợ ổ phân
Thế gian lắm kẻ yêu thương tiếc
Thượng sĩ xuất trần chẳng đoái thân
Ai người tỉnh giác chơn thường quán
Bất tịnh từ đầu đến chí chân
(Thích Phước Thái )
Phật đem trái bầu để dụ cho thân nầy. Trái bầu khi còn tươi thì vỏ nó xanh. Nhưng khi phơi khô thì vỏ của nó biến thành màu trắng. Con người cũng thế. Lúc sống, nhờ vận động, ăn uống, nên máu huyết lưu thông, da dẽ hồng hào, nhưng sau khi chết, da thịt tan rã, chỉ còn lại một bộ xương trắng khô. Thân nầy cũng thế, còn vay mượn, thì tạm gọi là còn sống. Khi hết vay mượn thì chết. Như vậy, đời người sống chết chỉ là một sự mượn trả mà thôi!
Đó là một sự thật mà ít có ai để tâm thiền quán. Trong gia đình, khi có người thân qua đời, người ta đem chôn hoặc đem thiêu. Dù thiêu hay chôn, cuối cùng, còn lại cũng chỉ là một nắm xương tàn. Vì là cát bụi nên phải trả trở về cho cát bụi!
“Thông minh tài trí anh hùng
Si mê dại dột cũng chung một gò…”
Thật vậy, “gò” và “lò” là hai nơi mà khi con người nhắm mắt xuôi tay đều phải đến đó. Nếu không ra gò, thì cũng phải vô lò. Biết thế, chúng ta nên khắc chế mọi dục vọng nhu cầu thỏa mãn cho thân. Ta quyết không làm nô lệ cho nó sai sử. Tất cả, ta đều hạn chế giảm bớt. Càng sống đơn giản, ta càng có nhiều hạnh phúc. Đó là nếp sống của người khéo biết thiểu dục tri túc. Chỉ có nếp sống đó, đời ta mới thực sự được an nhàn và mới thực sự có hạnh phúc. Bằng ngược lại, thì đời ta sẽ khổ đau dài dài trong sự bon chen đua đòi vật chất.
Ta nên biết, thế giới vật chất là một thế giới mê hồn trận. Khi bị lạc bước vào thế giới nầy, ta khó mà dừng lại để thoát ra. Nhưng ta đừng quên lời Phật dạy: “các pháp hữu vi là vô thường, là mộng ảo, là bọt nước… chúng tan hợp bất thường. Cuối cùng, chúng ta chỉ là kẻ đuổi theo để nắm bắt một làn hương khói mà thôi…”!
150. “Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.”
151. “Xe vua đẹp cũng già.
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện.”Lược giải
150. Thân này là cái thành xây bằng xương cốt, tô quét bằng máu thịt, để cất chứa sự già và sự chết, ngã mạn và dối gian.
This city (body) is built of bones, plastered with flesh and blood; within are decay and death, pride and jealousy.
Kệ Tụng
Thành này làm bằng xương
Quét tô bằng máu thịt
Ở đây già và chết
Mạn, hư ngụy chất chứa.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ni cô Janapada- Kalyànì Rùpanadà.
Trước khi xuất gia trở thành ni cô, cô nầy có nhan sắc tuyệt đẹp. Do đó mà cô có tên là Rupa. Nghĩa là người con gái có sắc đẹp tuyệt trần. Vì quá đẹp, nên cô đâm ra kiêu hảnh và khinh khi những cô gái có nhan sắc kém hơn cô.
Một hôm, cô đến gặp Phật và sau khi đảnh lễ, Phật thuyết giảng cho cô nghe một thời pháp. Khi thuyết giảng, Phật dùng thần lực, hiện ra một cô gái có nhan sắc đẹp hơn cô. Cô nầy, đứng gần bên Phật. Từ một cô gái ở tuổi xuân xanh kiều diễm, không mấy chốc lại trở thành một phụ nữ và rồi già nua. Tất cả nhan sắc theo thời gian mà tàn tạ dần. Đến tuổi già rồi sanh ra nhiều thứ bệnh tật và chết.
Rupa nhìn thấy cảnh tượng do Phật biến hiện ra đó, bấy giờ cô ta nhìn lại thân phận mình không khác gì cô gái trẻ đẹp kia. Dù cho nhan sắc có mỹ miều duyên dáng, sắc nước hương trời, tuyệt đẹp đến đâu, không mấy chốc cũng trở thành một kẻ già nua da nhăn má cóp… hình thù rất xấu xí và rồi suy tàn dần đến chết. Thấy thế, nàng con gái xinh xắn có thân hình đẹp đẽ kia liền tỉnh giác và xin Phật xuất gia sống đời ni cô chuyên tu phạm hạnh.
Nhân cơ hội nầy, Phật nói một bài kệ để tỉnh thức những ai còn kiêu hãnh với sắc đẹp duyên dáng tuyệt trần của mình mà hồi tâm tu niệm. Dù cho sắc đẹp đến đâu, đẹp đến đổi: “chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa” hoặc đẹp như cỡ: “Tây Thi mất vía hay Hằng Nga giựt mình”, cũng không thoát khỏi luật vô thường chi phối và cuối cùng chỉ còn lại một bộ xương khô mà thôi. Phật nói bài kệ như sau:
Hãy nhìn, Nandà!
Sự liên kết những bộ phận gọi là thân,
Nó là bệnh tật, bất tịnh, thối tha, rỉ chảy.
Thật là ngu ngốc nếu ham muốn nó.
Thân nầy như thế nào, thân kia cũng thế,
Thân kia ra sao, thân nầy cũng sẽ vậy.
Hãy nhìn các yếu tố của thân đều là không.
Đừng trở lại thế gian,
Hãy dập tắt tham ái khiến tái sanh,
Và ngươi sẽ đi trong an tỉnh.
(Trích trong truyện tích Pháp Cú tập II của Viên Chiếu)
Sau khi nghe Phật nói bài kệ nầy, Rupanadà chứng quả Tu đà hoàn. Vì muốn cho cô tiến lên thánh quả A la hán, nên Phật dạy thêm:
- Nầy Rùpanandà, đừng nghĩ rằng thân nầy có thực, không một chút gì là thực trong thân nầy. Thân nầy là thành trì làm bằng xương, do ba trăm khúc xương dựng lên. Nghe xong, Rùpanandà chứng quả A la hán. Và rồi Phật nói tiếp pháp cú nầy.
Đọc qua Pháp cú trên, Phật cho chúng ta một hình ảnh cụ thể về thân. Phật nói: “Cái thân nầy là cái thành xây bằng xương cốt và tô quét bằng máu thịt”. Qua lời dạy nầy, chúng ta hãy bình tâm quán sát cho thật kỹ tường tận, xem lời Phật dạy có đúng như vậy không. Phật so sánh giữa cái thân (body) và cái thành. Phàm người ta muốn xây dựng một cái thành, tất nhiên là cần phải hội đủ những vật liệu. Cái thành được dựng lên và đứng vững được, tất phải nhờ những cốt sắt. Những cốt sắt là cái nồng bên trong để chịu đựng và làm cho tấm tường thẳng đứng. Đồng thời cũng chịu đựng cả những mái ngói lợp bên trên. Cái thân nầy cũng thế. Sở dĩ toàn thân đi đứng vững vàng là nhờ vào bộ xương chịu đựng. Bộ xương là nồng cốt của thân thể.
Muốn cho bức tường thành vững chắc và trông thấy đẹp mắt, tất nhiên, người ta phải tô trét bằng cement và sơn phết nước sơn bên ngoài. Thân nầy cũng vậy, ngoài bộ xương làm nồng cốt ra, nó còn phải nhờ đến các sợi dây gân và máu thịt. Đồng thời phải nhờ có lớp da bao bọc lại. Tất cả đều là do duyên hợp. Phải hội đủ những điều kiện mới tạo thành. Khi xây dựng tường thành, nó còn đòi hỏi những vật liệu xây dựng tốt hoặc xấu. Nếu vật liệu tốt có chất lượng, thì xài được bền lâu. Ngược lại, thì không bền lâu. Thân nầy cũng thế. Nếu những điều kiện phối hợp tạo thành, tất cả đều tốt, không tỳ vết bệnh hoạn, thì thân thể người đó có sức khỏe tốt và kéo dài sự thọ mạng dài lâu hơn, so với người có sức khỏe kém hay đau yếu bệnh tật. Nhưng dù tốt hay xấu, cuối cùng, tất cả đều phải bị hoại diệt. Vì đó là lẽ thật của cuộc đời. Không ai có quyền đổi khác được. Cũng như tường thành kia, dù xây dựng bền chắc đến đâu, rốt lại, cũng phải bị hư hoại mà thôi.
Một khi đã xây dựng hình thành một cái thành rồi, hay nói rõ hơn như hoàn thành một cái nhà, tất nhiên, trong ngôi nhà đó phải cất chứa nhiều thứ vật dụng đồ đạc. Cũng thế, Phật nói, cái thân nầy, bên trong nó cất chứa toàn là những thứ bất tịnh như già chết, ngã mạn và dối gian.
Chữ bất tịnh nói trên, nó có hai nghĩa: Không sạch và bất an. Thân nầy vốn không sạch và luôn luôn bất an. Tại sao? Vì những bộ phận trong thân người toàn là những thứ cấu uế. Như gan, ruột, phèo, phổi, tim, óc, máu, mủ v.v… nhìn lại không thứ nào sạch cả. Còn nói bất an, là vì tất cả đều do duyên hợp. Đã là duyên hợp, thì tất phải do duyên tan. Đã có hợp, tất nhiên là có hoại. Mà hoại là bệnh, là bất an. Về vật chất bất an và về tinh thần cũng bất an. Cho nên, Phật nói tất cả đều là không chủ. Mà không chủ là không có cái ta chân thật. Tất cả đều là giả dối không thật. Người nào hằng để tâm quán sát như thế, thì Phật nói người đó dần dần sẽ thoát ly sanh tử khổ đau vậy.
151. Cái xe vua đi dù được trang hoàng lộng lẫy cũng phải hư hoại, thân này dù có trau tria cũng có lúc già yếu. Chỉ trừ thiện pháp của bậc thiện nhân là không bị suy già và cứ di chuyển từ người lành này sang người lành khác.
Even gorgeous royal chariots wear out, and indeed this body too wears out. But the Dhamma of the Good does not age; thus the good make it known to the good.
Kệ Tụng
Như xe vua lộng lẫy
Cuối cùng bị nát tan
Thân này rồi sẽ già
Chỉ có pháp kẻ thiện
Khỏi bị nạn tiêu vong
Sáng tỏ giữa kẻ thiện
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nói tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến hoàng hậu Mallikà. Theo truyện tích, Bà là chánh hậu của vua Ba tư nặc. Bà là một Phật tử rất thuần thành thường tới lui tinh xá để cúng dường đức Phật và chúng tăng. Có một điều bất hạnh cho bà là bà đã phạm giới tà dâm. Chính vua Ba tư nặc đã nhìn thấy hành động dâm ô của bà với một con chó mà bà đã cưng yêu chiều chuộng nhứt ở trong nhà tắm.
Khi nhà vua khiển trách, bà lại chối quanh không nhận tội. Thế là bà phạm thêm cái tội nói dối. Do đó, lòng bà luôn luôn bất an. Vì ôm ấp mặc cảm tội lỗi nên trước khi lìa đời, bà cứ mãi ray rứt về tội lỗi của mình đã gây ra. Mặc dù trước đó bà đã cúng dường nhiều phẩm vật quý giá dâng lên cho đức Phật. Nhưng trong giờ phút hấp hối, bà không nhớ đến sự cúng dường đó. Bà chỉ nhớ và lo sợ tội lỗi đã gây tạo. Do cớ đó, nên sau khi nhắm mắt, bà bị đọa vào địa ngục A tỳ. Vua Ba tư Nặc rất yêu thương bà và nhà vua nôn nóng muốn biết thần thức của bà thác sanh về đâu? Vua đến bạch Phật, Phật biết trước sự việc nên khuyên nhà vua không nên bi lụy. Bà hoàng hậu chỉ đọa địa ngục trong vòng 7 ngày thôi, rồi sau đó sẽ thác sanh lên cõi trời Đâu Suất.
Sau bảy ngày, đức Phật chỉ đi một mình ôm bát vào thành khất thực. Đến cổng hoàng cung, vua hay tin thay vì sớt đồ ăn vào bát của Phật, nhà vua cầm bát của Phật định lên sân thượng, nhưng Phật từ khước. Đức Phật chỉ muốn ngồi ở ngôi nhà để xe. Nhà vua thuận theo ý Phật và ông cúng dường thức ăn cho Phật tại chỗ ngồi.
Nhà vua tỏ vẻ buồn rầu áo não và bạch Phật về việc của hoàng hậu. Phật bảo: nhà vua không nên lo lắng, vì hoàng hậu nhờ phước đức cúng dường Phật và chúng tăng, nên đã sanh lên cõi trời Đâu Suất. Dù biết vậy, nhưng nhà vua vẫn ưu tư buồn khổ. Phật thấy vậy rất thương xót nên khuyên bảo và giảng pháp cho ông nghe. Nhân đó, Phật mới hỏi nhà vua về những chiếc xe. Có ba loại xe. Chiếc xe cũ kỹ nhất là của đời ông, chiếc xe hơi cũ là của đời cha và chiếc xe còn mới là của nhà vua.
Đức Phật dạy:
-“Đại vương, xe của cha còn tốt hơn xe ông nội, cũng vậy xe của đại vương còn tốt hơn xe của cha. Sự suy tàn cũng sẽ làm hư hoại thân nầy. Đại vương, chỉ có đức hạnh chơn chánh mới không hư hoại”. Và rồi đức Phật liền nói pháp cú nầy.
Qua phần lược dẫn truyện tích trên, ta thấy, bà hoàng hậu, tuy được nhà vua sủng ái, nhưng vì bà ta phạm một lỗi lầm rất lớn. Do đó, mà cả hai người đều mất hạnh phúc. Dù ở địa vị cao sang, quyền uy tột đỉnh, nhưng bản chất vẫn là con người, vẫn có đủ những hạt giống: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc v.v… Trong mỗi con người, đều sẵn có hai thứ hạt giống tiềm tàng: tốt và xấu hay thiện và ác.
Bà hoàng hậu, tuy là một Phật tử hiểu đạo, nhưng vì hạt giống xấu trong tâm thức của bà chưa được chuyển hóa khá, nên đôi khi nó lại lấn át hạt giống tốt và rồi nó hành động theo lòng si mê dục vọng sai khiến. Từ đó, bà không còn giữ được hạnh phúc như thuở nào. Và cũng từ đó, lòng bà bất an. Đó là do bà đã tạo nên một nội kết mặc cảm tội lỗi rất lớn trong đời, mà chính bà không thể tự hóa giải được.
Không bao lâu bà lâm trọng bệnh và qua đời. Nhân nào quả nấy. Sau khi chết, bà bị đọa vào địa ngục A tỳ. Tuy nhiên, đây chỉ là trả cái quả báo của cận tử nghiệp, cho nên thời gian rất ngắn. Còn tích lũy nghiệp là nhờ hằng ngày bà tu tạo phước đức cúng dường và trong tâm luôn hướng về Phật pháp, nên sự thọ tội của bà trong địa ngục cũng không có dài lâu. Nhờ phước đức cúng dường Phật và chúng tăng, nên sau đó, bà được sanh lên cõi trời Đâu Suất.
Sau khi hoàng hậu mất, vua Ba tư nặc rất thương nhớ sầu khổ. Vua là một Phật tử rất có tín tâm. Ông hết lòng phụng sự Phật pháp. Ông đã cúng dường nhiều tài vật tạo nhiều phương tiện để Phật và chúng tăng tiện bề giáo hóa chúng sanh. Vì cảm kích lòng hảo tâm của ông, nên sau bảy ngày hoàng hậu mất, Phật một mình ôm bát đến trước cửa hoàng cung. Mục đích là Phật muốn đến viếng thăm và an ủi ông. Hay tin Phật đến, nhà vua đích thân cung thỉnh Phật vào trong cung. Ông định thỉnh Phật lên trên sân thượng, nhưng Phật từ khước.
Phật chỉ ngồi trong nhà để xe. Nhìn thấy những chiếc xe để đó, nhân đó, Phật dùng những chiếc xe nầy làm đề tài để Phật nói một bài pháp. Phật so sánh thân nầy giống như chiếc xe của nhà vua. Chiếc xe, khi mới sản xuất, thì ai thấy cũng trầm trồ khen đẹp. Xài một thời gian, thì nó phải cũ kỹ. Phật nói: “Dù đại vương có trang hoàng cho chiếc xe lộng lẫy đẹp đẽ đến đâu, cuối cùng rồi, nó cũng phải hư hoại”.
Thân nầy cũng thế. Lúc còn trẻ trung, nhựa sống tràn đầy, ai trông thấy cũng cho là đẹp. Nhưng rồi, cũng theo thời gian mà nhan sắc phải héo úa tàn phai. Có thân ai trẻ đẹp mãi mà không già không? Cũng như có chiếc xe nào mà không phai màu cũ kỹ không? Chiếc xe, dù chúng ta có sơn phết tân trang thiết bị đến cỡ nào, rồi nó cũng phải hư hoại mà thôi. Vì bản chất của nó là vô thường, là sanh diệt.
Thân nầy cũng vậy. Dù chúng ta có bỏ ra tốn hao bao nhiêu tiền bạc để sửa sắc đẹp, nhưng cuối cùng thì sao? Nó có còn trẻ đẹp bền bỉ mãi không? Hay rồi nó cũng da nhăn má cóp… và tàn tạ xấu xí không ai muốn nhìn. Vì bản chất của nó là gốc cây mục. Chúng ta có tô trét sửa mới làm đẹp cách mấy đi nữa, rồi nó cũng mục rã. Thật đúng với câu người ta thường nói: “tiền mất mà tật vẫn mang, sửa sang tân trang lại càng chuốc khổ”.
Xét cho cùng, thì thân nầy nó già từng sát na. Các tế bào luôn luôn thay đổi biến dịch. Cái nầy chết đi cái kia sinh trưởng. Cứ thế mà luân lưu theo dòng sanh diệt. Tất cả đều phải bị luật vô thường chi phối đào thải. Không có một thứ gì tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, chỉ có một thứ không già. Đó là Phật nói: “chỉ trừ thiện pháp của bậc thiện nhân là không bị suy già mà cứ di chuyển từ người lành nầy sang người lành khác”.
Thiện pháp là pháp lành, là cái không hình tướng. Vì không có hình tướng, nên nó không bị luật vô thường sanh diệt chi phối. Nói cách khác, “Thiện pháp” cũng chính là “Phật tánh” hay “pháp tánh”, đó là cái pháp gốc của con người. Cái gì có hình tướng, thì cái đó bị hoại diệt. Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”.
Phật nói: “cái gì có hình tướng đều là giả dối không thật. Nếu thấy các tướng mà không dính kẹt vào tướng, thì người đó mới thấy được Như Lai”. Như Lai ở đây, không phải chỉ cho Phật quả. Mà Như Lai ở đây, là chỉ cho cái thể tánh thanh tịnh sáng suốt bất sanh bất diệt mà mỗi người chúng ta đều sẵn có. Về tướng của các pháp, thì có vô thường sanh diệt. Tại sao? Vì tất cả đều do duyên hợp. Đã do duyên hợp, nên thể tánh của nó là “Không”. Cũng như những lượn sóng nhỏ lớn nổi trên mặt biển có khác nhau, nhưng bản thể của chúng chỉ là nước. Người nào nhận ra cái thể tánh sẵn có nầy, thì gọi người đó là kiến tánh hay ngộ đạo. Và từ đó cứ như thế mà truyền pháp cho nhau, mãi mãi không cho đoạn diệt, nên Phật nói, cứ di chuyển từ người lành nầy sang người lành khác.
Tóm lại, mọi vật trên đời, không có vật gì tồn tại theo thời gian. Phật nêu ra hình ảnh của chiếc xe để tiêu biểu cho tất cả mọi vật khác. Cái thân nầy giống như cổ xe kia. Mọi người ai ai cũng phải trải qua một chu kỳ: “sanh, già, bệnh, chết, hay sanh, trụ, dị, diệt”. Lúc trẻ thì đẹp, đến lúc già thì xấu đi. Nhưng dù đẹp hay xấu, tất cả đều mang một mẫu số chung, đó là “Chết”. Nhưng chết không phải là hết, mà nó chỉ là biến đổi qua một hình thái khác thôi.
Ý thức như thế, Phật khuyên chúng ta nên cố gắng làm lành lánh dữ. Tu tạo nhiều điều phước thiện. Như bà hoàng hậu, tuy tạo tội bị đọa lạc, nhưng nhờ tu phước bố thí cúng dường Tam Bảo mà bà ta được phước báo sanh thiên. Đời người, khi nhắm mắt xuôi tay, tất cả đều để lại cho đời, chỉ có mang theo hai thứ: “nghiệp lành hoặc nghiệp ác”. Tùy theo chỗ tạo nghiệp lành dữ hiện đời mà người ta có thọ sanh vui khổ khác nhau.
152. “Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng.”Lược giải
152. Những người ít nghe kém học, suốt đời như trâu, gân thịt dẫu lớn mạnh mà trí tuệ không tăng thêm.
The man of little learning grows old like a bull. He grows only in bulk, but, his wisdom does not grow.
Kệ Tụng
Người ít nghe kém học
Lớn già như trâu nái
Gân thịt tuy lớn mạnh
Trí tuệ không gia tăng.
Lược giảng
Phật dạy pháp cú nầy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Ca lưu đà di. Vị Trưởng lão nầy, khi mở miệng nói ra điều chi, đều bị người ta chê cười. Lý do, là vì ông thất học, nên ăn nói không đâu vào đâu. Khi ông đến những nơi người ta đang tế lễ hoặc nơi đám tang, thì ông thốt ra những lời nói thật là vô duyên và sai trái. Khi các thầy Tỳ kheo chứng kiến nghe ông nói như thế, liền đến bạch Phật.
- “Bạch Thế Tôn! Ca lưu đà di đi đến chỗ lễ lạc hay tang ma có lợi ích gì? Điều đáng phải nói, Ca lưu đà di nói trật lất”.
Đức Phật dạy: “Ca lưu đà di không phải hiện đời nói năng như thế mà trong tiền kiếp, ông cũng đã nói điều không đúng. Khi mở miệng nói ra, ông đều nói sai bét, trật lất những việc xảy ra”.
Nhân đó, Phật nhắc lại câu chuyện tiền kiếp về việc nói năng không đúng của Ca lưu đà di. Xưa kia, ông ta là một Bà la môn tên là Aggidatta và ông có người con trai tên là Somadatta. Người con trai nầy, theo hầu vua và được nhà vua rất tín nhiệm sủng ái. Aggidatta chuyên sống bằng nghề nông. Ông có hai con bò đực, nhưng lại chết một con. Ông liền bảo con trai của ông nên xin nhà vua cho ông một con bò đực khác. Người con trai, vì không muốn nhà vua hiểu lầm mình, lợi dụng chức tước để xin xỏ nầy kia nên mới nói với người cha rằng, cha nên trực tiếp tâu lên vua. Người con chỉ vẽ bày cách để nói: cha phải nói bài kệ như thế nầy:
Tôi có hai con bò đực giúp tôi cày bừa.
Nhưng một con đã chết.
Xin cho tôi con khác, vương tử anh hùng!
Bài kệ chỉ có ba câu đơn giản như thế, nhưng khốn nỗi, ông cha phải mất hết một năm trời mới nhớ thuộc lòng. Người con bảo ông cha nên mang lễ vật đến trước vua và tâu lên như thế. Nghe lời con, ông cha liền làm theo.
Khi đến trước vua, Aggidatta liền đọc bài kệ:
Tâu bệ hạ!
Tôi có hai con bò đực giúp tôi cày bừa.
Nhưng một con đã chết.
Xin lấy con còn lại, vương tử anh hùng!
Nghe tâu qua, nhà vua vô cùng ngạc nhiên lấy làm lạ. Bảo ông tâu lại, nhưng ông ta vẫn lặp lại đúng như thế.
… Sau khi kể xong câu chuyện tiền kiếp, Đức Phật quy kết lại hiện tại: Thời đó nhà vua là A Nan, Bà la môn là Ca lưu đà di và Somadatta chính là ta.
Sau đó, Phật liền tuyên bố rõ cho đại chúng biết, đây không phải là lần đầu tiên mà Ca lưu đà di nói không đúng việc, đúng lời, vì ông ấy quá ngu si, ít nghe, kém học, không khác gì con trâu đực. Đó là nguyên do mà Phật nói ra pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học về việc mở mang trí huệ. Thật vậy, trong đạo Phật trí huệ rất quan trọng. Người Phật tử đến với đạo Phật, không phải chỉ đến bằng niềm tin không thôi, mà điều quan yếu là phải đến và tiếp nhận bằng trí huệ. Nếu chỉ có niềm tin, thì người Phật tử dễ bị lung lạc. Vì niềm tin chưa đủ sức soi sáng để người Phật tử đi đúng hướng chân lý, mà phải cần đến ánh sáng trí huệ. Chỉ có ánh đuốc trí huệ mới có đủ khả năng soi sáng và chỉ đạo hướng dẫn con người đi đúng lộ trình hợp với chân lý. Niềm tin chỉ là trái tim, luôn thể hiện bằng tình cảm. Chất liệu tình cảm tuy cũng rất cần thiết cho người Phật tử xây dựng niềm tin, nhưng nếu thiếu trí huệ soi sáng, thì đôi khi niềm tin đó lại trở thành mù quáng. Đó là điều rất tai hại. Cho nên giữa tình cảm và lý trí phải được quân bình. Vì thế, một Phật tử phải luôn trang bị cho mình đủ cả hai thứ song hành, đó là: “niềm tin và trí giác”. Thiếu một trong hai, thì sự tu hành của người Phật tử sẽ không đạt được kết quả tốt đẹp.
Muốn có trí huệ, người Phật tử cần phải luôn trau dồi. Trau dồi bằng cách thường xuyên nghe và học hỏi giáo lý. Phải luôn ứng dụng ba phương pháp học Phật: “văn huệ, tư huệ và tu huệ”. Đây là ba môn học tối cần thiết cho người Phật tử. Phật tử là người đang hướng đời mình về đạo giác ngộ. Muốn hướng đến đạo giác ngộ, tất nhiên, người Phật tử phải hằng quán chiếu. Phải vận dụng trí huệ soi rọi qua mọi hành động: “từ ý nghĩ, lời nói và việc làm”. Có thế, người Phật tử mới hy vọng tránh được mọi lỗi lầm.
Ca lưu đà di bị Phật quở trách nặng nề về việc nói năng không đúng thời, đúng chỗ và đúng việc. Sở dĩ như thế là vì ông không chịu nghiên cứu học hỏi. Phật dùng hình ảnh con trâu để so sánh với những người suốt đời dốt nát. Con trâu hay con bò chỉ có được thân hình to lớn vạm vỡ, nhưng chẳng có trí huệ gì! Cho nên, thường những kẻ nào ngu đần, nói nghe không hiểu, người ta hay nói là ngu như con bò.
Lời Phật dạy trong pháp cú trên, không có nghĩa là mạt sát, mà đức Phật muốn khuyến tấn mọi người nên trau dồi học hỏi để có thêm trí huệ. Được làm thân người rất khó. Đã được thân người mà không chịu học hỏi để thăng tiến, thì đó là điều thật đáng tiếc! Sự nghiên tầm học hỏi, dù ngoài đời hay trong đạo, tất cả đều tối ư cần thiết.
Người xưa nói: “sĩ phu ba ngày không đọc sách mặt mũi đóng bụi thấy phát ghét”. Chỉ mới ba ngày không đọc sách thôi, mà người ta còn thấy không ưa nỗi. Nếu cả đời không học hỏi, không đọc sách thì sao? Các cụ xưa thường khuyên dạy con cháu:
Rừng Nho biển Thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học lớn mò sao ra
Nay nhờ cơm mẹ áo cha
Gắng công học tập để ta bằng người.
Tiền của vàng bạc cả đời mình tạo ra, tuy nó là vật quý giá, nhưng chắc gì mình giữ nó còn hoài. Ngược lại, cái kiến thức mà mình gia công nỗ lực học hỏi, thì nó không bao giờ mất. Thí dụ: hai người cùng đi qua một cái biển lớn, ông A là người giàu có mang theo nhiều vàng bạc. Trong khi đó, ông B thì không có mang theo vàng bạc gì cả. Ông ta chỉ mang theo trong mình cái kiến thức sở học chuyên ngành bác sĩ. Nghĩa là ông ta đã có văn bằng bác sĩ.
Khi ra giữa biển, không may bị chìm tàu, tất cả vàng bạc của ông A đều bị mất hết. Nhưng cả hai ông đều thoát chết, vì được người khác cứu sống.
Khi tới đất liền, ông B dùng cái kiến thức sở học có bằng bác sĩ nên ông hội nhập lập nghiệp vào cuộc sống mới rất nhanh. Và tạo nên sự nghiệp rất khỏe và dễ dàng. Trong khi đó, ông A thì bắt đầu tạo lại sự nghiệp mới bằng con số không. Phải vận dụng hai bàn tay trắng để tạo dựng, dĩ nhiên, rất là vất vả và khó khăn. Thế thì, vàng bạc mang theo có mất, nhưng cái kiến thức kia không mất. Thử hỏi cái nào quan trọng hơn? Vì vậy việc đầu tư kiến thức cho mình rất là quan trọng.
Ở đây, khoan nói đến việc giàu nghèo. Vì điều đó còn do cái phước báo của mỗi người. Và nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác. Ở đây, chỉ nói đến cái nào quan trọng hơn trong cuộc sống. Và đời sống nào nhẹ nhàng khỏe khoắn hơn thôi. Người có học thức khi đi đến đâu, cũng được người ta quý kính trọng dụng. Quốc gia nào cũng hoan nghinh, không dám khinh thường. Và dĩ nhiên, họ là người có địa vị trong xã hội. Đó là một hiện thực của xã hội, dù xưa hay nay, không ai có thể phủ nhận được.
Không ai công cử một người dốt nát lên làm Tổng Thống hay Bộ Trưởng. Do đó, bất luận thời đại nào, xã hội nào, việc giáo dục học hỏi trau dồi kiến thức vẫn phải được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Nếu không, thì không còn là xã hội loài người nữa.
153. “Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.”
154. “Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.”Lược giải
153 – 154. Ta lang thang trong vòng luân hồi [12] qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi ! Hỡi kẻ làm nhà! Nay Ta gặp được ngươi rồi. Ngươi không thể làm nhà nữa. Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi đã tan vụn cả rồi. Trí Ta đã đạt đến vô thượng Niết bàn, bao nhiêu dục vọng đều dứt sạch cả.
Through many a birth in samsara have I wandered in vain, seeking the builder of this house (of life). Repeated birth is indeed suffering!
O house-builder, you are seen! You will not build this house again. For your rafters are broken and your ridgepole shattered. My mind has reached the Unconditioned; I have attained the destruction of craving.
Kệ Tụng
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, sống luân hồi.
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Rui mè ngươi bị gãy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt
Tham ái thảy tiêu vong.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy, Phật nói sau khi Ngài đắc đạo dưới cây bồ đề. Và sau nầy, Phật nói lại cho Tôn giả A Nan nghe.
Nói lên điều nầy, đức Phật nhằm minh chứng cho chúng ta thấy, Ngài đã trải qua bao kiếp sống nổi trôi trong vòng luân hồi bất tận. Hai chữ lang thang là một trạng từ diễn tả nhiều kiếp thăng trầm không định hướng. Điều đó, phải chăng, đức Phật đã minh xác một cách rõ ràng rằng, con người là một hiện thể luôn luôn tái sinh. Chết không phải là mất hẳn, như phái Đoạn Diệt đã chủ trương.
Tuy nhiên, có điều ta cần nên hiểu rõ: cũng đồng đi trong vòng luân hồi, nhưng hướng đi của chúng sanh và Bồ tát có khác nhau. Hướng đi của chúng sanh là do nghiệp lực dẫn dắt. Đi trong vòng trả nghiệp. Ngược lại, hướng đi của Bồ tát là đi vì nguyện lực độ sanh.
Ở đây, ta thấy, Phật cũng đã trải qua nhiều kiếp nổi trôi. Ngài cũng đi lang thang thọ khổ như chúng ta. Nhưng có điều khác hơn là Ngài đi để tìm ra kẻ làm nhà. Chính vì chưa tìm ra được kẻ làm nhà nên Ngài mới có lang thang chịu khổ. Vậy ai là kẻ chủ chốt tạo ra căn nhà? Căn nhà đó là gì? Tại sao tìm ra được kẻ làm nhà thì dứt khổ, không còn luân hồi nổi trôi nữa? Đó là những vấn đề thắc mắc mà Phật đã khám phá.
Trước hết, phải tìm cho ra kẻ làm nhà. Kẻ làm nhà không phải tìm từ bên ngoài. Mà nó luôn ẩn tiềm sâu kín bên trong con người. Đó chính là “Ái dục”. Vâng! Ái dục chính là nguyên nhân tạo ra căn nhà. Căn nhà là xác thân năm uẩn nầy. Sở dĩ, chúng sanh nhiều kiếp nổi trôi xuống lên trong vòng lục đạo luân hồi, đều do gốc ái dục mà ra. Vì có “Ái” nên mới có “Thủ” và rồi có “Hữu”. Ái là một trong mười hai mắc xích nhân duyên. Mười hai nhân duyên gồm có: 1.Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh sắc 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thọ 8. Ái 9. Thủ 10. Hữu 11. Sanh 12. Lão tử ưu bi khổ não. Hành giả khi chứng quả A la hán thì không còn ái dục nữa.
Ái dục không còn, thì mọi thứ phiền não cấu nhiễm khác cũng không còn. Cho nên mới nói là mọi thứ tạo nên căn nhà như rui, mè, đòn tay, đòn dông v.v… cũng đều bị gãy đổ tan rã hết. Cây đòn dông chịu đựng cái sườn nhà là vô minh, căn nguyên phát ra mọi dục vọng. Đoạn gốc vô minh thì cây sanh tử không còn. Nhưng hành giả phải vận dụng cây búa bén trí huệ mới có thể đốn phá được cội gốc vô minh.
Vô minh không còn thì Niết bàn hiện khởi. Đến đây, hành giả đạt được cảnh giới Niết bàn bất sanh bất diệt. Đó là cảnh giới Vô Vi, siêu xuất thế gian mà Phật đã chứng đắc. Đến đây, mới thực sự chấm dứt vòng luân hồi khổ đau mà vô lượng kiếp quá khứ đức Phật đã trải qua.
Trải bao mấy kiếp nổi trôi
Biết bao thu vắng mấy hồi dạ đau
Ngàn hoa rơi rụng trước sau
Vô thường nhanh chóng khó chào qua đông
Cảnh đời sóng gió biển lòng
Đùa chơi nắm bắt mấy vòng lợi danh
Chào đời mấy chốc xuân xanh
Đã qua thuở ấy lá cành sắp xa
Sao bằng niệm Phật Di Đà
Hơn thua tranh chấp chỉ là phù du
Quyết lòng qua cửa sông phù
Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.
(Thích Phước Thái)
155. “Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá.”
156. “Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua.”Lược giải
155. Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, thì khi già cả chẳng khác gì con cò già bên bờ ao, không kiếm ra mồi, phải ủ rũ chết mòn.
Those who in youth have not led the holy life, or have failed to acquire wealth, languish like old cranes in a pond without fish.
Kệ Tụng
Lúc trẻ, không phạm hạnh
Không tìm kiếm bạc tiền
Như cò già bên ao
Ủ rũ, không tôm cá.
156. Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, nên khi già nằm xuống, dáng người như cây cung gãy, cứ buồn than về dĩ vãng.
Those who in youth have not led the holy life, or have failed to acquire wealth, lie sighing over the past, like worn-out arrows (shot from) a bow.
Kệ Tụng
Lúc trẻ không phạm hạnh
Không tìm kiếm bạc tiền
Như cây cung bị gãy
Thở than cho dĩ vãng.
Lược giảng
Hai pháp cú trên Phật nói tại Isipatana có liên quan đến Mahàdhana (Đại phú) con của một chưởng khố.
Mahàdhana con trai của một nhà giàu có, tài sản trị giá lên đến tám trăm triệu. Vì là con của một phú gia, nên Mahàdhana mãi lo ăn chơi, suốt ngày chỉ đờn ca hát xướng, không chịu học hành. Trong khi đó, trong thành cũng có một gia đình giàu có tài sản ngang bằng với gia đình của Mahàdhana. Gia đình nầy cũng có một cô bé gái thường lêu lỏng ăn chơi giống như chàng trai Mahàdhana.
Cả hai cô cậu nầy con nhà giàu có lại có cùng một ý hướng thích ăn chơi, nên họ rất hợp nhau. Từ đó, họ yêu nhau và lớn lên họ cưới nhau. Sau khi thành hôn, thời gian không lâu, cha mẹ cả hai bên đều lần lượt qua đời. Tất cả tài sản đều do đôi vợ chồng nầy quản lý. Thói nào tật nấy, họ phung phí ăn chơi bê tha trác táng và bị một nhóm anh chị ăn chơi khác lường gạt họ đi vào con đường trụy lạc sa đọa. Không bao lâu, số tài sản của họ không có cánh mà đã tung bay hết. Bấy giờ hai vợ chồng nghèo khổ đói khát phải đi lang thang ăn xin rày đây mai đó đầu đường xó chợ để kiếm sống qua ngày.
Một hôm, đến xin những thức ăn thừa của các chú Sa di tập sự. Phật thấy thế, gọi tôn giả A Nan và nói: Hai vợ chồng con của chưởng khố, lẽ ra, nếu họ biết lo làm ăn, kinh doanh sự nghiệp, đừng phung phí ăn chơi, thì đời họ đâu đến đổi như thế nầy. Họ sẽ trở thành vị chưởng khố thứ hai, giàu nhất trong thành nầy. Và nếu họ rời bỏ thế gian, thành Tỳ kheo sẽ đắc quả A la hán. Nhưng rất tiếc, bây giờ họ đã đánh mất tất cả, chẳng khác nào như con cò già mắc cạn trong ao. Do đó, nên Phật nói hai pháp cú nầy.
Mahàdhana do đời trước tu nhân bố thí nên có phước sanh trưởng trong nhà giàu có, nhưng lại ham chơi, không nghĩ gì đến tương lai. Còn cha mẹ vì nghĩ mình lắm của nhiều tiền, nên luôn luôn nuông chiều theo ý con. Mặc cho con phung phí ăn chơi đi vào con đường trụy lạc. Đó là cách thương con mà hại con. Thông thường, người ta cứ nghĩ đến cái lợi trước mắt, mà ít ai nghĩ đến cái hại về sau. Nhưng, sự đời nay vầy mai khác. Người xưa nói:“phước bất hưởng tận”. Vì có phước báo nên mới được giàu có. Trong khi thụ hưởng mà không biết lo tính toán, gây nhân tốt cho mai sau, thì đó quả là người vô trí.
Nhìn vào hiện trạng của xã hội hiện nay khắp nơi trên thế giới, chúng ta thấy có rất nhiều thanh thiếu niên nam nữ giống như chàng trai trẻ Mahàdhana và người yêu của hắn ta. Lúc nhỏ thì lêu lỏng mê chơi bỏ học. Căp bè cặp bạn rũ nhau đi vào con đường trụy lạc. Có nhiều cô cậu may mắn sanh trưởng trong gia đình giàu có, nhưng không biết lợi dụng sự giàu có đó để tự tạo tương lai cho mình. Cứ nghĩ rằng, gia đình mình có lắm tiền nhiều của tha hồ ăn chơi, cần gì phải lao đầu vào việc học hành. Cha mẹ thì cũng không quan tâm tới việc học hành tương lai sự nghiệp của con. Vì không có ai câu thúc kềm hãm, nên các cô cậu có dịp lao đầu vào hố sâu tội lỗi.
Sự đời đâu phải như thế mãi. Đến một lúc nào đó, thì gia đình bị suy sụp khánh kiệt, tài sãn không còn. Bấy giờ nhìn lại, con đường phía trước đầy đen tối. Hiện tại, thì thân tàn ma dại. Hồi nào lắm tiền nhiều của ăn chơi xả láng, nay thì tiền khô cháy túi, bạn bè trước kia lân la thân mật bao nhiêu, nay thì tất cả đều xa lánh hết. Thói đời là thế đó!
Vai mang túi bạc kè kè
Nói bậy nói bạ thiên hạ nghe rầm rầm.
Hay:
Còn tiền còn bạc còn đệ tử
Hết tiền hết bạc hết ông tôi.
Quả đúng với câu:
Khi vui thì vỗ tay vào
Đến khi hoạn nạn thì nào có ai.
Ở đời, xưa cũng như nay và mãi mãi về sau, người ta chỉ phò thịnh chớ không ai lại chịu phò suy bao giờ. Lúc còn tiền của nhiều, có quyền uy thế lực, thì ôi thôi lắm bạn nhiều bè, tiền hô hậu ủng, đi ra có người hầu hạ lo lắng đủ thứ, nhưng đến khi khô túi, hết quyền lực, thì chẳng thấy con ma nào bén mãn đến gần. Chẳng những không đến gần mà còn bị họ đạp luôn xuống sình lầy cho không còn ngóc đầy dậy nổi! Tình đời bạc bẽo như vôi là thế đó!
Bấy giờ, có ăn năn hối hận thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Cuộc đời đã đi vào ngõ cụt. Chung quanh, nhìn đâu cũng thấy toàn là đen tối. Vì thế, khi có được cơ hội tốt, Phật khuyên chúng ta nên khéo biết lợi dụng cơ hội để tự tạo xây dựng cuộc sống thăng hoa cho chính mình. Vì tất cả do mình định đoạt lấy đời mình. Tiền bạc của cải hay cha mẹ, nhẫn đến bạn bè, tất cả đều là thứ yếu. Không ai có quyền định đoạt đời mình. Nhất là khi còn trẻ, ở vào lứa tuổi thanh xuân, căng tràn đầy nhựa sống, mình nên ý thức để lo học hành. Chúng ta nên nhớ rằng, tương lai tốt đẹp là nhờ xây dựng bằng những chất liệu tốt trong hiện tại. Mọi hành vi tốt hay xấu, đều do trách nhiệm định đoạt ở nơi chính mình.
Hai Pháp cú trên, đức Phật đã vạch rõ, chỉ bày cái tai hại của cặp vợ chồng Mahàdhana. Đôi thanh niên nam nữ nầy, quả họ sống không có lý tưởng. Cả đời lẫn đạo, họ đều thất bại. Họ sống không có định hướng. Hướng tiến của họ, chỉ có một con đường phía trước là ăn chơi. Ăn chơi theo kiểu không cần biết đến ngày mai.
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mãi sầu.
Vì ăn chơi như thế, nên về già chỉ còn lại như một bóng ma. Phật nói, giống như con cò già bên bờ ao không kiếm ra mồi, khô héo chết mòn. Hay như cây cung bị gãy, cứ buồn than về dĩ vãng. Thế là chấm dứt cuộc đời! Chấm dứt mà vô quan tài nằm êm trong đó thì không nói làm chi, đằng nầy, chấm dứt bằng một thân tàn ma dại, kéo lê kiếp sống đọa đày! Nghĩa là sống không ra sống mà chết không ra chết. Đó mới thật là thê thảm, mới là khổ đau cùng cực.
Cuối cùng chỉ có mình hành hạ lấy bản thân mình. Thử hỏi ai tạo ra cuộc sống đó cho mình? Có phải tại mình gây nhân xấu, nên phải gặt hái quả xấu. Không có ai hành phạt mình cả. Tự mình hành phạt lấy mình mà thôi! Thật là đau xót lắm thay!
Mong các bạn trẻ hiện đang ở vào lứa tuổi thanh xuân, cuộc đời của các bạn còn nhiều hy vọng và tràn đầy sức sống, xin các bạn hãy lắng nghe lời Phật dạy trên để tự hướng đời mình đi trên con đường thiện nghiệp, có đầy hoa trái hạnh phúc. Và nên tránh xa vết xe đổ của anh chàng Mahàdhana. Có thế, thì tương lai cuộc đời của các bạn chắc chắn sẽ có nhiều triển vọng huy hoàng và sẽ gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Chúc các bạn thành công trên bước đường sự nghiệp.
Phẩm Tự Ngã
157. “Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức.”
158. “Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm.”Lược giải
157. Nếu biết tự thương mình, phải gắng tự bảo hộ, trong ba thời phải có một, người có trí nên tỉnh ngộ, chớ mê man.
If one holds oneself dear, one should diligently watch oneself. Let the wise man keep vigil during any of the three watches of the night.
Kệ Tụng
Nếu yêu quí tự ngã
Phải khéo bảo vệ mình
Người trí trong ba canh
Phải luôn luôn tỉnh thức.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Bhesakalàvana, có liên quan đến hoàng tử Bồ Đề. Vị hoàng tử nầy có nhiều mưu mô gian ác, ngầm ý muốn hại tên thợ xây cung điện cho ông ta. Nhưng may mắn, tên thợ nầy biết được, nên tìm cách thoát thân cả vợ lẫn con. Và khi cung điện hoàn thành, hoàng tử Bồ Đề mở hội ăn mừng và thỉnh cầu đức Phật đến. Ông trải thảm sang trọng để Phật và tôn giả A Nan bước lên, nhưng đức Phật và Ngài A Nan không bước lên thảm, đồng thời Phật bảo ông nên cuốn thảm lại. Ý ông nghĩ thầm, khi Phật bước chân lên thảm, thì ông sẽ có con trai hoặc con gái. Phật hiểu ý ông, nên không bước lên.
Sau đôi lần khẩn nguyện thỉnh cầu và bày tỏ ý ông muốn có con trai hay con gái với đức Phật, đức Phật vẫn từ khước ý ông không giẫm chân lên thảm. Nhân đó, Phật cho ông biết về tiền kiếp tạo ác của ông.
Trong tiền kiếp, ông và vợ ông khi bị chìm tàu, cả hai đều may mắn thoát chết. Khi lên đảo, vì quá đói nên cả hai vợ chồng đều tìm kiếm thức ăn. Thấy trứng chim, cả hai đều mừng rỡ ăn hết ổ trứng chim nầy đến ổ trứng chim khác. Không bao lâu, cả hai vợ chồng đều ăn hết cả trứng lẫn những con chim non trên đảo.
Họ ăn như thế, từ lúc trẻ cho đến lúc già. Phật nói, bởi gây nhân ác đó, nên suốt đời không có con. Phật lại dạy tiếp, nếu muốn đời sống của mình có hạnh phúc, có con cái, thì cần phải sáng suốt không nên gây đau khổ cho loài khác. Đó là người khéo biết thương mình và tự bảo vệ lấy mình suốt trong ba thời: thanh niên, trung niên và lão niên. Đó là lý do chính yếu Phật nói pháp cú nầy.
Ba thời là nói lên suốt cả đời người. Phật bảo, nếu chúng ta biết tự thương lấy mình, thì mỗi cá nhân nên tự nỗ lực xây dựng hạnh phúc đời mình qua ba giai đoạn của một đời người. Người khéo biết toan tính lo xa, thì tránh được cái hậu quả buồn gần. Quả đúng như lời Khổng Tử đã nói: “Nhơn vô viễn lự, tắc hữu cận ưu.” Nghĩa là:người không lo xa, ắt có buồn gần. Sách Nho cũng có câu:“Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi đãi lão.” Nghĩa là: chứa lúa thóc trong nhà để phòng khi đói khát, nuôi trẻ con để phòng bị lúc tuổi về già.
Người sống có ý thức, tất nhiên, là người biết mỗi giai đoạn phải làm gì cho thích hợp. Lúc còn thanh niên, sức khỏe cường tráng, phải lo nỗ lực gắng chí dồn hết cho sự học hành. Đây là giai đoạn tốt nhất cho sự chuẩn bị bước vào đời ở lứa tuổi trung niên. Lứa tuổi trung niên là lứa tuổi lập nghiệp. Khổng Tử nói: “tam thập nhi lập.” Vì ở lứa tuổi nầy, người ta đã có chút ít kinh nghiệm trong cuộc sống. Cho nên, sự lập nghiệp có phần vững chắc hơn.
Trong giai đoạn nầy, người ta làm hết sức mình để chuẩn bị cho cái tuổi lão niên. Đến tuổi lão niên, là cái tuổi lão giả an chi. Ở vào giai đoạn nầy, nhựa sống của người ta tàn tạ khô héo dần. Mọi sự hơn thua tranh danh đoạt lợi, chức tước quyền cao, bon chen với đời, người ta đã quá ê chề chán ngấy, không còn ham thích nữa. Đấy là cái tuổi mà các cụ ta ngày xưa, thường hay lui về vườn, tiêu dao hưởng nhàn vui thú điền viên. Vui với thiên nhiên, với trăng thanh, gió mát, không còn vướng bận gì đến việc đời. Như trường hợp cụ Nguyễn Gia Thiều Ôn Như Hầu đã nói:
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần, một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Vâng, chỉ có niềm vui đó mới đưa con người đến chỗ thực sự an nhàn giải thoát mà thôi!
158. Trước hãy đặt mình vào Chánh đạo [13] rồi sau giáo hóa [14] kẻ khác, được như vậy mới tránh khỏi điều lỗi lầm xảy ra.
One should first establish oneself in what is proper; then only should one instruct others. Thus the wise man will not be reproached.
Kệ Tụng
Trước hết tự đặt mình
Trên chánh pháp chơn yếu
Sau mới giáo hóa người
Người trí khỏi bị chê
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Upananda, một hoàng tử dòng họ Thích Ca.
Theo truyện tích, Tỳ kheo Upananda có biệt tài thuyết pháp. Dù thầy thuyết pháp rất hay, nhưng có đôi khi thầy làm trái lại những điều thầy đã giảng dạy. Như những vật dụng do tín chủ cúng dường, thầy đều thọ dụng hết. Thậm chí, khi phân xử, thầy lại không chia đều mà thầy dành lấy những vật tốt về mình. Việc đó, gây ra lắm nỗi bất bình cho các thầy Tỳ kheo khác. Ông nghĩ rằng, ông là người thuyết pháp hay, nên ông được quyền hưởng dụng nhiều các thứ tốt đẹp hơn.
Vì không thể chịu đựng được sự bất bình đẳng đó, nên những Tỳ kheo khác, bạch trình với đức Phật. Phật bảo, đây không phải là lần đầu tiên mà Tỳ kheo Upananda đã gây ra cho các thầy bất bình ghê tởm thất vọng về ông ta, mà trong quá khứ về kiếp trước ông cũng đã từng làm như thế…
Người xưa có câu nói: “Thuyết dị hành nan”, hay “Năng thuyết bất năng hành”. Nghĩa là, nói thì rất dễ mà thật hành thì rất khó. Hoặc có người nói thì rất hay, nhưng không bao giờ làm theo những gì mình đã nói. Đây là một căn bệnh chung khó chữa của con người. Căn bệnh trầm trọng nầy, không chỉ riêng cho bất cứ ai hay ở trong bất cứ lãnh vực nào. Từ lãnh vực Tôn giáo cho đến chánh trị, xã hội v.v…Bất cứ lãnh vực nào cũng đều có những hạng người nầy. Họ là người chỉ biết nói miệng tài, hay vào tai ra miệng. Họ có biệt tài sử dụng ba tấc lưỡi để khoe khoang phô trương lừa bịp thiên hạ. Họ giống như cái máy phát thanh. Họ nói một đường làm một ngã. Họ chuyên sống bằng nghề đầu môi chót lưỡi. Thiên hạ lầm họ rất nhiều. Họ mượn danh nghĩa, đội lốt tôn giáo để làm tiền thiên hạ. Họ lợi dụng lòng tin của tín đồ mà tha hồ trục lợi. Thời nào và trong bất cứ xã hội nào, xưa hay nay, cũng đều có những hạng người nầy. Nhiều người hết tiền, hết của cũng chỉ vì nghe theo những lời khuyến dụ thuyết giảng đường mật của họ.
Khi biết được sự thể rõ ràng, thì than ôi! mọi việc đã quá phủ phàng! Thế nên, Phật dạy người Phật tử khi nghe bất cứ ai, dù người đó mệnh danh là Phật hay Tổ nói, tất cả đều phải cân nhắc suy xét cho thật kỹ càng, chớ không nên vội tin. Phải nhìn hành động của họ có xứng hợp với lời họ nói hay không. Người khôn khéo, cần phải có sự kiểm chứng trong khi nghe. Ở đời vàng thau lẫn lộn thật khó phân biệt.
Trong đạo Phật luôn đề cao việc tri hành phải hợp nhất. Nghĩa là lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Nếu chỉ nói mà không làm, thì đó là kẻ chỉ biết nói suông, khác nào cái tủ đựng sách. Tệ hơn nữa là họ có ý đồ trục lợi. Bản thân họ không được lợi ích, làm sao họ đem lợi ích đến cho mọi người?
Câu chuyện lược dẫn nêu trên, thầy Tỳ kheo Pananda là người chỉ có tài hay nói mà hành động thì trái ngược lại. Khi giảng thuyết, thì thầy khuyên các Tỳ kheo khác phải nên thiểu dục tri túc, không nên cất chứa tài sản. Trong khi đó, thì ông ta lại tom góp tài vật để cất chứa và thậm chí lại lường gạt sự phân chia lấy bớt của các vị Tỳ kheo khác, đó là hiện tướng của lòng tham. Vì không chế ngự được lòng dục vọng tham lam, nên hành động trái ngược những gì ông nói. Lời nói bao giờ cũng cao siêu tuyệt mỹ, nhưng việc làm thì lại khác. Vì thâm hiểu bệnh trạng nặng nề nầy của con người, cho nên cổ đức có lời khuyên:
Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu
Dưới gót không ly một điểm trần.
Một triết gia nào đó cũng đã nói: “Con đường thành công nhất trên đường đời là bạn hãy thật hành những điều gì mà bạn thường khuyên bảo kẻ khác”. Đây là lời khuyên thật là chí lý. Thông thường, những lời khuyên đều nhắm vào những điều hay lẽ phải. Không ai khuyên con người làm những điều phi pháp tội lỗi. Ta khuyên người không nên hút sách, cờ bạc, say sưa… tất nhiên, là ta không bao giờ làm những điều nầy. Có thế, thì lời khuyên của ta mới thực sự có giá trị. Và như thế, chính bản thân ta mới thực sự là một con người có nhân phẩm đạo đức. Bằng ngược lại, thì lời khuyên của ta chỉ là lời khuyên trống rỗng vô bổ. Vì không ai làm theo lời khuyên của ta cả. Do đó, một người thực sự có đạo đức, thì họ tuy nói ít, nhưng rất có giá trị đối với người nghe. Vì chính bản thân họ là những lời thuyết giáo sống động, đó là thân giáo.
Pháp cú trên Phật dạy rất rõ: “Trước hãy tự đặt mình vào Chánh đạo rồi sau mới giáo hóa kẻ khác,được như vậy mới tránh điều lỗi lầm xảy ra”. Cụm từ: “đặt mình vào Chánh đạo”, Phật muốn thức nhắc mọi người, cần phải trau dồi, rèn luyện, tu tập cho mình thật sự có đạo đức. Nhất là phẩm hạnh của một người có trách nhiệm hoằng hóa lợi sanh. Người có phẩm cách, đời sống đạo đức cao thượng, thì việc giáo hóa mọi người trở về với đạo đức nhân bản, với Chánh pháp, mới thật sự có tác dụng hiệu quả cao. Nếu không, thì việc giáo hóa không thể thành công được. Chẳng những thế mà còn gây ra lắm điều tệ hại. Làm trò cười cho người đời chế nhạo phỉ báng. Và như thế, sẽ làm mất tín tâm ở nơi mọi người, đó là một lỗi lầm rất lớn đối với người có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh vậy.
159. “Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục!”
160. “Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Ðược y chỉ khó được.”Lược giải
159. Nếu muốn khuyên người khác nên làm như mình, trước hãy sửa mình rồi sau sửa người, vì tự sửa mình vốn là điều khó nhất.
One should do what one teaches others to do; if one would train others, one should be well controlled oneself. Difficult, indeed is self-control.
Kệ Tụng
Dạy người như thế nào
Hãy dạy mình như vậy
Khéo điều, mới điều người
Khó thay, tự điều phục.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chuyện Trưởng lão Padhànika Tissa. Sau khi nhận đề mục thiền quán từ nơi Phật dạy, vị Trưởng lão nầy dẫn năm trăm Tỳ kheo vào trong rừng sâu để thực tập. Ông bảo các vị Tỳ kheo, mọi người hãy để tâm thiền quán qua lời đức Thế Tôn dạy. Xong, ông đi tìm chỗ vắng vẻ để ngủ nghỉ. Trong khi đó, thì các Tỳ kheo kia đi kinh hành suốt canh một. Đến giữa đêm, họ trở lại tinh xá. Khi ấy, Trưởng lão Padhanika Tissa, sau khi nằm dài ngủ một giấc say sưa, mới thức dậy đi tìm những vị Tỳ kheo nầy. Lúc gặp, ông liền lên giọng gắt gỏng bảo: các ông phải tiếp tục đi vào rừng để thiền quán, không được về đây ngủ nghỉ. Thế là, các vị Tỳ kheo nầy vâng lời ông lại trở vào rừng kinh hành thiền quán. Cứ thế, cho đến hết canh giữa. Mãi đến gần sáng, họ kéo nhau về tinh xá. Khi về đến tinh xá, họ lại bị vị Trưởng lão nầy đuổi ra, không cho họ ngủ nghỉ. Sau khi đuổi ra, ông lại đi ngủ. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi cứ đinh ninh nghĩ rằng, vị sư phụ của mình thật quá nhiệt tình. Từ đó, họ để ý theo dõi. Sau khi khám phá ra, biết rõ sự thật là ông ta chỉ tìm cách nằm dài ngủ, chớ không có tham thiền quán tưởng chi cả. Biết rõ sự tình, các vị Tỳ kheo nầy đâm ra bực mình vì thức sáng đêm quá sức mệt mỏi. Sau đó, khi hết hạn ở rừng, họ trở về bạch trình tỏ rõ duyên cớ cùng đức Phật. Nhân đó, đức Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo! Nếu một người răn bảo kẻ khác, trước hết hãy tự điều phục, và tự điều phục mình thì có thể điều phục kẻ khác.
Sống trong một tập thể, người có trách nhiệm lãnh đạo hướng dẫn người khác tu học, tất nhiên, mình phải là người gương mẫu. Khi bảo người khác làm, chính mình phải đích thân làm. Không thể nói một đường làm một ngã. Bảo người ta không nên nói láo, mình lại nói dối hơn ai hết. Bảo người ta chăm chỉ học hành, thì mình lại kiếm chuyện đi chơi. Bảo người ta ráng lo tu học, mình lại kiếm cớ tìm chỗ ngủ dài. Bảo người ta tu tập thiền quán, mình lại đi tìm chỗ yên tịnh ngủ nghỉ. Như vậy, lời khuyên dạy của mình thật vô nghĩa, vì không có ai nghe theo.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy sự thất bại của vị Trưởng lão Padhanika Tissa. Là một người hướng dẫn tu học, nhưng ông không có tinh thần trách nhiệm. Ông không có đức tánh của một người lãnh đạo. Ông không phải là người giáo thọ gương mẫu. Ông không tự khắc chế nỗi tật tánh xấu của ông. Khi hướng dẫn chỉ bảo mọi người tu học, ông lại chỉ biết ra lệnh dạy bảo người khác mà chính bản thân ông thì ông lại làm một điều trái ngược. Thay vì ông cùng đi với mọi người vào rừng tu tập thiền quán, theo như lời Phật dạy, thì ông lại chém vè lẩn tránh tìm chỗ ngủ nghỉ. Ông là người không có một chút tự trọng. Người như thế, thật không xứng đáng lãnh đạo. Lãnh đạo bản thân ông còn chưa xứng đáng, nói chi đến việc lãnh đạo mọi người. Bởi thế, khi ông bị các vị Tỳ kheo trẻ tuổi phát hiện ra, bạch trình lên đức Phật, thì ông đã bị Phật quở, khiển trách là một người thiếu đạo đức trách nhiệm.
Ngẫm lại, hạng người như vị Trưởng lão trên, bất cứ trong đoàn thể nào, dù đời hay đạo, chúng ta thấy, nơi nào cũng có. Hạng người chỉ biết sai bảo kẻ khác làm, còn bản thân mình thì lo hưởng thụ. Họ khéo nịnh bợ kẻ trên, ra oai dọa nạt kẻ dưới. Họ tìm đủ mọi cách mánh lới xảo quyệt để hầu che đậy cái chân tướng xấu xa của họ. Họ là hạng người chỉ biết nô lệ cho lòng dục vọng, miễn sao thỏa mãn những nhu cầu có lợi cho thân thể của họ là được.
Đạo đức đối với họ chỉ là một cái áo khoát bề ngoài để dễ bề trục lợi. Họ là hạng người không biết tàm quý. Họ chỉ biết làm sao hưởng thụ cho sung sướng là được. Đây là hạng người sâu mọt làm băng hoại mất hết thể diện của một đoàn thể tu học. Họ là người chỉ biết phá hoại hơn xây dựng. Là người sống trong một tập thể, chúng ta nên lưu ý đối với những hạng người lãnh đạo chỉ biết nói mà không làm.
160. Chính tự mình làm chỗ nương cho mình chứ người khác làm sao nương được? Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu.
One truly is the protector of oneself; who else could the protector be? With oneself fully controlled, one gains a mastery that is hard to gain.
Kệ Tụng
Tự mình nương tựa mình
Tựa điểm nào hơn nữa
Nhờ khéo điều phục mình
Được điểm tựa khó được.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến bà mẹ của Trưởng lão Kumara Kassapa.
Một người mẹ thật đau khổ vì bị nghi oan. Trước khi xuất gia vào Ni chúng, bà đã có mang thai, nhưng chính bà và người chồng đều không hay biết. Bà gia nhập vào Ni chúng thuộc phái Đề Bà Đạt Đa. Sau khi phát hiện biết bà mang thai, lời dị nghị đàm tiếu nghi oan của mọi người đã làm bà thật vô cùng thất vọng đau khổ. Tiếng đồn đến tai đức Phật, Phật biết đây là một sự nghi oan của mọi người. Phật sai ngài Ưu Ba Ly, một người trì giới đệ nhất đến tận nơi để giải oan.
Sau khi cho khám nghiệm kỹ càng, ngài Ưu Ba Ly dõng dạc công bố giữa mọi người là người đàn bà nầy vô tội. Và tính theo ngày tháng, thì cái bào thai kia là có trước khi bà xuất gia. Thế là mọi việc được minh bạch, không còn ai nghi ngờ. Không bao lâu, đứa bé lại chào đời. Đứa bé đó chính là Kassapa.
Kassapa lớn lên cũng đi xuất gia. Mẹ con cách xa nhau 12 năm. Có lần, bà mẹ trông thấy con mình trên đường mang bát đi khất thực, bà mừng quá la lên rồi vội vã chạy đến, vì bất cẩn bà té sấp xuống chân Ngài. Nhìn thấy cảnh tượng đau lòng đó, thầy Kassapa không muốn cho tình mẫu tử sống dậy trong lòng thêm phiền não rắc rối cho sự tu hành, nên Ngài nói những câu như vô tình bạc nghĩa. Nghe con nói thế, người mẹ rất đau lòng xót dạ ngậm ngùi nuốt tủi đành gạt lệ bỏ đi! Từ đó, bà quyết chí không còn nương tựa vào bất cứ ai, vì chính con ruột của bà còn vội nở bỏ bà, thì thử hỏi trên đời nầy, còn có ai thương bà để cho bà đáng nương tựa gởi thân. Chính bà là nơi nương tựa cho bà. Bà quyết tâm dũng mãnh nỗ lực quyết chí tiến tu, không còn ỷ lại vào bất cứ ai khác.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy bà mẹ của thầy Kassapa thật là đau khổ. Chính nỗi đau khổ nầy làm cho bà đứng vững mạnh hơn. Khi mẹ con gặp lại, thông thường là người ta mừng rỡ bịn rịn khóc than. Thế nhưng ở đây, ta thấy mẹ con của ngài Kassapa thì ngược lại. Thầy Kassapa đối xử với mẹ thật vượt hơn thường tình. Thầy đã không xúc động rơi lệ, dù đã trải qua 12 năm trường xa cách. Thầy đã gạt lệ khóc thầm, khi đối xử với người mẹ mình như kẻ vong ân bạc tình bạc nghĩa.
Nhưng chính cái bạc tình nầy đã đánh thức cái tình đạo lý sống dậy trong tận cùng tâm khảm của người mẹ. Bà đã mạnh dạn đứng lên và quyết tâm tự nỗ lực tu hành, không nương tựa hay ỷ lại vào bất cứ ai. Vì cái chân lý giải thoát không ai có thể ban cho mình được. Khổ hay vui chính do mình tạo lấy, đó là một bài học thật tràn đầy ý nghĩa thâm thúy.
Người ta sống hay ỷ lại kẻ khác. Đối với người Phật tử, Phật dạy không nên ỷ lại vào bất cứ nơi ai, dù người đó là đức Phật. Câu nói: “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, nhưng hãy thắp lên với chánh pháp”. Đó là lời dặn dò phó chúc chí thiết sau cùng của Phật đối với ngài A Nan, một người thị giả luôn luôn hầu cận bên Phật. Qua lời dạy nầy, đức Phật muốn thức nhắc cảnh tỉnh mọi người hãy tự mình quyết định đời mình. Đừng bao giờ tin cậy nương vào bất cứ ai. Vì không có một vị Thần Thánh nào có thể cứu mình được.
Chính mình hãy tỉnh thức tự cứu lấy đời mình. Không ai có đủ quyền năng ban phước, giáng họa định đoạt đời ta cả. Địa ngục hay thiên đường do ta tự tạo lấy. Ta tự cầm tay lái chiếc xe đời ta. Ta không nên ỷ lại gởi thân phận mình cho bất cứ ai, dù người đó mệnh danh là Thần Thánh. Ngay cả đức Phật, Ngài còn không cho chúng ta ỷ lại nương tựa vào Ngài. Thế thì, thử hỏi trên đời nầy còn có ai để cho ta tin tưởng trao thân gởi phận nữa chớ?!
Phật chỉ giúp cho ta bằng cách chỉ dạy. Nói cách khác, Ngài chỉ có nhiệm vụ là người vẽ bản đồ và chỉ đường cho chúng ta đi. Đi hay không là quyền quyết định của chúng ta. Ngài chỉ rõ con đường nào an lạc và con đường nào đau khổ. Quyền chọn lựa con đường là hoàn toàn ở nơi chúng ta. Ngài không bắt buộc ai phải đi theo con đường Ngài chỉ dẫn. Ngài cho chúng ta có trọn quyền quyết định, chọn lựa. Đạo Phật rất tự do và công bằng là ở chỗ đó. Ngài chỉ khuyến hóa ta chớ không bao giờ bắt buộc hay khuyến dụ ta. Người học Phật xin nhớ rõ ở điểm nầy. Khổ hay vui là do tự mình quyết định chọn lấy.
Đọc qua Pháp cú trên, Phật dạy rất rõ: “Chính tự mình làm chỗ nương cho mình, chứ người khác làm sao nương được?” Thế mà, đại đa số Phật tử chúng ta hay ỷ lại nương vào người khác. Cứ nghĩ rằng, Phật hay Bồ tát hộ độ cho mình, trong khi đó mình không chịu lo tu, không làm theo những gì Ngài chỉ dạy. Lúc sống không lo tu niệm, làm lành lánh dữ, ăn chay niệm Phật, đến khi chết thì chạy vô chùa nhờ Tăng Ni tụng kinh cứu độ giùm. Phật tử tin tưởng một bề ỷ lại như thế, thì thật là đáng thương xót, tội nghiệp biết bao!
Phật dạy tiếp: “Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu”. Người tu hành muốn đạt đến quả vị A la hán hay quả vị Phật là tự mỗi người nỗ lực hành trì. Trong khi thật hành, Phật dạy người Phật tử phải khéo tu tập. Khéo tu tập là khéo chọn lựa pháp môn cho thích hợp với căn cơ và trình độ của mình. Sau khi đã chọn đúng pháp môn rồi, từ đó, người Phật tử phải vận dụng công phu tu tập, nỗ lực hành trì đúng theo lời Phật chỉ dạy. Có thế, thì mới mong đạt được kết quả tốt đẹp vậy.
161. “Ðiều ác tự mình làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương, ngọc báu.”
162. “Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước.”Lược giải
161. Ác nghiệp chính do mình tạo, tự mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim cương phá hoại bảo thạch.
Evil, a witless man does by himself, born of himself and produced by himself, grinds him as a diamond grinds a hard gem.
Kệ Tụng
Tự mình làm điều ác
Tự mình sanh, mình tạo
Ác nghiệp nghiến kẻ ngu
Như kim cang nghiến báu.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị cư sĩ tên là Mahà Kala.
Mahà Kala là một cư sĩ tu hành đắc quả Dự lưu. Ông là người tu hành rất tinh tấn, thường hay đến tinh xá thọ trì Bát quan trai. Có một hôm, ông ở lại tinh xá suốt đêm nghe pháp. Sáng sớm, ông ta đi ra ngồi bờ ao đang đứng rửa mặt, bỗng có một tên trộm chạy ngang qua làm rớt túi đồ trước mặt ông ta, mà hắn đã vừa mới lấy. Vừa lúc đó, người chủ mất đồ chạy đến nhìn thấy tang vật của mình đã mất, nổi cơn tức giận, không cần phân bua phải trái, ngỡ rằng ông ta là kẻ ăn trộm, nên người chủ nhà xông tới đánh ông ta đến chết.
Sau đó, các thầy Tỳ kheo phát hiện xác chết và rồi bạch trình lên đức Phật. Phật bảo, Mahà Kala đã trả cái quả báo mà ông ta đã gây ra trước kia. Nhân đó, Phật kể tiếp câu chuyện về tiền kiếp của ông ta. Xưa kia, chính Mahà Kala đã vu oan, gây ra tai họa giết chết người. Ngày nay, ông ta phải trả cái quả báo thê thảm đó.
Nghiệp quả là một định luật tất yếu. Một khi đã gây nhân ác, dù gần hay xa, dù mau hay chậm, cuối cùng cũng phải trả, không một ai thoát khỏi luật nhân quả.
Sự tác nghiệp do chính chúng ta tạo ra, tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm lãnh lấy. Nghiệp lành hay dữ cũng thế. Người ta thường nói: “Gieo gió thì phải gặt bão”. Tùy theo cường độ của cái nhân mà chúng ta đã gây tạo nặng nhẹ, khi trả quả cũng có nặng nhẹ khác nhau, song có điều nó không bao giờ mất. Nhân quả có ra từ ý nghĩ, lời nói và hành động. Một lời nói làm cho ích nước lợi dân, cũng một lời nói làm cho nước mất nhà tan.
Phật nói: “Ác nghiệp chính do mình tạo, từ mình sinh ra, rồi chính ác nghiệp đó trở lại hại mình, dụ như kim cương phá hoại bảo thạch”. Trên đời nầy, không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Một người biết lo tu hành, trì trai giữ giới, ăn chay niệm Phật, suốt đời không làm gì hại ai, tại sao hôm nay phải hứng chịu nhiều tai ương hoạn họa? Vậy thì nhân quả có công bằng không? Điển hình như câu chuyện dẫn chứng trên, Mahà Kala là một cư sĩ rất hiền lành, thường xuyên đến tinh xá nghe pháp và thọ trì Bát quan trai. Thế thì, tại sao lại bị một người nhẫn tâm đánh chết? Chuyện xảy ra, thật là oan ức. Thật ra, không có gì là oan ức cả. Nếu chúng ta, chỉ nhìn nhân quả trong hiện tại, thì thấy như là oan ức, không công bằng. Nhưng nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu nhìn về quá khứ, thì nhân và quả rất rõ ràng. Sở dĩ hôm nay, Mahà Kala bị đánh chết một cách đau thương như thế, Phật nói, do tiền kiếp, ông ta đã gây ra cảnh giết người cũng chết oan một cách thê thảm, bằng cách vu oan giá họa, ném đá giấu tay. Nếu Phật không nói nguyên do tiền kiếp của ông ta, thì chúng ta rất đổi nghi ngờ về nhân quả.
Do đó, muốn hiểu rõ nhân quả, chúng ta phải chịu khó nhìn xuyên suốt qua 3 thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu chỉ nhìn cục bộ trong hiện tại không thôi, thì chúng ta không thể nào hiểu rõ nhân quả. Vì từ nhân tới quả, nó diễn biến theo chiều thời gian.
Vừa qua, báo chí đã đăng tải một vụ thảm sát đẫm máu kinh hoàng ở Mỹ. Thảm trạng đã xảy ra vào ngày 16/4/07 tại Đại học Công nghệ Virginia, kết quả 33 người chết, kể cả thủ phạm. Thủ phạm trong vụ thảm sát nầy là một thanh niên Hàn Quốc, tên là Cho Seung- hui.
Về nguyên nhân của vụ thảm sát nầy, dĩ nhiên, có nhiều lý do. Nhưng nguyên nhân chính, theo báo chí cho biết, là vì anh ta ghen tức hận thù tình yêu. Nổi tức giận thù ghét hận đời đã nhen nhúm ngấm ngầm trong lòng anh ta từ lâu. Từ một nội kết thâm sâu tận cùng của tâm thức mà anh ta không thể hóa giải được, nên cuối cùng đưa đến một hậu quả vô cùng khốc hại. Một cái nhân bất thiện ban đầu khởi lên tuy rất yếu ớt, nhưng nếu chúng ta không khéo chuyển hóa nó, để càng ngày nó càng nhen nhúm phát triển lớn mạnh và tất nhiên, một ngày nào đó, khi đã chín mùi thì nó phải nổ tung thôi! Chừng đó, không có một thế lực nào ngăn cản được và rồi sẽ gây ra một thảm trạng khủng khiếp kinh hoàng mà không ai có thể lường trước được.
Thế giới ngày nay, con người sống phóng thể gần như thác loạn. Nhơn tính, lương tri, đạo đức, nơi đã được mọi người tin tưởng quan tâm trong việc hun đúc giáo dục, đào tạo con người là nhà trường, mà nay hầu như đã bị bật gốc. Cuộc sống hối hả chạy theo máy móc vật chất, kim tiền, con người như mất hết tự chủ. Sống hoàn toàn nô lệ cho ngoại cảnh. Đầu óc con người như điên cuồng rối loạn. Người ta cứ mãi la làng lo chạy chữa cháy trên cái ngọn, mà người ta không chịu tìm hiểu và chữa cháy ngay từ cái căn nguyên gốc rễ của nó. Gốc rễ của nó là vô minh, là lòng dục vọng: tham, sân, si…đó là những độc tố tàn hại con người mà không ai để ý chạy chữa hoán cải. Đời sống con người ngày nay đã đánh mất quân bình đạo đức, không còn cấm sâu gốc rễ đạo đức vào mảnh đất tâm linh.
Đã thế, các nhà kinh doanh làm phim ảnh chuyên sản xuất những loại phim ảnh kích thích bạo động, xã hội đen, đâm chém, bắn giết với nhau, khơi dậy dục tính mãnh liệt ở tuổi trẻ, khiến cho chúng gây bạo động giết người như trò chơi. Đó là một sự đầu độc kích thích tuổi trẻ làm băng hoại của một nếp sống thơ ngây hiền hòa. Thay vì, giáo dục hướng dẫn đời sống đạo đức, xây dựng tình người, thì họ lại tạo ra nhiều cảnh bạo động chém giết coi mạng sống con người thua cỏ rác! Vì cuồng trí thác loạn, nên chúng giết người một cách bừa bãi. Than ôi! cảnh tượng người làm khổ người, đồng loại tàn sát đồng loại với nhau, biết đến bao giờ mới thực sự chấm dứt!
Cái tác nhân như thế, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cái hậu quả tệ hại đau thương?!!! Đã gieo nhân xấu, thì bảo sao có quả tốt cho được?
Xin mọi người hãy chiêm nghiệm lời Phật dạy trên, để chúng ta ý thức đem ra ứng dụng chuyển hóa thân tâm trong đời sống hằng ngày. Có thế, thì mới tránh được những nỗi khổ đau mà chính do con người tạo lấy.
162. Sự phá giới làm hại mình như giây mang la[15] bao quanh cây Ta la [16] làm cho nó khô héo. Người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho mình.
Just as a single creeper strangles the tree on which it grows, even so, a man who is exceedingly depraved harms himself as only an enemy might wish.
Kệ Tụng
Phá giới như giây leo
Xiết chết cây ta la
Gieo hại cho tự thân
Như kẻ thù mong ước
Lược giảng :
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Đề Bà Đạt Đa.
Truyện tích kể lại: “Các Tỳ kheo bàn tán trong pháp đường:
- Chư huynh, Đề Bà Đạt Đa tập khí độc hại, tánh tình xấu ác, ý muốn quá tàn bạo. Chỉ vì hiểm độc như thế nên luồn cúi ân sủng của A Xà Thế, dâng tặng nhiều lễ vật cho ông ta, xúi giục ông ta giết cha, rồi cùng âm mưu sát hại Phật.
Thế Tôn nghe được liền bảo:
- Đây không phải lần đầu, ở kiếp trước ông ta đã từng như vậy.
Rồi Ngài kể chuyện Kurùnga Miga và chuyện khác trong Bổn sanh, xong dạy tiếp:
- Nầy các Tỳ kheo! Khi một người phó mặc tính ác độc của mình thắng lướt mọi ranh giới, để cho ý muốn xấu ác nảy sanh từ tánh ác độc, giống như dây leo bám quanh cây Sa la, cuối cùng sẽ làm cho cây héo chết, người đó sẽ tống vào địa ngục hoặc một cõi giới khổ não nào đó”. ( trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 253 )
Tập khí là tên khác của chủng tử. Chủng tử là hạt giống. Hạt giống, tuy có rất nhiều loại, nhưng tựu trung cũng không ngoài hai thứ hạt giống: lành và dữ. Hai loại hạt giống nầy, ai ai cũng có. Nói cách khác, trong kho A lại da thức của mỗi người đều có huân chứa tiềm tàng hai loại hạt giống thiện và bất thiện nầy. Hạt giống có ra là do mỗi người huân tập. Tùy theo sự huân tập sâu dầy cạn mỏng mà đến lúc hiện hành nó có mạnh yếu khác nhau.
Sự huân tập nầy không phải chỉ có trong hiện đời thôi, mà nó đã có từ nhiều đời về trước. Nếu trong kho A lại da thức mà hạt giống lành nhiều, thì nó sẽ hiện ra hình tướng, tánh nết của một con người rất hiền từ. Ai trông thấy cũng rất dễ thương mến và có cảm tình ngay. Ngược lại, nếu hạt giống ác nhiều và mạnh, thì nó cũng hiện ra từ hình tướng cho đến tánh nết đều hung dữ, ai trông thấy cũng phát sợ, ít dám lân la gần gũi.
Thế nên, Phật dạy, người Phật tử cần phải huân tập cho mình thật nhiều hạt giống lành. Như niệm Phật, tụng kinh, bái sám, bố thí, cúng dường v.v… Chính sự huân tập nầy nó sẽ trở thành thói quen tốt. Hiện đời chúng ta sẽ được an vui lợi lạc và đời sau cũng được an vui lợi lạc. Cho nên, tập khí cũng có nghĩa là thói quen, mà thói quen là nghĩa của hành động. Hành động phát xuất từ thân, miệng và ý. Ba thứ nầy cũng gọi là nghiệp. Hành động được lặp đi lặp lại thành thói quen. Như vậy, tập khí cũng chính là nghiệp, là thói quen.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho chúng ta thấy, tập khí của Đề bà đạt đa là thứ tập khí độc ác. Phật đã nói rõ, không phải tập khí hiện đời mà trong quá khứ ông ta đã nuôi dưỡng thứ tập khí độc ác nầy. Từ một tập khí ganh ghét, đố kỵ, không muốn ai hơn mình, nên sanh ra bao thứ tệ hại khác. Ông cấu kết với vua A xà thế cố ý hại Phật. Ông đã ra tay hại Phật nhiều lần, nhưng không lần nào hại được. Cho thấy, tập khí bất thiện của ông ta quá sâu nặng. Người tu hành sợ nhứt là tập khí xấu.
Xét kỹ, không phải chỉ có Đề bà đạt đa hay vua A xà thế mới có những hạt giống ganh tỵ ác độc nầy, mà hầu hết chúng ta ai ai cũng đều sẵn có. Chẳng qua nặng hay nhẹ mà thôi. Nếu người nào khéo biết huân tu già dặn, miên mật, chuyển hóa nó từ trong trứng nước khi nó mới manh nha khởi mầm, thì những hạt giống bất thiện của người đó lần lần sẽ giảm nhẹ và yếu dần đi.
Tập là nhóm họp; khí là hơi. Nó không có hình tướng. Vì thế, nên nó là thứ thật khó trừ khó đoạn. Vì bọn chúng không có nơi trú ngụ cố định. Như những hạt giống tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đó là những hạt giống sâu nặng, chúng thuộc về những thứ căn bản phiền não. Bình thường không biết chúng ở đâu, nhưng khi đối cảnh xúc duyên, bất như ý là chúng hiện hành ngay.
Pháp cú trên, đức Phật cho chúng ta biết tai hại của sự phá giới. Vì phá giới, nên người ta tạo ra lắm nhiều tội ác. Chính những tội ác đó lại là cái nhân bất thiện để thúc đẩy chúng ta trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Tất cả những nỗi thống khổ là cái kết quả mà do chính chúng ta tạo ra.
Phật cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cụ thể về tai hại của sự phá giới nầy. Phật nói: “những ai phá giới tổn mình hại người, hại vật, khác nào như dây mang la quấn lấy cây Ta la, tất nhiên là cây đó phải héo chết. Người phá giới cũng thế. Cũng phải trả cái nghiệp quả đau khổ như cây Ta la kia”.
Ví như, vì sân hận giận dữ, chúng ta không dằn được, liền bắn chết người. Cái ác nhân sát nhơn đó nó đeo bám sát theo ta như dây bám leo cây, và rồi chúng ta phải đền tội trả cái quả báo giết người. Có khi chúng ta bị kẻ thù giết lại hay bị luật pháp trừng trị hành hạ. Chúng ta phải chịu trả cái quả báo đau khổ cùng cực, như cây Ta la kia đã bị héo chết. Nghĩa là chúng ta sẽ bị chết dần chết mòn trong từng giây phút. Chính cái chết héo đó mới thực sự là đau khổ thống thiết!
Do đó, Phật khuyên mọi người nên tránh dữ làm lành, lo tu hành, tạo nhiều thiện nghiệp để được an vui giải thoát trong hiện tại và mai sau.
163. “Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm.”
164. “Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt.”Lược giải
163. Việc hung ác thì dễ làm nhưng chẳng lợi gì cho ta, trái lại, việc lành có lợi cho ta thì lại rất khó làm.
Easy to do are things that are bad and harmful to oneself. But exceedingly difficult to do are things that are good and beneficial.
Kệ Tụng
Việc hung ác dễ làm
Và những điều tự hại
Còn việc lành việc tốt
Thật sự rất khó làm.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, cũng có liên quan đến chuyện Đề Bà Đạt Đa.
Theo truyện tích, một hôm Tôn giả A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, sáng nay trên đường vào thành Vương Xá khất thực. Đề Bà Đạt Đa gặp con bảo rằng: “Kể từ nay, sư đệ A Nan, tôi sẽ trai giới và điều hành công việc của Tăng chúng, độc lập với Tăng đoàn và Thế Tôn”.Hôm nay y sẽ tách Tăng đoàn ra làm hai, tự trai giới và điều hành công việc của Tăng chúng.
Nghe vậy, Thế Tôn đọc bài kệ:
Điều thiện thật dễ làm
Đối với người hiền thiện
Người ác không thể kham
Những việc làm phước thiện
Điều ác thật dễ làm
Đối với người dữ ác
Người hiền chẳng thể cam
Xuống tay làm điều ác.
Rồi Ngài bảo:
Nầy A Nan! Người ta dễ làm điều ác, khó làm điều thiện. (Trích nguyên văn tích truyện, Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 254)
Sống trong một thế giới mà lòng người ác nhiều thiện ít. Hằng ngày xảy ra không biết bao nhiêu chuyện thương tâm. Từ cá nhân, gia đình, đến ngoài xã hội, lúc nào cũng biến loạn, bất an, xáo trộn. Câu nói: “Tâm bình thế giới bình” cho thấy, đó chỉ là một lý tưởng ước mơ. Thực tế, thì làm sao có được! Biết đến bao giờ lòng người mới được an bình? Dù vẫn biết, mọi khổ đau hay vui sướng, gốc từ ở nơi lòng người.
Từ thời xa xưa, cách đây trên mấy ngàn năm, đức Khổng Phu Tử cũng đã từng khuyến nhắc răn dạy mọi người:
Dục bình thiên hạ
Tiên trị kỳ quốc
Dục trị kỳ quốc
Tiên tề kỳ gia
Dục tề kỳ gia
Tiên tu kỳ thân
Dục tu kỳ thân
Tiên chánh kỳ tâm.
Tạm dịch:
Muốn trong thiên hạ được thái bình
Trước hết mỗi quốc gia phải tự trị lấy
Muốn cho mỗi quốc gia được tự trị
Trước hết mỗi gia đình phải lo chỉnh đốn an ổn
Muốn mỗi gia đình được chỉnh đốn an ổn
Trước hết mỗi cá nhân phải lo tu thân
Muốn cho mỗi cá nhân tu thân
Trước tiên phải sửa cái tâm của mình cho chơn chánh.
Thế là, cuối cùng giữa đạo Phật và đạo Nho gặp nhau ở một tụ điểmlà « sửa ở nơi cái tâm ». Thế nhưng, sửa ở nơi cái tâm nào? Tức phải sửa, (nói đúng hơn là chuyển đổi) ở nơi cái tâm bất thiện, cái tâm vọng động. Chính cái tâm vô minh vọng động nầy là đầu mối tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp ác.
Đề Bà Đạt Đa hại Phật. Ông muốn ly khai khỏi Tăng đoàn, không muốn tùng phục đức Phật. Ông muốn lập thành một phái riêng. Ông đã gây xáo trộn trong Tăng đoàn, làm cho mọi người phải nghi kỵ và gây ra nhiều rắc rối cho đức Phật. Tất cả việc làm của ông ta, đều phát xuất từ cái tâm vọng động bất thiện nầy. Từ một ý niệm bất hảo khởi lên, rồi theo nó mà hành động, tất nhiên là phải có hậu quả. Bằng chứng là Đề Bà Đạt Đa cuối cùng, ông ta phải lãnh lấy hậu quả mà chính do ông ta đã tạo ra.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta biết, làm ác thì dễ mà làm lành thì khó. Gây tạo nghiệp ác dễ như trên dốc cao tuột xuống. Ngược lại, gây tạo nghiệp lành khó như người leo núi cao. Bởi thế, người xưa có câu nói: “Tòng thiện như đăng, tòng ác như băng”. Thật vậy, trong xã hội, người làm việc từ thiện, giúp ích cho mọi người thì rất ít. Còn kẻ gây rối, phá làng, phá xóm, làm cho mọi người phải lo âu sợ hãi, thì rất nhiều.
Ngẫm lại, đời người thật ngắn ngủi, sống không bao lâu, thoáng qua rồi mất. Thế mà người ta không ý thức tạo nghiệp lành, gây nhân tốt, giúp ích cho xã hội, làm những việc lợi mình, lợi người. Một mai, vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, thử hỏi ta có mang theo được gì? Và ta có để lại những gì hữu ích cho đời không? Vẫn biết, lòng người rất ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái lợi riêng cho mình, ai chết mặc ai. Nhưng, thưa bạn, bạn cứ thử nghĩ, dù cho bạn có thủ đoạn gian xảo mánh khóe lừa bịp ăn trên đầu trên cổ thiên hạ đến đâu, cuối cùng, bạn cũng chỉ còn lại có 3 chữ: “Lò, Gò và Hũ”. Một là bạn vào lò thiêu mà an nghỉ. Hai là bạn sẽ ra ngoài gò mã mà nằm. Ba là bạn sẽ vào trong hũ ngồi nghỉ. Thế thì, cuộc đời rốt lại, chỉ có ngần ấy thôi sao!
Bạn ơi! Người xưa có nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Dù tiếng xấu hay tiếng tốt, chúng ta vẫn phải để lại. Tốt, thì được thiên hạ tán dương noi theo. Xấu, thì thiên hạ suốt đời nguyền rủa. Đó là nói theo đời. Đối với đạo Phật, thì khi còn sống, bạn cứ làm những điều phước thiện, có lợi cho bạn và cũng không làm tổn hại ai. Khi làm, bạn cũng không có ý muốn để lại tiếng thơm cho đời. Bạn là người đang thật hành hạnh hỷ xả. Cái gì đến thì làm, không có ý vụ lợi. Bạn vẫn muốn làm người ra đi không để lại dấu vết. Đó là bạn học hạnh Bồ tát. Dù bạn không có ý muốn để lại, nhưng trong lòng mọi người cũng đã ghi đậm “nét son sáng giá” của bạn rồi.
Thưa bạn, ở nơi nhơn thừa, bạn cứ tu thân, tề gia, cho phải đạo làm người. Nếu bạn là Phật tử, thì bạn chỉ giữ đúng theo Tam quy và gìn giữ năm giới cấm Phật dạy. Đó là bạn tự xây dựng đời mình theo nếp sống đạo đức. Từ đó, bạn tích cực đóng góp làm lợi ích cho xã hội, tùy khả năng và phương tiện sẵn có của bạn. Bấy nhiêu đó, cũng đủ làm cho bạn vui sống lắm rồi. Và chính bạn, bạn cũng không cảm thấy hổ thẹn khi ôn nghĩ lại đời mình. Niềm vui mà bạn có, đó cũng là niềm vui chung của mọi người. Như vậy là bạn đã có hạnh phúc trong tay của bạn rồi. Chúc bạn thành công trong sự nghiệp lợi mình, lợi người, hiện tại và mai sau.
164. Những người ác tuệ ngu si, vì tâm tà kiến mà vu miệt giáo pháp A-la-hán, vu miệt người hành Chánh đạo và giáo pháp đức Như lai, để tự mang lấy bại hoại, giống như cỏ Cách tha[17], hễ sinh hoa quả xong liền tiêu diệt.
Whoever, on account of perverted views, scorns the Teaching of the Perfected Ones, the Noble and Righteous Ones – that fool, like the bamboo, produces fruits only for self-destruction.
Kệ Tụng
Kẻ ngu si miệt thị
Giáo pháp bậc giải thoát
Bậc hiền thánh chánh mạng
Chính do tà kiến này
Tự mang quả hoại diệt
Như quả cây cách tha.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Kàla.
Vị Trưởng lão nầy, được sự giúp đỡ của một vị nữ thí chủ ở thành Vương Xá. Bà đối xử với vị Trưởng lão nầy rất tốt, khác nào như tình mẹ đối với con.
Một hôm, bà nghe tin đồn Phật thuyết pháp rất thâm sâu vi diệu. Bà trình bày với vị Trưởng lão tỏ ý muốn đến nghe. Ông ta liền ngăn cản và bàn ra. Vì ông sợ bà không còn giúp đỡ ông nữa. Mặc cho ông ngăn cản, bà cũng quyết định đi nghe. Đang lúc bà ta ngồi nghe Phật thuyết giảng, Trưởng lão Kàla bước vào và thốt ra những lời thiếu nhã nhặn. Biết rõ ý tưởng của ông, Phật liền bảo:
-“Đừng tự phụ! Vì ác kiến, ông đã phỉ báng giáo pháp của chư Phật. Nhưng như thế ông chỉ làm tổn hại mình thôi”.
Ở đời, dù biết rằng mình dở hơn người về mọi mặt, nhưng vì lòng tự ái, quá coi trọng bản ngã, không cho phép người ta khuất phục. Hơn thế nữa, vì lòng ích kỷ, ganh tỵ hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Trưởng lão Kàla sợ mất người lo phục vụ cho mình. Một khi gặp người có tài đức hơn, thì chắc chắn người ta sẽ nương tựa học hỏi. Dù sao, vị Trưởng lão nầy cũng quá rõ tâm lý của phái nữ. Người nữ bao giờ họ cũng nặng về tình cảm hơn lý trí. Dù ngoài đời hay trong đạo cũng thế.
Ở đây, ta thấy bà nữ thí chủ nầy rất hay. Dù bà bị vị thầy mà bà hết lòng kính trọng ngăn cản, nhưng không vì thế, mà bà ta lại nghe theo mà bỏ lở cơ hội nghe Phật thuyết pháp. Đó là người thực sự có quyết tâm và vì chánh pháp. Không phải là người chỉ quá đặt nặng tình cảm mà mất đi lý trí hướng dẫn chọn lựa. Dù bà ta là một người nữ. Đây là một đức tánh sáng suốt khéo biện biệt chánh tà phải trái của bà mà ta cần phải học hỏi.
Vì sợ mất người lo phục vụ cho mình, mà ông ta thốt ra những lời lẽ hằn hộc thiếu lễ độ. Ông ta mắng nhiếc vị nữ thí chủ nầy rất thậm tệ trước mặt đức Phật. Ông ta còn lên giọng kẻ cả tự đắc, bảo đức Phật chỉ dạy cho bà ta những cách thức thông thường như: cúng dường, bố thí, trì giới mà thôi. Vì bà ta ngu lắm, không hiểu nỗi những giáo pháp sâu xa đâu. Do đó mà Phật dạy cho ông ta một bài học: “Đừng vì ác kiến, ông đã phỉ báng giáo pháp của chư Phật, nhưng như thế ông chỉ làm tổn hại mình thôi”.
Lời Phật dạy trên là một tấm gương để chúng ta soi chung. Ở đời, người ta quá thiên trọng về vật chất mà xao lãng tinh thần. Đời sống giữa vật chất và tinh thần không quân bình, thì đó là một tai hại rất lớn cho nhơn loại. Hiện trạng thế giới ngày nay, nhơn loại đang đi vào ngõ cụt, vì không có lối thoát cho đời sống tinh thần. Do quá đặt nặng về vật chất, nên người ta khinh thường những lời dạy của các bậc Thánh Hiền. Chẳng những thế mà họ còn hủy báng, miệt thị, chê bai. Họ coi thường đạo đức, lẽ sống hướng thượng. Đó là một nguy kịch mà con người ngày nay phải hứng chịu những thảm trạng xảy ra đau thương, gần như mất hết nhơn tính. Họ hành động mù quáng, theo bản năng vị kỷ của lòng vô minh dục vọng sai khiến.
Trong phạm vi của vai trò lãnh đạo, hướng dẫn tín đồ Phật tử tu học, có đôi khi, vì lòng ích kỷ nhỏ nhoi, ganh tỵ, thù hiềm, mang đầu óc bệnh hoạn kỳ thị, mà ta đánh mất bản chất của một bậc thầy lãnh đạo tín đồ. Ta không muốn cho bổn đạo hay đệ tử của ta phải đi nơi khác. Dù rằng, ta là kẻ kém tài thiếu đức. Ta không có đủ tư cách của một người giáo thọ hướng dẫn dạy dỗ tín đồ Phật tử. Vì tranh chấp bổn đạo tín đồ, hay đệ tử mà có nhiều người công kích, mạt sát lẫn nhau gây ra cảnh bất hòa trong hàng huynh đệ. Đó là một tệ nạn tai hại rất dở mà ta cần phải tránh.
Ngày nay, hiện trạng nầy đã và đang xảy ra. Có người dùng mọi thủ thuật để thu hút tín đồ về chùa mình cho đông. Mục đích là để phô trương thế lực và nhằm mục đích trục lợi. Nếu vì mục đích lợi ích cho sự truyền bá Chánh pháp Phật dạy, thì ta nên hết lòng bái kính mà thật tâm ủng hộ. Bằng ngược lại, nếu vì mục đích khác có tánh cách quyền lợi cá nhân riêng tư, thì ta nên bái xá mà xa lánh càng xa càng tốt. Vì ta biết rõ, nơi đây không phải là nơi để cho ta nương thân tu học.
Người Phật tử phải có trí huệ sáng suốt để biện biệt rõ lẽ chánh tà chân ngụy. Vì hiện ta đang sống trong một thời đại hổn tạp vàng thau lẫn lộn. Ta cần phải lấy cây thước giáo lý Phật dạy ra đo. Có thế, thì ta mới không bị lầm lẫn đáng tiếc, để rồi mai sau ân hận thì đã quá muộn màng rồi! Là đệ tử Phật, dù tăng hay tục, tất cả chúng ta đều phải có bổn phận bảo vệ duy trì Chánh pháp. Những ai vu miệt khinh chê hủy báng Chánh pháp, Phật nói, đó là kẻ tự mình mang lấy bại hoại và sẽ chết rủ mục giống như cỏ cách tha, hễ sinh hoa quả xong liền bị tiêu diệt.
165. “Tự mình, làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai!”
166. “Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.”Lược giải
165. Làm dữ bởi ta, mà nhiễm ô cũng bởi ta; làm lành bởi ta, mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được?
By oneself is evil done; by oneself is one defiled. By oneself is evil left undone; by oneself is one made pure. Purity and impurity depend on oneself; no one can purify another.
Kệ Tụng
Tự mình làm điều ác
Tự mình sanh nhiễm ô
Tự mình không làm ác
Tự mình thanh tịnh mình
Thanh tịnh, không thanh tịnh
Đều do tự chính mình
Ai thanh tịnh cho ai.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chuyện của Culla Kàla.
Cull Kàla là một cư sĩ rất ngoan đạo. Ông thường xuyên đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Trường hợp của ông cũng tương tợ như cư sĩ Kàla nói trên. Ông cũng bị một tên trộm liệng túi đồ trước mặt. Họ định túm lấy đánh ông. Rất may, ông đã được một vài cô gái giang hồ chứng kiến và xác nhận ông không phải là kẻ trộm. Nhờ đó mà ông không bị đánh đập.
Sau khi thả ra, ông đến tinh xá thuật chuyện lại cho các Tỳ kheo nghe. Các vị nầy trình lên đức Phật và được Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo! Cư sĩ Culla Kàla được cứu mạng nhờ cả hai mặt, sự can thiệp của các cô gái giang hồ và chính ông ta vô tội. Chúng sanh ở thế gian nầy do ác nghiệp gây nên, tự mình chịu khổ não ở địa ngục hay cảnh giới khổ sở khác. Nhưng người làm điều thiện thì tự mình cứu độ, được lên cõi trời hay Niết bàn”.
Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ:
Nhược nhơn dục liểu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Tạm dịch:
Nếu người nào muốn biết
Ba đời tất cả Phật
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Người hành động sái quấy, vì tâm họ vọng động nhiễm ô. Ngược lại, người hành động lương thiện, lợi mình, lợi người là do tâm họ thanh tịnh. Như vậy, tất cả khổ vui trên đời, đều do tâm ta tạo lấy. Nói tâm tạo, ta phải hiểu đó là tâm vọng tưởng. Còn tâm chơn, thì không có tạo tác. Đạo Phật quy trách nhiệm ở nơi con người. Vì xưa kia, Thái tử Sĩ Đạt Ta cũng là con người, Ngài giác ngộ tu hành thành Phật. Ngài hơn con người thường là ở chỗ Ngài sống được với cái bản tâm chân thật mà Ngài sẵn có. Ta cũng có sẵn cái tâm đó. Nhưng vì ta mê, nên tâm đó có mà chưa phát hiện. Ngài hơn ta là ở chỗ đó.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy rõ, quyền định đoạt ở nơi chúng ta. Không ai đem lại sự thanh tịnh cho ta và cũng không ai trói buộc ta. Buộc hay mở chính do ta tự quyết định lấy. Khi tâm ác độc nổi lên mà ta không kịp thời ngăn chặn, chuyển hóa, thì hậu quả sẽ xảy ra không tốt đẹp. Kinh dạy rằng: “Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy tai họa vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng”.
Người khéo biết tu, Không nên nghe theo lòng dục vọng sai khiến. Hằng ngày, chúng ta nên soi rọi lại mình. Quán chiếu từng tâm niệm. Tâm niệm xấu ác dấy lên, ta quyết buông bỏ không theo. Hằng giữ tâm ý cho được thanh tịnh, đó là cội gốc của sự tu tập. Đức Phật Ca Diếp có nói bài kệ răn dạy như sau:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý mình cho trong sạch
Đó là lời chư Phật dạy.
Bài kệ trên đã tóm tắt hết yếu nghĩa của Phật giáo. Toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo cũng chỉ dạy con người ngần ấy. Dù chư Phật trong ba đời cũng đều dạy không ngoài ý nghĩa nầy. Nếu mọi người y theo bài kệ ngắn gọn nói trên mà thực sự hết lòng tu tập, thì chắc chắn chúng ta sẽ hết khổ ngay. Như vậy, địa ngục hay Niết bàn đều ở trong lòng của chúng ta vậy.
166. Chớ vì lợi ích cho kẻ khác mà quên hẳn lợi ích cho chính mình. Người biết lo ích lợi mình mới thường chuyên tâm vào những điều ích lợi.
Let one not neglect one’s own welfare for the sake of another, however great. Clearly understanding one’s own welfare, let one be intent upon the good.
Kệ Tụng
Dầu lợi người bao nhiêu
Chớ quên phần tự lợi
Nhờ hiểu rõ tự lợi
Hãy chuyên tâm lợi mình.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Attadattha.
Sắp nhập Niết bàn Phật bảo đệ tử:
- Nầy các Tỳ kheo, bốn tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn.
Bảy trăm Tỳ kheo chưa chứng quả Dự lưu, quá đổi xúc động, không hề rời xa Thế Tôn, và thì thầm với nhau không biết nên làm gì. Nhưng Trưởng lão Attadattha thì tự nhủ Phật sắp nhập diệt mà mình chưa hết tham ái, vậy phải phấn đấu hết sức để chứng quả A la hán trong khi Phật còn tại thế. Các Tỳ kheo ngạc nhiên thấy Trưởng lão tách rời họ, gần như không nói chuyện với họ nữa. Họ không hiểu tại sao nên thưa chuyện với Thế Tôn. Ngài hỏi lại Trưởng lão, biết được sở nguyện nên tán dương ông và dạy các Tỳ kheo:
- “Nầy các Tỳ kheo! Người nào thành thật quý trọng Ta thì phải như Trưởng lão Attdattha mới được. Thực sự tôn quý Ta không phải là lễ kính Ta với hương hoa. Chỉ có người hành trì theo pháp từ bậc thấp đến bậc cao nhất mới đúng là tôn quý Ta. Do đó các ông nên theo gương Trưởng lão Attadattha. (trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 259)
Trong đạo Phật, tự lợi và lợi tha, lúc nào cũng được nhắc đến. Nếu chỉ vì lợi tha không mà chúng ta không nghĩ đến phần tự lợi, thì điều đó chưa đúng với tinh thần đạo Phật. Đức Phật khi xưa, chính Ngài cũng phải nghĩ đến phần tự lợi trước. Suốt thời gian tầm thầy học đạo cũng như thời gian tu khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, tất cả cũng vì tự lợi. Trong suốt thời gian mười mấy năm trời tu tập, Ngài cũng chưa phát hiện được chân lý. Từ đó, Ngài quyết định đến ngồi dưới cây Tất bát la để tư duy quán sát. Trải qua thời gian 49 ngày đêm, Ngài nỗ lực chuyên cần tu tập, chuyển hóa hết vô minh phiền não và cuối cùng, Ngài đạt thành sở nguyện. Sau khi thành Phật, Ngài mới nghĩ đến việc lợi tha là ra hoằng hóa độ sanh.
Như vậy, người tu phải lo phần tự lợi trước rồi sau mới nghĩ đến việc lợi tha. Như mình chưa biết lội, thì làm sao cứu vớt được người. Muốn cứu vớt người, trước tiên, chúng ta phải tự tập bơi lội trước. Có thế, thì mình và người mới được bảo đảm an toàn.
Qua truyện tích nêu dẫn trên, cho chúng ta thấy rằng, Trưởng lão Attadattha mới là người thực sự quý kính đức Phật. Biết tin Phật sắp nhập Niết bàn, ông tự lo nỗ lực tu chứng. Trong khi đó, các thầy Tỳ kheo khác thì lại không muốn rời xa đức Phật. Tinh thần ỷ lại không nỗ lực tự tu, đó không phải là tinh thần của đạo Phật. Phật luôn luôn khuyến khích mọi người, trước phải lo tự lực, tự giác. Mình có an lạc hạnh phúc, mới có thể chia sẻ an lạc hạnh phúc đến cho mọi người.
Ngược lại, mình còn đau khổ tràn ngập, thì làm sao chia sẻ an lạc hạnh phúc cho ai? Muốn dạy người học tập cho giỏi, trước tiên mình phải gắng lo chuyên cần học tập cho thật giỏi. Nếu mình còn dốt đặc cán mai, thì thử hỏi dạy ai? Do đó, Pháp cú trên Phật khuyên chúng ta trước tiên phải lo tự độ, rồi sau mới nói đến chuyện độ tha. Nếu chỉ biết tự hành một mặt không thôi, thì đó chưa phải đúng theo tinh thần Phật dạy.
Có người cứ mãi lo làm việc lợi người, nhìn lại mình thì trống rỗng. Chẳng khác nào, tối ngày cứ lo đếm bạc cho người, rốt cuộc lại mình không có đồng điếu bỏ túi. Giống như kẻ làm thuê suốt ngày đếm bò mướn cho người, rốt lại cả đời mình không có chút sữa bò để uống. Dạy người ta tu mà mình không tu. Bảo người ta ăn mà mình không ăn, rốt lại, người no, mình đói. Như vậy, mình có được lợi lạc gì đâu?! Người dạy đạo thời nay, đôi khi, chúng ta thường mắc phải cái lỗi lầm nầy. Muốn được giải thoát, tự mình phải nỗ lực lo tu. Có tu hành thực nghiệm đúng đắn, thực sự lợi ích, mới đem ra dạy người. Như thế, thì mới khỏi bị lầm lạc, mình và người mới thực sự cả hai đều được lợi lạc vậy.
Phẩm Thế Gian
167. “Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình.”
168. “Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.”Lược giải
167. Chớ nên theo điều ty liệt[18], chớ nên đem thân buông lung. Chớ nên theo tà thuyết[19], chớ làm tăng trưởng tục trần[20].
Follow not the vulgar way; live not in heedlessness; hold not false views; linger not long in worldly existence.
Kệ Tụng
Chớ theo pháp hạ liệt
Chớ sống mặc, buông lung
Chớ tin theo tà kiến
Chớ tăng trưởng tục trần.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một Tỳ kheo trẻ.
Theo truyện tích, sáng sớm, hai thầy trò một già một trẻ đến nhà nữ thí chủ Visàkha để khất thực. Sau khi dùng bánh và cháo, vị Trưởng lão đi sang nhà khác, để thầy Tỳ kheo trẻ ở lại. Trong khi rót nước vào bát, người cháu gái thấy gương mặt mình phản chiếu trong nước liền mỉm cười, thầy Tỳ kheo trẻ cũng cười lại.
Cô bé thấy thầy cười liền nói chế giễu: “Cái đầu trọc cười”. Thầy Tỳ kheo trẻ nổi xung mắng lại: “Cô là kẻ trọc đầu, má cô, ba cô cũng trọc đầu”. Cô bé òa lên khóc và chạy vào sau bếp mách bà.
Sau khi biết rõ câu chuyện giữa hai người, bà Visàkha hết lời khuyên can, nhưng cả hai người đều không chịu hòa dịu.
Khi vị Trưởng lão trở lại, thấy thế, liền quở trách thầy Tỳ kheo trẻ. Thầy Tỳ kheo trẻ bất bình, tức giận liền đến bạch Phật.
Phật biết rõ sự tình, Ngài liền khuyên bảo:
-“Thái độ chế giễu, nhạo báng lấy đó làm vui là thái độ thấp hèn không nên có, cũng như không nên sống buông thả phóng dật”.
Phẩm nầy có tên là Phẩm Thế Gian. Chữ Thế Trung Hoa dịch là thiên lưu, ý chỉ cho thời gian luôn luôn dời đổi. Còn chữ Gian có người đọc là Gián, chỉ cho không gian gián cách. Như vậy, tất cả muôn vật, không vật nào thoát khỏi thời gian và không gian. Từ ngữ nầy, Phật muốn ám chỉ cho ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Chúng sanh vì tạo nghiệp lành dữ nên mãi xuống lên trong ba cõi và trôi lăn trong sáu đường (Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Qua tích truyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, một cô bé buông ý thốt ra lời nói chế giễu, xúc phạm một vị xuất gia tu hành, đó là điều lẽ ra, cô không nên nói. Vì đó là lời nói thiếu ái ngữ, mất hòa khí. Sở dĩ có lời nói thiếu nhã nhặn lịch sự đó, là vì cô bé nầy không được học hỏi về phương cách gìn giữ chánh niệm. Do không có chánh niệm, nên cô ta mới buông lung tâm ý, thốt nên lời nói bất cẩn như thế.
Thế mới biết, chánh niệm thật hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Người Phật tử có hít thở trong chánh niệm, thì mới mong kiểm soát được mọi hành động, từ ý nghĩ, lời nói và việc làm. Có hằng kiểm soát như thế, thì mọi việc sẽ an ổn và đời sống của chúng ta mới có hạnh phúc an vui. Rất tiếc, người ta coi thường chánh niệm, nên mới xảy ra nhiều việc đáng tiếc đau thương cho mình và người.
Thầy Tỳ kheo trẻ nầy, cũng thiếu thiền quán học tập chánh niệm, nên chấp vào lời nói của một cô bé mà hai bên mới lớn tiếng cãi cọ nhau, đến nổi bà Visàkha và vị Trưởng lão cũng không dàn xếp yên chuyện được. Nội vụ xảy ra, phải đợi đến đức Phật mới dạy bảo dàn xếp yên xuôi.
Cũng một sự việc xảy ra, nếu ta thiếu chánh niệm quán chiếu, mất bình tĩnh, tâm trí không sáng suốt, lệ thuộc duyên trần, nhìn vấn đề thiên kiến, theo vọng chấp tình cảm, thì tất nhiên là ta không thể nào giải quyết được vấn đề một cách ổn thỏa. Vì lúc đó ta để cho lòng tư dục ái kiến, sân hận của ta xen vào, nên khó thấy được toàn triệt của vấn đề. Muốn thấy rõ và sâu vào toàn bộ của vấn đề, tất nhiên là ta phải đứng trên lập trường khách quan để quán sát.
Ở đây, ta thấy, sở dĩ đức Phật giải quyết được vấn đề đó, là vì Ngài đứng trên bình diện toàn bộ của vấn đề, định tỉnh sáng suốt, nên Ngài mới thực sự hiểu rõ nguyên nhân cặn kẻ những gì đã xảy ra, và cần phải giải quyết ra sao. Sau khi biết rõ duyên cớ, Phật giải quyết một cách rất êm dịu và làm đẹp lòng mọi người. Đây là một bài học thiết yếu mà chúng ta cần phải lưu tâm học hỏi.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta biết, bao lâu con người còn chạy theo vật dục, sống buông thả theo dục lạc thế gian, thì bấy lâu con người vẫn còn đi trong vòng luân hồi chịu khổ đau mãi mãi. Những thứ dục lạc ở đời, Phật cho đó là những thứ thấp hèn. Những thứ đưa con người đến chỗ thân bại danh liệt. Dù cho con người có thụ hưởng đến đâu, rốt lại, cũng chuốc lấy đau khổ mà thôi.
Trên đời nầy, vật chất do người ta tạo ra, nhưng rồi người ta lại phải đau khổ vì nó. Không có ai là không đau khổ vì vật chất. Hễ có ra thứ gì là ta bị dính mắc và đau khổ với thứ đó. Có cái nhà lầu cao mấy tầng, trông thật đẹp mắt sang trọng, ai thấy cũng trầm trồ khen ngợi, nhưng họ đâu có biết rằng, cái khổ của nợ nần chồng chất phải trả. Họ phải vất vả tranh thủ cày ngày lẫn đêm để trả nợ. Đó là chưa nói đến bao nhiêu thứ bill phải lo thanh toán cho xong. Nhất là tiền rác, nước phải trả nhân lên gấp đôi.
Có người khi chưa xây nhà thì thân thể tráng kiện khỏe khoắn, trông thấy mập ra, nhưng sau khi xây nhà, thì thân thể hốc hác ốm o tiều tụy. Thế thì có sướng gì đâu, chỉ có được cái vỏ bên ngoài sang trọng, nhưng trong ruột thì đau khổ ngút ngàn. Có lắm người khi vướng mắc vô rồi, lở cười lở khóc, nuốt không trôi mà nhả ra thì tiếc. Thế thì, có thụ hưởng vui sướng gì đâu! Khi mà tâm hồn của họ lúc nào cũng nặng trĩu ưu tư lo lắng!
Cũng như tiền bạc chính do con người tạo ra, nhưng người ta lại bị nó khống chế, sai khiến đủ thứ. Người ta nô lệ nó đã đành, lắm khi người ta còn phải chết vì nó. Vì nó mà người ta dám làm tất cả, dù phải bán rẻ cả lương tâm. Quả thật, đồng tiền là một sức mạnh vạn năng và thật quá ác nghiệt oái oăm. Một thi nhân nào đó đã lên án gắt gao đồng tiền:
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền
Mi làm nhơn loại hoá ra điên
Mi tô mặt nạ đen thành trắng
Mi khiến nhơn tình thẳng hoá xiêng
Mi đạp luân thường vô một xó
Mi xô nhân nghĩa dẹp đôi bên
Mi xui thế giới đâm nhau mãi
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền!
Hay:
Tiền với bạc là nhân nạn khổ
Tiền xô người vào chỗ u minh
Tiền tài thay đổi tánh tình
Tiền gây nên cảnh đệ huynh tương tàn.
Xét cho cùng, lỗi không phải ở nơi đồng tiền hay vật chất. Lục trần không có lỗi chi cả. Nhưng lỗi đó phải xét lại ở nơi lòng người. Đồng tiền người ta tạo ra là để trao đổi giao dịch trên thương trường cho dễ bề tiện lợi. Nhưng tại lòng tham lam của con người quá độ, muốn chiếm hữu tất cả tiền bạc về mình, không muốn san sẻ chia bớt cho ai, nên từ đó mới xảy ra những vụ tranh chấp sát hại lẫn nhau. Thế giới bất an, cũng chỉ vì cái tâm tham vọng cùng cực không đáy của con người mà ra.
Ta nên nhớ rằng, tiền bạc, vật chất không thể đem lại thực sự hạnh phúc cho con người. Có chăng cũng chỉ là những thứ hạnh phúc giả trá tạm bợ nhất thời mà thôi. Được lợi thì vui mừng, nhưng vui đó rồi khổ đó. Không tiền khổ đã đành, nhưng có tiền rồi lại càng khổ hơn. Sống trong cõi đời tương đối, khổ vui luôn luôn đắp đổi với nhau là như thế.
Có người khi chưa có số tiền lớn, thì đi đâu cũng không sợ ai theo dõi rình rập hại mình, nhưng khi đã có lắm bạc nhiều tiền rồi, thì ôi thôi! họ đi đâu cũng nơm nớp phập phồng lo sợ. Trong tâm không lúc nào an ổn. Ngày xưa ăn ngủ tự do, ngày nay mất ăn mất ngủ. Đó là chưa nói, khi có tiền lại sanh ra lắm chuyện lăng nhăng lằng nhằng trong gia đình. Nếu là Phật tử, thì ngày xưa, tụng kinh, niệm Phật tu hành tinh tấn, bây giờ, khi có lắm tiền nhiều bạc rồi, thì thời khóa bỏ luôn, không còn an tâm tụng kinh, niệm Phật được nữa. Tối ngày lo sợ chỉ biết niệm tiền. Từ đó, tâm trí luôn luôn bất an. Lo sợ đủ thứ, thấy ai cũng sợ người ta thanh toán mình. Cho nên Phật Tổ mới nói: “tiền của là rắn độc, nó cắn mình bất cứ lúc nào”. Nhưng vì lòng tham mà chúng ta quên đi! Bởi thế, nên Phật nói: “chúng sanh vì mê muội nhận khổ cho là vui, mà lăn lóc trong non sầu bể hận”.
Chúng ta nên biết rằng, tiền bạc vật chất, nó không ở trong tay mình lâu. Vì những thứ ấy chỉ là những thứ vô thường tạm bợ. Nay ở trong tay mình, mai sẽ về tay kẻ khác. Đó là chưa nói đến năm nhà cướp mất: “lửa cháy, nước trôi, giặc cướp, con phá tán và nhà nước tịch thâu”.
Có người, tối ngày làm lụng vất vả cực nhọc trối chết, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, chắt mót dành dụm cả đời, bỗng một cơn hỏa hoạn, hay một trận động đất, hoặc bão lụt, thì tất cả đều thiêu hủy tiêu tan trong nháy mắt, mọi vật đều tan tành trở thành mây khói. Có ai lâm vào hoàn cảnh nầy, mới cảm nhận nỗi khổ đau ngút ngàn!
Một bọt nước nổi lên óng ánh, từ xa nhìn, người ta cứ ngỡ nó là hạt kim cương, nhưng khi đưa tay vớt, thì thật là hoài công vô ích. Tất cả đều lọt qua kẻ tay, không có một bọt nước nào tồn tại. Vật chất ở đời cũng thế. Thoáng nhìn, người ta cho nó là lâu dài bền bỉ, nhưng tất cả đều bị thời gian gậm nhấm dũa mòn không vật nào tồn tại. Bởi vậy, nên Phật nói: “Vạn vật đều là vô thường”.
Hiểu thế, là Phật tử ta nghe theo lời Phật Tổ dạy cố gắng tập tu theo hạnh thiểu dục tri túc. Đồng thời, tùy theo duyên cảnh mà ta sống an phận, cố gắng làm lành lánh dữ, tạo thêm nhiều phước đức, nỗ lực tu hành, quyết sống không buông lung. Ta luôn tâm niệm rằng:
Cuộc đời bi thảm đắng cay
Gió đùa với bóng mượn vay một đời
Duyên sinh an phận tùy thời
Sóng đùa mặc sóng sáng ngời đạo tâm.
Ta sống có lý tưởng. Sống đúng theo Chánh pháp, xa lánh mọi tà thuyết. Ta quyết không nghe theo những tà thuyết vu vơ chuyên khuyến dụ ru ngủ đời ta lún sâu vào tội lỗi, đau khổ. Ta phải sáng suốt, tin sâu vào lý nhân quả, quyết không gây nghiệp ác để làm khổ mình khổ người. Đó là ta chọn một con đường hạnh phúc theo nếp sống hướng thượng bằng tất cả trí tuệ, để quyết đạt cho kỳ được sự an vui giải thoát.
168. Hăng hái đừng buông lung, làm lành theo Chánh pháp. Người thực hành đúng Chánh pháp, đời này vui, đời sau cũng vui.
Arise! Do not be heedless! Lead a righteous life. The righteous live happily both in this world and the next.
Kệ Tụng
Coi chừng, chớ buông lung
Hãy sống theo chánh hạnh
Kẻ chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau.
169. “Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.”
170. “Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyễn!
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.”Lược giải
169. Khéo thực hành Chánh pháp, chớ làm điều ác hành. Người thực hành Chánh pháp, đời này vui, đời sau vui.
Lead a righteous life; lead not a base life. The righteous live happily both in this world and the next.
Kệ Tụng
Hãy sống theo chánh hạnh
Chớ sống theo tà hạnh
Kẻ chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau.
Lược giảng
Hai Pháp Cú nầy Phật nói tại Banyan Grove, có liên quan tới vua Tịnh Phạn, tức phụ thân của Ngài.
Sau khi Phật thành đạo, trải qua thời gian dài, lần đầu tiên Phật trở về hoàng cung tại thành Ca tỳ la vệ (Kapila). Tuy Phật đã về hoàng cung, gặp lại mọi người trong hoàng tộc, ai nấy đều vui mừng đón tiếp Ngài, nhưng theo lệ thường, sáng sớm Ngài vẫn mang bát đi khất thực. Thấy thế, phụ hoàng Ngài không vui liền đến trước Ngài mà nói rằng: “Nầy con ơi! Sao con làm nhục nhà ta vậy? Con vốn là chủ thành nầy, từng ở trên châu báu, nay cứ cầm bát lần đi từng nhà, có phải làm hổ nhục cho ta lắm sao”! Đức Phật liền nói cho vua nghe, đó là pháp tắc lâu đời của chư Phật và rồi Ngài liền nói hai Pháp cú nầy.
Đời sống của người xuất gia thời Phật là đời sống khất thực. Phật chủ trương và luôn khuyến tấn các đệ tử của Ngài là phải thật hành hạnh đi xin ăn, không một ai được quyền tạo lập tài sản cho riêng mình. Pháp tắc khất thực, là phải đi từng nhà, không được bỏ sót.
Nếp sống Tăng đoàn thời Phật tất cả đều phải như thế. Đây là một nếp sống thật giải thoát. Các Ngài không bị ràng buộc vướng bận bởi bất cứ thứ gì. Một đời sống đi lang thang rày đây mai đó không nhà. Ngày ăn một bữa, đêm lại ngủ dưới tàn cây. Giường của các Ngài là đất, mền của các Ngài là sương. Một đời sống cực kỳ đơn giản và chính cái nếp sống cực kỳ đơn giản, vô sản nầy mà các Ngài mới có nhiều an lạc hạnh phúc. Vì không có thứ gì trói buộc làm phiền toái các Ngài cả.
Ngẫm lại, người xuất gia thời nay, vì muốn thích nghi thời đại, có đôi khi, chúng ta thích nghi quá trớn làm mất đi phẩm chất đạo hạnh. Những nếp sống cao đẹp hạnh phúc của thời Phật, so với ngày nay, chúng ta đã đánh mất đi quá nhiều. Ngay cả những động tác trong bốn oai nghi của người xuất gia, chúng ta cũng khó giữ đúng. Ngày xưa, Phật và các hàng Thánh chúng đi từng bước vững chãi thảnh thơi an lạc. Các Ngài đi trong chánh niệm, hoàn toàn không có những dự án tính toán trong đầu.
Ngày nay, chúng ta cũng đi, nhưng nội dung phẩm chất đi của chúng ta không giống các Ngài. Chúng ta đi trong thất niệm. Chúng ta đi nhanh, tính toán, lo âu đủ thứ, đi hối hả như con ma đói. Nội cái đi thôi là chúng ta cũng đã thấy khó giữ cho đúng rồi. Còn biết bao những chuyện khác, nhất là vấn đề tài sản, tiền bạc, của cải, vật chất, những thứ vật dụng hằng ngày, so với đời sống của Phật Tổ thời xưa, thì ôi thôi! Ngàn trùng xa cách!
Vẫn biết, sự đổi mới của đạo Phật đi vào cuộc đời để chuyển hóa xã hội, để làm mới đạo Phật, thích nghi với thời đại, là điều rất cần thiết. Sự đổi mới đó nhằm mục đích tạo dựng cho mỗi người có nếp sống an vui hạnh phúc. Việc làm đó, không có gì là chống trái với tinh thần gốc rễ tuệ giác của đạo Phật. Tuy nhiên, có lắm người lợi dụng sự đổi mới đó mà sống buông thả, tha hóa, mất gốc đạo đức làm mất đi bản chất đạo Phật. Đó là một tác hại rất lớn cho bản thân mình và làm tổn thương ảnh hưởng không tốt cho đạo Phật, nhất là cho Tăng đoàn.
Hai Pháp Cú trên, Phật dạy không những chỉ riêng cho người xuất gia, mà Phật còn khuyến tấn nhắc nhở cả người Phật tử tại gia. Theo Phật, một đời sống buông lung là một đời sống bê tha phóng đãng. Một đời sống gây ra biết bao nỗi khổ niềm đau cho chính bản thân mình và tha nhân.
Cứ nhìn vào thực trạng của xã hội ngày nay, chúng ta thấy, nhơn loại đang trên đà tự sát. Theo đà sống gọi là văn minh, nhưng thực chất, thì lại là văng xương. Ngoài những tệ nạn gây ra tội phạm: hiếp dâm, cướp của, giết người, xì ke, ma túy, băng đảng v.v… đã và đang xảy ra hàng ngày, còn biết bao những thảm họa khác, nhất là thảm họa làm ô nhiễm môi sinh. Thế giới đang la làng về vấn đề nầy. Đây là thứ văn minh mà con người sẽ đi lần đến tự hủy diệt lấy mình. Nếu mọi người không tự ý thức bảo vệ môi sinh, làm sạch môi trường, thì một ngày nào đó nhơn loại sẽ thực sự vắng bóng trên hành tinh nầy.
Theo các nhà chuyên nghiên cứu sử học cho biết, sự xuất hiện của con người trên trái đất nầy, là sau các loài thảo mộc và súc vật. Như vậy, sự sống của con người muốn được sinh tồn lâu dài, thì con người phải ý thức tiếp tay bảo vệ môi sinh. Vì tất cả có sự sống tương quan mật thiết với nhau. Bảo vệ môi sinh, không gây ô nhiễm, đó cũng là cách hành thiện cứu người. Sự sống của con người không thể đơn độc mà tồn tại được.
Thế nên Phật dạy, mọi người phải thật hành đúng theo Chánh pháp, thì đời nầy vui và đời sau cũng vui. Đúng theo Chánh pháp là thể hiện nếp sống nhân bản, phải tu thân, tề gia và bình thiên hạ. Tức mỗi người phải tự quán chiếu để chuyển hóa thân tâm, bằng cách bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh, hy sinh làm lợi ích cho nhân quần xã hội. Đó là chúng ta tự cứu lấy chúng ta. Nếu không, thì chắc chắn mọi người sẽ không thể nào vượt thoát khỏi thảm họa diệt vong.
170. Như bọt nước trôi sông, như lầu sò chợ bể [21]. Nếu xem đời bằng cặp mắt ấy, chẳng còn sợ thần chết kéo lôi.
One who looks upon the world as a bubble and a mirage, him the King of Death sees not.
Kệ Tụng
Như bọt nước trôi sông
Như lầu sò chợ bể
Xem đời cặp mắt ấy
Tử thần không bắt gặp.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra khi đức Bổn Sư ở tại tinh xá Kỳ Viên, với năm trăm Tỳ kheo chứng quả.
Theo truyện tích kể lại, có năm trăm Tỳ kheo nhận đề mục thiền định từ đức Bổn Sư, trở về rừng và nỗ lực thiền định. Nhưng mặc dù chiến đấu hết mình, họ không thể nào phát triển tuệ giác.
Các thầy nghĩ thầm: “Chúng ta sẽ đổi đề mục khác thích hợp với chúng ta hơn”. Các thầy lại chỗ Phật, trên đường đi các thầy thấy một ảo ảnh, tập trung mọi ý niệm về ảo ảnh ấy, các thầy khai mở tuệ giác. Khi bước vào sân tu viện, trời đổ mưa, các thầy đứng đấy nhìn những bọt nước nổi bập bềnh và tan nhanh chóng. Một tư tưởng trổi dậy: “Tự ngã của chúng ta như bọt nước nổi tan”. Lập tức các thầy tập trung tư tưởng vào ý nghĩ nầy. Đức Bổn Sư đang ngồi trong hương thất, bèn hóa thân đến trước các thầy và nói Pháp Cú trên.
Nghe xong, các thầy chứng quả A la hán ngay tại chỗ.
(Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 268)
Đề mục thiền quán thật tối thiết yếu đối với hành giả. Bất cứ cảnh tượng nào trên thế gian nầy, nếu người khéo biết tu, đều có thể biến thành những đề mục thiền quán cả. Nhìn bọt nước trôi nổi bập bềnh trên sông, lập tức các Tỳ kheo liền phát khởi tư tưởng thiền quán. Đó là một đề mục thiền quán rất thiết thân với con người.
Ngẫm lại cho thật kỹ, đời người có khác gì bọt nước. Vì nó tan biến bất thường. Mới thấy đó rồi mất đó. Sáng thấy còn, chiều lại mất không hay. Nhưng có phải thật mất hẳn hay không? Bọt nước tan rồi có phải mất hẳn bọt nước hay không? Đó cũng là một đề mục cho chúng ta tiếp tục thiền quán. Bọt tan, nhưng nước nào có mất. Nhưng ta tự hỏi bọt nước nầy từ đâu có?
Nếu chúng ta chịu khó thiền quán sâu hơn, thì chúng ta sẽ thấy trong bọt nước, gồm có đám mây, có bầu trời u ám và có cả ao, hồ, sông, biển , hoa, lá, cây, rừng v.v… Như vậy, bọt nước chỉ là một biểu hiện tiếp nối của những thứ không phải bọt nước để hình thành ra bọt nước. Rồi khi bọt nước tan ra, nó sẽ biến dạng và biểu hiện qua một hình thái khác. Thế thì bọt nước nào có mất đi đâu? Khi đủ duyên thì hiển hiện.
Hiển Hiện
Mây tan biến ta cho là mây mất dạng
Ta bước đi trong thương tiếc băn khoăn
Ta thương mây một thoáng trôi phăng
Ta gục khóc lệ sầu biếng ăn không nói
Mọi cảnh vật biến tan thành mây khói
Bầu trời xanh vẫn hiển hiện mãi trong lành
Mây tan hình biến dạng hạt mưa nhanh
Thấm lòng đất nuôi xanh màu cây lá
Dù hạt bụi hay núi non ngàn cây đá
Không vật nào từ có biến thành không
Hạt mưa rơi ôm lấy một dòng sông
Rồi biến dạng khi đủ duyên liền biểu hiện.
Mọi sự vật trên đời, không có vật gì từ không mà thành có hay ngược lại, cũng không có thứ gì từ có mà biến thành không. Tất cả chỉ là do nhân duyên biểu hiện mà thôi. Thiền quán sâu sắc vào bọt nước, ta thấy thân ta cũng như thế. Ta ra đời chỉ là biểu hiện tiếp nối từ những cái nhân duyên trong quá khứ. Cái ta đó khi đủ nhân duyên thì nó biểu hiện có mặt một thời gian. Khi thiếu duyên, thì nó tan biến để rồi biểu hiện ra một hình thái khác.
Như vậy, chết nào có mất đi đâu. Chết chỉ là một biến hình đổi dạng, từ cảnh nầy sang cảnh khác vui đau. Điều quan trọng là ta hãy chuẩn bị cho ta có đầy đủ những điều kiện tốt. Tức là ta phải nỗ lực tu hành, tránh dữ làm lành, tích công bồi đức, làm lợi ích cho mình và người, để cuộc sống của ta có ý nghĩa, an lạc và hạnh phúc.
Được thế, thì ta còn gì phải lo âu sợ chết. Nếu chúng ta có con mắt tuệ giác nhìn sâu vào cuộc đời như thế, thì chúng ta không còn sợ thần chết kéo lôi nữa.
171. “Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say.”
172. “Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che.”Lược giải
171. Giả sử thế gian này có được trang hoàng lộng lẫy như chiếc xe của vua đi nữa, thì trong số người đến xem, chỉ người ngu mới tham đắm, chứ kẻ trí chẳng hề bận tâm.
Come! Behold this world, which is like a decorated royal chariot. Here fools flounder, but the wise have no attachment to it.
Kệ Tụng
Hãy đến nhìn đời này
Như xe vua lộng lẫy
Người ngu mới tham đắm
Kẻ trí nào bận tâm.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm (Veluvana) có liên quan đến hoàng tử Vô Úy.
Sau khi dẹp loạn ở biên cương, hoàng tử Vô Úy thắng trận trở về, được vua cha Tần Bà Sa La rất vui mừng và ban thưởng. Các nàng vũ nữ ca múa hát xướng ở trong hoàng cung bảy ngày. Hoàng tử có dịp ngắm cung điện của vua cha thật trang hoàng lộng lẫy. Đến ngày thứ tám, chàng tắm bên bờ sông và trông thấy một vũ nữ nhan sắc tuyệt đẹp. Chàng ngắm nhìn cô vũ nữ nầy nhảy múa, mê say đắm đuối. Nhưng không may, nàng ta bất thần bị ngã bệnh và chết.
Buồn quá! Hoàng tử liền tìm đến đức Phật và trình bày nỗi buồn của mình. Đức Phật an ủi và khuyên bảo: “Biết bao lần cô vũ nữ kia đã chết và cũng biết bao nhiêu lần hoàng tử đã khóc cho cô ấy. Luân hồi sanh tử, tử sanh là như thế”. Phật nói tiếp:
- “Nầy hoàng tử! Không nên sầu não, chỉ có kẻ khờ dại mới chôn mình trong bể ưu bi. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy”.
Pháp cú nầy Phật nêu một thí dụ để so sánh, giả sử cả thế gian nầy, mọi thứ đều đẹp đẽ lộng lẫy như chiếc xe của vua, chỉ có kẻ ngu mới tham đắm, còn người trí thì chẳng hề bận tâm.
Hiện chúng ta đang sống trong cõi dục, mọi thứ vật chất đối với chúng ta không thứ nào mà chúng ta chẳng tham muốn. Theo lời Phật dạy trên, thì hầu hết nhơn loại đều thích làm người ngu. Bởi lòng tham muốn của con người biết sao cho đủ. Có một, họ muốn có mười. Khi được mười, họ muốn lên trăm v.v… Cứ thế mà tăng lên mãi.
Biển sâu đến đâu, người ta cũng có thể dò đến đáy được, còn cái túi tham của con người có đáy đâu mà dò. Vẫn biết tham lam là xấu xa, là đau khổ, là khổ thân, là mệt trí, nhưng con người có bao giờ biết dừng lại đâu! Còn sống thì tham lam đã đành, đến khi sắp chết lòng tham cũng không buông bỏ. Bởi thế, mà Phật nói chúng sanh trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi để chịu lắm cảnh khổ đau là thế!
Khác hơn người ngu, người trí là người tỉnh thức sáng suốt. Nhờ có trí huệ nên họ nhận rõ vạn vật chỉ là hư ảo. Vì tất cả đều không thoát khỏi luật vô thường. Dù cho giàu có, nhiều tiền lắm của sang trọng đẹp đẽ đến đâu, rốt lại cũng chỉ là huyễn hóa như giấc mộng mà thôi. Vạn vật không có gì bền chắc. Đời là giả dối tạm bợ. Không có thứ gì tồn tại lâu dài. Quả đúng như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã than:
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì!
Biết thế, thì thử hỏi tham đắm để làm gì? Người ta đau khổ chém giết với nhau cũng chỉ vì lòng tham. Tham mà không được toại nguyện thì nổi sân. Khi lửa sân bốc cháy lên, thì còn đâu biết phân biệt phải trái. Thế là anh si nhảy vào can thiệp quyết lòng ăn thua đủ. Lớn thì quốc gia nầy xâm lấn quốc gia kia. Nhỏ thì giữa cá nhân nầy với cá nhân nọ. Cứ thế mà tranh chấp không thôi. Tất cả củng chỉ vì ba thứ Tham, Sân, Si mà ra.
Ngược lại, người trí là người nhận ngay từ cái gốc của chúng. Chúng chỉ là những thứ hư giả như bọt nước tan hợp bất thường. Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói:
“…Ngũ ấm phù vân không khứ lai
Tam độc thủy bào hư xuất một”.
Thân ngũ uẩn ta cho là thật có, nhưng đối với cái nhìn của người đạt đạo thì nó chỉ là mây nổi hợp rồi tan trong vũ trụ bao la. Tham, Sân, Si, chúng cũng chỉ là những thứ bọt bèo sanh diệt huyễn hư, không có gì là chân thật độc hại cả. Do nhận rõ như thế, nên người ta dứt trừ được lòng tham. Bởi vậy, Phật cho đó là người trí, tức người nhìn đời bằng tuệ giác. Nhờ đó, tuy sống trong lòng cuộc đời mà tâm người ta thật thảnh thơi, tự tại, giải thoát.
172. Người nào trước buông lung sau lại tinh tấn, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian, như vầng trăng ra khỏi mây mù.
He who having been heedless is heedless no more, illuminates this world like the moon freed from clouds.
Kệ Tụng
Ai trước sống buông lung
Sau sống không phóng dật
Sẽ chói sáng đời này
Như trăng thoát mây quần.
Lược giảng
Câu chuyện xảy ra tại Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Sammũnjani.
Vị Trưởng lão nầy luôn quét dọn không kể giờ giấc. Một hôm, ông cầm chổi đến thất của Trưởng lão Revata (Ly bà đa) thấy vị nầy đang ngồi yên, ông thầm trách, cho rằng, Trưởng lão Revata tối ngày ăn không ngồi rồi, tiêu hao của tín thí, không chịu cầm chổi quét dọn như ông.
Trưởng lão Revata, liền cho ông một bài học: “Không phải tối ngày cầm chổi quét dọn hoài mới là tinh tấn, mà một thầy Tỳ kheo ngoài việc khất thực, quét dọn phòng ốc ra, còn cần phải thiền tọa quán niệm”. Nhờ lời dạy đó, Trưởng lão Sammũjani cố gắng thật hành, không bao lâu, ông chứng quả A la hán.
Sau đó, các Tỳ kheo khác thấy các phòng đều đầy rác rến, mới hỏi Sammũjani sao huynh không quét? Ông trả lời: trước kia tôi buông lung nên thường quét dọn, bây giờ tôi trở nên tinh tấn, nên không quét dọn nữa.
Các Tỳ kheo đem chuyện đó bạch trình lên Phật, Phật bảo đúng như vậy. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, người tu hành không phải tối ngày lo làm công kia việc nọ, mà cho là vị đó siêng năng. Đối với đời, ai làm như thế, thì người ta thầm khen là vị đó rất siêng năng. Họ siêng năng với lý do, là vì họ mưu cầu danh lợi. Vì chén cơm manh áo, vì muốn giàu sang hơn thiên hạ, nên họ phải chịu cực, chịu khổ để làm như thế. Ngược lại, đối với người tu hành, nhất là đối với những người xuất gia, thì lại khác. Vì mục đích của người xuất gia nhắm tới là phải đạt cho kỳ được giác ngộ và giải thoát.
Trường hợp Trưởng lão Sammãjani tối ngày chỉ biết lo dọn quét bên ngoài, mà ông không hề lo dọn quét bên trong, nên ông bị Phật quở cho đó là buông lung. Bởi vì, ông làm việc chỉ biết mãi say mê với công việc mà bỏ phế việc ngồi thiền, thì đó chưa phải là người siêng năng. Chữ tinh tấn trong đạo Phật là hành giả phải hồi quang phản chiếu nỗ lực diệt trừ phiền não. Vì có diệt hết phiền não tham, sân, si, … thì định huệ mới phát sanh và có như thế, mới thực sự giải thoát.
Ở đây, ta thấy, Trưởng lão Sammũjani lại không làm như thế. Vì ông thiếu thực tập thiền quán và ái ngữ, nên ông mới thốt lời chê trách Trưởng lão Revata là người chỉ biết ăn không ngồi rồi, tiêu hao của đàn na tín thí. Nhưng ông đâu có ngờ rằng, chính ông mới là người không biết tu hành và làm tiêu hao của tín thí. Và ông mới chính là người buông lung. Vì ông làm thiếu sự nhận diện của chánh niệm. Làm không có mặt trời ý thức soi sáng vào công việc mình làm.
Cũng đồng thời làm một công việc như quét dọn, rửa bát, tưới cây, nhổ cỏ, lặt rau v.v… đối với người tu, nhất là đối với người xuất gia như chúng ta, phải làm trong chánh niệm. Chánh niệm là để tâm chú ý hằng “Biết” vào công việc mình đang làm. Tuyệt đối không nên khởi nghĩ mông lung. Làm mà khởi nghĩ lung tung, Phật cho đó là buông lung hay tâm trạo cử phóng dật.
Sau khi nghe Trưởng Lão Revata khuyến nhắc, từ đó, ông nỗ lực thiền quán và không bao lâu đắc quả A la hán. Cuối cùng, ông được Phật khen, cho rằng, ông là người trước kia buông lung, nhưng nay lại tinh tấn rất mực, giống như vừng trăng ra khỏi mây ám.
Xét kỹ, trong giới tu hành, nhất là người xuất gia hiện nay, cũng có nhiều người giống như Trưởng lão Sammũjani. Suốt ngày, họ lo làm những việc bên ngoài, thậm chí không có thời gian nào rảnh rỗi. Ai thấy cũng cho rằng vị đó rất tinh tấn. Họ hết lòng phục vụ cho đạo pháp. Nhưng, đó chỉ là tinh tấn theo công việc, cũng không khác mấy với người đời. Vì cả hai cũng bận rộn suốt ngày. Chỉ khác là không lo nghĩ đến vấn đề cơm ăn áo mặc. Thiếu đủ không cần quan tâm biết đến. Vì việc nầy đã có Phật tử lo. Khác nhau là khác ở điểm đó. Nhưng không khác nhau ở nơi bận rộn với công việc.
Nếu người tu chỉ một bề say mê với công việc, thì bị Phật quở cho đó là buông lung. Vì sao? Vì tâm luôn luôn dính mắc theo duyên trần. Thử hỏi có người nào làm việc mà không tính toán lo âu không? Ai làm cũng muốn cho công việc của mình được hoàn hảo.
Muốn thế, thì phải dồn hết tâm lực vào công việc. Tính toán đương đầu trực diện đối nội, đối ngoại đủ thứ việc. Lúc nào đầu óc cũng căng thẳng, phiền não rối rắm đủ thứ. Được việc thì vui, mà trái lại thì buồn. Thuận theo ý mình thì tốt, nghịch với ý mình thì nổi sân la ó om sòm. Đây là tâm trạng mà đa số người xuất gia chúng ta vướng mắc.
Đối với thời nay, không có mấy người làm việc Phật sự mà tâm cảnh như như. Nghĩa là làm mà không bị dính mắc vào công việc. Chỉ có những bậc đạo lực thâm hậu đối cảnh vô tâm hay đói đến thì ăn mệt ngủ khò. Những bậc cao đức nầy, chúng ta không dám luận bàn đến. Ngoài ra, đối với những người tập sự tu hành hạnh xuất thế như chúng ta, thì không ai dám tự hào là mình làm không dính mắc vào ngoại cảnh. Người tu hành không ai biết rõ mình, bằng mình tự biết mình. Dù cho chúng ta có cố gắng tỏ ra cho người ta biết mình là thứ thiệt, làm Phật sự như trò chơi, nhưng than ôi! Làm sao qua đôi mắt tinh ranh của người đời. Thế thì, mình phải thành thật nhìn kỹ lại chính mình. Chính vì thế, mà Trưởng lão Revata phải vận dụng công phu thiền quán cho mình có một nội lực thâm hậu. Bằng cách là phải thực tập thiền tọa. Có ngồi yên, mới thấy được những vọng niệm vi tế. Đó là phản quan tự kỷ. Người tu phải luôn luôn nhìn lại mình. Mà muốn nhìn lại mình cho thật kỹ lưỡng, thì Phật dạy chúng ta cần phải ngồi thiền. Trong bốn oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm, chỉ có tư thế ngồi mới là thù thắng hơn các oai nghi khác. Thế nên, Phật Tổ dạy người tu hành phải lấy việc ngồi thiền làm căn bản. Nhưng phải ngồi với tư thế tươi mát và thảnh thơi.
173. “Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.”
174. “Ðời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới.”Lược giải
173. Người nào trước làm ác sau lại làm lành, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám.
He who by good deeds covers the evil he has done, illuminates this world like the moon freed from clouds.
Kệ Tụng
Ai dùng các hạnh lành
Che khuất các nghiệp ác
Sẽ chói sáng đời này
Như trăng thoát mây quần.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại Kỳ Viên, có liên hệ đến Trưởng lão Chỉ Man (Angulimàla, tức Ương quật ma la)
Ương quật ma la, thường gọi là anh chàng Vô Não. Đây là một con người rất độc ác. Anh ta giết người không biết gớm tay. Anh ta đi đến đâu, người ta đều hoảng hốt lo sợ đến đấy. Anh ta giết nhiều người, cứ giết xong, thì anh ta chặt một ngón tay để làm chuỗi đeo cổ. Mọi người nghe đến tên anh, ai nấy đều sợ kinh hồn khiếp đảm.
Vào một buổi sáng, đức Phật mang bát đi vào thành Xá Vệ khất thực. Thọ trai xong, đức Phật đi về phía mà anh chàng Vô Não đang ẩn núp ở đó. Mọi người đi đường đều ngăn cản không cho đức Phật đi. Nhưng đức Phật vẫn không quan tâm đến sự khuyên can của họ. Đức phật vẫn lặng lẽ bước đi. Thấy thế mọi người đều lo sợ cho đức Phật.
Từ xa, Vô Não nhìn thấy đức Phật, chàng ta rất đổi vui mừng, vì hôm nay, chàng ta chưa giết một người nào. Chàng nghĩ thầm: lạ thay! mọi người không ai dám đi một mình vào đây, sao hôm nay, chỉ có Sa môn Cù Đàm dám đi một mình? Nghĩ xong, anh ta mang gươm chạy đuổi theo đức Phật và quyết lòng phải giết đức Phật cho kỳ được. Phật đi trước, anh ta đuổi rượt theo sau, nhưng vẫn không theo kịp đức Phật. Tức quá! Anh ta vội hét lớn tiếng lên! Nầy Sa môn Cù Đàm hãy dừng chân lại. Phật bảo: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi.Chỉ có ngươi chưa dừng lại đó thôi!” Phật nói tiếp: “Ta đã dừng tất cả những thứ trược cấu phiền não tham, sân, si… Ta có lòng từ bi đối với mọi người. Còn ngươi, sao ngươi không chịu thôi bỏ cái tâm ác độc giết hại người! Ta khuyên ngươi nên từ bỏ cái tâm ác độc đó đi”.
Nghe Phật dạy thế, chàng ta liền ném khí giới xuống đất và xin quy y xuất gia theo Phật. Đức Phật thâu nhận chàng ta vào trong Tăng đoàn và trở thành một bậc Sa môn gương mẫu. Sau khi xuất gia, ông ta nỗ lực tu hành, không bao lâu chứng quả A la hán.
Thời Phật, cách chúng ta hơn hai mươi lăm thế kỷ, nhưng vẫn có những con người quá độc ác. Họ giết người như trò chơi. Coi mạng sống con người còn rẻ hơn bèo. Họ muốn giết ai thì giết. Không cần biết người đó là ai. Thấy người thì cứ giết. Độc ác như anh chàng Vô Não trong câu chuyện lược dẫn trên, có lẽ, trong xã hội loài người không còn ai độc ác hơn.
Người ta từng lên án các bạo chúa, trong thời đại quân chủ, như xưa kia, vua Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn sống học trò và giết chết biết bao người một cách vô cớ tàn nhẫn. Nhưng sự ác độc đó, mục đích là vì ông muốn bảo vệ ngai vàng, quyền uy, thống lãnh cai trị thiên hạ của ông.
Ngược lại, anh chàng Vô Não nầy, giết người chỉ vì nghe theo lời ngoại đạo tà giáo khuyến dụ để được sanh Thiên đường. Thật là oái oăm ngược đời, kẻ chuyên làm ác mà muốn được sanh Thiên. Tuy rằng, cả hai đều bạo ác, nhưng mỗi người đều có một mục đích khác nhau. Đối với vua Tần Thủy Hoàng, cho đến khi chết, ông vẫn đeo đuổi cái mộng ước mưu bá đồ vương, có được cái quyền uy tột đỉnh, ngồi trên thiên hạ. Ông không một chút hối hận, hoán cải những tội ác mà ông đã gây ra.
Ngược lại, anh chàng Vô Não nầy, tuy cũng rất độc ác, nhưng còn gặp được Phật. Nhờ Phật giáo hóa mà ông ta cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh. Ông quyết lòng cải hối theo Phật xuất gia và nỗ lực tu hành, đắc thành đạo quả.
Thế mới biết, con người dù cho có độc ác đến đâu, cũng có phút giây ăn năn hối cải. Nếu người đó gặp được một bậc Thầy cao đức hướng dẫn chỉ giáo. Tần Thủy Hoàng không có được cái duyên phúc nầy. Ông không có được một Đại thiện hữu tri thức chuyển hóa. Do đó, nên ông rất đau khổ suốt cả cuộc đời. Thật là tội nghiệp!
Tại sao chàng Vô Não lại hồi tâm chuyển ý? Thứ nhất, là ông gặp Phật một bậc Thầy toàn giác, đạo cao đức trọng. Thứ hai, là chính ông đã có sẵn hạt giống lành. Hạt giống nầy, vì thiếu duyên nên nó chưa có cơ hội phát hiện. Duy Thức Học cho chúng ta biết, trong mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều sẵn có hai loại hạt giống: thiện và ác. Hai loại hạt giống nầy, tùy theo môi trường, hoàn cảnh mà chúng hiện hành có sai khác. Nếu người có duyên phúc tốt, thì sẽ gặp môi trường hoàn cảnh tốt và hạt giống lành sẽ phát triển nhanh hơn.
Ngược lại, thì hạt giống ác sẽ phát triển mạnh. Bởi thế, nên xã hội loài người mới đặt định ra vấn đề giáo dục cải hóa con người. Bản tính cố hữu của con người vốn không bạo động. Vì bạo động, đó là cá tánh của loài thú vật. Nuôi dưỡng đức tánh bất bạo động, và làm cho nó tăng trưởng, đó là con người có ý chí hướng thượng. Thánh Gandhi là cha đẻ của chủ thuyết bất bạo động. Chỉ có bất bạo động mới đưa con người đến lại gần nhau. Và từ đó mới dễ thiết lập cảm thông hiểu và thương nhau hơn để có cơ hội sống chung hòa bình.
Rất tiếc, thế giới ngày nay, người ta còn quá hăng say bạo động. Càng ngày, người ta càng đánh mất đi yếu tính nhân bản. Đạo làm người mất đi, thì giá trị nhân phẩm không còn. Có khôi phục lại đạo đức nhân bản, thì xã hội mới bớt loạn lạc khổ đau. Nền văn hóa nhơn
loại đang bị lung lay đến tận gốc rễ. Các nhà làm văn hóa, cần phải cấm sâu gốc rễ đạo đức nhân bản. Nếu không, thì nếp sống văn hóa của con người sẽ bị mất gốc thê thảm. Và như thế, thì nhơn loại càng hứng chịu những bạo động khủng bố, bắn giết, và những tệ nạn thảm họa đau thương khác xảy ra khốc liệt. Đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận. Thú tánh trong con người càng bộc phát mạnh mẽ, thì nhơn tính càng bị yếu dần. Từ đó, nảy sanh ra không biết bao nhiêu điều họa hại cho xã hội.
Thiết nghĩ, những ai đã và đang đi vào con đường tội ác như chàng thanh niên Vô Não kia, xin mỗi người hãy tự quán chiếu xét lại. Xưa kia, chàng thanh niên Vô Não, chỉ vì cuồng tín, mất sáng suốt, bị bánh vẽ Thiên đường hấp dẫn, tạo cho anh ta có những tri giác sai lầm, gây ra nhiều tội ác, nhưng cuối cùng, anh ta đã được một bậc Thầy chuyển hóa và trở thành người lương thiện đạo đức.
Anh ta đã mạnh dạn ném khí giới, đứng lên hiên ngang làm lại cuộc đời. Anh ta hoàn toàn đổi mới con người. Tên sát nhân Ương Quật Ma La ngày xưa đã chết, để rồi chuyển hóa thành một thầy Sa môn hiền từ gương mẫu thật dễ kính mến. Thậm chí vua Ba Tư Nặc cũng phải bái kính và cúng dường.
Quả thật, Vô Não là một con người từ trong bóng tối si mê mà bước ra ánh sáng trí tuệ đầy tình thương. Tình yêu thương nhơn loại đã tràn ngập trong lòng anh ta. Anh ta đã trở thành một con người sống có lý tưởng, luôn luôn mang tình yêu thương đến cho mọi người. Ngày xưa, anh đi đến đâu, người ta run sợ khiếp đảm đến đó. Bây giờ, thì đã khác xa rồi.
Chính vì thế, mà Phật dạy: “Người nào trước làm ác sau lại làm lành, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám”. Mong sao, những ai đã vì một phút sai lầm, nên dấn thân vào con đường tội phạm như anh chàng thanh niên Vô Não kia, xin hãy nghe theo lời Phật dạy, mà quyết tâm mạnh dạn đứng lên làm lại cuộc đời, để chiếu sáng thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám. Xin các bạn hãy cương quyết làm vừng trăng sáng: “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật”.
174. Như chim thoát khỏi lưới, chẳng mấy con bay thẳng lên trời cao, trong thế gian này chẳng mấy người sáng suốt trông thấy cao xa.
Blind is this world; here only a few possess insight. Only a few, like birds escaping from a net, go to the realms of bliss.
Kệ Tụng
Đời này thật mù quáng
Ít kẻ thấy rõ ràng
Như chim thoát khỏi lưới
Ít hướng thẳng trời cao.
Lược giảng
Câu chuyện xảy ra tại tinh xá Aggàlava có liên quan đến cô bé thợ dệt.
Khi Phật đến Àlavi, dân chúng mừng rỡ và họ thỉnh Phật thọ trai. Thọ trai xong, Phật dạy cho họ nghe về pháp quán niệm cái chết. Trong số thính chúng, có một cô bé 16 tuổi, chuyên sống bằng nghề dệt vải. Nghe lời Phật dạy, trải qua 3 năm, cô hằng quán niệm đến cái chết.
Sau một thời gian, đức Phật quán sát biết thọ mạng của cô bé không còn bao lâu nữa, nên đức Phật trở lại Àlavi để gặp cô ta. Hay tin Phật đến, cô bé rất mừng, nhưng vì bận dệt vải, nên cô không đến gặp Phật ngay được. Phật biết nên sau khi thọ trai, Phật không thuyết pháp liền mà Phật chờ cô bé đến.
Cô bé dệt xong, liền chạy đến để gặp Phật. Phật hỏi cô bé vài câu hỏi, tất cả cô đều trả lời đúng hết. Phật khen ngợi cô ta. Trong khi đó, mọi ngưòi khác ngồi nghe đâm ra bực mình và họ xì xào với nhau trách cứ cô bé. Họ đâu hiểu được những câu hỏi thâm sâu lắc léo của đức Phật. Chỉ có cô bé mới hiểu được thâm ý của Phật thôi. Và nhân đó Phật nói Pháp Cú nầy.
Người đời hầu hết ai cũng sợ chết. Dù rằng, họ chưa biết tình trạng biến chuyển của cái chết xảy ra như thế nào. Nhưng, nói đến chết là người ta sợ cuống cuồng lên. Sở dĩ người ta sợ chết là vì ai cũng ham sống. Dù có người sống rất cực khổ, không thụ hưởng được gì, nhưng nói đến chết, họ vẫn lo sợ.
Ở đây, Phật dạy, người nào muốn không sợ chết, thì phải thường xuyên quán niệm đến cái chết. Vì chết là một định luật bất di bất dịch. Hễ có sanh tất có diệt. Nhưng chết không phải là hết. Như bóng đèn đang cháy sáng, bỗng tắt, người ta lầm tưởng là không còn điện nữa. Nhưng thật ra, bóng đèn bị đứt, chớ điện nào có mất đi đâu. Thế mà người ta cứ mãi lo sợ mất điện. Chỉ cần thay bóng mới khác vào, thì ánh sáng sẽ có lại ngay.
Bóng đèn, vì thiếu một điều kiện nào đó, nên nó không thể tiếp tục cháy được. Cũng thế, thân nầy là do duyên hợp. Khi còn đủ duyên, thì tạm nói là còn sống. Khi bị hư một bộ phận nào đó trong thân, thì sự sống không còn. Không còn là không còn cái xác thân, chớ không phải mất đi cái dòng tâm thức. Cũng như bóng đèn không còn cháy sáng được nữa, chớ không phải mất đi cái luồng điện lực.
Phật bảo chúng ta phải quán niệm đến cái chết, chỉ là sinh diệt, diệt sinh mà thôi. Điều quan yếu, nếu muốn không sợ chết, thì chúng ta cần phải chuẩn bị thật chu đáo cho cái chết. Chuẩn bị như thế nào? Chuẩn bị bằng cách, vâng theo lời Phật dạy, chúng ta cố gắng làm lành, lánh dữ, tu nhân, tích đức, ăn chay, niệm Phật, quyết chí tu hành.
Thí như, chúng ta biết mùa đông là lạnh. Nếu muốn không sợ lạnh, thì mỗi người hãy chuẩn bị sẵn sàng cho mình các thứ chống lạnh, như áo ấm, mền, nệm, lò sưởi v.v… Chuẩn bị cho thật kỹ lưỡng rồi, thì dù mùa đông có tới, ta cũng không lo sợ. Vì ta biết thế nào mùa đông cũng phải đến. Phật nói đó là người trí. Đó là người không mù quáng sợ hãi về cái chết.
Thiền quán sâu hơn về cái chết, khi chúng ta nhìn cây bắp, thì chúng ta sẽ thấy được hạt bắp. Nhìn đám mây, ta thấy có biển nước sông hồ… tất cả chỉ là biểu hiện có mặt theo dòng thời gian, không có gì mất đi và cũng không có gì tồn tại. Xem những hình ảnh hoạt động trên màn ảnh TV, khi tắt điện, những hình ảnh đó không còn hoạt động nữa, ta cứ tưởng là mất hẳn, nhưng không mất đi đâu cả, khi có điện vào, thì sẽ có những hình ảnh tiếp tục hoạt động trở lại.
Hiểu thế rồi, ta không còn gì phải lo sợ cái chết. Xe chạy lâu đời thì phải hư, khi hư không còn xài được, thì phải bỏ. Cái áo rách nhơ bẩn, cần phải thay áo khác. Bỏ xe nầy mua xe khác. Điều quan trọng là ta phải chuẩn bị cho có tiền nhiều để mua xe mới tốt hơn. Cũng thế, chết là điều kiện tất yếu phải đến, điều quan trọng là ta hãy chuẩn bị cho cái thân của ta kế tiếp đẹp đẽ tốt hơn.
Muốn thế, thì ta cần phải nỗ lực tu hành, để có được cái thân như ý muốn. Theo luật nhân quả, hễ gây nhân tốt, tất nhiên là ta phải có quả báo tốt. Đó là quyền quyết định hướng đi của chúng ta. Chúng ta phải quyết định làm con chim khi thoát khỏi lưới là phải bay bổng lên trời cao, để nhìn thấy trời đất bao la rộng rãi. Chớ không thể bay là đà trên mặt đất liền, để rồi bị sa vào lưới nghiệp nữa. Khi đó, dù cho con chim có muốn thoát ra khỏi lưới để bay cao, thì chao ôi! Đã quá muộn màng rồi!
Người nào thiền quán sâu sắc như thế, Phật cho đó là người có trí huệ, nhìn xa thấy rộng không còn vọng chấp, thiên kiến, tạo nghiệp ác để bị thần chết kéo lôi đi vào con đường đau khổ, tuyệt vọng nữa.
175. “Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này.”
176. “Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.”Lược giải
175. Con thiên nga chỉ bay được giữa không trung, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất, duy bậc đại trí, trừ dẹp hết ma quân mới bay được khỏi thế gian này.
Swans fly on the path of the sun; men pass through the air by psychic powers; the wise are led away from the world after vanquishing Mara and his host.
Kệ Tụng
Như chim thiên nga bay
Theo hướng đi mặt trời
Kẻ trí nhờ thần thông
Bay lượn giữa hư không
Nhờ trừ diệt ma quân
Kẻ trí thoát đời này.
Lược giảng
Theo truyện tích kể lại, câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, có liên quan đến ba mươi vị Tỳ kheo.
Một hôm, có ba mươi vị Tỳ kheo sống ở các xứ khác đến thăm đức Phật. Tôn giả A nan trông thấy các vị ấy đến khi đang chuẩn bị vào hầu Phật. A Nan nghĩ thầm: “Ta sẽ đợi đức Thế Tôn tiếp đón các Tỳ kheo nầy, sau đó ta mới vào hầu”, và Tôn giả đợi ngoài cửa.
Phật đón tiếp các Tỳ kheo, thuyết pháp một cách hoan hỷ cho các vị. Sau đó, tất cả chứng quả A la hán. Các vị từ giả Phật, bay lên hư không.
Các Tỳ kheo đi rồi, A Nan đến chỗ Phật, hỏi:
- Bạch Thế Tôn, có ba mươi Tỳ kheo đến đây, họ ở đâu?
- Đã đi.
- Bạch Thế Tôn, họ đi đường nào?
- Họ bay qua hư không.
- Bạch Thế Tôn, như vậy họ đã thoát khỏi sanh tử?
- Đúng thế! Nầy A Nan! Sau khi nghe Ta nói pháp, họ đã chứng A la hán.
Lúc ấy có một vài con thiên nga bay liệng trên không. Đức Phật nói:
- Nầy A Nan! Ai phát triển đầy đủ Tứ thần túc[22], người ấy bay liệng như thiên nga. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 290)
Thần túc thông, còn gọi là Như ý túc thông, là một trong ngũ thông. Đây là loại thần thông có công năng biến hóa không lường. Có thể phi hành tự do theo ý muốn. Thân bay giống như chim bay vô ngại. Người tu hành có được thần thông lực dụng như thế, thì đối với người thế gian cho đó là quá tuyệt rồi. Thế nhưng, ở đây, Phật lại nói, chỉ có bậc đại trí mới bay khỏi thế gian nầy.
Pháp cú nầy, Phật nêu ra hình ảnh của con thiên nga (ngỗng trời) và người có thần thông để so sánh với bậc đại trí. Con ngỗng trời dù cho nó có bay cao đến đâu, rồi cũng có lúc cũng phải đáp xuống đất. Người có thần thông phi hành biến hóa đến đâu, nhưng chưa diệt trừ hết vô minh phiền não, cũng vẫn tiếp diễn đi trong vòng luân hồi thọ khổ. Chỉ có bậc đại trí trừ hết ma quân phiền não mới bay ra khỏi thế gian nầy.
Thật vậy, người tu hành muốn được giác ngộ giải thoát, thì phải đoạn trừ ở nơi cái gốc. Cái gốc rễ đó là vô minh. Nếu không lo đoạn trừ ở nơi cái gốc, mà chỉ chạy theo cái ngọn, thì muôn đời khó được giải thoát. Cái ngọn đó là thần thông. Có lắm người tu, họ chỉ thích chạy theo cái dụng. Tu mà có phát sanh những hiện tượng nầy nọ thì họ rất thích.
Cũng như nói, tu có hào quang, hay xuất hồn ngao du nơi nầy nơi kia, hoặc giả tiên đoán biết rõ chuyện quá khứ, vị lai v.v… nghe thế, thì họ rất ham tu. Còn nói tu để được có trí huệ sáng suốt, dứt trừ vô minh phiền não, cứu cánh giác ngộ giải thoát, thì họ thấy sao quá buồn nản và xa vời. Nhưng họ đâu biết rằng, tất cả cái dụng đó có ra đều do từ thể mà có. Như nói, có bao nhiêu thứ nước uống ngon ngọt, cũng đều từ một chất ướt mà ra. Nói thế, họ nghe sao buồn quá! Họ muốn tu là phải có kết quả mau. Chính vì sự ham muốn đó rồi nghe đâu chúc đó, không cần biện biệt chánh tà, thì đó quả là một tai hại vô cùng.
Chúng ta nên nhớ rằng, tất cả cái dụng trên đời đều từ thể mà ra. Như nói tất cả những lượn sóng to nhỏ trên biển cả đều từ nước mà ra. Thế mà ít ai chịu nhận ở nơi cái tánh thể đó, họ chỉ thích chạy theo trên tướng và dụng. Thần thông có ra cũng từ nơi thể mà có. Nhưng thần thông bay liệng trên không, nó không cứu mình thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đó là chưa nói, khi dụng công tu sai theo ngoại đạo tà giáo, thì tai hại biết là ngần nào!
Chúng ta nên biết rằng, chỉ cần ứng dụng sai một ly là đã đi xa một ngàn dặm. Cho nên, người Phật tử khi dụng công tu hành phải nên chọn lựa pháp môn tu cho đúng với Chánh pháp. Trước tiên, pháp môn đó phải phù hợp với căn cơ trình độ của mình. Sau đó, mình cần phải nghiên cứu học hỏi cho rõ pháp môn mà mình đang chọn lựa để tu. Bằng ngược lại, cứ nghe đâu theo đó, không cần biết chánh hay tà, thì thật là một tai hại vô cùng. Không những hại cho mình đời nầy, mà nó còn hại cho những đời sau nữa. Nếu là Phật tử, xin tất cả hãy cẩn thận.
Qua câu chuyện trích dẫn trên cho chúng ta thấy, ba mươi vị Tỳ kheo, sau khi diện kiến đức Phật và được nghe đức Phật thuyết pháp, tất cả đều khai ngộ và chứng quả A la hán. Mà chứng quả A la hán là đã chấm dứt con đường sanh tử khổ đau. Điều chúng ta nên nhớ, sở dĩ những thầy Tỳ kheo nầy được chứng quả nhanh chóng như thế, là vì, đó chẳng qua chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước mà thôi. Không phải lần đầu gặp Phật mà các ngài được chứng quả. Phật chỉ là một tăng thượng duyên tốt cho các ngài đó thôi. Kỳ thật, là do các ngài đã huân tu, thiền quán đến mức độ chín mùi rồi, nên khi gặp Phật, nghe Phật dạy là các ngài liền chứng quả. Các ngài đã thực sự hết phiền não, và đã đạt được Niết bàn an lạc.
176. Những ai vi phạm đạo Nhất thừa [23], những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào mà họ không làm được.
For a liar who has violated the one law (of truthfulness), who holds in scorn the hereafter, there is no evil that he cannot do.
Kệ Tụng
Ai phạm đạo nhứt pháp
Ai ưa lời vọng ngữ
Ai không tin đời sau
Không ác nào không làm.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra khi đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Chiến già ma na (Cincà Mànavika).
Trên bước đường hành hóa, đức Phật gặp rất nhiều chướng nạn. Những chướng nạn nầy, phần lớn là do ngoại đạo tìm cách gây ra hãm hại. Một trong những vụ hãm hại đó, là do ngoại đạo xúi giục Chiến già ma na làm nhục đức Phật. Mục đích của họ là muốn làm cho đức Phật không còn uy tín để họ được thủ lợi. Vì uy tín, đạo hạnh và sự hoằng hóa của đức Phật càng ngày càng lan rộng. Do đó, mà các phái ngoại đạo càng lúc càng mất nhiều quyền lợi và tín đồ. Do lòng ganh tỵ đố kỵ đó, mà họ bày ra nhiều phương chước mưu mô xảo quyệt để hại Phật.
Sau khi thầy trò bàn tính phương cách hại Phật, nhưng chưa tìm ra được phương cách nào hay nhất và có tác dụng lớn lao. Trong số các nữ tín đồ của họ, thì có nàng Chiến già ma na. Nàng nầy còn trẻ trung và thêm có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng lãnh sứ mạng để tìm cách hại Phật. Nàng tìm ra được một phương chước là hằng ngày nàng sẽ trang điểm cực kỳ mỹ lệ để thường tới lui tinh xá giả bộ nghe đức Phật thuyết pháp. Để thực hiện theo diệu kế đó, nàng đến gần tinh xá nơi Phật ngự để trú ngụ. Nàng thường tới lui nghe Phật thuyết giảng một thời gian, sau đó nàng dùng cách độn bụng cho mỗi lúc mỗi u to lên giống như người có chửa.
Một hôm, nàng đứng trước Phật giữa thính chúng đang nghe Phật thuyết pháp, rồi bỗng nhiên, nàng quát tháo to lên bằng những lời lẽ nhục mạ và vu oan cho Phật. Nàng ta cho rằng chính đức Phật là tác giả của cái bào thai đó. Phật biết rõ cớ sự, Ngài ngồi an nhiên lặng thinh. Các thính chúng đều ngơ ngác nhìn Phật và rồi đưa mắt nhìn chòng chọc vào mặt nàng ta. Họ tỏ ra có ý giận dữ bất bình cô ta qua những lời thóa mạ đức Phật.
Bấy giờ Trời Đế Thích quán sát biết rõ duyên cớ, liền biến ra con chuột chui vào bụng của cô ta và cắn đứt sợi dây cột vào bụng. Dây bị đứt ra liền khi ấy vật (dĩa) độn trong bụng rớt xuống và làm đứt mấy ngón chân của cô ta.
Thế là, âm mưu vu khống chụp mũ đức Phật đã bị lộ tẩy phơi bày trước mắt mọi người. Ai nấy đều tức giận mắng chửi la ó rùm lên và rồi họ đuổi nàng ta ra khỏi tinh xá. Vì tâm ác độc hại Phật, nên kết quả nàng ta lãnh lấy quả báo là đọa địa ngục A tỳ. Nhân đó Phật cho biết, không phải đây là lần đầu tiên, mà Chiến già ma na hại Phật, trong quá khứ cô ta cũng đã từng hại Phật như thế. Do đó, Phật liền nói Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học về nhân quả cụ thể. Hại người trở lại hại mình. Ở đời, người ta vì lòng ganh ghét không muốn ai hơn mình, nên tìm đủ mọi phương chước, thủ đoạn, xảo quyệt để hãm hại đối phương cho kỳ được. Hại ra mặt hay hại ngầm sau lưng, đó còn tùy thuộc vào cái cường độ của cái tâm ác độc mà người đó muốn hại. Nếu lòng ác độc của người đó nổi lên mạnh bạo, thì họ bất kể phải trái, lương tâm, đạo đức. Họ quyết lòng phải hạ nhục đối phương cho kỳ được. Họ là người hoàn toàn mất hết lương tâm và lương tri, miễn sao thỏa mãn được cái lòng tự ái độc ác của họ thì thôi. Họ không cần đếm xỉa và nghe theo lương tâm của họ. Họ là người sống hoàn toàn nô lệ cho dục vọng bản ngã vị kỷ.
Những ngoại đạo nầy, họ thù ghét đức Phật, vì đức Phật đã hơn họ về mọi mặt. Mọi người chán ghét họ, vì người ta thấy rõ bộ mặt thật của họ. Bộ mặt đó chỉ là cái lớp áo đạo đức bề ngoài, nhưng thực chất thì họ không có đạo đức. Họ là những người mưu cầu lợi dưỡng. Do đó, mọi người hướng về Phật và theo Phật ngày càng đông. Vì thế, lòng căm tức nuôi hận trả thù của họ càng lúc càng mạnh. Càng căm tức ganh ghét chừng nào lương tâm của họ càng đau khổ nhiều chừng nấy. Âm mưu của họ đã bị bại lộ. Chẳng những họ không hại được Phật, mà trái lại, họ còn chuốc lấy thảm họa là mọi người càng thù ghét xa lánh họ hơn.
Thế mới biết, kẻ ác tâm hại người hiền lương, khác nào tự họ cầm đuốc đốt cháy họ. Họ ngậm máu dơ phun người, kết quả là miệng họ đã đầy máu trước. Tâm địa độc ác hại người, người chưa bị hại mà chính mình đã chuốc lấy đau khổ quá nhiều rồi. Bài học trên là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai mang tâm địa ganh tỵ, ác độc tìm cách hại người.
Người ta hơn mình, lẽ ra mình phải nên tìm hiểu học hỏi để cho bằng người. Nếu như mình không có được cái tâm tùy hỷ như Bồ tát, thì cũng chớ nên ganh ghét hại người. Nhất là đối với người Phật tử, dù xuất gia hay tại gia, Phật Tổ thường khuyên chúng ta nên phải học cho kỳ được cái tâm tùy hỷ. Có tùy hỷ việc làm của người, thì chẳng những ta không có đau khổ mà ta càng có thêm nhiều công đức. Công đức là ở chỗ tâm ta vui vẻ. Tâm vui vẻ đó là tâm an lạc hạnh phúc.
Pháp cú trên Phật dạy, những ai vi phạm đạo Nhất thừa, đạo Nhất thừa ở đây có nghĩa là pháp tánh chân thật. Vi phạm là sống ngược lại. Sống trái với chân lý, đó là nếp sống chạy theo dục vọng trần lao đau khổ. Kế tiếp, Phật khuyên chúng ta không nên nói lời vọng ngữ, và phải tin tưởng có quả báo đời sau. Nếu như không được như vậy, thì Phật nói không có điều ác nào mà người ta chẳng dám làm. Vì có tin nơi lý nhân quả, tội phước, người ta mới lo tu hành làm lành lánh dữ, mới lo tu tạo gieo trồng phước đức. Bằng ngược lại, con người không sợ tội lỗi báo ứng, thì quả đó là một tai hại rất lớn lao cho xã hội loài người.
Đó là họ theo phái Đoạn kiến ngoại đạo. Phái nầy chủ trương chết là mất hẳn, không có nhân quả tội phước báo ứng đời sau. Thế là, con người tha hồ làm ác, lập thành băng đảng, cướp của giết người, hiếp dâm, ma túy v.v… không có tội phạm nào mà họ không dám làm. Đó là một bức tranh bi đát thê thảm và cũng là một tệ nạn nhất của xã hội ngày nay! Thử hỏi như thế thì xã hội và đời sống của con người sẽ ra sao? Tin rằng, mỗi người sẽ có câu trả lời xác đáng rồi vậy.
177. “Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Ðời sau, được hưởng lạc.”
178. “Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng.”Lược giải
177. Người xan tham không thể sanh lên cõi trời, người ngu si không ưa tán dương việc cúng dường, nhưng người trí thấy việc cúng dường lại tùy hỷ và tương lai họ sẽ được phần an lạc.
Truly, misers fare not to heavenly realms; nor, indeed, do fools praise generosity. But the wise man rejoices in giving, and by that alone does he become happy hereafter.
Kệ Tụng
Keo kiết không sanh thiên
Người ngu ghét bố thí
Kẻ trí thích bố thí
Đời sau được hưởng lạc.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến phẩm vật cúng dường tối thắng.
Sau khi khất thực, Phật và Thánh chúng đệ tử trở về tinh xá, vua Ba Tư Nặc đến thỉnh Phật và Thánh chúng thọ trai. Phật hứa khả. Hôm sau, nhà vua sắm sanh phẩm vật thật nhiều để cúng dường và bảo dân chúng đến xem. Mọi người đến xem và rồi họ họp nhau lại mua sắm phẩm vật để cúng dường Phật và chúng Tăng nhiều hơn phần phẩm vật của nhà vua.
Hôm sau, nhà vua lại dâng cúng nhiều hơn. Và dân chúng trong thành hợp lực tài vật với nhau, dâng cúng nhiều hơn nhà vua nữa. Cứ thế, mà giữa nhà vua và dân chúng tranh nhau cúng dường trải qua 6 lần, không ai chịu kém hơn ai. Bấy giờ, nhà vua đâm ra lo lắng và suy nghĩ tìm phương cách thắng thế hơn.
Hoàng hậu Mạt Lợi (Mallikà) thấy vua lộ vẻ buồn lo liền hỏi duyên cớ vì sao. Vua thuật lại mọi việc. Nghe xong, hoàng hậu bày cách xây một lâu đài rộng lớn cho 500 Sa môn ngồi và các người tùy tùng ngồi ngoài. Đồng thời làm 500 lộng trắng cho voi và mỗi người đều có các cung nữ đứng hầu. Như thế, thì dân chúng không thể nào sánh kịp.
Nhà vua làm theo. Mọi việc xong xuôi, vua thỉnh Phật và chúng Tăng đến. Tất cả phẩm vật cúng dường trị giá lên đến khoảng 14 triệu, chỉ trong một buổi ngọ trai thôi.
Khi ấy, trong triều có hai vị đại thần, một tên là Kàla, một tên là Junha. Đại thần Kàla tỏ ý không hài lòng vì tốn kém quá nhiều trong ngân khố. Ngược lại, Junha thì rất vui mừng tán thán.
Thọ trai xong, Phật không thuyết pháp như thường lệ, và cũng không tán thán phẩm vật cúng dường tối thắng của nhà vua. Vì Ngài nghĩ, nếu tán thán cho xứng với phẩm vật cúng dường, thì đại thần Kàla khó sống. Do đó, Phật chỉ nói một bài kệ đơn giản, rồi từ giả mọi người.
Sau đó, Phật và Thánh chúng trở về tinh xá. Nhà vua không vui theo hỏi đức Phật. Duyên do vì sao mà Phật không tán thán như lệ thường? Bấy giờ, Phật mới nói rõ cho nhà vua biết về việc keo kiết tiếc phẩm vật dâng cúng của đại thần Kàla. Nếu Phật khen ngợi, thì Kàla sẽ chết.
Nghe xong, nhà vua liền hỏi Kàla và nhà vua nói tiếp: tất cả phẩm vật là của ta, ta hết lòng dâng cúng cho Phật và Thánh chúng, cớ sao ngươi lại tiếc nuối?
Phật nói: “Thôi đại vương! Người ngu thấy kẻ khác làm điều phước thiện, thì sanh tâm không vui và chính họ sẽ có quả báo không tốt về sau”. Nhân đó, Phật nói cho mọi người nghe Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về việc cúng dường. Giữa nhà vua và dân chúng tranh nhau cúng dường Phật và chúng Tăng. Lý do tại sao họ tranh nhau như thế? Nếu nói về tiền của, thì dân chúng làm sao sánh bằng của vua? Tuy cá nhân thì họ không bằng, nhưng nếu tất cả hợp sức đồng lòng, thì tiền kho bạc đụng của vua cũng khó sánh kịp. Vì vậy, trải qua sáu lần để tranh nhau cúng dường. Sở dĩ họ tranh nhau, vì ai cũng muốn mình có nhiều phước báo. Tu theo nhơn thừa là như thế. Vì họ muốn có phước nhiều để đời sau thọ hưởng. Tuy nhiên, bà hoàng hậu đưa ra một kế sách mà dân chúng không thể nào theo kịp. Ngoài phẩm vật cúng dường thượng thặng ra, còn có 500 con voi trắng và rất nhiều cung nữ hầu hạ. Thế là dân chúng đành chịu.
Ở đây, ta thấy, không phải so sánh chuyện hơn kém, mà là chuyện đánh giá ở nơi tâm địa của con người. Từ tấm lòng của vua, hoàng hậu, dân chúng, ai ai cũng có lòng hảo tâm, không nghĩ đến phẩm vật. Trong khi đó, thì đại thần Kàla lại tỏ ra sốt ruột tiếc của kho của nhà vua. Đó là của vua mà ông còn tiếc như thế, còn nếu là của ông thì sao? Chắc chắn là ông không có phát tâm như thế rồi. Chứng tỏ tâm của ông ta quá keo kiết rít rắm. Do đó, mà Phật xót thương một con người có tâm hồn rất tham lam bỏn xẻn và Phật không muốn nhìn thấy ông bị sát hại, nên Phật không tán thán cân xứng theo phẩm vật nhà vua cúng dường. Đây là lòng từ bi của Phật. Phật chẳng những thương ông có một tâm hồn nhỏ hẹp, mà còn thương cả thân mạng của ông nữa. Chính vì nghe Phật nói, nên nhà vua mới không có ý trách Phật. Và đồng thời cũng cứu được mạng sống của ông Kàla.
Bởi thế, Phật mới nói: “Người xan tham không thể sanh lên cõi trời”. Vì cái nhân xan tham làm sao có cái quả giàu có sung sướng. Phật lại dạy tiếp: “Người ngu si không ưa tán dương việc bố thí”. Đây là một tâm lý thường tình của con người. Có những người, chẳng những họ không bố thí làm phước cho ai, mà khi thấy người khác làm, thì họ lại sanh tâm chê bai kích bác.
Họ coi trọng đồng tiền của cải hơn trái núi. Dù thấy kẻ khác đang lâm vào hoàn cảnh hết sức thương tâm, nhưng họ vẫn dửng dưng không chút từ tâm thương xót bố thí. Lòng họ thật là chai đá. Họ sống thiếu tình người. Bởi vậy, Phật nói những người ngu si thấy ai làm việc phước thiện thì lại sanh tâm không ưa. Chẳng những không ưa thôi mà họ còn phê bình nói xấu.
Hạng người nầy, xưa nay thời nào cũng có. Ngược lại, Phật nói người trí thấy ai bố thí thì họ khởi tâm tùy hỷ tán dương. Do đó mà họ có thêm nhiều phước đức. Người có tâm rộng lượng như thế, thì chắc chắn tương lai họ sẽ dự hưởng phần an lạc.
Là Phật tử, hẳn chúng ta không một ai muốn làm người ngu. Không ai muốn tương lai của mình phải đau khổ. Muốn thế, thì Phật khuyên chúng ta cố gắng làm phước tạo nhiều việc lành. Đồng thời, nên mở rộng cõi lòng thương người thương vật và hết lòng tùy hỷ đối với những ai làm việc phước thiện. Đó là ta biết thương và lo cho ta, có một tương lai an vui hạnh phúc.
178. Người thống suất cõi đất, người làm chủ chư Thiên, hết thảy vị thế chủ ấy chẳng sánh kịp một vị đã chứng quả Tu đà hoàn [24].
Better than sole sovereignty over the earth, better than going to heaven, better even than lordship over all the worlds is the supramundane Fruition of Stream Entrance.
Kệ Tụng
Kẻ thống lãnh cõi đất
Người được sanh cõi trời
Ai chủ trì vũ trụ
Không bằng quả dự lưu.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Kàla, con trai của Trưởng giả Cấp Cô Độc.
Kàla là con trai yêu quý của ông Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc là người rất tin kính Phật pháp. Kàla thì không bao giờ tin Phật. Chàng ta rất ương ngạnh cứng đầu không bao giờ muốn gặp Phật. Dù hay tin Phật đến nhà, nhưng cậu ta không bao giờ ra chào hỏi. Đôi lần, ông cha khuyên con nên tin theo Phật pháp và chúng Tăng, nhưng không lần nào có hiệu quả.
Bấy giờ, ông cha nghĩ cách phải khuyến dụ con ông bằng tiền. Vì chỉ có tiền mới thuyết phục được con ông mà thôi. Nghĩ thế, ông liền nói với con:
- “Nè con! ngày mai con đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, xong rồi, trở về cha sẽ thưởng cho con 100 đồng”.
Cậu bé nghe cho tiền liền thực hiện ngay. Khi về, chưa nhận tiền, cậu ta làm nủng không ăn cơm. Mọi người năn nỉ, cậu ta vẫn từ chối. Giữ lời hứa, ông Trưởng giả cho tiền và rồi cậu ta mới dùng cơm.
Hôm sau, người cha khuyên cậu, nếu cậu chịu khó học thuộc lòng một câu kệ, thì sẽ được thưởng 1000 đồng. Thích chí, cậu ta liền đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Phật biết, nên không muốn cho cậu ta nhớ. Phật đọc hết bài kệ nầy đến bài kệ khác và cậu ta chăm chú lắng nghe. Kết quả, cậu ta chứng được quả Dự lưu.
Khi Phật và chúng Tăng vào thành khất thực, cậu ta đi theo. Cha cậu trông thấy rất mừng thầm. Cậu ta thì mong cho cha đừng bao giờ đưa tiền trước mặt đức Phật.
Sau khi dâng thức ăn cho Phật và chúng Tăng, cha cậu liền đưa tiền cho cậu. Cậu ta quyết định không nhận. Trưởng giả năn nỉ, nhưng cậu ta vẫn khư khư từ chối. Nhân đó, cha cậu trình bày tự sự cho Phật nghe. Nghe xong, Phật liền nói Pháp cú nầy.
Câu chuyện trên, mới nghe qua như là chuyện trẻ con, không có gì lý thú. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, ta thấy, ông cha rất sành tâm lý trẻ con. Kàla ỷ mình con nhà giàu có sang trọng, không kính nể tùng phục một ai, dù đó là đức Phật. Ông cha biết rõ tâm ý con mình, thuộc dạng cứng đầu, nên không thể dùng biện pháp mạnh được. Thế là, phải dùng đến biện pháp tiền để khuyến dụ.
Trên đời nầy không ai lại không ham thích tiền, nhất là đối với trẻ con. Đối với trẻ con, thích cái gì rất thực tế. Vì tiền mới mua sắm được thứ nầy thứ kia. Còn vàng ngọc tuy vật rất quý giá, nhưng đối với chúng, thì thật là vô nghĩa. Vì chúng đâu có biết tiêu xài.
Dùng biện pháp dụ cho tiền để cho con đi nghe pháp, đó là một phương pháp giáo huấn rất hay. Điều lý thú hơn nữa, là khi nghe xong, trở về, người cha không vội đưa tiền liền. Để thử cậu ta có thích tiền không. Thay vì đưa tiền, thì ông lại bảo cậu bé ăn cơm trước. Và ông tỏ ý rất yêu quý con. Được cớ, cậu bé làm nủng không chịu ăn. Thế là cậu bé đã mắc câu…
Lần sau, ông ta bảo đứa con cũng đi đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp như lần trước, nhưng lần nầy ông tăng tiền thưởng nhiều hơn. Cậu bé Kàla nghe vậy đi ngay. Lần nầy, Phật biết và làm cho cậu ta chú tâm nghe pháp. Nhờ chú tâm lắng nghe mà cậu ta chứng quả Dự lưu (Tu đà hoàn).
Ngày xưa, ở Nhật Bổn cũng có câu chuyện xảy ra tương tự như thế. Chuyện kể, có một ông già tuổi trên bảy mươi, nhưng ông còn rất ham tiền. Hằng ngày, ông đi làm vất vả để kiếm tiền. Thấy thế, đứa con trai của ông mới khuyên ông nên ráng lo tu hành. Tuổi già gần đất xa trời mà cha chưa chịu thức tỉnh lo tu. Khi cha chết đâu có mang được tiền theo.
Ông cha nghe nói, nổi giận la ó om sòm. Biết cha mình nặng tiền bạc, nên người con tìm cách khuyến dụ. Anh ta lên chùa trình bày cho thầy biết, để nhờ thầy tìm cách chuyển hóa ông ta. Vị thầy nói rằng, thầy sẽ thuê cha con niệm Phật. Cứ niệm 10 xâu chuỗi, thầy sẽ trả cho một quan tiền. Người con về thuật lại cho cha biết. Ông cha rất vui mừng và đồng ý ngay.
Kể từ đó, ông ta bắt đầu niệm Phật. Niệm một cách chí thành tha thiết. Vì nếu ông niệm dối trá thì không được trả tiền. Đó là điều kiện mà vị thầy đã giao ước. Ông niệm Phật không bao lâu đã được kết quả tốt đẹp. Tâm ông được an định. Ông mất trong tư thế đang ngồi niệm Phật trước bàn Phật. Vì ham tiền, nên ông tha thiết chí thành niệm Phật. Kết quả được vãng sanh an lành như thế.
Căn tánh nghiệp lực của mỗi người sai biệt nhau rất nhiều. Bất cứ dùng phương tiện nào nhằm thức tỉnh, chuyển hóa người ta biết lo tu niệm, làm lành, lánh dữ và có kết quả tốt, đều là thượng sách cả. Điều quan trọng là chúng ta khéo biết sử dụng phương tiện thích hợp với căn cơ. Người cha hiểu rõ tánh con, ngược lại, người con hiểu rõ tánh cha, cả hai đều suy nghĩ tìm phương cách thích nghi để chuyển hóa. Cả hai đều sử dụng đồng tiền rất hiệu quả. Cùng một vật thể, nếu người khéo biết sử dụng, thì sẽ đạt được hiệu quả rất cao và lợi ích rất lớn.
Sự giáo dục con người không phải chỉ có cách dạy dỗ không thôi, mà nó còn nhiều phương cách khác. Nhưng dù cách nào, người có trách nhiệm giáo dục cũng phải có tấm lòng yêu thương chân thiết. Thiếu tình thương, hiểu và cảm thông, thì việc làm khó đạt được thành công như ý muốn.
Pháp cú trên, Phật nói, dù cho một người nào đó có đủ quyền uy thống suất khắp cả địa cầu, thậm chí làm chủ cả chư thiên, nhưng không thể nào sánh kịp một người chứng quả Tu đà hoàn. Vì có thế lực uy quyền đến đâu, mà không biết chuyển hóa tu hành, thì rốt cuộc cũng đi mãi trong sanh tử luân hồi. Cậu bé Kàla vì có phước nên sanh ra trong một gia đình giàu có nhất xứ, nhưng cái phước đó cũng không thể cứu được con người thoát khỏi mọi đau khổ ràng buộc. Chỉ có một con đường biết hoán chuyển nội tâm, theo một tiến trình: “Niệm, Định, Tuệ”,thì mới mong thoát khổ và đạt được Niết bàn an lạc.
Phẩm Phật Ðà
179. “Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích?”
180. “Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?”Lược giải
179. Chẳng ai hơn nổi người đã thắng phục dục tình. Người đã thắng phục dục tình không còn bị thất bại trở lại, huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các người lấy gì mà hòng cám dỗ được?
By what track can you trace that trackless Buddha of limitless range, whose victory nothing can undo, whom none of the vanquished defilements can ever pursue?
Kệ Tụng
Chiến thắng không thể bại
Trên đời không dấu tích
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao hòng theo dõi.
180. Người dứt hết trói buộc, ái dục còn khó cám dỗ được họ, huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các ngươi lấy gì mà hòng cám dỗ được ư?
By what track can you trace that trackless Buddha of limitless range, in whom exists no longer the entangling and embroiling craving that perpetuates becoming?
Kệ Tụng
Lưới mê được giải tỏa
Ái phược hết buộc ràng
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao lòng theo dõi.
Lược giảng
Hai Pháp cú nầy Phật dạy cho các cô gái con của ma vương, khi Ngài còn ngồi ở cội Bồ đề.
Bà la môn Màgandiya (Mạn la hoa) ở nước Kuru (Câu lâu) ông nầy có người con gái đẹp tuyệt trần. Những chàng trai thuộc con nhà danh gia thế phiệt đến dạm hỏi xin cưới, nhưng tất cả đều bị cô ta từ khước.
Một hôm, đức Phật quan sát căn cơ tất cả chúng sanh, Ngài thấy, Bà la môn nầy cùng vợ ông có thể đắc quả A na hàm. Phật liền đi đến gặp ông ta. Ông nhìn thấy đức Phật tướng hảo quang minh, hình dung đỉnh đạt, mừng quá, ông vội chạy đến và bày tỏ nỗi vui mừng. Ông nói, ông có một đứa con gái nhan sắc tuyệt đẹp, trên đời có một không hai. Ông hứa là sẽ gả cho đức Phật.
Nói xong, ông quày quả chạy về nhà, báo tin cho vợ và con biết. Bảo đứa con gái trang sức cho thật đẹp rồi cả ba người đồng đến gặp Phật. Đến nơi, không thấy Phật đâu, chỉ còn thấy một dấu chân ấn sâu dưới đất. Ông bảo bà vợ xem thử, bà vợ nói rằng: “Đây là dấu chân của người ly dục”. Ông tức giận quyết tìm cho gặp đức Phật.
Khi tìm được Phật, ông bảo đây là con gái tôi sẽ gả cho Ngài. Thay vì Phật từ khước, Phật lại kể cho ông nghe câu chuyện trước kia, về các người con gái của ma vương.
Phật nói, trước kia, khi Phật thành đạo dưới cây Bồ đề đã có nhiều đứa con của ma vương đến khuấy phá Ngài. Bọn chúng đã khêu gợi nhan sắc đủ thứ. Nhưng tất cả đều thất vọng trước sức thiền định và trí huệ sáng suốt của Ngài. Và Ngài đã cho bọn chúng một bài học: “Tất cả đều là những túi da hôi thúi, không làm gì mê hoặc được Ta. Mọi người hãy cút đi! Những thứ ấy Ta không cần dùng”. Nhân đây, Phật nói Pháp cú nầy.
Trên đường đời, chiến thắng được lòng dục vọng của chính mình thật là khó. Người ta có thể diệu võ dương oai hò hét chiến thắng oanh liệt vang dội ngoài chiến trường, nhưng họ không dễ gì chiến thắng được cái lòng ham muốn của mình. Trước những khó khăn nguy nan đầy gian lao cạm bẫy, người ta cũng có thể tìm cách để vượt qua dễ dàng, nhưng trước sự khêu gợi lòng dục vọng, thì người ta đành phải xuôi tay đầu hàng. Đã có biết bao người chiến sĩ không phơi thây ngoài trận địa, mà lại phơi thây ở những nơi hang ổ dục tình. Đó là điều mà con người thật khó khắc phục chế ngự để vượt qua. Quả đúng như lời người xưa đã nói:
Vũ vô thiết tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Thiên cổ anh hùng giai tạ thử
Bá thiên đồng tác tự khanh trần.
Nghĩa là:
Mưa không phải là cái khóa bằng sắt, nhưng nó có thể giữ khách lại một cách dễ dàng.
Sắc đẹp của mỹ nhân không phải là sóng to mà nó có thể nhận chìm con người.
Từ ngàn xưa đã có biết bao anh hùng đều chết vì sắc đẹp của mỹ nhân. Và có hằng trăm ngàn người đều bị sa đọa vào cái hầm trần lao tuyệt vọng khổ đau nầy.
Ở đây, ta thấy, đức Phật đã khắc phục, chiến thắng ngoại cảnh cám dỗ, có sức quyến rũ thu hút làm lung lạc lòng người. Ngài đã chiến thắng bằng cây cung Thiền định và mũi tên Trí huệ. Đây là hai loại vũ khí sắc bén mà Ngài đã chiến thắng oanh liệt. Trước sắc đẹp của các mỹ nhân thuộc bọn ma vương quyến rũ, nhưng cũng không thể gạt gẫm qua nỗi đôi mắt tinh anh sáng suốt của Ngài. Vì những dục vọng tham, sân, si… không còn có cơ hội bộc phát. Tất cả những thứ kiết sử đó, Ngài đã không còn. Ngài đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát.
Ngài đã hùng tráng mạnh dạn đi vào đời bằng đôi chân Thiền định vững chắc và với một thanh gươm Trí huệ sáng ngời, cùng với một chiếc áo giáp sắt tinh tấn. Nhờ trang bị như thế, nên không có một sức cám dỗ quyến rũ nào đủ lực dụng làm cản trở bước chân vân du hóa đạo của Ngài.
Ngài đã nói rõ bằng tất cả kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua rằng: chẳng ai hơn nỗi người đã thắng dục tình. Chúng ta bị thất bại liên miên trên bước đường đời là vì chúng ta chưa thắng nỗi dục tình. Chúng ta còn thích làm nô lệ cho bọn chúng. Ngày nào bọn chúng còn sai sử ta, thì ngày đó chắc chắn là ta còn phải đau khổ. Khi nào ta không còn bị bọn chúng sai sử nữa, thì chừng đó ta mới thực sự được tự do giải thoát. Và ta không còn bị thất bại nữa. Chừng đó đối với ta, tất cả là một bầu trời trong sáng an vui hạnh phúc. Ta không còn để lại bất cứ dấu vết gì. Đó là một bước chân ra đi không lưu lại vết hình. Mọi thứ đều cởi bỏ. Chỉ còn lại một bầu trời tự do trong sáng mà thôi.
181. “Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm.”
182. “Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời!”Lược giải
181. Người trí thường ưa tu thiền định, ưa xuất gia và ở chỗ thanh vắng. Người có Chánh niệm và Chánh giác, bao giờ cũng được sự ái kính của Thiên, nhơn.
Those wise ones who are devoted to meditation and who delight in the calm of renunciation – such mindful ones, Supreme Buddhas, even the gods hold dear.
Kệ Tụng
Người trí chuyên thiền định
Thích an tịnh, giải thoát
Bậc Chánh giác, Chánh niệm
Chư thiên đều ái kính.
Lược giảng
Phật dạy Pháp cú nầy tại cổng thành Sankassa, có liên hệ đến nhiều thiên, nhơn, với duyên do là vấn đề thi triển thần thông. Phái ngoại đạo dùng mọi mánh lới thủ đoạn, gian xảo để họ so tài bằng cách sử dụng thần thông với Phật. Nhưng tất cả họ đều bị thất bại. Mọi thủ đoạn đều bị lộ tẩy phơi bày trước công chúng và họ rất hổ thẹn. Phật không cần sử dụng đến thần thông, dù có nhiều đệ tử xin phép Ngài để được so tài cao thấp cùng với ngoại đạo. Nhưng Phật không đồng ý. Phật đã quở ông Tân Đầu Lư về việc phô trương thần thông nầy. Trời Đế Thích ra oai trừng phạt họ tơi bời. Sau khi Phật hiện thần thông song hành có nhiều phép lạ, rồi Ngài lên cung trời thuyết pháp và trở lại nhơn gian hóa độ. Các hàng thiên nhơn, kể cả ngoại đạo trông thấy thảy đều quy kính bái phục. Nhân đây, Phật nói Pháp cú nầy.
Trong đạo Phật việc hiện phép lạ thần thông là điều tối kỵ. Tại sao? Vì đó không phải là mục đích của đạo Phật nhắm đến. Chủ trương của đạo Phật là dạy mọi người phải đạt được giác ngộ và giải thoát. Ngoài ra, tất cả không phải cái mà đạo Phật chủ trương nhắm tới. Tuy nhiên, trong khi giáo hóa, vì muốn khắc phục chuyển hóa ngoại đạo, nên đôi khi Phật hay các đệ tử, như Tôn giả Mục Kiền Liên, phải vận dụng phương tiện thi thố thần thông.
Trường hợp nói trên là một trong nhiều trường hợp mà Phật đã sử dụng. Sử dụng với mục đích là để hàng phục ngoại đạo. Nếu không sử dụng phương tiện nầy, thì thật khó giáo hóa ngoại đạo ở thời đại đức Phật. Nhưng đây cũng là trường hợp rất hiếm hoi. Vì thần thông, là cái dụng phát ra từ thể mà có. Khi tu hành đạt được cái tánh thể rồi, thì hành giả sẽ có vô số diệu dụng thần thông. Nếu không hiểu được cái cội gốc căn bản nầy, thì người tu Phật, không khéo sẽ bị lệch hướng. Tức là chỉ chạy theo trên cái dụng, mà quên mất cái thể, và như thế dễ bị lầm lạc, mê hoặc lòng người, nên khó được giác ngộ giải thoát.
Pháp cú trên, Phật dạy người tu hành là phải lấy thiền định làm căn bản. Bất cứ tu theo pháp môn nào, hay theo hệ phái nào, hành giả cũng phải cấm sâu gốc rễ thiền định. Nhất là đối với những hành giả tu theo Phật giáo Nguyên Thủy, thì việc tham thiền nhập định đối với họ là tối thiết yếu. Nhờ có định mới phát sanh trí huệ. Cho nên“Giới, Định, Huệ” là ba môn học chính yếu của người tu Phật.
Muốn thật hành ba pháp nầy cho có hiệu quả cao, thì Phật dạy người xuất gia phải ở chỗ thanh vắng. Người xuất gia đối với ba môn học nầy không thể thiếu được. Vì nó quan trọng thiết yếu như hơi thở và mạng sống. Nhờ sự ứng dụng hành trì một cách vững chãi, chúng ta mới có thể vượt qua được những chướng duyên thử thách.
Tâm có an định, trí ta mới sáng suốt. Muốn cho tâm an, thì phải giữ giới. Giới là hàng rào ngăn chặn mọi thứ dục nhiễm. Nhờ giữ giới tinh nghiêm, thanh tịnh mà tâm ta mới được an định và tự do. Đó là một đại lộ mà bất cứ hành giả nào muốn được lợi mình lợi người hiện tại và mai sau, cũng đều phải đi qua. Không có một lộ trình nào khác để chúng ta đạt được Niết bàn an lạc.
182. Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó.
Hard is it to be born a man; hard is the life of mortals. Hard is it to gain the opportunity of hearing the Sublime Truth, and hard to encounter is the arising of the Buddhas.
Kệ Tụng
Sinh làm người là khó
Được sống còn là khó
Nghe chánh pháp là khó
Sống gặp Phật là khó.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy dưới bảy cây Sirìsaka, gần Ba la nại, có liên hệ đến Long vương Erakapatta. Vị Long vương nầy, trong tiền kiếp thời Phật Ca Diếp, làm một Sa môn trẻ, chỉ vì vô cớ làm rách chiếc lá Eraka, mà phải chịu quả báo làm vua loài Rồng trải qua nhiều kiếp, không được làm người. Long vương thường dạy cho long nữ hát vài câu đố trên sông Hằng. Nếu có ai trả lời được, thì Long vương biết chắc là có Phật ra đời. Thật vậy, khi long nữ ca hát, thì Phật dạy cho anh chàng Uttara câu trả lời. Nhờ đó, mà cuối cùng, vị Long vương nầy mới gặp được Phật. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy.
Nhân quả báo ứng thật là ghê sợ. Chỉ làm rách một chiếc lá thôi mà mắc phải quả báo làm rồng. Nhưng vị Sa môn nầy nhờ có tu thiền định (tà định) mà tái sanh làm vua loài rồng. Khi thác sanh làm rồng trải qua nhiều đời không được làm người. Thế mới biết, được làm thân người không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, trong Kinh Phật thường dạy: “Được làm thân người rất khó”. Khó hơn là con rùa mù tìm bộng cây để chui vào.
Trên biển cả bao la, có một bộng cây khô trôi nổi bồng bềnh từ đông sang tây, từ nam qua bắc, trong biển đó có con rùa mù, trăm năm mới trồi đầu lên một lần để tìm bộng cây chui vào. Phật nói, con rùa mù kia còn có thể chui vào bộng cây được, còn con người khi mất thân nầy rồi không thể dễ dàng có lại được.
Thế mà, trong đời có lắm người khi được thân nầy, mà họ không biết quý trọng gìn giữ lại đi quyên sinh tự tử! Phật nói: “Đó là hạng người thật quá ngu si”. Trên thế giới ngày nay, có rất nhiều thanh thiếu niên nam nữ tự tìm lấy cái chết bằng cách quyên sinh. Bạn cứ thử tưởng tượng ở những nước văn minh tân tiến, như Anh, Mỹ, Pháp v.v… hằng ngày người ta thống kê có khoảng trên 30 thanh niên nam nữ tự tử.
Tại sao họ phải tìm lấy cái chết như thế? Bạn cho rằng, họ là kẻ mù quáng phải không? Bởi mù quáng nên họ mới hành động như thế. Nhưng thưa bạn, lý do vì sao mà họ mù quáng không muốn sống? Là con người không ai lại không tham sanh úy tử? Thế thì tại sao họ phải chết? Họ chết, đương nhiên có nhiều lý do bức xúc nội và ngoại tại. Nhưng theo tôi, chỉ có một lý do quan trọng nhất, đó là nếp sống trong gia đình của họ bị bật gốc mất hạnh phúc.
Họ thực sự không có được một mái ấm gia đình hạnh phúc. Họ không được cha mẹ yêu thương quan tâm chăm sóc. Vì cha mẹ họ bất hòa hay tranh cãi nhau. Họ sống trong gia đình như sống trong cảnh địa ngục. Để bớt căng thẳng, tất nhiên họ phải tìm cách giao du với bạn bè. Họ muốn đi tìm sự nguôi ngoai khuây khỏa tinh thần. Nhưng rất tiếc, khi giao tiếp với bạn bè, không phải gặp bạn bè nào cũng tốt hết. Bề ngoài thì bạn bè, nhưng bên trong thì lại khác.
Với tuổi ngây thơ trong trắng, làm sao họ thấu hiểu hết được những bí ẩn bẫy rập ác độc của cuộc đời. Bạn xấu ác thì dàn trải quá nhiều. Do đó, khi đang buồn chán lại gặp bạn xấu ác quyến rũ, nên họ dễ bị sa ngã đi vào con đường sa đọa, trụy lạc. Khi đã lún sâu rồi, họ khó mà rút chân ra.
Từ đó, họ chịu đựng quá nhiều thứ áp lực luôn đè nặng tâm trí ngây thơ của họ. Áp lực của nhà trường, của bạn bè, của xã hội v.v… Bấy giờ, họ nhìn lại gia đình, thì không có chỗ tựa nương. Họ bị hụt hẫng, đói khát tình thương yêu. Họ thiếu hẳn tình thương an ủi của cha mẹ. Khi gặp khó khăn, họ không biết thổ lộ, tâm sự phơi bày cùng ai! Cha mẹ họ sống không có hạnh phúc. Hai người gặp nhau như nước với lửa, lúc nào trong gia đình cũng có sóng gió nổi lên bất an. Có kẻ thì không cha, không mẹ, sống lang thang bụi đời. Dù cha mẹ họ còn đó, nhưng coi như không có, vì cha mẹ họ đã bỏ bê hất hủi họ.
Cha mẹ họ, vì bất hòa với một lý do nào đó, nên đưa đến gia đình tan nát. Kẻ ở một nơi người thì một ngã. Sau khi ly dị mỗi người tìm nguồn vui thú riêng để thụ hưởng. Mạnh ai nấy sống buông thả. Hoặc giả vì bận lo cho sự sống mới, nên cha hay mẹ họ cũng không có thời giờ để ý quan tâm tới họ nữa.
Từ đó, họ không còn thiết tha gì đến sự sống. Họ buồn nản chán đời. Vì khi va chạm thực tế với đời, họ thấy toàn là đen tối, gian dối, lừa bịp, cướp đoạt tranh giành sự sống. Đó là chưa nói, khi họ vướng vào những tệ nạn: xì ke ma túy, băng đảng, trộm cướp, giết người v.v… Họ đã đi đến mức đường cùng, không còn cách nào để giải quyết. Đường hầm của họ hoàn toàn đen tối, không thấy ánh sáng, dù họ đã đi cuối đường hầm của cuộc sống.
Bấy giờ, họ nhìn thấy ai cũng ghê tởm. Họ đâm ra chán ngấy tất cả. Nhìn lại gia đình, thì hoàn toàn đã mất mát. Nhìn lại bạn bè, người thân, mọi người đều xa lánh họ. Xã hội thì giăng đầy cạm bẫy. Tình yêu thì toàn là giả dối lường gạt. Họ hoàn toàn hụt hẫng mất hết tất cả, họ không còn gì để bám víu tựa nương. Từ đó, một ý tưởng đen tối đến với họ. Chỉ có cái chết mới có thể giải quyết hết mọi việc rắc rối vấn vương. Thế là, họ phải tìm mọi cách để kết liễu cuộc đời.
Trước thảm trạng bi đát tang thương đó, các bậc làm cha mẹ, các vị lãnh đạo tinh thần, các nhà lương tâm xã hội, các nhà có trách nhiệm giáo dục, các vị nghĩ gì và làm gì để làm giảm bớt tình trạng tự tử đen tối của những thanh thiếu niên nam nữ hiện nay? Xin mọi người hãy tìm phương cách chạy chữa, nhất là đối với các bậc phụ huynh. Chỉ có mái ấm hạnh phúc gia đình, mới thực sự là một món quà lớn nhất, trong các thứ món quà mà cha mẹ thương tặng cho con. Xin các bậc làm cha mẹ hãy bình tâm suy xét và gạt bỏ mọi vị kỷ tỵ hiềm cá nhân để cùng nhau xây dựng lại mái ấm hạnh phúc gia đình. Đó là một phương thuốc kỳ diệu vô giá chữa lành căn bệnh tự tử cho tuổi trẻ hiện nay.
Trở lại Pháp cú trên Phật nói: “Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó”. Phật nói đã được làm người là cái khó thứ nhất, vì trong sáu đường: Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì cõi người là dễ tu tiến hơn hết. Từ cõi người tiến lên Thánh quả nhanh hơn so với các cõi kia. Đó là cái khó thứ nhất mà chúng ta đã có được phải khéo gìn giữ để tiến tu.
Tuy đã được thân người, nhưng cũng không phải dễ nghe được Chánh pháp. Chánh pháp là những lời Phật Tổ dạy đúng theo chân lý. Chỉ có Chánh pháp mới đưa con người ra khỏi vòng sanh tử khổ đau. Không phải ai cũng nghe được Chánh pháp Phật dạy. Một khi nghe theo tà thuyết ngoại đạo, thì ôi thôi! chúng ta sẽ sa đọa vào con đường khổ không biết bao giờ mới được thoát ra. Cho nên Phật nói nghe được Chánh pháp là khó.
Cái khó kế tiếp là gặp Phật ra đời. Cái khó nầy quả thật là khó. Khi Phật ra đời, thì chúng ta đã bị trầm luân, không biết ở đâu và làm thân con gì. Nay được thân nầy, thì Phật đã nhập diệt. Tuy nhiên, dù chúng ta ra đời không gặp Phật, nhưng bù lại, chúng ta cũng có chút phước duyên còn gặp được Phật pháp. Nếu chúng ta y cứ theo lời Phật dạy mà nỗ lực ứng dụng tu hành, thì chúng ta cũng sẽ được giác ngộ giải thoát. Phật ra đời bằng ứng thân ở Ấn Độ, thì chúng ta không gặp. Nhưng Phật pháp thân, thì chúng ta không phải là không gặp được. Chỉ cần một giây phút nào đó, tâm ta thật yên lặng sáng suốt, không phóng nghĩ quá khứ, vị lai, thì ngay giây phút đó là ta đã thực sự gặp Phật của ta rồi. Đó là điều mà chúng ta có thể làm được. Như vậy, đâu phải chúng ta vô phần không gặp được Phật. Vì Phật dạy : mỗi người đều sẵn có tánh Phật. Tức tâm tức Phật. Chỉ cần hồi quang phản chiếu trực nhận cái tâm thể bất sanh bất diệt, ngay đó là Phật rồi, không cần tìm đâu xa. Đó là nguồn an ủi lớn nhất của chúng ta. Mong sao mỗi người chúng ta nên ý thức những điều khó đó mà nỗ lực tu hành chóng được giải thoát.
183. “Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.”
184. “Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người.”Lược giải
183. Chớ làm các điều ác, gắng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Ấy lời chư Phật dạy.
To avoid all evil, to cultivate good, and to cleanse one’s mind – this is the teaching of the Buddhas.
Kệ Tụng
Chớ làm các điều ác
Gắng làm các hạnh lành
Giữ tâm ý trong sạch
Chính lời chư Phật dạy.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu hỏi của Tôn giả A Nan. Một hôm, Ngài A Nan khởi nghĩ: Đức Thế Tôn đã dạy rõ về cha mẹ của bảy đời chư Phật, về thọ mạng, về nơi thành đạo v.v… nhưng Ngài không nói rõ phương cách giáo hóa của bảy đời chư Phật trong ngày Bố tát. Phương cách đó có giống như hôm nay hay là khác nhau? Nghĩ xong, Ngài A Nan liền bạch hỏi đức Phật.
Phật dạy: Chư Phật tuy khác nhau về thời gian bố tát, nhưng tương đồng về lời dạy khi giáo giới. Trước hết, Phật nêu ra bài kệ của Phật Ca Diếp dạy chúng:
Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.
Bài kệ tuy có bốn câu ngắn gọn, nhưng đã gói trọn toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật dạy. Dù cho chư Phật nào ra đời, tất cả cũng đều dạy như thế, nên nói là lời chư Phật dạy. Nếu y cứ vào bài kệ nói trên mà ứng dụng tu hành, thì chắc chắn hiện đời, chúng ta sẽ được an lạc giải thoát. Chỉ ác hành thiện, là người Phật tử luôn luôn ghi nhớ thật hành. Điều quan trọng là phải luôn giữ gìn tâm ý mình cho được thanh tịnh.
Hằng ngày, sở dĩ chúng ta đau khổ nhiều, là vì tâm ta luôn loạn động bất an. Con khỉ ý thức luôn luôn chuyền nhảy, không lúc nào nó chịu đứng yên. Muốn nó đứng yên, Phật dạy có nhiều cách để trị liệu nó. Tham thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì chú v.v… tất cả cũng nhắm vào một mục đích chung là trị con khỉ ý thức nầy. Khi nó đứng yên, thì lúc đó tâm ta mới có được an định. Muốn được như thế, thì Phật dạy người tu phải thường xuyên nhìn lại mình. Có nhìn lại thật kỹ ở nơi mình mới thấy được sự hoạt động mạnh yếu của nó. Nếu chúng ta tu lơ là, không hành trì miên mật, thì thật khó được an định. Bởi vì tâm ta thường phan duyên theo trần cảnh. Nói rõ hơn là nó thích đuổi theo sáu trần, và đắm mê nơi ngũ dục. Đó là những món mồi ngon mà nó thường say mê tìm cầu thụ hưởng. Chính vì thế, mà câu kệ thứ 3 trên Phật dạy ta phải cố gắng chuyển hóa, gạn lọc tâm ý mình cho được thanh tịnh. Có thanh tịnh, thì sự tu hành của chúng ta mới có kết quả an lạc và giải thoát.
184. Chư Phật thường dạy Niết bàn là quả vị tối thượng, nhẫn nhục là khổ hạnh tối cao. Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là xuất gia Sa-môn.
Enduring patience is the highest austerity. “Nibbana is supreme,” say the Buddhas. He is not a true monk who harms another, nor a true renunciate who oppresses others.
Kệ Tụng
Chư Phật thường giảng dạy:
“Nhẫn, khổ hạnh tối thượng
Niết bàn, quả tối thượng
Xuất gia không não người
Sa môn không hại người”.
Theo truyện tích, thì ba Pháp cú 183, 184, 185, là do Ngài A Nan thưa hỏi như trên đã lược qua, mà đức Phật dạy liên tiếp ba Pháp cú nầy.
Phật dạy Pháp cú nầy, ta nên chú ý những từ ngữ: Niết bàn, nhẫn nhục, và xuất gia. Về ý nghĩa của những từ ngữ nầy, chúng ta thấy rải rác trong các Pháp cú trước, Phật cũng đều có đề cập đến. Và chúng tôi cũng đã có giải thích qua. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải thích một cách ngắn gọn thôi.
Phật nói: Niết bàn là quả vị tối thượng, tối thượng đây ý nói là quả vị Niết bàn của hàng A la hán. Vì A la hán do nhân tu diệt hết phiền não mà đạt được Niết bàn vô sanh. Tức các Ngài nầy không còn sanh tử luân hồi nữa. Còn nếu nói bên Đại thừa, thì quả vị tối thượng là chỉ cho quả vị Niết bàn của Phật. Chỉ có Niết bàn của Phật mới được gọi là tối thượng.
Kế đến Phật dạy, người tu hành muốn đạt được quả vị đó, thì mỗi người phải cố gắng thật hành hạnh nhẫn nhục. Có nhẫn nhục mới vượt qua mọi chướng ngại thử thách. Nhẫn nhục với chính mình, nhẫn nhục với người và cảnh vật. Nhẫn nhục không phải là yếu hèn mà trái lại nó là một sức mạnh rất lớn. Nói chung, người tu phải thường xuyên thật hành hạnh nhẫn nhục mới có thể khắc phục chính mình và cảm hóa kẻ khác. Bằng trái lại, thì khó mong đạt thành sở nguyện.
Phật nói: “Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là xuất gia Sa môn”. Bản nguyện của người xuất gia rất cao thượng. Vì muốn độ mình, độ người ra khỏi con đường sanh tử khổ đau mà xuất gia. Với một bản nguyện cao cả như thế, thì làm sao lại não hại người khác? Vì còn khởi ý niệm não hại đó là tâm ác độc. Tu hành theo hạnh xuất thế, mà còn nuôi dưỡng cái tâm ác độc đó, thì sao gọi là xuất gia? Vì xuất gia là phải ra khỏi ba cõi. Nói cách khác, người xuất gia là phải ra khỏi ba nhà. Mà cái nhà khó ra nhất, đó là nhà phiền não. Hằng ngày phải tâm nguyện ra cho khỏi nhà nầy. Tất cả pháp môn Phật dạy, mục đích, cũng đều muốn người xuất gia ra khỏi ngôi nhà nầy. Đã thế, thì làm sao còn có ác ý khởi tâm hại người? Nếu ai còn có cái tâm độc ác nầy, thì không phải là người xuất gia vậy.
185. “Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy.”
186. “Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí.”
187. “Ðệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt.”Lược giải
185. Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinh nghiêm, uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh, siêng tu tập thiền định. Ấy, lời chư Phật dạy.
Not despising, not harming, restraint according to the code of monastic discipline, moderation in food, dwelling in solitude, devotion to meditation – this is the teaching of the Buddhas.
Kệ Tụng
Chớ phỉ báng, não hại
Hãy hộ trì giới bản
Ăn uống có tiết độ
Sống tại nhàn tịnh xứ
Tâm chuyên tu thiền định
Ấy lời chư Phật dạy.
Lược giảng
Để hiểu Pháp cú nầy dễ hơn, chúng ta tạm chia ra thành 2 câu:
1. Phật dạy: “Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinh nghiêm”.
Phỉ báng là chê bai, bài xích, công kích, xuyên tạc, nói xấu v.v…Đây là loại ác ngữ mà người biết chút ít tu hành không ai sử dụng đến. Vì họ biết rõ, khi thốt ra những lời nầy là đã hại mình trước rồi. Nhất là lại phỉ báng người giữ giới luật tinh nghiêm. Dù người đó là xuất gia hay tại gia, chúng ta cũng không nên có ý niệm khinh thường chê bai. Chỉ có người ngu muội, ganh tỵ mới có ác ý chê bai như thế. Người hiểu rõ luật nhân quả, họ rất cẩn trọng ở nơi ý nghĩ, lời nói và việc làm. Họ là người khéo gìn giữ ở nơi ba nghiệp. Đã thế, thì làm sao họ dám buông lời nói nặng người giữ giới tu hành.
2. Phật dạy tiếp: “Uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh, siêng tu tập thiền định”.
Uống ăn chừng mực, điều nầy rất có lợi cho sức khỏe. Vì người tu hành, thường phải ngồi thiền nhiều, nếu ăn no quá thì rất trở ngại cho việc hành trì. Ngoài việc lợi ích cho công phu bái sám ra, nó còn lợi ích cho sức khỏe của chúng ta rất lớn. Vì ngày nay, các bác sĩ thường khuyên chúng ta nên chăm sóc sức khỏe bằng cách ăn uống cho có điều độ chừng mực. Không nên lúc gặp thức ăn ngon, thì ăn nhiều quá độ, có hại cho bao tử. Ăn như thế, thì thật là có hại cho sức khỏe. Có người vì bận với công việc làm, nên họ ăn uống giờ giấc rất bất thường. Lúc thì ăn quá sớm, khi thì ăn quá trễ, cứ thế, sức khỏe khó được ổn định. Người xưa nói: “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Thiết nghĩ, lời nói nầy vẫn còn có giá trị muôn đời. Vì đây là kinh nghiệm của người xưa. Tất cả những chứng bệnh gây ra, phần nhiều là do ăn uống không đúng phép vệ sinh. Thế nên, thời Phật, Phật và các Thánh chúng mỗi ngày chỉ ăn có một bữa trưa, mà thân thể của các Ngài vẫn mạnh khỏe. Các Ngài ăn bằng tất cả sự có mặt của mình. Ăn trong chánh niệm, không suy nghĩ vẫn vơ như chúng ta. Chúng ta ăn trong hối hả, ăn mà không biết mình đang ăn. Ăn như thế, thật là tội nghiệp cho ta quá!
Nên nhớ, ăn ít, xuống cân, giữ chừng mực, đúng theo giờ giấc, đó là chúng ta khéo biết giữ gìn sức khỏe rồi vậy.
Nhờ ăn uống hợp vệ sinh như thế, nên việc ứng dụng ngồi thiền hay ngồi niệm Phật, hành giả cảm thấy rất an ổn thoải mái. Đói quá cũng khó ngồi yên tu, mà no quá óc ách, thì cũng ngồi tức bụng không tu được. Hành giả muốn ngồi thiền hay ngồi niệm Phật, thì cần phải tìm nơi yên tịnh, có thế, thì sự tu hành mới có kết quả cao.Trong nhà Phật có đề cập đến nhiều loại ăn. Ăn bằng vật chất, gọi là đoàn thực. Loại ăn nầy là để bồi dưỡng cơ thể. Còn ăn về tinh thần, có nhiều thứ. Nhưng có hai thứ mà người tu cần ăn, đó là: “Pháp hỷ thực và Thiền duyệt thực”.
Pháp hỷ là chúng ta ăn qua giáo pháp Phật Tổ dạy. Khi nghe pháp hay lúc đọc tụng kinh điển, mà chúng ta có niềm vui an thoát nhẹ nhàng trong tâm thức, thì đó gọi là pháp hỷ thực. Món ăn nầy rất cần thiết để di dưỡng tinh thần.
Thiền duyệt thực là ăn trong lúc hành giả tham thiền nhập định. Duyệt là vui vẻ tươi mát cả tâm lẫn thân. Đây là một món ăn tối thiết yếu để quân bình giữa thân và tâm. Có tham thiền quán tưởng, tâm mới an định. Tâm có an định thì cuộc sống của chúng ta mới có an lạc hạnh phúc vậy.
186-187. Giả sử mưa xuống bạc vàng cũng chẳng thỏa mãn được lòng tham dục. Người trí đã biết rõ ái dục vui ít mà khổ nhiều. Thế nên, dù sự dục lạc ở cõi trời, người cũng chớ sanh tâm mong cầu. Đệ tử đấng Giác Ngộ chỉ mong cầu diệt trừ ái dục mà thôi.
There is no satisfying sensual desires, even with a rain of gold coins. For sensual pleasures give little satisfaction and much pain. Having understood this, the wise man finds no delight even in heavenly pleasures. The disciple of the Supreme Buddha delights in the destruction of craving.
Kệ Tụng
Dầu mưa vàng mưa bạc
Khó thỏa mãn dục tình
Dục khổ nhiều vui ít
Kẻ trí hiểu như vậy.
Đệ tử bậc chánh giác
Không tìm cầu dục lạc
Dầu ở cõi chư thiên
Chỉ mong tham ái diệt
Lược giảng
Hai Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến thầy Tỳ kheo bất mãn.
Sau khi gia nhập Tăng đoàn, thầy nầy rất tinh tấn tu học và làm tròn phận sự của một người xuất gia. Thầy đi tu không bao lâu, cha thầy lâm bệnh qua đời. Trước khi chết, cha thầy để lại 100 đồng cho người em và căn dặn nhớ đưa lại cho thầy. Khi nhận được tiền, thầy sanh tâm bất mãn sự tu hành. Thầy không muốn tiếp tục tu hành xuất gia kham khổ nữa. Thầy có ý định hoàn tục.
Từ lúc khởi ý định nầy, thầy bỏ bê mọi việc tu hành. Thấy thế, các Tỳ kheo khác trình bày với Phật và Phật gọi thầy để hỏi duyên do. Thầy cho biết là với số tiền nầy, thầy có thể ra ngoài đời sống được. Phật phân tích cho thầy thấy rõ 100 đồng không thắm vào đâu trong việc chi tiêu. Phật còn cho biết thêm, thời quá khứ, các ông vua Chuyển luân thánh vương chỉ vẫy tay là mưa tuôn châu báu xuống, vàng bạc đầy đất. Dù được như thế đó, mà các ông vua nầy khi chết vẫn không mãn ước nguyện. Thế thì, đối với 100 đồng của ông, thử hỏi làm được gì?
Tiền tài, danh lợi thật là nguy hiểm. Người tu hành bị những thứ nầy cám dỗ mà tổn giảm đạo hạnh rất nhiều. Vẫn biết, vật chất, tiền tài, danh vọng, chỉ là những thứ huyễn ảo, phù du không thật. Tuy không thật, nhưng con người còn chất chứa nặng lòng tham lam, thì chúng vẫn còn có hấp lực thu hút phi thường. Chính chúng gây ra lắm điều tai hại trong giới tu hành.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, một thầy Tỳ kheo đang tu hành tinh tấn, sống chung trong Tăng đoàn, bên cạnh còn có sự giáo giới của đức Phật, thế mà chỉ vì có 100 đồng của người cha để lại, mà ông ta muốn bỏ ngang việc tu hành. Tiền tài vật chất thời Phật so với thời đại ngày nay, dĩ nhiên là phải thua kém rất xa. Ngày nay với thời đại khoa học kỹ thuật tiến bộ, có biết bao nhiêu thứ máy móc điện tử tinh vi, nhìn thấy chóa mắt, sức thu hút rất lớn, thế thì, thử hỏi làm sao lòng người không say mê đắm nhiễm cho được?
Đối với người xuất gia đã phát nguyện từ bỏ tất cả, không màng gì đến việc đời, xem tiền tài, danh lợi, vật chất như áng phù vân, như đôi dép bỏ, thế mà vẫn không giữ vững được tâm niệm tu hành trước sức mạnh cám dỗ của ma lực kim ngân. Thế mới biết, sự tu hành đạt được giải thoát không phải là chuyện dễ dàng. Cái gốc của người tu, dù xuất gia hay tại gia, Phật dạy phải chuyên cần gia công diệt trừ phiền não. Dù tu hành lâu năm đến đâu, mà gốc phiền não tham, sân, si, không trừ, thì người đó chưa phải thật sự tu hành.
Dục vọng tham ái là cội gốc của sự sanh tử khổ đau. Vì vô minh mới tham cầu, mới làm thỏa mãn cho dục vọng. Mới có 100 đồng thôi mà thầy Tỳ kheo kia đã muốn sang ngang rồi. Còn bao nhiêu thứ khác của ngũ dục lạc thế gian, liệu người tu có gìn giữ không ham muốn đắm nhiễm được không? Cho nên, theo lời Phật dạy, chỉ có hai con đường khổ vui. Nếu chúng ta chọn con đường khổ, thì tiếp tục làm nô lệ cho dục vọng sai khiến, để thỏa mãn dục tính. Ngược lại, nếu chúng ta muốn đi trên con đường hạnh phúc an vui, thì chúng ta phải đoạn trừ lòng dục vọng.
Bởi vì, vật chất không bao giờ làm thỏa mãn lòng ham muốn của con người. Nếu tiền tài vật chất làm cho con người được an vui hạnh phúc, thì các ông vua không bỏ ngai vàng đi tu. Bằng chứng như đức Phật, như vua Trần Nhân Tôn và các vị vua khác. Dù ở trên ngai vàng, điện ngọc, có biết bao nhiêu thứ dục lạc, để các Ngài vui hưởng lạc thú thỏa thích, thế nhưng các Ngài vẫn phải từ bỏ tất cả.
Tiền tài, danh vọng, địa vị, mỹ nhân, đối với các Ngài toàn là những thứ đau khổ. Chỉ có con đường chuyển hóa hết vô minh phiền não, mới thực sự là giác ngộ giải thoát mà thôi.
188. “Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.”
189. “Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau.”
190. “Ai quy y Ðức Phật,
Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế.”
191. “Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Ðưa đến khổ não tận.”
192. “Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau.”Lược giải
188-192. Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y rừng cây, quy y miếu thờ thọ thần (25), nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên.
Trái lại, quy y Phật, Pháp, Tăng, phát trí tuệ chơn chánh, hiểu thấu Bốn lẽ mầu: Biết khổ, biết khổ
________________
25 Thọ thần: Thọ chi đề (Rkkhacetya) là “ thọ miếu”, vị thọ thần của Ấn Độ tín ngưỡng, lấy cây làm đối tượng sùng bái, như đối với tháp miếu vậy.
nhân, biết khổ diệt, và biết Tám chi Thánh đạo (26) diệt trừ hết khổ não. Đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y được như vậy, giải thoát hết khổ đau.
Driven only by fear, do men go for refuge to many places – to hills, woods, groves, trees and shrines. Such, indeed, is no safe refuge; such is not the refuge supreme. Not bu resorting to such a refuge is one released from all suffering. He who has gone for refuge
to the Buddha, his Teaching and his Order, penetrates with transcendental wisdom the Four Noble Truths – suffering, the cause of suffering, the cessation of suffering, and the Noble Eightfold Path leading to the cessation of suffering. This indeed is the safe refuge, this is the refuge supreme. Having gone to such a refuge, one is released from all suffering.
Kệ Tụng
Loài người vì sợ hãi
Tìm nhiều chỗ quy y
Hoặc cảnh vườn rừng núi
Hoặc cây cối tháp đền.
Chẳng phải chỗ an ổn
Đâu phải chỗ tối thượng
_________________
26 Thánh đạo: Bát chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Nương tựa các chỗ ấy
Không diệt mọi đau khổ.
Ai quy y Phật Đà
Chánh pháp và tăng già
Ai dùng chánh tri kiến
Thấy được bốn diệu đế.
Thấy khổ và khổ tập
Thấy cả sự khổ diệt
Thấy con đường bát chánh
Đưa đến diệt khổ não.
Thật nương tựa an ổn
Thật nương tựa tối thượng
Có nương tựa như vậy
Mới diệt mọi khổ đau.
Lược giảng
Phật dạy 4 Pháp cú trên tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện Bà la môn Aggidatta (A kỳ đạt đa).
Aggidatta là thầy tư tế của vua Mahàkosala, tức vua cha của Ba Tư Nặc. Sau khi vua cha băng hà, ông ta vẫn được vua Ba Tư Nặc trọng dụng. Về già, ông xuất gia tu theo đạo Bà la môn. Ông có số môn đồ rất đông. Phật muốn chuyển hóa ông, nên sai Ngài Mục Kiền Liên đến trước để hàng phục Long vương, vì Long vương là bạn chí thân của ông. Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy đến hàng phục Long vương. Hàng phục xong, các đồ đệ của Aggidatta đều hết sức bái phục quy kính Tôn giả Mục Kiền Liên.
Sau đó, Phật đến và hỏi Aggidatta dạy môn đệ như thế nào? Ông trả lời rằng ông dạy mọi người nương tựa nơi núi rừng, hang động, cây cối. Đó là những nơi nương tựa vững chắc. Nương tựa như vậy các ngươi sẽ thoát khổ đau.
Phật nói: “Không đúng! Nầy Aggidatta! Ai nương tựa vào những nơi ấy không thoát đau khổ. Chỉ có người quy y Phật, Pháp, Tăng mới hoàn toàn thoát khỏi vòng khổ đau”. Nhân đó, Phật nói 4 Pháp cú nầy. Nói xong, mọi người đều xin quy y theo Phật và không bao lâu Aggidatta chứng quả A la hán.
Từ ngàn xưa, con người đứng trước mọi hiện tượng thiên nhiên, họ đều sanh tâm sợ hãi. Họ cho rằng, mỗi một hiện tượng như: đất, đá, núi, rừng, trời, biển, cây cối, sấm sét v.v… mỗi mỗi đều có một vị Thần ngự trị. Do đó, muốn cho đời sống được yên ổn, họ phải cúng tế lo lót cho các vị Thần. Tức là họ không dám làm những điều sai trái sợ bị các vị Thần quở phạt.
Từ đó, họ hết lòng quy kính nương tựa. Đại biểu như Bà la môn Aggidatta đã dạy môn đệ phải quy kính nương tựa với các hiện tượng đó. May mắn thay! Aggidatta và các đồ đệ đã được đức Phật giáo hóa kịp thời, nên tất cả đều trở về với con đường Chánh đạo. Nhưng trước khi họ quy phục theo Phật, phải trải qua một cuộc trổ tài thi thố thần thông giữa Tôn giả Mục Kiền Liên và Long vương.
Từ trước, họ kính trọng tôn sùng Long vương rất mực. Vì Long vương hiện ra nhiều phép lạ thần thông mà họ chưa từng thấy. Nhưng sau khi qua cuộc đọ sức tranh tài, họ mới biết thần thông biến hóa của Long vương không qua nổi Tôn giả Mục kiền liên. Họ tự nghĩ, đệ tử Phật còn như thế, thì Phật còn cao hơn gấp mấy ngàn lần.
Do nghĩ thế, nên khi họ thấy Phật đến, tất cả đều bái kính xin quy y theo Phật. Đó cũng là một phương tiện giáo hóa thời Phật. Vì thời Phật có rất nhiều ngoại đạo, họ tu luyện theo tà giáo có nhiều phép lạ. Và họ rất tin tưởng vào các vị Thần linh. Nếu không sử dụng thần thông như thế, thì Phật không bao giờ nhiếp phục được họ.
Qua những câu Pháp cú trên, Phật đã minh định lập trường rất rõ, chỉ có nương tựa vào Tam Bảo con người mới thoát khỏi khổ đau. Bởi vì, nương tựa vào ngoại cảnh, tất cả đều sinh diệt vô thường. Không có một hiện tượng nào thoát khỏi định luật vô thường. Trong kinh Kim Cang Bát Nhã Phật dạy:
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Ý nghĩa của bài kệ Phật dạy: mọi người phải thường xuyên quán sát các pháp hiện đời, những vật có hình tướng, thảy đều như chiêm bao, như bóng, như bọt, như lằn điện chớp, như sương mốc, không có gì là bền chắc. Như thế, nương tựa bám chặt vào những hiện tượng vật chất đó, thì không khổ sao được?
Phật dạy, chỉ có con đường thoát khổ là phải nương tựa với Tam Bảo bên ngoài và Tam Bảo tự tâm. Nghĩa là người Phật tử phải quy y cả “Sự” lẫn “Lý”. Sự là người Phật tử phải nương tựa vào Phật, vì Phật là một bậc Thầy giác ngộ hoàn toàn. Ngài chỉ cho chúng ta con đường giải thoát. Nương tựa vào Pháp, vì giáo pháp Phật dạy có công năng đưa chúng ta ra khỏi phiền não mê lầm. Nương tựa với Tăng, vì đó là những bậc tu hành chơn chánh hướng dẫn chúng ta đi theo con đường chánh lý Phật dạy.
Người Phật tử nên ý thức rằng, nương tựa với Tam Bảo bên ngoài là để làm sáng tỏ Tam Bảo tự tâm. Vì trong mỗi chúng ta, ai ai cũng có Phật, Pháp, Tăng. Chính Tam Bảo tự tâm mới cứu chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ. Nếu chúng ta chỉ một bề ỷ lại vào Tam Bảo bên ngoài, thì muôn đời chúng ta vẫn bị trầm luân khổ hải, vì Tam Bảo bên ngoài không cứu được chúng ta. Chính mình mới cứu được mình.
Thí như mình ghiền cờ bạc hay say sưa hút xách, Phật, Pháp, Tăng, bên ngoài có cứu được mình không? Phật, Pháp, Tăng, chỉ dạy khuyên mình nên ý thức tai hại của sự nghiện ngập, không nên mê say đắm nhiễm. Mình không chịu nghe và làm theo, như thế thì thử hỏi làm sao Tam Bảo cứu mình nỗi?
Nếu mình nghe Phật dạy mà thật hành theo, quyết lòng cai bỏ, thì đó là mình đã tự cứu lấy mình rồi. Cho nên, Tam Bảo bên ngoài chỉ là trợ duyên tốt cho mình thôi. Tất cả khổ hay vui đều do mình định đoạt lấy. Hiểu và hành như thế, đó mới thực sự là người Phật tử chơn chánh học Phật. Bằng không, chỉ ỷ lại nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, thì đó là ta rơi vào mê tín. Tin và chạy theo bên ngoài như thế, thì đó chỉ là một việc làm hoài công vô ích! Vì các Ngài không cứu thoát được mình khỏi khổ đau.
Xin tất cả hãy nghe theo lời Phật dạy mà mỗi người hãy mạnh dạn đứng lên để tự cứu thoát lấy chính mình. Cứu thoát bằng cách nào? Bằng cách nương theo Tứ diệu đế: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, nhất là phải chịu khó nghiên tầm học hỏi và thật hành Bát chánh đạo, tám con đường chơn chánh đưa chúng ta thoát khỏi khổ đau. Có áp dụng đúng theo lời Phật dạy như thế, thì chúng ta mới được an ổn lợi lạc trong hiện đời và mai sau vậy.
193. “Khó gặp bậc thánh nhơn,
Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh,
Gia đình tất an lạc.”
194. “Vui thay, Phật ra đời!
Vui thay, Pháp được giảng!
Vui thay, Tăng hòa hợp!
Hòa hợp tu, vui thay!”Lược giải
193. Rất khó gặp được bậc Thánh nhơn, vì chẳng phải thường có. Phàm ở đâu có vị Thánh nhơn ra đời thì gia tộc đó được an lành.
Hard to find is the thoroughbred man (the Buddha); he is not born everywhere. Where such a man is born, that clan thrives happily.
Kệ Tụng
Khó gặp bậc thánh nhân
Không phải đâu cũng có
Chỗ nào kẻ trí sanh
Gia đình tất an lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu hỏi của Tôn giả A nan.
Một hôm, Ngài A nan thầm nghĩ, đức Phật từng dạy về dòng dõi của những loài voi, ngựa và bò quý. Phật nói: những con voi cao quý sanh ra từ giống Chaddanta hay giống Uposatha, còn ngựa cao quý thường phát sanh từ giốngValahaka là dòng ngựa chúa, và con báo cao quý thì sanh ra từ dòng giống Dekkan. Không biết con người cao quý xuất phát từ đâu? Nghĩ xong, Tôn giả liền đến đảnh lễ bạch trình hỏi Phật về vấn đề trên.
Phật dạy: “Người cao quý không thể sinh ra ở bất cứ nơi nào, mà phải sinh trong phạm vi đường kính 300 dặm, cùng chu vi 900 dặm của thủ đô một nước. Và không phải sinh ra ở bất cứ gia đình nào, mà phải là gia đình thuộc dòng Sát đế lỵ hay Bà la môn”. Dạy xong, Ngài liền nói Pháp cú nầy.
Cùng sanh ra đời, nhưng nghiệp báo của mỗi loài đều khác nhau. Cùng là đồng loại, nhưng nghiệp báo cũng sai khác nhau rất nhiều. Như trong phạm vi loài người, cùng là con người, nhưng tại sao có người vầy người khác? Kẻ thì thông minh, người thì đần độn. Người thì giàu sang, kẻ lại nghèo hèn. Kẻ thì sung sướng suốt đời, người thì cực khổ cháy da phỏng trán. Người thì cao lớn, đẹp đẽ, kẻ thì thấp lùn, xấu xí. Kẻ thì lành lặn, người lại tật nguyền v.v…
Tất cả sự sai khác nầy do đâu? Phật dạy, là do nghiệp nhân gây tạo từ trong quá khứ bất đồng. Cho nên sự có mặt của con người hiện nay là kết quả của nghiệp báo mà chúng ta đã gây tạo thiện hay ác từ nhiều kiếp trước. Đó là theo luật nhân quả. Trong khi thọ báo thân nầy, rồi tiếp tục tạo nghiệp lành dữ mà có quả báo sai khác tiếp nối đời sau.
Vấn đề nhân quả nghiệp báo, thiết nghĩ, chúng ta cũng đã biết qua. Ở đây, chúng tôi không muốn bàn nhiều.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, Phật đã trả lời câu hỏi của Ngài A nan về vấn đề cao quý của sự khác biệt giữa con người và con vật. Con vật dù có cao quý đến đâu, cũng chỉ trong phạm vi nghiệp báo của chúng nó mà thôi. Ngược lại, sự cao quý của con người khi sinh ra thì có khác. Nghiệp báo của loài người, dĩ nhiên, phải cao quý hơn loài vật nhiều. Cao quý về mọi phương diện. Tuy nhiên, trong tâm thức của mỗi con người, vẫn có tính xấu ác của con vật. Nếu nhơn tính của con người mất đi, thì thú tính sẽ hiện ra. Sở dĩ con người còn hơn con vật là vì con người còn giữ gìn được nhơn tính.
Sinh làm người đã là khó, mà được sinh ra ở nơi thủ đô cũng lại là điều khó, rồi được sinh trong dòng dõi vua chúa hay trong dòng quý phái vọng tộc, thế phiệt trâm anh, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Nếu đời trước không có tu nhân tích đức, làm lành bố thí nhiều, thì đời nầy làm gì sinh ra đời được như thế? Vì người sinh ra giữa kinh đô ánh sáng, dĩ nhiên, có đời sống văn minh văn hóa cao, so với những người kém may mắn hơn. Có những người kém phước báo, nên họ sanh ra ở những nơi nước mặn đồng chua hay nơi khỉ ho cò gáy. Dĩ nhiên, mức sống và các thứ tiện nghi, cũng như kiến thức của họ ở những nơi nầy làm sao có thể so sánh được như người dân ở kinh đô. Cho nên sinh ra ở thủ đô phải là con người có gieo trồng phước đức mới có được. Đã thế mà được sinh trong gia đình có địa vị cao, giàu sang hơn người, thì lại càng có phước hơn. Câu chuyện trên, Phật so sánh cái phước báo có hơn kém là như thế. Phật dạy, người nào muốn có được như thế, thì phải gắng công lo tu tạo phước đức.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy, sinh ra làm người không dễ gì gặp được bậc Thánh nhân ra đời. Vì Thánh nhân là người có đạo đức cao và luôn làm lợi ích cho mọi người. Nhờ thế, mà con người noi theo đức hạnh của vị Thánh nhân đó mà dốc chí tu hành sẽ được lợi lạc rất lớn. Nơi nào có những bậc cao đức dễ thương xuất hiện, thì nơi đó sẽ có được lợi lạc an vui rất nhiều.
Trong gia đình, nếu cha mẹ biết tu hành, khéo dạy dỗ con cái, thì gia đình đó ắt có hạnh phúc. Trong xóm làng, có người biết tự tu, có đức hạnh khá, hay làm lợi ích cho mình và người, thì xóm làng đó sẽ được an vui. Xã hội chúng ta đang sống, rất cần những hạng người cao đức đó xuất hiện.
Nếu mỗi người khéo biết chuyển đổi tâm thức hướng thiện, xây dựng nếp sống đạo đức từ bản thân đến gia đình và xã hội, thì mỗi người sẽ là một Thánh nhân nho nhỏ rồi. Thế là xã hội không muốn an bình cũng sẽ được an bình.
194. Hạnh phúc thay đức Phật ra đời; hạnh phúc thay diễn nói Chánh pháp; hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp, hạnh phúc thay dõng tiến đồng tu.
Blessed is the birth of the Buddhas; blessed is the enunciation of the sacred Teaching; blessed is the harmony in the Order, and blessed is the spiritual pursuit of the united truth-seekers.
Kệ Tụng
Sướng thay! Phật ra đời!
Sướng thay! Pháp được giảng!
Sướng thay! Tăng hòa hợp!
Sướng thay! Chúng đồng tu!
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số thầy Tỳ kheo.
Một hôm năm trăm Tỳ kheo ngồi ở pháp đường và bàn luận:
- Chư hiền, điều gì là hạnh phúc nhứt trên đời?
Người thì nói:
- Không có gì hạnh phúc bằng làm vua.
Người khác nói:
- Chỉ có tình yêu là hạnh phúc nhứt.
Còn có người nói:
- Chỉ có ăn ngon là hạnh phúc nhứt.
Đức Phật đi đến chỗ các thầy và nói:
- Các ông ngồi đây bàn tán về vấn đề gì?
Các Tỳ kheo kể lại, Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo! Các ông nói thế nào? Tất cả các hạnh phúc các ông vừa kể đều nằm trong vòng luân hồi khổ đau.
Ngược lại, gặp Phật ra đời, được nghe chánh pháp, sống thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng đoàn, những điều ấy là hạnh phúc nhất. Nhân đó Phật nói Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 369)
Qua câu chuyện trích dẫn trên, ta thấy, những thứ hạnh phúc mà các thầy Tỳ kheo nêu ra, Phật cho đó là những thứ hạnh phúc giả trá tạm bợ đưa con người vào vòng luân hồi đau khổ. Ở đời, có hai thứ uy quyền: uy quyền về tiền bạc và uy quyền về tâm linh. Uy quyền về tiền của vật chất, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người hạ, tiền hô hậu ủng, có lẽ trên đời không ai hơn ông vua, hay ông Tổng thống. Còn uy quyền về tâm linh, thì có lẽ không ai hơn những nhà thực sự chơn chánh tu hành, mong cầu thoát ly sanh tử. Vì đối với những vị nầy, họ coi tiền bạc vật chất, chẳng có ra gì. Đây là cái quyền uy chỉ có ở những con người có tâm hồn cao thượng, tự do phóng khoáng. Tất cả chỉ vì mục đích giác ngộ giải thoát mà thôi. Ngược lại, quyền uy của một ông vua, hay của những nhà tỷ phú, thực sự họ có sung sướng hay không? Hay tâm hồn của họ vẫn luôn bị đau khổ bất an, thua một người dân nghèo có nếp sống bình thường. Nếu so về tiền bạc, vật chất, thì họ không thể nào dám so sánh. Nhưng nếu so về đời sống hạnh phúc của tinh thần, thì ông vua hay tỷ phú, chưa chắc có đời sống an vui thoải mái như họ. Không có ông vua và nhà tỷ phú nào mà không có những nỗi khổ niềm đau bức xúc, khó thở. Có những nhà tỷ phú, họ chưa bao giờ có thời giờ rảnh rỗi, ngồi uống một chung trà thảnh thơi thoải mái như một người nông dân bình thường, chớ chưa nói đến một ông thầy tu chơn chánh đạo hạnh.
Được ăn những thứ sơn hào, cao lương mỹ vị, bên cạnh đó còn có mỹ nhân hầu hạ, người đời ai lại không thèm khát. Nếu những thứ đó thực sự là hạnh phúc, thì chắc chắn các ông vua không bỏ ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan đi tu? Và cũng không phải chịu sống kham khổ trong việc tu hành.
Ngày nay, những thức ăn càng ngon miệng, béo bổ nhiều chừng nào, thì con người càng gây ra nhiều chứng bệnh nan y chừng nấy. Và đưa đến cái chết như trở bàn tay. Thế thì ăn ngon, chỉ qua khỏi cổ là hết hạnh phúc rồi.
Tình yêu có thực sự là hạnh phúc không? Nếu thực sự là hạnh phúc, thì tại sao người ta lại ly hôn, ly dị nhiều quá. Đó là chưa nói, vì tình yêu mà người ta lại chán đời quyên sinh tự tử. Tình yêu, thoáng nhìn, người ta ngỡ rằng chắc là hạnh phúc lắm, nhưng khi nếm mùi rồi mới thấy muôn điều hệ lụy đắng cay. Bởi thế, mà nhà thơ Xuân Diệu mới than thở trong bài thơ Yêu:
Yêu, là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu,
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết.
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
Yêu, là chết ở trong lòng một ít !
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu:
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít !
Khi thốt lên lời than thở nầy, chắc là thi nhân đã nếm hương vị chua chát của tình yêu rồi!
Một thi nhân nào đó cũng đã nói:
Tình yêu sương khói giữa trời
Long lanh cát bụi gọi mời lầu mây
Thoáng qua hương thắm đông đầy
Sầu vương để lại một ngày nắng thơ.
Tình yêu rốt lại, chỉ còn là sương khói, lầu mây, sầu vương, tất cả đều là giả dối không thật. Thoáng qua, người ta cũng cảm thấy hương thắm ngọt ngào đông đầy lắm, nhưng cuối cùng chỉ để lại những u buồn, tủi hận, mất đi ngày đẹp nắng thơ rồi!
Thế thì, những thứ mà người đời đam mê tham đắm, cho là hạnh phúc đó, Phật nói tất cả đều là hệ lụy khổ đau. Vì tham đắm mà tạo nghiệp, nên chúng sanh đi mãi trong vòng sanh tử luân hồi.
Phật nêu ra những thứ hạnh phúc mà người đời khó được. Hạnh phúc trước nhất, là gặp Phật ra đời. Thật đây không còn thứ hạnh phúc nào bằng. Vì gặp Phật ra đời, nghe được những lời Phật dạy, sống trong một đoàn thể hòa hợp, thế thì còn gì hạnh phúc hơn! Ngày nay, đối với những thứ hạnh phúc nầy không phải là chúng ta không có. Nếu nói về Phật ứng thân ra đời, thì chúng ta không gặp được. Nhưng nếu là Phật pháp thân, thì người nào lại không có.
Khi nào tâm ta lắng đọng, mọi phiền não cáu bợn không có, thì ngay giây phút đó là ta gặp Phật ra đời rồi. Như vậy, trong giây phút mà ta không suy niệm gì hết, chỉ còn có cái “Biết” hiện tiền, đó không phải là hạnh phúc tuyệt vời lắm sao? Thế thì ta đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu nữa chớ?
Nếu ta biết sống ngay trong giây phút hiện tại, thì ta sẽ tìm thấy hạnh phúc trong từng hơi thở và mỗi nhịp đập của trái tim cũng như trong mọi hành động, việc làm. Đó là ta đã có một niềm vui tràn đầy. Sống trong một đoàn thể ai nấy cũng hằng sống trong chánh niệm như thế, thì còn gì nói đến hòa hợp hay không hòa hợp? Vì thực chất đã là hòa hợp rồi kia mà! Nếu như mọi người ai nấy đều cố gắng tu tiến như thế, thì còn gì hạnh phúc cho bằng! Thử hỏi thế gian nầy có gì sánh kịp?
195. “Cúng dường bậc đáng cúng,
Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận,
Ðoạn diệt mọi sầu bi.”
196. “Cúng dường bậc như vậy,
Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy,
Không ai ước lường được.”Lược giải
195-196. Kẻ nào cúng dường những vị đáng cúng dường, hoặc chư Phật hay đệ tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏi hối hận lo âu, công đức của người đã cúng dường các bậc tịch tịnh vô úy ấy, không thể kể lường.
He who reveres those worthy of reverence, the Buddhas and their disciples, who have transcended all obstacles and passed beyond the reach of sorrow and lamentation – he who reveres such peaceful and fearless ones, his merit none can compute by any measure.
Kệ Tụng
Cúng dường bậc đáng cúng
Chư Phật hoặc đệ tử
Vượt ngoài các ma chướng
Trừ diệt mọi ưu tư.
Cúng dường bậc như vậy
Bậc tịch tịnh, vô úy
Công đức thật vô lượng
Không gì so sánh kịp.
Lược giảng
Phật nói hai Pháp cú nầy có liên hệ đến câu chuyện ngôi đền vàng của Phật Ca Diếp.
Trên đường du hóa, Phật ghé lại làng Todeyya và Ngài vào trong tháp ngồi nghỉ chân. Gần đấy, có một Bà la môn đang cày bừa, Phật bảo Tôn giả A Nan mời ông ta đến. Khi vào, ông ta không chào hỏi Phật mà chỉ làm lễ ngôi đền. Phật hỏi duyên cớ, ông nói: vì ngôi đền nầy đã có từ lâu, nên ông luôn tôn kính. Phật khen ngợi ông làm rất đúng.
Sau đó, Phật dùng thần thông hiện ra một trái núi bằng vàng giữa không trung, nơi ấy hiện ra bảo tháp của đức Phật Ca Diếp cao một dặm.
Kế tiếp Phật dạy, trong thế gian có bốn hạng người đáng tôn kính: Phật, Bích Chi Phật, A la hán và Chuyển luân vương. Đây là bốn hạng người đáng xây tháp cúng dường. Rồi, Phật liền dạy hai Pháp cú nầy.
Nghe xong, người Bà la môn chứng sơ quả (Tu đà hoàn). Ngôi tháp vàng hiện trong bảy ngày và dân chúng trong làng kéo nhau đến chiêm ngưỡng kính bái cúng dường.
Cúng dường là một pháp tu của người Phật tử. Trong mười Đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, nguyện thứ ba là“Quảng tu cúng dường”. Nghĩa là cúng dường rộng khắp không phân biệt thân sơ. Cúng dường khác với bố thí. Cúng dường mang ý nghĩa trân quý đối với đối tượng mình dâng cúng. Như nói cúng dường Tam Bảo hay cúng dường chư Tăng. Không ai nói bố thí Tam Bảo hay bố thí chư Tăng. Ngược lại, người ta hay nói bố thí cho những kẻ tàn tật cơ hàn, không ai nói cúng dường. Tuy nhiên, nói thế, không có nghĩa là đối tượng để mình bố thí không được trân kính. Vẫn kính trọng, nhưng so với nghĩa cúng dường, thì người cúng dường phải có tấm lòng tha thiết cung kính đối tượng mà mình trân quý cúng dường hơn. Đó là phân biệt đại khái sự sai khác ý nghĩa giữa cúng dường và bố thí.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, Phật khen ngợi vị Bà la môn, khi gặp Phật, ông không chào hỏi Phật trước, mà ông lễ bái đền thờ trước. Họ xem đền thờ là linh hồn của họ, vì đã trải qua nhiều đời dân làng tôn kính. Hình ảnh đó nó đã gắn liền ăn sâu vào tâm thức của người dân. Họ rất cung kính trân quý bảo tồn đền thờ như mạng sống của họ. Nhìn bề ngoài, ta đánh giá như là họ mê tín, nhưng kỳ thật nhìn sâu vào ta mới thấy được khía cạnh của đời sống tâm linh. Họ trân quý bảo tồn những gì mà tổ tiên của họ đã dày công tạo dựng. Mất đền thờ là mất chỗ tựa nương linh hồn của họ. Nhờ đền thờ mà họ nối kết được tấm lòng yêu thương gắn bó trong tinh thần đoàn kết bảo vệ quốc gia dân tộc.
Cũng như ngôi chùa của quê hương ta đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng gắn bó thiết thân trong nếp sống hài hòa tình tự dân tộc. Bảo vệ ngôi chùa là bảo vệ tinh thần đoàn kết của dân tộc. Bởi vì:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã nói:
… Dân tộc ta không thể nào thua
Đạo Phật ta đời đời sáng lạn
Dầu trải qua mấy phân ly tán
Nhưng vẫn còn núi còn sông
Còn chót vót mãi ngôi chùa.
Đó cũng là một nếp sống văn hóa sinh tồn thiết thân của người dân. Vì thế, mà Phật khen ngợi Bà la môn nầy.
Phật nói: trong thế gian nầy, có bốn hạng người được xứng đáng cho chúng ta cung kính cúng dường: Phật, Bích Chi Phật, A la hán và Chuyển luân vương. Trong bốn hạng người nầy, chỉ trừ Chuyển luân vương ra, còn ba vị kia đã hoàn toàn dứt hết phiền não lậu hoặc. Các Ngài đã được tự tại giải thoát. Riêng Chuyển luân vương, nói đủ là Chuyển luân thánh vương, vị vua nầy làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu thuộc núi Tu di. Cõi nước vị vua nầy giàu đẹp, nhân dân an lạc, vua đi xe báu có đầy đủ bảy báu. Vị vua nầy có công đức rất lớn là luôn luôn hộ trì Chánh pháp và truyền bá Chánh pháp. Cho nên, cũng xứng đáng được cung kính cúng dường.
Người Phật tử cúng dường đối với những bậc tu hành chơn chánh thanh tịnh thoát ly mọi dục vọng, thì được phước báo vô biên. Đó là nói cúng dường theo nghĩa sự tướng bên ngoài. Còn cúng dường theo nghĩa lý tánh bên trong, là lúc nào tâm ta được an tịnh, không có phiền não dấy khởi, chính lúc đó là ta đang cúng dường Tam Bảo tự tâm.
Cúng dường là hằng nuôi lớn pháp thân huệ mạng. Đây mới là nghĩa cúng dường mà Phật thường khuyến khích chúng ta. Người Phật tử có cúng dường cả hai: “Sự” và “Lý” như thế mới thực sự là cúng dường. Nếu chúng ta chỉ biết cúng dường bên ngoài không thôi, thì chưa đúng với ý nghĩa cúng dường Phật dạy. Cúng dường cả hai như thế, thì phước đức và công đức, cả hai mới được vẹn toàn vậy.
Phẩm An Lạc
197. “Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù!”
198. “Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh, giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau.”Lược giải
197. Sung sướng thay chúng ta sống không thù oán giữa những người thù oán. Giữa những người thù oán, ta sống không thù oán.
Happy indeed we live, friendly amidst the hostile. Amidst hostile men we dwell free from hatred.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Không hận, giữa hận thù
Giữa những người thù hận
Ta sống không hận thù
Lược giảng
Duyên do Phật nói Pháp cú nầy cũng như hai Pháp cú liên tiếp 198 và 199, có liên quan đến câu chuyện tranh chấp giữa hai lân bang.
Dân cư trong thành Ca tỳ la vệ và dân cư trong thành Câu lợi (Koliya) có cùng một con sông. Hai bên vì tranh chấp nước trong con sông nầy mà sanh ra tranh giành ấu đả với nhau. Từ việc nhỏ giữa cá nhân, lan rộng đến dân làng và rồi đến cả hai quốc gia. Không ai chịu nhường nhịn ai. Thế là hai nước láng giềng định xua quân đánh nhau. Biết thế, Phật liền dùng thần lực đến can gián. Nhờ sự can thiệp của đức Phật kịp thời, nên hai bên mới chịu hòa giải nhau. Nhân đó, Phật dạy cho họ nghe về những Pháp cú nói trên.
Sống trong một thế giới đầy hận thù tranh chấp, mà ta sống không hận thù, đó là một hạnh phúc rất lớn. Đức Phật là một tấm gương sáng nêu cao tình thương, để mọi người noi gương. Phật thường khuyên dạy: “Chỉ có từ bi mới xóa tan hóa giải được mọi tranh chấp hận thù”.
Câu chuyện lược dẫn trên, chỉ vì tranh chấp với nhau một con sông mà đưa đến hai lân bang sắp sửa đánh nhau. Nếu không có bậc trí huệ sáng suốt như đức Phật kịp thời đến giảng hòa ngăn chặn, thì hậu quả sẽ xảy ra một cuộc chiến tranh tàn sát đẫm máu. Hai bên dân làng từ thương yêu nhau, trở thành đối nghịch thù hận nhau. Việc tuy nhỏ, nhưng không khéo giải quyết sẽ thành lớn chuyện.
Như hai nhà sống sát vách nhau, tương giao qua lại rất thâm tình, nhưng chỉ vì tranh chấp hơn thua với nhau có một tấm vách chung mà phải gây gổ cãi vã và rồi ấu đả nhau. Kết quả, kẻ thì vào nhà thương, người thì bị ngồi tù. Thế mới biết lòng sân hận của con người thật là ghê gớm!
Mới đầu khởi lên, chỉ như một đốm lửa nhỏ, nhưng nếu hai bên không khéo dập tắt, thì nó sẽ trở thành một đám cháy to. Mối thân tình gầy dựng với nhau rất lâu, chỉ trong phút chốc không dằn được cơn giận mà nó tan biến trở thành mây khói. Từ đó, hai nhà trở thành thù hận với nhau. Họ ra vô không ngó mặt nhau. Hận thù cứ mãi ngấm ngầm trong lòng mỗi người. Nó đốt cháy tàn phá ghê gớm!
Mỗi người ôm ấp một mối hận khổ mà không ai gỡ ra được. Ra vô không nhìn mặt nhau. Đó là thêm cái khổ oán ghét gặp nhau. Sống gần nhau làm sao tránh khỏi gặp nhau. Muốn hóa giải hận thù và tránh nỗi khổ đau đó, Phật dạy chỉ có một cách giải quyết là mỗi người trong cuộc nên chuyển hóa hạt giống sân hận, rộng lượng cởi mở tấm lòng, tìm hiểu rõ nguyên nhân xảy ra, rồi cùng nhau ngồi lại bàn giải, tìm cách giải quyết cho ổn thỏa êm đẹp. Ai gây ra lỗi trước thì thành thật xin lỗi. Và người kia cũng phải rộng lòng cởi mở tha thứ. Và mỗi người nên hiểu, thương yêu thông cảm nhau hơn.
Chỉ có thế, mới chấm dứt hận thù khổ đau mà thôi. Ngoài ra, không có một phép lạ nào khác. Chúng ta cột nhau lại, thì chính chúng ta cũng phải tự cởi ra. Không ai cột trói và mở ra cho mình được. Hơn ai hết, người Phật tử phải sống có trí huệ và tình thương. Đó là hai yếu tố xây dựng hạnh phúc cho nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thiếu hai yếu tố nầy, đời sống của chúng ta thật là đau khổ.
Một khi lửa sân hận nổi lên, nhỏ thì đốt cháy cá nhân với cá nhân, lớn thì đoàn thể với đoàn thể, lớn nữa thì quốc gia với quốc gia. Hận thù không những xảy ra cho người đời không thôi, mà ngay cả trong lãnh vực tôn giáo vẫn xảy ra. Và xảy ra một cách rất thê thảm trầm trọng. Đó là chiến tranh tôn giáo mà lịch sử đã chứng minh. Một cuộc chiến tranh chỉ vì hận thù truyền kiếp mà gây ra cảnh tàn sát nhau khốc liệt. Cho đến nay, hận thù nầy vẫn còn âm ỉ cháy hoài và chưa biết đến bao giờ mới thực sự dập tắt hẳn.
Pháp cú trên, Phật dạy người Phật tử sống không nên gây thù oán. Sống không có thù oán là cuộc sống được an vui giải thoát. Đi đâu cũng không sợ ai hãm hại, vì mình không gây thù oán với ai. Lỡ gây ra làm phiền ai, bằng lời nói hay hành động, chúng ta lập tức xin lỗi hóa giải ngay. Không nên để trong lòng của mình và người có mầm mống phiền não không vui. Đó là ta khéo dùng trí huệ và tình thương để xóa bỏ hận thù.
Trong đời sống hằng ngày, ít nhiều gì ta cũng có gây ra cho người khó chịu. Ta chỉ cần khéo xử sự trong khi giao tiếp, thì mọi việc sẽ không gây ra tác hại. Đừng khinh thường việc ác nhỏ, chính nó sẽ gây ra lớn chuyện sau nầy. Nghe theo lời Phật dạy, ta cố gắng dẹp bớt lòng tự ái vị kỷ, để mở rộng tấm lòng bao dung, rộng lượng, thương người. Có hiểu, thương, mới có cảm thông nhau. Và như thế là ta đã gieo hạt giống hạnh phúc cho ta và người. Hãy tưới tẩm hạt giống tình thương, hỷ xả cho ta mỗi ngày mỗi thêm lớn. Có thế, thì ta mới thực sự có cuộc sống hạnh phúc. Rồi từ đó, ta mang hạnh phúc gieo rắc đến cho mọi người.
198. Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh giữa những người tật bệnh. Giữa những người tật bệnh, ta sống không tật bệnh.
Happy indeed we live, unafflicted amidst the afflicted (by craving). Amidst afflicted men we dwell free from affliction.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Khỏe mạnh giữa ốm đau
Giữa những người tật bệnh
Ta sống không ốm đau.
Lược giảng
Bệnh là một thực trạng trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người: Sanh, già, bệnh, chết, không ai thoát khỏi. Bệnh cũng là một nghiệp quả của con người. Có người từ khi sanh ra, cho đến khi nhắm mắt, không lúc nào được mạnh khỏe. Bệnh trầm kha cứ dây dưa mãi. Có người thì mắc phải chứng bệnh nan y. Đau nhức khổ sở trăm bề. Đi, đứng, nằm, ngồi không yên. Nói đến bệnh của con người thì có trăm ngàn thứ, kể sao cho xiết! Nhưng thứ nào ít nhiều gì cũng gây ra cho người ta khó chịu, đau khổ cả.
Người bệnh tật lúc nào họ cũng ôm ấp nhiều mặc cảm. Họ đâm ra chán đời, có đôi lúc họ không còn thiết tha gì đến sự sống. Sống thì không vui mà chết thì không được. Quả đúng là khổ khổ. Thế nên, trong Pháp cú trên Phật nói: “Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh”. Người có được một cơ thể cường tráng, thì đó quả thật là hạnh phúc. Nhờ có sức khỏe, họ cảm thấy rất yêu đời. Họ rất vui vẻ trong cuộc sống. Đi đâu, ở đâu, họ cũng cảm thấy tươi vui. Họ ăn uống thụ hưởng vật chất bình thường. Được thế, là nhờ đời trước giữ giới không sát sanh hại vật. Đồng thời, cộng thêm cái nhân đời nay khéo giữ gìn phương pháp vệ sinh ăn uống đúng cách, nên mới được như thế.
Ngược lại, đối với người yếu đuối, bệnh tật, sức yếu, đi đâu họ cũng nơm nớp lo sợ. Ăn uống thì phải kiêng cử đủ thứ. Đối với món ngon vật lạ, họ cũng không thụ hưởng được chút nào. Bệnh tật, tuy là một nghiệp quả bất hạnh, nhưng nếu người khéo biết tu, thì không đến nổi phải buồn khổ. Biết mình nghiệp chướng nặng hơn người, thì chúng ta nên cố gắng tu hành để chuyển nghiệp. Thay vì ngồi đó buồn khổ khóc than, thì tại sao chúng ta không gắng công niệm Phật? Và tài bồi phước đức bố thí, phóng sanh nhiều hơn? Đôi lúc vì ỷ lại vào mạnh khỏe, mà người ta cứ mãi lo bay nhảy theo dục trần mà quên lo tu hành, thì đó là họa trong cái phước.
Ngược lại, người yếu đuối bệnh đau, nhưng nếu cố gắng lo tu niệm, thì họ tìm cái phước trong cái họa. Hiểu thế, thì chúng ta không có gì phải tự ty mặc cảm ôm ấp khổ sầu. Biết mình yếu đuối bệnh tật, nên cố gắng tu tạo phước đức cho nhiều. Bệnh hoạn là hình thức trả nghiệp. Như người vay nợ nhiều, thì phải trả sớm cho mau hết nợ. Trả hết nợ, thì không còn gì phải lo lắng, ưu tư phiền muộn nữa. Hiểu thế, thì chúng ta không có gì phải lo buồn.
Pháp cú trên, Phật muốn nhấn mạnh đến cái nghiệp báo do con người gây tạo. Ngày nay, ta được mạnh khỏe ít có bệnh đau, đó cũng do ta tạo nhiều nhân lành trong quá khứ. Như ta ít có sát sanh hại vật chẳng hạn. Chẳng những không sát sanh hại vật thôi, mà ta còn biết mãi vật phóng sanh nữa. Nhờ vào nghiệp nhân tạo phước đó, nên nay ta mới được cái quả báo tốt, ít bệnh đau. Biết thế, thì ta cố gắng tu tạo nghiệp nhân tốt nhiều hơn nữa. Chớ nếu ta ỷ vào sức khỏe mà không lo tu hành, thì đời sau ta sẽ phải khổ mà thôi. Đó là luật nhân quả như thế. Chúng ta cố gắng tạo nghiệp lành để tránh quả khổ đau về sau.
199. “Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng.”
200. “Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.”Lược giải
199. Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục! Giữa những người tham dục, ta sống không tham dục.
Happy indeed we live, free from avarice amidst the avaricious. Amidst avaricious men we dwell free from avarice.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Không tham, giữa tham ái
Giữa những người dục vọng
Ta sống không tham ái.
Lược giảng
Tham dục là nguồn gốc của mọi khổ đau. Trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác, có một bài kinh nói về tham dục. Phật dạy: “Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục mà ra. Nếu ai ít muốn, vô vi, thân tâm được tự tại”. Con người đắm mê vật dục không bao giờ cùng. Suốt đời họ đắm chìm trong ngũ dục lạc.
Ai cũng ham muốn có tiền của nhiều, nhan sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ và mặc đẹp. Vì chìm sâu trong ngũ dục mà con người mãi trôi lăn chịu biết bao nỗi khổ đau trong đường sanh tử. Vì hễ tham muốn ngũ dục cho được sung túc, thì ngày đêm phải khổ thân mệt trí, vất vả cực khổ trăm bề. Có người cũng vì lòng tham lam quá độ, nên họ gây tạo nhiều nghiệp ác. Dục vọng càng nhiều thì khổ não tự nhiên cũng nhiều. Tô Đông Pha nói: “Lòng dục của con người không cùng, song vật có thể làm thỏa mãn lòng dục của ta lại có hạn”. Làm sao đáp ứng đầy đủ túi tham của con người. Tham nhiều khổ nhiều!
Biết thế, nhưng con người không dừng được lòng tham. Các ngành học thuật, một mặt thì cải thiện đời sống con người, nhưng mặt khác lại làm tăng thêm lòng dục vọng của con người. Ngày nay, người ta chạy đua tranh giành nhau về vật chất để cung ứng cho những nhu cầu của đời sống. Có người làm lụng vất vả, đầu tắt mặt tối, không có thời giờ đọc báo. Thậm chí, họ không có thời gian để dùng một bữa cơm chung đầm ấm với gia đình. Họ không biết gì đến vợ con. Họ say mê vùi đầu theo công việc nghề nghiệp của họ.
Thử hỏi cuộc sống như vậy, thì còn gì là hạnh phúc? Cả đời, họ chỉ biết làm nô lệ cho vật chất không thôi. Đến khi lâm trọng bệnh, ngã ra chết, thì than ôi! Mọi sự vật họ đều để lại cho đời! Rốt lại, tay trắng cũng hoàn lại trắng tay. Bao nhiêu những mùi phú quý vinh hoa ở đời có khác chi là Nam Kha giấc mộng?!
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Lúc còn sống, thì ham mê đủ thứ, sau khi chết rồi thì chẳng mang được gì theo.
Bởi thế, Pháp cú trên, Phật nói:“Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; giữa những người tham dục, ta sống không tham dục”. Sống không tham dục là nếp sống ít muốn biết đủ. Ở đời, còn có sự sống, tất nhiên phải còn giải quyết ba cái nhu cầu: ăn, mặc, ở và còn những nhu cầu khác cho sự sống. Tuy nhiên, người biết tu, họ chỉ muốn giải quyết những nhu cầu vừa đủ mà thôi.
Ở đây, Phật muốn so sánh giữa hạnh phúc và đau khổ. Người có hạnh phúc là người ít ham muốn, biết đủ. Họ không bon chen đua đòi. Họ sống thật đơn giản. Mọi nhu cầu vật chất tạm đủ nuôi thân. Miễn sao no cơm ấm áo là được rồi. Họ biết rằng, cõi đời chỉ là quán trọ dừng chân. Mà mọi người có mặt ở đây đều là những lữ khách phong trần. Thế thì ham mê đua đòi chi cho khổ thân mệt óc. Chỉ cần ăn mặc giản dị và vui sống. Sống càng đơn giản chừng nào, họ càng cảm thấy an nhàn hạnh phúc nhiều chừng nấy.
Đó là nếp sống của một con người đi tìm nguồn vui với đạo. Họ khéo biết di dưỡng tinh thần. Họ bằng lòng với cuộc sống hiện tại mà họ đã tìm thấy hạnh phúc. Họ không màng đến dư luận khen chê. Miễn sao tâm hồn của họ được an nhàn thanh thoát là đủ rồi. Mặc cho thế sự thăng trầm hay vinh nhục, họ không cần quan tâm đến. Họ chỉ muốn bình an trong nếp sống mà thôi.
200. Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại, ta thường sống với những điều hỷ lạc như những vị trời Quang âm 27.
Happy indeed we live, we who possess nothing. Feeders on joy we shall be, like the Radiant Gods.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Thoát mọi nghiệp triền chướng
Ta sẽ được hỷ lạc
Như chư thiên Quang Âm
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nói khi Ngài ở ngôi làng Bà la môn Pancasàlà, có liên hệ đến Ma vương.
Phật quán sát căn cơ của năm trăm cô gái trong làng Pancasàlà, Phật có thể độ cho họ chứng quả Tu đà hoàn. Quán sát xong, Phật đi đến gần làng ấy. Khi đó, nhằm ngày lễ hội, các cô gái đều đi tắm. Xong rồi, họ trang sức trở về làng. Trong lúc đó, Phật vào làng khất thực bị Ma vương khống chế dân làng, không một ai cúng dường.
______________
27 Quang Âm Thiên: Phạn ngữ: Abhàsvara. Pali: Abhassara. Một trong các tầng trời cõi Sắc, tức là tầng trời thứ ba của đệ nhị thiền, tầng trời nầy ở trên Vô Lượng Quang Thiên và ở dưới Thiểu Tịnh Thiên, chúng sanh cõi nầy không có âm thanh, do định tâm phát ra ánh sáng thay thế ngôn ngữ để truyền đạt ý nghĩa, nên gọi là Quang Âm Thiên.
Phật và Ma vương chạm mặt nhau. Ma vương muốn làm nhục Phật, bằng cách cho dân làng cười chế nhạo Phật. Khi đó, các cô gái về đến cổng làng gặp Phật, họ bèn đảnh lễ và đứng qua một bên. Ma vương nói với đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, Ngài không xin được chút thức ăn nào, chắc đói bụng lắm.
- Nầy Ma vương, dù cho ngày hôm nay ta bị ngươi quấy rầy, Ta vẫn an lạc như cõi trời Quang Âm. Rồi Phật nói Pháp cú nầy.
Trên bước đường hành hóa, Phật gặp không biết bao nhiêu chướng nạn. Nhưng chướng nạn nào, Phật cũng vượt qua. Người hành đạo, muốn được giải thoát, không phải mọi việc đều được suông sẻ. Nếu thế, thì làm sao đánh giá được sức nhẫn nhục? Và nếu mọi việc suông sẻ như ý muốn, thì càng tăng thêm lòng cống cao ngã mạn. Có gặp chướng ngại thử thách, mới biết được ý chí tu hành. Giá trị của người tu là ở chỗ đó. Nếu gặp chướng ngại gian nguy thử thách, mà vẫn an nhiên không chùn bước, thì biết rằng đạo lực của người đó khá cao. Ngược lại, mới gặp chướng nạn sơ sơ thôi, mà chúng ta lại run sợ đầu hàng và thối bước, thì biết đạo lực của ta còn quá non kém. Có kiểm nghiệm như thế, thì ta mới cố gắng huân tu trau dồi đạo lực nhiều hơn nữa.
Dù xưa hay nay, trên bước đường hành đạo, không ai lại không bị Ma vương khuấy phá. Tùy sức vận dụng công phu tu hành cao thấp, mà hành giả sẽ bị khảo đảo nhiễu loạn nhiều hay ít. Thông thường, người tu không sợ nghịch cảnh lắm, mà chỉ sợ thuận cảnh. Vì nghịch cảnh dù có khó khăn, nhưng cũng dễ biết để đương đầu đối phó. Còn thuận cảnh, thì thật khó đề phòng.
Phần nhiều, người ta chết vì tiếng khen hơn là tiếng chê. Cũng như các ông vua thường chết vì bè lũ nịnh thần ton hót, hơn là chết dưới tay trung thần can gián. Vì trung thần là họ dùng lời ngay thẳng để khuyên can. Bởi thế, mà hay làm mất lòng vua. Lời ngay thì trái tai, làm sao ông vua chịu nổi? Vì chịu không nổi lời ngay, nên dễ mất ngai vàng như trở bàn tay.
Ngược lại, lời ton hót nịnh bợ lúc nào cũng ngọt ngào như rót đường mật vào, nghe rất êm tai. Thử hỏi ai lại không khoái thích? Lời ngon tiếng ngọt đó là thuận cảnh. Còn lời can gián bàn ra, không thuận theo ý vua, đó là nghịch cảnh. Thuận ý mình thì vui, nghịch ý mình thì buồn. Người ta chết vì thích ý đắc chí, hơn là chết vì không đắc chí như ý. Như lái xe, người ta chết vì tai nạn đường trường hơn là chết ở những con đường gồ ghề khúc khuỷu quanh co. Vì càng khó khăn nguy hiểm, người ta càng có sự chú ý cẩn thận chuẩn bị nhiều hơn, nên ít khi xảy ra tai nạn chết chóc.
Phật đối đầu với Ma vương, vì Phật biết Ma vương hại Phật. Ma vương dùng phép thuật khống chế dân làng không cho họ cúng dường đức Phật. Chẳng những thế, mà chúng còn muốn làm nhục Phật trước mặt dân làng. Thật là nham hiểm độc ác. Ma vương thường khuấy phá người tu là như thế.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học đáng nhớ. Đã là Phật, bậc thiên nhơn chi Đạo Sư, mà Ngài còn bị hết nạn nầy đến nạn khác. Còn chúng ta thì sao? Tu hành tới đâu mà không muốn gặp chướng nạn? Cho nên, mỗi khi gặp chướng nạn, ta liền nhớ đến Phật. Khi nhớ đến Phật và hết lòng niệm Phật, thì nạn nào cũng phải qua hết. Hết lòng nhớ đến Phật là tâm ta an định. Tâm an định, thì nạn nào chẳng qua.
Chỉ có điều khi gặp nạn mà ta không chí thành tha thiết niệm Phật đó thôi. Vì Phật có bao giờ thua Ma vương đâu. Dù Ma vương có hại Phật đến cỡ nào, cuối cùng rồi bọn chúng cũng phải đầu hàng khuất phục. Nhưng chúng ta hay bị cái bệnh, lúc gặp nạn, thì nhớ đến Phật, khi nạn chướng qua rồi, thì Phật cũng qua luôn. Lúc gặp yên xuôi, thì không còn thiết tha nhớ đến Phật nữa. Bởi thế, nên sự tu hành của chúng ta, khi thăng, khi trầm, khi trồi, khi sụt mãi là vậy.
Pháp cú trên là một chứng minh cụ thể. Phật nói: “Dù gặp chướng ngại, nhưng đối với Phật không có gì là chướng ngại. Khác nào như Phật ở cõi trời Quang Âm”. Nghĩa là, ý nói không có gì khuấy nhiễu làm rối loạn được Phật. Tâm Phật lúc nào cũng an lạc, vì Phật đã sạch hết vô minh phiền não rồi.
Ngược lại, chúng ta thì sao? Chúng ta, vì còn vô minh phiền não vọng động, nên khó được an lạc. Chỉ cần gặp một chướng ngại nho nhỏ thôi, là tâm ta lộn xộn bất an rồi. Bao nhiêu cấu nhiễm: tham, sân, si… liền hiện khởi. Vì thế, trên đường tu, chúng ta cần phải hết lòng cố gắng trau dồi đạo lực nhiều hơn nữa, vì biết chắc rằng đời tu của chúng ta sẽ gặp nhiều chướng nạn.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, có chướng nạn thử thách mới trui luyện tâm ta được già dặn thêm. Và có như thế, thì sự tu hành của chúng ta mới mau thành tựu sở nguyện. Bằng không, thì rất khó thành công.
Dẹp chướng ngại hành trình luôn cất bước
Trải rộng lòng muôn chốn khắp nhơn gian
Nụ cười tươi trong ánh mắt chứa chan
Nguồn thơ đó thênh thang ngàn sao sáng.
Phải có tâm niệm như thế, thì khi gặp chướng ngại ta mới không thối chí nản lòng. Chúng ta cương quyết khắc phục vượt qua mọi khó khăn. Những khó khăn đó, có thể đến bất cứ từ đâu. Nếu mỗi ngày, chúng ta cố gắng dùng trí huệ thực tập đi sâu vào thiền quán, phải hằng quán chiếu thấy rõ năm uẩn là giả dối không thật, thì chắc chắn mọi chướng nạn thử thách nào cũng sẽ vượt qua. Bằng không, thì chúng ta vẫn còn đi trong đau khổ dài dài và không biết đến bao giờ mới thực sự được giải thoát.
201. “Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại.”
202. “Lửa nào sánh lửa tham?
Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.”Lược giải
201. Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì bị đau khổ; chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống hòa hiếu an vui.
Victory begets enmity; the defeated dwell in pain. Happily the peaceful live, discarding both victory and defeat.
Kệ Tụng
Thắng lợi sinh thù oán
Thất bại chịu khổ đau
Bỏ sau mọi thắng bại
Sống an bình, tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện vua Ba Tư Nặc nước Kosala.
“Chuyện kể rằng, vua Ba Tư Nặc đánh nhau với A Xà Thế, gần làng Kàsika và ba lần bại trận. Trở về sau lần thất bại thứ ba, nhà vua nghĩ thầm: “Nếu không thắng được tên miệng còn hôi sữa ấy, ta sống làm gì”? Nhà vua bỏ ăn nằm dài trên long sàng. Tin tức bay đi khắp thành và tinh xá.
Các Tỳ kheo thuật lại chuyện cho đức Thế Tôn nghe:
- Bạch Thế Tôn, nhà vua sau ba lần chiến bại ở gần làng Kàsika, đã trở về bỏ ăn, nằm dã dượi trên giường, nói: “Nếu ta không thắng được tên vua trẻ tuổi kia, ta sống làm gì”?
Sau khi nghe kể, Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo, kẻ thắng bị oán ghét, người thua phải buồn rầu”. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 380 )
Thắng bại là chuyện thường tình ở thế gian. Trường đời là một trường tranh đấu. Đã có tranh đấu, tất nhiên phải có kẻ thắng người bại. Kẻ thắng thì lên mặt hống hách kiêu căng. Người thua, thì ôm hận đau sầu nuốt tủi. Lòng tự ái của con người không bao giờ chịu khuất phục ai.
Qua tích truyện dẫn chứng trên, ta thấy vua Ba Tư Nặc rất đau khổ vì thất trận liên tiếp ba lần. Lòng tự ái, tự cao, tự đại, không cho phép nhà vua phải chịu thua cuộc. Do đó, mà nhà vua mất ăn bỏ ngủ.
Chuyện đến tai đức Phật, đức Phật bảo: “Kẻ thắng thì bị oán ghét, người thua thì phải buồn rầu”. Thắng hay thua, cả hai đều đau khổ. Theo Phật, con người muốn cho thân tâm được an ổn, thì phải vượt lên trên ý niệm thắng và thua nầy. Vì thắng hay thua, mọi khổ đau đều bắt nguồn từ bản ngã mà ra. Thế nên, Phật nói: “Chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống một đời hòa hiếu an vui”.
Thái độ vượt lên thắng bại, đó là thái độ của người khéo biết sống. Mình hơn người ở một phương diện nào đó, chắc chắn là mình không sao tránh khỏi bị người ta oán ghét, nói xấu. Ngược lại, nếu mình thua người ở một phương diện nào đó, tất cũng cảm thấy khó chịu. Tâm lý con người, muốn hơn chớ không ai muốn thua. Dù biết rằng, mình là kẻ kém tài, thiếu đức, nhưng thấy ai hơn mình, được mọi người trọng vọng, nể nang, thì lòng mình trào lên bao nỗi căm tức, ghét ganh người đó. Không mấy ai, có tâm tùy hỷ đối với những người hơn mình. Đó là một tật tánh xấu của con người. Gốc của nó từ bản ngã mà ra. Cho nên, muốn được hạnh phúc, ta phải cố gắng tập sống theo lời Phật dạy: “Phải vượt lên trên ý niệm thắng và bại”. Vì cả hai đều nằm trong phạm trù đối đãi. Còn thấy có hai, tất nhiên, ta còn so sánh hơn thua, và cứ như thế, thì ta còn bị đau khổ dài dài…
Câu nói: “Thắng làm vua thua làm giặc”. Đây là một câu nói ngầm chứa sự ác độc và đau khổ rất nhiều. Tâm niệm còn tranh chấp rất nặng. Được làm vua chắc gì an ổn sung sướng. Thắng và thua chỉ là một hiện tướng của tâm thức. Thật ra, với cái nhìn bằng tuệ giác của đạo Phật, thì trong cái thắng nó ngầm chứa cái thua trong đó rồi. Ngược lại cũng thế.
Kẻ thắng thì thường bị kẻ thua tìm cách trả thù. Như vậy, trong ý niệm thắng bên cạnh đó có ý niệm bị trả thù. Chính vì điểm nầy, nên Phật nói: “Kẻ thắng bị oán ghét”. Trong khi mình nói thắng, là ngay đó đã có cái ghét hay thù đến với mình rồi. Sống trong cõi đời tương đối, hễ có cái nầy, liền có cái kia xuất hiện. Chỉ có khi nào, lòng ta được an ổn vượt ngoài những ý niệm tranh chấp hơn thua đó, thì đời ta mới thực sự được an ổn hạnh phúc.
Trở lại câu chuyện trên, ta thấy, mặc dù vua A Xà Thế thắng trận, nhưng chắc gì ông ta an ổn. Lúc nào ông ta cũng nơm nớp lo sợ phòng thủ kẻ địch trả thù. Thế thì, lòng ông cũng bất an. Đó là chưa nói, kẻ đắc thắng kiêu căng, sanh ra nhiều tệ hại khác. Vì tham, sân, si, chúng luôn luôn đột xuất phá hại làm tan nát đời ta. Phật nói, chỉ có kẻ nào hay nhất là phải thắng cho được cái dục vọng trong lòng mình. Chính cái thắng đó, mới thực sự an vui hạnh phúc. Và mới khỏe khoắn nằm duỗi đôi chân ngủ.
202. Không lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng ác sân hận. Không khổ nào bằng khổ Ngũ uẩn và không vui nào bằng vui Niết-bàn.
There is no fire like lust and no crime like hatred. There is no ill like the aggregates (of existence) and no bliss higher than the peace (of Nibbana).
Kệ Tụng
Lửa nào sánh lửa tham
Ác nào bằng ác hận
Khổ nào sánh khổ thân
Lạc nào bằng tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện một cô gái dòng quý tộc.
“Chuyện kể rằng, vào ngày hôn lễ của con gái, cha mẹ cô mời đức Thế Tôn đến nhà cúng dường. Đức Phật cùng chúng Tỳ Kheo đến nhà cô thọ trai, cô dâu lăng xăng tới lui để tiếp đãi chúng Tăng. Khi đó, chú rể đứng nhìn cô chăm chăm và lòng khởi lên tham dục. Chú không thấy đức phật, cả đến tám mươi vị Trưởng lão. Chỉ nghĩ đến một điều duy nhất: “Ta muốn ôm choàng lấy nàng”.
Đức Phật biết được ý nghĩ của chàng, và Ngài làm cho chú rể không thấy cô dâu nữa, mà quay sang chiêm ngưỡng Thế tôn. Khi chàng trai đứng đấy, nhìn Phật chăm chăm, Ngài nói với chàng trai:
-“Nầy con, không lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng lòng sân hận, không khổ nào bằng khổ uẩn, không vui nào bằng vui Niết bàn”. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 381).
Để hiểu rõ Pháp cú trên, chúng ta tạm chia thành 4 câu:
1.Không lửa nào bằng lửa tham dục: Lửa vật lý, chỉ đốt cháy được vật thể bên ngoài. Nhưng dù có cháy đến đâu, người ta cũng còn có thể chạy chữa, dập tắt được. Còn lửa tham dục trong lòng người làm sao có thể chạy chữa dập tắt được đây? Ngọn lửa dục vọng, chẳng những nó đốt cháy trong lòng ta thôi, mà nó còn đốt cháy âm ĩ cả thế gian nầy. Nó đốt cháy mình và người luôn luôn đau khổ.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, bài Kinh 25, Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục, khác nào như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất không tránh khỏi cái nạn cháy tay”. Có người, vì không dằn được lòng đam mê sắc đẹp, nên lân la vào nơi trà đình tửu điếm, để giải quyết cho thỏa mãn dục vọng. Cuối cùng, vướng bệnh nan y, ôm hận suốt cả cuộc đời, hại mình, báo người, thật là đau khổ. Có người vì không nén được lòng tham lam nổi lên, nên ra tay cướp của, giết người giữa ban ngày. Hậu quả, phải ngồi tù chịu khổ suốt đời. Bởi thế, sách Nho có câu nói:
Nhơn tham tài tắc tử
Điểu tham thực tắc vong.
Nghĩa là:
Con người vì tham lam mà phải chết.
Chim vì tham ăn mà phải bị mất mạng.
Kinh nói:“Ái dục do tư tưởng sanh, nếu tư tưởng không sanh thì ái dục không có”. Muốn dập tắt ngọn lửa tham dục trong lòng, không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ta cần phải gia công quán chiếu cho thật sâu sắc, để nhận diện rõ bộ mặt thật của nó, rồi gấp lo diệt trừ. Có thế, thì mới mong một ngày nào đó tâm ta mới được an bình.
2. Không ác nào bằng ác sân si: Chúng ta vì si mê, không nhận rõ chân lý, chạy theo những giả tướng hư vọng của cuộc đời. Vạn vật ở trên đời không thật có, nhưng vì mê lầm ta cho là thật có. Từ mê lầm đó, ta mới khởi lòng tham muốn cướp đoạt của người. Vì không thỏa mãn được lòng tham, nên lửa sân hận nổi lên. Và từ đó, gây ra biết bao nhiêu nghiệp ác. Nhơn loại ngày nay, cũng bị ba thứ “độc tố” nầy mà gây ra đại loạn thế gian.
3. Không khổ nào bằng khổ ngũ ấm: Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thuộc về phần vật chất. Bốn thứ còn lại thuộc về tinh thần. Nói gọn dễ hiểu là vật chất và tinh thần. Thử hỏi trong đời có ai không khổ về vật chất và tinh thần hay không? Về vật chất, nói gần là xác thân nầy. Đã có cái thân nầy, khổ bao nhiêu thứ? Nào là: sanh, già, bệnh, chết, rồi thêm bốn nỗi khổ nữa: Oán ghét gặp nhau khổ; thương yêu nhau chia lìa khổ; mong cầu thứ gì không được vừa ý cũng khổ; năm ấm cường thạnh cũng khổ. Nói khổ năm ấm, tức thân bất an, tâm thì thoái hóa loạn động không dừng. Tóm lại, thân và tâm không lúc nào an ổn, nên nói là khổ về năm ấm.
4. Không vui nào bằng vui Niết bàn: Niết bàn là trạng thái tâm lý được an lạc hạnh phúc. Trong tâm ta không khởi lên những thứ phiền não. Nói gọn, mọi dục vọng vô minh phiền não không còn. Như thế, thì còn niềm vui nào hơn. Đây mới thực sự là cái vui nhẹ nhàng an thoát.
203. “Ðói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng.”
204 “Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng.”Lược giải
203. Đói là chứng bệnh lớn. Vô thường là nỗi khổ lớn; biết được đúng như thế, đạt đến Niết-bàn vui tối thượng.
Hunger is the worse disease, conditioned things the worst suffering. Knowing this as it really is, the wise realize Nibbana, the highest bliss.
Kệ Tụng
Đói khát, bệnh tối thượng
Các hành, khổ tối thượng
Hiểu chơn thực như vậy
Niết bàn, lạc tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Àlavi, có liên quan đến một nam cư sĩ.
Một hôm, đức Phật quan sát căn cơ chúng sanh, Ngài thấy có một nông dân nghèo ở làng Àlavi, có thể độ cho anh nầy chứng quả Tu đà hoàn. Sau đó, từ hương thất, Ngài cùng với năm trăm Tỳ kheo đến làng đó để khất thực. Khi Phật và chúng Tăng đến, dân làng rất mừng rỡ. Họ dâng cúng thức ăn cho Phật và chúng Tăng. Trong khi đó, người nông dân nầy, vì mất bò, nên sáng sớm ông ta chạy vào rừng kiếm bò. Sau khi kiếm được bò, trời đã trưa, nhưng ông quyết để bụng đói đến nghe Phật thuyết pháp. Phật chờ ông đến mới nói pháp. Phật biết ông ta chưa ăn gì cả, nên Phật bảo các thầy Tỳ kheo lấy thức ăn còn dư của tín thí cúng để cho ông ta dùng. Ăn xong, Phật thuyết bài pháp Tứ Diệu Đế. Nghe xong, ông liền chứng quả Dự Lưu.
Trên đường trở về tinh xá, các Tỳ kheo thắc mắc thì thầm với nhau về việc Phật bảo mang thức ăn cho ông nông dân đó. Phật biết, liền nói cho các Tỳ kheo đó biết. Sở dĩ như thế, Phật chỉ vì muốn độ ông ta, nên phải trải qua ba mươi dặm đường. Phật nói, khi một người đang đói, dù có nói pháp hay đến đâu, người ta cũng không bao giờ để tâm nghe đến. Chỉ có khi nào no bụng, thì người ta mới chăm chú lắng nghe và lãnh hội được mà thôi. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy.
Qua chuyện lược dẫn trên, ta thấy lòng từ bi của Phật thật quá tràn trề. Chỉ vì muốn độ một người để họ được đắc quả Dự lưu, mà Phật phải đi bộ trải qua ba mươi dặm đường. Ba mươi dặm đường đâu phải là gần. Thế mà, Phật vẫn bất chấp mệt nhọc khó khăn. Quyết lòng độ cho được ông nông dân đó.
Một điểm nữa, ta thấy, Phật vô cùng tâm lý. Mặc dù đây là lần đầu tiên Phật phá lệ, Phật bảo rằng, muốn cho người ta lãnh hội được những gì mình nói, thì phải cho người ta ăn no bụng trước đã. Sau đó, mình nói họ mới yên dạ để lắng nghe. Nếu bụng đang đói cào lên, thì làm sao người ta có thể ngồi yên để nghe mình nói. Dù cho bài pháp thoại mình nói có hay đến đâu, người ta cũng không bao giờ quan tâm thu thập được. Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”.
Thật đây là một tâm lý rất thực tế mà ta cần phải lưu tâm học hỏi. Các thầy Tỳ kheo nầy, vì không hiểu được thâm ý của Phật, nên mới bàn tán xì xào nhỏ to với nhau. Các Ngài cho Phật làm một việc mà xưa nay chưa từng xảy ra. Phật không phủ nhận điều đó. Nhưng vì muốn độ cho một người thoát khổ, mà Phật phải làm như thế.
Điều nầy cho ta thêm một bài học, khi ra hoằng hóa độ sanh, ta cần nên linh động, uyển chuyển, không nên quá cố chấp. Miễn sao đạt được mục đích lợi người là được.
Ngày nay, nhơn loại còn gánh chịu biết bao nỗi khổ vì nghèo đói. Những người có phước thì được no cơm ấm áo. Còn những người vô phước, thì phải sống trong cảnh đói khát lầm than. Người thì quá dư dã thừa thải, kẻ thì quá thiếu thốn chết khô. Thế giới loài người vẫn còn cách biệt vật chất rất xa. Người ta khi khổ về vật chất, nó tác động ảnh hưởng đến tinh thần rất lớn. Có người khổ quá, khi hết sức chịu đựng, thì họ sẽ đâm ra nổi loạn, quậy phá lung tung.
Xã hội biết đến bao giờ mới được bình đẳng san sẻ vật chất cho nhau. Làm sao phá được ranh giới giai cấp giữa nghèo và giàu. Nếu luận theo nhân quả nghiệp báo, thì nghèo giàu, khổ vui, đều do con người tạo lấy. Đành là vậy, nhưng tình đồng loại, nghĩa đồng bào, chúng ta cũng phải yêu thương và san sẻ cho nhau. Đó cũng là thể hiện lòng vị tha nhân ái theo tâm hạnh của Bồ tát.
Có những người giàu lòng nhân ái, họ tình nguyện làm những việc từ thiện, mang tình thương đến an ủi cho những người bất hạnh. Họ vào làm việc ở những trại cùi hay những trại cô nhi khuyết tật v.v… Họ làm việc với tất cả tấm lòng yêu thương. Họ bất chấp nguy hiểm có thể gây tác hại cho họ. Quả họ là những Bồ tát đi vào cuộc đời, để xoa dịu nỗi khổ niềm đau cho mọi người. Đây là những tấm lòng vàng, mà xã hội loài người thật khó kiếm. Họ có niềm vui và họ cũng muốn san sẻ niềm vui đến cho mọi người. Xã hội rất biết ơn họ.
Tóm lại, Pháp cú trên Phật chỉ cho chúng ta thấy: nghèo đói là chứng bệnh lớn, mà nhơn loại xưa nay đều vướng phải. Ngoài khổ về nghèo đói ra, vô thường cũng là nỗi khổ lớn. Vì vô thường là hoại diệt, là bất an, là luôn luôn sanh diệt. Biết được bản chất của chúng rồi, người tu cần phải tìm phương trị liệu. Trị liệu bằng cách nhìn thẳng vào sự thật, và tìm nguyên nhân gây ra khổ đau, để từ đó tìm phương pháp diệt trừ. Có thế, thì mới đạt được Niết bàn an lạc.
204. Không bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu, thành tín là nơi chí thân, Niết-bàn là vui tối thượng.
Health is the precious gain and contentment the greatest wealth. A trustworthy person is the best kinsman, Nibbana the highest bliss.
Kệ Tụng
Vô bệnh, lạc tối thượng
Biết đủ, tiền tối thượng
Thành tín, bạn tối thượng
Niết bàn, lạc tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vua Ba Tư Nặc.
Vua Ba Tư Nặc có thói quen ăn uống không điều độ, chừng mực. Có khi ông ăn no quá, tâm thần đâm ra ngầy ngật mệt mỏi, ngồi đâu muốn ngủ đó. Mỗi khi đến thăm Phật, ông tỏ ra mệt mỏi và muốn tìm chỗ ngủ nghỉ. Tuy thế, nhưng ông cũng ráng gắng gượng ngồi bên Phật. Thấy thế, Phật khuyên ông nên ăn uống có điều độ lại, thì tinh thần minh mẫn và thân thể ít bị mỏi mệt uể oải và sanh bệnh. Phật khuyên dạy ông nhiều bài kệ, nhưng vì buồn ngủ ông không nhớ hết câu kệ. Tuy vậy, ông bảo quân hầu, sau nầy khi đầu bếp nấu thức ăn cho ông, bảo họ nên giảm bớt đồ ăn lại. Từ đó về sau, nhờ ăn ít lại, nên thân thể nhà vua giảm cân và rất khỏe.
Nhân đó Phật dạy:“Sức khỏe là hạnh phúc lớn nhất mà mọi người mong muốn. Bằng lòng với những gì hiện có là giàu có nhất. Trung tín là điều tốt nhất khi giao hảo. Nhưng không có hạnh phúc nào có thể so sánh với Niết bàn”.
Ăn uống là một trong những nhu cầu thiết yếu nhất cho sự sống. Nhưng có người lại ham ăn uống quá độ. Họ coi trọng sự ăn uống. Khi ăn họ đòi hỏi đủ thứ món ngon vật lạ. Họ cho rằng ăn uống là một trong“tứ khoái”. Để thức nhắc những người quá coi trọng miếng ăn, nên người xưa có câu nói:
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
Câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy vua Ba Tư Nặc là người rất thích ăn uống. Vì không biết tiết chế sự ăn uống, nên ông bị chứng bệnh mập phì. Do đó, thân thể của ông khi di chuyển đi, đứng, ngồi, nằm rất nặng nề chậm chạp. Tệ hơn nữa, là mỗi lần ông đến nghe Phật thuyết giảng, thì ông lại hay mệt mỏi buồn ngủ. Tức ông bị chứng bệnh hôn trầm ngủ gà ngủ gật. Đó là một tật bệnh mà đa số chúng ta thường mắc phải.
Nhơn loại ngày nay, bị nhiều chứng bệnh nan y, có thể nói, phần lớn cũng do ăn uống trái phép, không kiêng cử mà ra. Có những thức ăn hợp với cơ thể, nhưng cũng có những thức ăn không hợp với cơ thể. Đối với những người háu ăn uống, gặp những thức ăn nào khoái khẩu, thì họ ăn uống thả cửa vô độ. Ăn cho no phình bụng mới thôi. Ăn uống không điều độ như thế, thử hỏi làm sao không sanh bệnh?
Đến khám bệnh, các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân nên giảm ăn để cho xuống cân. Khi xuống cân, thì mọi bệnh tật trong người cũng hạ thấp theo. Như các chứng bệnh thông thường mà đa số người ta hay mắc phải: áp huyết cao, cao mở trong máu, tiểu đường v.v… Ăn uống tiết chế, đúng pháp, hợp vệ sinh, là một trong những phương cách bảo vệ sức khỏe hữu hiệu nhất.
Đức Phật khuyên vua Ba Tư Nặc cần phải giữ tiết chế khi ăn uống, đó là điều rất tốt để bảo vệ sức khỏe. Bản thân đức Phật, Ngài đã thực hiện và thường khuyên đệ tử nên ăn uống có điều độ. Mỗi ngày, Phật và các chúng Tăng, chỉ ăn một bữa vào buổi trưa. Ngoài ra, các Ngài không ăn gì thêm cả. Điều nầy, được xem như là một quy luật bắt buộc ở thời Phật. Ăn như thế, mà sức khỏe của các Ngài vẫn bình thường và rất tốt.
Thế nên, Pháp cú trên, Phật dạy:“Vô bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu”. Tại sao biết đủ lại rất giàu? Biết đủ là người sống hài hòa, không có tâm đua đòi mong cầu. Họ hạn chế bớt lòng tham dục. Họ giữ mức sống bình thường vừa đủ. Vì vậy, nên lòng họ lúc nào cũng cảm thấy an vui hạnh phúc. Ngược lại, người không biết đủ, thì họ không bao giờ có hạnh phúc.
Xưa kia, thời Phật, có một vị Bồ tát cư sĩ tên là Thuận Thiên. Một hôm, ông lượm được một cái chuông vàng. Cái chuông nầy có giá trị rất lớn. Ông bảo là ông sẽ tặng cho một người nào nghèo nhất trong nước. Ông hỏi mọi người biết ai là người nghèo nhất trong nước không? Không ai tìm ra được. Ông nói: chỉ có vua Ba Tư Nặc là người nghèo nhất trong nước.
Mọi người nghe nói thế, ai nấy đều rất ngạc nhiên và hỏi Bồ tát Thuận Thiên: tại sao vua Ba Tư Nặc lại là người nghèo nhất xứ? Bồ tát trả lời: Vì ông ta có bao giờ biết đủ đâu?! Ông là người có nhiều tham vọng mong cầu rất lớn. Ông không bao giờ hài lòng với những gì đang có. Như vậy, không phải ông là kẻ nghèo nhất xứ sao? Chỉ có người biết đủ và vui sống bằng lòng với những gì đang có, người như thế, mới thật là kẻ giàu nhất xứ.
Tiếp theo Phật nói: “Thành tín là nơi chí thân, Niết bàn là vui tối thượng”. Khổng Tử nói: “chí thành thông thánh”. Trong đạo hay ngoài đời, đức tánh chí thành hết sức quan trọng. Nhất là người tu, lúc nào cũng phải chí thành ở nơi chính mình. Chí thành là phải thành thật với chính mình. Mà thành thật với chính mình là phải thật tâm nhìn kỹ lại mình. Có nhìn kỹ lại mình mới thấy được lỗi lầm của mình để sửa đổi, chuyển hóa. Bằng không, thì trên đường tu khó được giác ngộ giải thoát.
Niết bàn là vui tối thượng, điều nầy, không ai có thể phủ nhận được. Niết bàn là tên khác của chân hạnh phúc vậy.
205. “Ðã nếm vị độc cư,
Ðược hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hải, không ác,
Nếm được vị pháp hỷ.”
206. “Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc.”Lược giải
205. Ai từng nếm mùi độc cư, ai từng nếm mùi tịch tịnh, người ấy còn ưa nếm mùi pháp vị để xa lìa mọi tội ác, sợ hãi.
Having savoured the taste of solitude and peace (of Nibbana), pain-free and stainless he becomes, drinking deep the taste of the bliss of Truth.
Kệ Tụng
Ai nếm vị độc cư 28
Ai hưởng mùi nhàn tịnh
Không còn ác khổ đau
Nhờ mến ưa pháp vị.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy, khi Phật đang ngụ tại Vệ xá ly (Vesàli ), có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Khi nghe Phật tuyên bố, bốn tháng nữa Phật sẽ vào Niết bàn, các thầy Tỳ kheo ai nấy đều buồn lo. Chỉ trừ những vị A la hán, dứt hết phiền não, chứng nghiệm rõ lý vô thường, nên các Ngài không có bi ai. Còn lại, những vị khác đều ngậm ngùi bi lụy khóc than. Khi đó, thầy Tỳ kheo Tissa đi tìm chỗ thanh vắng ở một mình, không tiếp xúc với bất cứ ai. Thầy quyết tâm thiền quán để chứng quả A la hán khi Phật còn tại thế. Thấy vậy, các Tỳ kheo khác đến hỏi duyên do, thầy Tissa không nói, chỉ âm thầm lo chuyên tu đoạn trừ phiền não.
Những vị nầy đến bạch trình với đức Phật, Phật gọi thầy Tissa đến hỏi duyên cớ. Bấy giờ, thầy Tissa mới trình bày rõ ý nguyện của mình cho Phật nghe. Phật liền khen ngợi và nhân đó Phật nói Pháp cú nầy.
______________
28 Độc cư: ở một mình. Tìm chỗ thanh vắng và chỉ sống một mình để tu hành.
Khi hay tin Phật sắp vào Niết bàn, các Tỳ kheo chưa chứng Thánh quả, ai nấy đều đau buồn rơi lệ khóc than. Vì không ngăn được mối tình cảm thiêng liêng sâu đậm trong tình nghĩa Thầy trò trải qua bao nhiêu năm dài tháng rộng chung sống với nhau. Đó là một tâm lý tình cảm rất thường tình của một con người. Nhất là đối với đức Phật là một bậc Thầy gương mẫu cao thượng; một thâm ân quá lớn lao. Thử hỏi làm sao các Ngài có thể ngăn được đôi dòng lệ thảm? Thế nhưng, trong lúc mọi người than khóc buồn lo, thì thầy Tissa lại vượt hơn cái thường tình của một người đệ tử. Thay vì khóc lóc than thở bi ai, thì thầy lại đi tìm chỗ thanh vắng để quyết chí ẩn tu. Thầy quyết lòng đạt cho kỳ được Thánh quả A la hán, trước khi Phật vào Niết bàn. Sau khi biết rõ duyên do, Phật khen ngợi thầy hết lời.
Việc làm của thầy Tissa, mới nhìn qua, ta thấy thầy như không nghĩ gì đến thâm ân sâu dày của Phật dạy dỗ. Trước cảnh sắp chia ly tình nghĩa Thầy trò, thầy không tỏ ra một chút bi ai xúc động. Đã vậy, thầy còn đi tìm chỗ ở riêng một mình lánh xa Thầy bạn. Nhưng khi Phật khen ngợi việc làm của thầy, thì các nghi ngờ của các thầy Tỳ kheo khác không còn nghĩ quấy cho thầy Tissa nữa.
Thiết nghĩ, đây là một bài học thật đáng giá cho chúng ta noi gương. Báo ân Thầy Tổ, không phải chỉ có khóc than bi lụy mới gọi là báo ân thương Thầy. Là người đệ tử thực sự thương và muốn báo đáp thâm ân dạy dỗ của Thầy, tất nhiên ta phải làm tròn bổn phận của một người đệ tử, là phải hết lòng tu học cho có kết quả như ý Thầy mong muốn. Được như thế, thì người đệ tử đó mới thực sự là tri ân và báo ân Thầy. Và Thầy cũng rất vui mừng khi biết được người đệ tử của mình có chí hướng quyết tâm tu hành như thế.
Thầy Tissa đã biểu lộ một hành động vượt hơn thường tình rất xa. Biết đạo lực của mình còn yếu kém, nên thầy quyết chí nỗ lực tu hành đạt cho được kết quả, để đáp lại cái thâm ân mà bấy lâu nay vị Thầy của mình đã dày công giáo huấn. Phải đạt cho kỳ được trước khi Thầy nhập diệt. Có thế, thì Thầy mình mới vui và mình cũng không cảm thấy hổ thẹn với Thầy. Trong tâm tưởng của thầy Tissa, thầy nghĩ phải thực hiện cho kỳ được như thế. Và thầy đã quyết tâm thực hiện.
Trong khi đó, thì những vị khác lại tỏ ra bi lụy khóc than. Thử hỏi khóc than như thế, có lợi ích gì cho mình và cho Thầy mình không? Hơn nữa, mình là người đang đi trên con đường giác ngộ giải thoát, phải tỏ ra cho mọi người biết về lý vô thường mà mình đã được thụ huấn từ một bậc Thầy vĩ đại đã hết lòng truyền đạt cho mình. Có thế, thì Thầy mình mới cảm thấy thật không uổng công dạy dỗ. Người xuất gia phải thể hiện cho kỳ được cái tinh thần vô úy đó. Vì mình là người có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ Phật tử tu học. Nếu mình không vượt qua nỗi cái thường tình bi lụy đó, thì mình đâu có gì hơn họ. Bởi thế, mà đức Phật khen ngợi thầy Tissa trước mặt các Tỳ kheo khác.
Chúng ta dù xuất gia hay tại gia, mỗi khi Thầy Tổ viên tịch, chúng ta quyết không bi lụy khóc than theo thói tình. Chỉ một lòng vâng theo lời Thầy dạy mà hết lòng gắng công tu học. Phải tu học cho có kết quả như ý Thầy mong muốn. Có thế, thì ta mới thực sự báo đáp lại phần nào thâm ân của Thầy đã dày công dạy dỗ cho mình.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy lối sống độc cư là một lối sống trầm lặng xa lánh ồn náo. Đây là nếp sống mà bản thân Phật đã từng trải qua. Ngày xưa, trước thời Phật cũng như trong thời Phật, nếp sống độc cư trong núi rừng của các thầy Bà la môn đã có rồi. Vì vậy, sau khi xuất gia, Phật đi vào rừng sâu để hỏi đạo với các vị nầy. Có ở chỗ vắng vẻ, hành giả mới dễ dàng kiểm soát nhận diện vọng niệm. Đồng thời, cũng dễ tiến thân trau dồi đạo hạnh và đi sâu vào đời sống tâm linh hơn. Điều nầy, ta thấy các Thiền sư ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, phần nhiều các Ngài hay lên núi tìm chỗ thanh vắng để ẩn tu. Và nhờ thế, mà sự công phu tu hành của các Ngài mới chóng đạt được kết quả tốt đẹp. Khi tâm an định, thì ta có một nguồn vui tràn đầy vô tận, nên nói là pháp hỷ sung mãn vậy. Đó là một sự thật, không ai có thể phủ nhận được.
206. Gặp được bậc Thánh nhơn là rất quí, vì sẽ chung hưởng sự vui lành. Bởi không gặp kẻ ngu si, nên người kia thường hoan hỷ.
Good it is to see the Noble Ones; to live with them is ever blissful. One will always be happy by not encountering fools.
Kệ Tụng
Lành thay gặp thánh nhân
Sống chung thường hưởng lạc
Không thấy các người ngu
Thường được hưởng an lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy và hai Pháp cú kế tiếp (207- 208) Phật dạy có liên quan đến trời Đế Thích.
Vào những ngày cuối đời, đức Phật bị bệnh kiết lỵ nên rất đau đớn. Bấy giờ trời Đế Thích nghĩ cách đến chăm sóc cho Phật. Ông đã bỏ thân hình cao lớn và mang thân hình trẻ trung đến xoa bóp chân Phật.
Phật bảo chư thiên không thể chịu được mùi của phàm nhơn, ông nên rời khỏi nơi đây. Mặc dù bị Phật từ khước, nhưng ông vẫn quyết lòng ở lại để phụng dưỡng săn sóc cho Phật. Ông hết lòng phụng sự không chút tỏ ra nhờm gớm, dù có lúc ông đội thùng phân trên đầu. Tuyệt đối, ông không cho một ai đến gần Phật để săn sóc. Thấy ông săn sóc cho Phật đắc lực như thế, mọi người rất thán phục ông.
Nhân đó, đức Phật cho biết là trời Đế Thích nhờ nghe Phật thuyết pháp mà chứng quả Tu đà hoàn, bỏ thân già nua và nhận thân Đế Thích trẻ trung đến chăm sóc cho Phật.
Phật nói tiếp: “Nầy các Tỳ kheo! Thật là hạnh phúc khi được sống gần gũi và chăm nom chư Phật, còn sống với người ngu chỉ đem lại đau khổ”.
Còn hạnh phúc nào hơn khi gần gũi phụng thờ bậc Thánh nhân. Nếu không có phước duyên lớn, thì làm gì ta được cái diễm phúc quá lớn lao nầy. Trời Đế Thích là vua cai quản cõi trời Đao Lợi, nghe Phật thuyết pháp, ông chứng quả Tu đà hoàn. Khi biết Phật bị bệnh, ông đích thân đến hầu cận và chăm sóc cho Phật. Dù là vua của một cõi trời, nhưng ông không quản ngại khi hầu cận săn sóc đức Phật. Ông bất chấp mọi thứ ô uế. Dù là đội thùng phân trên đầu, nhưng đối với ông vẫn không có gì tanh hôi nhơ uế. Đấy, cũng là một cách báo đáp phần nào thâm ân của Phật.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học thật quý giá về phương diện hầu Thầy. Khi được hầu cận phụng sự cho một bậc Thầy đức độ, thì đó quả là một hạnh phúc rất lớn lao cho ta. Nếu chúng ta không có một nhân duyên lớn đối với bậc Thầy cao đức đó, thì làm gì ta được hầu cận để chăm sóc phục vụ cho Ngài.
Nhất là những lúc Thầy đau yếu bệnh hoạn, rất cần đến sự chăm sóc của ta. Ta thấy, trời Đế Thích, dù bị Phật từ chối, không cho ông hầu cận, nhưng ông quyết lòng ở lại, không thay đổi ý nguyện. Đó là một tấm gương sáng mà ta cần bắt chước.
Đối với thời nay, ta rất khó gặp một bậc Thánh nhân cỡ lớn như Phật, đại Bồ tát, hay A la hán. Nhưng đối với những bậc Thầy cao đức dễ thương không phải là không có. Được gần gũi những vị nầy, thật cũng không phải dễ dàng. Nếu ta đủ phúc duyên gần gũi, thì đời ta thật là hạnh phúc. Vì ta sẽ có nhiều lợi lạc, khi được hầu cận bên Thầy. Ta có cơ hội học hỏi rất nhiều. Từ một nụ cười, một lời nói, một cử chỉ v.v… nhất cử nhất động đều là những bài học lớn cho ta. Được tiếp nhận những lời chỉ dạy của Thầy, thì chắc chắn đời tu của ta sẽ có cơ hội tiến bộ rất nhanh. Đó là một cơ duyên hy hữu rất lớn cho đời tu học của ta.
Ngược lại, nếu ta bất hạnh sống chung với những người thiếu đức hạnh, thì bồ đề tâm của ta rất dễ lui sụt. Thầy hiền bạn tốt, đối với ta rất cần. Vì môi trường sống rất quan trọng. Nếu chúng ta gặp môi trường tốt, trên có bậc Thầy đức độ chỉ giáo hướng dẫn, dưới có huynh đệ đồng tu đồng học, hết lòng thương yêu quý kính giúp đỡ cho nhau, thì còn có hạnh phúc nào hơn! Sống trong môi trường có quy cũ nề nếp tốt đẹp như thế, thì sự tu học của ta ngày càng thăng tiến vượt bực. Bằng trái lại, thì đời tu hành của chúng ta sẽ khó mong đạt thành sở nguyện. Thế nên, ta phải hết sức cẩn thận khi chọn Thầy và môi trường tốt để nương thân tu học.
207. “Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con.”
208. “Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao.”Lược giải
207. Đi chung với người ngu, chẳng lúc nào không lo buồn; ở chung với kẻ ngu, khác nào ở chung với quân địch. Ở chung với người trí, vui như hội ngộ với người thân.
Indeed, he who moves in the company of fools grieves for long. Association with fools is ever painful, like partnership with an enemy. But association with the wise is happy, like meeting one’s own kinsmen.
Kệ Tụng
Thường thân cận người ngu
Luôn luôn bị lo buồn
Khổ thay gần người ngu
Như thường sống kẻ thù
Lành thay gần người hiền
Như sống với bà con.
Lược giảng
Pháp cú trên, ta tạm phân tách làm ba vấn đề để tìm hiểu:
1. Tại sao đi chung với người ngu, chẳng lúc nào không lo buồn?
Vì người ngu là người thiếu nhận định sáng suốt. Họ hành động theo bản năng sở thích của họ mà không cần phải đắn đo cân nhắc suy nghĩ kỹ càng. Khi giao tiếp chuyện trò với người đối diện, họ cũng không cẩn thận giữ lời. Họ phát ngôn bừa bãi, không sợ ai giận buồn. Họ ăn nói một cách cẩu thả lung tung và thường hay chọc ghẹo phá phách người nầy, gây chuyện người nọ, tạo thêm lắm điều phiền phức rắc rối. Họ không có một chút lịch sự tự trọng. Họ là người không biết gìn giữ ý tứ oai nghi. Thử hỏi đi chung với người như thế, bạn có bực mình hay không? Nếu bạn là người có học thức, tự trọng, lễ độ, ăn nói lịch sự khiêm cung, giao tiếp đàng hoàng, làm việc cẩn thận, thì bạn có thích đi chơi chung với hạng người ngu như thế hay không? Chắc là bạn không bao giờ muốn giao du với hạng người như thế. Vì càng gần họ, bạn càng thêm bực mình, chớ không có ích lợi gì. Đồng thời, nếu không khéo, thì bạn sẽ bị người ta đánh giá chê cười bạn là thứ “cá mè một lứa”. Như thế, bạn có chịu nổi không? Thế thì, tam thập lục kế, chỉ có một kế sách hay nhất là bạn phải tránh xa họ để khỏi phải gây ra tai họa lo buồn sau nầy.
2. Tại sao ở chung với kẻ ngu khác nào ở chung với quân địch?
Quân địch là kẻ thù, là người mà họ với ta không có cùng chí hướng. Họ với ta có ranh giới khác biệt rõ ràng. Người ta thường nói “kẻ thù bất cộng đái thiên”. Nghĩa là họ với ta không đội trời chung. Nơi nào có họ, thì nơi đó không có ta hay ngược lại cũng thế. Ở đây, Phật muốn so sánh giữa người ngu và người trí. Người trí mà sống chung với người ngu như sống chung với kẻ địch. Đã nói là kẻ địch, tất nhiên, hai bên khác nhau rất nhiều: khác về lập trường, về lý tưởng, về cách sống, về sở thích v.v…
Như thế, nếu bạn là người trí, thì làm sao bạn có thể thiết lập được sự cảm thông với họ? Sống chung với người ngu cũng như thế. Đã là ngu, thì dù bạn có nói những điều cao siêu hay ho đến đâu, chắc gì họ lại nghe theo bạn? Chẳng những thế, đôi khi họ còn làm cho bạn rất bực mình về thái độ thiếu lễ độ của họ. Hơn nữa, họ là mẫu người luôn luôn cố chấp bảo thủ những định kiến tri giác sai lầm. Họ không biểu đồng tình với bạn. Bạn muốn làm điều lành, điều phải, những gì hữu ích lợi mình lợi người, thì bạn sẽ bị họ phá rối cản trở. Họ cố tâm phá hoại kế hoạch xây dựng hướng tiến cao đẹp của bạn. Thử hỏi người ngu như thế, thì người trí làm sao sống chung cho được? Cho nên, Phật nói giữa người ngu và người trí như là kẻ địch, không thể sống chung với nhau được.
Đó là nói kẻ ngu và người trí ở bên ngoài. Còn nếu luận về ngu và trí trong tâm thức của mỗi người chúng ta, thì ai ai cũng sẵn có hai thứ hạt giống đó. Ngu là vô minh, là nghiệp thức phiền não nhiễm ô. Trí là trí huệ sáng suốt, là tánh giác thanh tịnh. Hai thứ nầy, nếu nói ở một phương diện thuộc giáo lý bất liễu nghĩa, thì quả chúng nó không thể ở chung một nhà, vì chúng là hai phạm trù đối nghịch nhau, như bóng tối và ánh sáng.
Bóng tối dụ như kẻ địch; ánh sáng dụ như người trí. Hễ có ánh sáng, thì không có bóng tối, hay ngược lại cũng thế. Thế nên, nếu chúng ta sống với vô minh, thì chẳng khác nào chúng ta tiếp nhận và sống chung với kẻ địch. Tất nhiên, là nó sẽ phá tan và gây ra biết bao đau khổ cho đời ta. Nếu như chúng ta không chịu loại trừ nó ra khỏi nhà, thì chắc chắn là chúng ta sẽ chuốc lấy những họa hại đau khổ hệ lụy dài dài…
3. Tại sao ở chung với người trí khác nào hội ngộ với người thân?
Người trí ở đây, Phật muốn nói là người hiểu biết sáng suốt và có đạo đức thanh cao. Họ nhận định biện biệt phải trái rõ ràng. Họ là người sống bằng lý trí hơn là nô lệ tình cảm. Họ không bao giờ hành động mà không có mặt trời ý thức soi sáng. Họ có tấm lòng rộng lượng hỷ xả bao dung. Họ không cố chấp bảo thủ tín điều. Khi có dịp giao tiếp với họ, ta cảm thấy lòng ta thực sự an vui tươi mát. Vì lúc nào, họ cũng nở nụ cười hoan hỷ tươi mát trên môi. Họ là người cấm sâu gốc rễ đạo đức vào mảnh đất tâm linh. Họ là mẫu người thích làm hơn thích nói. Học được điều gì hay, họ đem ra ứng dụng ngay trong đời sống hằng ngày. Họ không thích phô trương ba hoa khoác lác theo kiểu ngước mặt lên trời và cũng không thích làm một lý thuyết gia. Họ là người rất thực tế và rất giàu lòng vị tha nhân ái. Do đó, ai cũng quý mến yêu thương họ. Nếu ta sống chung với người như thế, thì còn hạnh phúc nào hơn! Vì giữa ta với họ không có phân chia ranh giới khác nhau. Ta rất kính mến yêu thương họ và họ cũng rất kính mến yêu thương ta. Gần gũi họ, ta cảm thấy ấm áp cõi lòng và ta học hỏi ở nơi họ rất nhiều những cái hay cái đẹp. Do đó, tình giao hảo giống như người thân. Ta không có gì phải lo âu sợ hãi. Bởi thế, Phật nói: “Ở chung với người trí khác nào hội ngộ với người thân”. Vì người thân xa cách nhau lâu, nay bỗng nhiên ta gặp lại, thì thật không có niềm vui sướng nào bằng. Ta được diễm phúc sống chung với người trí thì tâm trạng ta cũng như thế.
208. Đúng thật như vậy : Người hiền trí, người đa văn, người trì giới chân thành và bậc Thánh giả là chỗ nương dựa tốt nhất cho mọi người. Được đi theo những bậc thiện nhân, hiền huệ ấy, khác nào mặt trăng đi theo đường tinh đạo.
Therefore, follow the Noble One, who is steadfast, wise, learned, dutiful and devout. One should follow only such a man, who is truly good and discerning, even as the moon follows the path of the stars.
Kệ Tụng
Do vậy ...
Bậc hiền trí nghe nhiều
Bậc thánh nhơn trì giới
Hãy gần gũi nương tựa
Thiện nhơn, trí giả ấy
Như trăng theo đường sao.
Lược giảng
Pháp cú trên, Phật dạy khi tu học, muốn đạt được kết quả tốt đẹp, thì chúng ta cần phải nương tựa vào những bậc Thiện hữu tri thức hướng dẫn chỉ giáo. Bởi vì những bậc Thiện hữu tri thức nầy, họ có đủ tài đức trải nghiệm để khai thông con đường tuệ giác cho ta. Có tuệ giác, thì ta mới có đủ khả năng tiếp nhận Chánh pháp. Đây là con đường tối hệ trọng mà các bậc Hiền Thánh đã đi qua. Có gần gũi các Ngài, chúng ta mới có thể trau dồi thêm kiến thức và mới có sự thật hành bảo đảm vững chắc, không sai lệch rơi vào tà kiến.
Thế nên, là kẻ hậu học, chúng ta cần nên chọn lựa bậc Minh Sư để tu học. Vì bước đầu tìm Thầy học đạo là vấn đề tối hệ trọng đối với người xuất gia cũng như tại gia. Nếu chúng ta chọn sai lầm, thì thật là uổng phí cho đời tu học của ta. Do đó, khi bước vào đường đạo, ta cần nên dùng trí huệ để biện biệt chọn lựa kỹ càng. Không nên vì tình cảm mà ta đánh mất sự ích lợi trong việc tu học của đời ta.
Môi trường tu học để được tiến thân trên đường đạo thật là hệ trọng. Người tu học được thành công là nhờ họ khéo biết chọn môi trường. Nơi nào có tổ chức nghiêm trang, có quy chế tu học đàng hoàng và nhất là có bậc Thầy sáng suốt, đức độ lãnh đạo hướng dẫn tu học, thì ta nên tìm đến đó để tu học. Sự tu học giống như ta chọn đất gieo giống. Mặc dù ta có hạt giống tốt, nhưng nếu ta không khéo chọn đất tốt để gieo, thì hạt giống của chúng ta chắc chắn là sẽ lên không có kết quả tốt, nếu không muốn nói là quá èo uột và đi dần đến tàn rụi, vì chúng ta chọn lầm đất xấu, và chung quanh môi trường cũng không tốt. Thế là, kết quả, ta sẽ đi vào con đường tử lộ. Ngược lại, nếu ta đã có hạt giống tu học tốt mà ta chọn đúng đất tốt, môi trường chung quanh tốt, thì khác nào mặt trăng đi theo con đường tinh đạo. Nghĩa là tất cả nhân duyên, tăng thượng duyên đều tốt đẹp. Như thế, thì con đường tu học tiến đến thành công đối với chúng ta sẽ không còn là một ước mơ nữa, mà chính đó là một sự thật vậy.
Phẩm Hỷ Ái
209. “Tự chuyên, không đáng chuyên
Không chuyên, việc đáng chuyên.
Bỏ đích, theo hỷ ái,
Ganh tị bậc tự chuyên.”
210. “Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau.”Lược giải
209. Chuyên tâm làm những việc không đáng làm, nhác tu những điều cần tu, bỏ việc lành mà chạy theo dục lạc, người như thế dù có hâm mộ kẻ khác đã cố gắng thành công, cũng chỉ là hâm mộ suông[1].
Giving himself to things to be shunned and not exerting where exertion is needed, a seeker after pleasures, having given up his true welfare, envies those intent upon theirs.
Kệ tụng
Làm việc, không đáng làm,
Không làm, việc đáng làm,
Bỏ lợi, theo hỷ ái,
Ghét bỏ kẻ tự lực
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ba người đệ tử.
Theo truyện tích kể lại, tại Xá Vệ, có một gia đình sanh ra duy nhứt có một người con trai. Người con trai này được cha mẹ thương yêu nuông chiều như trứng mỏng. Hai ông bà trông giữ đứa con không cho đi ra ngoài. Ông bà là người Phật tử rất sùng mộ kính ngưỡng tin tưởng Phật pháp.
Một hôm, ông bà thỉnh chúng Tăng đến tư gia để cúng dường ngọ trai. Thọ trai xong, chư Tăng tụng một bài kinh hồi hướng công đức. Cậu con trai nghe thấy thế, liền phát tâm hâm mộ và có ý muốn đi xuất gia. Nhưng cậu ta biết rõ, nếu xin cha mẹ đi công khai, thì chắc chắn cha mẹ cậu sẽ ngăn cản không cho đi. Cậu ta suy nghĩ, chỉ có cách duy nhứt là phải tìm phương cách trốn đi. Thế là, cậu ta liền thực hiện theo ý định bằng cách nói dối gạt mẹ, để đi đến tinh xá xin Phật xuất gia. Cậu ta được Phật hứa khả chấp nhận cho xuất gia và nhập vào hàng ngũ tăng chúng tu học.
Khi biết được, người cha đến tinh xá, thấy con đã xuất gia mặc y vàng, ông cha liền nghĩ, con ta đã xuất gia, vậy ta còn ở ngoài đời làm gì. Thế là ông cũng xin Phật xuất gia luôn. Đến khi bà mẹ, không thấy chồng về, đi đến tinh xá tìm kiếm. Thấy cả hai đều xuất gia, bà mẹ cũng đi đến bên tinh xá chư Ni xin xuất gia. Tuy cả nhà đều xuất gia, nhưng tình thân thuộc quyến luyến vẫn còn, cả ba người thường hay tìm cách ngồi chung nhau để bàn chuyện. Thấy thế, Phật liền quở trách và nhân đó, nên Phật nói Pháp cú này. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, cả ba vị đệ tử này, tuy thân đã xuất gia, nhưng tình thân thuộc luyến ái trong gia đình vẫn còn. Họ hay tìm cách gần gũi để chuyện trò với nhau. Điều này, nếu đứng về phương diện xuất thế mà nói, thì trái với hạnh nguyện của người xuất gia. Vì cội gốc của sanh tử luân hồi là do lòng ái dục mà ra. Nên có câu nói: “Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh Độ, ái bất nhiễm, bất sanh Ta bà”.
Vì thế, trong Pháp cú trên, Phật dạy: “chuyên làm những việc không đáng làm”. Việc không đáng làm là sao? Là người xuất gia, lẽ ra, là phải đoạn dục khử ái, cần siêng năng nhìn lại nội tâm để tư duy quán chiếu nguồn tâm, tìm lại cái chân thật của chính mình. Đằng này, ngược lại, đã là người xuất gia tu hạnh xuất thế mà còn đam mê theo ái dục, còn nhiễm trước chạy theo dòng đời, thì Phật cho đó là: “biếng tu những điều cần tu”.Những điều cần tu, đối với người xuất gia, phải thường xuyên quán chiếu nội tâm để chuyển hóa vô minh phiền não. Có thế, thì mới mong thoát khỏi khổ đau của sự ràng buộc trong vòng luân hồi trầm luân sanh tử. Tuy nhiên, nếu đứng về mặt phát tâm xuất gia tu hành, đối với thế gian mà nói, thì ta thấy cũng rất hiếm có gia đình nào được như thế. Cả ba người trong gia đình đều bỏ tục vào đạo. Nếu không có gieo trồng hạt giống sâu dày với Phật pháp nhiều đời, thì làm gì cả gia đình đều phát tâm vứt bỏ trần duyên mà xuất gia theo Phật như thế.
Điều đáng nói ở đây là, thật đáng khen cho cậu con trai. Điều này cũng đủ chứng minh cho chúng ta thấy rằng, cậu ta đã gieo trồng hạt giống Phật pháp trong nhiều đời, nên chỉ nghe qua lời tụng kinh chú nguyện công đức của chư tăng một lần, cậu liền phát tâm bỏ nhà trốn đi xin Phật xuất gia. Dù biết trước cha mẹ không cho, nhưng cậu ta đã quyết chí lén cha mẹ trốn đi. Đó là một sự phát tâm rất dõng mãnh. Đứng về mặt thế gian thường tình, thì người ta sẽ cho cậu ta là người con bất hiếu. Vì cha mẹ không cho mà bỏ nhà trốn đi tu. Điều này, đối với xã hội hiện nay, ta cũng thường thấy xảy ra. Nhưng có thể tâm cảnh của mỗi người khác nhau. Đó là xét theo thường tình. Còn đứng về mặt xuất thế mà nói, thì việc làm của người con thật đáng khâm phục. Phải là người có chí khí cương quyết mới được. Chúng ta nên nhớ rằng, cậu ta là đứa con trai duy nhứt của gia đình. Nhờ đó mà vô tình cậu ta đã chuyển hóa được cha mẹ của cậu cả hai đều đi vào con đường thánh thiện cả. Song có điều dù đã xuất gia, nhưng duyên trần tình ân ái vẫn chưa dứt hết. Do đó, nên cả ba người đều bị Phật quở trách.
Người tu mà còn để tâm hướng ngoại tìm cầu, đắm nhiễm theo dục tình, ái nhiễm, thì làm sao tương ưng với hạnh nguyện xuất thế? Nếu mình không tự khắc chế lòng dục vọng tham muốn của mình, thì dù mình thấy kẻ khác tu hành có đạt được kết quả cao, rồi đem lòng hâm mộ quý mến, nhưng nhìn lại mình thì là kẻ trống rỗng không có được chút lợi lạc gì! Như thế, thì Phật nói: “sự hâm mộ đó chỉ là hâm mộ suông vô ích mà thôi!”
210. Chớ kết giao với người đáng ưa, chớ kết giao với người không đáng ưa. Không gặp được người thương yêu là khổ, gặp người cừu oán cũng khổ.
Seek no intimacy with the beloved and also not with the unloved, for not to see the beloved and to see the unloved, both are painful.
Kệ tụng
Chớ gần gũi người yêu
Trọn đời xa kẻ ác
Yêu không gặp là khổ
Oán phải gặp cũng đau
211. “Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng.”
212. “Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?”Lược giải
211. Thế nên chớ đắm yêu, vì đắm yêu bị biệt ly là khổ. Nếu không còn những niệm yêu ghét, thì không điều gì ràng buộc được.
Therefore, hold nothing dear, for separation from the dear is painful. There are no bonds for those who have nothing beloved or unloved.
Kệ tụng
Do vậy chớ yêu ai
Ái biệt ly là khổ
Những ai không yêu ghét
Không thể có buộc ràng
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật nêu ra và nhấn mạnh sự đau khổ vì mối hệ lụy ràng buộc của tình cảm. Trong đời sống, không ai lại không có tình cảm. Nhưng có thứ tình cảm thương yêu cao thượng, và cũng có thứ tình cảm yêu thương bi lụy thấp hèn. Tình yêu cao thượng, chỉ có, đối với những con người, mà họ có trái tim rộng mở bao dung tha thứ, luôn thiết tha muốn làm đẹp cho mình và cuộc đời. Đó là thứ tình yêu xả kỷ, mở rộng cõi lòng vị tha nhân ái.
Ta có tình yêu rất đượm nồng
Yêu đời yêu vật lẫn non sông
Tình yêu chan chứa trong hoàn vũ
Không những riêng yêu khách má hồng
Nếu khách má hồng muốn được yêu
Thì trong tâm trí hãy xoay chiều
Hướng về phụng sự cho nhơn loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu
Ta đã đa mang một khối tình
Dường như thệ hải với sơn minh
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh
(Đức Huỳnh Phú Sổ)
Ngược lại, là thứ tình yêu thấp hèn vị kỷ, chỉ biết có lợi cho mình, mà không nghĩ thương tưởng đến ai. Dẫu cho họ có tỏ ra thương yêu người khác, nhưng kỳ thật, cũng chỉ vì bản ngã của họ mà thôi. Đây là thứ tình yêu vị kỷ đau khổ, luôn luôn héo mòn tàn tạ và trái tim của họ mãi khô cằn và rồi chết dần chết mòn theo năm tháng.
Pháp cú 210, tại sao Phật dạy chúng ta không nên kết giao với người đáng ưa? Và cũng không nên kết giao với người không đáng ưa? Thông thường, người ta thích giao du qua lại với người mà mình có cảm tình ưa thích. Nhưng tại sao ở đây, Phật bảo chớ nên kết giao với họ? Điều đó có chống trái với thói đời xã giao thường tình hay không?
Mới xét qua, ta thấy việc khuyên bảo của Phật điều đó, dường như có hơi khắt khe quá đáng, Nhưng, nếu bình tâm xét kỹ, thì chúng ta thấy Phật rất thấu hiểu tâm lý tình cảm của con người. Vì thương hay ghét đó là hai phạm trù đối nghịch, nằm trên bình diện tình cảm xử thế bề ngoài của thế nhân. Người mình ưa thích, tất nhiên, mình sẽ bị dính kẹt hệ lụy vào họ rất nhiều. Đối xử tử tế làm vừa lòng họ, thì họ vui, bằng trái lại thì họ ghét. Nếu hôm nay, họ đối xử với mình tốt, thì mình có cảm tình ưa thích giao du tới lui với họ. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó, họ làm mình buồn phiền, khó chịu, tất nhiên, là mình sẽ tức giận và rồi sẽ đi đến xa nhau. Thế là, tình cảm giữa hai người sẽ bị rạn nứt sứt mẻ ngay. Và nếu không khéo đối xử, có đôi khi trở thành thù hận. Bạn thân trở thành thù, đó là chuyện thường tình ở thế gian. Vậy, tốt hơn hết, là ta nên ứng dụng bốn câu này:
“Đã biết có thương thì có ghét,
Thà rằng đừng ghét cũng đừng thương.
Mong sao giữ tánh không thương ghét,
Mới thoát ra ngoài cái ghét thương”.
Cho nên, sự thương ghét ở đời, nó thay đổi như trở bàn tay. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Thuở xưa, Di Tử Hà rất được vua nước Vệ yêu dùng. Theo luật, ai trộm xe vua phải tội thì sẽ bị chặt chân. Thế mà, khi hay tin mẹ đau nặng, nửa đêm, Di tử Hà lấy xe vua đi, vua biết được khen Di tử Hà là người con chí hiếu. Biết tội chặt chân mà vẫn lấy. Lần khác, Di tử Hà theo vua dạo chơi ngoài vườn, đang ăn quả đào ngon, còn nửa trái dâng cho vua. Vua khen, đang ngon mà nhường ta.
Về sau, khi vua hết tin dùng, không còn yêu thương nữa, liền hài tội và rồi truyền lệnh trị tội Di tử Hà về những tội khi quân trước kia. Cho hay, thói đời là như thế. Thương ghét của con người giống như thời tiết, nóng lạnh bất thường. Khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua.
Nếu mình không muốn hệ lụy phiền toái rối rắm trong lòng, thì tốt hơn hết là mình không để cho tình cảm của mình bị người khác lợi dụng làm lung lạc. Đừng để cho họ dễ sai khiến mình. Vì người mình ưa thích, thường là mình hay tỏ ra chiều chuộng họ. Mãi lo sợ làm mất lòng, mà tình thân bị sứt mẻ. Kinh nghiệm xử sự ở đời cho chúng ta thấy, người nào mà mình quá tỏ ra thương yêu chiều chuộng họ nhiều, là chắc chắn, mình sẽ khổ lụy với người đó nhiều. Chi bằng, tốt hơn hết, là ta cứ xử sự ở mức độ bình thường. Nên tránh tình trạng “thương nhau cho lắm, thì cắn nhau đau”.
Khi mình nặng lòng thương ai, thì mình hay sanh ra cái tâm ganh tỵ, khi thấy người mình thương có đệ tam nhân xen vào. Càng ganh tỵ, thì càng làm cho người mình thương, họ cảm thấy bực bội khó chịu, vì bị tổn thương lòng tự ái, tự trọng của họ và như thế rất dễ xa nhau. Thôi thì, dù người đó có đáng ưa cách mấy, ta cứ giữ ở mức độ tình cảm qua lại chừng mực bình thường. Không nên lúc đầu thấy có cảm tình rồi ta ra mặt tỏ tình xử tốt, dồn dập vội vã quá, mà sau nầy phải chuốc lấy ân hận. Cứ xử sự qua lại bình thường mà tình bạn được lâu dài. Chúng ta đừng quên câu nói này: “món nợ lớn nhứt của đời người là tình cảm”.
Ở đây, Phật muốn khuyên dạy cho chúng ta có một đời sống nội tâm an vui, hạnh phúc. Muốn thế, thì ta cần phải vượt lên trên hai phạm trù đối nghịch: “ưa hay không đáng ưa này”. Vì trong cái ưa thích, nó đã chứa sẵn cái mầm mống không ưa thích. Nếu chúng ta chịu khó nhìn sâu xét kỹ, thì chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó. Thế thì, người mà ta ưa thích, thì ta cũng khổ mà không ưa thích, thì cũng khổ. Đó là nói sự xã giao thường tình là như thế.
Nếu tiến sâu hơn một bước nữa qua lãnh vực tình yêu nam nữ, thì ta thấy, yêu mà không gặp gỡ nhau, thì quả thật rất là đau khổ. Ở đời, có biết bao cặp thanh niên nam nữ, vì không thỏa mãn được sự gặp gỡ của tình yêu, nên đã tự kết liễu đời mình bằng cái chết rất thương đau, vì sự ngang trái ngăn cách éo le bẽ bàng chua chát nào đó! Mà cả hai không vượt qua được sự ngang trái đắng cay này.
Thanh Trì có một bài thơ “Chớ Vội Yêu” để nhắn gởi thức nhắc cùng những người bạn trẻ, nên cẩn thận khi bước chân vào địa hạt của tình yêu. Ông khuyên các bạn trẻ không nên vội yêu cẩu thả, bốc đồng, thiếu sự suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo kỹ lưỡng. Các bạn cần phải tìm hiểu chín chắn đối tượng người mà mình đã thực sự gởi trọn trái tim tin yêu, nếu không, thì sau này sẽ phải tự chuốc lấy khổ hận.
Chớ vội yêu
Hởi những kẻ tâm hồn còn trong trắng
Còn trinh nguyên trọn vẹn tuổi ngày xanh
Còn vui ca khúc nhạc mãi trong lành
Xin chớ vội bước vào đường yêu đau khổ
Có lắm kẻ đặt tình yêu không đúng chỗ
Mà vẫn yêu mang nặng khổ thương tâm
Một lần yêu dở bước lỡ sai lầm
Tim tắt lịm rét căm buồn áo não
Đừng giỡn mặt ái tình chơi kiêu ngạo
Đường tình yêu hung bạo lắm ai ơi!
Phút sa chơn là ân hận cả cuộc đời
Chuốc khổ lụy ngập trời đau nhức nhối
Đời con gái nhẹ lòng nhiều nông nổi
Nghe lời đường mật ngọt dễ tin yêu
Cho thật nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Khi biết rõ bội tình tiêu thân xác
Trang tình sử chứng minh nhiều bi đát
Bởi khi yêu trao trọn cả cuộc đời
Chuyện yêu đương không phải chuyện trò chơi
Xin chớ vội trách trời cao chẳng ngó
Biết bao kẻ bị người yêu ghét bỏ
Phải âm thầm gạt lệ suốt đêm thâu
Trên trường tình lắm kẻ đã vùi đầu
Chôn thể xác trong vạn sầu thương nhớ
Cũng đừng trách tình duyên nhiều cắc cớ
Nhiều éo le ngang trái bẽ bàng chua
Vì tình yêu không phải chuyện chơi đùa
Vui một phút cay chua trong muôn thuở
Biết bao kẻ sa lầy tay nham nhở
Bước phiêu lưu dang dở cả cuộc đời
Thuyền lênh đênh giữa bão tố bể khơi
Sống dở sống chết không ra người chi hết
Lê kiếp sống trong bụi đời đầy chán mệt
Nghe lòng đau quặn thắt mấy tầng mây
Đừng trách người tàn nhẫn lắm đã gây
Mà phải trách lại mình nhiều nông nổi
Yêu là chết, yêu là càng gây thêm tội
Vì đã yêu lặn lội để gặp nhau
Một lần yêu nghe chết cả tế bào
Nghe vũ trụ không gian ngừng nhịp thở
Xin nhắn gởi tuổi ngây thơ đừng hăm hở
Nếu chưa yêu xin chớ vội tìm yêu
Để tâm hồn bình thản tuổi xuân kiều
Hưởng trọn vẹn ngày xuân tươi trẻ đẹp.
Trong tình yêu chân thật, khi yêu ai người ta đều có ước muốn là phải hiểu, cảm thông và chia sẻ nhau những vui buồn cho đến trọn đời. Cho nên, ta cần phải xét đoán thật cẩn thận, đừng vì đam mê nghe theo lời đường mật của buổi ban đầu gặp gỡ, mà ta lại vội bước vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm và sẽ sa lầy trong niềm chua cay khổ hận sau này. Đó là điều mà các bạn trẻ nên cẩn thận dè dặt khi đặt chân vào lãnh vực tình yêu. Vì tình yêu không phải là chuyện chơi đùa. Có lắm người bạn trẻ mới lớn lên, vì nông nổi, chưa có kinh nghiệm trong trường tình, nên đã vội yêu mà không cần có sự tìm hiểu cặn kẽ chín chắn. Kết quả, sau đó là một sự đổ vỡ tan nát buồn khổ thật lắm tang thương bi đát.
Khi thương nhau, mà không gặp nhau thì khổ đã đành, ngược lại, nếu gặp lại kẻ mình ghét, thì cũng khổ. Đây gọi là oán tắng hội khổ. Thế nên, Phật nói, con người có rất nhiều nỗi thống khổ. Ngoài cái khổ oán ghét gặp nhau, còn có cái khổ thương yêu mà phải xa lìa. Đây là hai nỗi khổ, trong tám thứ khổ lớn của kiếp sống con người. Sống trong cuộc đời tương đối vô thường sanh diệt, tất nhiên, không một ai tránh khỏi những nỗi thống khổ buồn đau hệ lụy này.
Thế nên, hai pháp cú trên, Phật dạy chúng ta cần phải cẩn thận trong lãnh vực tình cảm. Vì yêu hay ghét, cũng đều khổ như nhau. Khổ là vì tâm ta phiền muộn bất an. Người tu là muốn cho tâm an. Mà tâm an, thì đó là an vui hạnh phúc. Như thế, Phật muốn cho chúng ta có được sự an lạc hạnh phúc trong đời sống thực tế hằng ngày. Vì thương hay ghét đều gây ra rắc rối bận lòng ta cả. Do đó, Phật khuyên chúng ta không nên có những ý niệm yêu ghét, và như thế thì sẽ không còn điều gì ràng buộc được ta cả.
212. Từ hỷ ái sinh lo, từ hỷ ái sinh sợ ; xa lìa hết hỷ ái, chẳng còn lo sợ gì.
Therefore, hold nothing dear, for separation from the dear is painful. There are no bonds for those who have nothing beloved or unloved.
Kệ tụng
Tình ái sinh ưu tư
Tình ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát tình ái
Không ưu không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị đệ tử cư sĩ.
Theo truyện tích, có một vị cư sĩ, vì thương đứa con trai mới chết, nên ông ta thường lui tới nơi chỗ hỏa táng buồn khóc thảm thiết không nguôi. Sau khi quán sát căn cơ chúng sanh, Phật biết, ông cư sĩ đó có khả năng chứng Thánh quả. Thế là, khất thực xong, Phật cùng với một vị thị giả liền đi đến nhà ông. Sau khi thưa hỏi, ông mời Phật vào trong nhà. Phật hỏi duyên cớ, ông trình bày cho Phật biết nỗi buồn của ông. Nhân đó, Phật khuyên ông không nên buồn khổ vì cái chết của đứa con, và rồi Phật nhắc lại chuyện quá khứ của ông, bằng một bài kệ:
Như rắn lột bỏ da
Người đi về cõi khác
Bỏ lại sau thân xác
Thân thể đã chết rồi
Đâu còn biết buồn vui
Trong lúc ngọn lửa bốc
Thiêu rụi thân mình đó
Hắn đâu nghe tiếng khóc
Tiếng than của bà con
Vì thế ta đâu còn
Khổ buồn vì hắn chết
Hắn đã đi, và đến
Tới nơi hắn phải đi.
Sau khi nghe qua Phật kể lại chuyện tiền thân, ông ta bừng tỉnh và những nỗi khổ niềm đau trong lòng của ông ta từ bấy lâu nay, nó tan biến một cách rất nhanh chóng. Từ đó, ông nỗ lực tu hành và chẳng bao lâu, ông đã chứng được Thánh quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Ái dục là cội gốc của khổ đau và của mọi thứ lo âu sợ hãi. Nỗi lo sợ lớn nhứt của con người là sợ chết. Nhưng dù có lo sợ đến đâu, cuối cùng cái chết cũng phải đến. Chết là một hiện tượng xa lìa người thương. Một sự chia ly vĩnh viễn không có ngày tái ngộ. Nhưng, theo đạo Phật, chết không có nghĩa là mất hẳn như người đời lầm tưởng. Mà chết chỉ là một hiện tượng đổi thay từ cảnh này sang cảnh khác. Tùy theo nghiệp thiện ác đã gây tạo, mà con người chiêu cảm quả báo có khổ vui khác nhau mà thôi. Như mây tan, chuyển qua một trạng thái khác là mưa. Mưa là sự tiếp nối biểu hiện của mây. Hạt mưa tùy duyên mà biểu hiện qua nhiều hình thái khác. Cứ thế mà chuyển biến không ngừng trong định lý tương duyên sinh khởi. Hiểu thế, thì con người sẽ không còn gì phải lo âu sợ hãi trước cái chết nữa.
Đối với những người đạt đạo, họ coi cái chết như trò đùa. Có người hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ về việc sanh tử như thế nào. Ngài trả lời bằng hai câu thơ:
Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhứt điểm âu.
Hai câu thơ trên ngầm ý nói rằng, giữa bầu trời rộng lớn bao la so với hai vầng nhật nguyệt (dụ cho sanh tử) phỏng có nghĩa lý gì. Cũng thí như giữa biển nước mênh mông bao la không bờ bến, đâu có ngại gì một bọt nước nhỏ xíu nổi trôi trên bể cả. Bọt nước là dụ cho sanh tử.
Thói thường, chúng ta chỉ thấy hai vầng nhật nguyệt mà quên mất bầu trời thênh thang rộng lớn. Cũng như chỉ nhận bọt nước nhỏ xíu mà quên mất đi bể cả bao la. Bể cả và bầu trời là dụ cho tánh giác hay bản tâm chơn thật thanh tịnh sáng suốt của chúng ta. Còn bọt nước hay nhật nguyệt là dụ cho sự sanh tử của con người. Bầu trời và bể cả thì không sanh không diệt. Còn bọt nước hay mặt trời, mặt trăng thì có sanh có diệt. Nhận cái thân tâm sanh diệt mà cho đó là mình, thì Phật cho đó là si mê điên đảo.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, đó là nỗi khổ đau thống thiết của nỗi lòng ân ái biệt ly. Ông cư sĩ khóc buồn vì con chết, mà quên ăn bỏ ngủ, thương tiếc không nguôi. Thử hỏi trên đời này, có mấy ai không buồn đau vì người thân thương yêu ruột thịt của mình đã mất? Nhưng nỗi buồn đau đó, khi ông gặp được Phật an ủi giải bày cặn kẽ, thì không mấy chốc nỗi buồn nó tan biến ngay. Và từ đó, ông không còn bi lụy đau khổ nữa. Bởi vì đã có sanh tất phải có tử. Đó là một định luật chung, không một ai tránh khỏi.
Chết là định luật xưa nay
Mấy ai tránh khỏi, mấy loài thoát ra.
Chi bằng niệm Phật Di Đà
Cầu cho người mất, vượt qua khổ nàn.
Sanh già bệnh chết trần gian
Diệt sanh, sanh diệt vẽ đàng trò chơi.
Diệt sanh, sanh diệt chỉ là hiện tượng giả dối không thật. Khác nào như hoa đốm giữa hư không, hay như bóng chớp chiều tà, như vẽ một lằn chơi trên mặt nước. Tất cả đều là ảo hóa hư huyễn. Sanh tử cũng thế. Chỉ là vẽ đường trò chơi mà thôi! Hiểu thế, thì ta không có gì phải bận tâm lo âu sợ hãi hay thương tiếc. Bởi vì có thương tiếc cho lắm, thì hoa cũng vẫn rụng. Vì thực chất của hoa là vô ngã, do nhân duyên giả hợp, vô thường. Do đó, nên hoa sanh rồi hoa rụng, đó là lẽ thường nhiên. Việc sanh tử còn mất của con người cũng thế, không khác gì đóa hoa kia. Có loài hoa nào nở ra mà không tàn. Có người nào sanh ra mà không chết. Khi hoa tàn biến thành rác, chính rác kia lại làm phân bón hữu cơ để trở lại nuôi dưỡng cho hoa lá sinh trưởng tốt tươi. Như vậy, nhìn rác, ta có thể thấy được hình ảnh đóa hoa tiềm tàng trong rác, hay nhìn hoa ta cũng có thể thấy được rác đang tiềm ẩn trong hoa. Rác tức là hoa mà hoa cũng tức là rác. Đó là lý sắc không của bát nhã. Nhìn sự vật bằng tuệ giác như thế, thì thử hỏi còn gì mà không giải thoát?
Chúng ta hay có thói quen nhìn sự vật theo lăng kính “Biến kế sở chấp”, nên mới có nhiều tri giác sai lầm. Nhìn sự vật, bị kẹt mắc trên sự tướng, nên ta không thấy được cái vô tướng của sự vật. Thấy hình tướng của hoa, mà ta không thấy được cái vô tướng của hoa. Bởi nhìn mắc kẹt trên sự tướng như thế, nên khi hoa rơi rụng, ta cứ ngỡ là hoa mất hẳn đi, rồi ta đâm ra sầu khổ bi lụy khóc than, nhưng ta không thấy được cái trở thành rác của hoa. Như vậy, thì hoa nào có mất đi đâu. Chỉ là một sự chuyển biến từ hình thái này qua hình thái khác của hoa mà thôi.
Khi trở thành rác thì rác lại tùy duyên mà biểu hiện ra những đóa hoa hay những loài thực vật khác. Đã thế, thì ta có gì phải lo âu sợ hãi hay buồn tủi khóc than. Bóng đèn xài lâu, tất nhiên phải bị đứt bóng. Nhưng nguồn điện lực kia thì làm gì có đứt? Bởi vì điện không hình tướng, nên không hệ thuộc vào luật vô thường, sanh diệt chi phối. Ngược lại, bóng đèn vì có hình tướng, nên có sanh có diệt, bị luật vô thường chi phối hủy diệt. Điện lực là dụ cho nguồn sống miên viễn của muôn loài. Cái nguồn sống đó trong khế kinh thường gọi là Phật tánh, hay pháp tánh, tức là thể tánh bản nhiên của mọi sự vật. Điện chỉ tùy duyên mà phát sanh và biểu hiện ở một hình thái khác thôi. Kỳ thật điện không bao giờ mất.
Nếu nói một cách nghiêm khắc hơn, thì “mọi hiện tượng trên đời này không có cái gì mất đi mà cũng không có cái gì tồn tại”. Tất cả đều phải chịu chung một luật tắc hệ thuộc vào lý duyên sinh vô ngã, nhân quả luân hồi. Sống hay chết, chỉ là một hiện tượng được biểu hiện trên bề mặt của dòng sống mà thôi. Có thiền quán sâu sắc như thế, ta mới không còn lo âu sợ hãi và sẽ vượt thoát mọi hệ lụy khổ đau trói buộc của cuộc đời.
213. “Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hãi.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hãi?”
214. “Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?Lược giải
213. Từ tham ái sinh lo, từ tham ái sinh sợ ; xa lìa hết tham ái, chẳng còn lo sợ gì.
From affection springs grief, from affection springs fear. For him who is wholly free from affection there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Luyến ái sinh ưu tư
Luyến ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát luyến ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nữ thí chủ Tỳ Xá Khư.
Bà Tỳ Xá Khư thường nhờ cậy cô cháu gái tên Dattà, chăm sóc các Tỳ kheo khi bà vắng nhà. Ít lâu sau Dattà chết. Bà Tỳ Xá Khư hỏa táng thi hài cháu gái xong, quá buồn khổ bà đi đến chỗ Phật đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
Này Tỳ Xá Khư! Có việc gì ngươi ngồi đây đầy vẻ buồn khổ, rơi nước mắt khóc than?
Tỳ Xá Khư kể chuyện:
- Bạch Thế Tôn, đứa cháu gái thân yêu rất thật thà và trung tín của con vừa qua đời. Con sẽ không còn thấy lại nó.
- Này Tỳ Xá Khư, có bao cư dân trong thành Xá Vệ này?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe Ngài nói khoảng 70 triệu.
- Giả sử tất cả những người này đều là người thân yêu của ngươi như Dattà, ngươi có thích không?
- Thưa vâng, thích.
- Có bao nhiêu người ở Xá Vệ chết trong một ngày?
- Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
- Trong trường hợp đó, chắc chắn người sẽ không đủ thời giờ than khóc, ngày đêm ngươi sẽ chẳng làm gì ngoài việc khóc lóc, kể lể.
- Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Con đã hiểu.
- Tốt lắm, đừng ưu sầu. Ưu sầu hay sợ hãi chỉ khởi lên từ ái luyến. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 402)
Qua truyện tích dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy rằng, bà Tỳ Xá Khư tuy là một Phật tử thuần thành, tu học khá, nhưng trước cảnh cháu gái của bà chết, bà cũng không ngăn được giọt lệ ai bi sầu thảm. Đó là do tập khí tham ái của bà quá sâu nặng. Chứng tỏ, sức huân tu của bà còn rất yếu kém. Bà chưa có đủ tuệ giác quán chiếu sâu vào sự chết hay lý vô thường. Cho nên, khi vô thường xảy đến, nhứt là người thân thương yêu ruột thịt của mình mất, bà không thể chế ngự được tình cảm xúc động khóc than bi lụy.
Phần nhiều người ta kêu gào khóc than kể lể, thật ra, đó chưa phải là họ thật thương yêu người chết, mà đó chỉ là một sự biểu hiện toát ra từ cõi lòng hối hận thống trách cùng cực của họ mà thôi. Vì khi người chết lúc còn sống, họ không biết trân quý sự có mặt của người đó. Chẳng những thế, mà đôi khi họ còn làm khổ cho người thân của họ rất nhiều.
Ngược lại, có những người họ không than khóc kể lể, không phải là họ không thương người thân yêu của họ, nhưng vì họ đã đối xử tử tế và hết lòng trân quý đối với người thân của họ khi còn sống, nên bây giờ, họ cảm thấy không có gì phải hối tiếc. Vì khi sống, họ hết lòng quý kính, chăm sóc và phụng dưỡng, nên khi chết, thì họ chỉ thành tâm hết lòng cầu nguyện. Như thế, mới thực sự là thương yêu. Chớ không phải khóc nhiều mới là thương yêu. Đây là thứ tâm trạng không phải chỉ riêng bà Tỳ xá khư, mà đa số chúng ta đều mắc phải.
Khi người thân còn sống, thì ta đối xử với họ một cách quá tệ bạc, không chút trân kính yêu thương, đến khi chết thì ta lại than khóc nhỏ lệ dầm dề. Chứng tỏ cho mọi người đều biết là mình hết lòng thương yêu quý kính. Nhưng kỳ thật, đó chỉ là thứ tình thương yêu xúc động giả dối bề ngoài, chỉ mua lấy được tiếng khen mà thôi.
Song có điều, bà Tỳ Xá Khư được phước duyên rất hy hữu, là bà gặp Phật và được Phật chỉ dạy, dẫn dụ cho bà nhận thức rõ về sự vô thường sanh tử trước cảnh chia ly. Nhờ đó, mà bà liền tỉnh ngộ và hết ưu sầu.
Hầu hết chúng ta, khi mất người thương, ta rất buồn tủi, vì không biết rõ người mình thương đi đâu? Kẻ ở lại buồn nhớ thương người chết đã đành. Còn người chết, thì ra đi cũng rất đơn độc. Một cuộc hành trình mù mịt tối tăm, không biết sanh về đâu! Dù người có tu hay không tu, thì ai ai cũng đều có nỗi lo sợ như nhau. Tuy nhiên, đối với người biết tu hành chút ít, nghĩa là hiện đời họ không gây nhiều nghiệp ác, thì khi nhắm mắt lìa đời, họ không đến nỗi phải lo lắng sợ hãi nhiều. Dù sao, họ cũng biết là họ không đến đổi phải thác sanh vào những cảnh giới tối tăm khổ đau sâu nặng. Đó là nhờ họ khéo biết tài bồi tích lũy nghiệp lành của họ nhiều trong đời sống thường nhựt.
Ngược lại, nếu là người hiện đời tạo nhiều nghiệp ác, thì khi nhắm mắt lìa đời, họ rất lo âu, sợ hãi bấn loạn, vì không biết mình sẽ thác sanh đọa lạc vào cảnh giới nào?! Đó là tâm trạng buồn khổ cả hai, kẻ ở cũng như người ra đi đều có những nỗi ưu tư khắc khoải buồn khổ lo lắng như nhau. Song có điều, với con mắt nhục nhãn, chúng ta không nhìn thấy được sự khổ đau hay vui sướng của người thân mình đã chết. Chỉ có tuệ nhãn của Phật hay Bồ tát mới nhìn thấy rõ mà thôi.
Nỗi buồn của người còn lại, thì ai cũng thấy biết. Nhưng không ai thấy biết được nỗi buồn của người thân mình đã chết ra sao! Thực tế, cuộc chia ly nào, cả hai cũng đều có những nỗi buồn thương đau thắm thiết cả. Vì đó là nghiệp lực của mỗi người. Tuy nhiên, nếu chúng ta thật thương người thân của mình ra đi, thì ta không nên tỏ ra đau thương bi lụy khóc than cho lắm, vì như thế, chỉ làm cho người ra đi càng thêm bịn rịn nhớ thương, chớ thật không có ích lợi gì.
Do đó, nếu thật thương, thì những người thân trong gia đình chỉ nên hết lòng niệm Phật và nhắc nhở người thân yêu của mình trong lúc hấp hối nhớ Phật niệm Phật, để cho sự ra đi của họ được nhẹ nhàng an thoát mà thôi. Đó mới thật sự là thương. Còn như chúng ta khóc lóc kể lể, chỉ gây thêm làm động tâm niệm người sắp chết, luyến ái duyên trần không đi được, thì đó quả là ta đã vô tình thương hại, chớ không phải là thật thương. Nếu chúng ta là người Phật tử, nên khéo nghe theo lời Phật Tổ chỉ dạy, mà cố gắng dằn lòng xúc động, để hết lòng tụng niệm cầu nguyện cho người mình thương được ra đi an ổn, nhẹ nhàng. Như thế, chúng ta mới thật là người biết thương yêu thân nhân ruột thịt của mình.
Lời chỉ dạy thức nhắc của Phật, không những chỉ cho bà Tỳ xá khư, mà đây là lời cảnh tỉnh thức nhắc chung cho tất cả chúng ta rất lớn. Pháp cú trên, Phật luôn nhấn mạnh đến lòng tham ái của con người. Vì tham ái là cội nguồn của sanh tử luân hồi. Còn tham ái dù chỉ một hào tơ, chắc chắn chúng ta vẫn còn phải tái sanh. Chỉ khi nào dứt hết tham ái, thì chúng ta mới thật sự chấm dứt vòng luân hồi đau khổ. Và khi đó mới thật sự là hết buồn lo sợ hãi. Hiểu được như thế, thì kẻ còn người mất, cả hai đều được lợi lạc cả. Bằng trái lại, thì cả hai: kẻ còn và người mất đều có chung một mẫu số là đau khổ như nhau.
214. Từ tham dục sinh lo, từ tham dục sinh sợ ; xa lìa hết tham dục, chẳng còn lo sợ gì.
From attachment springs grief, from attachment springs fear. For him who is wholly free from attachment there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Hỷ ái sinh ưu tư
Hỷ ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát hỷ ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá gần Vệ Xá Ly (Vesàli), có liên quan đến hoàng thân dòng Lệ Xá.
Theo truyện tích kể lại, vào một ngày hội, các hoàng tử Lệ Xá trang điểm đỏm đáng với đủ kiểu đồ trang sức, ra khỏi thành phố đến chỗ hội hè. Khi Phật đi vào thành khất thực, gặp họ trên đường, Ngài chỉ cho các Tỳ kheo:
- Này các Tỳ kheo! Hãy nhìn theo các hoàng tử Lệ Xá! Ai chưa từng thấy chư thiên cõi trời Ba mươi ba, hãy nhìn những hoàng tử này thì biết.
Trên đường đến chỗ lễ hội, các hoàng tử gặp một kỹ nữ, và mang cô theo. Trước người đẹp, họ ganh tài nhau, đi đến đánh nhau gây thương tích, máu chảy dường thành sông. Dân chúng phải xúm khiêng các công tử về hoàng cung.
Đức Phật và chư Tăng thọ trai xong, trở về tinh xá, bắt gặp cảnh tượng đó. Các Tỳ kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hồi sáng sớm, các hoàng tử Lệ Xá rời thành lộng lẫy như chư thiên, vậy mà bây giờ chỉ vì một cô gái họ trở nên thảm hại thế đấy.
Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo! Ở đâu có tham dục, ở đó có buồn khổ, lo âu.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 403)
Tham dục là nguyên nhân gây ra đau khổ. Chuyện dẫn, chỉ vì một cô gái xinh đẹp, mà các hoàng tử, từ thân thương trở thành thù hận. Họ tranh giành đánh nhau chí tử. Đây là một tâm lý thường tình của con người. Xưa nay, trước sắc đẹp, họ không còn nghĩ gì đến đạo đức tình người. Thời xưa đã thế, thời nay thì sao? Thời xưa ở vào thời đại có Phật ra đời, là thời của chánh pháp, mà lòng dục vọng ham muốn của con người trước sắc đẹp vẫn còn say mê đắm đuối, nên mới xảy ra cớ sự như thế. Đối với thời nay, cách Phật rất xa, là thời mạt pháp, ma vương lộng hành, đạo đức suy vi, trách gì không xảy ra những tệ nạn tranh giành chém giết lẫn nhau vì sắc đẹp! Thế mới biết, bất luận thời nào, con người thiếu phẩm chất đạo đức tình người, đều gây ra nhiều tác hại đau thương cho đồng loại.
Kinh nói, dục có hai thứ: tạp nhiễm dục và thiện pháp dục. Tạp nhiễm dục là trong tâm thì phiền não cấu uế, luôn luôn bất tịnh. Ngoài thì tham đắm danh lợi ngũ dục lục trần. Lòng tham muốn của con người không bao giờ thỏa mãn. Người nào càng tham muốn nhiều thì khổ lụy nhiều. Ngược lại, người ít có lòng tham muốn sống biết đủ, thì ít bị khổ đau. Người có tâm nguyện mang lý tưởng phục vụ làm những việc thiện nguyện giúp đời, như những công tác phúc lợi xã hội, tất cả nhắm vào một mục đích duy nhứt là làm lợi ích cho tha nhân, không nghĩ gì đến sự lợi ích cho riêng mình, đó cũng là dục mà là dục thiện. Xã hội rất cần đến loại dục thiện này. Đó là nói ở bình diện xã hội. Còn nếu dục mang tính cao hơn như mong muốn thành tựu đạo quả hay cầu sanh về thế giới tịnh độ của đức Phật A Di Đà. Đó là thiện pháp dục.
Pháp cú trên, Phật nhằm khuyên nhủ nhắn gởi đến mọi người, muốn có cuộc sống an vui hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội, thì mỗi người nên ý thức hạn chế bớt lòng tham dục. Và người nào muốn chấm dứt khổ đau, thì Phật dạy, phải xa lìa hẳn lòng ái dục. Như thế, thì không còn gì phải ưu tư lo sợ nữa.
215. “Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?”
216. “Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi.”Lược giải
215. Từ lạc dục sinh lo, từ lạc dục sinh sợ ; xa lìa hết lạc dục, chẳng còn lo sợ gì.
From lust springs grief, from lust springs fear. For him who is wholly free from lust there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Dục ái sinh ưu tư
Dục ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát dục ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của chàng trai Anitthigandha Kumàra.
Theo truyện tích, Kumàra từ cõi trời Phạm thiên tái sanh trong một gia đình quyền quý ở thành Xá Vệ. Cậu bé này, từ lúc chào đời cho đến lúc trưởng thành, chàng ta không thích gần phụ nữ. Đã nhiều lần, cha mẹ khuyên chàng cưới vợ, nhưng chàng ta đều từ khước. Có lần, chàng bảo những người thợ kim hoàn đúc cho chàng một pho tượng thiếu nữ thật xinh đẹp.
Khi cha mẹ chàng dùng mọi cách bắt ép chàng ta phải lập gia đình, thì chàng chỉ vào pho tượng và nói: “nếu có cô thiếu nữ nào xinh đẹp như pho tượng này, thì con mới chịu kết hôn”.
Vì để thuận theo ý con, cha mẹ chàng đã cho người mang pho tượng đi khắp nơi để tìm kiếm. Khi người ta đặt pho tượng bên hồ tắm, không ngờ có người bảo: pho tượng này giống hệt cô chủ của họ. Họ liền tìm đến, quả thật có một cô gái nhan sắc kiều diễm tuyệt đẹp, nàng ta đẹp còn hơn pho tượng nữa. Được tin, có người con gái đẹp hơn pho tượng, chàng Kumàra có ý mừng thầm và mong sớm gặp được cô gái đó. Nhưng không may, trên đường đi đến nhà chàng, thì cô gái đã ngã bệnh và chết.
Thế là niềm hy vọng mong mỏi của chàng ta phút chốc đã tan tành trở thành mây khói. Chàng ta rất đau khổ! Phật biết, có thể độ cho chàng này mau chứng thánh quả, nên Phật đến nhà chàng và được người nhà mừng rỡ cúng dường thức ăn. Sau đó, Phật dùng nhiều lời khuyên bảo Kumàra. Cuối cùng Phật nói một câu nói ngắn gọn:
- Này Kumàra! Vì ái sinh sầu muộn, sầu muộn và sợ hãi phát sinh từ ái.
Nghe xong, Kumàra chứng quả Tu đà hoàn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Người ta đau khổ héo mòn thân xác và tinh thần, cũng chỉ vì không thỏa mãn lòng tham ái. Kumàra là chàng trai từ nhỏ đã không ưa thích gần gũi phụ nữ. Dù con nhà giàu có và được cha mẹ thương yêu nuông chiều rất mực, đã nhiều lần, cha mẹ của chàng khuyên chàng nên tìm người sớm lập gia đình, để nối dõi tông đường. Nhưng cứ mỗi lần khuyên là mỗi lần bị chàng ta cự tuyệt chống đối quyết liệt.
Để tránh cái cảnh cha mẹ khuyên ép hoài, nên chàng ta nghĩ cách tạo thành pho tượng nữ thần cực kỳ mỹ lệ xinh đẹp. Chàng ta đinh ninh rằng, trên thế gian này sẽ không có người con gái nào đẹp giống như pho tượng này. Không ngờ lại có người đẹp hơn. Thế là, khi hay tin có người con gái đẹp hơn pho tượng, bấy giờ, chàng ta như bị một tiếng sét ái tình đánh mạnh vào tim chàng, nên chàng tương tư rất mơ ước mong mỏi được gặp nàng. Nhưng cuối cùng, chàng ta bị thất vọng não nề, vì người mình mong đợi đã vĩnh viễn từ giả cõi đời.
Thật là chua chát! Chàng ta đâm ra đau khổ ngút ngàn. Chỉ mới nghe tin thôi, chớ chưa gặp mặt, mà chàng ta phải thương yêu đau khổ đến thế. Thế mới biết sức mạnh mãnh liệt của tình yêu. Nói rõ hơn là sự khao khát thèm muốn của lòng ái dục. Một lượn sóng dục tình có sức mạnh nhận chìm con người còn hơn một cơn đại hồng thủy. Tình yêu sôi nổi, nồng nàn, cuồng nhiệt, thật là lãng mạn, như nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình yêu đã diễn tả:
Như kẻ hành nhân quáng nắng thiêu
Ta cần uống ở suối thương yêu
Hãy tuôn âu yếm lùa mơn trớn
Sóng mắt, lời môi, nhiều thật nhiều…
Trời cao trêu thử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em.
Cũng may cho chàng Kumàra, trong lúc chàng ta đang đau khổ tràn ngập như thế, thì được đức Phật xuất hiện, như một vị cứu tinh đời chàng. Nghe lời Phật dạy phân tích về sự tai hại của lòng ái dục, Kumàra liền thức tỉnh và chứng quả ngay.
Ngày nay, có biết bao chàng trai cũng mê say đắm đuối, khổ sầu bi lụy vì người yêu. Yêu đến nổi như muốn uống và nuốt luôn cả hồn em. Nhưng có điều không được cái may mắn như Kumàra là được có người khuyên giải an ủi cứu thoát khỏi sóng tình nhận chìm. Thời đại này, rất cần đến những trái tim khéo biết lắng nghe những tiếng kêu than đau khổ khóc hận vì tình, để kịp thời chạy chữa, cứu thoát. Đó là hạnh nguyện lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm. Chỉ có tấm lòng từ bi cam lộ của Bồ tát mới thực sự chịu khó lắng nghe, và mới có khả năng cứu thoát con người khỏi cảnh đọa đày hệ lụy của lòng tham đắm mê say sắc dục mà thôi. Pháp cú trên, Phật nhằm cảnh giác khuyên bảo mọi người, nên xa lìa mọi thứ dục lạc, vì mọi thứ dục lạc ở thế gian chỉ đem lại cho con người thêm đau khổ, lo lắng, sợ hãi mà thôi.
216. Từ ái dục sinh lo, từ ái dục sinh sợ ; xa lìa hết ái dục, chẳng còn lo sợ gì.
From craving springs grief, from craving springs fear. For him who is wholly free from craving there is no grief; whence then fear?
Kệ tụng
Tham ái sinh ưu tư
Tham ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát tham ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
Theo truyện tích, có một người Bà la môn tà kiến, thường ngày ông làm ruộng ngoài đồng. Khi gặp Phật, ông không cung kính chào hỏi. Thấy thế, Phật hỏi:
- Này Bà la môn! Ông đang làm gì thế?
- Tôi đang dọn đất, Cồ Đàm!
Cứ thế Phật hỏi ông nhiều lần, mỗi khi Phật đi ngang qua và tùy theo câu hỏi mà ông ta trả lời. Sau nhiều lần hỏi đáp, ông có cảm tình với Phật và ông kết thành bạn. Ông còn hứa khi nào lúa chín, ông sẽ chia phần cho Phật. Nhưng không may cho ông, khi sắp gặt, thì bị một trận bão làm tan nát cả đám ruộng, không gặt được một cọng lúa nào. Buồn quá! Ông nằm dài không ăn chẳng nói, vì ông đã thất hứa với Phật.
Biết thế, Phật đi đến nhà ông. Người nhà cho biết, ông mừng quá vội vã chạy ra gặp Phật. Ông trình bày cớ sự rằng, ông sầu khổ vì thất hứa với Phật. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật khuyên ông và rồi Phật nói pháp cú trên.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thầm khen cho ông Bà la môn này. Mặc dù lúc đầu, ông tỏ ra bất kính với Phật. Nhưng sau đó, được Phật gợi chuyện hỏi han ông và từ đó ông có cảm tình với đức Phật. Đây cũng là cách nhiếp hóa của Phật. Tùy căn cơ mà hành xử hóa độ.
Sau khi có cảm tình, ông bèn hứa với Phật, tới mùa lúa chín, ông sẽ chia cho Phật một ít. Nhưng vì bị thiên tai bão lụt, nên ruộng lúa ông đều bị tiêu tan hết. Bấy giờ, ông đâm ra sầu khổ lo buồn vì cái tội thất hứa.
Ở đây, ta nhận ra được cái tấm lòng quý giá của ông ta. Dù là người nông dân chất phác chân lấm tay bùn, nhưng một khi đã hứa với ai điều gì, thì ông không bao giờ nuốt lời mình hứa. Ông buồn khổ, không phải vì mùa màng thất bát không có lúa ăn, mà ông buồn rầu chỉ vì đã lỡ thất hứa với đức Phật. Thật là tội nghiệp! Đó mới thật là một con người hiền hòa đạo đức thật hiếm có.
Thánh Gandhi lúc còn nhỏ, có lần ông phạm lỗi lầm về cái tội ăn cắp một vài chỉ vàng của kẻ khác, nhưng sau đó, lòng ông hối hận bức rứt không nguôi. Vốn là người con có hiếu, nên ông cảm thấy, hành động phi pháp đó rất có lỗi với người cha. Dù biết phạm lỗi nặng, nhưng ông không có đủ can đảm trực tiếp để thố lộ bày tỏ nỗi lòng hối hận của mình với người cha. Trong lúc cha ông bệnh nặng thập tử nhứt sanh, nằm liệt trên giường, ông chỉ viết một lá thư với nội dung là ông thú tội xin cải hối lỗi lầm với người cha và hứa nguyện từ nay về sau, không bao giờ tái phạm. Người cha xé thơ ra xem, đang nằm bỗng gượng ngồi dậy và rồi ông không dằn được cơn xúc động đành phải để cho những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má. Thế rồi, hai cha con ôm chầm lấy nhau trong nỗi nghẹn ngào xúc cảm khóc lóc. Và từ đó mãi cho đến ngày nhắm mắt, ông luôn nhớ giữ lời hứa, không bao giờ phạm phải lần thứ hai.
Khi đối trước Tam bảo quy y, người Phật tử đã phát nguyện hứa trước Tam bảo và hiện tiền chư tôn đức Tăng Ni chứng minh, là không bao giờ phạm những giới luật mà mình đã lãnh thọ. Đó là một lời hứa thật tối hệ trọng suốt cả cuộc đời mình. Thế mà, có đôi khi vì vấn đề mưu sinh, phải vật lộn bon chen với đời để kiếm sống, mà người Phật tử lại quên đi những điều mà mình đã hứa trước Tam bảo. Gây ra phạm nhiều lỗi lầm, mà người Phật tử không hay biết. Dẫu có biết, nhưng cũng vẫn tiếp tục phạm phải. Chẳng những không ăn năn cải hối, mà còn tìm cách biện hộ cho những lỗi lầm của mình. Đó là điều mang trọng tội thất hứa với chính mình và với Tam bảo vậy.
Nghèo khổ, không nghĩ đến sự đói kém cho bản thân, gia đình, mà buồn ăn mất ngủ chỉ vì một lời hứa. Trên đời này, thật khó tìm được một con người biết tự trọng như thế. Phật biết ông đau buồn, nên tìm đến để an ủi khuyên lơn ông. Quả thật, khi gặp lại Phật, bao nhiêu nỗi lo buồn của ông, đều tan biến hết. Chỉ cần nghe Phật nói một câu nói, lòng ông cảm thấy thật nhẹ nhàng như trút đi một tảng đá nặng ngàn cân.
Người ta sinh ra lo sợ, dù có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là ái ngã. Vì mọi sự lo lắng, buồn khổ trên đời, cũng do lòng ái dục quá yêu thương mình mà ra. Đó là do lòng ích kỷ nảy sanh ra bao nhiêu thứ tệ hại. Vì ái tự ngã, nên không muốn ai hơn mình và cái gì cũng muốn đem về mình. Đó là nỗi khổ lớn của nhơn loại xưa nay.
Qua những pháp cú trên, ta thấy, Phật lặp đi lặp lại về những vấn đề tham ái. Tại sao Phật phải lặp đi lặp lại nhiều lần như thế? Lời khuyên dạy đó có thừa lắm không? Thật không có dư thừa chút nào. Vì sao? Vì tính chất của nó quá quan trọng trong sự tu hành thoát khổ. Bởi mọi sự khổ đau trên đời, đều do lòng tham ái chấp trước của con người mà ra. Do đó, nên Phật nhắc đi nhắc lại, để cho mọi người phải ghi nhớ khắc sâu, ý thức đến sự khổ đau mà lo diệt trừ lòng tham ái.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là phải diệt trừ nó bằng cách nào? Bằng cách chống lại nó ư? Coi nó là kẻ thù không đội trời chung của chúng ta ư? Chắc chắn Phật không dạy chúng ta phải chống diệt nó bằng cách đó. Vì chống tham dục cũng vẫn lại là tham dục. Coi chừng không khéo chúng ta lại bày ra một bãi chiến trường chém giết nhau trong tâm thức của chúng ta. Như thế, thì ta thực sự chưa hiểu lời Phật dạy.
Tham dục nó không phải là đối tượng để ta tiêu diệt. Bởi nó cũng khởi lên từ tâm thức của ta. Khác nào như sóng khởi lên từ nước. Chả lẽ, nước lại đi tiêu diệt sóng sao? Mà tiêu diệt làm sao được? Khi một niệm tham dấy lên, ta chỉ cần có chánh niệm nhận diện nó. Ta nên lưu ý, nhận diện khác hơn đàn áp. Đàn áp hay đè ép, đó không phải là biện pháp hay. Vì đó tạo thành một đối tượng tiêu diệt.
Thí dụ, như một niệm giận nổi lên, ta dùng câu thần chú, hay câu hiệu Phật hay bất cứ đề mục nào khác, để ta trấn áp nó. Phương pháp này, khác nào như chúng ta lấy đá đè cỏ. Dùng sức mạnh để trấn áp, biện pháp đó, chưa đủ sức để làm cho nó an ổn. Nghĩa là không thể phục hồi cho nó trở lại như lúc chưa khởi lên cơn giận.
Theo tôi, chỉ có biện pháp hay nhứt là chúng ta cần phải thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên. Vì chánh niệm là một năng lượng, có mặt hoàn toàn của ta trong giây phút hiện tại. Chúng ta đừng quên rằng, cơn giận nổi lên, nó cũng là năng lượng một phần của tâm. Có nghĩa là nó cũng chính là một phần của ta biến ra. Do vọng tưởng hay tri giác sai lầm mà ta mới có ra sân hận. Năng lượng chánh niệm có khả năng nhận rõ cơn giận. Khi nhận biết rõ nó, ta cần thương yêu vỗ về nó, hơn là đàn áp chống đối, như bà mẹ thương yêu vỗ về an ủi đứa con đang tức giận khóc la. Với hành động ý thức thương yêu của bà mẹ, tất nhiên, là đứa bé sẽ từ từ êm dịu trở lại.
Cũng thế, khi có mặt chánh niệm nhận rõ ôm ấp vỗ về xoa dịu chuyển hóa cơn giận, tất nhiên, là cơn giận sẽ dịu lại và từ từ nó sẽ tan biến ngay. Khi nó tan biến, là ta đã thành công. Vì ta không còn khổ đau bởi do nó hoành hành dắt dẫn ta nữa. Nếu như ta đánh mất chánh niệm, không kịp thời nhận diện, mà chúng ta theo nó hành động, thì hậu quả xảy ra sẽ không thể nào lường trước được.
Khi nhận biết nó rồi, thì nó không thể nào có cơ hội lộng hành, tác oai tác quái dẫn ta theo nó được. Đó là cách xoa dịu vỗ về chuyển hóa hay nhứt. Nếu cần, chúng ta cũng nên lập tức trở về với hơi thở, theo dõi hơi thở ra vô và nhận diện rõ ràng. Chúng ta phải thiết thực nhận diện và giữ thật yên lặng vài ba phút. Được vậy, thì cơn giận sẽ bị khắc chế điều phục và chúng ta sẽ lấy lại sự tỉnh táo an bình ngay. Bạn cứ thử thực tập một cách thiết thiệt, thì bạn sẽ thấy sự kỳ diệu của nó. Điều này là một chứng nghiệm chớ không phải nói ngoa. Mong bạn cố gắng thực tập và để tâm sâu sắc về vấn đề này.
217. “Ðủ giới đức, chánh kiến;
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình,
Ðược quần chúng ái kính.”
218. “Ước vọng pháp ly ngôn
Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly ác dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu.”Lược giải
217. Đầy đủ giới hạnh và chánh kiến, an trú Chánh pháp, rõ lý Chơn thường, viên mãn các công hạnh, ấy mới là người đáng ái mộ.
People hold dear him who embodies virtue and insight, who is principled, has realized the truth, and who himself does what he ought to be doing.
Kệ tụng
Đủ giới đức trí đức
An trú Pháp, chân lý
Tự làm tròn bổn phận
Là người đáng kính mến.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện năm trăm thanh niên.
Theo truyện tích, trên đường vào thành Vương Xá khất thực, đức Phật và Thánh chúng gặp năm trăm thanh niên, trên vai họ mang bánh đi đến chỗ lễ hội. Khi đó, họ chỉ khẻ chào Phật và tiếp tục đi. Họ không mời Phật và các vị Tỳ kheo ăn bánh.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Tỳ kheo, tuy họ không cúng bánh cho chúng ta, nhưng không lâu, chúng ta sẽ hưởng được những quả bánh này, vì có người sẽ bảo họ dâng cúng. Thật vậy, trong khi Phật và thánh chúng đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, thì cả bọn thanh niên này đến dâng bánh cúng dường cho Phật và chúng Tăng. Sở dĩ họ dâng cúng, là vì họ nghe theo lời chỉ dạy của Ngài Ca Diếp đi phía sau Phật.
Thấy thế, các vị Tỳ kheo tỏ ý bất bình, nhân đó, Phật nói:
- Này các Tỳ kheo! Một Tỳ kheo như Đại Ca Diếp rất được trời người kính mến, đối với vị như vậy họ rất hân hạnh được dâng cúng tứ sự và rồi Phật nói pháp cú này.(Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật nêu rõ người đáng được kính mến, phải là người có đầy đủ giới hạnh và chánh kiến, rõ lý chơn thường và viên mãn các công hạnh. Trong hàng thập đại đệ tử của Phật, Tôn giả Đại ca diếp là có biệt hạnh đầu đà đệ nhứt. Ngài nổi tiếng về sự tu khổ hạnh. Giới đức của Ngài không thua gì Phật, nên Phật đã nhiều phen khen ngợi Ngài. Tuy được Phật tán dương khen ngợi về đức hạnh, nhưng Ngài không lấy đó làm kiêu hãnh, mà trái lại, Ngài rất hạ mình khiêm cung với các bạn đồng tu.
Đối với người xuất gia, Phật không tán dương về học lực, vì đó chỉ là phần phụ, mà Phật luôn ca ngợi tán thán về đức hạnh. Vì đức hạnh là căn bản phải có của người tu. Mà muốn có đức hạnh, thì người tu phải gìn giữ giới luật trang nghiêm. Có nghiêm trì giới luật, thì người tu mới có đức hạnh. Phật dạy, người xuất gia phải luôn hành trì ở nơi Tam đức. Tam đức là: “Đoạn đức, Trí đức và Ân đức”. Ba đức này là uy quyền của con đường đạo đức tâm linh. Người tu, thiếu một trong ba đức này, thì chưa tròn phẩm hạnh ở nơi chính mình và như thế sẽ không làm sao cảm hóa kẻ khác.
Đoạn đức, có khả năng chặt đứt hết cội rễ vô minh. Mà hiện tướng của nó là những thèm khát, những đam mê, những dục vọng đòi hỏi tha hóa trụy lạc…Có chặt đứt hết cội rễ của nó, thì mới đem lại sự an vui hạnh phúc cho mình và tha nhân. Mà muốn chặt đứt như thế, tất người tu cần phải có trí huệ, đó là trí đức. Nhờ có mặt trời trí huệ soi sáng mới phá tan được bóng tối si mê. Bóng tối si mê không còn, thì ngay đó thể tánh thanh tịnh sáng suốt hiện bày. Tất nhiên, là sẽ chấm dứt mọi khổ đau hệ lụy. Ân đức là nói lên đức tánh chấp nhận rộng lượng bao dung và chuyển hóa, tha thứ. Người tu phải có tấm lòng từ bi vị tha khắp cả muôn loài. Đó là con đường hóa giải mọi tranh chấp hận thù và đưa con người sống trở lại đầu nguồn của cuộc sống tươi mát gần nhau hơn.
Chánh kiến là con đường dẫn vào chánh pháp. Có chánh kiến thì mọi nhận định sai lầm sẽ không còn. Người ta đau khổ nhiều là bởi do những tri giác sai lầm. Câu chuyện thương tâm giữa thiếu phụ Nam Xương và chàng Trương là một chứng minh cụ thể cho việc nhận định của tri giác sai lầm này. Vì nghe lời đứa trẻ thơ con mình kể chuyện về cái bóng, mà chàng Trương hiểu lầm tưởng là vợ mình ở nhà ngoại tình với người đàn ông khác. Từ đó, chàng Trương âm thầm ôm hận ghen tuông mà không một lời thố lộ. Chính cái thái độ đối xử lạnh lùng nghiêm khắc của chàng ta, mà làm cho thiếu phụ Nam Xương cảm thấy thật vô cùng bực mình áy náy khó chịu và nàng cũng không hiểu lý do tại sao. Từ thương yêu trở nên thù hận. Bởi cả hai người đều ôm nặng mặc cảm, âm thầm chịu đựng. Không ai chịu mở lời để thiết lập truyền thông cởi mở tìm hiểu rõ nguyên nhân của vấn đề. Do đó, người thiếu phụ xấu số kia đành phải âm thầm nuốt tủi gạt lệ khóc thầm mà quyên sinh kết liễu đời mình. Nàng từ giả vĩnh viễn cõi đời mang nặng nỗi niềm uất hận nghẹn ngào không một lời giải tỏa.
Về sau, khi nghe đứa bé chỉ vào cái bóng của chàng Trương, nói rằng đó là ba nó, bấy giờ chàng Trương mới vỡ lẽ hiểu ra là mình đã hiểu lầm và chính mình là nguyên nhân hành hạ đưa đến cái chết cho vợ mình. Đó là hậu quả quá thương đau vì lòng ghen tức căm thù không nói nên lời. Khi hiểu ra, hối hận, thì chuyện đã rồi! Thế là, chàng ta đành ôm nặng nỗi lòng ăn năn hối hận ray rứt cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Đó là một bài học rát bỏng về những tri giác sai lầm mà ta cần phải lưu tâm để ý.
Hiện tại, có biết bao cặp vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con cái trong gia đình vướng mắc cái chứng bệnh u uất hiểu lầm này. Mỗi người giữ thái độ im lặng âm thầm ghìm nhau mà căm hận. Vì tự ái tràn ngập nên không ai chịu mở lời trước để thiết lập truyền thông cởi mở giải bày cho nhau. Cuối cùng, đưa đến cái hậu quả lắm tang thương là gia đình tan nát đổ vỡ. Có đôi khi đưa đến cái chết tức tưởi như nàng thiếu phụ Nam Xương. Ôi! thật là đáng tiếc biết bao! Khi hối hận thì mọi việc đã quá muộn màng. Chi bằng ta nên thông cảm cởi mở tìm cách giải quyết cho nhau. Được thế, thì còn gì quý giá đẹp đẽ cho bằng. Đó là phương thuốc thần diệu để bảo tồn mái ấm hạnh phúc gia đình.
Trở lại vấn đề nói trên, bởi do nhìn đời bằng những cặp kính màu “Biến kế” chủ quan, nên từ đó nhơn loại đã gây ra biết bao cảnh tang thương làm khổ đau cho nhau. Muốn hết khổ đau, con người phải mau gấp rút tháo gỡ những cặp kính màu “nhị nguyên đối đãi” xuống. Hãy nhìn sự vật đúng theo lẽ thật của nó. Đó là nhận rõ lý chơn thường của vạn pháp. Nhìn đời không vọng tưởng phóng đại, không vẽ rắn thêm chưn, thì mọi ý niệm tương tranh sẽ lập tức chấm dứt ngay. Chừng đó, con người sẽ chung sống trong một thế giới an lạc hòa bình hạnh phúc.
218. Khát cầu pháp ly ngôn, sung mãn tâm cứu xét, không đắm mê dục lạc, ấy là bậc thượng lưu[2].
One who is intent upon the Ineffable (Nibbana), dwells with mind inspired (by supramundane wisdom), and is no more bound by sense pleasures – such a man is called “One Bound Upstream”.
Kệ tụng
Khát cầu pháp ly ngôn
Tâm xúc cảm thượng quả
Không đắm say ái dục
Thật xứng bậc thượng lưu.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị trưởng lão đắc quả A na hàm.
Một ngày kia, các đệ tử của vị trưởng lão hỏi thầy mình như sau:
- Bạch thầy, thầy đã đạt Thánh quả chưa?
Vị trưởng lão nghĩ: “Ngay cả hàng tục gia cư sĩ cũng có thể chứng Tam quả (A na hàm) . Để đợi khi ta chứng Tứ quả rồi sẽ nói với chúng”. Và vì ngượng thầy không nói chi. Không bao lâu, thầy viên tịch và tái sanh lên cõi trời Ngũ Na hàm. Các đệ tử của thầy khóc lóc than thở, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên, cũng còn than khóc. Phật hỏi:
- Vì sao các ông khóc?
- Thầy chúng con đã mất, bạch Thế Tôn!
- Không sao cả, các ông chớ buồn, đó là luật vô thường.
- Thưa vâng, chúng con biết điều ấy. Nhưng chúng con đã hỏi người chứng quả hay chưa, mà người mất, không trả lời chúng con. Vì thế chúng con buồn.
- Này các Tỳ kheo, các ông chớ lo lắng, thầy các ông đã chứng Tam quả và nghĩ rằng: “Ngay cả hàng tục gia cư sĩ cũng có thể chứng Tam quả. Khi nào chứng Tứ quả, ta sẽ nói với chúng”. Vì ngượng nên ông ấy không nói. Khi mất, ông ấy tái sinh vào cõi Ngũ Na hàm thiên. Các ông hãy vui mừng, thầy các ông đã thoát ngũ dục.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 415)
Pháp ly ngôn là pháp không còn bị hạn cuộc trong phạm trù nhân duyên đối đãi. Pháp nầy, không thể dùng lời nói để suy nghĩ luận bàn. Nó thoát ra ngoài mọi danh ngôn sắc tướng. Ngôn ngữ chỉ diễn tả được những gì có hình tướng. Đến chân lý tuyệt đối, thì ngôn ngữ phải đầu hàng. Người tu dù xuất gia hay tại gia, mục đích chính cũng đều nhắm đến pháp ly ngôn này. Nói cách khác cho dễ hiểu là pháp gốc hay bản tâm chơn thật của mọi người. Pháp này ai ai cũng đều sẵn có. Đó là một thực thể sáng suốt, là bản nhiên thanh tịnh tiềm tàng trong mọi vật thể. Thực thể này, đối với
các loài hữu tình, thì gọi là Phật tánh. Đối với các loài vô tình, thì gọi nó là pháp tánh.
Pháp ly ngôn ở đây, Phật muốn ám chỉ cái thể tánh Niết bàn của A la hán. Niết bàn này là đồng nghĩa với vô sanh. Vì vô sanh nên tự thể của nó là ly khai mọi ý niệm vọng chấp. Đến đây, bặt dứt ngôn ngữ diễn tả luận bàn. Nên nói, nó là pháp ly ngôn. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý (1019- 1088) thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, trước khi thị tịch, Ngài có để lại bài kệ thị chúng như sau:
Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn
Dịch nghĩa:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy
Lò lửa hoa sen nở thật xinh
(Thiền sư Thích Thanh Từ)
Người tu, muốn đạt được Niết bàn này, Phật vạch bày ra nhiều con đường, hay nhiều pháp môn. Con đường theo hệ giáo lý Nguyên Thủy, thì hành giả phải theo con đường mòn: “Niệm, Định, Tuệ”. Niệm là sự có mặt của cái biết hiện tiền. Cái “Biết” tinh sáng thuần túy không xen lộn với bất cứ tạp niệm nào khác. Cái biết tràn đầy mà Phật nói là: “sung mãn tâm lự sát”. Niệm là bước khởi đầu của Định. Định là dừng tất cả mọi vọng tưởng nghĩ suy tính toán. Như nước đã lóng trong đứng yên, không dao động. Khi đã có định, tất nhiên sẽ phát huệ. Huệ là trí sáng nhận rõ từng niệm vọng khởi hiện tiền. Biết rõ những gì hiện có mặt và đang xảy ra. Đến đây, hành giả không còn đắm mê mọi dục lạc. Tất sẽ đạt được Niết bàn an lạc, mà ở đây gọi là bậc “thượng lưu”.
Người tu hành chơn chánh không đặt thành vấn đề chứng hay không chứng. Vì tu hành mà còn thấy có chứng, có đắc, thì đó không phải là bậc chơn tu. Tại sao? Vì còn có bốn tướng: “ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả”. Mà tự thể bản nguyên của sự vật vốn là ly khai tất cả tướng. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Ly nhứt thiết tướng, tức nhứt thiết pháp”. Kinh Kim Cang Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng, tức kiến Như Lai”. Như Lai là thể tánh thanh tịnh sáng suốt bất sanh bất diệt. Còn tướng là còn sanh diệt. Thế thì, sao gọi là chứng đắc? Thế nên, câu chuyện trên, vị trưởng lão, khi được các đệ tử hỏi thầy mình về quả vị chứng đắc, ông không trả lời, cũng bởi lý do đó.
219. “Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng.”
220. “Cũng vậy các phước nghiệp,
Ðón chào người làm lành,
Ðời này đến đời kia.
Như thân nhân, đón chào.”Lược giải
219. 220. Người khách ly hương lâu ngày, từ phương xa trở về an ổn, được bà con thân hữu đón mừng như thế nào, thì người tạo phước nghiệp cũng vậy, khi từ cõi đời nầy sang cõi đời khác, phước nghiệp của họ là kẻ thân hữu đón mừng họ.
When, after a long absence, a man safely returns home from afar, his relatives, friends and well-wishers welcome him home on arrival.
As kinsmen welcome a dear one on arrival, even so his own good deeds will welcome the doer of good who has gone from this world to the next.
Kệ tụng
Khách lâu ngày ly hương
Từ viễn xứ về làng
Bà con cùng thân hữu
Hân hoan đón chào mừng
Cũng vậy các phước nghiệp
Đón chào người làm lành
Đời nầy đến đời kia
Như thân nhân chào đón.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại Lộc Uyển có liên quan đến Nandiya.
Nandiya là một thanh niên con của một gia đình Phật tử rất thuần thành ở thành Ba la nại. Vì là người hiền hậu có nhiều đức tánh tốt, nên chàng ta được gia đình cho làm thị giả chư Tăng. Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ chàng quyết định cho chàng kết hôn với một cô gái tên là Revati, nhà đối diện. Nhưng chàng ta không chịu, vì nàng này không có lòng tin kính Phật pháp.
Bà mẹ chàng thấy thế, mới chỉ vẻ bày cách cho Revati để chinh phục lòng chàng. Kết quả, chàng ta đồng ý và làm lễ thành hôn. Từ đó, Revati trở nên một cô gái hiếu thảo và rất tin kính cúng dường Phật và chúng Tăng. Sau thời gian sống chung, hai người cho ra đời hai đứa con trai kháu khỉnh. Cả hai đều sống rất hạnh phúc. Không bao lâu, cha mẹ chàng đều lần lượt qua đời để lại gia tài giàu có cho hai người cùng hưởng.
Cả hai đều hết lòng cúng dường Phật và Thánh chúng thường xuyên. Ngoài ra, Nandiya còn bố thí vật thực cho những người nghèo khổ. Chàng còn xây cất tinh xá cho Phật và chúng Tăng trú ngụ. Nhờ công đức cúng dường mà chàng ta được phước đức rất lớn. Nghĩa là, trên cõi trời Ba mươi ba có nhiều cung điện sang trọng dành riêng cho Nandiya. Khi Tôn giả Mục kiền liên du hành ở cõi trời này đã chứng kiến tận mắt và sau đó trở về bạch lại cùng với đức Phật.
Phật nói rằng, những tòa lâu đài cung điện đó, sẽ được đón tiếp Nandiya sau khi chàng ta bỏ thân này và sanh lên đó. Chư thiên đón tiếp như một người thân yêu rời xa quê hương nay đã được trở về quê hương với biết bao niềm vui sướng mừng rỡ. Họ tranh nhau đón tiếp một cách chân tình nồng hậu vậy. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Phước hay tội đều do chúng ta tạo ra từ ở nơi ba nghiệp: thân, miệng và ý. Nếu hiện đời, chúng ta gây tạo nhiều phước đức, thì chẳng những sau khi chết, chúng ta sẽ hưởng quả báo tốt đẹp an vui, mà còn ngay cả hiện đời này, chúng ta cũng gặt hái những quả báo tốt lành. Đó là theo luật nhân quả nghiệp báo không sai.
Quả báo có được thù thắng hay không, còn tùy thuộc vào cái nhân mà chúng ta đã gây tạo phưóc đức nhiều hay ít. Và khi tạo phước, điều quan trọng là ở nơi tâm ý. Nếu chúng ta cúng dường hay bố thí, hoặc giúp đỡ người nghèo khổ v.v… tất cả đều tùy thuộc ở nơi tấm lòng của chúng ta có thành tâm hay không. Phước nhiều hay ít là ở nơi cái tâm, chớ không phải ở nơi đồ vật dâng cúng hay bố thí nhiều ít. Nếu chúng ta làm phước với cái tâm bất kính, ngạo mạn khinh người, thì chắc chắn cái quả báo mà ta hưởng sẽ không có bao nhiêu. Chẳng những thế, mà đôi khi còn trở nên có tội nữa không chừng. Cho nên, khi làm phước ta nên cẩn trọng ở nơi tâm ý. Phải có tấm lòng cung kính thương yêu. Có thế, thì việc làm phước của ta mới có ý nghĩa và mới được lợi ích lớn. Bằng ngược lại, thì chỉ thêm mang trọng tội mà thôi!
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, Nandiya sở dĩ được phước báo lớn lao như thế, là vì chàng ta cúng dường bố thí bằng tất cả tấm lòng cung kính ở nơi Phật và chúng Tăng. Ngược lại, nàng Revati, thì không có cái tâm cung kính đó. Và cuối cùng, nàng ta bị chuốc lấy một hậu quả lắm tang thương là rơi vào địa ngục. (Theo trong chú giải Vimàna- Vatthu kể lại, sau khi Nandiya sanh thiên, Revatì thôi không cúng dường chúng Tăng, mắng chửi Tỳ kheo và bị ném vào địa ngục lúc còn sống).
Có người khi làm phước giúp đỡ cho ai, thì hay kể công lao hoặc có tâm khinh mạn. Hết chê trách người này, đến mạt sát kẻ kia, tưởng như thế là chứng tỏ mình có công lao ngon lành lắm. Nhưng họ không biết rằng, chính cái thái độ ngã mạn, cống cao hách dịch lòe thiên hạ đó, thật là một hậu quả tai hại rất lớn lao! Hiện tại, họ không được người ta quý kính nể nang, tương lai, họ lại rơi vào con đường tối tăm đau khổ. Cái nhân như thế, thì bảo cái quả phải tốt đẹp sao cho được?! Cứ nhìn vào cái bóng của mình thì biết rõ. Hễ mình ngồi, thì bóng mình cũng ngồi. Mình đi thì bóng mình cũng đi… Nhân quả trả vay như bóng theo hình, một mãy may không hề sai chạy.
Là Phật tử, chúng ta nên hết sức cẩn trọng, không nên có tâm khinh thường nhân quả mà chuốc lấy khổ lụy vào thân. Chừng đó, dẫu mình có ăn năn hối hận thống trách, thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Không ai cứu thoát cởi trói cho mình được đâu! Hãy tự mình thắp sáng ngọn đuốc trí huệ lên mà đi. Nhưng phải thắp lên với chánh pháp.
Phẩm Phẫn Nộ
221. “Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc.
Khổ không theo vô sản.”
222. “Ai chận được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ.”Lược giải
221. Xả bỏ lòng giận dữ, trừ diệt tánh kiêu căng, giải thoát mọi ràng buộc, không chấp trước danh sắc[3], người không có một vật chi ấy, sự khổ chẳng còn theo dõi được.
One should give up anger, renounce pride, and overcome all fetters. Suffering never befalls him who clings not to mind and body and is detached.
Kệ tụng
Xả bỏ lòng giận dữ
Trừ bỏ tánh kiêu căng
Vượt ngoài mọi ràng buộc
Không chấp trước danh sắc
Người chẳng còn một vật
Khổ không sao theo dõi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại rừng Banyan, có liên quan đến Rohinì, một thiếu nữ Sát lợi.
Theo truyện tích, một hôm, Tôn giả A nậu lâu đà trở về thành Ca tỳ la vệ với năm trăm Tỳ kheo tùy tùng. Được tin mọi người trong hoàng tộc đều đến tinh xá đón chào, ngoại trừ cô em Rohinì.
Nhìn không thấy cô em gái, Tôn giả liền hỏi duyên do, mọi người cho biết Rohinì vì bị bệnh mụn nhọt đầy người, nên hổ thẹn khi ra ngoài. Tôn giả ra lệnh bảo phải đến. Thế là Rohinì, không thể ẩn mặt, phải đến gặp Tôn giả.
Sau khi hỏi han vấn đáp qua lại, Tôn giả bảo Rohinì nên bán hết đồ nữ trang của nàng để xây dựng tinh xá, thỉnh Phật và chúng Tăng đến cúng dường. Rohinì vâng lời làm theo và sau khi hoàn thành, nàng thỉnh Phật và chư Tăng đến, bỗng nhiên bệnh mụn nhọt của nàng tan biến hết.
Cúng dường xong, Phật nói rõ nguyên nhân mà nàng đã phải mang chứng bệnh mụn nhọt đó. Phật nói, chính do lòng sân hận gây nên. Nghe Phật nói thế, nàng ta thắc mắc hỏi Phật. Phật kể lại chuyện tiền thân quá khứ của nàng.
Xưa kia, chính nàng là hoàng hậu, chỉ vì lòng ganh tỵ với một cô vũ nữ, mà nàng đã nhẫn tâm làm hại cho cô đó phải mang bệnh ghẻ nổi khắp mình. Do nguyên nhân đó, nên nay nàng phải trả cái quả báo xưa kia đã gây. Đó là do lòng sân hận ganh tỵ mà ra. Tuy nhiên, Phật lại nói tiếp cho chúng ta biết, vì nhờ tấm lòng chân thành phát khởi tín tâm cúng dường của nàng, nên sau khi mạng chung, nàng được sanh lên cõi trời Ba mươi ba để hưởng nhiều phước lạc. Khi sanh lên đây, nàng có thân tướng rất đẹp. Sắc đẹp của nàng kiêu sa lộng lẫy, đến nổi tứ thiên vương phải tranh nhau. Cuối cùng, nàng về tay của Thiên chủ đế thích và từ đó, nàng ta vui hưởng một cuộc đời tràn đầy an lạc hạnh phúc. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Sân hận là một tánh xấu thuộc căn bản phiền não. Nó có gốc rễ rất sâu dầy, thật khó trừ, khó đoạn. Nó là thứ lửa dữ, đốt cháy cả mình và người.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, hậu quả của lòng sân hận. Rohinì là một cô gái bị bệnh mụn nhọt nổi đầy mình. Thử hỏi một cô gái đang tuổi xuân xanh, mà mắc phải chứng bệnh như thế, thì có nỗi đau khổ nào bằng! Suốt ngày, nàng không dám bước chân ra ngoài, vì sợ người ta nhìn thấy chê cười. Nhưng nỗi khổ đó, không phải tự nhiên mà có. Phật kể lại chuyện tiền kiếp của nàng. Nếu Phật không nói, chắc không ai biết được.
Bài học này cho ta thấy, bất cứ việc gì xảy ra cho ta và người trong hiện tại, đều có nguyên nhân của nó. Vì lòng sân hận ganh tỵ tìm cách hại người, tưởng rằng như thế là không có gì, nhưng nhân đã gây, thì khó tránh khỏi cái quả báo. Dù hiện đời không trả, đời sau cũng phải trả.
Hiện trạng của xã hội ngày nay, đã xảy ra biết bao cảnh tang thương bi đát, vì lòng sân hận này. Trong gia đình, cha có thể hại con, con có thể giết cha, chồng có thể giết vợ, vợ có thể hại chồng, mẹ có thể hại con, con nhẫn tâm giết mẹ, bà con thân thuộc cấu xé tàn hại lẫn nhau v.v… rộng ra là cả quốc gia xã hội, rồi đến thế giới, tất cả, cũng chỉ vì không hóa giải được lòng sân hận mà ra. Do đó, nên mới có biết bao thảm trạng hệ lụy khổ đau. Sân hận là một thứ tập khí rất nguy hiểm. Một thứ hạt giống không được tưới tẩm bởi giọt nước cam lộ từ bi, nên càng ngày nó càng phát triển mạnh theo chiều hướng ác nghiệp.
Khi có chuyện bất bình trong gia đình, người ta không chịu tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách hóa giải. Cứ mỗi lần xảy ra là mỗi lần dồn nén đưa nó vào trong vô thức hay tiềm thức, lâu ngày hạt giống sân hận càng mạnh, đương nhiên đến một lúc nào đó, thì nó sẽ bộc phát mạnh mẽ dữ dội, có thể cầm dao hay súng bắn giết người mà không một chút gớm tay.
Ta nên nhớ rằng, sân có ra là từ lòng tham. Mà gốc của nó là từ si mê. Vì si mê, nên mới buông lung tâm ý thất niệm. Vì thất niệm, (tức không có mặt của cái biết trong giây phút hiện tại, để nhận diện những gì đang xảy ra cho ta và người), nên mới gây ra khổ đau cho nhau. Đó là chuyện thường tình của con người xưa cũng như nay. Đó là vì chúng ta thiếu tu. Người có tu là tất có an lạc hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta thiếu tu, không có chánh niệm, thiền quán, hằng quán niệm hơi thở, thì chúng ta sẽ chuốc lấy khổ đau tràn ngập vậy.
Pháp cú trên, Phật bảo chúng ta phải xả bỏ lòng giận dữ, trừ diệt tánh kiêu căng, giải thoát mọi ràng buộc, không chấp trước danh sắc, người không một vật chi ấy, sự khổ chẳng còn theo dõi được. Nếu nói ngược lại, sở dĩ chúng ta khổ là vì chúng ta còn giận dữ, kiêu căng, chấp trước ở nơi thân tâm (danh sắc). Bởi do những nguyên nhân đó, nên chúng ta chưa được giải thoát. Muốn giải thoát, thì chúng ta phải không còn mang nặng một vật chi ấy, phải buông tất cả mọi gánh nặng chấp trước ở nơi thân, tâm cũng như ngoại cảnh, nói gọn là hằng chiếu kiến ngũ uẩn giai không, như thế, thì mới mong vượt qua mọi khổ ách vậy.
222. Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên, như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ mà thôi.
He who checks rising anger as a charioteer checks a rolling chariot, him I call a true charioteer. Others only hold the reins.
Kệ tụng
Ai chận được cơn giận
Như dừng xe đang lăn
Ta gọi người đánh xe
Kẻ khác, cầm cương hộ[4].
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Aggàlava, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, kể từ khi Phật cho phép các thầy Tỳ kheo sống ngoài tinh xá, các vị trưởng giả ai nấy đều lo xây cất những ngôi thất cho các thầy. Có một thầy Tỳ kheo ở Àlavi tự đốn cây để xây cất. Thầy đốn một cây mà trên cây đó có một vị nữ thọ thần, bà ẩm đứa con nhỏ của mình hiện ra trước thầy năn nỉ. Nhưng sự năn nỉ của bà vô hiệu quả, vì thầy đã quyết chọn cây này không còn cây nào khác. Thấy lời năn nỉ của mình không được, bà liền nghĩ cách là đưa đứa bé lên cành cây để ngăn lại, nhưng không ngờ lỡ tay thầy Tỳ kheo đã chặt đứt một cánh tay của đứa nhỏ. Thấy thế, nữ thọ thần nổi giận định vặn chết thầy Tỳ kheo, nhưng bà ta kịp thời dừng tay lại. Bà nghĩ, thầy Tỳ kheo này là bậc hiền thiện, nếu giết chết ông, thì ta sẽ rơi vào địa ngục. Chi bằng, tốt hơn hết là ta nên tìm đến bậc thầy của ông ta để giải quyết. Thế là bà ta tìm đến đức Phật.
Sau khi nghe bà thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Phật liền khen ngợi :
- Lành thay! Lành thay! Ngươi đã cư xử rất tốt khi kềm hãm cơn giận như thắng chiếc xe lao nhanh.
Phật liền nói kệ, nghe xong, nữ thần chứng được sơ quả và cả hội chúng đều được lợi ích.
Nhưng sau đó, nữ thần vẫn đứng khóc. Phật hỏi duyên do vì sao? Nữ thần bạch Phật là không còn nhà cửa để trú ngụ. Phật bảo, ngươi hãy đến trú ngụ ở một cái cây gần hương thất của ta, nơi đây, chắc chắn là sẽ yên ổn, vì không có ai dám đến khuấy rầy nhà ngươi nữa. Nhân đó, Phật liền chế giới cho các thầy Tỳ kheo “không được chặt đốn cây cối”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Thắng chế ngự được lòng sân hận đang trào dâng lên, thật đó không phải là chuyện dễ làm. Nếu không thắng kềm hãm được, thì lập tức hậu quả sẽ xảy ra không thể lường được. Chuyện lược dẫn kể trên, cho ta một bài học rất lớn về sự chế ngự lòng sân hận. Giả như nữ thần kia, không chận đứng dập tắt được ngọn lửa sân hận trong lòng, thì hậu quả sẽ rơi vào địa ngục như tên bắn. Bởi thế, người xưa nói: “Nhẫn nhứt thời chi khí, miễn bá nhựt chi ưu”. Nghĩa là chỉ cần nhẫn nhịn trong một hơi thở thôi, mà tránh khỏi lo sợ khổ não cả trăm ngày.
Muốn chế ngự được lòng sân hận, Phật dạy chúng ta phải tập huân tu hạnh từ bi. Vì có tình thương chân thật, chúng ta mới không bực tức nổi giận. Mà muốn có tình thương yêu, tất nhiên, chúng ta cần phải có sự tìm hiểu. Hiểu là nền tảng vững chắc để xây dựng tình thương. Thiếu yếu tố “Hiểu” này, chúng ta sẽ không bao giờ có được tình thương. Có hiểu ta mới cảm thông. Có cảm thông, ta mới dễ rộng lượng tha thứ. Mỗi người ai cũng có biệt nghiệp. Hai hạt giống xấu và tốt ai ai cũng đều sẵn có. Nhưng hạt giống xấu thì nhiều mà tốt thì ít.
Sở dĩ nổi sân là vì chúng ta không hài lòng với người nào đó qua lời nói, thái độ hoặc hành động của họ. Khi ta hiểu rõ tật tánh của họ rồi, thì ta không còn buồn giận họ nữa. Khi nghe một lời nói trái ý, lập tức ta hãy thiết lập trở về với chánh niệm hơi thở ngay. Hơi thở là nhịp cầu thiết yếu để ta lấy lại sự bình tĩnh. Khi an trú vào hơi thở chánh niệm, cơn giận tức của ta sẽ từ từ lắng dịu lại. Nó không còn có cơ hội bộc phát mạnh bạo nữa.
Thử hỏi có bao giờ ta nổi cơn thịnh nộ lôi đình với một người đang mắc phải chứng bệnh tâm thần nặng không? Chỉ có người điên mới giận kẻ khùng. Còn người tỉnh táo ai lại giận người mê. Người thức mà chửi mắng kẻ ngủ, thì hóa ra người đang thức kia cũng trở thành là kẻ đang ngủ mê. Nghĩ thế, thì ta là người tỉnh, không lý do gì, ta lại đi nổi giận ăn thua đủ với người mê. Do quán chiếu thường xuyên như thế, thì hạt giống sân hận trong tâm thức của chúng ta sẽ từ từ suy yếu giảm lần cường độ rất nhiều.
Muốn làm người chế ngự giỏi hay làm người thắng xe giỏi, không phải tự nhiên mà làm được. Tất nhiên, ta cần phải học cách chế ngự và cách thắng. Học không chưa đủ, mà ta còn phải huân tu thật hành mỗi ngày. Ta phải tập rà thắng thường xuyên chính bản thân ta, mỗi khi ta thốt ra lời nói hay hành động. Ta nên ý thức rằng, một niệm sân giận nổi lên, thì ngàn cửa nghiệp chướng đau khổ mở rộng chờ ta. Đừng khinh thường một niệm sân nhỏ. Một tàn thuốc có thể đốt cháy cả khu rừng. Đó là chuyện rất bình thường. Thế thì, để có được một đời sống an ổn hạnh phúc cho ta và người, Phật dạy chúng ta phải là kẻ chế ngự, thắng xe giỏi. Ngoài ra, chỉ là kẻ cầm cương và thắng hờ mà thôi. Xin mọi người chớ nên lơ là khinh thường cái giây cương, tay thắng giới luật và chánh niệm của chính mình.
223. “Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy.”
224. “Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới.”Lược giải
223. Lấy không giận thắng giận, lấy lành thắng chẳng lành, lấy cúng dường thắng xan tham, lấy chơn thật thắng hư ngụy.
Overcome the angry by non-anger; overcome the wicked by goodness; overcome the miser by generosity; overcome the liar by truth.
Kệ tụng
Lấy Từ thắng Nóng giận
Lấy Thiện thắng Ác hung
Lấy Thí thắng Xan tham
Lấy Chơn thắng Hư ngụy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, sau khi thọ trai tại nhà Uttarà, có liên quan đến nữ cư sĩ Uttarà.
Punna là một người nghèo khổ, làm thuê cho trưởng giả Sumana. Chàng có một vợ và một người con gái tên là Uttarà. Cả hai đều làm nô tỳ cho ông trưởng giả Sumana này.
Những người làm thuê cho ông trưởng giả đều nghỉ lễ thời gian bảy ngày. Riêng Punna thì vẫn đi làm như thường lệ. Sáng sớm, hắn dắt bò ra đồng đi cày. Trước khi ra đồng, Punna nói với người vợ, là nàng đem cơm cho chàng vào buổi trưa.
Hôm ấy, sau khi quán sát căn cơ chúng sanh, Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ thầm, ta nay nên độ cho Punna, vì ông ấy có duyên với ta. Thế là, Tôn giả mang bát đi ngang qua cánh đồng mà Punna đang cày. Tôn giả dừng chân đứng yên. Thấy thế, Punna nghĩ thầm, chắc là Ngài cần tăm xỉa răng. Punna liền đem tăm xỉa răng đảnh lễ dâng lên Ngài. Tôn giả trao đãy lược nước và bình bát cho Punna. Punna múc đầy nước trong bát dâng lên cho Tôn giả.
Đến trưa, người vợ mang cơm ra đồng cho chồng, thấy Tôn giả, bà liền dâng cúng thức ăn cho Ngài Xá Lợi Phất. Và Tôn giả đã cầu nguyện hồi hướng công đức cho bà.
Trong khi đó, Punna quá đói bụng mà không thấy vợ đem cơm ra. Chàng ta ngồi nghỉ trông đợi. Bà vợ về nhà nấu phần ăn khác. Bà biết chồng quá đói bụng, nên khi mang thức ăn ra, bà ta nói thật cho chồng biết là phần cơm trước đã cúng dường cho Tôn giả Xá Lợi Phất. Nghe xong, Punna chẳng những không tỏ ra buồn giận mà chàng còn vui vẻ tùy hỷ việc làm của vợ. Chàng ta còn nói, hồi sáng này chính chàng ta đã dâng tăm xỉa răng và nước uống cho Tôn giả.
Vì quá đói ăn vào mệt, nên chàng ta gối đầu lên chân vợ và ngủ. Bấy giờ, tất cả đất cày lên từ sáng đã biến thành vàng. Được vàng quá nhiều, Punna liền mang hết dâng lên cho vua. Khi vua nhận được vàng, mọi người liền nói, đây là tài sản của vua. Lập tức tất cả vàng đều biến trở lại thành đất hết. Mọi người tâu lên vua, nhà vua kinh ngạc, bảo phải nói lại: đây là tài sản của Punna. Lập tức tất cả đất đều biến trở lại thành vàng. Mọi người đều chở vàng về cung điện. Nhà vua trao hết số vàng và tặng cho Punna một cây lộng báu. Punna không nhận, chỉ xin một chỗ trú ngụ. Nhà vua liền cấp cho Punna một khoảnh đất rộng rãi xinh đẹp. Xây cất nhà xong, Punna làm lễ khánh thành và cúng dường trai tăng bảy ngày.
Sau đó, Punna gả con gái mình là Uttarà cho con trai ông trưởng giả. Uttarà sau khi về nhà chồng không có cơ hội cúng dường Phật và nghe pháp, nàng ta rất buồn. Uttara tìm cách dùng tiền mướn Sirima, một cô gái kỹ nữ về phục vụ cho chồng để nàng được có thời giờ làm việc phước.
Một hôm, nhìn thấy người chồng mỉm cười với Uttara, Sirima bắt gặp và nổi cơn ghen với Uttara. Sirima lấy nước bơ nóng tưới lên đầu Uttara. Thấy thế, các gia nhân xúm lại đánh đập Sirima. Uttara khuyên ngăn và đở Sirima dậy. Đồng thời, nàng không trách móc mà còn cám ơn Sirima lo cho chồng để nàng có thời gian đi làm phước. Sirima cảm thấy tủi hổ và xin lỗi Uttara. Uttara nói, nàng hãy đến xin sám hối với đức Thế Tôn, bao giờ được đức Thế Tôn tha lỗi, thì nàng sẽ tha thứ.
Sirima nghe lời và làm theo. Biết được cớ sự, đức Phật rất khen ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Uttara! Đó là cách đúng nhất để dập tắt cơn giận. Từ bi có thể xóa sạch hận thù. Dùng không mắng chửi để thắng mắng chửi, dùng bố thí thắng xan tham, dùng thật ngữ thắng vọng ngữ. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện )
Người có một tấm lòng bao dung rộng mở tha thứ, phải là người có sức huân tu đạo lực khá. Phải hằng thực tập tu hạnh từ bi. Có tấm lòng hiểu thương người, mới thực sự biết tha thứ. Uttara là một cô gái đã thật hành hạnh tu từ bi. Bị người vũ nữ mướn về để phục vụ lo lắng cho chồng, mà có thái độ ghen tuông ngược lại, dùng nước bơ nóng tưới lên đầu, thế mà nàng ta không nổi giận trách mắng hành phạt. Trong khi đó, thì những gia nhân nổi tức xúm lại đánh đập Sirima. Uttara cản ngăn và nàng còn an ủi tha thứ lỗi lầm.
Với thái độ hành xử rộng lượng bao dung từ ái đó của Uttara, Sirima cảm thấy thật vô cùng hổ thẹn áy náy khó chịu. Sirima cảm thấy đau đớn trong lòng còn gấp hơn ngàn lần bị những tên gia nhân đánh đập. Thà bị đánh đập, mà nó chỉ đau đớn về thể xác bên ngoài. Còn hơn là bị đau đớn ray rứt trong tâm. Bị thương tích đau đớn ngoài da, người ta dùng thuốc xoa bóp trị liệu rồi cũng hết. Nhưng cái đau đớn thương tích trong lòng mới là cái nhức nhối dai dẳng khó chịu vô cùng.
Sirima đến xin lỗi Uttara, thay vì Uttara tha thứ, nàng ta bảo hãy đến bạch trình với đức Phật. Đó là điều mà nàng ta muốn có sự chứng minh và xác nhận của đức Phật, cho tấm lòng rộng lượng tha thứ bao dung của nàng ta, đúng theo hạnh từ bi mà Phật đã thường khuyên dạy. Đó là một cách hành xử thật vô cùng khôn khéo của Uttara.
Giả như Uttara lấy uy quyền của một người vợ cả, hành hạ đánh đập Sirima, thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là nó sẽ chồng chất cao thêm hận thù. Một hành động tha thứ như thế, đối với chúng ta thật không phải là chuyện dễ làm. Nhờ vào lòng từ bi nhân ái tha thứ của Uttara, mà Sirima mới hết lòng cảm phục và hổ thẹn. Đó là Uttara đã thực sự hóa giải hận thù. Quả đúng là “lấy cái không giận để thắng cái giận”. Từ đó chúng ta suy ra, lấy thiện thắng bất thiện, lấy bố thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy, đều là như thế cả.
Người ta đối xử với mình không tốt, thì mình vẫn lấy cái tốt, cái thiện đối xử lại với họ. Tất nhiên là ta phá vỡ được cái tâm lý gây sự bất an xung đột ngăn cách giữa hai người. Một người giận, người kia không giận, lấy cái không chọi lại cái có, tất nhiên, là cái có sẽ biến thành cái không. Cũng như ta đưa tay đánh mạnh vào hư không, thử hỏi có gây thương tích gì cho hư không không? Và cái cú đánh của ta đó, quả thật là vô nghĩa lý. Chẳng những thế, mà nó còn phản tác dụng ngược lại, là ta vô cùng hối hận cho cái cú đánh vô nghĩa lý của ta. Đánh mà không có đối tượng để nhận cái cú đánh đó. Đốt lửa vào hư không, chỉ là việc làm vô lý buồn cười mà thôi. Như thế, ta thấy những lời Phật dạy trong pháp cú trên, nếu ta cố gắng tu tập như Uttara, thì đời sống của ta thật là an vui hạnh phúc vô cùng.
Punna và người vợ, tuy nghèo khổ sống cực khổ bằng nghề làm thuê ở mướn. Nhưng cả hai đều có một tấm lòng rất tốt. Cả hai người đều hết lòng kính tin Tam bảo. Bằng chứng là cả hai đều phát tâm cúng dường thức ăn cho Tôn giả Xá Lợi Phất. Nhờ vào lòng thành tâm cúng dường, không chút hối tiếc, nên mới được cái phước đức lớn lao như thế. Đất biến thành vàng, đó là chuyện hy hữu ở thế gian. Điều này, nói lên cái tấm lòng vàng của hai vợ chồng nghèo. Cúng dường là bằng tất cả tấm lòng, chớ không phải ở nơi vật chất nhiều ít.
Phưóc ai nấy hưởng. Vàng chở đến cung điện dâng lên cho vua, nói là tài sản của vua, ngay đó, vàng liền biến trở lại thành đất. Thấy thế, nhà vua nói: “đây là tài sản của Punna”. Lập tức đất biến lại thành vàng. Chuyện như hoang đường, nhưng ý nghĩa thật là lý thú. Nhân ai gây người đó hưởng. Không thể người này ăn, mà người khác lại no. Đó là trái với luật nhân quả. Chứng minh rằng, luật nhân quả một mãy may không hề sai chạy. Làm lành được phước báo hiện tiền. Ngược lại, làm ác cũng thế. Đây là bài học lý thú để chúng ta noi theo mà cố gắng gây tạo nghiệp lành.
224. Nói chân thật, không giận hờn, san sẻ cho người xin[5]; đó là ba việc lành đưa người đến cõi chư Thiên.
Speak the truth; yield not to anger; when asked, give even if you only have a little. By these three means can one reach the presence of the gods.
Kệ tụng
Nói thật không nóng giận
Bố thí người đến xin
Nhờ ba việc lành nầy
Đưa người gần thiên giới
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Mục Kiền Liên.
Theo truyện tích, một hôm, Ngài Mục Kiền Liên lên cung trời dạo chơi, bất thần, Ngài thấy một vị trời có thần lực rất lớn đang đứng trước cung điện của mình.
Sau khi chào hỏi, Ngài Mục Kiền Liên muốn tìm hiểu về cái oai thần lực này. Đôi lần hỏi, nhưng vị thần đó từ chối không chịu trả lời. Cuối cùng, vị thiên thần đó mới nói:
- Thưa tôn giả, tôi không có làm việc phước đức chi, “chỉ có nói thật mà thôi”.
Tôn giả đi sang qua một vài cung điện khác, thấy các thiên nữ đang vui chơi, ngài hỏi một vị thiên nữ. Vị thiên nữ không thể che giấu, thưa thật với Tôn giả là chỉ “không hờn giận ai”, khi bị người khác la rầy chửi mắng. Do đó, nên được phước báo như thế này.
Tôn giả hỏi đến một vài vị khác, họ đều trả lời là nhờ “công đức cúng dường chúng Tăng”, nên mới được phước báo như thế này.
Sau đó, Tôn giả trở về bạch trình hỏi Phật về những duyên do: có phải vì nói thật, vì chế ngự cơn giận, vì cúng dường chút ít phẩm vật mà được phước báo sanh thiên như thế chăng?
Phật nói: vì sao ông hỏi ta điều ấy? Tất cả thiên thần không kể rõ cho ông biết sao?
Tôn giả trả lời: thưa vâng, con tin rằng chỉ vài điều thiện nhỏ như thế cũng đủ sanh thiên.
Phật dạy:
- Này Mục Liên, chỉ với lời nói thật, chỉ với việc chế ngự cơn giận, hay tặng một quà nhỏ, người được sanh thiên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Đời có quá nhiều gian xảo giả dối. Trong khi giao tiếp qua lại giữa người với người, người ta không ngần ngại dùng mọi mánh khóe xảo quyệt để lường gạt lừa bịp lẫn nhau. Mục đích cũng chỉ vì quyền lợi riêng tư nào đó, mà người ta muốn chiếm đoạt.
Trên thương trường hay chính trường, nói láo trở thành một thói quen trên đầu môi chót lưỡi của những nhà ngoại giao. Sự nói láo tráo trở lật lọng này, không phải ai cũng có thể nói được. Họ nói có lý luận, thủ đoạn rất tinh vi, đánh mạnh khai thác vào tâm lý người nghe. Không ai biết họ là người đang nói dối. Đó là một thủ thuật cao cấp của những chiến lược ngoại giao. Bạn cứ hứa hẹn đi, để chinh phục lòng người, thủ lợi trước mắt, còn mọi việc sẽ tính sau. Miễn sao chiếm hữu vị thế thượng phong bắt người ta tùng phục nghe theo mình là được.
Đức Phật đã thấy rõ cái tai hại của sự nói dối này. Từ một đứa trẻ thơ cho đến người cao tuổi, không một ai là không nói dối. Vì đó là hạt giống sẵn có. Có mặt ta là đã có nó. Do đó, người mà suốt đời không nói dối, không phải là chuyện dễ làm. Chính vì điểm này, nên Tôn giả Mục kiền liên thấy một vị thiên thần có nhiều oai lực, hỏi ra mới biết là họ không có tu tạo phước đức gì khác, chỉ giữ gìn có một điều duy nhứt là:“suốt đời chỉ nói toàn sự thật”.
Khi nghiên cứu về cuộc đời của Đức Phật, nhứt là trong lãnh vực ngôn từ, Tiến sĩ S. Radhakrishman đã hạ bút viết: “ Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi Đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời nói thô bạo được thấy trên môi Đức Phật kể cả trong lúc tình cờ”. (There was never an occasion when the Buddha flamed forth in anger, never an incident when an unkind word escaped his lips) .
Không giận hờn lại là điều khó hơn. Giận người đã đành, có đôi khi tự mình lại giận tức lấy mình. Người làm trái ý nghịch lòng, thì mình giận. Còn mình giận mình thì sao? Khi làm một điều gì mà chính bạn cảm thấy không hài lòng với chính bạn, bạn cũng đâm ra có sự giận tức. Như vậy, mới thấy lòng sân hận của con người thật quá mạnh bạo tràn trề. Chúng như là những quả bom nặng ký đã gài sẵn. Chỉ cần một đóm lửa nhỏ châm vào là chúng sẽ bùng nổ ngay. Năng lực của chúng tàn phá rất ghê gớm dễ sợ. Do đó, người chế ngự được lòng sân hận đã là khó lắm rồi, chớ nói chi đến chuyện không giận.
Nhưng nếu bạn muốn có hạnh phúc, tất nhiên, bạn phải cần học hỏi cách tháo gỡ những quả bom sân hận trong tâm bạn. Phương pháp tháo gỡ không có gì khác hơn, là mỗi khi bạn nổi giận lên, thì lập tức bạn phải có chánh niệm để nhận diện cơn giận của bạn ngay. Phương pháp nhận diện để tháo gỡ này chúng tôi đã có nói đến ở pháp cú 216.
Theo kinh nghiệm của Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cho chúng ta biết về phương pháp trị liệu này. Vì đây là một vấn đề rất hệ trọng, cho việc bảo vệ hạnh phúc cá nhân cũng như gia đình. Muốn có hạnh phúc, không gì khác hơn là mỗi người phải tự chuyển hóa khổ đau. Chuyển hóa bằng cách chịu khó thực tập hai nguyên tắc:“ái ngữ và lắng nghe”. Phải cố gắng thực tập hạnh nguyện cứu khổ của Bồ tát Quán Thế Âm. Mục đích là để thiết lập truyền thông trong sự giải bày nỗi khổ niềm đau để tạo niềm hòa khí thông cảm với nhau.
Trong tác phẩm “Giận” (do nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn ấn hành năm 2007) có đoạn Hòa Thượng viết như sau: “Một người mà lời nói đầy sân hận, căm hờn là vì người ấy đang vô cùng đau khổ. Vì đau khổ mà người ấy nói ra những lời chua chát, cay đắng, trách móc khiến cho ta khó chịu và tìm cách xa lánh. Muốn thấu hiểu và chuyển hóa cơn giận thì phải học cách thực tập hạnh lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ái ngữ. Có một vị Bồ tát có khả năng lắng nghe với tâm từ bi rộng lớn, đó là Bồ Tát Quán Thế Âm. Chúng ta phải thực tập hạnh lắng nghe sâu như Ngài thì mới có thể hướng dẫn một cách cụ thể khi một người đầy sân hận tìm đến xin giúp đỡ để tái lập truyền thông”.
Bố thí là hiện thân của tấm lòng Bồ tát. Bồ tát thì không có phân biệt về tình thương thân sơ. Trải rộng lòng thương ra, thì bạn sẽ thấy tươi mát cõi lòng hơn. Khi nổi giận lên, là bạn đã đánh mất sự tươi mát trong lòng bạn rồi. Người đến xin mình, đó là điều kiện tối thiết yếu để mình có cơ hội làm phước. Không có người đến xin, hay bất cứ đối tượng nào khác, thì thử hỏi làm gì bạn có cơ hội tạo phước để bạn hưởng. Như vậy, bạn phải tỏ ra mang ơn rất nhiều cái đối tượng mà bạn ban cho. Nhờ đó, mà lòng bạn cảm thấy vui tươi an lạc hơn. Hạnh phúc không tìm đâu xa, chính nó nằm sẵn trong trái tim của bạn. Nếu bạn khéo mở rộng trái tim ra, là bạn sẽ có rất nhiều niềm an vui hạnh phúc tuyệt vời đến với bạn rồi.
Ba việc lành Phật nói trên, nếu chúng ta cố gắng thật hành áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày, thì hiện đời ta được lợi lạc biết bao nhiêu. Chắc chắn tương lai, chúng ta cũng sẽ tiếp tục hưởng được cái quá báo lành này.
225. “Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Ðạt được cảnh bất tử,
Ðến đây, không ưu sầu.”
226. “Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết Bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu.”Lược giải
225. Không làm hại người thanh tịnh, thường chế phục thân tâm, thì đạt đến nơi bất tử chẳng còn ưu bi.
Those sages who are inoffensive and ever restrained in body, go to the Deathless State, where, having gone, they grieve no more.
Kệ tụng
Không hại người thanh tịnh
Thường chế ngự thân tâm
Đạt được cảnh bất tử
Đến đây, không sầu bi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy trong thời gian Phật ở Anjanavana gần Sàketa, có liên quan đến câu hỏi của chư Tỳ kheo.
Theo truyện tích, một hôm Phật và chư Tăng đi vào Sàketa khất thực, thì có một người Bà la môn đến ôm chân Phật kêu lên:
- Con thân yêu! Sao lâu quá con không về nhà để cho cha mẹ ngày nhớ đêm trông. Con hãy về nhà thăm mẹ con đi. Phật lặng lẽ âm thầm theo ông lão về nhà. Bà vợ ra đón chào và xưng mẹ với Phật. Đồng thời kêu các con ra chào Phật. Cả nhà đều mừng rỡ cúng dường thức ăn và khẩn cầu đức Phật nên thọ trai ở đây suốt đời.
Đức Phật nói, chư Phật không bao giờ thọ trai một nơi cố định. Họ yêu cầu Phật cho biết những ai mời Phật thọ trai để họ mang thức ăn đến dâng cúng. Kể từ đó, nếu không có ai mời, thì Phật dùng bữa tại nhà ông. Nhờ công đức cúng dường và nghe pháp, không bao lâu cả hai ông bà đều chứng Tam quả (A na hàm).
Nhân chuyện này, các Tỳ kheo bàn tán về cách xưng hô gọi Phật bằng con của hai ông bà này. Đức Phật biết được sự thể liền giải thích cho chúng Tăng biết về nhân duyên mối giây liên hệ tình phụ mẫu trong nhiều kiếp giữa Phật và hai ông bà Bà la môn này.
Suốt thời gian ba tháng ở Sàketa, Phật thường lui tới thọ trai tại nhà của hai ông bà và không bao lâu cả hai đều đắc quả A la hán và nhập Niết bàn. Khi hỏa táng thi hài hai người, mọi người tỏ vẻ ưu sầu và rất kính trọng, vì họ biết hai ông bà này là cha mẹ nhiều đời của đức Phật.
Nhân đó, Phật nói bài kệ như sau:
Đời sống thật ngắn ngủi
Một trăm năm chưa qua
Người ta đã phải chết
Dù ai có sống lâu
Rồi cũng sẽ chết già
Các Tỳ kheo thắc mắc hỏi Phật về việc tái sanh của họ. Phật cho biết:
- “Này các Tỳ kheo, trường hợp của các A la hán thánh nhân như họ không có kiếp sau. Họ đã đến Đại niết bàn, cõi bất tử, vĩnh hằng”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện) Và nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Người tu, đôi khi chỉ vì một việc nhỏ xưng hô, cũng gây ra lắm nỗi phiền muộn bất an trong lòng. Khi nghe hai ông bà Bà la môn này gọi Phật bằng con, các thầy Tỳ kheo đã có ý bất bình. Trong khi đó, Phật vẫn yên lặng. Vì Phật đã biết rõ nhân duyên tiền kiếp nhiều đời giữa Phật và họ có mối quan hệ thâm tình phụ tử. Do đó, Phật khéo léo tùy duyên độ họ và cả hai đều chứng Thánh quả.
Tu hành, còn nặng lòng chấp ngã theo danh tướng, nên khi bị người ta đối xử xưng hô thiếu lễ độ với mình, thì mình cũng dễ nổi sân giận họ. Tuy đây là việc nhỏ nhặt, nhưng nếu chúng ta thiếu sự thực tập huân tu chánh niệm già dặn, thì cũng dễ gây ra tai hại cho mình và người. Tuy rằng, tên gọi chỉ là giả danh, nhưng nếu chúng ta còn bị dính kẹt ở nơi ngã tướng sâu nặng, tất nhiên cũng dễ nổi cáu, bất bình. Thế mới biết, đánh giá sự tu tập của mỗi người, không cần phải cao siêu hay ở đâu xa, chỉ cần một việc nhỏ nhặt đó, người ta cũng có thể biết được sự khắc phục hành trì tu tập của mình tới đâu. Do đó, là người tu hành, chúng ta nên cẩn thận chớ có khinh thường việc nhỏ nhặt này. Hãy noi gương đức Phật mà hành xử với mọi người, dù họ gọi mình bằng thứ gì cũng được. Người ta không chết vì những việc lớn lao, mà lại chết vì những chuyện nhỏ nhặt, tầm thường. Chúng ta nên cố gắng học cách chế ngự ở nơi thân tâm, qua cách hành xử của Phật.
Với cái nhìn cục bộ theo nghiệp thức, thì làm sao chúng ta có thể biết được nhân duyên nhiều đời trong quá khứ? Một việc xảy ra trên đời có liên hệ với ta và những người chung quanh. Phật nói, tất cả đều có nhân duyên chằng chịt với nhau nhiều kiếp trong quá khứ. Trong vòng lục đạo luân hồi, chúng ta đã trải qua nhiều đời trôi nổi xuống lên. Cứ mỗi đời đều có gây nhân thọ quả, ân oán chồng chất lên nhau, thử hỏi làm sao chúng ta biết được? Chỉ có Phật mới thấu suốt được tất cả. Chúng ta là những người tập tu, đang đi trên con đường giác ngộ, noi theo dấu chân Phật Tổ mà nỗ lực tu tâm sửa tánh hành thiện, thì chúng ta nên cố gắng nhứt quyết không làm hại ai. Ta hằng quán chiếu nhìn kỹ lại mình để chuyển hóa vô minh phiền não và quyết đạt cho kỳ được quả vị giải thoát Niết bàn an lạc.
226. Những người thường giác tỉnh, ngày đêm chuyên tu học, chí hướng đến Niết bàn, thì mọi phiền não dứt sạch.
Those who are ever vigilant, who discipline themselves day and night, and are ever intent upon Nibbana – their defilements fade away.
Kệ tụng
Những người thường giác tỉnh
Ngày đêm siêng tu tập
Chuyên tâm hướng Niết bàn
Mọi lậu hoặc được tiêu
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại núi Linh Thứu, có liên quan đến Punna, đầy tớ gái của trưởng giả thành Vương Xá.
Theo truyện tích, Punnà vì mang thân phận của người ở đợ, nên nàng đã phải giã gạo làm quần quật từ sáng tới tối mà không được ngủ nghỉ. Có lần, nàng thấy các thầy Tỳ kheo, đi theo ngọn đuốc cháy sáng của vị thần Dabba the Malla dẫn đường. Nhân thấy ánh sáng, nàng thầm nghĩ: “cớ sao những thầy Tỳ kheo kia không chịu ngủ mà phải đi trong đêm khuya như thế? Có phải các vị đó đau ốm hay là bị rắn cắn chăng”?
Hôm sau, trên đường đi ra sông tắm, nàng mang theo thức ăn và nước uống để dùng. Giữa đường bỗng gặp Phật, nàng dâng hết thức ăn bánh nướng và nước uống đơn sơ để cúng dường cho Phật. Phật nhận thức ăn và rồi nàng quỳ xuống đảnh lễ Phật. Nàng mong phật ban phước cho nàng. Phật nhận lời và chú nguyện chúc phúc cho nàng.
Nàng thầm nghĩ, dù Phật đã nhận thức ăn, nhưng chắc Ngài không dùng, vì Ngài sẽ chê dở và quăng nó cho các loài chim thú ăn. Phật biết ý nghĩ của nàng, nên Phật ngồi xuống bên đường và dùng thức ăn của nàng. Ăn xong, Phật liền quở Punna.
- Nầy Punna, tại sao ngươi phỉ báng đồ đệ của ta.
- Bạch Thế Tôn, con đâu có.
- Vậy ngươi nói gì khi thấy họ?
- Bạch Thế Tôn, con chỉ nghĩ đơn giản là có thể một vài vị bị bệnh hoặc rắn cắn chi đây?
Phật bảo:
- “Này Punnà, trường hợp ngươi khổ sở vì không được ngủ. Nhưng các đệ tử của ta luôn luôn tỉnh giác nên không ngủ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)Nhân đó, Phật liền nói pháp cú này.
Tỉnh giác là điều tối ư quan trọng của hành giả tu theo đạo Phật. Tỉnh giác đồng nghĩa với chánh niệm. Có tỉnh giác hành giả mới nhận diện được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Khi nhìn đóa hoa hồng tươi thắm, người tỉnh giác là biết mình hiện có mặt đang ngắm hoa. Nếu có ý niệm khen chê hoa hồng, thì ta đã đánh mất chánh niệm rồi. Đó là thất niệm. Thất niệm đồng nghĩa với vọng tưởng loạn động. Khi thất niệm, là ta đã trở thành kẻ bị động nô lệ cho đóa hoa hồng. Ta không còn có mặt thực sự với sự mầu nhiệm của đóa hoa hồng kia nữa. Như thế, là ta đã đánh mất thực tại.
Người tu chỉ hơn nhau ở chỗ có tỉnh giác hay không tỉnh giác mà thôi. Dù cho ta có tu lâu bao nhiêu năm không biết, nhưng nếu ta luôn để mất chánh niệm, thì chưa có thể đánh giá ta là người thực sự tu hành. Hạnh phúc của người tu chỉ có, khi nào người đó hằng sống trong tỉnh giác. Vì tỉnh giác hay giác ngộ là cốt lõi của đạo Phật. Mất đi yếu tính này, thì đạo Phật không còn là đạo Phật nữa.
Chùa to, Phật lớn, địa vị cao, quyền uy, danh vọng v.v… chưa phải là an lạc hạnh phúc. Nếu không khéo, ta sẽ bị những thứ đó khống chế ràng buộc làm cho ta mất hết tự do giải thoát. Đời sống của đức Phật thật đơn giản. Ngài ăn uống, ngủ nghỉ đơn sơ, đạm bạc. Ai cúng gì ăn nấy, không đòi hỏi cầu kỳ. Dù người dâng cúng thức ăn, đó là một kẻ hèn hạ làm thuê ở mướn, nhưng Ngài vẫn thọ nhận không chối từ. Và để được vui lòng người tín cúng, Phật không ngần ngại ngồi ngay bên vệ đường thọ thực. Một nếp sống thật cực kỳ đơn giản và hạnh phúc. Đó là một hình ảnh an lạc giải thoát mà ta cần phải chiêm nghiệm, học hỏi noi theo.
Người tu hành thời nay, nhìn lại, thật không đơn giản như vậy. Thực tế, là ta đã bị không biết bao nhiêu thứ khống chế trói buộc. Thậm chí, ta không còn có đủ thời giờ để thiền quán. Ta đã bị cuốn hút vào vòng hệ lụy trần ai, bởi những cơn trốt vật chất thời đại. Vì đáp ứng theo nhu cầu đổi mới xã hội, đời sống tâm linh của ta càng ngày càng bị xa gốc, héo úa khô cằn. Phải thành thật mà nói, ta đã đánh mất năng lượng chánh niệm của ta quá nhiều so với thời Phật. Ta thiếu sự chuyển hóa làm mới. Dù có biện minh dưới hình thức nào, ta chỉ là người tự lường gạt với chính ta mà thôi. Vì đó là sự thật. Ta phải thật lòng nhận diện điều đó.
Hiện nhơn loại đang đứng trên bờ vực thẳm của nền văn minh kỹ thuật vật chất. Nhiều nhà văn hóa cho đó là một nền văn minh mất gốc. Đạo đức đang trên đà tuột dốc thê thảm. Đời sống tâm linh thay vì, đóng vai trò chủ đạo, nay lại bị nhơn loại khinh thường đưa xuống hàng thứ yếu.
Chính vì thế, nên có biết bao tệ nạn xã hội ngày càng xảy ra với tốc độ thê thảm khốc liệt trầm trọng. Nếu như nhơn loại chỉ biết một bề chạy đua hơn thua tranh nhau đọ sức về khoa học kỹ thuật nguyên tử năng, thì chắc chắn nhơn loại sẽ chuốc lấy một thảm họa khổ đau chưa từng thấy. Vì càng chạy đua hơn thua tranh đoạt, con người càng rơi vào vòng khổ đau không lối thoát. Bằng chứng, là những thảm họa nhơn tai do con người gây ra: chiến tranh, khủng bố, phạm pháp, tù đày, trộm cướp, băng đảng, hút xách xì ke ma túy v.v…Họ bắn giết thanh toán nhau đã và đang xảy ra hằng ngày khắp nơi trên thế giới. Nhơn loại sống không có ngày yên. Thế thì, làm sao nhơn loại có được đời sống an bình hạnh phúc đây? Câu hỏi này, xin để mọi người, mọi giới sẽ tự tìm phương giải đáp thích đáng cho chính mình và cho xã hội nhơn loại hiện nay.
227. “A-tu-la, nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều bị người chê.
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời.”
228. “Xưa, vị lai, và nay,
Ðâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.”
229. “Sáng sáng, thẩm xét kỹ.
Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết,
Ðầy đủ giới định tuệ.”Lược giải
227. A Đa La[6] nên biết: đây không phải chỉ là chuyện đời nay, mà đời xưa đã từng nói: làm thinh bị người chê, nói nhiều bị người chê, ít nói cũng bị người chê; làm người mà không bị chê thực là chuyện khó có ở thế gian nầy.
O Atula! Indeed, this is an ancient practice, not one only of today: they blame those who remain silent, they blame those who speak much, they blame those who speak in moderation. There is none in this world who is not blamed.
Kệ Tụng
A Tu La nên biết
Chẳng phải chuyện đời nay
Đời xưa cũng từng nói :
« Làm thinh bị người chê
Nói nhiều bị người chê
Nói ít cũng bị chê
Làm người không bị chê
Thật chuyện khó đời nầy »
228. Toàn bị người chê cả, hay toàn được người khen cả, là điều quá khứ chưa từng có, hiện tại tìm không ra, và vị lai cũng không dễ gì thấy được.
There never was, there never will be, nor is there now, a person who is wholly blamed or wholly praised.
Kệ tụng
Xưa nay và tương lai
Đâu có sự kiện nầy
Người hoàn toàn bị chê
Người hoàn toàn được khen.
229. Cứ mỗi buổi mai thức dậy, tự biết phản tỉnh, hành động không tỳ vết, trí tuệ hiền minh, giới hạnh thanh tịnh, đó là người đáng được kẻ trí tán dương.
But the man whom the wise praise, after observing him day after day, is one of flawless character, wise, and endowed with knowledge and virtue.
Kệ tụng
Mỗi buổi mai phản tỉnh
Hạnh vô cấu, sáng suốt
Đầy đủ giới định huệ
Kẻ trí khen người ấy.
230. “Hạnh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm Thiên cũng tán dương “.Lược giải
230. Phẩm chất đúng loại vàng diêm phù[7], thì ai chê bai được? Đó là hạng Bà la môn, được chư Thiên tán thưởng.
Who can blame such a one, as worthy as a coin of refined gold? Even the gods praise him; by Brahma, too, is he praised.
Kệ tụng
Hạnh sáng như vàng ròng
Ai dám chê vị ấy
Chư thiên cũng tán dương
Phạm thiên cũng khen thưởng
Lược giảng
Đức Phật nói những pháp cú trên tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nam cư sĩ Atula (Tu lại)
Theo truyện tích, Atula là một thiện nam sống ở Xá Vệ cùng với một nhóm bạn năm trăm Phật tử. Một hôm, ông cùng nhóm bạn này đến tinh xá nghe pháp. Đầu tiên, ông đến gần bên Tôn giả Ly bà đa, nhưng Tôn giả lặng thinh không nói một lời. Họ thất vọng, mới cùng nhau đến Tôn giả Xá lợi phất, cung kính trình bày về việc họ đã bất mãn khi đến gặp ngài Ly bà đa không giảng nói một lời.
Khi ấy, Ngài Xá lợi phất bảo họ ngồi xuống và Ngài thuyết giảng cho họ nghe về giáo lý A tỳ đàm. Ngài thuyết giảng thao thao bất tuyệt tràng giang đại hải, A tu la và cả bọn họ nghe không hiểu chi cả, nên bực mình liền kéo đến hội kiến với Tôn giả A nan. Sau khi cung kính chào hỏi, A tu la liền trình bày những việc đã xảy ra khi gặp Ly bà đa và Tôn giả Xá lợi phất cho ngài A nan nghe.
Ngài A nan liền giảng một bài pháp ngắn gọn cho họ nghe, nhưng họ vẫn không hài lòng, bực tức, liền kéo đến gặp Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, họ liền bày tỏ cho Phật biết những việc bất bình của họ. Họ chê Ngài Ly bà đa chỉ biết lặng thinh, Tôn giả Xá lợi phất thì nói quá dong dài, Ngài A nan thì nói quá ngắn gọn.
Nghe xong, Phật quở trách bọn họ rằng, trên đời này từ xưa tới nay, không ai mà không bị khen chê, kể cả Như Lai cũng bị khen chê. Phật dạy tiếp: “Lời khen chê của người ngu không quan trọng. Nhưng khi người học thức, thông minh khen hay chê, đó mới là đích thực”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện) Nhân đó, Phật dạy những pháp cú trên.
Qua câu chuyện lược dẫn và những lời Phật dạy trên, cho chúng ta một bài học quý giá về việc thị phi khen chê của người đời. Ca dao có câu:
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỗng, thấp chê lùn
Béo chê béo mập béo tròn
Gầy chê xương sống xương sườn lòi ra.
(Ca dao)
Chê người không nghĩ lại ta
Lương mà chê lịch cũng là giống nhau
Chân mình bùn lắm xiết bao
Không lo tẩy rửa cho mau sạch bùn
Nhà mình rác rến lung tung
Mà đi lo quét nhà cùng kế bên
Chuyện ta lo liệu cho nên
Mặc ai xuyên xỏ vững kiềng ba chân.
Đến như trời đất vô tư, không hề thiên vị một ai, vậy mà cơn mưa nắng cũng còn có kẻ ưa người ghét thay ! Trời đất mặc nhiên tĩnh lặng không nói gì, và cũng không biết tỏ ra thương, hay ghét, dèm pha hay nịnh bợ với bất cứ một ai, thế mà vẫn còn không tránh khỏi cái miệng chê khen của người đời, nói chi đến con người đầy nghiệp chướng, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cái luận điệu khen chê?
Trời là cao mà miệng thế còn bia
Cơn mưa nắng kẻ ưa người trách
Đời trăm tuổi đố ai giữ sạch ?
Khổng Thánh còn bị Đạo Chích chê bai
Kẻ thì ưa tiếng ngắn tiếng dài
Người thì chịu lời chân lời thật
Ai nhẫn nhục bằng Tiên bằng Phật
Mà Đề Đạt Đa hại rất nhiều phen
Ai hiền lành bằng nhẫn nhục Tiên
Mà vua Ca Lợi chặt tan thân thể
Trang hiền đức Châu Văn Vương ai chẳng nể
Mà còn mang câu vũ lý chi tù
Xét ở đời có kẻ trí với người ngu
Cũng khó nổi lấy ngao mà lường biển
Nín thời dại, nói ra thời nhiều chuyện
Gẫm con người cái miệng rất nhiều lời
Cơ hàn quần áo tả tơi
Thì họ cho rằng đồ thất nghiệp
Giàu có đủ trên dù dưới dép
Thì họ cho rằng làm phách kiêu căng
Thấy kẻ nghèo đáng bác gọi thằng
Xem người giàu có đáng con mà kêu cậu
Gẫm con người hữu nhãn vô châu...
Lặng thinh như Tôn giả Ly bà đa cũng bị bọn Atula chê cười. Nói nhiều như Tôn giả Xá lợi Phất, cũng bị bọn họ không thích. Nói ngắn gọn hay nói ít như Tôn giả A nan, cũng bị bọn họ không vui. Thế thì làm sao cho họ vừa lòng hết đây? Những vị này là những bậc thầy đáng kính, phần lớn, các Ngài đã không còn phiền não ghét thương, thiên vị, như thói đời. Thế mà, các Ngài cũng vẫn còn bị người ta không ưa thích nói xấu. Thậm chí đến như đức Phật, Ngài đã hoàn toàn không còn một chút xíu vi tế vô minh phiền não, ấy thế mà, Ngài cũng vẫn còn bị kẻ thương, người ghét.
Những ai phỉ báng nhạo cười chê
Phải trái nào ai tránh khỏi hề!
Khổng Thánh kia còn bao kẻ biếm
Phật đà bị hại xiết bao ghê!
Khi thương trái ấu cho tròn trịa
Lúc ghét bồ hòn vẫn méo chê
Thế sự tình đời sao nói hết
Xét mình vui đạo chẳng buồn tê!
(Thích Phước Thái)
Nghĩ đến các Ngài còn bị tiếng dư luận khen chê của người đời, còn đối với chúng ta là những con người phàm tục, phiền não nhiểu nhương còn dẫy đầy, thế mà chúng ta muốn không có sự khen chê, thử hỏi như thế có được không? Hẳn chúng ta sẽ không bao giờ có được ý muốn hoàn toàn như thế.
Thế mới biết, khen hay chê là chuyện thường tình của thế nhân. Từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau, bất luận thời nào và bất luận con người nào, không ai hoàn toàn được khen hay hoàn toàn bị chê. Do đó, Phật khuyên chúng ta khi bị chê không nên khởi tâm bực tức giận hờn. Chúng ta cần phải học cho được cái hạnh nhẫn nhục của trời đất. Có nhẫn nhục, thì mọi việc sẽ được an ổn. Ngược lại, khi chúng ta được khen, cũng không nên lấy đó làm hãnh diện, để cao thêm bản ngã. Càng được người khen, ta phải biết hạ mình và cẩn trọng xét lại việc ta làm. Không nên vì tiếng khen mà ta thay đổi tâm tánh, tự cao, tự đại, khinh người. Đó là một họa hại cho ta. Có đôi khi, ta không chết vì tiếng chê, mà ta lại chết vì tiếng khen. Người ta chết vì thuận cảnh nhiều hơn là chết vì nghịch cảnh. Trên bước đường tu học hành đạo, ta cần phải lưu ý đến những cái thuận duyên xảy ra cho ta.
Ta cần noi gương Phật Tổ, cứ an nhẫn tu hành. Ta không nên nặng lòng vì việc khen chê của thiên hạ. Nếu mình tu không ra gì, mà dẫu thiên hạ có khen, thử hỏi mình có xứng đáng với tiếng khen của họ không? Ngược lại, mình tu hành đàng hoàng, dẫu cho có bị thiên hạ chê cười nói xấu đủ điều, mình cũng cảm thấy không có gì xấu hổ. Và coi những lời chê bai phê bình chỉ trích của họ, là những lời cảnh giác thức nhắc cho mình tránh những điều xấu ác. Nghĩ thế, lòng mình không có gì phải tức giận khó chịu. Không ai biết rõ mình bằng chính mình tự biết mình. Mình đang làm gì? nói gì? nghĩ gì? tự mình mình biết, tự mình mình hay. Không ai biết rõ mình bằng mình. Người ta có khen, thì mình cũng không tăng thêm kí lô thịt nào, mà người ta có chê, thì mình cũng không bị giảm mất một miếng thịt nào. Người xưa nói: “Ai khen ta mà khen phải, thì đó là thầy ta. Ai chê ta mà chê phải, thì đó là bạn ta”.
Vâng! chỉ có người bạn tốt hết lòng trung thực với mình, họ mới thật tình dám nói lỗi phê bình những khuyết điểm của mình. Cả hai hạng người khen chê trên, mình đều cám ơn họ. Vì nhờ họ mà mình mới thăng tiến trên bước đường hành xử tu niệm. Ngoài ra, những kẻ vuốt ve nịnh bợ mình, hãy đề phòng coi chừng hạng người đó. Mình có làm sai, họ cũng nói mình phải. Mình có dở thậm tệ, họ cũng cho mình hay. Đó là hạng người chỉ biết ton hót tâng bốc nịnh bợ mình, vì họ đã có một chủ ý mưu đồ tư lợi riêng. Đó là hạng người mà ta cần phải tránh. Họ sẽ là người giết chết mình mà không cần đến vũ khí, một khi mình đã hết thời bị sa cơ thất thế.
Thường người ta thích nghe tiếng khen, chớ không ai chịu nghe tiếng chê. Vì lời nói thẳng bao giờ nghe cũng trái với cái lỗ tai. Nhưng ta nên nhớ rằng, ruồi chết vì mật ngọt, chim chết vì mồi ngon, người chết vì lời khen. Lời chê, tuy nó có bộc chất đắng thiệt, nhưng chính nó lại là làm cho mình thăng tiến hết bệnh. Nhưng ở đời, có mấy ai thích đắng đâu! Toàn là thích ngọt cả. Ấy thế mới chết!
Cứ ôn lại chuyện xưa, tích cũ, từ cổ chí kim, có ông vua nào chết vì tay trung thần can gián hay không? hay là phần nhiều họ chết vì những tay nịnh thần. Những ông quan nịnh thần, lúc nào cũng tỏ ra khéo biết nịnh bợ chiều chuộng để được lòng vua. Cứ một bề cong lưng uốn gối vâng vâng dạ dạ, thì thử hỏi có ông vua nào mà lại không thích ? Nhưng chúng ta đừng quên rằng, cái ngai vàng bị mất là chính do những ông quan lại nịnh thần này. Lịch sử xưa nay, đã chứng minh rất nhiều, nhưng rất tiếc, người ta vẫn chưa sáng mắt học thuộc lòng bài học này.
Đối với người tu hành, Phật dạy, chúng ta phải vượt lên trên hai thứ khen chê này. Vì hễ còn dính kẹt vào thứ nào, thì lòng ta cũng vẫn bất an, cũng vẫn đau khổ cả. Ta nên nhớ rằng :
Có tài phải chịu cái tai
Nếu mình ngu dại có ai nói gì
Ngày nào chẳng có thị phi
Tai không nghe đến cũng thì như không
Nhiều nước thì mới thành sông
Nhiều người phỉ báng mới nên công tu hành.
Luận về hạnh giải thoát, trên thế gian này không ai giải thoát bằng Phật. Vì Phật đã dứt sạch hết vô minh phiền não. Thế mà trên bước đường hành hóa, đức Phật đã gặp rất nhiều chướng nạn. Chướng nạn từ trong nội bộ Tăng đoàn cho đến các hàng ngoại đạo. Trong nội bộ, thì có Đề bà đạt đa đã âm mưu hại Phật rất nhiều phen. Thậm chí, ông ta còn dã tâm cấu kết với thái tử A xà thế để hại Phật. Nhưng tất cả, ông đều bị thất bại. Mọi âm mưu hãm hại của ông, đều phơi bày và đã được đức Phật hóa giải tất cả.
Ngoài Đề bà đạt đa ra, bên cạnh đó còn có nhóm lục quần Tỳ kheo cũng luôn gây phá rối bất an trong Tăng đoàn. Rồi đến hàng ngoại đạo, vì lòng vị kỷ, ganh tỵ hẹp hòi, nên họ luôn tìm đủ mọi phương cách để hại Phật và Tăng chúng. Nhưng tất cả, họ đều bị thất bại. Rốt lại, họ tự chuốc lấy tai họa vào thân mà thôi. Quả đúng với câu : « hại người trở lại hại mình ». Kẻ ác hại người hiền, có khác nào như kẻ cầm đuốc đốt trời. Trời không đốt được mà chính họ lại bị nạn phỏng cháy tay. Hay như kẻ ngước mặt lên trời mà phun nước miếng, nước miếng không lên tới trời, mà trở lại rớt vào mặt mình. Kẻ ác tâm hại người tu hành hiền lương cũng lại như thế.
Người tu hành, muốn được yên thân tu học, Phật dạy chúng ta cần phải luyện tâm như tứ đại. Nghĩa là phải học cho được hạnh nhẫn nhục của đất, nước, gió, lửa.
Ngày xưa, đức Phật đã từng dạy cho ngài La hầu la học và thật hành về những đức nhẫn này. Và chính Ngài Xá lợi phất nghe Phật dạy và Ngài cũng đã tập hành sự như thế. Một hôm, có một thầy Tỳ kheo có tâm ganh tỵ ác ý muốn hại Tôn giả Xá lợi phất, bằng cách vu khống cho rằng, Ngài đã nhẫn tâm ác ý xô thầy ấy bị té rồi bỏ đi không một lời xin lỗi. Chuyện xảy ra đến tai đức phật và đức Phật họp chúng lại rồi Ngài nêu ra vấn đề này trước đại chúng. Nhân đó Ngài Xá lợi Phất mới trình bày về những điều mà Ngài đã thật hành bắt chước theo đức nhẫn nhục của đất, của nước, của lửa và của gió (không khí) cho Phật và mọi người nghe và chính bản thân Ngài đã thành công.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của đất ? Vì đất, ngoài đức tánh dày dặn, rộng lớn, bao la ra, đất còn có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Người thật tâm tu hành phải trải rộng lòng thương bao la như đất. Đất dung nạp tất cả. Dù bạn có đổ nước thơm hay bất cứ thứ ô uế nhơ bẩn hôi thúi gì, thì đất vẫn thản nhiên thu nhận và chuyển hóa. Đất không bao giờ tham đắm, giận hờn, hay tỏ ra nhờm gớm ghê tởm gì cả. Thế nên, chúng ta nên thực tập học và hành sự nhẫn nhục như đất.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của nước ? Vì tánh của nước cũng bao la, lưu chuyển mềm mại chặt không đứt, bứt không được. Lực dụng của nước đem lại sự tươi mát làm lợi ích cho muôn loài. Công dụng của nước để cho người ta tiêu xài phục vụ cho đời sống như : tắm rửa, giặt giũ, nấu nướng v.v... Song có điều, khi chúng ta giặt rửa những chất thơm tho hoặc những thứ dơ bẩn trong nước, nước cũng không cảm thấy tham đắm, buồn nản hoặc chán chường. Nước vẫn luôn luôn lưu chuyển và cuốn trôi đi những thứ ô uế đó. Nước mang hai đặc tánh nổi bật mà chúng ta cần học hỏi, đó là : « hóa giải và gạn lọc ». Hằng ngày, chúng ta hãy cố gắng thực tập quán niệm cho thân tâm mình phải gạn lọc và hóa giải giống như nước. Đó là chúng ta hành sự như nước.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của lửa ? Vì tánh của lửa cũng bao la cùng khắp tất cả. Tánh chất của lửa là nóng. Lửa có công năng đem lại nguồn sống cho muôn loài. Nếu không có lửa (năng lượng nhiệt độ), thì muôn loài sẽ không thể nào sinh tồn được. Tuy thế, nhưng lửa không bao giờ thấy mình có công lao mà khinh thị mọi loài. Lửa còn có công năng đốt cháy mọi thứ : đẹp, xấu, nhơ, sạch v.v... Nhưng không vì thế, mà lửa tỏ ra tham đắm, buồn giận, tủi nhục hay chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt gạn lọc và hóa giải mọi thứ phiền não nhiễm ô. Chúng ta hãy để tâm cố gắng thực tập thiền quán học cho được đức tánh khiêm cung nhẫn nhục của lửa. Đó là chúng ta khéo biết hành sự như lửa.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của gió ? Vì tánh của gió (không khí) cũng bao la cùng khắp tất cả. Tánh chất của gió hay không khí là loại thể hơi tươi mát trong lành. Không khí có công năng đem lại nguồn sống cho muôn loài. Sự sống nếu thiếu không khí là chết. Vạn vật sinh thành tồn tại cũng nhờ hít thở không khí mà sống. Sự vận hành của không khí tạo thành gió. Gió có công năng thổi đi tất cả những mùi thơm tho hoặc hôi thúi. Tuy thế, nhưng gió không bao giờ cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường. Gió có năng lực thổi đi tất cả những vọng chấp nội kết ưu phiền. Nói chung là thổi tan những niềm ưu bi tục lụy, những thứ phiền não cáu bợn gây ra làm cho chúng ta đau khổ. Gió có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải mọi thứ. Nhưng không vì thế, mà gió lại cống cao ngã mạn tỏ thái độ khinh thị bất cứ ai. Chúng ta hãy cố gắng gia công thực tập cho kỳ được hạnh nhẫn nhục của gió. Đó là chúng ta khéo biết hành sự như gió.
Người tu hành khéo biết rèn luyện thân tâm học tập bốn đức tánh nhẫn nhục của bốn đại nói trên, thì chắc chắn đời tu của chúng ta sẽ có nhiều tiến bộ và lợi lạc rất lớn vậy.
231. “Giữ thân đừng phẫn nộ,
Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân làm hạnh lành.”
232 “Giữ lời đừng phẫn nộ,
Phòng lời, khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành.”
233. “Giữ ý đừng phẫn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.’
234. “Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ.”Lược giải
231. Giữ thân đừng nóng giận, điều phục thân hành động, xa lìa thân làm ác, dùng thân tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in bodily action; let him be controlled in deed. Abandoning bodily misconduct, let him practise good conduct in deed.
Kệ tụng
Giữ thân đừng nóng giận
Chế thân khéo điều phục
Xa lìa thân làm ác
Dùng thân làm hạnh lành.
232. Giữ lời đừng nóng giận, điều phục lời chơn chánh, xa lìa lời thô ác, dùng ý tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in speech; let him be controlled in speech. Abandoning verbal misconduct, let him practise good conduct in speech
Kệ tụng
Giữ lời đừng nóng giận
Chế lời khéo điều phục
Xa lìa lời thô ác
Dùng lời nói điều lành.
233. Giữ ý đừng nóng giận, điều phục ý tinh thuần, xa lìa ý hung ác, dùng ý tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in thought; let him be controlled in mind. Abandoning mental misconduct, let him practise good conduct in thought.
Kệ tụng
Giữ ý đừng nóng giận
Chế ý, khéo điều phục
Xa lìa ý độc ác
Dùng ý nghĩ hạnh lành.
234. Người trí điều phục thân, cũng điều phục ngôn ngữ, điều phục luôn tâm ý, cả ba nghiệp thảy điều phục.
The wise are controlled in bodily action, controlled in speech and controlled in thought. They are truly well-controlled.
Kệ tụng
Kẻ trí điều phục thân
Điều phục luôn lời nói
Điều phục cả tâm tư
Ba nghiệp thảy tự điều.
Lược giảng
Phật dạy những pháp cú trên tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến nhóm Lục quần Tỳ kheo.
“Ngày nọ, nhóm Lục quần Tỳ kheo mang guốc gỗ, hai tay cầm gậy khua lóc cóc, đi lên đi xuống rầm rầm trên một phiến đá. Phật nghe tiếng lốp bốp, mới hỏi Ngài A Nan:
- Nầy A Nan! Tiếng gì thế?
Tôn giả A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, Lục quần Tỳ kheo mang guốc đi tới đi lui nên gây ra tiếng ấy.
Nghe thế, Phật dạy:
- Một Tỳ kheo phải kiểm soát tư tưởng, lời nói, và hành động của mình”. Do đó, nên Phật nói những pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 43)
Qua bốn pháp cú trên, ta thấy, đức Phật đã nêu lên và nói rõ về những hành động ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý. Về ba nghiệp này, trong các kinh điển, ta thấy Phật thường nhắc đi nhắc lại. Bởi vì nó rất quan trọng trong sự tu hành. Trong đời sống hằng ngày, nếu ta chịu khó, bình tâm xét kỹ, không có điều lành hay điều dữ nào, mà có thể vượt ra ngoài ba nghiệp. Khổ đau hay hạnh phúc cũng do ba nghiệp của chúng ta tạo tác mà ra.
Khi tư tưởng ta nghĩ đến điều lành, như có ý muốn giúp đỡ ai, thì bấy giờ ta cảm thấy lòng ta thật tươi mát dễ chịu. Mặc dù điều nghĩ lành đó, ta chưa thể hiện ra bằng hành động hay lời nói. Nhưng cái kết quả đem lại cho ta, là ta cảm thấy ấm áp an vui hạnh phúc rồi. Chẳng hạn, khi ta nhớ tới những người thân của ta, như cha, mẹ hay chồng, vợ, cháu, con v.v…ta thấy họ có những bức xúc, buồn giận, vướng phải một nội kết đau thương nào đó, mà tự họ chưa tháo gỡ ra được. Ta liền quán chiếu sâu vào và tìm cách giúp họ để tháo gỡ những gút mắc nội kết đó. Khi ta thật tâm quán chiếu tư duy như thế, ta thấy trong tâm ta như có một năng lượng hiểu, thương và cảm thông đang trào dâng lên trong tâm tưởng của ta đang hướng về họ. Đó là một năng lượng ấm áp trùm khắp của lòng từ bi phát khởi.
Từ đó, ta liền thực hiện bằng hành động hoặc lời nói theo dòng năng lượng hiểu thương đó. Đó là ta đang chế tác một năng lượng thiện nghiệp rất quý giá tốt đẹp ở nơi ba nghiệp của ta. Giống như một cây cam, tự nó có khả năng chế tác ra những lá cam, bông cam và trái cam. Một sự chế tác đem lại kết quả an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại. Ngược lại, cũng ở nơi ba nghiệp mà nếu như chúng ta chế tác những điều ác, thì chúng ta sẽ gặt hái những quả báo ác. Quả báo đó không phải đợi đến về sau mới chín, mà nó có thể chín ngay trong đời sống hiện tại này. Giống như ta chế tác một cây ớt, thì nó cũng sẽ cho ta một kết quả là những trái ớt cay hiện tiền.
Một ý niệm xấu ác vừa dấy khởi, nếu chúng ta thiếu cảnh giác không nhận diện được nó, chẳng những không nhận diện rõ bộ mặt thật của nó, mà ta còn tiếp tay đồng lỏa với nó, thì trách gì ta không gặt hái quả khổ. Bởi vì ta nuôi dưỡng nó để rồi ta theo nó mà hiện tướng ở nơi thân như trộm cướp, hãm hiếp, giết người v.v… Còn ở nơi miệng, thì ta thốt ra toàn những lời dao búa ác ngữ, nói dối, lường gạt, mạ lụy, vu khống, chụp mũ, chửi mắng v.v… Thế là ta sẽ chuốc lấy sự đau khổ vào thân tâm của ta rồi. Phật cho đó là ta không khéo bảo vệ phòng thân, phòng khẩu, và phòng ý. Ta sống hoàn toàn buông lung thô tháo ở nơi ba nghiệp, không một chút cẩn trọng phòng hộ giữ gìn. Do đó, nên ta phải chịu lãnh lấy quả báo khổ đau.
Ngược lại, Phật dạy, nếu là người trí, thì ta phải chế ngự khắc phục chuyển hóa ở nơi ba nghiệp không cho gây tạo nghiệp ác. Đó là người khéo biết hoán cải và luôn ứng dụng Giới, Định, Huệ để chuyển hóa ba nghiệp ác thành ba nghiệp lành. Nếu ba nghiệp được thanh tịnh, thì chẳng những hiện đời, ta hết khổ mà đời sau, ta cũng được mãi mãi an vui hạnh phúc.
Phẩm Cấu Uế
235. “Ngươi nay giống lá héo,
Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết,
Ðường trường thiếu tư lương.”
236. “Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Ðến Thánh địa chư Thiên.”
237. “Ðời ngươi nay sắp tàn,
Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ,
Ðường trường thiếu tư lương.”Lược giải
235. Ngươi đã giống như ngọn lá khô, Diêm ma sứ giả (tử thần) ở sát bên mình. Ngươi đang đứng trước ngưỡng cửa chết, bước lữ hành ngươi thiếu hẳn lương thực.
Like a withered leaf are you now; death’s messengers await you. You stand on the eve of your departure, yet you have made no provision for your journey!
Kệ tụng
Ngươi nay giống lá khô
Diêm sứ đang chờ ngươi
Ngươi đứng trước cửa chết
Đường trường thiếu tư lương.
236. Ngươi hãy tự lo tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ khôn ngoan, gột sạch phiền não trần cấu, để bước lên thánh cảnh hàng chư Thiên[8].
Make an island for yourself! Strive hard and become wise! Rid of impurities and cleansed of stain, you shall enter the celestial abode of the Noble Ones.
Kệ tụng
Hãy tự tạo hòn đảo
Tinh cần và sáng suốt
Trừ cấu uế, thanh tịnh
Ngươi đạt chứng thánh địa.
237. Đời sống ngươi sắp lụn tàn, người đang dịch bước đến gần Diêm vương, giữa đường không nơi ngơi nghỉ, bước lữ hành ngươi thiếu hẳn lương thực.
Your life has come to an end now; you are setting forth into the presence of Yama, the king of death. No resting place is there for you on the way, yet you have made no provision for your journey!
Kệ tụng
Đời ngươi sắp lụn tàn
Tiến gần đến Diêm vương
Giữa đường không nơi nghỉ
Đường trường thiếu tư lương.
238. “Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Chẳng trở lại sanh già.”
239. “Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình.”Lược giải
238. Ngươi hãy tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ khôn ngoan, gột sạch phiền não trần cấu, chớ trở lui đường sanh lão nguy nan.
Make an island for yourself! Strive hard and become wise! Rid of impurities and cleansed of stain, you shall not come again to birth and decay.
Kệ tụng
Hãy tự làm hòn đảo
Tinh cần và sáng suốt
Trừ cấu uế, thanh tịnh
Chẳng trở lại sanh tử.
Lược giảng
Bốn pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một tên đồ tể mổ bò.
Theo truyện tích, có một anh đồ tể ở Xá Vệ chuyên sống bằng nghề mổ bò trên năm mươi lăm năm. Anh ta giết hại không biết bao nhiêu con bò. Mỗi khi xẻ thịt, anh ta lấy phần thịt ngon để ăn, còn lại phần khác thì đem bán. Tuy nhà anh ở gần tinh xá nơi Phật trú ngụ, nhưng suốt thời gian đó, anh ta chưa hề biết cúng dường cho Phật và chúng Tăng bất cứ vật gì, dù chỉ là một muỗng cháo, cũng không có.
Có lần, sau khi bán hết thịt, ông ta chỉ chừa lại một miếng và bảo vợ nấu bữa ăn tối. Ông ta đi ra ao tắm. Bất chợt, có người khách đến năn nỉ nài mua. Bà vợ bảo: thịt đã bán hết, chỉ còn duy nhứt một miếng mà ông ấy bảo tôi nấu cho ổng. Nghe xong, ông khách không cần nghĩ gì thêm, liền lén xách miếng thịt đi. Thế là, bữa cơm tối hôm đó, anh đồ tể không có thịt ăn. Ông ta nổi giận không ăn, quát la vợ một hồi, rồi bỏ đi ra ngoài. Ông ta kéo lưỡi một con bò đang đứng và cắt đứt lưỡi của nó. Xong, ông trở vào nhà rồi dùng than nướng lưỡi đó ăn với cơm.
Thật lạ thay! Ông ta vừa để miếng thịt vào miệng, thì lưỡi ông ta bị đứt làm hai và rớt xuống dĩa cơm. Máu từ trong miệng của ông vọt tuôn ra và ông bò xung quanh nhà la rống lên như bò sắp chết. Ông giãy chết và đọa vào địa ngục A tỳ. Đó là một quả báo hình phạt ghê gớm! Đứa con trai của ông thấy vậy, vì quá sợ hãi nên bỏ nhà ra đi qua làng khác sinh sống. Nó làm thuê cho ông chủ và học làm nghề thợ bạc.
Nhờ siêng năng làm giỏi, nên hắn được ông chủ gả con gái cho. Từ đó, họ sanh con đẻ cháu nối nghiệp nhà. Nhưng những đứa con trai (tức cháu của ông đồ tể) của ông, trở về Xá Vệ, bỏ nghề thợ bạc hành nghề khác và quy y theo Phật. Chúng trở thành những người Phật tử rất thuần thành. Trong khi đó, thì cha của chúng không tin kính Phật pháp. Chúng thấy thế, nghĩ cách dâng thức ăn cúng dường cho Phật và kính mong Phật cầu nguyện cho cha ông ta hồi tâm chuyển ý tu hành.
Cảm lòng hiếu thảo, đức Phật khuyên ông cha:
- “Này ông lão, ông đã già nua, thân thể ông như lá héo úa, ông không tạo việc lành để làm tư lương cho đời sau. Hãy tạo cho mình một chỗ an trụ. Hãy làm người khôn ngoan, đừng làm kẻ si mê”. Nhân đó, Phật dạy những pháp cú trên.
Sau khi nghe xong, ông cụ liền chứng Sơ quả. Tất cả hội chúng cũng đều được lợi ích rất lớn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Phẩm này có tên là cấu uế. Cấu uế là nhơ bẩn, bởi do năm thứ triền cái (tham, sân, hôn trầm, thùy miên, trạo hối, nghi) làm cho tâm ta bị nhơ nhớp cấu uế. Chúng ta cần phải cố gắng dứt trừ chúng. Muốn dứt trừ, chúng ta cần phải thật hành thiền định. Phải dùng năm thứ thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) để dứt trừ năm món triền cái. Chữ cái là che đậy. Do năm thứ này, nó che ngăn làm mờ tánh giác sáng suốt sẵn có của chúng ta.
Đời người nếu không biết tu làm tươi mát ở nơi thân tâm, thì Phật cho đó khác nào như chiếc lá héo khô. Lá từ héo rồi dần đến khô. Lá héo là vì thiếu nước từ bi trí tuệ tưới tẩm. Khô là già nua, gần với cái chết. Phật nói đó là Diêm sứ giả (tử thần) đang chờ đón. Khô ở đây, Phật muốn ám chỉ khô cả hai: “khô về thể xác lẫn tinh thần”. Về thể xác, chúng ta không biết cách làm cho thư dãn thân. Nên có những cơn đau nhức về thân. Những tế bào ngày càng teo lại, nên thân thể người già dễ khô héo sanh bệnh hoạn đau nhức. Thế nên, ta cần phải thực tập phương pháp thiền niệm thân. Niệm thân là ta khéo biết chăm sóc ở nơi thân. Chăm sóc bằng cách là đem tâm về có mặt ở nơi thân. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, nói chung là mọi động tác thi vi, ta đều có ý thức buông thư về thân. Nhờ đó, mà những cơ bắp toàn thân ta dễ co dãn và khỏe mạnh hơn.
Về tâm, ta phải học cách thức thiền định, để làm cho tâm ta tươi mát hơn. Tất cả pháp môn Phật dạy: Thiền, Tịnh, Luật, Mật v.v…đều nhằm mục đích chính yếu là trị tâm bệnh. Nghĩa là để cho tâm ta được an định. Có Định Huệ, thì đó là giải thoát. Những khổ đau trong tâm, nếu không dùng pháp dược của Phật trị liệu, thì người Phật tử chưa biết tu. Hình ảnh lá khô héo Phật dạy pháp cú trên, Phật còn báo động cho ta phải ý thức cảnh giác cao độ về lý vô thường.
Ta nên biết rằng, cái chết gần kề, cần nên tạo cho mình có nhiều tư lương để chuẩn bị chu đáo hơn cho cuộc hành trình tiếp nối. Tùy mỗi pháp môn tu mà người tu chuẩn bị cho mình có những món tư lương khác nhau. Như người tu Tịnh độ, thì ba món tư lương hay hành trang lên đường về cõi Phật là: “Tín, Hành, Nguyện”. Tùy hành giả chọn lựa, tư lương nào cũng tốt. Điều quan trọng là phải chọn tư lương đúng theo chánh pháp Phật dạy. Miễn sao hành giả tiến thẳng trên đường giác ngộ giải thoát là được.
Pháp cú 236, Phật đặc biệt nhấn mạnh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của một hòn đảo an toàn. Hòn đảo này phải chính do bàn tay ta tự tạo lấy. Ta không nên có tâm ỷ lại van xin cầu khẩn bên ngoài. Phật bảo mỗi người phải gấp rút tạo cho mình một hòn đảo. Đó là hòn đảo thiền định. Muốn có hòn đảo thiền định này, điều tiên quyết ắt có, là chúng ta phải gột sạch phiền não trần cấu. Gạn lọc phiền não có nhiều cách. Nhưng cách nào dù thấp hay cao, dù sâu hay cạn, mục đích chính cũng phải dứt trừ phiền não. Phiền não tuy nhiều, nhưng không ngoài hai loại: “Căn bản và chi mạt”. Căn bản là những thứ có gốc rễ sâu dầy, khó trừ, khó đoạn. Chi mạt, hay còn gọi là tùy phiền não, là những thứ cành nhánh, nên dễ trừ hơn. Nhưng thứ nào nó cũng làm cho tâm mình bất an cả. Muốn tâm an, Phật khuyên chúng ta phải làm kẻ khôn ngoan, phải từ khước mọi tham ái trong thế gian, chuyên cần tinh tấn hằng sống có chánh niệm. Từ chánh niệm dần dần hành giả mới có được chánh định. Có chánh định, bấy giờ, hành giả mới thực sự bước lên hòn đảo thánh cảnh của hàng chư Thiên. Thánh cảnh của hàng chư Thiên nói ở đây là chỉ cho năm cõi trời: Tịnh Cư (Panca Anđhvassabhumi),Vô Phiền (Aviha), Vô Nhiệt (Atappa), Thiện Hiện (Suđani), Thiện Kiến (Suddassi), Sắc Cứu Cánh (Akanittha), đó là năm chỗ ở của hàng A na hàm.
Pháp cú 237, Phật nhắc lại cho chúng ta nhớ về kiếp sống của con người thật mỏng manh vô thường tạm bợ. Cứ mỗi phút giây trôi qua là ta xê dịch gần kề với cái chết. Thấy đó rồi mất đó. Sống ở phút này, không ai dám bảo đảm tồn tại ở phút sau. Vì thế, Phật nói: “Đời sống ngươi sắp lụn tàn, ngươi đang dịch bước đến gần Diêm vương”. Lời dạy đó, cảnh tỉnh chúng ta phải ý thức rằng, mỗi người sanh ra đời ai ai cũng mang sẵn bản án tử hình. Chẳng qua tòa án Diêm vương đem ra xét xử tử hình có mau chậm khác nhau mà thôi.
Thử ngẫm lại, đời ta từ khi sanh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, nhìn lại khoảng đường qua, có khác gì là giấc mộng nam kha. Tất cả chỉ là một thoáng qua. Nên Phật nói: “Giữa đường không nơi ngơi nghỉ”. Đó là nói đời sống của một đời người trong khoảng thời gian hiện tại. Nếu luận xa hơn, thì trên con đường sanh tử luân hồi, trải qua nhiều kiếp, chúng ta chưa từng có nơi ngơi nghỉ. Cứ tiếp tục hành trình đi mãi. Mất thân này, thọ thân khác. Ta đi lang thang như một lữ khách phong trần trôi nổi bồng bềnh trong sáu đường. Thật đau đớn chua xót lắm thay! một cuộc hành trình mà Phật cho đó là thiếu hẳn lương thực. Vì thế, mà chúng ta phải cam chịu đói khát khổ đau trăm bề trong đường sanh tử, và không biết đến bao giờ mới thực sự được thoát ra!
Pháp cú 238, một lần nữa, Phật nhắc lại và nhấn mạnh cho chúng ta nhớ, là mỗi người nên tạo cho mình một hòn đảo an toàn. Muốn thế, Phật khuyên chúng ta phải gia công nỗ lực tinh cần tu tập. Phải làm kẻ khôn ngoan, không nên để những thứ phiền não khuấy động làm ta đau khổ. Phải luôn trau dồi trí huệ, gạn trừ gột sạch những cáu bợn phiền não. Phật khuyên chúng ta: “nên thẳng một đường đi tới, không nên trở lui đường sanh tử nguy nan”.
Qua chuyện lược dẫn trên, ta thấy một hiện tượng nhân quả ác lai ác báo hiện tiền thật đáng ghê sợ. Tên đồ tể dùng dao cắt lưỡi một con bò còn sống rồi đem nướng trên bếp than hầm, vừa đưa miếng thịt vào liền đó lưỡi ông ta bị đứt làm hai và rớt xuống dĩa cơm. Máu tuôn vọt ra và giãy chết. Ông bị đọa vào ngục A tỳ, tức vô gián địa ngục. Vì sự sống của mình, mà hành động tàn ác, gây khổ đau lên sự sống của loài khác, thật đó là điều tàn nhẫn mà ta cần nên tránh. Chỉ vì không nhịn được miếng ăn cho ngon miệng béo bổ, mà tên đồ tể này đã hành động một cách rất dã man. Cắt đứt lưỡi của một con bò đang còn sống. Ta nên nhớ rằng:
Ngỡ rằng ngon miệng béo thân
Nào ngờ sa đọa chẳng cần lâu xa
A tỳ địa ngục hiện ra
Lưỡi kia đã đứt phải sa ngục hình
Ai ơi! Thương xót sinh linh
Có cùng mạng sống hữu tình biết đau
Chẳng qua nghiệp thức khác nhau
Tham sanh úy tử loài nào khác đâu
Từ bi hằng quán cho sâu
Lột da xẻ thịt máu đào đỏ tươi
Một lòng thương vật thương người
Nhân nào quả nấy ta thời khắc ghi.
239. Hết sát na nầy đến sát na khác, người trí lo gột trừ dần những cấu uế nơi mình, như người thợ vàng cần mẫn gột trừ cặn bã khỏi chất vàng ròng.
One by one, little by little, moment by moment, a wise man should remove his own impurities, as a smith removes the dross from silver.
Kệ tụng
Người trí theo tuần tự
Từng sát na trừ dần
Những cấu uế nơi mình
Như thợ vàng lọc quặng.
Lược giảng
Pháp cú này phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
Theo truyện tích, một hôm, có một Bà la môn thấy các vị Sa môn thường đứng ở chỗ có cỏ mọc cao rậm rạp để khoác y vào. Khi đắp y, chéo y quét qua cỏ, dính sương đẫm ướt. Thấy thế, ông liền dọn sạch cỏ nơi đó.
Lần sau, ông đến chỗ đó quan sát, thấy những lá y của các thầy Tỳ kheo khoác vào, chéo y quét trên đất dính bụi. Thấy thế, ông rải cát làm sạch bằng phẳng nơi đó.
Hôm sau, trời nóng bức, ông thấy các thầy Tỳ kheo, khi khoác y vào mồ hôi đổ giọt. Thấy thế, ông liền suy nghĩ, nên cất một cái trại nơi đây.
Khi khác, trời đổ mưa, ông thấy các thầy Tỳ kheo bị tạt ướt, ông nghĩ, nên cất cái nhà mới được. Sau khi xây cất nhà hoàn tất, ông tổ chức lễ khánh thành và thỉnh Phật cùng chư Tăng đến để cúng dường. Thọ trai xong, ông trình bày mọi việc mà ông đã làm cho Phật nghe. Nghe xong, Phật nói:
- “Này Bà la môn, người trí làm việc lành cũng vậy, hết lúc này đến lúc khác, từng việc một, dứt bỏ những nghiệp xấu”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Việc làm lành hay tu niệm, chúng ta cần phải biết đầu tư phước đức tùy cảnh duyên qua mọi thời gian và nơi chốn. Việc lành tuy nhỏ, nhưng đối với người khéo biết tu tích lũy nghiệp lành, thì không việc lành nhỏ nhặt nào mà họ không làm. Một giọt nước tuy ít, nhưng nếu chúng ta tiếp tục nhỏ nhiều giọt vào ly, thế nào rồi cũng sẽ đầy ly. Ông Bà la môn này, thật khéo biết đầu tư phước đức. Thấy y của các vị Tỳ kheo bị dính dơ, liền âm thầm tìm cách làm cho khỏi bị dính dơ nữa. Một việc tuy nhỏ nhặt, nhưng đó phải là người có tâm hướng thiện và bền tâm kiên nhẫn mới có thể làm được. Làm mà không cần ai biết đến. Làm mà không phô trương khoe danh, đó mới là điều rất quý giá thật đáng thán phục.
Đến khi hoàn tất công việc được yên ổn, ông mới tỏ bày cho Phật biết. Nghe qua, Phật cho đó là việc làm của người có trí. Người trí khi hành thiện, họ loại bỏ những điều xấu ác, mà không cần ai biết đến họ. Ngược lại, người thiếu trí huệ khi làm việc thiện, họ rất háo danh, phô trương, khoe khoang. Họ làm phải có tên tuổi, phải cho mọi người biết đến khen ngợi nể phục họ. Phật cho đó là hạng người hành thiện cầu danh. Dĩ nhiên, là phước đức sẽ không nhiều. Người như thế, Phật không tán dương khen ngợi lắm.
Pháp cú trên, Phật dạy khi tu hành, chúng ta cần phải vận dụng trí huệ để thanh lọc phiền não làm cho thân tâm của chúng ta được trong sạch tươi mát. Trí huệ là một năng lượng có khả năng tháo gỡ những gút mắc, khó khăn, bức xúc, nội kết trong tâm. Mỗi khi có phiền não dấy khởi như buồn, giận chẳng hạn, thì ta cần đến năng lượng của chánh niệm. Năng lượng này có khả năng chế tác ôm ấp xoa dịu những nỗi buồn giận của ta.
Giận hờn là một trong nhiều thứ phiền não dấy khởi từ tâm. Nó không phải là một đối tượng ngoài tâm ta. Mà nó là một phần nhỏ của tâm. Đó là hiện tướng phiền não, như sóng là hiện tướng của nước. Vậy thì, ta cần phải dùng năng lượng chánh niệm để soi sáng làm cho cơn giận tức của ta sẽ được lắng dịu lại. Như bà mẹ ôm vào lòng đứa con, khi đứa con đang tức giận la khóc. Hành động ôm ấp vỗ về xoa dịu của người mẹ, nó có một năng lượng truyền đạt thẳng vào thân tâm của đứa con và chính năng lượng đó làm cho đứa con cảm thấy ấm áp và cơn giận tức la lối sẽ hạ thấp dịu bớt dần. Đó là cách chuyển hóa phiền não của người tu.
Nói gột trừ, đó chỉ là một cách nói. Thật ra, thì phiền não tự nó không phải là đối tượng để chúng ta đàn áp tiêu diệt chúng. Nếu không khéo là chúng ta tạo thành bãi chiến trường ở trong tâm ta. Và như thế là chúng ta sẽ không bao giờ có an ổn.
Phật cho chúng ta một hình ảnh qua thí dụ của một người thợ bạc cần mẫn lọc trừ quặng bã khỏi chất vàng ròng. Vì có vàng ròng, nên mới có quặng bã. Vì có bản giác nên mới có ra bất giác. Bất giác là vô minh phiền não cấu uế, dụ như là quặng bã. Khi gạn lọc, đòi hỏi chúng ta cần phải có những yếu tố: “cần mẫn, dụng cụ và phương pháp”. Dụng cụ tốt, phương pháp hay, người siêng năng giỏi, đó là những yếu tố tối cần thiết cho công việc gạn lọc. Dụng cụ tốt có thể là một câu hiệu Phật, một câu thần chú, hay hơi thở v.v…. Phương pháp là tập trung tâm ý vào một đối tượng để thiền quán sâu hơn. Hành giả hãy thắp sáng ngọn đuốc trí huệ lên chiếu thẳng vào vọng tưởng phiền não. Khi chánh niệm có mặt trong giây phút hiện tại, thì lập tức tâm ta sẽ được an định ngay. Mà có an định thì sẽ không rơi vào hai đầu của ngục tù quá khứ và vị lai. Như thế, thì hành giả sẽ đạt được Niết bàn an lạc.
240. “Như sét từ sắt sanh,
Sắt sanh lại ăn sắt,
Cũng vậy, quá lợi dưỡng
Tự nghiệp dẫn cõi ác.”
241. “Không tụng làm nhớp kinh,
Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc,
Phóng dật uế người canh”Lược giải
240. Như sét do sắt sinh ra rồi trở lại ăn sắt, ác nghiệp do ngươi gây ra rồi trở lại dắt ngươi đi vào cõi ác.
Just as rust arising from iron eats away the base from which it arises, even so, their own deeds lead transgressors to states of woe.
Kệ tụng
Như sét do sắt sinh
Trở lại ăn thân sắt
Ác nghiệp tự mình tạo
Dẫn mình đến cõi ác.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Tissa.
Theo truyện tích, thầy Tissa là một thanh niên trẻ con nhà quyền quý đi xuất gia. Thầy được một thí chủ trong thành Xá Vệ cúng dường cho thầy một tấm vải thô dài tám thước. Sau khi mãn hạ, thầy về nhà đưa tấm vải cho người chị xem. Người chị thấy thế cho tấm vải thô xấu xí, liền dệt lại thành tấm vải mới đẹp hơn.
Vài hôm sau, thầy Tissa dẫn thêm một vài thầy Tỳ kheo về nhà để may y. Thầy bảo người chị đưa lại tấm vải hôm trước. Người chị đưa tấm vải mịn tốt dài chín mét. Thầy Tissa từ chối và đòi lại tấm vải cũ. Người chị kể lại việc dệt lại tấm vải. Nghe xong, thầy đem vải về tinh xá và tìm người may y. May xong, thầy rất thích và định ngày mai sẽ đắp vào mình. Nhưng không may, thầy bị bội thực và chết. Vì quá thích chiếc y mới đẹp, nên thầy tái sanh làm con rận ở trong chiếc y mới.
Sau khi hỏa táng, các thầy Tỳ kheo khác định chia chiếc y này cho tăng chúng. Con rận nổi giận la hoảng:
- Các thầy tước đoạt tài sản của tôi. Vừa kêu la nó vừa bò quanh chiếc y. Đức Phật biết rõ duyên cớ, liền bảo tăng chúng dời việc chia y lại bảy ngày sau. Cuối ngày thứ bảy, con rận chết và nó được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất.
Qua ngày thứ tám, Tăng chúng bàn tán việc chia y. Họ thắc mắc tại sao Phật phải dời lại đến ngày thứ tám mới chia? Phật giải thích: vì Tissa quá thương tiếc chiếc y sanh làm con rận, nếu các ông chia, thì con rận kia nổi giận và sẽ đọa địa ngục ngay. Do đó, nên ta phải dời lại. Bây giờ con rận đã chết và Tissa đã sanh lên cõi trời Đâu Suất, nên ta cho các ông chia phần. Phật dạy thêm cho các thầy Tỳ kheo:
- “Tham ái thật là vấn đề lo lắng lớn của chúng sanh trên quả đất, rỉ sét phát sanh từ sắt, trở lại ăn mòn sắt, tham ái phát sanh từ chúng sanh và đưa chúng sanh xuống địa ngục”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Sự khổ đau của con người phát sanh từ nghiệp. Nghiệp có ra từ tâm thức. Nếu tâm tưởng điều lành, thì thúc đẩy thân và miệng làm và nói điều lành. Ngược lại, thì tạo điều ác. Khi tạo ác, bởi do nghiêp bất thiện, rồi chính nghiệp bất thiện đó lôi kéo con người vào cảnh khổ đau. Thế nên, Phật nói: “như sét do sắt sinh ra, rồi chính chất sét rỉ trở lại ăn sắt”. Như vậy, sắt bị tiêu hoại, không phải do cái gì khác, mà chính do từ nó sinh ra rồi trở lại hại nó. Vì sắt không khéo tự bảo vệ, nên sinh ra sét. Rồi chính sét gây tác hại lại cho sắt. Phật nêu một thí dụ thật hết sức cụ thể.
Chúng sanh bị trôi lăn trong Tam đồ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đâu có do ai tạo ra cho mình phải chiêu cảm vào quả báo khổ đau đó, mà chính do mình gây tạo ác nghiệp, nên chiêu cảm thọ báo. Như một người bị giam vào lao tù, thử hỏi ai là người gây ra cho họ? Chính họ gây ra tội phạm, như cướp của, giết người, buôn bán nha phiến v.v…nên họ bị thọ khổ trong cảnh nhà lao. Đó là do lòng si mê tham dục của họ sai sử, mà gây ra cảnh đau khổ như thế. Khác nào như sắt sanh ra sét, rồi chính sét trở lại làm tiêu hoại sắt.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, thầy Tissa chỉ vì khởi lòng tham luyến một chiếc y mới đẹp, mà khi chết phải tái sanh làm con rận nằm trong chiếc y. Mới chỉ có một chiếc y mới đẹp thôi, hơn nữa, lại là người xuất gia sống gần Phật, còn luyến ái như thế, thử hỏi đối với những vật quý giá thời nay lại cách xa Phật thì sao? Tuy thầy Tissa bị đọa lạc như thế, nhưng thầy cũng còn phước duyên là được Phật cứu thoát. Nếu không nhờ Phật kịp thời ngăn cản việc các thầy Tỳ kheo định chia y cho chúng Tăng, thì không biết thầy Tissa sẽ sa đọa đến như thế nào?! Dù đã tái sanh làm con rận, nhưng khi biết được các thầy Tỳ kheo định chia y, thì con rận liền nổi giận. Phật biết được liền ngăn lại và đợi sau bảy ngày, con rận chết sanh lên cõi trời Đâu Suất, thì Phật mới cho chia.
Phật có tuệ nhãn nên biết rõ sự việc, cứu thoát được thầy Tissa, còn đối với chúng ta ngày nay thì sao? Nếu như lúc nhắm mắt khởi tâm tham luyến hay sân hận một sự vật nào đó, thì thử hỏi ai là người biết được để cứu thoát ta đây? Nghĩ thế, thật đáng lo sợ cho cận tử nghiệp của ta quá! Nếu người tu không khéo thiền quán buông xả mọi duyên trần, đến khi sắp chết còn tham ái bất cứ vật gì cũng đều là tai hại cả. Và chính cận tử nghiệp này nó sẽ dắt dẫn chúng ta đi thọ sanh tùy theo cái ác nhân mà nó sanh khởi. Do đó, nên pháp cú trên Phật dạy: “Ác nghiệp do người ta gây ra rồi trở lại dắt người ta đi vào cõi ác”.
241. Không tụng tập là vết nhơ của sự học kinh điển, không siêng năng là vết nhơ của nghiệp nhà, biếng nhác là vết nhơ của thân thể và nơi ăn chốn ở, phóng túng là vết nhơ của phép tự vệ.
Non-repetition is the bane of scriptures; neglect is the bane of a home; slovenliness is the bane of personal appearance, and heedlessness is the bane of a guard.
Kệ tụng
Không tụng, làm nhớp kinh
Không siêng, làm bẩn nhà
Biếng nhác làm nhơ thân
Phóng dật làm tâm uế.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên hệ đến câu chuyện của thầy Udàyi.
Theo truyện tích, tại Xá Vệ có khoảng năm mươi triệu Phật tử thường đến tinh xá cúng dường thức ăn và rồi nghe pháp. Họ thường ca tụng hai Tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên thuyết pháp rất hay. Nghe thế, thầy Ưu đà di ganh tỵ liền nói với họ: hai vị đó nói pháp làm sao hay hơn tôi.
Thế là hôm sau, họ liền thỉnh Ưu đà di thuyết giảng. Thầy nhận lời. Sau khi thăng tòa, thầy chỉ phe phẩy quạt mà không nói được lời nào. Thầy bảo với họ là thầy sẽ đọc bài chú, còn việc thuyết pháp sẽ thỉnh thầy khác. Cứ thế, trải qua bốn lần, thầy Ưu đà di chỉ hẹn với họ như vậy mà không đọc được bài chú nào.
Thính chúng quá tức giận, họ ném đất, đá, gậy gộc vào thầy và nhiếc rằng: thầy chỉ làm thinh không nói được gì, mà lại ganh tỵ với hai Tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên. Thầy không phải là người tốt. Họ vừa mắng nhiếc vừa ném đất đá, thầy Ưu đà di bỏ chạy. Họ rượt theo và thầy té xuống một hầm phân. Nhân đó, các thiện tín bàn tán nhỏ to với nhau về việc thầy Ưu đà di. Phật biết được sự thể xảy ra, liền bảo với các thầy Tỳ kheo: đây không phải là lần đầu tiên, Ưu đà di té xuống hầm phân mà trong quá khứ thầy ta cũng đã như thế.
Có lần, giữa con heo và con sư tử thách đấu nhau. Trước ngày đấu, heo nằm lăn trong đống phân khiến cả mình mẩy đều hôi hám. Nhờ đó mà heo thắng được sư tử, vì sư tử không dám đến gần. Phật nói: heo chính là thân đời quá khứ của Ưu đà di và sư tử là thân đời quá khứ của Xá lợi phất.
Kể chuyện quá khứ xong, Phật liền bảo các thầy Tỳ kheo:
- “Này các Tỳ kheo, Ưu đà di chỉ học được một câu kinh, nhưng không bao giờ đọc tụng là một lỗi lớn”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Tại sao Phật dạy: “không tụng tập là vết nhơ của kinh điển”? Đọc tụng kinh điển có lỗi gì? Câu này, nếu không khéo chúng ta dễ hiểu lầm. Kinh điển thì không có vết nhơ. Vì kinh là lời Phật nói. Phật nói để cho chúng ta y cứ vào đó mà học hỏi ứng dụng tu hành. Có tu hành thì chúng ta mới được lợi ích thoát khổ. Cái lỗi mà Phật muốn nói ở đây là, chúng ta không tụng tập. Nghĩa là kinh điển thì có đó, nhưng vì chúng ta để tâm mãi say mê chạy theo các thứ dục lạc thế gian, mà không chịu khó đọc tụng lời Phật dạy. Nói rộng ra là chúng ta không chịu học hỏi tu tập.
Do không chịu đọc tụng tu tập, nên chúng ta không thông suốt được đường lối tu hành. Khi thật hành, thì chúng ta sẽ không thật hành đúng theo chánh pháp Phật dạy. Do đó, nên chúng ta dễ bị rơi vào con đường tà ngoại. Khi đã rơi vào con đường tà kiến, thì đó là vết nhơ, là tai hại. Vết nhơ Phật nói ở đây là do chúng ta không để tâm chịu khó học tập kinh điển cho thông suốt. Như trường hợp Ưu đà di, dù đã xuất gia, mà không chịu nghe pháp học hỏi, lại có tật tánh xấu là hay ganh tỵ đố kỵ đối với người giỏi hơn mình. Do đó, nên ông không nói được lời gì.
Kế tiếp Phật nói: “không siêng năng là vết nhơ của nghiệp nhà”. Tại sao thế? Hai chữ “nghiệp nhà” ở đây, chúng ta có thể hiểu qua hai phương diện: đời và đạo. Về đời, nếu người Phật tử không siêng năng học hỏi, tu tập, sống theo chánh pháp, xây dựng phát triển kinh tế gia đình, thì thử hỏi nghiệp nhà làm sao đứng vững cho được? Muốn nghiệp nhà được phát triển thịnh vượng, có nền tảng hướng tiến vững chắc, thì mỗi thành viên trong gia đình phải cố gắng siêng năng trau dồi học hỏi phát triển vươn lên không ngừng về mọi mặt. Nhưng theo đạo Phật, thì hướng tiến phát triển đó, người Phật tử phải đặt định trên cơ sở đạo đức trí tuệ và từ bi. Có thế, thì mới đem lại lợi ích thiết thực cho gia đình trong chiều hướng tốt đẹp. Và như thế, thì mỗi cá nhân và gia đình mới thực sự có hiểu, thương và hạnh phúc an lạc. Bằng ngược lại, thì chỉ làm thiệt hại cho mình và gia đình mà thôi. Đó là vết nhơ mà Phật dạy người Phật tử cần phải tránh.
Về đạo, Phật muốn chỉ cho việc hoằng pháp lợi sanh của người xuất gia. Nên mới có câu nói: “hoằng pháp thị gia vụ”. Muốn nghiệp nhà Phật pháp được hưng thạnh, không có vết nhơ, thì Phật dạy người xuất gia phải để tâm siêng năng cầu tiến tu học. Nếu không siêng năng tu học, hành trì, thì việc lợi mình còn không có nói chi đến việc lợi người. Đó là nói nghiệp nhà mang tính lợi tha rộng lớn. Còn nếu nói nghiệp nhà ở nơi tâm, tức tự lợi, thì người xuất gia phải lấy trí huệ làm sự nghiệp. Mà muốn có trí huệ, tất nhiên, là phải tinh cần tu học theo con đường: “Giới, Định, Huệ”. Đó là con đường rộng lớn mà chúng ta cần phải để tâm nghiên cứu học hỏi tu tập.
Đối với thân thể cũng như nơi ăn chốn ở, Phật dạy chúng ta cần phải siêng năng chăm sóc sức khỏe và ăn ở hợp vệ sinh. Nếu chúng ta sống buông thả không có giới luật kềm thúc ở nơi thân tâm, cũng như làm sạch và xanh ở môi trường sống chung quanh, thì Phật cho đó là vết nhơ của con người sống phóng dật. Thế nên, chúng ta cần phải cẩn trọng bảo hộ giữ gìn thân, tâm, ăn ở đúng phép vệ sinh và phải ý thức bảo vệ môi trường cho sạch sẻ. Có thế, thì bản thân ta cũng như người và cảnh vật chung quanh, tất cả đều được lợi ích vậy.
242. “Tà hạnh nhơ đàn bà,
Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ,
Ðời này và đời sau.”
243. “Trong hàng cấu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng,
Ðoạn nhơ ấy, tỷ kheo,
Thành bậc không uế nhiễm.”Lược giải
242. Tà hạnh là vết nhơ của người đàn bà, xan lẫn là vết nhơ của sự cúng dường. Đối với cõi nầy hay cõi khác, thì tội ác lại chính là vết nhơ.
Unchastity is the taint in a woman; niggardliness is the taint in a giver. Taints, indeed, are all evil things, both in this world and the next.
Kệ tụng
Tà hạnh nhơ đàn bà
Xan tham nhớp kẻ thí
Tội ác là vết nhơ
Đời nầy và đời sau.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện một thanh niên quý tộc.
“Khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, có một thanh niên dòng quý tộc kết hôn với một thiếu nữ đồng giai cấp. Sau đó không lâu, người vợ ngoại tình. Xấu hổ vì chuyện này, người thanh niên không dám gặp ai. Đến phiên chàng vào hầu Phật, chàng đến đảnh lễ Thế Tôn, lui ngồi một bên, Phật hỏi:
- Này con, sao lâu nay con vắng mặt?
Chàng kể lại chuyện cho đức Phật nghe. Ngài bảo:
-“ Ngay trong thời quá khứ, Ta đã bảo con rằng: “Đàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ có hơi đâu mà giận họ”. Nhưng vì luân hồi tái sanh che mờ tâm trí con, con đã quên điều này”.
Chàng thanh niên yêu cầu Phật kể lại chuyện trước (Jàtaka 65 ), Ngài nói kệ:
Như dòng sông, con đường, quán rượu, phòng hội, nhà kho.
Đàn bà trên thế gian đều như thế, không bao giờ biết được thời tiết của chúng.
Ngài dạy tiếp:
- “Như thế, dâm ô là uế trược của đàn bà, bỏn sẻn là uế trược của người bố thí, ác nghiệp là uế trược của chúng sanh ở đời này và đời sau, nhưng trong tất cả uế trược, vô minh là uế trược nhất”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 59)
Hạnh phúc là ước muốn duy nhất của con người. Không ai lại không muốn gia đình mình được êm ấm hạnh phúc. Muốn gia đình được êm ấm hạnh phúc, thì mỗi cá nhân trong gia đình phải khéo biết bảo vệ hạnh phúc. Sống trong gia đình, không sao tránh khỏi sự va chạm bất hòa. Người xưa nói: “chén úp trong sống thì làm sao tránh khỏi tiếng khua”. Khua ít hay nhiều là tùy ở nơi người khéo biết úp hay vụng về. Nếu khéo biết úp cẩn thận nhẹ tay, thì ít bị khua, hoặc có khua, thì cũng nhẹ thôi. Ngược lại, nếu ta vụng về, vụt chạt thô tháo úp mạnh tay, thì sẽ khua lớn tiếng và dễ bị bể.
Cái sống chén là dụ cho gia đình, mỗi cái chén ở trong sống chén là dụ cho mỗi thành viên trong gia đình. Mái ấm hạnh phúc gia đình chỉ có, là khi nào vợ chồng, con cái, phải hiểu và thật tâm thương yêu nhau. Mỗi người phải có ý thức bảo vệ cái sống chén. Vì cái sống chén nó có cái công năng là để bảo vệ những cái chén. Cũng thế, mỗi người cần phải ý thức bảo vệ mái ấm gia đình. Vì gia đình là mái ấm che chở bảo bọc mọi người. Thế nên, mỗi người phải khéo biết cư xử nhường nhịn nhau. Không nên dùng uy quyền hiếp đáp với nhau. Phải khéo biết tôn trọng ý kiến trao đổi trong mối quan hệ gia đình.
Nhứt là đối với chồng hoặc vợ không được có tư ý ngoại tình. Nếu một người ngoại tình, thì điều đó chứng tỏ là tình yêu thương đã bị rạn nứt sứt mẻ. Và chắc chắn mái ấm hạnh phúc gia đình sẽ không còn. Muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình êm ấm, thiết nghĩ, ta nên noi theo tấm gương thủy chung một lòng với vợ của Án Tử. Án Tử (Án Anh) là một tướng lãnh tài ba của vua Cảnh Công. “Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử, thấy vợ Án Tử, nhà vua liền hỏi:
- Phu nhân đấy phải không?
- Án Tử thưa : Vâng, phải đấy.
- Vua nói: ôi! người trông sao vừa già, vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu khanh nghĩ sao?
- Án Tử đứng dậy thưa rằng: “nội tử tôi nay thật già và xấu; nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy, cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay. Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy”. (Cổ Học Tinh Hoa, quyển nhì, tr 87)
Đó là mối tình thủy chung rất cao đẹp. Tuy là một bậc anh tài được vua yêu chuộng, muốn gả con gái cho, đây là cơ hội ngàn vàng để Án Tử leo lên nấc thang danh vọng quyền uy tột bực, thế mà ông ta lại khiêm hạ lựa lời khéo léo từ chối. Dù biết rằng, sự từ chối đó có thể có ảnh hưởng đến tánh mạng và địa vị của mình, nhưng ông ta cương quyết không phụ bạc người mình yêu. Thế mới biết, Án Tử là người vượt hơn thói đời thường tình: “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”.
Pháp cú trên, Phật nói rõ về việc không khéo bảo vệ hạnh phúc của người đàn bà. Phật cho việc tà hạnh, đó là một vết nhơ xấu mà chúng ta cần phải tránh. Mỗi người sanh ra đời có mỗi biệt nghiệp khác nhau. Biệt nghiệp của mỗi người có nặng nhẹ khác nhau. Đó là do sự huân tập của nhiều đời hoặc hiện đời. Đối với phái nữ, biệt nghiệp của họ là tình cảm sâu nặng. Nếu khéo biết sử dụng tình cảm trong lãnh vực yêu thương chánh đáng, làm tròn bổn phận của một người mẹ, người vợ đối với chồng con, thì quả thật đó là điều đáng quý kính thán phục. Vì đó là chất keo gắn bó để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Bằng trái lại, thì hạnh phúc gia đình sẽ dễ bị tan vỡ.
Giới không tà dâm là giới thứ ba trong năm giới cấm mà đức Phật đã chế ra ngăn cấm người Phật tử tại gia. Nếu cả hai người vợ và chồng đều gìn giữ giới này, thì bảo đảm gia đình sẽ không đổ vỡ vì chuyện lang chạ ngoại tình. Bởi tình yêu, không ai muốn san sẻ chia bớt cho ai. Nhứt là phái nữ, rất ích kỷ và luôn muốn bảo vệ tình yêu. Thế nên, mình biết tôn trọng bảo vệ hạnh phúc tình yêu của mình, thì tại sao mình lại nhẫn tâm phá hại gia cang người khác? Do đó, nên Phật ngăn cấm cả hai phái, khi đã lập gia đình, thì không được tư tình lang chạ làm việc tà hạnh với người khác phái.
Kế tiếp, Phật nói xan tham là vết nhơ của sự bố thí. Bố thí là biểu hiện tấm lòng rộng rãi, bao dung thương người và vật. Bố thí là chất liệu san sẻ tình thương, đem đến sự an vui cho con người. Thương và cứu giúp người, đó là hành động phát xuất từ tấm lòng cao quý từ bi. Đó là một nghĩa cử cao quý của việc thể hiện tình người. Nguyên lý đạo đức của con người là ở chỗ đó. Có bố thí là không có xan tham. Đó là hai phạm trù đối nghịch nhau. Xan tham là ích kỷ, là hèn hạ chỉ biết lợi mình, ai chết mặc ai. Phật nói đó là vết nhơ, người biết tu cần phải tẩy trừ. Tội ác là một vết nhơ rất xấu. Vết nhơ này, gây ra xáo trộn bất an cho bản thân, gia đình và xã hội.
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, ta thấy tình yêu của cặp vợ chồng đồng quý tộc, bị tan vỡ vì người vợ ngoại tình. Giàu sang nhiều tiền của, chưa hẳn đủ sức để bảo vệ hạnh phúc. Khi biết được người vợ ngoại tình, chàng ta rất xấu hổ, chớ không phải theo kiểu “ông ăn chả bà ăn nem”. Ở vào địa vị của người sang trọng giàu có, nên chàng ta rất xấu hổ mặc cảm không dám gặp mặt ai. Chàng đem chuyện này trình bày với đức Phật. Đức Phật bảo: “Đàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ hơi đâu mà giận họ”. Sự thay đổi tánh tình hay giận dỗi hờn mát của phái nữ, Phật nói giống như thời tiết mưa nắng bất thường. Chính vì thế, mà đôi khi làm cho các đấng mày râu phải nhức đầu bể óc, vì sự thay đổi đột ngột như thời tiết này. Biết thế, thì chỉ còn có cách là Phật khuyên các ông “hơi đâu mà giận họ”. Người trí không ai lại tức giận thời tiết bao giờ! Biết đâu, đó là quý bà rèn luyện cho quý ông có thêm đức tánh kiên nhẫn chịu đựng.
Xưa kia, nhà hiền triết Aristote, đã bao phen bị bà vợ đối xử tệ bạc, nhưng ông vẫn vui cười. Có lần, ông vừa từ trong nhà đi ra với một người bạn, ông bị bà vợ đứng trên lầu cao tạt nước ướt ông hết. Người bạn bực tức tỏ ra khó chịu. Ông tươi cười bảo: “có gì đâu mà ông bạn phải buồn giận! Bà ta thương tôi nên mới tắm cho tôi đó thôi! Trời hết cơn gầm sét thì lại mưa. Đó là chuyện bình thường ở đời, không có gì mình phải quan tâm bực tức”.
Thật là một đức nhẫn khó nhẫn. Nhờ đó, nên ông mới trở thành một nhà hiền triết Hy Lạp lưu danh hậu thế. Thế thì, quý ông muốn làm người trí như Phật nói, thì thiết nghĩ, quý ông nên cám ơn quý bà. Ngược lại, quý bà cũng không nên thay đổi tánh tình như “dòng sông” hay như “thời tiết mưa nắng bất thường” để làm khổ cho quý ông.
Nói tóm lại, qua hai pháp cú trên, đức Phật nêu ra tám pháp cấu uế của tâm.
- Không đọc tụng kinh sách là cấu uế của kinh điển.
- Không thức dậy là cấu uế của nhà cửa.
- Biếng nhác là cấu uế của dung sắc.
- Phóng dật là cấu uế của phòng hộ.
- Tà hạnh là cấu uế của đàn bà.
- Xan tham là cấu uế của bố thí.
- Pháp ác là cấu uế của đời này và đời sau.
- Vô minh là cấu uế trọng đại nhất.
243. Trong các nhơ cấu đó, vô minh cấu là hơn cả. Các ngươi hãy trừ hết vô minh mới trở thành Tỳ kheo thanh tịnh.
A worse taint than these is ignorance, the worst of all taints. Destroy this one taint and become taintless, O monks!
Kệ tụng
Trong hàng cấu uế ấy
Vô minh, nhơ tối thượng
Hãy trừ bỏ nhơ ấy
Thành Tỳ kheo, vô cấu.
Lược giảng
Vô minh là cội gốc của sanh tử luân hồi khổ đau. Nó là mắc xích đầu của 12 nhân duyên. Vì si mê nên con người có những nhận định tri giác sai lầm. Mọi khổ đau hệ lụy ràng buộc trong cuộc đời, tất cả đều từ si mê mà ra. Vô minh không còn, thì hành giả sẽ chấm dứt con đường sanh tử khổ đau. Do đó, nên Phật nói: “trừ hết vô minh mới trở thành hàng Tỳ kheo thanh tịnh”
Vô minh tuy là động cơ chính tạo thành ác nghiệp. Nhưng thực thể của nó vốn là không. Vì bản chất của nó là không, nên hành giả mới có thể chuyển hóa nó được. Trong Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh”. Nghĩa là thật tánh của vô minh là Phật tánh. Như chúng ta nói, thật tánh của nước đục chính là nước trong. Nếu nước không có sẵn tánh chất nước trong, thì làm sao chúng ta có thể lóng hết cặn cáu, để nó trở thành nước trong cho được. Dù bản chất của nước là trong, nhưng vì bị cặn cáu làm đục, nên cần phải lóng.
Lóng là tu, là công phu thiền định. Nhờ công phu thiền định mà vô minh sẽ lần lần diệt hết. Cặn cáu nước đục là dụ cho vô minh. Bản chất nước trong là dụ cho tánh giác sáng suốt sẵn có. Thế thì, vô minh và tánh giác đồng thời có từ vô thủy. Nhưng vô minh thì vô thủy mà hữu chung. Còn tánh giác, thì vô thủy mà vô chung. Một cái thì có hết, còn một cái thì hằng hữu miên viễn bất sanh bất diệt. Chính vì thế, nên Phật nói hết vô minh là tánh giác sáng suốt thanh tịnh hiện bày.
244. “Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô.”
245. “Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt.”Lược giải
244. Sống không biết xấu hổ, lỗ mãng như quạ diều, sống chê bai kẻ khác, sống đại đởm khoa trương, sống ngạo mạn tà ác, sống như thế chẳng khó khăn gì.
Easy is life for the shameless one who is as impudent as a crow, is backbiting and forward, arrogant and corrupt.
Kệ tụng
Sống không biết tàm quý
Sống lỗ mãng như quạ
Sống chê bai khoác lác
Sống ngạo mạn nhiễm ô
Dễ thay, đời sống ấy.
245. Sống biết hổ thẹn, sống thường cầu thanh tịnh, sống không đam mê dục lạc, sống khiêm tốn, trong sạch và dồi dào kiến thức ; sống như thế mới thực khó làm.
Difficult is life for the modest one who always seeks purity, is detached and unassuming, clean in life, and discerning.
Kệ tụng
Sống biết lẽ tàm quý
Sống thường cầu thanh tịnh
Sống vô cấu, khiêm tốn
Sống trong sạch, sáng suốt
Khó thay, đời sống ấy.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Culla Sàri ở chung với Tôn giả Xá lợi phất.
“Một ngày nọ, thầy Tỳ kheo đó làm khán bệnh, thầy nhận được thức ăn bổ dưỡng. Trên đường đi thầy gặp một Tôn giả đang khất thực, bèn mời:
- Tôn giả, tôi có ít thức ăn thượng vị được bệnh nhân cúng dường, không dễ gì có, xin mời Tôn giả ăn. Lần khác nếu tôi nhận được, tôi sẽ mang cho Tôn giả.
Tôn giả kia nghe nói, nhưng cứ đi không trả lời. Các Tỳ kheo đem câu chuyện đó bạch Phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, người nào không biết xấu hổ, trơ trẻn, bất lịch sự thì sống thoải mái. Người nào thành thật và sợ từng lỗi nhỏ, thì sống dè dặt”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 61)
Sống phóng túng hành động cẩu thả theo ý muốn, không chút hổ thẹn, không biết tự trọng, lịch sự hay tự phụ, kiêu căng, khinh người, sống theo ác pháp như thế, thì Phật cho đó là sống rất dễ. Đó là nếp sống lỗ mãng như quạ diều.Vì nếp sống đó, không có gì kềm thúc ở nơi thân tâm. Muốn lộng hành tác oai tác quái như thế nào cũng được. Đó là nếp sống sa đọa trụy lạc đi vào con đường của hố sâu tội lỗi.
Ngược lại, người nào sống đời sống khiêm tốn, nhúng nhường hạ mình, sống trong sạch, xa rời các thứ dục nhiễm, thực hành các thiện pháp, thường hay lấy giới luật câu thúc, không buông lung, sống có trí huệ chỉ đạo, người sống như thế mới thật là khó. Như vậy, khó hay dễ rốt lại ở nơi tâm ta. Nếu chúng ta sống có ý thức qua từng ý nghĩ, lời nói, hành động, cẩn thận từng lỗi nhỏ, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống đảm bảo an vui hạnh phúc.
Nhận được thức ăn bổ dưỡng, thay vì mình tận hưởng cho khoái khẩu, nhưng thầy Tỳ kheo lại không ăn. Thầy đem thức ăn thượng vị đó cúng dường cho một thầy Tỳ kheo khác. Nhưng vị này làm thinh mà đi không trả lời trả vốn chi cả. Phật cho hành động đó là mất lịch sự, là không biết hổ thẹn. Nhận hay không nhận, ít ra mình cũng phải tỏ thái độ bằng cử chỉ hay lời nói nhã nhặn lịch sự cho người ta biết. Đó là người có chút tự trọng và lịch sự. Đằng này, chỉ lặng lẽ làm thinh đi, như thế, đó là thái độ bất kính thiếu lễ độ và khinh thường người có lòng tốt với mình. Đứng về phương diện xử thế, thì hành động này không ai có thể chấp nhận được. Đối với trong đạo, thì đây là hạng người thiếu lễ độ khiêm cung, chứng tỏ người đó không có chút oai nghi đạo đức.
246. “Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người.”
247. “Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình.”
248. “Vậy người, hãy nên biết,
Không chế ngự là ác.
Chớ để tham phi pháp,
Làm người đau khổ dài.”Lược giải
246 – 247. Trong thế gian nầy, ai hay sát sinh hay nói dối, hay lấy cấp, hay phạm dâm, hay say đắm rượu chè ; ai có các hành vi đó, tức là đã tự đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời nầy.
One who destroys life, utters lies, takes what is not given, goes to another man’s wife, and is addicted to intoxicating drinks – such a man digs up his own root even in this very world.
Kệ tụng
Ai sống hại sinh linh
Nói láo trong đời này
Lấy của người không cho
Qua lại với vợ người
Lại rượu chè say sưa
Người sống đời sống ấy
Tất chính ngay đời này
Tự đào bỏ thiện căn.
248. Các ngươi nên biết: “Hễ không lo chế ngự tức là ác”. Vậy chớ tham, chớ làm điều phi pháp, để khỏi sa vào thống khổ đời đời.
Know this, O good man: evil things are difficult to control. Let not greed and wickedness drag you to protracted misery.
Kệ tụng
Vậy người hãy nên biết
Chế ác chẳng dễ gì
Chớ tham làm phi pháp
Ma chướng khổ lụy thân.
Lược giảng
Ba pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm tín đồ.
“Có năm trăm tín đồ, người này chỉ giữ giới bất sát, người khác chỉ giữ một giới khác… Ngày kia họ bàn tán, người nào cũng cho rằng giới của mình khó giữ, việc của mình khó nhất…và họ đến chỗ Phật kể lại câu chuyện. Phật dạy:
- “Không có giới nào là quan trọng ít, giới nào là quan trọng nhiều, tất cả các giới đều khó giữ. Nhân đây, Phật nói ba pháp cú này”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 61)
Giới luật là nền tảng căn bản để xây dựng đạo đức con người. Giới luật Phật chế nhằm đưa con người đến chỗ tự do giải thoát. Giới luật không mang tính ràng buộc, mà trái lại, người giữ giới rất được tự do. Như người Phật tử giữ giới không sát sanh, nói rõ hơn là không giết người, thì chắc chắn người Phật tử đi đứng rất tự do thoải mái, không sợ ai báo thù hay lo sợ bị pháp luật bắt bớ giam cầm. Từ đó suy ra, gìn giữ bốn giới kia cũng đều như thế cả.
Theo Edmond Holmes cho rằng, “năm giới cấm Phật chế cho thấy năm hướng chính người Phật tử tự mình kiểm soát để tri hành. Đó là: giới thứ nhất răn người Phật tử kềm chế nóng giận; giới thứ hai kềm chế tham đắm vật chất; giới thứ ba, kềm chế nhục dục; giới thứ tư, kềm chế sự khiếp nhược và ác ý (nguyên nhân không chân thật) và giới thứ năm, kềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn”. (There five precepts indicate five arterial directions in which the Buddhist self control is to be exercised. Thus, the first rule calls upon him to control the passion of anger, the second, the desire for material possessions, the third, the lust of the flesh, the fourth, cowardice and male violence (the causes of untruthfulness), the fifth, the craving for unwholesome excitement).
Người Phật tử không giữ giới, khác nào như ngựa không giây cương, mặc tình buông lung phóng túng, không có gì câu thúc. Nếu thế, thì quả đó là một tai hại vô cùng. Tai hại chẳng những cho bản thân, mà còn tác hại cho gia đình và xã hội nữa. Năm giới cấm Phật chế cho người phật tử tại gia gìn giữ, nó có công năng ngăn ngừa những điều xấu ác, sái quấy. Cho nên giới luật gọi là: “phòng phi chỉ ác”. Nghĩa là ngăn ngừa những điều phi pháp, bất thiện. Muốn cho bản thân, gia đình mình được an vui hạnh phúc, Phật dạy, người Phật tử tại gia cần phải nghiêm trì những giới luật đã thọ. Nếu không, thì đừng mong có sự an vui hạnh phúc.
Hiện nhơn loại đang sống trong một thời đại văn minh tân tiến, toàn cầu hóa, kỹ nghệ hóa, có biết bao nhiêu thứ tiện nghi vật chất máy móc rất tinh vi làm cho con người chóa mắt. Những thứ này có tác dụng lớn là luôn kích động làm gợi lòng tham muốn đam mê của con người. Và từ đó, làm cho con người, nhứt là giới trẻ thanh thiếu niên nam nữ dễ sanh ra nhiều tệ nạn hư hỏng, mất gốc đạo đức. Phải công nhận đại đa số giới trẻ hiện nay đang trên đà tuột dốc rơi vào những hố sâu tội lỗi, hết phương chạy chữa. Đó là những vấn nạn: hút xách xì ke ma túy, rượu chè bài bạc, buôn bán nha phiến, băng đảng, dâm ô, cướp giựt, giết người, tự tử v.v… Những thảm trạng này đã và đang xảy ra hằng ngày trên thế giới.
Nhìn vào con số thống kê của nhiều quốc gia hiện nay, mà chúng ta thấy khiếp đảm kinh hồn chóng mặt. Các nhà lãnh đạo, các nhà tôn giáo, các nhà văn hóa, các nhà giáo dục đạo đức, các nhà xã hội, các nhà tâm lý trị liệu v.v… nếu không có những biện pháp chế tác chữa trị hữu hiệu thích đáng, thì tình trạng suy thoái đạo đức và những tệ nạn này càng ngày sẽ càng tồi tệ hơn và rồi không biết tương lai giới trẻ sẽ đi về đâu?!!!
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, thì ngoài năm giới cấm của Phật chế ra, không còn biện pháp nào chế tác hay hơn nữa để chữa trị tình trạng suy đồi đạo đức của xã hội hiện nay. Cứ thử kiểm nghiệm lại bản thân và gia đình thì chúng ta sẽ thấy rõ. Nếu một người cứ mãi say mê nghiện ngập hút chích xì ke ma túy, rượu chè, bài bạc, thử hỏi bản thân và gia đình của người đó sẽ ra sao? Có được an vui hạnh phúc không? Hoặc người vợ hay chồng có ý ngoại tình, thương yêu người khác, như thế, thử hỏi gia đình người đó sẽ như thế nào? Mái ấm gia đình của họ có còn êm ấm hạnh phúc nữa không? hay tất cả đều tan nát đổ vỡ? Cứ thế mà suy ra hậu quả tai hại của các giới khác cũng như thế. Như vậy, giới luật Phật chế ra, là nhằm bảo vệ hạnh phúc cho mỗi cá nhân và gia đình, nói rộng ra là cho cả thế giới loài người.
Hai pháp cú 246 - 247, Phật đã nêu rõ: “Trong thế gian nầy, ai hay sát sanh, hay nói dối, hay lấy cắp, hay phạm dâm, hay rượu chè say sưa; ai có các hành vi đó tức đã đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời này”.
Qua năm điều Phật nêu ra, chúng ta thấy, đó là một thực trạng của xã hội ngày nay. Vì mỗi cá nhân không gìn giữ, sống buông thả, nên xã hội luôn luôn đảo điên thác loạn, bất an. Đối với năm điều này, nếu chúng ta khinh thường, thì muôn đời chúng ta sẽ không bao giờ có được một cuộc sống an ổn thực sự. Muốn cho xã hội an bình, thì mỗi cá nhân phải cẩn trọng gìn giữ năm điều giới cấm nói trên. Bằng trái lại, thì con người sẽ không còn có phẩm cách đạo đức làm người. Nhân cách đạo đức làm người đã mất, thì con người làm sao có được nếp sống an bình hạnh phúc? Và xã hội loài người sẽ đi về đâu?
Pháp cú 248, Phật nói rõ: “Hễ không lo chế ngự tức là ác”. Chế ngự là chế ngự lòng tham dục. Nếu chúng ta không chế ngự được lòng tham dục, tất nhiên, lòng ta sẽ bất an. Từ đó, có thể tạo ra nhiều tội ác phi pháp, bởi do lòng tham dục mưu cầu lợi dưỡng mà ra. Thử hỏi lòng tham muốn đòi hỏi vật chất của chúng ta biết mấy cho vừa? Thế nên, Phật nói: “Chớ tham, chớ làm điều phi pháp, để khỏi sa vào thống khổ đời đời”. Muốn khỏi sa vào nỗi thống khổ đó, chỉ có cách duy nhứt là chúng ta phải ngăn bớt lòng dục vọng và luôn sống đời sống bằng những nhu cầu đơn giản, giảm thiểu, ít muốn, biết đủ. Đó là cách sống hay nhứt để có được đời sống thực sự tươi mát an vui hạnh phúc.
249. “Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn
Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm,
Không đạt được tâm định?”
250. “Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm,
Ðạt được tâm thiền định.”Lược giải
249. Vì có tâm tin vui nên người ta mới cúng dường, trái lại kẻ có tâm ganh ghét người khác được ăn, thì ngày hoặc đêm kẻ kia không thể định tâm được.
People give according to their faith or regard. If one becomes discontented with the food and drink given by others, one does not attain meditative absorption, either by day or by night.
Kệ tụng
Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí
Ai có tâm ganh ghét
Người khác được ăn uống
Ban ngày hoặc ban đêm
Không thể nào tâm định.
250. Những kẻ nào đã đoạn được, nhổ được, diệt được tâm tưởng ấy, thì ngày hoặc đêm, kẻ kia đều được định tâm.
But he in whom this (discontent) is fully destroyed, uprooted and extinct, he attains absorption, both by day and by night.
Kệ tụng
Ai cắt được, nhổ được
Diệt được tâm tư ấy
Ban ngày hoặc ban đêm
Tất chứng được định tâm.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chú Sa di Tissa.
Theo truyện tích, Sa di Tissa có tật tánh xấu là hay bươi móc phê bình chỉ trích nói xấu những lỗi lầm của các nhà thí chủ dâng cúng các thứ phẩm vật cho Phật và chúng Tăng. Từ những phẩm vật tầm thường của dân chúng, cho đến những thứ vật phẩm thắng diệu của các nhà trưởng giả, hay vua chúa, tất cả, đều bị chú Sa di Tissa nêu ra từng thứ để chỉ trích phê bình. Chú ta nói xấu đủ điều. Nhưng đối với những bà con thân thuộc của chú, thì chú thường khen ngợi những phẩm vật mà họ cúng dường. Đồng thời, chú lại khoe khoang nói khoác về gia cảnh quý tộc của chú.
Nhưng kỳ thật, chú không phải thế. Chú ta xuất thân từ con của một người gác cổng, rồi theo những người thợ mộc lên Xá Vệ, xin Phật xuất gia.
Để hiểu rõ hơn về gia cảnh và thân thế của chú, nên các thầy Tỳ kheo đến tận làng chú ở để tìm hiểu sự thật. Hỏi ra, mới biết thân phận của chú chỉ là một người dân giả thấp hèn. Thế mà, sau khi xuất gia chú lại hết chỉ trích người này, đến phê bình nói xấu người khác. Do đó, các thầy Tỳ kheo đến bạch Phật và được Phật dạy:
-“Đây không phải lần đầu tiên Tissa hay cằn nhằn và nói khoác, đời quá khứ chú cũng đã khoe khoang khoác lác như thế”.
Phật dạy tiếp:
- “Này các Tỳ kheo, người nào hay than phiền về vật thực cúng dâng ít quá hay nhiều quá, ngon hay dở, hoặc không cúng dường ta mà cúng dường người khác, người ấy không bao giờ chứng quả”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Thông thường, lòng ích kỷ ganh tỵ của con người, không muốn ai hơn mình. Thấy người ta có điểm gì vượt trội hơn mình, là mình liền sanh tâm tật đố ganh ghét. Ganh tỵ đố kỵ đủ mọi phương diện. Từ địa vị, uy quyền, nhan sắc, cho đến sự ăn mặc, giàu sang, học lực, hay việc làm v.v… không có thứ gì mà người ta muốn cho kẻ khác hơn mình. Hơn mình thì ganh, mà thua mình thì khi dễ. Đó là lòng ích kỷ nham hiểm ác độc của con người.
Chuyện dẫn trên cho ta thấy, chú Sa di Tissa, thấy mọi người cúng dường các thứ vật thực cho các thầy Tỳ kheo, thì chú sanh tâm đố kỵ, bất bình nói xấu. Chú không xét lại mình. Tại sao người ta không dâng cúng cho mình? Mình có đủ đức độ để thọ dụng không? Về giới đức mình có bằng các vị Tỳ kheo không? Vì thiếu sự suy xét nhìn lại mình, nên chú mới có những ý niệm không tốt đối với các vị thí chủ. Chẳng những thế, mà chú còn vướng phải cái bệnh nói khoác hay khoe khoang với mọi người. Phật cho cả hai đều là tật tánh xấu. Người biết tự trọng, chân thật tu hành không nên có thái độ đố kỵ ganh tỵ nói xấu chỉ lỗi người.
Mau bỏ dứt đi tánh tỵ hiềm
Thấy người hay giỏi phải khen thêm
Hoặc ai xinh đẹp càng thương mến
Giàu có danh cao chớ tỵ hiềm
Kẻ đức hơn mình, mình kính nể
Người tài xin học, học hay thêm
Chớ nên hiềm tỵ hay ganh ghét
Là hạnh người tu phải gắng kềm
(Hòa Thượng Thích Giác Nhiên –
Diệu Lý Pháp Đăng )
Người tu cần phải tập cho mình có cái tâm tùy hỷ. Tâm tùy hỷ là tâm hạnh tốt của Bồ tát, mà chúng ta cần phải gia công tu tập trau dồi, tài bồi. Thấy người làm việc thiện hay có những điều hay đẹp hơn mình, thì mình nên để tâm khen ngợi học hỏi làm theo. Tuyệt đối, không nên sanh tâm đố kỵ. Vì khi mình khởi tâm ganh ghét người ta, tức mình tự hại lấy mình trước rồi. Hại ở chỗ là lòng mình phiền não bất an. Phật dạy, người nào sanh tâm tùy hỷ với công việc thiện nguyện của người khác làm, thì người đó được công đức ngang nhau. Ngang nhau ở chỗ là cả hai đều bỏ được cái lòng ích kỷ. Cả hai đều có tấm lòng tốt thương người như nhau. Chớ không phải ngang nhau ở nơi vật chất bố thí, mà ngang nhau ở nơi tấm lòng rộng lượng buông xả của hai người. Người tùy hỷ là không có lòng tật đố ganh tỵ. Đó là bỏ được cái tâm vị kỷ xấu ác. Người bố thí của cải, thì cũng bỏ được cái tâm tham lam ích kỷ xấu ác. Phật nói, công đức ngang nhau là ở chỗ đó. Nghĩa là cả hai đều bỏ được cái tánh xấu ác vậy.
251. “Lửa nào bằng lửa tham!
Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si!
Sông nào bằng sông ái! ”
252. “Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài.”Lược giải
251. Không lửa nào dữ bằng lửa tham dục, không cố chấp nào bền bằng tâm sân hận, không lưới nào trói buộc bằng lưới ngu si, không dòng sông nào đắm chìm bằng sông ái dục.
There is no fire like lust; there is no grip like hatred; there is no net like delusion; there is no river like craving.
Kệ tụng
Không lửa nào bằng tham
Không chấp nào bằng sân
Không lưới nào bằng si
Không sông nào bằng ái.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm người thiện tín.
Theo truyện tích, khi Phật giảng pháp cho năm thiện tín nghe, Ngài không phân biệt họ thuộc chủng tộc, giai cấp nào. Giáo pháp Ngài giảng dạy đều bình đẳng như nhau. Nhưng trong năm thính giả, chỉ có một người chú ý theo dõi nghe Phật giảng. Còn bốn người kia, không một ai chú ý. Kẻ ngủ gục, người bươi đất, kẻ nhìn trời, người vin cành cây. Thấy thế, Tôn giả A Nan bạch Phật và muốn biết lý do vì sao?
Phật bảo: Người ngủ gục là do trải qua năm trăm kiếp làm rắn, luôn ngủ say nên đời này làm người hay ưa ngủ. Người dùng tay bươi đất đã trải qua năm trăm kiếp làm côn trùng chui trong đất, nên bây giờ tuy làm người nhưng tập khí bươi đất vẫn còn. Người nhìn lên trời, trải qua năm trăm kiếp làm chiêm tinh gia, cứ mãi nhìn ngó lên trời. Người vin lay cành cây đã năm trăm kiếp làm khỉ mãi chuyền cây. Tất cả đều quen theo tập khí cũ mà không ai chú ý nghe Phật giảng nói. Còn người chăm chú lắng nghe, là trải qua năm trăm kiếp làm Bà la môn tụng đọc kinh Vệ đà, nên hôm nay chăm chú lắng nghe như đang đọc Mật thư.
Phật nói tiếp: giáo pháp của Phật không phải ai cũng có thể nghe được. Nếu không có gieo trồng chủng duyên Phật pháp nhiều đời, thì không thể nào nghe và lãnh hội được.
Tôn giả A Nan lại hỏi Phật lý do vì sao mà họ không thể nghe pháp? Phật cho biết: “vì tham ái, sân hận và si mê. Trên thế gian không lửa nào bằng lửa tham ái. Không kìm kẹp nào bằng sân hận, không lưới nào băng si mê và không sông nào bằng sông ái dục”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Tham lam ích kỷ, lợi mình hại người, đó là đặc tánh cố hữu của con người. Xã hội tốt đẹp hay xấu xa, thế giới có an bình hay hổn loạn, tất cả đều do lòng tham lam ích kỷ của con người mà ra. Bởi do lòng tham chấp của con người quá sâu nặng, nên ai cũng muốn chiếm hữu tất cả về mình. Như núi non, đất đai, biển cả, cồn đảo v.v… là do thiên nhiên tạo ra. Thế mà, ai cũng muốn chiếm đoạt về mình. Họ dựa vào thế lực sức mạnh của vũ khí, của binh hùng tướng mạnh, của kinh tế phồn thịnh, để rồi chiếm đoạt tranh giành. Nếu họ nuốt trọn được êm xuôi thì thôi, bằng có sự ngăn chận, thì lửa sân hận của họ sẽ bộc phát đốt cháy lan ra dữ dội.
Ngọn lửa tham sân lúc đầu, chưa bốc cháy cao, thì người ta còn tỏ ra thương nghị tranh luận tương đối hòa dịu với nhau. Nhưng, chúng ta nên nhớ rằng, kẻ có thế lực mạnh bao giờ họ cũng đòi hỏi ở thế thượng phong, kèo trên. Nếu đấu võ mồm dàn xếp không xong, thì kế đến là họ phải giải quyết với nhau bằng võ lực. Họ có thể sử dụng mọi thứ vũ khí tối tân hạng nặng để đọ sức tranh tài cao thấp với nhau. Chừng đó, hậu quả sẽ ra sao? Câu hỏi nầy, trong quá khứ đã chứng minh rất rõ.
Cứ nhìn lại những nước đã từng bị chiến tranh thì chúng ta sẽ thấy rất rõ. Đó là một thảm họa đại thống khổ của kiếp nhơn sinh. Hiện nay, một vài quốc gia Trung Đông, chiến tranh vẫn còn ầm ĩ bốc cháy ngày đêm, không biết đến bao giờ mới thực sự chấm dứt! Nếu lòng người còn nuôi dưỡng những ngọn lửa “Tham, Sân, Si”, thì than ôi! Nhơn loại sẽ không có ngày nào thực sự được sống an bình hạnh phúc!
Các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới hiện nay, họ cũng đang điên đầu nát óc. Một mặt, thì họ lo chạy chữa phòng bị ngăn ngừa về mặt thiên tai họa hại đang đe dọa ngày đêm. Họa hại nầy do đâu? hẳn cũng do con người gây ra. Hằng ngày họ cho thải ra không biết bao nhiêu chất khí dơ làm ô nhiễm môi sinh. Nếu người ta không có biện pháp ngăn chận thích đáng hữu hiệu, thì một ngày nào đó, chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này. Đó là chuyện có thật chớ không phải hù dọa. Mặt khác, thì họ lại đi xâm chiếm gây hấn chiến tranh. Họ không muốn cho nhơn loại sống yên. Họ muốn làm khổ đau cho nhau.
Chúng ta đừng quên rằng, một khi trâu bò húc nhau, thì ruồi muỗi cũng phải chết. Dù kẻ thắng hay người bại, dân chúng vô tội cũng đều bị chung số phận chết chóc khổ đau. Xưa nay, có một cuộc chiến tranh nào mà không tàn phá, gây ra bao thảm trạng tàn sát, nhà tan cửa nát hay không? Thử hỏi mầm mống của chiến tranh nầy là do đâu? Ai cũng biết, là do ba động cơ chính gây ra, đó là: “Tham, Sân, Si”. Từ tham vọng mới gây ra tranh chấp hơn thua. Có tranh chấp là có sân si. Từ đó, mới đưa đến gây ra cảnh chiến tranh đổ máu sát hại lẫn nhau. Nhơn loại muốn tránh khỏi tai họa này, chỉ có một con đường duy nhứt là diệt trừ cội gốc vô minh. Hết vô minh thì con người sẽ không còn gây khổ đau cho nhau nữa.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, Phật cho chúng ta biết về sự sai biệt căn cơ và tập khí của mỗi người. Khi nghe pháp, không phải người nào cũng lãnh hội hiểu biết như nhau. Có người thì họ rất chăm chú lắng nghe. Nên biết, hạng người nầy thiện căn của họ rất sâu dầy. Ngược lại, có người thì ngủ gục, có người thì dáo dác nhìn trời hiu quạnh, có người thì cầm viết vẽ chơi v.v… Họ không chú ý gì đến thời pháp thoại. Tâm họ tán loạn chạy nhảy lung tung còn hơn con khỉ. Phật nói, đó là do những tập khí cũ của họ trải qua nhiều đời. Mặc dù, tất cả đều có gieo nhân duyên ít nhiều với Phật pháp, nhưng khi tu học, nghe pháp, thì mỗi người nhận thức sâu cạn khác nhau. Đồng ngồi trong pháp hội như năm thiện tín nói trên, nhưng mỗi người lại hiện bày tập khí do nhiều đời huân tập khác nhau. Do đó, mà sự lợi ích nghe pháp và lãnh hội của mỗi người rất là sai biệt.
252. Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình thì khó. Lỗi người ta cố phanh tìm như tìm thóc lẫn trong gạo ; còn lỗi mình ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận thu giấu quân bài.
Easily seen is the fault of others, but one’s own is difficult to see. Like chaff one winnows another’s faults, but hides one’s own, even as a crafty fowler hides behind sham branches.
Kệ tụng
Thấy lỗi người thì dễ
Thấy Lỗi mình mới khó
Lỗi người ta phanh tìm
Như tìm trấu trong gạo
Còn lỗi mình thì dấu
Như thợ săn dấu mình.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy khi Phật ở Jàtiyàvana gần thành Bạt đề (Bhaddiya) có liên quan đến trưởng giả Ram.
Theo truyện tích, có lần Phật du hành qua xứ Anguttaras, Ngài nhận thấy có thể độ cho những người trong gia đình của ông trưởng giả Ram đều chứng quả Dự lưu. Gia đình của ông gồm có năm người: Ông bà trưởng giả, con trai, con dâu và người giúp việc.
Về quá khứ, có một thời gian, ông này rất có phước báo và quyền lực. Vì gia đình ông toàn làm những việc phước báo, như cúng dường chư Phật và bố thí cho những người nghèo khổ. Nhờ duyên phúc gieo trồng phước báo nhiều đời, nên trong kiếp hiện tại, ông vẫn là người rất giàu có. Khi hay tin Phật đến thành, ông liền đi đến thăm Phật. Trên đường đi, ông gặp một nhóm ngoại đạo ngăn cản. Dù bị họ dùng nhiều lời lẽ thuyết phục, chống đối, nhưng ông vẫn cương quyết đến gặp Phật. Sau khi đảnh lễ và nghe Phật thuyết pháp xong, ông liền thuật lại lời chống đối, kích bác, phỉ báng chê bai của nhóm ngoại đạo này cho Phật nghe. Phật dạy:
- “Này trưởng giả, những người ấy không thấy lỗi của mình dù là lỗi lớn, còn người khác không lỗi, họ cũng cố gắng kẻ vạch, như quạt thóc tìm trấu”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Pháp cú này, Phật chỉ thẳng vào căn bệnh nặng nề trầm kha của chúng ta. Xưa nay, người ta ai cũng thích muốn vạch bày lỗi người, hơn là nhìn lại lỗi mình. Vì nói lỗi người thì rất là dễ, còn thấy lỗi mình thì rất là khó. Dù rằng lỗi mình đầy trời, nhưng người ta vẫn cố che giấu. Cho nên mới có câu nói: “ẩn ác dương thiện”. Nghĩa là tốt khoe, xấu che. Người ta thích phô trương cái hay, cái tốt, cái đẹp của mình. Không bao giờ người ta phơi bày cái xấu, cái dở tệ của mình ra. Đây là tật tánh xấu cố hữu của con người.
Lỗi người dù có nhỏ nhiệm sâu kín đến đâu, họ cũng cố tìm vạch bày ra cho kỳ được. Phật nói, đó là: “phanh tìm như tìm thóc lẫn trong gạo” . Nếu như trường hợp không có thóc, thì họ cũng cố làm ra cho có thóc. Đó là họ thêu dệt vẽ vời lắm chuyện cho có lỗi để họ chỉ trích nói xấu, với lý do đơn giản là vì họ ganh ghét người đó. Họ có thể dựng đứng đặt điều câu chuyện để nói xấu phê bình. Đó là hạng người có ác ý vu khống chụp mũ. Họ không thích ai, thì họ cho người đó đội nón cối, hoặc cái mũ to. Vấn đề này, nói không biết bao giờ cùng.
Thế giới ngày nay, người ta hay phê bình chỉ trích nói lỗi với nhau rất thậm tệ. Tất cả cũng chỉ vì quyền lợi cá nhân của họ mà thôi. Dù ở giai tầng nào, quyền cao chức lớn, có học hay thất học, trình độ cao hay thấp, tất cả cũng đều có chung một căn bệnh là: “tốt khoe, xấu che” như nhau. Chẳng qua cái cường độ chỉ trích bêu xấu nhau, nó có thô tế, nặng nhẹ khác nhau đó thôi. Ngoại trừ những bậc tu hành chân chánh, đạo đức thâm hậu, họ mới dẹp được cái tật tánh xấu ác này. Ngoài ra, tất cả đều vướng mắc cái bệnh trầm trọng này cả.
Hễ còn nặng lòng chấp ngã là vẫn còn chỉ lỗi nói xấu nhau. Thậm chí, có khi hai chị em ruột lấy chung một chồng, bình thường, bề ngoài thì không nói gì, mặc dù trong lòng họ vẫn ngấm ngầm ấm ức ganh tức khó chịu, chờ đến khi có dịp xích mích giận hờn nhau, thì họ không một chút do dự ngần ngại, cả hai đều nặng lời chửi bới, nói xấu nhau thậm tệ. Những chuyện riêng tư thâm cung bí sử ở trong nhà, họ đều lột trần vạch bày ra hết. Quả thật, họ thuộc hạng người vạch lưng cho người ta xem thẹo nhơ xấu của mình. Thật là xấu hổ ! Chỉ vì một phút si mê, giận tức, họ không kềm chế được cơn giận, nên vô tình họ lại làm trò cười cho khách bàng quan thiên hạ.
Qua chuyện lược dẫn trên là một chứng minh cụ thể về tật tánh xấu ác này. Vốn có ác cảm ganh tỵ với Phật, nên nhóm ngoại đạo họ dùng mọi lời lẽ công kích chỉ trích nói xấu Phật đủ điều để ngăn cản trưởng giả Ram, họ không muốn cho ông này đến gặp Phật. Bất luận người nào, hạt giống xấu ác này cũng đều sẵn có tiềm tàng trong kho A lại da thức. Khi hiện hành mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào sức huân tu chuyển hóa sâu cạn của người đó. Nếu người nào chuyển hóa khá, thì hạt giống xấu ác này không có cơ hội bộc phát mạnh mẽ. Cho nên, chúng ta thấy người nào khéo tu tập chuyển hóa, thì người đó họ tránh được cái lỗi này. Và dĩ nhiên, tâm hồn họ rất là an lạc hạnh phúc.
253. “Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt.”
254. “Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận,
Như lai, hý luận trừ.”
255. “Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú,
Chư Phật không giao động.”Lược giải
253. Nếu thấy lỗi người thì tâm ta dễ sanh nóng giận mà phiền não tăng thêm, nếu bỏ đi thì phiền não cũng xa lánh.
He who seeks another’s faults, who is ever censorious – his cankers grow. He is far from destruction of the cankers.
Kệ tụng
Ai thấy rõ lỗi người
Thường sanh lòng nóng giận
Lậu hoặc ắt tăng trưởng
Rất xa lậu hoặc diệt
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả tên là người tìm lỗi Ujjhànasannì.
Theo tuyện tích, « Tôn giả này thường dòm dỏ lỗi của các Tỳ kheo, thầy nói:
- Thầy này đắp thượng y thế này, thầy kia đắp hạ y như thế kia.
Các Tỳ kheo đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả ấy cứ như thế, như thế.
Phật dạy:
-“Này các Tỳ kheo, người nào làm tròn bổn phận của mình và khuyên người khác như thế, người đó không thấy lỗi ai. Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người, hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có sự ô nhiễm tăng trưởng trong họ”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, tr 80)
Pháp cú trên, Phật nói, người nào hay tìm thấy lỗi người, thì tâm mình đã sanh phiền não trước. Mình phun máu vào người, thì miệng mình đã dính dơ trước rồi. Người nói xấu chỉ lỗi người cũng thế. Đức Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
Bằng thật người tu đạo
Không thấy lỗi thế gian
Nếu thấy lỗi thế gian
Thì lỗi mình đã đến bên.
Người thật sự tu hành, họ chỉ nhìn thấy lỗi họ hơn là nhìn thấy lỗi người khác. Vì có nhìn lại, thì mình mới thấy lỗi mình để sửa. Đó là người khéo biết tu và sẽ có tiến bộ trên đường tu. Như thế, là tránh được nhiều lỗi thị phi. Nếu mình chỉ trích nói xấu chê bai người khác, tất nhiên, là sẽ gây ra lắm chuyện phiền phức cho mình và người. Chắc chắn là lòng mình sẽ có nhiều nỗi phiền muộn bất an. Khi thấy lỗi người thì lòng mình dễ sanh nóng giận, bực bội, khó chịu. Như thế thử hỏi có lợi ích gì? Người chơn tu là muốn được tâm an vui trong từng giây phút. Họ cẩn thận giữ gìn quán chiếu từng vọng niệm dấy khởi. Họ luôn luôn giữ gìn chánh niệm trong từng bước đi và từng hơi thở.
Khi có chánh niệm là họ không còn phiêu lưu trong thế giới ảo tưởng. Vì họ hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại. Họ khéo quán niệm hơi thở thật kỹ để đem tâm về với thân, gọi là thân tâm nhất như. Đã như thế, thì thử hỏi họ còn thời giờ rảnh rỗi đâu để mà nói xấu, chê bai, chỉ trích lỗi lầm người khác? Đó mới thật là người chơn chánh tu hành. Ngược lại, những ai chuyên dòm ngó lỗi người để mỉa mai châm biếm nói xấu, thì quả thật người đó chẳng có tu hành gì cả. Dù người đó đang khoác vào mình chiếc áo nhà tu. Dưới con mắt của người tu hành chơn chánh, họ xem người đó không dính dáng ăn nhập gì đến sự tu hành diệt trừ phiền não cả.
Nếu thấy lỗi để chỉ bày xây dựng, đó là điều rất tốt. Chúng ta cần biện biệt rõ điểm này. Không khéo dễ hiểu lầm. Người có trách nhiệm hướng dẫn đại chúng tu học, đương nhiên là họ có bổn phận theo dõi để chỉ lỗi sửa đổi. Vấn đề này khác xa với sự nói lỗi với tâm ác hại. Một bên, vì xây dựng tốt đẹp mà nói. Một bên, vì ác ý ganh tỵ phá hoại mà nói. Đó là hai thái độ khác xa nhau như trời vực. Xin lưu ý chớ có lầm nhận.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta một bài học về sự tu hành. Thầy Ujjhànasannì là người chuyên bươi vạch nói lỗi người, chứng tỏ thầy còn quá nặng lòng chấp trước. Thầy chưa nắm vững phương pháp tu hành. Sáu căn của thầy còn nhiễm trước ở nơi sáu trần khá nặng. Thầy không nhìn kỹ lại thầy để lo ngăn ngừa phòng hộ sáu căn. Thầy để cho con khỉ ý thức của thầy tự do chuyền nhảy. Thầy quên rằng, bản thân của thầy còn quá nhiều lỗi lầm. Thầy không lo cố gắng tẩy trừ và như thế, thì làm sao tương ưng với đạo giác ngộ? Chính vì thế, nên Phật mới dạy: “Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người, hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có ô nhiễm tăng trưởng trong họ”. Ở đây, ta thấy, thầy Ujjhànasannì đã quên mất con đường “Niệm, Định, Tuệ”, của một người tu. Như thế, thì làm sao gọi là một người tu hành theo đạo xuất thế? Người tu mà không có thật hành ba môn học đó, thì quả thật chưa xứng danh là một người tu theo đạo Phật vậy.
254. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, trong ngoại đạo thì làm gì có Sa môn. Chúng sanh thì thích điều hư vọng[9], mà Như Lai làm gì còn hư vọng.
There is no track in the sky, and no recluse outside (the Buddha’s dispensation). Mankind delights in worldliness, but the Buddhas are free from worldliness.
Kệ tụng
Hư không, không dấu vết
Ngoại đạo, không Sa môn
Chúng sanh thích hư vọng
Như Lai, vọng diệt trừ.
255. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, ngoại đạo thì làm gì có Sa môn, năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ.
There is no track in the sky, and no recluse outside (the Buddha’s dispensation). There are no conditioned things that are eternal, and no instability in the Buddhas.
Lược giảng
“Câu chuyện xảy ra, liên quan đến du sĩ Tu bạt đà la (Subhadda ). Khi đức Thế tôn sắp nhập diệt, trong rừng Sa la trong thành Câu thi. Chuyện kể rằng, khi trước con của Tu bạt đã cúng dường chín lần những phẩm vật đầu mùa gặt cho đức Phật, còn Tu bạt thì không ưng và từ chối, cuối cùng mới chịu cúng. Vì thế ông không gặp Thế Tôn lúc Ngài vừa thành đạo và giảng đạo. Đến lúc cuối, Ngài gần nhập diệt, ông mới tự nghĩ: “Ta có ba điều nghi. Và đã hỏi các Trưởng lão để giải nghi. Lúc ấy Sa môn Cồ đàm còn trẻ nên ta không đến hỏi. Bây giờ thời gian Niết bàn sắp đến, nếu ta không hỏi, sau sẽ ân hận.”
Ông đi đến chỗ Phật. Tôn giả A nan ngăn ông lại, nhưng Phật đã bảo:
-A nan, chớ ngăn Tu bạt đà la, hãy để ông vào thưa hỏi.
Tu bạt vào, ngồi ở chân giường và hỏi Phật:
-Bạch Ngài, có con đường nào trên không trung? Có người nào được gọi Sa môn khi ở ngoài chánh đạo? Pháp hữu vi có trường tồn?
Phật dạy ông những việc ấy không thể có, và nhân đó Ngài nói hai pháp cú này ». (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 81)
Hai pháp cú trên, Phật nêu ra ba vấn đề xác minh rất rõ. Thứ nhứt, Phật nói: “giữa hư không thì làm gì có dấu vết”. Đây là Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt mà ông Tu bạt đã nêu ra. Giữa bầu trời trong tạnh, một đàn chim bay qua, chúng không để lại một dấu vết gì cả. Bầu trời không có ý lưu lại hình ảnh của chúng. Và chúng cũng không có ý muốn lưu lại hình ảnh của chúng khi bay ngang qua bầu trời. Mà dẫu có muốn để lại cũng không được. Đây là một hình ảnh thật giải thoát.
Chim nhạn qua dòng nước
Chẳng lưu lại vết hình
Nước vô tâm in bóng
Nhạn vô ý lưu hình.
&
Biển ngàn in trăng bóng
Duy nhất một vầng trăng
Tùy vọng thấy sai khác
Nào trăng có đổi thay.
&
Trời xanh én lượn êm đềm
Ngàn sao lấp lánh vẫn yên bầu trời
Thuyền chèo bạt nước mù khơi
Trở về bến cũ thảnh thơi an nhàn.
Bầu trời là dụ cho người tu đã đạt được quả vị Niết bàn. Vì Niết bàn là vô sanh. Vô sanh là không còn một dấu vết phiền não. Phiền não có ra là do có vọng tưởng. Mà còn vọng tưởng là còn có sanh diệt. Hết vọng tưởng thì hết sanh diệt. Đến đây, là tịch diệt, là Niết bàn an lạc. Niết bàn ở đây là Phật ngầm chỉ cho Niết bàn của hàng A la hán. Vì A la hán đã dứt hết phiền não “Kiến, Tư” hoặc. Nên trong kinh thường nói các Ngài này là việc lợi mình đã xong. Đã xong việc lợi mình, nhưng còn việc lợi người, thì các Ngài rất ngao ngán, không dám hóa độ. Do đó, nên các Ngài bị Phật quở: “trầm không trệ tịch hay khôi thân diệt trí”. Sự khác biệt giữa Thanh Văn và Bồ tát là ở chỗ bản nguyện độ sanh. Nhưng phải đến quả vị Phật thì việc tự lợi, lợi tha mới hoàn toàn viên mãn, nên gọi Phật là giác hạnh viên mãn.
Thứ hai, Phật nói: “trong ngoại đạo làm gì có Sa môn”. Sa môn (Samano) chỉ cho những vị đã chứng ngộ bốn thánh quả: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Trong bốn thánh quả này, ngoại trừ quả vị A la hán ra, còn lại ba quả vị trước là các Ngài đang tu tập hướng tiến đến quả vị Niết bàn A la hán. Sở dĩ Phật nói bốn quả vị này khác với ngoại đạo là vì những vị này nhân nghe Phật nói pháp Tứ đế, mà các Ngài y cứ vào đó nỗ lực tiến tu diệt trừ hết tập nhân phiền não, nên các Ngài đạt được quả vị Niết bàn.
Trong khi đó, ngoại đạo, họ không xoay lại để diệt trừ tập nhân phiền não, mà họ chỉ một bề hướng ngoại tìm cầu, nên họ không thể chấm dứt đường sanh tử khổ đau. Dù cho họ có đủ lực dụng thần thông, nhưng đó chỉ là thứ thần thông do họ công phu luyện tập mà có.
Nói tóm lại, họ là người tu chạy theo cái ngọn, hướng ngoại tìm cầu, mà không căn cứ vào cái gốc là quán sát nội tâm để gạn lọc dứt hết phiền não. Do đó, nên gọi họ là ngoại đạo. Nghĩa là ngoài tâm cầu đạo đều gọi chung là ngoại đạo. Sự khác biệt giữa ngoại đạo và Sa môn, (tức những người tu theo đạo giải thoát sanh tử khổ đau) là ở chỗ đó.
Thứ ba, Phật nói: “chúng sanh thì thích điều hư vọng, mà Như Lai làm gì còn hư vọng”. Ta nên chú ý ở câu chót này (tạm gọi) giữa pháp cú 254 và 255 có hơi khác. Pháp cú 255, Phật nói: “Năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ”.
Câu trên (254) Phật nói rõ, chúng sanh thì thích điều hư vọng, mà Như Lai làm gì còn hư vọng. Hư vọng là giả dối không thật. Là không phù hợp với chân lý. Phật nói, chúng ta là những người thích sống chạy theo giả dối. Dùng mọi thứ giả dối để khuynh loát lừa gạt lẫn nhau để sống. Người nào khôn khéo biết cách xử dụng nhiều thứ giả dối che mắt người đời, thì người ta gọi những người đó là tài giỏi. Còn người nào không khéo lừa bịp che mắt thiên hạ hay nói năng những lời chân thật phù hợp với chân lý, thì bị người ta cho đó là quê mùa vụng về. Vì họ không có tài xảo thuật mánh khóe lừa bịp. Lời thật bao giờ cũng trái tai người nghe.
Cứ thế, mà người ta đua nhau tranh tài dùng mọi mánh khóe thủ thuật để nói dối. Càng nói dối gạt gẫm thiên hạ nhiều chừng nào, thì sẽ được mọi người tán dương và có lợi nhiều chừng đó. Thế thì, đời sống của chúng ta, nếu đem giáo Pháp Phật dạy ra mà quán chiếu thật kỹ, thì than ôi! tất cả chúng ta toàn là những người sống giả dối. Mọi vật đều giả dối. Nhưng vì lòng si mê chấp “ngã, pháp” quá nặng, nên đối với chúng ta cái gì cũng cho là thật hết. Không ai biết mình đang sống trong giả dối.
Cái thân tạm bợ không thật, hay xấu xí giống như ma trơi, nhưng phải nói là cái thân này sống lâu và đẹp đẽ. Còn nói thân này giả dối, không sạch giống như cầu xí, thì người ta cho kẻ đó nói khùng điên. Nhưng có phải thật sự là khùng điên hay không? Hay những kẻ bưng bít không dám nói thẳng, nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời mới thật là khùng điên? Chắc ai cũng nói kẻ mà nói thật, nói thẳng, vì không khéo chiều được lòng thiên hạ, thì quả kẻ đó là khùng điên rồi. Vấn đề này, xin để mỗi người hãy bình tâm suy xét và mỗi người tự tìm cho mình một kết luận thích đáng.
Ngược lại, Phật nói Như Lai làm gì còn hư vọng. Như Lai là nghĩa bất sanh bất diệt, vượt ngoài đối đãi nhị nguyên, thế thì còn nói cái gì là vọng hay không vọng. Càng nói càng sai lầm. Xin đừng vẽ rắn thêm chưn, hay đầu lại thêm đầu. Những lời nói chỉ là hư vọng làm sao nói đến chỗ chân thật cho được. Đến chỗ tuyệt đối, thì ngôn ngữ hoàn toàn bất lực đầu hàng. Như Lai là Như Lai. Chỉ có thế thôi!
Pháp cú 255, Phật nói năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành , thức. Những thứ này cũng do nhân duyên giả hợp mà có, bản thân nó là giả dối không thật. Vì chúng chỉ là những hiện tượng trên bề mặt của ý thức. Chỉ là những lượn sóng nổi lô nhô trên mặt biển phẳng lặng. Sóng thì khi có, khi không, nên nói chúng không thường trú. Chúng là những pháp hữu vi. Nhưng mặt biển thì không vắng mặt bao giờ.
Như lai làm gì có loạn động? Mặt biển là mặt biển. Mặt biển không động, không loạn. Loạn động là sóng chớ không phải mặt biển. Nhưng rời mặt biển thì không có sóng. Cũng thế, mọi hiện tượng tâm lý dấy khởi không rời bản tâm. Nhưng bảo toàn sóng chính là mặt biển là sai. Vì sóng và mặt biển tuy hai nhưng không phải hai. Vì ly khai mặt biển thì không có sóng. Vọng và chơn cũng thế. Lìa chúng sanh thì không có Như Lai. Lìa vọng thì không có chơn. Phiền não không rời bồ đề mà có. Nhưng chớ nhận lầm phiền não là bồ đề. Xin chớ nhận lầm nước đục là nước trong. Nhưng muốn có nước trong, cần phải lóng lặng hết cặn bã nhơ đục. Muốn có bồ đề, phải dứt hết phiền não. Đó là nghĩa Như Lai không phải là chúng sanh. Lìa vọng không chơn, lìa chơn không có vọng. Đây là pháp môn Bất Nhị. Nói một là sai mà nói hai thì không đúng.
Như vậy cái gì có sanh có diệt đều là những hiện tượng giả dối, không thật. Còn cái gì không sanh không diệt, thì cái đó mới chân thật thường còn. Xin mọi người hãy lặng sâu để sống cho được cái chân thật thường còn này. Vì đó mới đích thực là con người thật của chúng ta. Còn sống tranh đua hơn thua với con người giả dối này, thì than ôi ! chúng ta sẽ còn khổ đau tiếp nối dài dài và không biết ngày nào mới được thoát ra!
Phẩm Pháp Trụ
256. “Ngươi đâu phải pháp trụ,
Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà!”
257. “Không chuyên chế, đúng pháp,
Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp,
Thật xứng danh pháp trụ.”Lược giải
256. Xử sự lỗ mãng, đâu phải hạnh của người phụng thờ Chánh pháp, vậy người trí cần biện biệt đâu chánh và đâu tà.
Not by passing arbitrary judgements does a man become just; a wise man is he who investigates both right and wrong.
Kệ tụng
Ngươi đâu phải pháp trụ[10]
Xử sự quá chuyên chế
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà!
257. Không khi nào lỗ mãng[11], đúng phép và công bình mới là người dẫn đạo. Kẻ trí nhờ sống đúng chánh pháp nên gọi là người an trụ chánh pháp.
He who does not judge others arbitrarily, but passes judgement impartially according to truth, that sagacious man is a guardian of law and is called just.
Kệ tụng
Không chuyên chế, đúng pháp
Công bằng, dắt dẫn người
Bậc trí sống đúng pháp
Thật xứng danh pháp trụ.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến các vị chánh án.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, các Tỳ kheo đi khất thực tại cổng phía bắc thành Xá Vệ, và trở về tinh xá, ngang qua trung tâm thành phố. Khi ấy trời đổ mưa, các Tỳ kheo vào trú ẩn tại một pháp đình, các thầy thấy các quan chánh án nhận của hối lộ và tịch biên tài sản của dân chúng một cách bất hợp pháp. Các thầy nghĩ thầm: “Những ông quan này không công minh, chúng ta cứ tưởng họ là những chánh án liêm chính”.
Khi cơn mưa dứt, các thầy trở về tinh xá, đến chỗ Phật và bạch lên Phật câu chuyện vừa rồi, Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, người nào đầu hàng dục vọng thấp hèn, xét xử chuyên chế, không thể gọi là công bình. Chỉ những người đi sâu tìm tòi việc sai trái trong một vụ án, và xử lý việc sai trái đó đúng pháp, không chuyên chế, mới gọi là công bình”. Và nhân đó Phật nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 85)
Phẩm nầy có tên là pháp trụ. Pháp trụ (Dahammattha) là hành xử đúng pháp, an trụ phụng thờ đúng pháp, nên cũng dịch là “phụng pháp”. Lỗ mãng (Sahasa), bao hàm nghĩa cẩu thả, khinh xuất, độc đoán. Ở đây chỉ cho cái quan niệm bất chính xác, bởi chịu ảnh hưởng của tham, sân, si, bố úy mà sinh ra.
Là người tu hành mà có những hành động lỗ mãng sai trái, nói năng cẩu thả, thiếu khiêm tốn lễ độ, không dùng lời ái ngữ trong khi hành xử giao tiếp, thì đó chưa phải là người thật sự tu hành. Chứng tỏ người đó còn quá nhiều tập khí xấu ác thô tháo. Sống buông thả không có chút giới hạnh, như thế, thì làm sao xứng đáng là người tu? Người thật sự tu hành là phải thiết tha hành trì tịnh giới, hạnh giải tương ưng, và hằng sống trong chánh niệm, chánh quán, phải luôn luôn tịnh hóa thân tâm. Và nhứt là phải tài bồi trí huệ để biện biệt rõ chánh tà chân ngụy. Phật nói, người trí là phải sống đúng theo chánh pháp. Muốn sống đúng với chánh pháp, thì người tu cần phải tôn kính giữ gìn giới luật đã thọ. Nếu không, thì không thể nào có được đời sống an ổn, hạnh phúc cho mình và người.
Qua chuyện dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy, ngay thời đại của Phật, đã có xảy ra những vụ xử án bất công rồi. Các ông quan chánh án thời xưa cũng đã biết tham nhũng ăn hối lộ của dân. Rõ ràng những ông quan tòa này thiếu tu và thiếu thực tập thiền quán, chánh niệm. Các ông ỷ vào luật pháp nằm trong tay của các ông trọn quyền xử dụng. Muốn cong, ngay, xoay chiều thế nào cũng được. Xử phạt tội nhân tùy theo kim ngân nhiều ít. Kẻ nào khéo biết hối lộ đúc lót cho ăn nhiều, thì kẻ đó sẽ được phần thắng kiện. Còn người nào không tiền bạc, thì đành phải ngậm miệng nuốt bồ hòn.
Dù cho kẻ đó có lẽ phải đến đâu, các ông này xử kiện cũng trở thành phạm pháp sái quấy. Vì họ xử theo lối luật rừng, tùy theo sức mạnh của kim ngân. Thời xưa đã thế, thời nay thì sao? Người xưa, dù sao cũng còn có lương tâm đạo đức nhiều hơn thời nay, thế mà vẫn còn có xảy ra những chuyện bất công như thế! Trách gì con người thời nay, lương tâm đạo đức họ coi nhẹ còn hơn bông gòn!
Thế mới biết lòng dục vọng che mờ lý trí. Rõ ra, dòng máu tham nhũng hối lộ này đã di truyền từ thời xa xưa. Khi loài người xuất hiện trên trái đất, là đã có máu tham ô này rồi. Nhưng có lẽ thời xưa, con người chưa văn minh, nên việc ăn hối lộ tham nhũng, chắc không được tinh vi kín đáo như thời nay.
Sau khi chứng kiến việc xử án bất công đó, các thầy Tỳ kheo về bạch trình với Phật. Phật bảo: “người nào đầu hàng dục vọng thấp hèn, xét xử chuyên chế, không thể gọi công bình. Chỉ có những người đi sâu tìm tòi việc sai trái trong một vụ án, và xử lý việc sai trái đó đúng pháp, không chuyên chế mới gọi là công bình”. Lời dạy này, Phật đã cảnh cáo những kẻ đã lợi dụng kẻ hở của luật pháp để rồi bóp méo xử phạt không đúng theo luật pháp công minh. Đó là một tai hại rất lớn cho việc cai trị điều hành bộ máy chánh quyền của một quốc gia. Xin các ông quan tòa chánh án hãy đọc kỹ lời Phật dạy trên để xét xử, cầm cân nảy mực, đúng theo luật pháp công bằng và đó là thể hiện đúng với chức năng cũng như lương tâm con người. Được thế, thì người dân, những kẻ thấp cổ bé miệng sẽ biết ơn mấy ông rất nhiều.
258. “Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc trí.”
259. Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh trì pháp.”Lược giải
258. Chẳng phải cậy nhiều lời cho là người có trí, nhưng an tịnh không cừu oán, không sợ hãi mới là người có trí.
One is not wise because one speaks much. He who is peaceable, friendly and fearless is called wise.
Kệ tụng
Không phải vì nói nhiều
Mới xứng danh bậc trí
An ổn không oán sợ
Thật đáng gọi bậc trí
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Lục quần Tỳ kheo.
« Chuyện kể rằng, nhóm Lục quần Tỳ kheo hay đi từ tinh xá này đến tinh xá khác, từ làng này sang làng khác, làm mất trật tự trong phòng ăn của chúng Tăng. Ngày đó, vài Tỳ kheo trẻ và Sa di, sau khi ăn sáng ở trong làng, đến tinh xá. Các Tỳ kheo ở đây hỏi:
- Chư huynh đệ thích phòng ăn như thế nào?
- Xin đừng hỏi chúng tôi. Mấy ông Lục quần Tỳ kheo tự tuyên bố là: “Chỉ có chúng ta thông minh, chỉ có chúng ta là trí tuệ. Chúng ta sẽ đánh mấy thầy này, đổ rác lên đầu họ và đuổi họ ra”.
Và họ tóm lấy chúng tôi, đổ rác lên đầu, làm phòng ăn lộn xộn lên.
Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào thông minh khi người ấy nói nhiều và chọc giận người khác. Ta chỉ gọi là người trí tuệ khi kẻ ấy kiên nhẫn, thoát khỏi sân giận và sợ hãi”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 86)
Người xưa thường nói: “đa ngôn thì loạn ngữ”. Lời nhiều thì loạn tâm. Không phải nói nhiều là hay. Thường người ta thích nói hơn thích nghe. Nhiều người ham nói nhiều để chứng tỏ mình là người học rộng thông minh uyên bác. Họ thích khoe tài dỏm. Thùng thiết sở dĩ kêu to, là vì thùng rỗng. Thùng có chứa đầy nước thì không kêu. Thế nên, Phật nói: “Chẳng phải cậy nhiều lời cho là người có trí”. Người trí họ ăn nói rất khiêm tốn trầm tĩnh điềm đạm. Việc gì cần thiết đáng nói, họ mới nói. Khi họ nói cũng phải tùy thời và tùy đối tượng. Không phải họ ích kỷ tiếc lời. Nhưng vì họ muốn dưỡng tâm nuôi đức. Vì bậc trí giả chân tu, tuy họ nói rất ít, nhưng mỗi lời họ nói ra đều có giá trị lợi ích rất lớn. Càng giữ gìn lời nói, càng tránh được nhiều điều phiền phức cho mình và người. Do đó, nên Phật nói: “an tịnh không cừu oán, không sợ hãi mới là người trí”.
Đôi khi vì lỡ nặng lời một người nào đó, rồi gây ra việc giận hờn thù oán và từ đó tâm ta luôn luôn bất an. Ta nơm nớp lo sợ họ trả thù. Người trí, là người nói có chánh niệm. Khi mở lời họ biết rõ, họ đang nói gì. Họ có mặt từng giây phút trong lời nói. Nhờ đó, mà họ luôn luôn được an vui hạnh phúc. Ngược lại, kẻ mê muội, thì thường bị thất niệm. nên khi phát ngôn, họ thiếu sự cẩn trọng. Họ mắc phải chứng bệnh già hàm ham nói. Gặp phải đối tượng chịu nghe, họ nói huyên thuyên, tràng giang đại hải, khô cổ họng nhưng vẫn không biết mệt. Nhiều khi, họ nói không đâu ra đâu mà họ vẫn thích nói. Đối với người tu, thì tối kỵ nói nhiều. Vì nói nhiều loạn tâm ý. Người đang thực tập chánh niệm, càng ít nói càng tốt. Mỗi lời nói của họ đều có giá trị. Nói ít, nên nói những gì cần nói. Đó là người khéo biết tịnh tâm. Vì thế, chư Tổ thường khuyên dạy:
Bớt nói nhiều chuyện tạp
Niệm nhiều câu Phật hiệu
Đánh chết hết vọng niệm
Pháp thân sẽ hiện bày
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy, nhóm Lục quần Tỳ kheo kiếm chuyện gây hấn trong chúng Tăng. Sự tu hành không thể đánh giá trên hình thức chiếc áo. Cần phải đánh giá trong hành động và lời nói. Một thái độ, cử chỉ, hay lời nói ra, người ta có thể biết được tập khí của người đó nặng nhẹ thế nào. Và sự tu hành của người đó ra sao. Không cần phải khoe khoang, đôi khi trở thành nói khoác mà mang tội. Người có chút ít kinh nghiệm đời sống nội tâm, họ nhìn thấy rất rõ.
Nhóm Lục quần Tỳ kheo này, dù họ xuất gia, nhưng tập khí phiền não tham, sân, si của họ còn khá nặng. Chính vì thế, nên họ quậy phá lung tung. Và họ đã gây ra làm xáo trộn trong Tăng đoàn. Ngẫm lại, thời nào cũng có những hạng người này. Thời Phật còn như thế, huống gì thời đại của chúng ta?! Thử hỏi làm sao tránh khỏi những tệ nạn này?
259. Chẳng phải cậy nhiều lời cho là hộ trì chánh pháp, nhưng tuy ít học mà do thân[12] thực thấy pháp, không buông lung, mới là người hộ trì chánh pháp.
A man is not versed in Dhamma because he speaks much. He who, after hearing even a little Dhamma, realizes its truth directly and is not heedless of it, is truly versed in the Dhamma.
Kệ tụng
Không phải vì nói nhiều
Mới xứng danh pháp hộ
Những ai tuy nghe ít
Nhưng tâm hành chánh pháp
Không buông lung chánh pháp
Mới xứng danh pháp hộ.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Nhất Cú, tức A la hán Ekuddàna.
Theo truyện tích, Tôn giả Nhất Cú sống đơn độc trong rừng và chỉ biết độc nhất một câu kệ:
Vị Sa môn tư tưởng thanh cao
Tinh tấn, tu tập trong im lặng.
Sa môn ấy tâm hằng an tịnh,
Luôn chánh niệm, không còn phiền não.
Bài kệ đó đã được chư thiên tán thán mỗi khi Tôn giả đọc lên vào ngày Bố tát. Một hôm, có hai thầy Tỳ kheo, cả hai đều lão thông kinh điển và dẫn theo một ngàn đồ chúng đến nơi Bố tát. Tôn giả Nhất Cú rất mừng, vì thấy các thầy đến đông đảo như thế. Nhân đó, Tôn giả cho biết chư thiên sẽ vỗ tay vang rền ca ngợi khi nghe pháp. Nhưng hôm ấy, không có một tiếng vỗ tay nào. Dù những vị này có thuyết giảng về giới luật rất rộng. Mọi người đang thắc mắc, thì Tôn giả Nhất Cú vừa đọc xong bài kệ, chư thiên đồng vỗ tay tán thán. Nhân việc này, các thầy Tỳ kheo trở về tinh xá trình lên đức phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào là thông suốt giáo pháp chỉ vì họ biết hoặc đọc nhiều kinh. Nhưng người nào chỉ biết đọc một câu, hiểu thấu sự thật, người ấy thật là người thông suốt Tam tạng”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nó pháp cú này.
Trong đạo Phật, người học rộng nói nhiều mà không thật hành chánh pháp, nói rõ ra, là thiếu tỉnh thức, thực nghiệm, tu hành, thì người đó chỉ là kẻ đứng bên lề Phật pháp. Chỉ là người đứng trên bờ sông phân tích nước dưới sông. Thật sự thì họ chưa lội xuống tắm mình trong dòng sông. Có thể họ phân tích giảng nói rất hay. Nhưng đối với sự giải thoát đau khổ, họ vẫn dặm chân tại chỗ. Có thể gọi họ là hàng học giả, chớ không phải là hành giả. Người tu theo đạo Phật phải là hành giả. Chúng ta đừng quên rằng, chữ “học” trong đạo Phật nó có nghĩa là thực tập, thật hành, chớ không phải chỉ lý thuyết suông. Đạo Nho cũng nói: “học nhi thời tập chi”. Nghĩa là học phải tu tập, luôn luôn đi đôi với thật hành. Học không hành, chỉ là bánh vẽ, là hý luận trò chơi mà thôi.
Pháp cú trên, Phật minh định rất rõ: “Chẳng phải cậy nhiều lời cho là hộ trì Chánh pháp, nhưng tuy học ít mà do thân thực thấy Chánh pháp không buông lung, mới là người hộ trì Chánh pháp”. Giáo pháp của Phật nói ra là để trị liệu, phải thực nghiệm thân chứng. Dù biết ít, nhưng cố công thật hành, thì sẽ lợi ích rất lớn. Còn hơn biết nhiều hiểu rộng, mà toàn chỉ khoác lác nói suông, rốt lại, chỉ là kẻ chứa sách, không có lợi ích chi cả. Đó là kẻ chỉ biết vào tai ra miệng. Cho nên, trong đạo Phật phải là:“tri hành hợp nhứt”. Học Phật là để biết cách tháo gỡ, chuyển hóa những thứ tâm hành bất thiện nội kết trong tâm. Học Phật như thế mới là thực tế lợi ích.
Chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho ta thấy, thầy Nhất Cú, chỉ nhớ thuộc có một bài kệ bốn câu, mà mỗi khi tụng đọc, thì được chư thiên vỗ tay tán thán. Chứng tỏ, thầy đã thật hành đúng theo những gì bài kệ đã nói. Thầy đã thực sự thật hành, những gì thầy biết. Dù chỉ là bốn câu kệ thôi. Ngược lại, hai thầy Tỳ kheo kia, tuy lão thông Tam tạng, nhưng khi tụng đọc, không nghe một tiếng vỗ tay khen ngợi nào của chư thiên. Điều đó, để nói lên rằng, học rộng nhớ nhiều, không thiết thiệt thật hành, thì chỉ là luống công nhọc sức vô ích mà thôi. Chỉ thấy được cái võ bề ngoài, chớ không thấy được cái ruột tinh túy của nó. Có thật hành đúng theo Chánh pháp, chẳng những bản thân mình được lợi lạc, mà còn đem lại sự lợi lạc đó để chia sẻ cho mọi người. Và mọi người cũng được lợi lạc như mình.
Đạo Phật là đạo giác ngộ là đạo thật hành thực nghiệm, thân chứng những gì đã học, chớ không phải là đạo chỉ biết nói lý thuyết suông. Thay vì ngồi đó diễn tả phân tích mùi vị sầu riêng, sao chúng ta không chịu trực tiếp ăn thử. Có ăn vào mới biết mùi vị thơm ngon của nó. Còn ngồi đó diễn tả hoài, thì biết đến bao giờ mới thực sự no bụng?
260. Không phải là trưởng lão,
Dầu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao,
Ðược gọi là: “Lão ngu.”
261. “Ai chân thật, đúng pháp,
Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế,
Mới xứng danh Trưởng Lão.”
262. “Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá.”Lược giải
260. Trưởng lão[13] chẳng phải vì bạc đầu, nếu chỉ vì tuổi tác cao mà xưng trưởng lão, thì đó chỉ là xưng suông.
A monk is not an Elder because his head is gray. He is but ripe in age, and he is called one grown old in vain.
Kệ tụng
Không phải vì bạc đầu
Mà được gọi trưởng lão
Chỉ có tuổi tác cao
Danh chỉ xưng “ lão ngu”.
261. Đủ kiến giải chân thật[14], giữ trọn các pháp hành[15], không sát hại sanh linh, lo tiết chế[16] điều phục[17], người có trí tuệ đó, trừ hết các cấu nhơ, mới xứng danh trưởng lão.
One in whom there is truthfulness, virtue, inoffensiveness, restraint and self mastery, who is free from defilements and is wise – he is truly called an Elder.
Kệ tụng
Ai chân thật, đúng pháp
Bất hại, biết chế phục
Bậc trí không cấu uế
Mới xứng danh trưởng lão.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Lakuntaka Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, Tôn giả Lakuntaka vào làm thị giả hầu Phật, và khi vị này đi ra, có ba mươi thầy tu ở rừng đến nhìn thấy. Các vị này vào gặp Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Đức Phật nhận thấy ba mươi thầy đều có khả năng chứng A la hán, bèn hỏi:
- Các ông có thấy một Trưởng lão vừa đi ra không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
- Các ông không thấy ư?
- Chúng con chỉ thấy một Sa di.
- Này các Tỳ kheo, đó không phải là Sa di, đó là một Trưởng lão.
- Người ấy còn quá trẻ, thưa Thế Tôn!
- “Ta không gọi người nào là Trưởng lão chỉ vì họ già, vì họ ngồi ở ghế Trưởng lão, nhưng người nào thấu đạt chân lý, và đối xử tốt với người khác, người ấy là Trưởng lão”. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 90)
Trong đạo Phật, những danh xưng Hòa Thượng, Trưởng lão, Thượng Tọa, Đại Đức, chỉ là những danh từ được dùng để gọi những vị xuất gia thọ Tỳ kheo đã có hạ lạp cao, phải trên mười hạ trở lên, sau khi thọ cụ túc giới. Đại Đức tiếng Phạn là Thera, có nghĩa là người đã vững chắc an ổn. Trưởng lão ở đây là chỉ cho những bậc tu hành có tuổi đời và đạo đều cao, nhứt là phải có đầy đủ giới đức cao trọng, phải là người thực tu thực chứng, mới được gọi là Trưởng lão. Như nói Trưởng lão Xá lợi phất, Trưởng lão Mục kiền liên v.v…
Ngoài ra, nếu chỉ vì tuổi cao mà không có giới đức, thực tu, thực chứng, thì đó chỉ là tên gọi suông mà thôi. Thực chất, thì không xứng đáng. Vì vậy, người tu hành, không phải căn cứ vào tuổi tác cao, mà gọi là Trưởng lão. Phật đã minh định rất rõ, phải là bực tròn đủ giới hạnh, đủ kiến giải chân thật, (không phải kiến giải suông), giữ tròn các pháp hành, (tức phải đầy đủ giới đức), phải có đạo lực cao, dứt trừ các cấu uế phiền não, người ấy mới xứng danh là Đại Đức hay Trưởng lão. Nếu so với lời Phật dạy trên, thì ngày nay, phải nói là người ta đã lạm dụng danh xưng quá nhiều. Không cần biết giới lạp và sự tu hành của người đó ra sao, miễn thấy người đó mang hình thức đầu tròn áo vuông trọng tuổi, thì người ta gọi là Hòa Thượng, Thượng Tọa hay Trưởng lão.
Cần minh định rõ, những danh xưng trên, không nằm trong lãnh vực chức vụ, mà chỉ tôn xưng những bậc tu hành có giới đức hạ lạp cao. Đúng ra, danh xưng Hòa Thượng hay Thượng Tọa phải được hội đồng tăng già tấn phong trong một buổi lễ Đại giới đàn. Như thế mới hợp pháp, hợp lý. Có nhiều người cứ tự mình tấn phong cho mình và bắt mọi người phải xưng hô như thế. Vì háo danh mà họ đã bất chấp luật lệ Phật chế. Thật là đáng buồn lắm thay!
262. Những người hư ngụy, tật đố và xan tham, tuy có biện tài lưu loát, tướng mạo đoan trang cũng chẳng phải người lương thiện.
Not by mere eloquence nor by beauty of form does a man become accomplished, if he is jealous, selfish and deceitful.
Kệ tụng
Không phải nói lưu loát
Không phải sắc mặt đẹp
Mà thành người lương thiện
Nếu con người ganh tỵ
Xan tham và dối trá.
263. “Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân,
Ðược gọi người hiền thiện.”
264. “Ðầu trọc, không sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi sa môn?”Lược giải
263. Nhưng người trí nhờ diệt trừ tận gốc lòng sân hận, mới là người lương thiện.
But he in whom these are wholly destroyed, uprooted and extinct, and who has cast out hatred – that wise man is truly accomplished.
Kệ tụng
Chỉ ai đã cắt tiệt
Nhổ tận gốc, đoạn trừ
Người trí tận diệt sân
Mới phải người lương thiện.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “một hôm, có vài Trưởng lão thấy các Sa di và Tỳ kheo trẻ hầu hạ thầy, nhuộm y, giặt y… Các vị bàn tán:
- Chúng ta là những người giảng dạy thông suốt, vậy mà không được săn sóc như thế. Bây giờ chúng ta đến chỗ Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con đều tinh thông giáo pháp, xin Ngài ra lệnh cho các Tỳ kheo tân học và Sa di rằng: “Dù được học giáo lý với ai, không được ôn luyện cho đến khi các ông được các Trưởng lão này giảng dạy”. Như thế chúng ta sẽ được danh dự và lợi dưỡng.
Bàn thế, các Trưởng lão đến chỗ Phật và thưa như trên, Phật nghĩ: “Trong truyền thống tôn giáo ta, có quyền nói như vậy, nhưng mấy ông này chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ”. Và Ngài bảo:
-“Ta không nhận xét các ông đã hoàn toàn chỉ các ông nói lưu loát. Nhưng người nào mà mọi ô nhiễm và phẩm hạnh xấu đều bị trừ tuyệt bởi Thánh quả, người ấy mới thật hoàn toàn”. Nhân đó, Phật liền nói hai Pháp cú này.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 91)
Hai tâm sở: tật đố và xan tham là hai món trong hai mươi món tùy phiền não. Hai món tâm sở này, ai cũng biết bản chất của chúng là bất thiện. Nghiệp dụng của chúng là hay ganh tỵ không muốn ai hơn mình. Vì ganh ghét người hơn mình, nên lúc nào chúng cũng tìm đủ mọi phương cách để hãm hại. Tâm sở xan tham bản chất của nó là keo kiết, bỏn xẻn, rít rắm. Ngoài mặt, thì nó giả bộ nghèo túng khổ sở, nhưng bên trong thì tích lũy tài sản không bố thí cho ai. Bởi thế ca dao có câu:
Của mình thì cứ bo bo
Của người thì lại đem mo kéo về.
Vì tánh chất keo kiết bỏn xẻn, không muốn cho mẻ một đồng nào, nên gặp ai họ cũng than van rát ruột. Họ có tài giả bộ đóng kịch rất hay. Vì họ sợ người ta biết đến tài sản của họ. Có thể gây ra thiệt hại cho bản thân họ. Vì xan tham, nên cố che giấu bằng mọi cách. Dù họ có tiền của như thế, nhưng họ chưa bao giờ giúp đỡ cho ai. Trái tim của họ khô cứng đối với những người khốn khó, nghèo khổ. Chưa bao giờ họ biết mở rộng trái tim thương người. Đời họ chỉ biết có tiền và tiền. Do đó, mà lòng họ không bao giờ được an ổn thoải mái. Vì túi tham của họ không có đáy, nên họ không khi nào biết đủ. Có một họ muốn có mười, cứ thế mà nhân lên mãi.
Họ bận rộn với công ăn việc làm của họ suốt ngày. Họ luôn say mê với công việc, sự nghiệp. Họ không có mặt với những người thân trong gia đình. Một buổi cơm thân mật đầm ấm trong gia đình, đôi khi cũng không có. Sự có mặt của họ chỉ là những con số tính toán lời lỗ, đôi khi, họ lại gắt gỏng cau có khó chịu. Họ không có mặt với người thân trong sự tươi mát. Họ không bao giờ biết hiến tặng cho người thân của họ bằng sự có mặt tươi mát đó. Tất cả cũng chỉ vì lòng xan tham mà ra. Do đó, mà bản thân và gia đình của họ không bao giờ có được hạnh phúc. Thế mới biết, giàu sang tiền của nhiều, chưa phải là nền tảng để có được hạnh phúc. Đã có biết bao nhà tỷ phú sống trong buồn khổ héo hắt cô đơn cả thể xác lẫn tinh thần. Đó là sự thực của cuộc đời.
Hai pháp cú trên Phật nói rõ, những ai còn có tâm hư ngụy giả dối, tật đố và xan tham, thì dù cho người đó có biện tài nói năng lưu loát đến đâu, hoặc hiện ra bề ngoài như người lương thiện, nhưng thực chất bên trong của họ cũng chỉ là tham lam dối trá mà thôi. Nếu người nào muốn được an vui hạnh phúc cho bản thân và gia đình, thì Phật khuyên nên sống chân thật với chính mình, bằng cách là trừ đi lòng xan tham, ganh ghét sân hận, để cho tâm hồn được thanh thoát nhẹ nhàng. Từ đó, đời sống mới thực sự có ý nghĩa. Bằng không, thì chỉ là người sống suông chết uổng mà thôi !
264. Người vọng ngữ và phá giới, dù cạo tóc cũng chưa phải là Sa môn; huống còn chất đầy tham dục, làm sao thành Sa môn?
Not by shaven head does a man who is undisciplined and untruthful become a monk. How can he who is full of desire and greed be a monk?
Kệ tụng
Không tự chế, nói láo
Dầu cạo tóc trọc đầu
Đâu được gọi Sa môn
Ai còn đầy dục ái
Sao được gọi Sa môn?
265. “Ai lắng dịu hoàn toàn,
Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp,
Ðược gọi là Sa môn.”
266. ” Chỉ khất thực nhờ người,
Ðâu phải là tỷ kheo!
Phải theo pháp toàn diện,
Khất sĩ không, không đủ.”Lược giải
265. Người nào dứt hết các điều ác, không luận lớn hay nhỏ, nhờ dứt hết các ác mà được gọi Sa môn.
He who wholly subdues evil both small and great is called a monk, because he has overcome all evil.
Kệ tụng
Ai trừ tiệt điều ác
Không luận nhỏ hay lớn
Vì điều phục ác pháp
Được xứng danh Sa môn.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Hatthaka.
« Chuyện kể rằng, mỗi khi thầy Hatthaka bị thua cuộc trong khi tranh luận, bèn hẹn :
- Hãy đến nơi ấy, nơi kia vào đúng giờ ấy, giờ kia, sẽ kết thúc cuộc bàn cãi.
Và thầy đến trước nơi hẹn và nói :
- Xem kìa ! mấy người ngoại đạo sợ ta đến nỗi không dám đến gặp. Vậy là họ thua cuộc rồi.
Thầy luôn luôn dùng cách ấy nói với đối phương mỗi khi thua cuộc.
Đức Phật nghe nói Hatthaka làm như vậy, bèn gọi thầy đến hỏi :
- Hatthaka có phải ông làm như thế, như thế ?
- Thưa vâng.
- Tại sao ông làm như thế ? Một người làm điều sai quấy không thể gọi là Sa môn, dù đầu họ cạo trọc. Người nào sửa được mọi lỗi lầm lớn nhỏ mới thật sự là Sa môn. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú này.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 93)
Người xuất gia phải lấy giới luật làm thầy. Và phải sống đúng theo phẩm hạnh của người xuất gia. Không thể đánh giá người tu trên hình thức. Hình thức chỉ là bề ngoài, đôi khi dễ nhận diện sai lầm. Phật nói : «người vọng ngữ và phá giới, dù cạo tóc cũng chưa phải là Sa môn». Phật dạy, người xuất gia cạo bỏ râu tóc, mục đích là để khác đi với người thế tục. Vì người đời họ rất quan tâm chú trọng đến hình thức. Đối với thân thể, họ luôn chăm sóc nhan sắc, lúc nào họ cũng muốn làm đẹp. Làm đẹp để gây sự chú ý ở nơi mọi người. Họ quá coi trọng và cung phụng sắc thân. Ngược lại, người xuất gia thì không nên trau tria làm đẹp ở nơi thân thể. Đầu tròn áo vuông, mặc đồ hoại sắc là cốt để ý thức đến sự tu hành, tịnh hóa thân tâm.
Người xuất gia, mỗi sáng sớm thức dậy, Phật dạy, mỗi người cần phải tự xoa đầu. Xoa đầu để tự thức tỉnh rằng, mình là người đã nguyện từ bỏ tất cả, không còn tham ái đắm nhiễm bất cứ thứ gì. Hơn thế nữa, phải hằng tự nhủ rằng, mình là kẻ đang đi ngược dòng đời. Phải có nếp sống đơn giản, tam thường bất túc. Nghĩa là người xuất gia đối với ba thứ ăn, mặc và ngủ nghỉ không nên đầy đủ. Mọi thứ tiện nghi vật chất cũng phải vừa chừng, không được cất chứa dư thừa mà sanh tâm đắm nhiễm, làm tổn đức hạnh của người tu. Xin đừng viện cớ thời đại mà buông lung tâm ý tổn mình, hại người. Nếusống trái với giới luật, thì bản thân mình đã không được lợi lạc, nói chi đem lại sự lợi lạc đến cho mọi người.
Hatthaka tuy là Sa môn, nhưng thầy đã không sống đúng với một người Sa môn. Vì sợ mất thể diện, nên thầy đã phạm lỗi lầm là lường gạt người khác. Thầy là người thiếu đức tánh tự trọng. Thầy đã coi thường giới luật. Thầy đã hành xử theo tiếng gọi của dục vọng. Đời sống tâm linh của thầy còn quá nghèo nàn. Tâm ý của thầy còn buông thả, thất niệm. Người xuất gia sống không có chánh niệm, thì chưa phải là người xuất gia Sa môn. Phật là người hằng sống trong sự tỉnh thức. Có tỉnh thức là có an lạc. Nếu sống buông lung tâm ý, thì đó là nếp sống sa đọa và sẽ đắm chìm mãi trong biển khổ sanh tử, không biết đến bao giờ mới được thoát ly. Hạnh nguyện của người xuất gia rất cao thượng, chí nguyện cao tột sáng ngời, phải hằng sống đúng theo giới luật Phật dạy. Có thế, thì mới đúng với ý nghĩa của người xuất gia thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh vậy.
266. Chỉ mang bát khất thực, đâu phải là Tỳ kheo. Chỉ làm nghi thức tôn giáo, cũng chẳng phải Tỳ kheo vậy.
He is not a monk just because he lives on others’ alms. Not by adopting outward form does one become a true monk.
Kệ tụng
Chỉ mang bình khất thực
Đâu phải là Tỳ kheo !
Phải theo giới pháp bổn
Mới xứng danh Tỳ kheo
Khất thực không, không đủ.
267. ” Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo.”
268. “Im lặng nhưng ngu si,
Ðâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân,
Bậc trí chọn điều lành.”
269. ” Từ bỏ các ác pháp,
Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời
Mới được gọi ẩn sĩ.”Lược giải
267. Bỏ thiện[18] và bỏ ác, chuyên tu hành thanh tịnh, lấy “Biết”[19] mà ở đời, mới thật là Tỳ kheo.
Whoever here (in the dispensation) lives the holy life, transcending both merit and demerit, and walks with understanding in this world – he is truly called a monk
Kệ tụng
Ai bỏ cả thiện ác
Chuyên tu hành thanh tịnh
Lấy hiểu biết ở đời
Mới xứng danh Tỳ kheo
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan tới một Bà la môn.
“Có một người Bà la môn từ bỏ gia đình, trở thành tu sĩ ngoại đạo. Khi ông đi khất thực, ông tự nghĩ: “Sa môn Cồ đàm gọi các đệ tử là “Tỳ kheo” khi họ đi khất thực. Ông ấy cũng phải gọi ta là Tỳ kheo”. Ông ta đi đến chỗ Phật và nói:
- Sa môn Cồ đàm, tôi cũng tự nuôi sống bằng cách xin ăn, hãy gọi tôi là Tỳ kheo.
Phật trả lời:
- Này Bà la môn, ta không gọi ai là Tỳ kheo chỉ vì người ấy xin ăn. Người làm tất cả mọi hình thức giống Tỳ kheo cũng không phải Tỳ kheo. Chỉ có người thấy biết như thật về các uẩn và hành trì tương ưng, người ấy thật sự là Tỳ kheo”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 94)
Người tu chỉ một bề chú trọng nặng về hình thức, thì đó chưa đúng với ý nghĩa của một người thật sự tu hành. Chỉ vì ôm bát đi khất thực để nuôi sống mà gọi đó là Tỳ kheo, thật là chuyện ngớ ngẫn buồn cười. Nếu thế, thì những người tật nguyền đi xin ăn, cũng gọi họ là Tỳ kheo hết hay sao? Vị Bà la môn này, quả thật chưa hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ Tỳ kheo. Tỳ kheo nguyên tiếng Phạn là bhikkhu, người Trung Hoa phiên âm là Tỳ (Tỷ) kheo. Tỳ kheo có 3 nghĩa: Khất sĩ, bố ma và phá ác. Khất sĩ có hai nghĩa: 1. Trên là xin giáo pháp của Phật để nuôi lớn pháp thân huệ mạng. 2. Dưới là xin thức ăn của Đàn na thí chủ để trưởng dưỡng xác thân tứ đại hư huyễn.
Bố ma là làm cho các loài quân ma khiếp sợ. Ma có nghĩa là những thứ làm chướng ngại ngăn trở trên bước đường tu hành tiến đến Phật quả. Người tu cần phải vượt qua phá tan những chướng ngại này để chóng đạt thành sở nguyện. Phá ác là diệt trừ mọi thứ phiền não xấu ác trong tâm của hành giả.
Như thế, Tỳ kheo phải là người sống đời phạm hạnh, tự do, không bị bất cứ thứ gì ràng buộc, làm nhiễm ô thể tánh trong sạch. Sống đời sống đơn giản trong sự tỉnh thức. Được thế, mới xứng danh là Tỳ kheo. Phật đã minh định rất rõ: Tỳ kheo phải là người “thấy biết như thật” về các uẩn và phải thật sự hành trì tương ưng với những điều thấy biết đó.
268 – 269. Kẻ ngu muội vô trí, dù làm thinh cũng không thể gọi được là người tịch tịnh. Kẻ trí tuệ sáng suốt như bàn cân, biết cân nhắc điều thiện lẽ ác mà chọn lành bỏ dữ, mới gọi là người tịch tịnh. Biết được cả nội giới và ngoại giới, nên gọi là người tịch tịnh.
Not by observing silence does one become a sage, if he be foolish and ignorant. But that man is wise who, as if holding a balance – scale, accepts only the good.
The sage, (thus) rejecting the evil, is truly a sage. Since he comprehends both (present and future) worlds, he is called a sage.
Kệ tụng
Im lặng nhưng ngu đần
Đâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân
Kẻ trí chọn điều lành
Từ bỏ các ác pháp
Mới thật là ẩn sĩ
Ai thật hiểu hai đời
Mới xứng danh ẩn sĩ.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ngoại đạo.
“Các thầy ngoại đạo khi nhận được thức ăn cúng dường thường chúc lành cho chủ nhân:
- Xin chúc các vị bình an, hạnh phúc, tăng thêm tuổi thọ. Các vị sẽ không đến những nơi gai góc, sình lầy như nơi nọ nơi kia.
Như thế, họ hồi hướng phước lành, cảm tạ xong rồi mới đi. Về phần Tăng chúng của Phật, ban đầu chưa hồi hướng, các thầy chỉ nhận vật thực rồi đi. Dân chúng phê bình như sau:
- Chúng ta được nghe lời cám ơn và chúc lành của ngoại đạo, còn các thầy Tỳ kheo thì hoàn toàn im lặng.
Các Tỳ kheo bạch Phật điều ấy. Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, khi ngồi ở phòng ăn hay nơi nào thọ thực, hãy cám ơn thức ăn mình nhận, và nói lời vui lòng chủ nhân khi họ ngồi gần đó.
Như thế, đức Phật ra lệnh cho các Tỳ kheo hồi hướng công đức cho thí chủ. Khi nghe các lời ấy, mọi người cố gắng thỉnh các thầy về nhà thọ thực, và cúng dường rất nhiều. Các ngoại đạo phê bình:
- Chúng ta là thánh và giữ im lặng, còn đệ tử của Cồ đàm nói dông dài trên bàn ăn và các nơi thọ thực.
Khi Phật nghe kể lại, Ngài dạy:
- Ta không gọi người nào thánh chỉ vì họ im lặng. Có nhiều người không nói vì ngu dốt, vì thiếu niềm tin, có khi vì keo kiệt không muốn người khác học hỏi những gì mình biết. Vì thế ta nói người ấy không phải là thánh chỉ vì họ im lặng. Chỉ người nào thoát khỏi dục nhiễm mới là thánh”. Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 96)
Pháp cú trên Phật đã xác minh cho chúng ta thấy rõ, không phải chỉ vì làm thinh mà gọi rằng người đó thông suốt hay tịch tịnh. Có người làm thinh giữ thái độ im lặng, chỉ vì họ không hiểu rõ vấn đề nào đó. Phật nói, họ chỉ vì ngu dốt mà làm thinh. Ngược lại, cũng có người làm thinh, vì vấn đề không thể lý luận biện giải. Đọc sách Thiền, ta thấy có nhiều vị Thiền sư, khi được thiền khách hỏi một vấn đề nào đó, vượt ngoài lý giải thường tình, tùy đối cơ mà các Ngài có những hành động thích hợp chuyển hóa: nói, nín, la, hét v.v… Mục đích là để cho người hỏi nhân đó mà trực nhận lại cái bản tâm sẵn có của mình. Đây gọi là tùy cơ phong ứng đáp. Nên việc làm thinh của các Ngài khác hơn người dung muội. Ta cần biện biệt rõ sự khác biệt của hai việc làm thinh này.
Như trường hợp Bồ Tát Văn Thù hỏi Ngài Duy Ma Cật: Thế nào là Pháp môn không hai? Ngài Duy Ma Cật lặng thinh không đáp. Ngài Văn Thù ca ngợi tán thán hết lời. Đến đó mới thật sự là “Pháp Môn Không Hai”. Vì có ngôn ngữ là đã rơi vào nhị nguyên đối đãi rồi. Ngược lại, nếu chúng ta hỏi một người dốt về việc lái chiếc phi thuyền không gian như thế nào, thì chắc chắn là họ sẽ lặng thinh không đáp. Bởi do họ không hiểu mà lặng thinh. Do đó, chúng ta chớ lầm lẫn giữa hai trường hợp làm thinh này. Làm thinh Phật nói ở đây giống như một kẻ ngu dốt mà chúng ta hỏi họ về cách lái xử dụng phi thuyền vậy.
Pháp cú 269, Phật nói, người có trí tuệ sáng suốt, họ khéo biết phân biệt điều thiện lẽ ác, chọn lành bỏ dữ, Phật nói kẻ đó, mới xứng đáng là người tịch tịnh. Tịch tịnh ở đây đồng nghĩa với Định Huệ. Vì có định huệ nên mới biết rõ nội tâm và ngoại cảnh một cách đúng như thật của các pháp.
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, Phật quở những ai làm thinh mà cho là Thánh. Đó chẳng qua chỉ vì họ ngu dốt, thiếu niềm tin, keo kiết xẻn pháp, nên không muốn truyền đạt lại những gì mình hiểu cho bất cứ ai. Quả đó là hạng người ích kỷ, chỉ nghĩ đến cái lợi cho riêng mình. Người như thế, sao gọi là Thánh? Phật nói rõ, chỉ người nào thoát khỏi dục nhiễm mới gọi người đó là Thánh vậy.
270. ” Còn sát hại sinh linh,
Ðâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền Thánh.”
271. “Chẳng phải chỉ giới cấm
Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định,
Sống thanh vắng một mình.”
272. “Ta hưởng an ổn lạc,
Phàm phu chưa hưởng được.
Tỷ kheo, chớ tự tin
Khi lậu hoặc chưa diệt.”Lược giải
270. Còn sát hại chúng sanh, đâu được xưng là Thánh hiền[20], không sát hại chúng sanh mới gọi là Thánh hiền.
He is not noble who injures living beings. He is called noble because he is harmless towards all living beings.
Kệ tụng
Còn sát hại sanh linh
Đâu được gọi hiền thánh
Không hại mọi chúng sanh
Mới xứng danh hiền thánh.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người đánh cá tên Cao Quí.
“Một hôm, đức Phật quan sát thấy người đánh cá này có khả năng chứng quả, nên sau khi khất thực gần cửa thành phía Bắc của Xá vệ, Ngài và chúng tăng trở về qua chỗ người này. Đúng lúc ấy, người đánh cá đang câu cá. Gặp Phật và chư Tăng, Cao Quí bèn ném cần câu và đứng yên. Đức Thế Tôn đứng cách đó không xa, quay lại hỏi tên ngài Xá lợi phất và các vị khác:
- Ông tên gì?
- Con là Xá lợi phất.
- Con là Mục kiền liên.
Người đánh cá nghĩ thầm: “Đức Phật hỏi tên mọi người, chắc sẽ hỏi tên ta”. Phật biết ý quay sang hỏi:
- Này cư sĩ, ông tên gì?
- Bạch Thế Tôn, con tên Cao Quí.
Phật bảo:
- Này cư sĩ, người đoạt mạng sống người khác không thể gọi là Cao Quí. Cao Quí là không bao giờ làm hại ai”.Nhân đó, Phật liền nói Pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 98)
Có những người bề ngoài tuy thấy họ hung hăng dữ tợn, nhưng tận thâm tâm của họ vẫn là con người lương thiện hiền lành. Có thể vì một hoàn cảnh nào đó mà họ mới có những thái độ hành động gian ác. Nhưng hạt giống thánh thiện bao giờ cũng tiềm ẩn sâu kín mà người thường không thể thấy biết được. Khi gặp một cơ duyên nào đó, thì hạt giống này sẽ phát khởi rất mạnh. Chỉ có tuệ giác sâu sắc của những người đạt đạo mới có thể nhìn thấy nhận ra dễ dàng thôi.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy rõ điều đó. Cao Quí tuy là một người đang hành nghề câu cá, nuôi sống bằng nghề nghiệp đoản mạng sống của loài khác, đó không thể gọi là người có tâm lương thiện. Nhưng với cái nhìn của Phật, thì Cao Quí không hẳn như thế. Cao Quí đã có sẵn hạt giống thánh thiện. Cao Quí chỉ cần nghe một lời nói của một bậc tu hành có đức độ cao, thì sẽ chuyển đổi tâm xấu ác thành tâm thánh thiện ngay.
Điều đó, nói lên trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hai loại hạt giống lành và dữ. Dĩ nhiên, hạt giống dữ chiếm nhiều hơn. Nhưng không vì thế, mà người ta không thể không chuyển hóa nó được. Chỉ cần sống có tỉnh thức, có chánh niệm, tất nhiên, chúng ta sẽ chuyển hóa lần lần và sẽ tiêu diệt hết những hạt giống ác. Điều quan trọng là ta có cố gắng tinh cần để chuyển hóa loại trừ hết những hạt giống ác đó hay không? Sự tu hành chỉ hơn nhau là ở chỗ khéo biết chuyển hóa những phiền não đó thôi. Đó là điều hết sức thực tế mà ta cần nên chú ý.
271 – 272. Chẳng phải do giới luật, đầu đà[21], chẳng phải do nghe nhiều, học rộng, chẳng phải do chứng được tam muội, chẳng phải do ở riêng một mình, đã vội cho là “hưởng được cái vui xuất gia, phàm phu không bì kịp”. Các ngươi chớ vội tin điều ấy, khi mê lầm phiền não của các ngươi chưa trừ.
Not by rules and observances, not even by much learning, nor by gain of absorption, nor by a life of seclusion, nor by thinking, “I enjoy the bliss of renunciation, which is not experienced by the worldling” should you, O monks, rest content, until the utter destruction of cankers (Arahatship) is reached
Kệ tụng
Chẳng phải giữ giới cấm
Cũng chẳng phải nghe nhiều
Hoặc chứng được thiền định
Sống cô độc một mình
Tự xem đã thọ hưởng
Hạnh phúc giải thoát lạc
Phàm phu chưa hưởng được
Tỳ kheo chớ bằng lòng.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vài thầy Tỳ kheo đức hạnh.
“Một vài vị Sa môn đầy đủ đức hạnh tự nghĩ rằng:
- Chúng ta đầy đủ giới đức, chúng ta tu tập theo giáo lý thanh tịnh, chúng ta học rộng, chúng ta sống tịnh cư, chúng ta phát triển thần thông nhờ thiền định. Vì thế, chúng ta chứng A la hán không khó, chúng ta sẽ chứng A la hán bất cứ khi nào.
Cũng như thế, các vị chứng quả A na hàm cũng nghĩ:
- Đối với chúng ta, chứng quả A la hán không khó.
Một ngày kia các vị đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
- Này các Tỳ kheo, các ông đã xong việc chưa?
Các thầy thưa:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đã đạt những bậc Thánh như thế đó, khi nào muốn chúng con sẽ chứng quả A la hán. Vì nghĩ như vậy, nên chúng con giữ nguyên vị trí.
Nghe nói thế, Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, không thích đáng cho một Sa môn chỉ vì đã giữ tròn giới luật, hoặc chỉ chứng được Tam quả, và nghĩ rằng: “Chỉ còn chút ít phiền não trong đời hiện tại của ta”. Trái lại, chừng nào lậu hoặc chưa hoàn toàn diệt trừ, người ấy chưa có quyền tự cho rằng mình đã thật sự chứng đắc”. Nhân đó, đức Phật liền nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 99)
Phật nói hai pháp cú này, để minh định dứt khoát trong việc tu hành cầu giải thoát. Không phải lấy việc hành hạ xác thân hay học rộng hiểu nhiều, thậm chí dù có chứng được tam muội, hay tự sống biệt lập ẩn cư nuôi thân, mà vội cho đó là đúng nghĩa phẩm hạnh của người xuất gia. Dù những việc làm này, đối với người thường, thật khó sánh kịp, nhưng không vì thế, mà chúng ta lại vội tin cho đó là người đã thật sự đạt đạo. Nếu phiền não chưa thật sự dứt sạch, thì người đó vẫn chưa đạt được thánh quả. Thế nên, trên bước đường tu hành, ta cần phải thận trọng, không nên đánh giá một cách hời hợt bề ngoài. Muốn đánh giá thử nghiệm người tu tới đâu, còn phiền não hay không, Phật Tổ dạy, ta nên lấy cây thước “Bát phong” ra đo. Đối với tám ngọn gió ( lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc ) này khi thổi đến, mà hành giả vẫn thản nhiên bất động, thì đó mới thật sự là thứ thiệt. Bằng ngược lại, thì chưa xứng danh là người đạt đạo. Dù cho người đó có lộng giả thành chơn đến đâu, cũng không thể che giấu qua mắt được người có già dặn kinh nghiệm trong sự tu hành. Muốn biết vàng thiệt cần phải thử lửa.
Thuở xưa, ở vào thời đại nhà Lương bên Trung Hoa, một hôm, vua Lương võ Đế và Hòa Thượng Chí Công đứng trên lầu cao quán sát ngắm cảnh. Nhà vua nhìn thấy những dãy núi đều có tuyết rơi phủ xuống, duy có một ngọn núi không có tuyết rơi. Bấy giờ, nhà vua lấy làm lạ mới hỏi Hòa Thượng Chí Công lý do tại sao? Hòa Thượng Chí Công cho biết, vì trong núi đó, có một vị Thiền sư đang tham thiền nhập định. Vì sức định của nhà sư này rất sâu và có hỏa quang tam muội, nên tuyết không thể rơi xuống được. Vua lấy làm lạ và khen ngợi hết lời.
Sau đó, nhà vua ra lệnh phải mời cho được vị thiền sư đó về triều. Vị thiền sư đó có tên là Suy Hải. Sau khi thiền sư Suy Hải về triều, nhà vua đối xử rất kính trọng. Thiền sư ở trong tịnh thất chuyên tu trải qua thời gian 3 năm, không ra ngoài. Nhà vua khen thầm cho đó là một bậc chân tu.
Hôm khác, nhà vua cùng với Hòa Thượng Chí Công trong khi luận đạo, nhà vua có nêu ra về đạo đức tu hành của thiền sư Suy Hải. Nhà vua tán thán khen ngợi hết lời, cho đó là một bậc chân tu đắc đạo. Nhưng với tuệ giác của Hòa Thượng Chí Công, thì biết rõ vị Thiền sư đó chưa phải là thứ thiệt. Tuy có sức thiền định khá sâu, nhưng lòng chấp ngã vẫn còn sâu nặng. Cho nên, Hòa Thượng Chí Công nói với vua Lương Võ Đế, nếu bệ hạ, muốn biết thiệt giả thế nào, thì nên thử nghiệm là biết liền. Đánh giá người tu, không nên chỉ một mặt nhìn hình thức bề ngoài mà có thể đoán định được. Nhà vua nghe và làm theo lời Hòa Thượng Chí Công.
Lần thử nghiệm thứ nhứt, nhà vua và Hòa Thượng Chí Công ngồi ăn chung một bàn. Đồ ăn rất ngon, toàn là những thứ cao lương mỹ vị. Nào là chén ngọc đủa ngà, dĩa vàng muỗng bạt. Trong khi đó, thì thiền sư Suy Hải, chén sành đủa tre và đồ ăn toàn là những thứ hết sức tầm thường. Như rau muống luộc, tương kho, cà nướng v.v… Mọi người ai nấy đều lặng lẽ ngồi ăn, không ai nói với ai một lời. Ăn xong, Suy Hải đến chào nhà vua và Hòa Thượng Chí Công rồi từ giả quay gót lặng lẽ trỡ về tư thất. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng của ngài Suy Hải đã có vẻ bất bình, tức giận.
Lần thử nghiệm thứ hai, nhà vua thiết đãi yến tiệc linh đình. Văn võ bá quan trong triều đều có mặt dự đủ. Nhà vua cho mời các bậc thiền đức cao tăng trong nước về triều tham dự. Tất cả đều ngồi chỗ cao ráo sang trọng. Chỉ có Thiền sư Suy Hải, thì ngồi riêng ở một góc xó không có sang trọng gì. Đồ ăn thì rất là tầm thường.
Sau khi ăn xong, đến phần tặng quà, mọi người đều nhận lãnh toàn là những thứ lụa là gấm vóc đắt giá. Chỉ riêng Thiền sư Suy Hải, thì chỉ nhận được một thứ lụa rẻ tiền nhứt. Tặng quà xong, nhà vua tuyên bố: “sở dĩ hôm nay, trẫm tặng quà cho các khanh mà không được đồng đều, là vì trẫm thấy đạo hạnh của Thiền sư Suy Hải còn quá thấp kém, nên trẫm chỉ tặng cho ngài một thứ lụa thô sơ rẻ tiền nhứt”. Nghe thế, Suy Hải không còn kềm chế được cơn giận tức, liền nổi giận đứng lên tuyên bố với mọi người là ngài không phải thứ hạng người háo danh ham lợi… Ông ta nói với giọng tức giận, lòng sân hận quá mức nên nét mặt tái xanh và rồi ngã té bất tỉnh tắt thở trước mặt mọi người…
Khi đó, tất cả mọi người đều hốt hoảng run sợ, nhứt là nhà vua rất ân hận vì đã hại chết một nhà sư. Nhưng chỉ có Hòa Thượng Chí Công biết rõ sự tình, nên chính Ngài đã cứu thoát Thiền sư Suy Hải khỏi đọa lạc làm thân chim non. Bằng cách là cho một số người đi về hướng Bắc, thấy trên cháng cây nào có ba nhánh de ra, trên đó có một tổ chim và chỉ có một con chim non mới sanh, thì phải bắt đem về cho Hòa Thượng Chí Công. Quả thật, đoàn người đã tìm thấy có con chim non mới sanh, và lạ thay trên lưng của nó có hai chữ Suy Hải. Mọi người rất ngạc nhiên và run sợ. Hòa Thượng Chí Công sau khi chú nguyện cho con chim non rồi, liền liệng xuống đất, chim chết, thần thức nhập vào xác của Thiền sư Suy Hải. Thế là Suy Hải sống lại.
Nếu không có sự cứu độ kịp thời của Hòa Thượng Chí Công, một bậc tu hành đạt đạo, thì thử hỏi hậu quả của thiền sư Suy Hải sẽ như thế nào? Tu hành có sức thiền định thâm sâu như thế, tuyết không thể rơi xuống được, thế mà chỉ vì không chịu nỗi hoàn cảnh thử thách trước mắt, nên lòng sân hận trào dâng lên, rồi phải chết một cách tức tối thê thảm như thế. Thế mới biết, tu hành mà còn chấp ngã nặng, thì thật khó được giải thoát.(Tóm lược cốt chuyện trong quyển Thiền Môn Cảnh Tỉnh Tu Hành).
Trở lại, câu chuyện dẫn chứng trên, đức Phật quở trách những Tỳ kheo này lậu hoặc phiền não chưa diệt trừ hết, thì làm sao có thể chứng được thánh quả A la hán? Ngẫm lại, thời nay, có người tu hành được chút ít kết quả lợi lạc, thì lại hô hào cho rằng mình chứng đắc thế này, thế nọ. Tu hành mà còn thấy có chứng, có đắc, thì đâu phải là người chân tu. Vì sao? Vì còn thấy có ngã tướng. Đã chấp ngã chấp pháp như thế, thì đó không phải là chủ trương của Phật giáo. Kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật đã dạy rất rõ về vấn đề này.
Phẩm Đạo
273. “Tám chánh, đường thù thắng,
Bốn câu, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng.”
274. “Ðường này, không đường khác
Ðưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn.”
275. “Nếu người theo đường này,
Ðau khổ được đoạn tận.
Ta dạy người con đường.
Với trí, gai chướng diệt.”
276. “Người hãy nhiệt tình làm,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định
Thoát trói buộc Ác ma.”Lược giải
273. Bát chánh đạo là đạo thù thắng hơn các đạo, Tứ đế là lý thù thắng hơn các lý, ly dục là pháp thù thắng hơn các pháp, cụ nhãn[22] là bậc thù thắng hơn các bậc thánh hiền.
Of all paths the Eightfold Path is the best; of all truths the Four Noble Truths are the best; of all things passionlessness is the best; of men the Seeing One (the Buddha) is the best.
Kệ tụng
Bát chánh đường thù thắng
Bốn đế, lý thù thắng
Ly dục, pháp thù thắng
Giác nhãn, người thù thắng
274. Chỉ có con đường này[23], chẳng còn con đường nào khác, có thể làm cho tri kiến các ngươi thanh tịnh. Các ngươi thuận làm theo thì bọn ma bị rối loạn.
This is the only path; there is none other for the purification of insight. Tread this path, and you will bewilder Mara.
Kệ tụng
Chỉ đường này độc nhất
Khiến tri kiến thanh tịnh
Nếu ngươi theo đường này
Ma quân sẽ mê loạn
275. Các ngươi thuận tu theo Chánh đạo trên đây, thì khổ não sẽ dứt hết, và biết rằng đạo ta nói có sức trừ diệt chông gai[24].
Walking upon this path you will make an end of suffering. Having discovered how to pull out the thorn of lust, I make known the path.
Kệ tụng
Nếu ngươi theo đường này
Đau khổ được diệt trừ
Hiểu được, diệt gai chướng
Ta dạy ngươi con đường
276. Các ngươi hãy nỗ lực lên! Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ. Sự trói buộc của ma vương sẽ tùy sức Thiền định của các ngươi mà được giải thoát.
You yourselves must strive; the Buddhas only point the way. Those meditative ones who tread the path are released from the bonds of Mara.
Kệ tụng
Ngươi hãy tự nỗ lực
Như Lai chỉ thuyết dạy
Người thiền định, tu đạo
Thoát khỏi lưới ma quân
Lược giảng:
Bốn pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm vị Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “một hôm, đức Phật sau khi du hành khắp nước, trở về Xá Vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo bàn tán về những con đường đã đi qua: “ Con đường của làng này bằng phẳng, con đường của làng này gồ ghề, con đường của làng này đầy sỏi đá, con đường của làng này không có sỏi…” Đức Phật nhận thấy các thầy đủ duyên để chứng quả A la hán, bèn đi đến pháp đường, hỏi: Các ông ngồi đây bàn tán việc gì? Khi các thầy thưa xong Ngài dạy:
- Này các Tỳ kheo, những con đường đó chẳng đáng cho chúng ta quan tâm. Một người là Tỳ kheo phải đi theo con đường Thánh Đạo, chỉ có thế mới giải thoát mọi đau khổ”. Nhân đó, Phật nói bốn pháp cú này.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 103)
Thời Phật, việc vân du hoằng pháp, không phải có được phương tiện di chuyển sang trọng và tiện lợi như thời nay. Ngày nay, khi đi diễn giảng, hoằng pháp gần hay xa, thông thường, chư Tăng Ni hay đi bằng những phương tiện xe hơi hoặc máy bay. Đức Phật và các vị Thánh chúng thời xưa, chỉ toàn đi bộ đầu trần chân đất, từ nơi này đến nơi khác. Chính vì thế, nên mới có việc bàn tán về những con đường sỏi đá gồ ghề hay bằng phẳng của các vị Tỳ kheo.
Qua những việc bàn luận đó, thực tế, chẳng đem lại lợi lạc gì cho vấn đề tu tập. Chẳng những thế, mà đôi khi còn đưa đến việc tranh cãi hơn thua với nhau. Đã thế, thì chỉ gây thêm phiền não mà thôi! Do đó, mà đức Phật khuyến nhắc các thầy Tỳ kheo không nên bàn luận những việc phù phiếm vô ích đó. Vì đó là những con đường vật lý tương đối, do con người tạo nên. Con đường quan trọng hơn cả đó là con đường Bát Chánh. Chính con đường này, mới có thể đưa các thầy đến chỗ an vui giải thoát hoàn toàn. Chỉ có con đường Bát Chánh, mới thật sự đáng để cho các thầy quan tâm tu học. Bát chánh đạo thuộc về phần Đạo đế, một trong Tứ Diệu Đế. Đạo đế, thì nó đóng vai trò chủ yếu tối ư quan trọng.
Pháp cú 273, tại sao Phật nói “Bát chánh đạo là thù thắng hơn các đạo”? Đây là Phật so sánh cho chúng ta thấy rõ, chỉ có Bát chánh đạo là tám con đường cao thượng nhất, lý thú nhất, vì nó là một chân lý thù thắng. Nó có khả năng đưa hành giả đến chỗ hoàn toàn diệt khổ, trọn hưởng Niết bàn. Ngoài con đường này ra, không có con đường nào khác dẫn hành giả có thể đạt được cảnh giới Niết bàn. Vì đó là con đường, chính do đức Phật chứng nghiệm đạt thành. Thành phần của chúng gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh huệ.
Nói “Tứ đế là lý thù thắng hơn các lý”, đây là Phật xác minh chỉ bày rõ, về yếu lý quan trọng của Tứ đế. Vì nó là chân lý cao quý, là tiến trình giác ngộ của sự thật hành qua từng giai đoạn. Nó có công năng đưa hành giả đến đầu nguồn của sự sống an lạc và giải thoát. Sự có mặt của khổ đau, và tìm rõ nguyên nhân sự có mặt gây nên khổ đau. Đây là xác minh sự có mặt nhân và quả trong lãnh vực thế gian pháp.
Kế đến, Phật nêu ra và trình bày rõ về sự có mặt nhân và quả xuất thế gian. Đó là sự có mặt của an lạc, của sự chấm dứt khổ đau, tức ly dục, đó là Diệt đế (quả) và đồng thời Phật chỉ bày rõ ngọn nguồn về sự có mặt của những con đường đưa đến để đạt được an lạc giải thoát, đó là Đạo đế (nhân). Với con mắt tuệ giác (cụ nhãn), Phật đã thấy rõ như thế. Dù Phật có ra đời hay không, thì bốn chân lý này vẫn hiển nhiên có mặt trên thế gian này. Phật chỉ là người chứng nghiệm khám phá ra và dạy lại cho chúng sanh mà thôi.
Pháp cú 274, Phật lại minh định rõ cho chúng ta khỏi phải nghi ngờ rằng, “chỉ con đường này, chẳng còn con đường nào khác có thể làm cho tri kiến các ngươi thanh tịnh”. Thanh tịnh là Niết bàn, là giải thoát, là Diệt đế. Con đường này, đó là con đường Bát chánh. Một con đường dẫn đến an lạc không còn nghi ngờ. Đó là con đường đưa chúng ta đến đầu nguồn của hạnh phúc. Nếu chúng ta y cứ vào con đường Bát chánh này mà nỗ lực hành trì, thì lũ giặc vô minh phiền não sẽ không còn có cơ hội khuấy phá làm tâm ta rối loạn nữa. Chúng ta khổ đau, bởi do chúng ta chủ quan nhận định sai lầm. Đó là vì chúng ta thiếu chánh kiến. Chánh kiến là nhận định đúng theo lẽ thật của vạn pháp. Có thể nói, chánh kiến là đầu đường dẫn hành giả thẳng đến cuối đường Niết bàn. Chánh kiến thật là quan trọng cho một hành giả tu theo đạo Phật. Có chánh kiến, thì các pháp không thể lường gạt được ta.
Pháp cú 275, Phật tán thán những ai đã thật hành đúng theo Bát chánh đạo, thì mọi khổ não sẽ dứt hết. Và mọi chông gai, ý chỉ cho những thứ cội rễ phiền não tham, sân, si, sẽ không còn. Chừng đó, hành giả mới thật sự hoàn toàn giải thoát.
Pháp cú 276, một lần nữa, Phật lại nhấn mạnh về yếu tính quan trọng của con đường diệt khổ. Phật kêu gọi mọi người hãy tự mình nỗ lực hành trì đúng theo những gì mà Phật đã chỉ dạy. Đạo Phật chú trọng nhắm thẳng vào phần thực nghiệm hơn là lý thuyết suông. Phật chỉ cho mọi người thấy rõ con đường giác ngộ giải thoát, còn việc thật hành hay không là còn tùy ở nơi mỗi người.
Công thức làm bánh không thể làm cho chúng ta no bụng được. Công thức chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn chúng ta phải làm bánh đúng cách. Nếu làm sai, đó là lỗi của người làm bánh, chớ không phải lỗi ở nơi người lập ra công thức. Cũng thế, Phật chỉ là người tạo ra công thức chỉ dẫn con đường đưa đến diệt khổ. Nếu chúng ta y cứ vào lời chỉ dạy của Phật mà nỗ lực thật hành, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được kết quả là chấm dứt khổ đau. Theo luật nhân quả, ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Không ai ăn thế hay học thế cho ai. Khổ vui do mỗi người tự quyết định lấy. Phật chỉ giúp cho chúng ta một cánh tay. Còn lại một cánh tay, đó là phần vụ của mỗi người chúng ta.
Bát chánh đạo là con đường thiền quán rất quan trọng. Người tu Phật mà không ứng dụng theo con đường thiền quán này, thì đó là một khuyết điểm thiếu sót rất lớn. Vì có thiền quán, chúng ta mới nhìn sâu vào bộ mặt thật của các pháp. Trí huệ là chủ động dẫn đầu trong sự thiền quán này. Có trí huệ hằng chiếu soi, thì mọi thứ vọng tưởng vô minh sẽ không còn. Nói cách khác, hành giả luôn sống có tỉnh thức, chánh niệm, thì mọi thứ dục vọng sẽ không còn có cơ hội bộc phát. Nhờ đó, mà hành giả sẽ được an lạc hạnh phúc.
277. “Tất cả hành vô thường ”
Với Tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh.”
278. “Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh.”Lược giải
277. “Các hành[25] đều vô thường[26]”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All conditioned things are impermanent” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là vô thường”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
278. “Các hành đều là khổ”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All conditioned things are unsatisfactory” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là thống khổ”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “có năm trăm vị Tỳ kheo nhận đề tài thiền định từ đức Phật, và cố gắng nỗ lực tối đa ở trong rừng, nhưng không chứng quả A la hán. Các vị trở lại xin Phật đề tài khác thích hợp hơn. Nhận thấy rằng các Tỳ kheo này, vào thời Phật Ca Diếp, đã chuyên chú thiền quán trong hai ngàn năm về đề tài Vô Thường. Vậy Vô Thường là đề mục mà ta sẽ giảng. Nghĩ thế, Phật bèn dạy:
- Này các Tỳ kheo, trong cõi này và cõi khác, tất cả pháp hữu vi do không thật nên điều bị chi phối bởi vô thường”. Nhân đó, Phật dạy hai pháp cú này.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 106)
Nói: “chư hành vô thường”, là Phật chỉ chung cho mọi hiện tượng thuộc các pháp hữu vi vô thường. Dù vật lý, sinh lý hay tâm lý, tất cả đều là vô thường. Không có một hiện tượng nào đứng yên một chỗ. Vạn vật đều luôn luôn đổi thay. Có thể nói, vô thường là đề tài muôn thuở. Dù có Phật ra đời hay không có Phật ra đời, thì vạn vật ở thế gian này, không một vật nào thoát khỏi định luật vô thường.
Khi quán sát về lý vô thường, tất nhiên là ta phải dùng trí huệ để quán sát. Nên Pháp cú trên (277) Phật nói, đem trí huệ xét soi, thì mới nhàm lìa thống khổ. Vô thường, nếu xét kỹ ta thấy nó có hai phương diện: lợi và hại.
1. Đứng về mặt lợi của vô thường.
Nhờ có vô thường đổi thay nên vạn vật mới có tiến bộ. Nếu vật nào đứng nguyên vị thế của vật ấy, thì thử hỏi cuộc sống này còn gì có ý nghĩa? Chẳng những thế, mà muôn loài không thể nào sinh tồn được. Như chúng ta ăn thức ăn vào, giả như không có vô thường tiêu hóa, vật nào còn nguyên vẹn vật đó, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể sống được? Và như thế, chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này.
Ta thử nghĩ, nếu một đứa bé sanh ra, rồi cứ đứng yên vị thế mà khóc la, không lớn lên, thì thử hỏi nhơn loại sẽ ra sao? Và như thế thì chắc là tuyệt chủng mất. Vạn vật đều định hình như thế, thì đâu còn là sự sống. Vì tất cả không có đổi thay. Như thế, thì làm sao có tiến bộ? Xã hội này, sẽ không còn là xã hội loài người nữa. Vì nhờ có vô thường, muôn vật đổi thay, sự sống mới hanh thông trôi chảy tiến hóa. Và như thế thì sự sống mới thực sự có ý nghĩa.
Từ cá nhân, gia đình, cho đến xã hội, nói chung là muôn loài mới có sinh động hứng thú để sống. Mọi hiện tượng vật lý, sinh lý, tâm lý, đều đổi thay, nên cuộc sống mới vươn lên có ý nghĩa. Đó là, chúng ta xét một cách khái quát về sự lợi ích của vô thường. Như vậy, vô thường không phải đưa người ta vào hố sâu bi quan, mà trái lại làm cho người ta trở nên lạc quan vui sống hơn. Vì nhờ vô thường mà tất cả đều đổi mới và luôn đổi mới từng giây phút. Nhờ đó, mà người ta lại yêu đời hơn. Bởi cuộc sống luôn trôi chảy, chuyển hóa, đổi mới nên nhơn loại mới có nhiều hy vọng vươn lên để làm đẹp cho mình và cuộc đời.
2. Đứng về mặt hại của vô thường.
Vô thường là một họa hại lớn của thế gian. Vì mọi vật trên đời, không vật nào tồn tại theo thời gian. Mọi vật đều bị luật vô thường chi phối đào thải, cướp mất tất cả. Từ cảnh vật chung quanh, cho đến thân tâm ta, tất cả đều luôn đổi thay biến dịch và hủy diệt. Dù người ta có cố gắng hết sức, vận dụng mọi kỹ thuật máy móc tối tân, để quyết tâm tạo dựng bao nhiêu thứ rắn chắc bền bỉ hầu thi đua đối phó với thời gian, nhưng tất cả việc làm đó, chỉ là hoài công vô ích mà thôi. Bởi vì, dù cho nguyên liệu hay vật liệu có rắn chắc bền bỉ đến đâu, nhưng dưới sức bào mòn đẻo gọt của búa thời gian, thì không có một vật thể nào có thể tồn tại lâu dài được. Rắn chắc như núi đá mà cũng còn phải tiêu mòn, đừng nói chi đến những vật khác.
Vật đổi sao dời, biển xanh hóa thành ruộng dâu, đó là một luật định từ xưa nay không vật nào thoát khỏi. Vì vô thường là một định luật tự nhiên. Không ai có tài nào chống chọi lại với thời gian. Dù khoa học có tiến bộ đến đâu, cũng không thể nào đọ sức với vô thường được. Từ cảnh vật cho đến con người không vật nào và cũng không có ai thoát khỏi vô thường. Nhìn theo chiều thời gian vô tận, thì đời người thật là ngắn ngủi. Ngắn ngủi như một giấc chiêm bao, thấy đó rồi mất đó.
Quán sát tường tận về vô thường sanh diệt ở nơi bản thân ta, ta thấy nó thay đổi từng tế bào. Nó biến dịch thay đổi từng sát na. Theo thời gian, con người sanh ra rồi lớn lên. Mới ngày nào xuân sanh, không mấy chốc nhìn lại đã bạc đầu. Sanh, già, bệnh, chết, đó là bốn quy trình mà bất cứ ai cũng phải trải qua. Vì đó là quy luật của đời người hệ thuộc vào lý vô thường sanh diệt. Vì vô thường nên mới có biến hoại, diệt vong.
Nhờ quán sát như thế, ta mới thức tỉnh mà cố gắng gia công nỗ lực tu hành. Vì thấy cuộc đời của ta sao quá mỏng manh thật thua sợi chỉ mành. Thời gian năm tháng ngày giờ luôn luôn đẻo gọt bào mòn thân xác ta. Do ý thức được lý vô thường, cái chết xảy ra cho ta bất cứ lúc nào, thậm chí tiền bạc của cải tài vật mà ta đã tạo ra, rốt lại cũng không còn gì! Bản thân ta, ta còn không giữ được, nói gì đến vợ con ta hay tài sản của ta. Nhờ hiểu và quán sát tường tế như thế, thì ta sẽ không còn mê say đắm nhiễm theo ngũ dục lạc thế gian nữa. Đồng thời, mọi tranh chấp hơn thua với cuộc đời, ta cũng không còn đam mê tranh giành cấu xé nhau nữa. Bởi đời người quá ngắn ngủi, giống như con phù du sáng sanh chiều chết. Quán sát thế rồi, ta mới khởi tâm nhàm lìa mọi vật dục ở thế gian. Từ đó, ta mới quyết tâm cố gắng tu hành để mong cầu thoát ly sanh tử khổ hải vậy.
279. “Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh.”
280. “Khi cần, không nỗ lực,
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác.
Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo?”Lược giải
279. “Các pháp đều vô ngã”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All things are not-self” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là vô ngã”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Lược giảng
Cũng theo câu chuyện kể trên, đức Phật lại dạy tiếp cho các thầy Tỳ kheo về lý thuyết vô ngã. Đọc qua pháp cú trên, ta nên chú ý đến ý nghĩa của những cụm từ: “các pháp đều vô ngã, đem trí tuệ soi xét, nhàm lìa thống khổ, và đó là đạo hạnh thanh tịnh”.
Tại sao Phật nói các pháp đều vô ngã? Vô ngã là không có cái ta chân thật. Vạn pháp sinh thành là do duyên khởi. Vì “cái này có nên cái kia có, vì cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt, vì cái này sanh nên cái kia sanh”. Các pháp tụ hợp nương nhau mà thành. Trong đó, tuyệt đối không có cái chủ thể cố định. Vì vậy, khi phân tích sâu vào phần giáo lý duyên sinh, ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp. Theo giáo lý Nguyên Thủy, tức các Kinh A Hàm, thì Phật nói, cái xác thân mà chúng ta đang mang đây, nó kết hợp bởi hai phần: vật chất và tinh thần. Về phần vật chất là do bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa cấu thành. Nói theo khoa học ngày nay, là do các tế bào cấu tạo hình thành. Còn phần tinh thần cũng do bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức, tạo thành trạng thái tâm lý. Như vậy, phân tích cho cùng thì cái thân tâm của ta đây chỉ là do ngũ uẩn giả hợp, thực thể của nó là không, tức không có cái gì làm chủ tể, đó là vô ngã.
Xét sâu xa hơn, thì cái thân này ngay từ khi mới hình thành, đã là do tinh cha huyết mẹ và thần thức gá vào tạo thành cái thai bào. Như thế, ngay từ buổi đầu đã là do duyên hợp rồi. Khi đủ ngày tháng sanh ra, thì đứa hài nhi phải nương nhờ tứ đại bên ngoài để nuôi sống. Nếu như đứa bé không có uống sữa, không hít thở không khí trời đất ban cho, không có sự chăm sóc kỹ lưỡng của cha mẹ v.v… thì thử hỏi nó có thể sống còn được không? Khi đứa bé lớn lên, nó phải tiếp tục vay mượn tứ đại bên ngoài nhiều hơn để nuôi lớn thân thể. Về tinh thần, thì cũng phải vay mượn học hỏi ở nhà trường mới có được kiến thức.
Tóm lại, cuộc sống của chúng ta từ lúc mới sanh ra cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, tất cả đều phải nhờ vay mượn mà tồn tại. Đã vay mượn, thì có cái gì là thật mình đâu! Theo nguyên lý vô ngã, cái gì do duyên sinh, thì cái đó không thật có. Cái không thật có, thì không phải vô ngã là gì? Như vậy, xét cái thân này, ngay từ buổi đầu đã là vô ngã rồi. Với cái nhìn sắc bén của tuệ giác, thì không phải đợi đến cái thân xác này tan rã, chúng ta mới thấy là không thật có, mà phải thấy ngay khi thân thể này còn đang sinh hoạt tồn tại, tự nó đã là vô ngã không thật rồi. Không thật có cái thật ngã, chớ không phải là không có cái giả ngã.
Đó là xét về thân tâm ta là như thế. Còn xét ra bên ngoài như cái nhà ta đang ở, không phải cái nhà tự nhiên mà có. Cái nhà chỉ là tên rỗng giả danh không thật. Muốn có cái nhà ở, tất nhiên, phải hội đủ các điều kiện hợp lại tạo thành. Như ta là người đứng ra chủ động xây cất, tất nhiên, là phải nhờ đến những thứ khác nữa như: thợ, nhân công, và các thứ vật liệu v.v…
Nhờ hội đủ các điều kiện như thế, thì căn nhà mới hình thành. Nếu như chỉ có đơn độc một mình ta, thì thử hỏi làm sao xây dựng được căn nhà? Ta chỉ là cái chánh nhân để tạo thành, còn những thứ khác đều là trợ duyên. Thế thì, do đủ duyên hợp lại tạo thành, hết duyên thì nó tan rã. Chỉ có thế thôi. Do đó, nên nói cái nhà là không có thật tánh. Nói cách khác, từ các thứ không phải là cái nhà, (như người và các thứ vật liệu) đủ điều kiện hợp lại tạo thành cái nhà, nên thực thể của cái nhà là không. Nên nói, cái nhà là vô ngã. Từ đó suy ra, mọi thứ hiện tượng trên đời này, nhỏ như hạt bụi, lớn như quả địa cầu thãy đều là như thế cả.
Chúng ta nên nhớ rằng, nói các pháp vô ngã là đứng về mặt không gian mà nói. Như trên đã nói, lý thuyết vô ngã được xây dựng trên nền tảng của lý thuyết duyên sinh. Rời lý thuyết duyên sinh, thì không có lý thuyết vô ngã. Mà duyên sinh là do sự kết hợp nhiều vật thể tương quan hình thành theo chiều không gian. Còn nói vô thường là đặt định trên chiều thời gian.
Muốn hiểu được lý duyên sinh vô ngã, tất nhiên chúng ta phải vận dụng trí huệ bát nhã để soi sáng phân tích cho tường tận. Thế nên, Phật dạy chúng ta phải đem trí huệ soi xét. Vì đây là vấn đề tối hệ trọng trong sự nhận thức. Có nhận định đúng đắn khế hợp chân lý như thế, thì sự tu hành của chúng ta mới mong có kết quả an lạc giải thoát. Bằng ngược lại, thì dễ rơi vào con đường tà kiến.
Có quán chiếu phân tích sâu vào như thế, nên kế tiếp Phật nói là chúng ta mói có thể nhàm lìa mọi thống khổ. Cái nỗi thống khổ lớn nhứt của con người là do mê lầm chấp ngã mà ra. Ai cũng chấp cái thân tâm này là thật có. Từ cái nhận định mê lầm đó, nên người ta mới tạo ra không biết bao nhiêu thứ nghiệp ác, để rồi phải chiêu cảm lãnh thọ bao nhiêu thứ khổ đau. Nhơn loại ngày nay, không có phút giây nào được sống an ổn hạnh phúc, tất cả đều do nặng lòng chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Trong thì chấp ngã, ngoài thì chấp pháp. Thậm chí những vật do mình tạo ra, cũng chấp chặt cho là thật của mình. Trong kinh thường gọi là chấp ngã và ngã sở. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, cái ta còn không thật có, nói gì đến tài sản của cải ngoài thân ta. Nhớ lại, pháp cú 62 ở Phẩm Ngu, Phật dạy: “Đây là con ta; đây là tài sản ta, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản ta”? Phật dạy như thế, nhưng tiếc thay! lòng tham dục của con người thật quá lớn không ngằn mé, họ muốn ôm hết cả vũ trụ vào lòng cũng chưa vừa ý. Tham mà không được thì nổi sân. Từ đó, nên nhơn loại mới gây ra bao thảm cảnh chiến tranh, khủng bố tàn sát lẫn nhau. Tất cả đều do lòng si mê chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Muốn bớt đi lòng tham lam chấp ngã và chấp pháp này, Phật dạy chúng ta phải dùng trí huệ quán chiếu thật sâu vào lý duyên sinh vô ngã. Vì mọi vật trên đời, không có thứ gì tồn tại. Bám chặt ôm ấp mọi vật vào mình, cuối cùng, không được thứ gì cả! Nắm bắt vào sự vật khác nào như nắm bắt một làn hương, hay như ôm ấp một giấc mộng. Chúng ta nên nhớ rằng, các pháp hữu vi chỉ là huyễn ảo, bọt bóng, sương khói, khác nào như hoa đốm giữa hư không. Thế thì, bám chấp vào nó chỉ là làm một việc mò trăng dưới nước chỉ hoài công vô ích mà thôi! Do hằng để tâm quán chiếu như thế, thì cường độ của lòng tham lam sân hận của chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều.
Là Phật tử, thiết nghĩ, chúng ta nên vâng lời Phật dạy, hằng ngày tập tu theo hạnh thiểu dục tri túc. Càng ít muốn biết đủ, thì thân tâm của chúng ta mới được an thoát nhẹ nhàng. Khi tâm được an thoát, thì mới hợp với lẽ đạo thanh tịnh, và chúng ta mới thực sự có hạnh phúc, nên Phật nói: “đó là đạo hạnh thanh tịnh”.
280. Khi đáng nỗ lực không nỗ lực, thiếu niên cường tráng đã biếng lười, ý chí tiêu trầm và nhu nhược; kẻ biếng nhác ấy làm gì có trí để ngộ đạo!
The idler who does not exert himself when he should, who though young and strong is full of sloth, with a mind full of vain thoughts – such an indolent man does not find the path to wisdom.
Kệ tụng
Khi cần không nỗ lực
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí tiêu trầm, nhu nhược
Sao có trí ngộ đạo?
Lược giảng
Pháp cú này, đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Padhànakammika Tissa.
Theo truyện tích kể lại, có năm trăm thanh niên thành Xá Vệ theo Phật xuất gia, nhận đề tài thiền quán từ đức Phật và đi vào rừng. Trong số đó, có một thầy tỏ ra giải đãi, không lo tu, còn những vị khác thì nỗ lực tinh tấn tu hành, kết quả đều chứng quả A la hán. Còn thầy Tissa, vì lười biếng nên không chứng được gì.
Sau đó, các thầy trở về tinh xá bạch Phật về thành quả đạt được. Trên đường về, các thầy đi khất thực ngang qua một ngôi làng cách Xá Vệ một dặm, khi đó có một tín đồ mời các thầy ngày mai đến nhà để thí chủ đó cúng dường vật thực. Các thầy nhận lời. Về đến tinh xá, các thầy được đức Thế Tôn ân cần hỏi han về thành quả đạt được. Tất cả đều vui mừng. Chỉ có thầy Tissa không vui, vì thầy chưa chứng thánh quả. Do đó, thầy thầm nghĩ và quyết định ngay ngày hôm nay, ta phải nỗ lực gia công thiền định để được chứng quả. Có thế, thì Đức Thế Tôn mới tiếp xúc nói chuyện với ta.
Trong khi đó, các thầy khác bạch Phật về việc đã nhận lời thọ trai ở nhà một thí chủ. Sáng mai, các thầy sẽ lên đường. Nhưng rất tiếc, tối đêm hôm đó, thầy Tissa suốt đêm không ngủ, đi tới đi lui, cuối cùng, vì quá buồn ngủ nên thầy bị té nhằm một ghế đá, gãy chân, thầy kêu lên đau đớn. Các thầy khác mãi lo chăm sóc cho thầy Tissa, nên trễ nãi không đi đến nhà thí chủ thọ trai được.
Sau khi Phật hỏi và biết rõ duyên cớ, Phật nói:
- “Này các Tỳ kheo, người nào không trỗi dậy đúng giờ, ý chí yếu ớt và lười biếng, người ấy không bao giờ phát triển thiền định và chứng thánh quả”. ( Hết phần lược dẫn cốt chuyện ).Nhân đó, Phật dạy pháp cú này.
Lười biếng là kẻ thù của tinh tấn. Đó là hai phạm trù đối nghịch nhau. Dù trong đạo hay ngoài đời hay bất cứ ở vào đẳng cấp giai tầng nào, nếu thiếu đi đức tính tinh tấn, thì không thể nào đạt được kết quả thành công trong sự nghiệp. Sự nghiệp ở thế gian, dù hạng người nào, ai ai cũng muốn có công danh, quyền cao, chức trọng, nhà cao cửa rộng, đời sống giàu sang, lắm bạc nhiều tiền. Muốn thế, không phải ăn không ngồi rồi mà được, tất nhiên, người ta phải tranh thủ với thời gian mà gia công nỗ lực học hỏi hoặc làm việc không ngừng. Dù làm việc bằng khối óc hay chân tay, ai ai cũng phải tranh thủ tiếc nuối chạy đua theo thời gian.
Xưa kia, Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) ông vừa là một nhà thơ cũng vừa là một nhà quan. Trên bước đường công danh sự nghiệp của ông, ông trải qua gặp nhiều nỗi gian truân lận đận lao đao, nhưng ông đã quyết chí vượt qua mọi chướng ngại để trở thành con người “kinh bang tế thế” và là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam của tiền bán thế kỷ thứ 19. Trong số những bài thơ của ông có một bài mà ông đã nêu cao chí khí hùng tráng của kẻ làm trai. Bài thơ với danh đề là: “Chí Nam Nhi”.
Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kì
Trót sanh ra thời phải có chi chi
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu?
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông
Đi không chẳng lẽ về không
(Trích trong tập Thơ Văn Việt Nam Chọn Lọc, Nhà Xuất Bản Đồng Nai tr 49)
Sự nghiệp công danh ở thế gian chỉ là hư ảo, phù phiếm giả tạm, mà người ta còn phải lao tâm khổ tứ, cật lực siêng năng làm việc như thế, hà tất gì sự nghiệp ở trong đạo. Một sự nghiệp siêu xuất thế gian. Sự nghiệp của người xuất gia là phải nỗ lực tu hành đạt thành Phật quả. Đã thế, thử hỏi tu hành lơ là giải đãi, thì làm sao chúng ta thành tựu được đạo quả?
Qua câu chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho ta thấy, thầy Tỳ kheo Tissa đã coi thường sự nghiệp tu chứng, nên thầy không chịu gia công nỗ lực thiền quán để gạn lọc khử trừ phiền não, trong khi đó, các thầy khác, thì lại gia công nỗ lực quyết chí tinh cần thiền định nên kết quả đã chứng quả A la hán.
Pháp cú trên, Phật đã nhấn mạnh và thức nhắc cho tuổi trẻ, với lứa tuổi thanh xuân trẻ trung căn tràn đầy nhựa sống, tinh thần minh mẫn, dồi dào năng lực, thế mà không lo siêng năng tu hành, gia công quán chiếu thiền định, đợi đến lúc già thân thể bạc nhược yếu đuối, thì thử hỏi làm sao có đủ tinh thần minh mẫn và thân thể tráng kiện để tinh tấn tu hành? Người tu, quan trọng nhứt là ở nơi ý chí. Nếu người có ý chí xung thiên, thì không có một trở ngại lực nào mà có thể ngăn cản được bước tiến hành đạo của họ. Chỉ sợ ý chí bạt nhược tiêu trầm, thiếu nhuệ khí cương quyết, gặp chướng ngại một chút là giải đãi, chùn bước thối chí nản lòng. Người như thế, thì Phật nói, không làm gì thành tựu được đạo nghiệp.
Lười biếng là con đẻ của trụy lạc, sa đọa. Đã thế, thì làm gì nói đến chuyện tồi phục tứ ma và ra khỏi lao ngục tam giới. Muốn ra khỏi ngôi nhà phiền não và lao tù ba cõi, tất nhiên, người xuất gia phải hằng chuyên cần tinh tấn, nỗ lực công phu thiền định, tịnh hóa thân tâm. Ngày đêm phải thường xuyên thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, phản quan tự kỷ, nhìn rõ lại ở nơi chính mình. Có nhìn kỹ lại mình, chúng ta mới có thể kiểm nhận được từng vọng niệm dấy khởi, để mà hàng phục chúng.
Ở một tầng thấp, thì Phật dạy, người tu nên nuôi dưỡng niệm lành, tiêu trừ niệm ác, cố gắng gìn giữ đừng cho niệm ác sanh khởi. Do có niệm lành, nên chúng ta mới thể hiện ra ở nơi ba nghiệp lành. Ở một tầng cao hơn, thì Phật dạy, không nên nuôi dưỡng niệm nào cả. Vì niệm lành hay niệm dữ, cả hai đều làm cho tâm ta bất an. Chỉ khi nào bặt dứt hết mọi vọng niệm lành dữ, thì khi ấy tâm thể ta mới thực sự được trong sáng an lạc thanh tịnh. Như thế, là ta đã thành công trên bước đường tu hành rồi vậy.
281. “Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo Thánh nhân dạy.”
282. “Tu Thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngả
Ðưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng.”Lược giải
281. Thận trọng lời nói, kềm chế ý nghĩ, thân không làm ác, ba nghiệp thanh tịnh, là được đạo Thánh nhơn.
Let a man be watchful of speech, well controlled in mind, and not commit evil in bodily action. Let him purify these three courses of action, and win the path made known by the Great Sage.
Kệ tụng
Ý điều, lời thận trọng
Thân không làm điều ác
Ba nghiệp nầy thanh tịnh
Chứng đạo thánh nhân dạy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một con quỷ đầu heo.
Theo truyện tích, một hôm thầy Mục kiền liên và thầy Lakkhana xuống núi Kỳ xà quật. Đến một chỗ nọ, bỗng nhiên, thầy Mục kiền liên mỉm cười. Thấy thế, thầy Lakkhana liền hỏi duyên cớ, thầy Mục kiền liên không trả lời và bảo khi đến trước đức Thế Tôn thì thầy mới nói.
Sau khi khất thực, cả hai đồng trở về tinh xá Trúc Lâm và ra mắt đức Phật. Khi ấy, thầy Lakkhana mới hỏi thầy Mục kiền liên về lý do khi nãy tại sao đang đi thầy cười? Bấy giờ, thầy Mục kiền liên trình bày về việc chính mắt thầy trông thấy một con quỷ hình thù to lớn cao gần một dặm, dáng người như đầu heo, trong miệng mọc ra một cái đuôi đầy dòi bọ lúc nhúc. Thật tôi chưa từng thấy hình thù một con vật nào kỳ quái như thế.
Qua lời tự thuật của thầy Mục kiền liên, đức Phật cũng xác chứng như thế. Trước kia, Ngài cũng đã từng thấy con quỷ này, khi Ngài còn ngồi dưới cây Bồ đề. Nhưng từ đó đến nay, đức Phật chưa từng nói với ai về việc đó. Bởi đức Phật sợ nói ra người ta không tin. Bây giờ, có Ngài Mục kiền liên đã thấy, nên đức Phật mới nói.
Nhân đó, đức Phật kể tiếp về tiền kiếp của con quỷ này. Phật nói, vào thời đức Phật Ca Diếp, có hai huynh đệ sống chung hòa thuận trong một tu viện. Cả hai đều trọng tuổi, một người 60 và người kia 59 tuổi. Sư đệ kính thờ hầu hạ sư huynh như một chú tiểu hầu thầy.
Hôm nọ, có một thầy giảng sư từ phương xa đến chỗ họ ở. Sau khi nghe pháp, cả hai đều tỏ ra tôn kính khoản đãi vị giảng sư đó rất mực. Và cả hai đều bày tỏ thỉnh vị giảng sư đó ở lại tu viện để giảng thuyết cho họ nghe. Hôm sau họ đưa vị khách đó vào làng khất thực.
Ngày kia, thấy vắng bóng hai người huynh đệ, mọi người mới hỏi vị khách đó và ông ta cho họ biết là hai người đó, họ có mối bất hòa, nên không đi khất thực. Mọi người không tin. Thực tế, thì hai người đang âm thầm hờn giận ganh tỵ trách móc với nhau vì sự có mặt của vị giảng sư đó. Sư huynh nghi ngờ sư đệ cho rằng, sư đệ nói xấu và còn bảo người khách đó đừng liên hệ với ông ta. Ngược lại, thì người sư đệ cũng âm thầm nghĩ thế.
Trải qua một thời gian rất lâu xa, tình cờ hai người gặp lại nhau trong một tu viện và lại ở chung một phòng. Nhân đó, hai người mới giải bày với nhau về việc huynh đệ bất hòa. Vở lẽ ra, hai người mới biết là mắc phải mưu kế ly gián của vị giảng sư kia. Mục đích là để cho hai huynh đệ giận hờn nhau rồi bỏ đi để ông ta chiếm cứ tu viện. Khi biết rõ sự tình, hai huynh đệ trở về tu viện cũ và vạch trần âm mưu của vị giảng sư đó. Hai huynh đệ lập tức trục xuất vị giảng sư đó ra khỏi tu viện. Sau khi chết, vị giảng sư đó rơi vào địa ngục A tỳ. Mãn kiếp địa ngục, bây giờ, ông ta phải mang thân hình con quỷ khổ sở như thế. Sau khi kể xong câu chuyện, đức Phật khuyến giáo:
- Này các Tỳ kheo, vị Sa môn phải từ hòa trong tư tưởng, ngôn ngữ và hành động. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú này.
Đọc qua pháp cú trên, ta thấy đức Phật đã nhấn mạnh khuyến giáo mọi người nên thận trọng gìn giữ ở nơi ba nghiệp. Những pháp cú ở tập một và tập hai (tạm phân chia) mà chúng ta đã có dịp đọc qua, chúng ta thấy đức Phật hay lặp đi lặp lại nhiều lần về vấn đề gìn giữ ở nơi ba nghiệp này. Tại sao Phật phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế? Bởi vì sự tu hành, dù xuất gia hay tại gia việc đầu tiên, là phải gìn giữ cẩn thận ở nơi ba nghiệp. Tội hay phước cũng từ đó mà ra. Trong ba nghiệp: thân, khẩu, ý, thì ai cũng biết, ý nghiệp là chủ động tạo tác. Hai nghiệp kia, đều do ý nghiệp sai sử mà nói năng hoặc hành động. Do đó, ý nghiệp công cũng lớn mà tội cũng nặng. Bởi tất cả khổ vui đều do nó dẫn đầu tạo tác.
Pháp cú trên, đầu tiên, Phật dạy chúng ta phải thận trọng ở nơi lời nói. Vì lời nói có tác dụng qua hai phương diện: lợi và hại. Về mặt lợi, thì Phật dạy chúng ta phải dùng ái ngữ khi phát ngôn. Ái ngữ là những lời nói êm dịu, ngọt ngào, hòa nhã, ai nghe cũng thích. Suốt cuộc đời hành hóa của đức Phật bao giờ và lúc nào, Ngài cũng dùng những lời ái ngữ và chân thật ngữ để khuyến giáo chúng sanh. Nhờ đó, mà chúng sanh được thấm nhuần lời dạy của Ngài nên họ được lợi lạc rất lớn.
Về mặt hại, thì Phật dạy chúng ta không nên dùng những lời quái ác ngữ. Đây là thứ ngôn ngữ gây ra tổn hại cho mình và người, nói rộng ra là cho cả quốc gia và xã hội rất lớn. Một lời nói có thể gây ra nước mất nhà tan. Một lời nói có thể gây ra sự bất hòa, cốt nhục tương tàn, người thân ly tán. Một lời nói làm cho gia đình mất hạnh phúc, gây ra đổ vỡ tan nát. Chỉ vì một lời ác ngữ mà tình thân trở thành thù hận và có thể chém giết nhau. Về mặt hại của những lời nói quái ác ngữ, thật không biết nói sao cho hết. Chính vì thế, mà Phật khuyên chúng ta nên thận trọng ở nơi lời nói.
Cổ nhân cũng thường khuyên: “một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng”. Hay “nọc người bằng mười nọc rắn”. Vì nọc rắn tuy rất độc hại, nhưng dù sao nó cũng chỉ giết chết có một mạng người thôi. Còn lời nói ác độc, có thể giết chết không biết bao nhiêu mạng người. Nhứt là những lời nói mang tính ly gián hại người. Tục ngữ có câu: “gươm hai lưỡi miệng trăm hình”. Gươm dù có sắc bén đến đâu, cũng chỉ có hai lưỡi thôi, còn cái lưỡi của con người thì nó uốn ra thiên hình vạn trạng. Nó uốn chiều nào cũng được hết. Phần nhiều là nó thích uốn cong theo chiều hại người, hại vật. Thật là ghê gớm cho cái lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo. Bởi vậy, các bậc cổ đức thường nói: “cái miệng nó đốt cháy hết mọi công đức”. Thế nên, người khéo biết tu, họ luôn luôn cẩn thận gìn giữ ở nơi lời nói. Họ bắt chước học theo người xưa: “phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”.Nhờ thế, nên họ có nhiều phước đức ở nơi cái miệng.
Qua câu chuyện lược dẫn trên chứng minh cho ta thấy, một hậu quả tai hại rất lớn của lời nói ly gián, gây chia rẽ. Vị giảng sư kia, vì có ác ý tham vọng muốn chiếm cứ tu viện cho riêng mình, nên bất chấp thủ đoạn gian ác là dùng lời nói gây ra ly gián chia rẽ giữa hai huynh đệ. Người ta đối xử tử tế tốt với mình, mà mình lại nhẫn tâm gây ra sự xích mích làm cho tình thân của hai huynh đệ người ta, đang thân thương lại trở nên thù hận ganh ghét nhau. Như thế, thì thử hỏi đạo đức và nhân cách của người xuất gia ở chỗ nào? Rất may! cuối cùng, cả hai huynh đệ còn chút tỉnh giác phát hiện ra được cái âm mưu gây chia rẽ của vị thầy kia. Chừng đó, cả hai mới biết là mình đã mắc bẫy.
Ngẫm lại, thời nay, cũng có nhiều tay gian ác như vị giảng sư kia. Đã mang danh là một vị giảng sư, được mọi người kính trọng nể nang, nhưng thực chất thì không xứng đáng với danh nghĩa đang mang chút nào. Thế mới biết, chiếc áo không làm nên thầy tu. Nhìn đánh giá bề ngoài, coi chừng chúng ta dễ bị mắc mưu phỉnh phờ lường gạt. Cũng may cho hai huynh đệ kia, còn phát giác ra được là mình đã mắc bẫy, nên cuối cùng cả hai người hóa giải được hận thù ganh ghét và đã nối kết lại tình huynh đệ như xưa. Cả hai huynh đệ cùng nhau trở về tu viện cũ sống chung hòa thuận lại êm đẹp như ngày nào.
Đó là một bài học chua cay của tình huynh đệ. Đây là bài học mà hai huynh đệ phải trả một cái giá rất đắt. Bài học này, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên nằm lòng để tránh đi cái hậu quả gây ra sứt mẻ tình huynh đệ. Ngoài đời hay trong đạo, thời nào cũng có những hạng người gian ác giả đạo đức bề ngoài để dễ bề thọc gậy bánh xe, gây chia rẽ làm cho nội bộ xáo trộn bất an. Đây là hạng người thật ác độc nguy hiểm, mà chúng ta cần phải để ý đến họ. Muốn được yên thân, tuyệt đối, chúng ta không nên lân cận thân mật với hạng người nham hiểm ác độc này.
Tiếp theo Phật dạy, phải kềm chế ý nghĩ. Điều này mới thật là khó. Kềm giữ ở nơi cái miệng đã là khó lắm rồi, huống chi Phật dạy phải kềm chế ở nơi ý nghĩ. Vì ý thức là thứ vô hình, nó luôn luôn biến đổi từng sát na. Tuy nó vô hình, nhưng nó có quyền uy rất lớn. Nó ra lệnh sai khiến cái miệng và cái thân phải làm theo sự điều khiển của nó. Nó nghĩ tốt, thì nó giục cái miệng nói ra điều lành, thân làm việc lành. Ngược lại, khi nó nghĩ điều bất thiện, thì nó khiến cho cái miệng và cái thân cũng làm điều bất thiện. Cho nên, người tu muốn được an vui hạnh phúc, Phật dạy chúng ta phải thường xuyên gìn giữ thật cẩn trọng ở nơi ý nghiệp. Xét về chú ý này, theo các nhà Duy Thức phân định giả lập, thì nó cũng có hai mặt: lợi và hại.
Về mặt lợi, thì nó suy tính những điều hay lẽ phải, làm lợi ích cho chúng sanh. Nghiệp dụng của nó về mặt lợi, thì nó có công năng chận đứng những điều suy nghĩ sái quấy, tổn mình hại người. Những công trình vĩ đại, những phát minh đủ các loại kỹ thuật máy móc, mọi ngành nghề, nói chung, là mọi thứ tiện lợi nhu cầu thiết yếu của đời sống, tất cả đều do sự suy tư của ý thức tạo nên. Nhờ đó, mà nhơn loại mới có được một đời sống đầy đủ tiện nghi vật chất sung túc thoải mái.
Về mặt hại, thì nó mưu tính toàn là những chuyện hại người hại vật. Nó có nhiều thủ đoạn gian ác. Nó bất chấp dư luận khen chê. Nó toan tính miễn sao có lợi thì làm, ai chết mặc ai. Nó đồng lỏa với tội ác. Nó không có tình thương đồng loại. Thế giới loài người hiện nay, sống trong đảo điên thác loạn bất an, tất cả đều do nó gây ra. Nó là kẻ khuấy động chiến tranh gây ra lắm cảnh tang thương chết chóc. Nó không có một chút từ tâm. Nói tóm lại, đứng về mặt gây ra họa hại hay tội ác của ý thức, thì không có bút mực nào tả xiết. Ngược lại, đứng về mặt lợi tạo ra nhiều điều lợi lạc cho nhơn sinh, thì ý thức có công đóng góp rất lớn lao. Luận về công và tội của ý thức, các nhà Duy Thức Học cho rằng: “Công vi thủ, tội vi khôi”. Nghĩa là luận về công trạng thì nó đứng đầu, còn nói về tội ác, thì nó cũng rất lớn.
Phật bảo chúng ta kềm chế ý nghiệp, tất nhiên phải gìn giữ thận trọng về mặt hại của nó. Đừng cho nó suy tính những điều chỉ biết lợi mình mà hại người, hại vật. Còn nó suy tính những điều lợi mình, lợi người, lợi vật, thì Phật khuyên chúng ta nên tích cực phát triển để làm lợi ích cho chúng sanh. Chớ không phải kềm chế không cho nó suy tính gì cả. Làm sao không cho nó suy tính cho được? Nên nhớ, ở đây Phật dạy chúng ta tu ở nơi ba nghiệp. Nghĩa là không làm các điều ác, nhưng nên làm các điều lành. Nhờ đó mà chúng ta mới có được an lạc hạnh phúc.
Kế tiếp, Phật dạy: “thân không làm ác”. Đây là gìn giữ ở nơi thân nghiệp. Về thân nghiệp, thì chúng ta phải gìn giữ không cho nó làm những điều bất chánh, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Người Phật tử giữ được ba điều này là làm cho thân được thanh tịnh. Người biết tu, không nên vì cung phụng dung dưỡng cho thân sung sướng quá mà gây ra lắm điều tội ác. Hễ gây nhân ác, thì phải trả quả báo ác. Do đó, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia, Phật khuyên chúng ta nên thận trọng gìn giữ ở nơi thân nghiệp này.
Tóm lại, Phật dạy người Phật tử tu ở nơi ba nghiệp, mới nghe qua chúng ta cho là thường. Đôi khi chúng ta còn không để ý đến. Nghe thì thường đấy, nhưng thật hành đúng theo lời Phật dạy trên, thật không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều khi chúng ta luận giải những điều triết lý sâu xa, nhưng nhìn lại ở nơi ba nghiệp của chúng ta thì chưa có sửa đổi được một chút nào. Đó là điều rất hổ thẹn. Thường chúng ta hay bị vướng mắc phải cái bệnh:
Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu
Dưới gót không ly một điểm trần.
Thật ra, nếu chúng ta gìn giữ ở nơi ba nghiệp một cách cẩn thận đừng để cho sai phạm, thì bảo đảm đời tu của chúng ta sẽ được lợi lạc hạnh phúc rất lớn và chúng ta sẽ giải thoát ngay trong hiện tại. Thế nên, kết luận của pháp cú trên, Phật nói: “ba nghiệp thanh tịnh là được đạo thánh nhơn”. Chỗ khác cũng nói: “ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Như vậy, không cần tu đâu xa, chúng ta chỉ cần thiết thiệt hành trì ở nơi ba nghiệp, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được đạo quả cao thượng vậy.
282. Tu Du già[27] thì trí phát, bỏ Du già thì tuệ tiêu. Biết rõ hai lẽ nầy thế nào là đắc thất, rồi nỗ lực thực hành, sẽ tăng trưởng trí tuệ.
Wisdom springs from meditation; without meditation wisdom wanes. Having known these two paths of progress and decline, let a man so conduct himself that his wisdom may increase.
Kệ tụng
Tu thiền trí huệ sanh
Bỏ thiền trí huệ diệt
Biết con đường hai ngã
Hướng đến lợi và hại
Hãy tự mình nỗ lực
Khiến trí huệ trưởng tăng.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Pothila.
Theo truyện tích, Trưởng lão Pothila lão thông Tam tạng trong thời đại của bảy đức Phật, là bậc thầy giáo thọ dạy cho năm trăm thầy Tỳ kheo. Tuy là giáo thọ, nhưng lậu hoặc của thầy chưa dứt sạch. Do đó, Phật muốn khuyến khích cho ông mau chấm dứt lậu hoặc, bằng cách gọi ông là Pothila rỗng. Nghe thế, ông tự hỏi: tại sao Phật lại gọi mình như thế? Phật thừa biết mình là người thông thuộc Tam tạng và là vị giáo thọ dạy đồ chúng. Thế thì, tại sao Phật lại gọi mình rỗng? Có lẽ tại vì mình chưa phát triển chánh định, nên Ngài gọi mình như thế chăng. Nghĩ thế, ông quyết định vào rừng tu tập thiền định. Khi vào trong rừng, Ngài lần lượt đi qua từng vị Tỳ kheo để xin thụ huấn, nhưng tất cả đều từ chối, vì họ biết ông là người đương kim giáo thọ. Cuối cùng, ông phải đến hạ mình với một chú Sa di bảy tuổi để cầu học. Vị Sa di từ chối. Ông kiên nhẫn năn nỉ cho kỳ được. Cuối cùng, Chú Sa di bảo ông hãy nhảy xuống ao để cả y áo, không được cởi ra. Xong rồi bảo lên và đến bên chú.
Bấy giờ, chú Sa di mới nói cho ông nghe: giả sử có một con tắc kè chui vào hang, cái hang có sáu cửa, muốn bắt nó, tất nhiên phải đóng bít lại năm cửa, chỉ chừa một cửa là sẽ bắt được con tắc kè. Cũng thế, ngài nên đóng hết năm căn và tập trung vào ý căn, thì chắc chắn ngài sẽ đạt được như ý muốn.
Pothila thông minh hiểu ý, soi sáng được vấn đề, không chút ngần ngại, ông tập trung tư tưởng quán sát thân mình và bắt đầu thiền định. Đức Phật ở cách xa một trăm hai mươi dặm, biết rằng Tôn giả sẽ trở nên bậc đại trí huệ, chứng quả A la hán, Ngài liền hóa hiện trước Tôn giả và nói pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật chú trọng đến vấn đề người tu hành cần phải phát huy làm cho tăng trưởng trí huệ. Theo giáo lý Nguyên Thủy, hành giả muốn có trí huệ, tất phải qua cửa ngỏ thiền định. Vì thế, các vị đệ tử xuất gia thời Phật rất chú trọng đến vấn đề thiền định. Vì có định mới phát sanh trí huệ.
Chuyện lược dẫn trên cho chúng ta thấy rằng, thầy Pothila là người suốt thông Tam tạng, lại là một vị giáo thọ giảng dạy cho năm trăm đồ chúng. Thế mà Phật vẫn cho thầy là người rỗng tuếch. Chữ rỗng mà Phật nói ở đây, tất nhiên, không phải rỗng về chữ nghĩa, mà rỗng, vì thầy Pothila chưa dứt hết lậu hoặc. Do đó, bằng mọi cách Phật khuyến khích cho thầy phải nỗ lực thật hành sâu vào thiền định mới phát sanh trí huệ. Học nhiều hiểu rộng, đứng về mặt học thuật nghiên cứu thì hay, nhưng đứng về mặt giải thoát khỏi vòng sanh tử khổ đau, thì nó vẫn còn dậm chân tại chỗ. Bởi thế, trong đạo Phật không chú trọng nhiều về mặt học thuật, mà rất chú trọng về mặt thật hành. Nói thế, để thấy rằng, học thuật chỉ là bổ túc cho sự tu, mà tu mới là điều quan trọng chính yếu.
Người xưa nói: “học mà không tu là đãi sách, tu mà không học là tu mù”. Lời dạy thức nhắc này rất quan trọng cho những ai hiện đang tu học Phật. Câu nói đó, rõ ràng là có sự hài hòa bổ túc cho nhau rất là thiết yếu. Nếu chỉ biết thiên trọng về một bên, chỉ học không hay tu không, cả hai đều bất lợi. Vì chỉ có học không, thì có khác nào như thầy Pothila. Nghĩa là phiền não lậu hoặc vẫn còn nguyên vẹn. Đã thế, thì làm sao giải thoát? Và nếu chỉ biết một bề tu không mà không học, thì có khác nào như kẻ mù mò mẫm đi trong đêm tối dày đặc. Học, dụ như người có đôi mắt sáng. Tu, dụ như người có cặp chân mạnh. Mắt sáng là để nhìn xa thấy rộng, tránh được những thứ chông gai, hầm hố nguy hiểm. Chân mạnh là để dũng bước hành trì đúng theo chân lý do nhãn quan trí huệ chỉ đạo.
Như vậy, đôi mắt sáng, dụ như trí huệ sáng suốt. Trí huệ thật tối ư quan trọng trong khi ứng dụng tu hành. Người tu thiếu trí huệ, thì làm sao biện biệt được lẽ chánh tà chân giả? Thế nên, chúng ta cần phải dung hòa cả hai, thì sự tu hành của chúng ta mới được kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, trong đạo Phật bao giờ cũng đặt nặng phần thật hành hơn là phần lý thuyết. Dù lý thuyết dở, nhưng thật hành hay, thì cũng mau tới đích mà mình đã nhắm tới. Dù học ít, nhưng chúng ta cố gắng gia công nỗ lực hành trì đúng theo những gì mà mình đã học hỏi, thì thiết nghĩ, cũng đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi lạc.
Ngược lại, nếu chúng ta học giỏi, chỉ biết nói lý thuyết rỗng suông, mà không thật hành, thì có khác nào là kẻ chỉ biết quảng cáo rao hàng giỏi mà thôi. Tệ hơn nữa, chỉ là kẻ bày ra những trò xảo quyệt hý luận để cho mọi người mua vui giải trí. Thực chất, thì chẳng có lợi ích gì! Người xuất gia tu học, phải là người có chứng nghiệm chân lý. Nghĩa là phải có thật hành qua, trước khi ra giảng dạy. Bởi thế, những vị xuất gia tu hành, người ta thường gọi các ngài là hành giả, chớ không ai gọi các ngài là học giả. Thế nên, người tu theo đạo Phật, cần phải hội đủ hai yếu tố căn bản là: “tri hành hợp nhứt” vậy.
283. “Ðốn rừng không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi;
Ðốn rừng (1) và ái dục,
Tỷ kheo, hãy tịch tịnh.”
284. “Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng,
Như bò con vú mẹ.”Lược giải
283. Hãy đốn rừng dục vọng, chớ đốn cây thọ lâm; từ rừng dục vọng sinh sợ, hãy thoát ngoài rừng dục.
Cut down the forest (lust), but not the tree; from the forest springs fear. Having cut down the forest and the under-brush (desire), be passionless, O monks!
Kệ tụng
Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng sinh sợ hãi
Đốn rừng và củi gỗ
Tỳ kheo hãy thoát ly
284. Sợi dây tình giữa trai gái chưa dứt, thì tâm còn bị buộc ràng như bò con chẳng rời vú mẹ.
For so long as the underbrush of desire, even the most subtle, of a man towards a woman is not cut down, his mind is in bondage, like the sucking calf to its mother.
Kệ tụng
Khi nào chưa dứt sạch
Giây tình giữa gái trai
Tâm ý vẫn buộc ràng
Như bò con vú mẹ.
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số các Tỳ kheo già.
Theo truyện tích, có một số đại phú gia quyền thế ở thành Xá Vệ, họ kết thân với nhau và làm nhiều việc từ thiện. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, họ đều xin Phật xuất gia, gia nhập vào Tăng đoàn, sống đời phạm hạnh. Vì trọng tuổi, không thể học thuộc kinh kệ, nên tất cả xin Phật cất thảo am ngoài tu viện và chung sống với nhau. Vì là những người già nua đã có gia đình mới đi xuất gia, nên họ chỉ về gia đình khất thực, chớ không có đi khất thực ở những nơi khác. Trong số các bà thí chủ, có một bà tên là Madhurapàcikà. Bà nữ thí chủ này rất tử tế thường hay dâng cúng vật thực cho các thầy.
Một hôm bà ngã bệnh rồi qua đời. Hay tin đó, các thầy Tỳ kheo già này khóc lóc bày tỏ rất là thương tiếc. Nghe tiếng khóc than bi lụy, các Tỳ kheo khác chạy đến, hỏi duyên do vì sao? Họ nói rằng, bà nữ thí chủ Madhurapàcikà đã chết, bà ấy rất tử tế tốt bụng, không dễ gì kiếm được một bà như thế. Nghe kể xong, các thầy Tỳ kheo bàn tán với nhau về chuyện đó ở pháp đường. Phật hỏi lý do vì sao? Các thầy thuật lại. Nhân đó, đức Phật dạy:
- Đây không phải lần đầu họ làm như vậy. Đời quá khứ cũng đã xảy ra chuyện này. Phật kể tiếp chuyện quá khứ. Trong thời quá khứ, họ là một đàn quạ. Và bà nữ thí chủ là một con quạ cái, khi bay qua bờ biển nó bị sóng cuốn và nhận chìm, cả đàn kêu khóc, và tìm cách dùng mỏ tát nước biển để cứu bà quạ. Rốt cuộc cả đàn đều mệt mỏi vô ích. Kể xong, Phật lại dạy tiếp:
- Này các Tỳ kheo! Khi nào còn rừng rậm tham, sân, si, các ông còn chịu đau khổ. Hãy đốn ngã rừng cây ấy các ông mới được giải thoát. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện ). Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên.
Đọc qua hai pháp cú trên, Phật nêu ra cho chúng ta thấy hai hình ảnh cụ thể: “rừng dục vọng và trâu con còn bú sữa”. Khi nói đến rừng, chúng ta liền nghĩ ngay đến nhiều cây cối um tùm đan nhau rậm rạp. Pháp cú 283, Phật mượn hình ảnh rừng cây, để nói lên lòng tham dục, sân hận và si mê của con người không thể đo lường được. Rừng có nhiều loại cây, lòng con người cũng có nhiều dục vọng phiền não. Sự so sánh này, tuy là gượng ép, bởi rừng dù rộng lớn nhiều cây, nhưng nó vẫn có hình tướng. Còn lòng tham dục của con người thì không có giới hạn ngằn mé. Nhưng ở đây, Phật muốn dùng hình ảnh cụ thể hóa để làm thí dụ cho chúng ta dễ hiểu. Nương dụ để hiểu pháp, đó là thái độ khôn khéo của người học Phật.
Lòng dục vọng của con người, tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh rất mãnh liệt. Đó là một năng lượng rất lớn, có thể gây ra nhiều tác hại, khi nó được thể hiện ra bằng hành động. Rừng cây dù có nhiều và rộng lớn đến đâu, người ta cũng có thể chặt đốn hết, nhưng còn lòng tham dục, nói rõ ra là Tam Độc (tham, sân, si) biết đến bao giờ người ta mới thực sự đốn sạch nó đây!
Đức Phật bảo chúng ta nên “đốn rừng dục vọng, chớ không nên đốn cây thọ lâm”. Rõ ràng, là Phật chỉ cho chúng ta tu ở nơi cái gốc. Gốc không lo chặt đốn, đốn ngọn làm gì? Dục vọng là cái gốc rễ, gây ra cho chúng ta đau khổ, thì chúng ta hãy mau lo đoạn trừ. Cũng như muốn hết bệnh, thì chúng ta cần phải tiêu diệt vi trùng gây ra bệnh. Có thế, thì bệnh mới hết. Cũng thế, có đoạn trừ lòng dục vọng, thì chúng ta mới chấm dứt khổ đau.
Hiện trạng của xã hội loài người hiện nay, đang trên đà tiến sâu vào ngỏ cụt khổ đau vô lối thoát, bởi hiện tướng của ba thứ độc tố nói trên, càng ngày chúng càng hoành hành đột phá dữ dội. Nếu nhơn loại không chịu tìm phương cách hạn chế làm giảm bớt ngọn lửa tham dục này, thì tương lai không biết đời sống của nhơn loại sẽ ra sao và đi về đâu?! Đó là những nỗi băn khoăn ưu tư cho thân phận của kiếp làm người. Biết rõ nguyên nhân gây ra đau khổ cho chúng ta, tất nhiên, mỗi người cần phải có quyết tâm tiêu diệt cái nguyên nhân đó. Biết rõ căn nguyên gây ra bệnh trạng, thì chúng ta phải kíp mau chữa trị, chớ không phải biết bệnh để rồi ngồi đó khóc than vô ích. Chỉ có những kẻ si mê mới làm như thế mà thôi!
Pháp cú 284, Phật dạy rất rõ về những sợi giây tình ái buộc ràng giữa tình yêu nam nữ. Nếu không chặt đứt được sợi giây tình ái này, thì chẳng khác nào như con trâu con đeo theo bú sữa mẹ không lúc nào rời ra. Phật nêu ra hình ảnh cụ thể này, để nói lên lòng ái dục của con người rất sâu nặng trong tình yêu thương nam nữ, cũng như lòng tham đắm ái nhiễm ở nơi ngũ dục lục trần. Nói về tình dục ái của nam nữ, và sự trói buộc hệ lụy khổ đau của nó, thì tục ngữ dân gian Việt Nam có câu: “tu là cội phúc, tình là dây oan”. Vẫn biết nó là thứ dây oan, trói buộc con người không những một đời mà còn trải qua nhiều đời, nhiều kiếp, nhưng người ta vẫn không thoát khỏi. Nói theo nhà thơ Xuân Diệu thì: “yêu là chết trong lòng một ít”, dù có chết đó, nhưng thử hỏi có mấy ai thoát khỏi lưới tình?
Ta nên biết rằng, ở đây, Phật muốn nhấn mạnh về khía cạnh giải thoát, vượt ngoài vòng cương tỏa trói buộc. Còn đứng về phương diện nghiệp lực truyền chủng nòi giống thì có khác. Tình yêu giữa nam nữ là một thứ tình yêu đã được xã hội loài người đặt định trong việc kết hợp tạo lập gia đình để sanh con đẻ cái trong mối giây liên hệ truyền chủng không cho đoạn tuyệt. Do đó, đã mang nghiệp người, tất nhiên, khó có mấy ai thoát khỏi, ngoại trừ những bậc tu hành chơn chánh, sống đơn độc, vì các ngài muốn thoát ly sanh tử khổ đau.
285. “Tự cắt dây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết-Bàn, Thiện Thệ dạy.”
286. “Mùa mưa ta ở đây
Ðông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy.”Lược giải
285. Tự mình dứt hết ái dục như lấy tay bẻ cành sen thu, siêng tu đạo tịch tịnh. Đó là Niết bàn mà đức Thiện Thệ[28] đã truyền dạy.
Cut off your affection in the manner a man plucks with his hand an autumn lotus. Cultivate only the path to peace, Nibbana, as made known by the Exalted One.
Kệ tụng
Tự cắt giây tình ái
Như tay bẻ sen thu
Hãy tu đạo tịch tịnh
Niết bàn Thiện Thệ dạy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo đệ tử của ngài Xá lợi phất.
Theo truyện tích, ngài Xá lợi Phất có một đệ tử xuất gia, là một chàng thanh niên tuấn tú con nhà thợ bạc. Vì biết vị đệ tử của mình có lòng tham dục rất mạnh, nên Tôn giả bảo thầy phải luôn thiền quán đề mục: “quán bất tịnh”. Vâng lời sư phụ dạy, thầy đi sâu vào rừng để tịnh tu. Trải qua hơn một tháng, nhưng vẫn không có tiến bộ. Thầy trở về trình cho sư phụ biết rõ duyên cớ. Sư phụ khuyên bảo cố gắng thực tập thêm. Nhưng trải qua hơn ba tháng thực tập thiền quán nữa, thầy cũng vẫn không thấy có tiến bộ chút nào. Dù thầy là người có trí tuệ rất nhạy bén, nhưng không hiểu tại sao lại thực tập không thành công?
Đương nhiên, vị sư phụ phải suy nghĩ tìm cách giúp đỡ cho người đệ tử của mình. Sau khi suy nghĩ, thầy trò mới đến bạch trình với đức phật. Phật quán biết cái căn cơ của thầy này không thích hợp về đề mục quán bất tịnh. Vì thầy đã trải qua nhiều đời làm nghề thợ bạc. Do đó, Phật dạy hãy thiền quán về hoa sen. Thầy bẻ một hoa sen ở dưới hồ rồi đem lên cấm sâu vào trong đống cát. Phật dạy thầy hãy tập trung tư tưởng thiền quán sâu vào đóa sen đó. Thiền quán giữa đóa sen dưới nước và đóa sen trên cát, khác nhau như thế nào? Dĩ nhiên đóa sen dưới nước tươi tắn và đóa sen trên cát thì khô héo tàn tạ dần.
Nhờ Phật dạy hợp cơ cảnh thiền quán đúng cách, nên thầy đã thấy rõ được lý vô thường, khổ, vô ngã, của vạn pháp. Sau khi biết thầy đã được kết quả, tâm trở nên thanh tịnh, sạch hết các lậu hoặc, Phật liền hiện thân đến trước mặt thầy và nói pháp cú trên. Nghe xong, thầy chứng quả A la hán. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật dạy rất rõ: “tự mình dứt hết ái tình, như lấy tay bẻ cành sen thu; siêng tu đạo tịch tịnh”. Một người khi đã không còn một niệm luyến ái, thì ngay đó đã là giải thoát rồi. Bởi ái nhiễm là nhân tố gây cho chúng sanh chìm đắm trong biển đời sanh tử. Dứt hết ái nhiễm là tâm ta trở nên thanh tịnh. Mà thanh tịnh là hạnh phúc, là Niết bàn. Khác nào như chúng ta bẻ một cành sen thu. Vì sen là tiêu biểu cho đức tánh thanh tịnh, không nhiễm ô. Đến đây, hành giả thực sự an vui giải thoát như hoa sen vượt khỏi bùn nhơ khoe hương khoe sắc cùng với đất trời. Muốn được thế, hành giả phải gia công nỗ lực siêng tu đạo tịch tịnh. Tức phải thanh tịnh hóa ở nơi ba nghiệp. Có thế, thì mới thực sự nếm được mùi vị pháp hỷ sung mãn, hay đã thực sự đạt đến quả vị Niết bàn an lạc.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, ngài Xá lợi Phất đã dạy cho người đệ tử của mình không đúng pháp môn phù hợp căn cơ. Do đó, mà sự thật hành của thầy không đạt được kết quả. Vì tập khí của người đệ tử chuyên sống hành nghề thợ bạc, nên thầy thích những gì đẹp đẽ. Nay, gặp sư phụ lại dạy bảo phải quán bất tịnh, nên quán hoài mà không tiến bộ.
Sau khi bạch trình đức Phật, Phật biết rõ căn cơ, tập khí của vị thầy đó nên Ngài dạy thay đổi cách quán. Ngài bảo phải thiền quán về đóa hoa sen. Ứng dụng thật hành theo phép quán đối tượng này, thầy đã đạt được kết quả tốt đẹp.
Hoa sen vừa có màu sắc tươi đẹp, đồng thời cũng vừa nói lên đặc tính không nhiễm ô. Tuy thế, hoa sen vẫn là một sắc tướng, tất nhiên, nó phải bị vô thường sanh diệt. Thiền quán sâu vào đóa hoa sen, thầy đã thấy rõ sự giả hợp hình thành của nó là do duyên khởi. Thấy được lý duyên sinh, là thấy được đạo lý giải thoát. Vì tất cả muôn pháp do duyên hợp giả có, thực thể của nó là không. Do đó, mà thầy không còn tham đắm bám chấp vào sự vật, nên mọi lậu hoặc phiền não bặt dứt. Đến đây, thầy đã thực sự đạt đến cảnh giới Niết bàn.
Qua đó, cho ta thấy, chọn lựa một pháp môn thích hợp căn tánh và sở thích của mình để tu hành thật hết sức quan trọng. Ngay như ngài Xá lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn, mà ngài còn không thể thấu suốt căn cơ, tập khí lâu đời của người đệ tử, nên dạy pháp tu không đúng cách thích hợp. Do đó mà sự thật hành của vị đệ tử không có kết quả. Đối với thời nay, thử hỏi có mấy ai được như ngài Xá lợi Phất? Do đó, nên sự dạy đệ tử thật hành cho đúng pháp hợp cơ, thật là khó khăn. Vì vậy, khi chọn pháp môn tu ta phải cẩn thận lựa chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Nếu thấy pháp môn mình đang tu, mà thật hành lâu ngày không thấy có tiến bộ kết quả, thì ta nên biết rằng, đó là ta đã chọn lựa một pháp môn sai rồi. Thế nên, ta cần phải thay đổi điều chỉnh lại. Đó là quyền quyết định chọn lựa của chúng ta.
Ngoài sự chọn lựa pháp môn tu cho thích hợp căn cơ trình độ của chúng ta ra, đối với sự chọn lựa bậc thầy để nương tựa học hỏi tu hành cũng khá quan trọng. Nếu chúng ta chọn thầy hướng dẫn chỉ dạy ta đúng theo chánh pháp, thì sự tu hành của chúng ta mới có tiến bộ giác ngộ giải thoát. Ngược lại, nếu không may chúng ta lại nương tựa một vị thầy không thông hiểu Phật pháp lại thêm có hạt giống tà ngoại, thì sự tu hành của chúng ta chẳng những không có lợi lạc mà còn có nguy cơ rơi vào con đường tà kiến. Kết quả là ta sẽ đi lạc hướng chánh pháp và cuối cùng phải lãnh lấy quả báo khổ đau. Thế nên, là Phật tử chúng ta nên sáng suốt hết sức thận trọng khi chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu cho thích hợp đúng theo chánh pháp và nhứt là phải phù hợp với căn cơ của chúng ta. Có thế, thì sự tu học của chúng ta mới mong thành tựu đạt được kết quả tốt đẹp vậy.
286. “Mùa mưa ta ở đây, đông, hạ, ta cũng ở đây”, đấy là tâm tưởng của hạng người ngu si, không tự giác những gì nguy hiểm.
“Here shall I live during the rains, here in winter and summer” – thus thinks the fool. He does not realize the danger (that death might intervene).
Kệ tụng
“Mùa mưa ta ở đây
Đông hạ cũng ở đây”
Người ngu tâm tưởng vậy
Không tự giác hiểm nguy.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến đại phú thương Mahàdhana.
Theo truyện tích, Mahàdhana cùng đoàn xe năm trăm chiếc chất đầy vải nhuộm đỏ, từ thành Ba la nại đem đi bán. Khi về Xá Vệ, ông dừng lại bên bờ sông và nhủ thầm: “ngày mai ta sẽ qua sông”. Tối hôm đó, trong lúc ông đang ngủ, thì bỗng dưng có một trận bão dữ dội và mưa trút xuống kéo dài suốt thời gian bảy ngày. Vì thế, mà ông không bán được vải và ông quyết định ở lại đây suốt mùa mưa, mùa đông và mùa hè sang năm, để bán cho hết số vải.
Phật đi khất thực ngang qua, biết rõ dự tính của ông, Phật lặng lẽ mỉm cười. Thấy thế, Tôn giả A nan hỏi Phật lý do tại sao? Phật bảo, ông thương gia kia, chỉ sống được trong vòng bảy hôm nữa thôi, mà ông ta không hay biết, còn dự tính ở lại đây suốt ba mùa. Nhân đó Phật liền nói bài kệ:
Hãy hăng say làm việc
Làm những gì nên làm ngày hôm nay
Ai biết thần chết sẽ viếng ngày mai
Chẳng phải chúng ta vẫn hằng vật lộn
Mỗi ngày cùng thần chết?
Đây là lời hiền nhân ca ngợi:
Hạnh phúc thay, kẻ sống nhiệt tình
Ngày và đêm không mệt mỏi
Dù chỉ một đêm y được sống.
(Trích nguyên văn bài kệ trong Tích Tuyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 127)
Nghe qua bài kệ Phật nói, ngài A nan xin phép Phật để nói cho ông ấy biết. Phật cho phép. Ngài A nan nói rõ về cái chết cận kề đến với ông ta chỉ còn trong vòng bảy ngày nữa thôi. Nghe qua, Mahàdhana rất xúc động và quyết định thỉnh Phật và chúng Tăng đến cúng dường trong vòng bảy ngày. Sau khi nghe Phật dạy về quán tưởng đến cái chết, ông đã chứng quả Dự lưu. Bảy ngày sau, ông bị bệnh nhức đầu và chết, thần thức của ông được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất. Đó là lý do Phật nói pháp cú trên. ( hết phần lược dẫn cốt chuyện )
Pháp cú trên là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai quá say mê với sự nghiệp. Có người cả đời say mê đắm đuối sống chết vì sự nghiệp. Họ say mê đến đổi, không còn biết gì đến gia đình vợ con. Tiền tài, danh vọng, quyền lực, là những thứ mà người đời không ai lại không ham thích. Thế nhưng, họ quên rằng, tất cả đều là những thứ giả dối tạm bợ. Có đó rồi mất đó. Vì bản chất của chúng là vô thường sanh diệt. Không có vật nào tồn tại với thời gian. Gần nhứt là bản thân họ, mà họ còn không có thời giờ quan tâm chăm sóc, nói chi đến những thứ khác. Trong lúc say mê đắm đuối, họ lại quên rằng, thần chết sẽ đến gõ cửa gọi họ đi bất cứ lúc nào.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học rát bổng về cái chết của ông thương gia Mahàdhana. Tuy cái chết đến bên, nhưng ông vẫn còn lo toan tính bán buôn, vẫn còn luôn nghĩ đến tiền bạc. Ông vẫn còn dự tính phải ở lại đây dài lâu để bán cho hết số vải còn lại. Tâm trạng si mê của ông, cũng chính là tâm trạng si mê của tất cả chúng ta. Dù có biết chết đến nơi, người ta cũng vẫn còn nghĩ đến gia nghiệp của cải tiền bạc. Cho thấy lòng tham luyến của con người thật quá sâu nặng.
Biết rõ dự tính của ông, đức Phật mỉm cười. Không phải đức Phật chỉ mỉm cười cho ông thương gia Mahàdhana không thôi, mà đức Phật còn mỉm cười cho tất cả những thương gia khác. Nói rộng ra, là đức Phật mỉm cười cho tất cả chúng ta. Cười cho cái lòng tham dục không ngằn mé của ta. Mạng sống của con người ngắn ngủi như phù du, khác nào như chỉ mành treo chuông hay đèn treo trước gió, chỉ một chớp mắt là đã sang qua đời khác. Thế mà, thử hỏi có mấy ai nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của kiếp người? Còn một hơi thở tàn, người ta vẫn còn nghĩ đến tiền bạc, giàu sang, danh vọng… Thật không ai biết dừng lại.
Duyên phúc thay cho ông thương gia Mahàdhna còn gặp được Phật và với lời cảnh tỉnh thức nhắc của ngài A nan, mà ông ta đã kịp thời hồi tâm chuyển ý. Ông đã phát tâm cúng dường Phật và thánh chúng để được phước báo sanh thiên. Đối với chúng ta thì sao? Lời Phật Tổ dạy đành rành còn đó, nhưng chúng ta có sớm thức tỉnh hồi tâm tu hành như ông thương gia này không? Hay là chúng ta vẫn còn mãi miết tranh đua hơn thua trong trường danh lợi? Khi sắp tắt thở, có người vẫn còn chưa biết hồi tâm chuyển ý. Thế mới biết, nghiệp lực của mỗi người, Phật nói có nặng nhẹ rất khác nhau. Chúng ta đừng quên rằng:
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc
Lớp cùng thông như đốt buồng gan
Bệnh trần đòi đoạn tâm can
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê.
(Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu)
Mong sao, mỗi người chúng ta đọc qua cốt chuyện lược dẫn trên, để kịp thời thức tỉnh chóng lo tu niệm. Mỗi người hãy chuẩn bị cho mình lúc ra đi cho được an thoát nhẹ nhàng. Dù không được sanh thiên như ông Mahàdhana, nhưng ít ra, chúng ta cũng được đầy đủ phước báo sanh trở lại làm người. Sự quyết định khổ hay vui là do toàn quyền quyết định ở nơi chính mỗi người chúng ta. Không ai có đủ quyền lực quyết định thay thế cho ta cả.
287. “Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ. ”
288. “Một khi tử thần đến,
Không có con che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở.”
289. “Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết-Bàn.”Lược giải
287. Người đắm yêu con cái và súc vật, thì tâm thường mê hoặc, bị tử thần bắt đi, như xóm làng đang say ngủ, bị cơn nước lũ cuốn trôi.
As a great flood carries away a sleeping village, so death seizes and carries away the man with a clinging mind, doting on his children and cattle.
Kệ tụng
Tâm còn bị đắm say
Con cái và súc vật
Bị tử thần bắt đi
Như nước trôi làng ngủ
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện Kisà Gotami.
Theo truyện tích, bà Kisà Gotami vì thương đứa con mới chết, nên bà gào khóc kêu than lăn lộn giật mình trên đất, khi thấy đức Phật bà thưa hỏi và mong cầu Phật cứu sống con bà. Phật bảo bà đi vào làng kiếm hạt cải trắng, nhưng hạt cải đó phải ở trong gia đình mà từ trước tới giờ chưa có một người nào chết cả. Kiếm xong đem về đây, Phật sẽ làm phép cứu sống lại con bà. Thế là, bà bế xác đứa con trên tay đi hết làng này sang làng khác, từ sáng tới tối mà cũng không tìm ra hạt cải như lời Phật bảo. Cuối cùng, bà bạch trình với đức Phật là không có một gia đình nào có hạt cải mà không có người chết cả.
Bấy giờ đức Phật mới ôn tồn khuyên bà:
- Này bà Kisà Gotami, trên thế gian này, “không phải chỉ có một mình bà là có con chết, mà có biết bao người đã bị mất con yêu quí như bà. Vì vô thường là luật chung cho mọi sinh vật. Thần chết như một dòng nước lũ dữ, cuốn phăng, giật đi và ném mọi loài vào biển hoại diệt, trong khi mọi loài vẫn còn ham sống chưa hài lòng thỏa thích với cuộc sống”.
Nghe xong lời Phật dạy, bà chứng quả Dự lưu, hội chúng cũng đều được lợi ích. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Vô thường là một định luật bất di bất dịch. Việc sống chết là lẽ thường nhiên. Dù biết thế, nhưng đứng trước tình cảnh người thân yêu thương mất, ít có mấy ai dằn được cơn xúc động rơi lệ.
Tâm trạng đau khổ vì mất đứa con yêu quí của bà Kisà Gotami, đó là tâm trạng chung của các bà mẹ bình thường. Nói bình thường là vì trên thế gian này cũng có những bà mẹ, lòng lang dạ sói bất bình thường, có thể nói thua loài thú vật, nhẫn tâm giết hại đứa con mình sanh ra. Hùm beo tuy chúng thuộc loài thú vật hung dữ, nhưng chúng chưa bao giờ ăn thịt hay sát hại con của chúng. Còn chúng ta mệnh danh là con người, thuộc loài thượng đẳng, có một trí khôn hơn loài thú vật nhiều, nhưng lại có hành động thật dã man sát hại con mình. Như thế, thì có hơn gì loài thú vật kia đâu?
Như vậy, thử hỏi mình có còn xứng đáng làm người sống giữa trời đất này nữa không? Nhìn lên, thì thật là xấu hổ với trời, nhìn xuống, thì lại càng thêm hổ thẹn với đất. Còn nhìn ngang với đồng loại thì sao? Nếu người còn sót lại chút ít liêm sỉ hay một chút ít lương tâm con người, thì chắc không thể nào dám nhìn ngó ai. Vì con mình là nó mang tất cả dòng máu huyết núm ruột của mình, thế mà mình lại nhẫn tâm ra tay giết chết nó. Giết chết con mình thì có khác gì mình đã tự giết chết mình rồi! Thật là tội lỗi vô cùng!
Tình cờ, chúng tôi đã chứng kiến một vụ xử án của một bà mẹ người Khrme còn trẻ, khoảng 25 tuổi, đã tự tay giết chết đứa con ruột của mình mới sanh ra được hai mươi lăm ngày. Hỏi ra, chỉ vì giận lẫy người chồng mà nỡ ra tay giết hại đứa con yêu quí của mình. Kết quả, tòa tuyên án xử phạt về tội giết con 12 năm tù. Thật đây là một cảnh tượng thật quá hãi hùng đau lòng! Đây là một trong nhiều trường hợp mà bà mẹ đã ra tay giết con ruột của mình. Trên báo chí, hẳn chúng ta cũng đã từng thấy những tin tức nói về thảm cảnh này rất nhiều.
Ngoài những bà mẹ mang tính độc ác bất bình thường này ra, còn lại tất cả đều yêu thương đau khổ xót xa, khi con mình đã chết. Điển hình như trường hợp bà Kisa Gotami. Nhưng sự đau khổ của bà, đã được đức Phật xoa dịu an ủi đánh thức bà, bằng cách Ngài dùng phương tiện thật khéo léo để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của bà trở thành một hiện thực đối diện với thực tế. Do đó, mà bà hết khổ đau. Chẳng những thế, mà bà còn chứng được thánh quả Dự lưu, tức sơ quả Tu đà hoàn.
Thế mới biết, trong cái khổ đau cùng cực của con người, vẫn còn có cái “tánh không khổ đau”, nếu chúng ta khéo biết làm sống dậy cái “tánhkhông khổ đau” này. Việc cảm hóa của đức Phật nói trên, đó là bài học để chúng ta ý thức mà tự chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của chính mình, khi mình lâm vào hoàn cảnh đau thương ngút ngàn giống như bà Kisa Gotami. Chỉ có mình mới đủ sáng suốt tự tháo gỡ “nội kết” của chính mình. Ngoài ra, tất cả chỉ là trợ duyên giúp sức cho mình mà thôi.
288. Một khi tử thần đã đến, chẳng thân thuộc nào có thể thay thế, dù cha con thân thích cũng chẳng làm sao cứu hộ.
For him who is assailed by death there is no protection by kinsmen. None there are to save him – no sons, nor father nor relatives.
Kệ tụng
Một khi tử thần đến
Không có con che chở
Không cha không bà con
Không thân thích che chở
289. Biết rõ lý lẽ trên người trí gắng trì giới, thấu hiểu đường Niết bàn, mau làm cho thanh tịnh.
Realizing this fact, let the wise man, restrained by morality, hasten to clear the path leading to Nibbana.
Kệ tụng
Biết rõ lý lẽ trên
Kẻ trí siêng trì giới
Thấu triệt đường Niết bàn
Sớm chứng thanh tịnh đạo.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến bà Patàcàrà.
Theo truyện tích, bà ở Xá Vệ con của một gia đình rất giàu có. Bà là người có nhan sắc tuyệt đẹp. Nhưng hồng nhan thường hay bạc phận, khách má đào nhiều nỗi gian truân. Bà đã tư tình thông gian với một tên gia đồng, dù rằng bà đã được gia đình hứa gả cho một chàng trai môn đăng hộ đối. Gần đến ngày cưới, bà cùng với tên gia nhân bỏ trốn. Đến một nơi xa lạ, hai người lập nghiệp chung sống với nhau. Vì là con nhà giàu có, bà không quen làm lụng vất vả bằng chân tay. Nhưng trong tình cảnh này, tất nhiên, bà phải chịu chớ có biết than van cùng ai. Bụng làm dạ chịu chớ khá trách ai! Thế là, bà phải phụ lực với người chồng trong việc xây dựng mái ấm gia đình. Cuộc sống của hai người rất vất vả, nhưng đây cũng là quả báo của bà.
Trải qua thời gian sống chung, kết quả, bà đã mang thai. Trước khi sanh, bà lén chồng trở về nhà để sanh. Nhưng người chồng phát hiện được, nên bắt bà trở lại. Lần thứ hai cũng thế. Nhưng lần này, trên đường trở về nhà, bà chuyển bụng giữa đường. Người chồng vào rừng đốn cây làm chòi để che mưa nắng cho bà sanh nở. Nhưng không may, người chồng đã bị rắn độc cắn chết. Chờ hoài không thấy chồng về, cuối cùng, bà hạ sanh đứa con thứ hai. Sanh xong, bà lại bồng bế hai con về nhà cha mẹ. Khi qua sông, bà để đứa con lớn bên bờ, ẩm đứa mới sanh lội qua trước. Vừa ra giữa sông, thấy con diều hâu sà xuống quắp đứa bé bên bờ, hốt hoảng, bà quơ tay la lên đuổi nó, vô tình bà làm rớt đứa nhỏ xuống nước. Đứa nhỏ bị chết chìm và nước cuốn trôi đi. Đứa bên này bờ sông, thấy mẹ quơ vẫy tay tưởng kêu mình, nên nó bò rớt té xuống sông và rồi cũng bị chết chìm luôn. Thế là cả hai đứa con đều chết hết.
Còn lại mình bà, bà đã cố gắng hết sức mới lội qua được tới bờ. Trên đưòng về quê nhà, người ta cho tin bà biết là cả nhà của bà đều bị chết cháy hết vì hỏa hoạn. Tin như sét đánh, người bà phát điên lên, vì tất cả người thân yêu ruột thịt của bà đã chết hết. Thật là đau xót vô cùng!
Bà đi lang thang như người mất hồn, lần đến tinh xá nơi Phật và chúng Tăng đang trú ngụ. Phật biết, nghiệp quả của bà đã trả xong, nên Phật dùng lời an ủi khai thị mở mắt sáng cho bà. Phật dạy:
-“Này Patacara, người nào khi rời bỏ thế gian, không có con cái hay cha mẹ, họ hàng có thể bảo trợ, che chở hay cho an trú. Cho nên, dù những người ấy đang sống đó, cũng như không có. Người khôn ngoan nên có đạo đức thanh tịnh để dẹp sạch đường đến Niết bàn”. Nhân đó, Phật dạy hai pháp cú trên. Nghe xong, bà chứng quả Dự lưu. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú 288, Phật cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta nên nhớ, khi tử thần đã đến, thì không một ai có thể thay thế cái chết cho ta được, dù đó là người thân thương nhứt đời ta. Không ai có thể ăn thế hay ngủ thế cho ai. Việc làm dù nặng nhọc cực khổ đến đâu, người thân mình cũng có thể thay thế làm việc cho mình được. Còn nói đến cái chết, thì nghiệp quả ai nấy lãnh. Thế mới biết, ở đời, có những điều ta có thể thay thế, nhưng có những điều mà không ai có thể thay thế cho ai. Như kẻ sát nhân bị tù tội, dù đó là người thân thương nhứt, như cha mẹ hay chồng vợ, con cái, cũng không ai thay thế cho ai được. Những cái thông thường tương đối xảy ra trong cuộc sống mà ta còn bó tay bất lực thay, nói chi đến cái chết, có ai chịu thế cho ai đâu!
Chiêm nghiệm lời cảnh giác của Phật như thế, chúng ta cần phải nghĩ đến và lo cho đời sống tinh thần của ta nhiều hơn. Bởi vì, có đôi khi vì nặng nợ gia đình, mà mình đã gây ra nhiều tội lỗi, như sát hại sinh vật, hay gây tạo những điều tội lỗi bất lương khác, làm cho mọi người thân thuộc của mình ăn sung mặc sướng, nhưng tất cả tội lỗi, rốt lại, chỉ có phần mình gánh chịu thọ khổ. Nhân nào quả nấy, đó là luật tắc không sai.
Thiết nghĩ, là Phật tử chúng ta nên cân nhắc thận trọng đến cái hậu quả, trước khi mình hành động. Xét thấy, những việc làm nào có lợi lạc cho người, mà tổn hại cho mình, điều đó, Phật dạy chúng ta không nên làm. Làm những điều gì có lợi cho mình, lợi cho người, lợi vật, không những hiện đời mà còn đời sau nữa, thì điều đó mới thật là điều thiện, Phật dạy chúng ta nên làm. Bằng ngược lại, thì quyết định ta không nên gây tạo.
Bởi vì khi mình sa đọa thọ khổ nơi địa ngục, thì không ai có thể vào đó thay thế cho mình được. Có thương nhớ lắm, thì họ chỉ thốt ra vài lời thương tiếc, thế thôi! Lời nói đó, chẳng có ai mà không nói được. Khi họ đã biết thương tiếc, thì mình là người lãnh lấy khổ đau, chịu đựng trăm ngàn thứ hình phạt cay đắng khổ sở vô cùng rồi! Chừng đó dẫu mình có ăn năn hối hận, thì việc đã rồi. Chi bằng tốt hơn hết là mình nên biết thương mình, tránh gây tạo nhân ác, thì khỏi phải chuốc lấy quả báo xấu ác. Đó mới thật là thượng sách và đó mới thực sự là mình tự biết thương mình.
Qua câu chuyện lược dẫn thương tâm trên, cho chúng ta thấy, bà Patacara tuy là con nhà giàu có lại xinh đẹp, nhưng vì nghiệp quả bất thiện của riêng bà, nên bà phải trả. Thế mới biết luật nhân quả rất công bằng. Được sinh vào nhà sang trọng, giàu có, thân hình đẹp đẽ, đó là do đời trước bà đã biết tu tạo phước đức. Tuy nhiên, sự đau khổ chết chồng, mất con và mất hết tất cả người thân, đó là quả báo bất thiện của bà mà bà phải trả.
Chỉ có đức Phật mới biết rõ căn nguyên nghiệp quả của bà đã gây tạo lành dữ từ nhiều kiếp trong quá khứ. Vì biết rất rõ, nên Phật cảm hóa độ bà hết khổ và bà đã trở thành một Tỳ kheo ni tu hành chứng thánh quả. Phải chăng, đó cũng là khổ tận cam lai. Khi đã trả hết cái quả báo ác tích lũy nghiệp mà mình đã gây ra, thì mình sẽ hưởng được những gì mà mình đã gây tạo nhân lành.
Thế mới biết, trong đời sống thường nhựt của ta, có khi mình nghĩ ác, nói ác, làm ác, rồi cũng có lúc mình nghĩ lành, nói lành, làm lành. Tất cả đều có nhân và quả, như bóng theo hình, một mảy may không hề sai sót. Cho nên, khi quả nào thuần thục thì mình phải trả trước. Vì thế, trong suốt cuộc đời của ta, có lúc ta được diễm phúc hanh thông suông sẻ, bản thân và gia đình ta được an vui hạnh phúc. Thì đó là lúc ta hưởng được cái quả báo phước đức mà do ta đã gây ra. Nhưng ngược lại, cũng có khi, bản thân và gia đình ta gặp phải những điều bất lợi, như bị tai nạn, hao tiền tốn của v.v… Thì khi đó chính là lúc mà ta phải trả cái quả báo bất thiện mà do ta đã gây ra.
Như vậy, nhân ác hay nhân thiện, tất cả đều do chúng ta gây tạo từ trong nhiều đời hay hiện đời, khi lành khi dữ, nên khi trả quả cũng có lúc vầy lúc khác. Hiểu rõ như thế, khi quả lành đến thì ta an vui thụ hưởng, còn khi quả ác đến thì ta cũng phải an nhẫn vui vẻ mà trả cho xong. Bởi vì tất cả nghiệp quả lành hay dữ cũng chính do ta tạo lấy, chớ không có ai gây tạo ra cho ta cả. Thế thì:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
(Truyện Kiều)
Lành dữ cũng bởi do ta
Lành thời vui hưởng dữ thời trả xong.
Ai ơi! xin nhớ nằm lòng
Tránh gây nhân ác, thiện tòng nên gây
Tu nhân tích đức cho dầy
Hiện đời hạnh lạc mai này an vui.
Phẩm Tạp Lục
290. “Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn.”Lược giải
290. Nếu bỏ vui nhỏ mà được vui lớn, kẻ trí sẽ làm như thế.
If by renouncing a lesser happiness one may realize a greater happiness, let the wise man renounce the lesser, having regard for the greater.
Kệ tụng
Nhờ từ bỏ vui nhỏ
Hưởng được vui lớn hơn
Kẻ trí bỏ vui nhỏ
Khi nhìn đến vui lớn
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm có liên quan về những hành động quá khứ của Ngài.
Theo truyện tích, thuở xa xưa, thành phố Tỳ xá ly là một thành phố sung túc, giàu mạnh, có nhiều vị vua xuất hiện nối tiếp nhau cai trị. Về sau, nguồn lương thực bị khánh kiệt, dân chúng đói khát, và từ đó trong thành xảy ra ba thiên tai: nạn đói, ác thần và bệnh dịch.
Trước tình cảnh bi đát khổ nạn đó, dân chúng dâng kiến nghị lên nhà vua, và yêu cầu nhà vua tìm mọi biện pháp để giải quyết gấp rút những thiên tai đó. Về phần nhà vua, xét thấy, không phạm lỗi lầm. Nhiều người góp ý nên cúng tế thần linh để có thể làm giảm bớt đi nạn thiên tai này. Mỗi người nêu ra một ý kiến, nhưng chỉ có ý kiến là nên thỉnh Phật đến để làm lễ cầu nguyện, thì thiên tai mới giảm. Mọi người tán thành ý kiến này và họ cử người đến thành Vương xá để thỉnh cầu đức Phật.
Sau khi họ làm lễ thỉnh cầu, đức Phật nhận lời. Vì đức Phật biết trước là thiên tai sẽ giảm thiểu. Hay tin Phật đến thành Tỳ xá ly, vua Tần bà sa la ra lệnh cho dân chúng biết và chính ông chuẩn bị trang hoàng sắp xếp hết mọi việc. Trên đường từ thành Vương xá đến thành Tỳ xá ly, hương hoa cờ lọng trưng bày khắp hai bên đường. Đoàn người đưa tiễn đức Phật thật là trang nghiêm trọng thể. Mỗi nơi Phật tạm dừng chân, đều có thực phẩm cúng dường và tung hoa kính mừng chào đón. Trong khi đó, thì dân chúng thành Tỳ xá ly quyết định sẽ đón tiếp đức Phật long trọng gấp hai lần mà vua Tần bà sa la đưa tiễn. Từ bờ sông Hằng, (nơi Phật và thánh chúng tạm dừng chân) đến thành Tỳ xá ly, dài khoảng ba dặm đường, dân chúng đón rước cờ xí hương hoa trưng bày trang hoàng, thật là tưng bừng náo nhiệt.
Phật dùng thuyền qua sông Hằng đến địa hạt thành Tỳ xá ly. Phật vừa bước chân lên bờ, một cơn bão lớn nổi lên, mưa trút đổ ào xuống, nước dâng lên cao, cuốn sạch các tử thi xuống sông. Nhờ đó, mà không còn cảnh tượng hôi thúi ô nhiễm. Sau ba ngày, Phật đến Tỳ xá ly.
Trời Đế Thích và chư thiên đều có mặt để ủng hộ đức Phật. Bấy giờ Phật nói kinh Kim Cang và bảo Tôn giả A nan lặp lại. Ngài A nan vừa tụng đọc vừa sái tịnh rải nước cam lồ khắp hết, làm cho chúng ma khiếp sợ tìm đường tẩu thoát. Những người mắc bệnh dịch lần hồi tỉnh lại. Thế là, nhờ thần lực của kinh Kim Cang mà dân chúng được lành bệnh.
Nhân đó, Phật lại nói kinh Kim Cang thêm một lần nữa, mọi thiên tai đều tiêu trừ. Các hoàng tử Licchavi hết lòng bái phục Phật và thánh chúng rồi họ tiễn đưa Phật đến bờ sông Hằng. Thấy thế cả rồng trời đều hết lòng cung kính đức Phật. Long vương đưa Phật xuống Long cung và nghe Phật giảng pháp suốt đêm.
Sau khi hồi hướng phước báo cho vua rồng, đức Phật rời long cung và cùng đoàn người trở về thành Vương xá. Mọi việc đều do vua Tần bà sa la sắp xếp đón rước đức Phật trở về thật chu đáo.
Từ đó, uy tín của đức Phật vang dội, cả thiên long bát bộ đều quy kính hết mực. Các thầy Tỳ kheo thắc mắc hỏi Phật về lý do nào mà các vua quan, hoàng tử, dân chúng đều hết lòng cúng dường phẩm vật dâng lên đức Phật như thế? Phật nói, thời quá khứ Ta thuộc dòng Bà la môn, có tên là Samkha cha của Susima, Susima tu hành thành Phật Độc Giác và Ta đã hết lòng làm những việc thiện như là: “nhổ cỏ chung quanh tháp của vị Phật Độc Giác, trải cát quanh tháp, tung hoa lên tháp, tưới nước quanh tháp”. Nhờ quá khứ Ta đã làm và cúng dường như thế, nên hôm nay Ta đã được phước báo: dọn sạch đường tám dặm Ta đi, đường dài Ta đi đã được rải cát, các loài hoa đã được dân chúng rải trên đường…
Sau khi kể xong, Phật nói:
- “Này các Tỳ kheo, các phẩm vật và những sự tôn kính ấy không phải tự nhiên đến với ta do thần lực của Ta là Phật, không do thần lực của trời, rồng. Trái lại từ thần lực có từ những phẩm vật thô sơ Ta cúng dường từ thời quá khứ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú trên.
Vui là một sở thích cố hữu của con người. Đối với người đời, bất luận ở vào hạng người nào, dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, ai ai cũng ham thích vui chơi. Tuy nhiên, thưởng thức thú vui, cũng có nhiều đẳng cấp và cường độ khác nhau. Tùy theo trình độ và sở thích của mỗi người, mà họ chọn những thú vui chơi khác nhau. Có những thú vui lành mạnh, nhưng cũng có những thú vui sa đọa. Người đời, họ thích nhứt là những thú vui ngũ dục. Nhưng dù bất cứ thú vui nào, bản chất của chúng cũng chỉ là những thứ giả trá tạm bợ mà thôi.
Trong lúc hành lạc, người ta cảm thấy vui thích, nhưng sau đó thì cái khổ liền theo. Hiện trạng này, chúng ta thấy nhan nhãn xảy ra hàng ngày trong xã hội. Hút xách, rượu chè, bài bạc, đĩ điếm, dâm ô v.v…Đó là những thú vui sa đọa. Quả đó là thú vui chỉ mở đường cho đau khổ. Ở đời, không có một thú vui nào làm cho họ thỏa mãn. Có thỏa mãn chăng chỉ trong chốc lát, rồi thì họ cũng vẫn thèm khát và tìm cách hưởng thụ tiếp nữa. Thật ngũ dục lạc có một sức hút hấp dẫn họ rất mãnh liệt. Khác nào như kẻ bị bệnh ngứa ngáy nằm hong nóng trên lò than lửa đỏ rực. Họ chỉ được đả ngứa trong giây lát, rồi thì cơn ngứa vẫn tiếp tục hoành hành.
Pháp cú trên, Phật dạy người trí nên bỏ cái vui nhỏ để được cái vui lớn. Cái vui lớn mà Phật muốn nói ở đây là cái vui chân thật, giải thoát, tức Niết bàn. Chỉ có cái vui đó, mới thực sự là chân hạnh phúc. Còn cái vui theo thế gian thường tình chỉ là cái vui trong đau khổ mà thôi.
Điển hình như đức Phật, Ngài đã từ bỏ tất cả những thú vui ở thế gian, kể cả ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, rượu ấm, tình nồng v.v… Vì những thứ ấy đối với Ngài chỉ là những thứ hào nhoáng giả trá tạm bợ bên ngoài, thực chất, bên trong của nó thì tràn đầy đau khổ. Những thú vui mà Ngài có đó, đối với chúng ta, thì thật không phải là nhỏ. Thế mà, Ngài đã mạnh dạn cương quyết từ bỏ tất cả, để đổi lấy những thú vui lớn, mà ngày nay cả nhơn loại đều bái phục quy kính hướng về Ngài.
Đối với người Phật tử, Phật khuyến nhắc chúng ta nên chọn cho mình cái vui chân thật. Muốn được cái vui đó, tất nhiên, là chúng ta phải nỗ lực tu các hạnh lành: bố thí, trì trai, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, giúp đỡ những người hoạn nạn nghèo khổ v.v… Nói chung, là chúng ta cố gắng siêng năng làm mọi việc lành, và hãy lánh xa mọi điều dữ, dẹp bớt những thứ phiền não rối rắm trong lòng. Có thế, thì chúng ta mới có được những niềm vui tươi mát, an thoát nhẹ nhàng. Và đó mới thực sự là niềm vui chân thật vậy.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, tiền thân của đức Phật Ngài chỉ làm những hạnh lành nhỏ nhặt, như nhổ cỏ chung quanh tháp của vị Phật Độc Giác, trải cát chung quanh tháp, tung hoa cúng dường tháp v.v… Kết quả, Ngài đã hưởng được nhiều phước báo như đã nói ở trên. Điều đó, cho chúng ta một bài học rằng, chớ nên khinh thường những điều lành nhỏ mà không làm. Chính những điều lành nhỏ đó, nó sẽ đem lại cho chúng ta một niềm vui lớn sau này.
Thiên tai là một họa hại tàn phá khủng khiếp dữ dội mà thời nào cũng có. Đó là một thách thức khổ nạn lớn lao nhứt của nhơn loại hiện nay. Thiên tai ngoài những luật định thiên nhiên ra, phần lớn cũng do con người tiếp tay can dự vào. Những hiện tượng phế thải khí độc do con người gây nên làm ô nhiễm bầu khí quyển, và môi sinh ngày càng trở nên trầm trọng. Đó chính là nguyên nhân gây ra bao thảm cảnh khổ đau bệnh tật, chết chóc, mà hiện nay cả nhơn loại đều gánh chịu.
Vì tham vọng mưu sinh cao độ, nên con người bất chấp mọi hậu quả khổ đau. Họ hành động thiếu ý thức, nên từ đó, gây nên bao thảm trạng đau thương người giết người, tức đồng loại làm khổ đau cho đồng loại. Đây là một vấn đề tối quan trọng luôn đe dọa đến đời sống con người. Nếu như con người không chịu hoán cải, sớm tìm ra biện pháp thích nghi để kịp thời giải quyết cho việc bảo vệ môi sinh này, thì nhơn loại khó mong tránh khỏi nạn thiên tai ngày càng giáng xuống ác liệt hơn. Và một ngày nào đó chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này.
Hôm thứ bảy ngày 3. 5. 2008, cơn bão Nargis ác liệt dữ dội vừa xảy ra tại Miến Điện. Cơn bão đã càn quét gây nên thiệt hại vật chất và nhân mạng tử vong rất lớn. Theo tin tức báo chí loan tải cũng như đài phát thanh cho biết, có hơn một trăm ngàn người tử nạn. Con số người chết thật quá khủng khiếp. Ngoài ra, còn có cả hơn triệu người đang lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, sống nheo nhóc đói khát không nơi trú ngụ và đương đầu với nguy cơ bệnh tật. Đây là một thảm họa thật nặng nề lớn lao mà người dân Miến đang khổ sở gánh chịu.
Rồi đến trận động đất tại tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 12/5/08/ ở Trung Quốc. Trận động đất này cũng đã gây nên thiệt hại nhân mạng và tài vật rất lớn lao. Theo tin tức cho biết, có hơn năm mươi sáu ngàn người đã chết và mất tích. Con số này hiện vẫn còn tăng lên cao hơn nữa. Và hơn năm triệu người phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất, đói khát thiếu thốn trăm bề. Họ là những người may mắn còn sống sót và đang gào thét kêu la cầu mong đợi thế giới cứu tế. Cả thế giới đang nóng lòng dốc hết tâm lực để cứu trợ vật phẩm cho họ. Họ đang tranh đấu với tử thần trong từng giây phút để dành lấy sự sống. Thiên tai và nhơn tai cứ dồn dập xảy đến, luôn luôn đe dọa đến sự sống của con người. Không có trận thiên tai nào mà không gây nhiều thiệt hại thảm họa đau thương cho con người. Ấy thế mà, con người vẫn chưa chịu thức tỉnh để mỗi người tự ý thức bảo vệ môi sinh. Nếu không có biện pháp chống nổi với thiên tai họa hại, thì xin mỗi người chớ nên tiếp tay tạo thêm làm ô nhiễm môi trường. Bảo vệ môi trường sống chung quanh xanh tươi mát mẻ, hợp vệ sinh sạch sẻ, đó cũng là cách hay nhứt để bảo vệ sự sống an lành cho nhau.
291. “Gieo khổ đau cho người,
Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng
Không sao thoát hận thù.”Lược giải
291. Gieo khổ cho người để cầu vui cho mình, thì sẽ bị lòng sân hận buộc ràng, không sao thoát khỏi nỗi oán ghét.
Entangled by the bonds of hate, he who seeks his own happiness by inflicting pain on others, is never delivered from hatred.
Kệ tụng
Gieo khổ đau cho người
Mong cầu vui cho mình
Tất bị oán ràng buộc
Không sao thoát hận thù
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người đàn bà ăn trứng của một con gà.
Chuyện kể rằng, “trong một ngôi làng không xa thành Xá vệ, có một người đánh cá. Một hôm trên đường đi đến thành Xá vệ, ông bắt gặp một vài cái trứng dọc theo bờ sông Aciravati, ông bèn nhặt lấy. Đến Xá vệ, ông vào nhà người quen, luộc mấy quả trứng, khi ngồi ăn ông cho cô con gái chủ nhà một trứng. Cô bé ăn xong, đòi ăn thêm, bà mẹ phải lấy trứng trong ổ con gà mái luộc cho cô. Cô bé ăn trứng gà, từ đó cô đâm thích món ăn này và thường tự lấy trứng ăn.
Con gà mẹ để ý rằng mỗi lần mình đẻ trứng đều bị cô bé mang đi ăn hết; nổi cơn bất bình oán hận cô, nó thề rằng: “khi tôi chết, tôi sẽ tái sanh làm chằn tinh, ăn thịt mấy đứa con cô này”. Sau khi chết nó trở lại làm con mèo của nhà này, còn cô bé trở lại làm gà mái. Gà mái đẻ trứng đều bị mèo ăn hết, như vậy đến ba lần. Gà mái tức quá bèn trù: “ba lần ngươi ăn trứng của ta, còn muốn ăn thịt cả ta. Khi ta tái sanh, ta sẽ nhai xương ngươi và con ngươi”.
Sau đó gà mái sanh làm heo rừng, con mèo thành con nai. Khi nai có con, beo đến ăn thịt cả mẹ lẫn con. Như thế trong năm trăm kiếp liên tục, họ ăn nuốt lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau. Cuối cùng một bên làm bà chằn, một bên làm phụ nữ trong thành Xá vệ. Câu chuyện tiếp diễn như cũ, cho đến khi gặp Phật, Ngài dạy pháp cú trên. Hai kẻ thù nghe xong, bà chằn xin quy y, thọ năm giới. Không còn hận thù, người đàn bà nọ cũng chứng sơ quả. Hội chúng đều được lợi ích”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 147)
Sống ở đời, nếu con người cứ mãi tiếp tục gieo rắc khổ đau oán thù cho nhau, thì biết đến bao giờ nhơn loại mới thực sự chấm dứt khổ đau. Bản chất của con người vốn đã quá ích kỷ, cái gì cũng muốn chỉ có lợi cho mình, ai chết mặc ai. Người ta nhân danh chủ nghĩa, tôn giáo, để tìm đủ mọi phương cách chinh phục xâm chiếm cai trị kẻ khác. Vì quyền lợi cá nhân, rộng ra là quốc gia, người ta bất chấp dùng mọi thủ đoạn gian ác để xâm lăng chiếm hữu tài nguyên của các quốc gia khác. Từ đó, mới gây ra hận thù chiến tranh đau khổ triền miên cho nhau. Tất cả cũng đều do lòng ích kỷ hẹp hòi của con người mà ra. Từ bản ngã cá nhân, đến bản ngã đoàn thể, rộng hơn là quốc gia, tôn giáo. Bản ngã càng lớn, thì khổ đau càng to. Cá nhân thiếu đạo đức, thì cá nhân đau khổ. Đoàn thể thiếu đạo đức, thì đoàn thể đó tan rã. Tôn giáo thiếu đạo đức, thì tôn giáo đó sẽ bị phá sản.
Mỗi cá nhân muốn có hạnh phúc an vui, thì mỗi người cần phải lấy đạo đức làm nền tảng. Nếu mỗi cá nhân ăn ở cư xử có phẩm chất đạo đức, biết nâng cao chất liệu tình người, thì mỗi gia đình sẽ được an vui hạnh phúc, và rộng ra là cả quốc gia xã hội đều được an lạc thái bình. Như vậy, cái gốc, vẫn là quy kết ở nơi mỗi người.
“Ngày nào mà con người còn mang nặng những cố chấp định kiến, những tham vọng cao độ chiếm hữu quyền lợi, còn thiết định giai cấp thống trị, còn nuôi dưỡng những hận thù, xung đột, tranh chấp, thì chắc chắn ngày đó những vấn nạn khổ đau của con người vẫn còn tồn tại, thật khó lòng hóa giải!”. (Trích một đoạn trong Thông Bạch Phật Đản 2632 của Hòa Thượng Thích Phước Huệ)
Pháp cú trên, đức Phật nêu cao giá trị phẩm chất đạo đức làm người. Giá trị đó phải được nâng cao trong tinh thần bình đẳng giữa người và người. Không nên vì quyền lợi hạnh phúc của mình, mà lại nhẫn tâm chà đạp phá hoại xâm chiếm quyền lợi hạnh phúc của kẻ khác. Hành động đó, khác nào như chế dầu vào lửa và chắc chắn lòng sân hận oán thù ngày càng chồng chất lên cao.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, chúng ta thấy mối thâm thù vay trả, trả vay trải qua nhiều kiếp, thật là khủng khiếp. Gà mái vì bực tức cô bé ăn trứng của mình đẻ ra, nên chuyển kiếp tái sanh làm mèo. Cô bé tái sanh trở lại làm gà mái. Mỗi lần gà mái đẻ trứng đều bị mèo ăn hết. Vì lòng sân hận buộc ràng, nên mối thù trả vay không dứt. Nhân quả thật là đáng sợ. Chuyện hận thù cứ thế mà tiếp diễn, cho đến khi gặp Phật, Phật mới tháo gỡ hóa giải hết được.
Bởi thế, người tu hành nên buông xả hết mọi thứ, đừng để gây nội kết trong lòng. Nhứt là nội kết “thù oán”, thì thật là một tai hại không những hiện đời mà còn trải qua nhiều đời đau khổ.
Nỗi oán thù vay trả giữa vua cha Bình sa vương và thái từ A xà thế là một minh chứng cho việc báo oán thật đáng ghê sợ này. Theo truyện tích, thì tiền thân của thái tử A xà thế là một vị Tiên nhơn. Ông này có ước nguyện là sẽ tái sanh làm con Bình sa vương. Nhưng Bình sa vương vì quá nóng lòng mong muốn có con sớm, nên ra lệnh cho người hạ sát vị Tiên nhơn đó. Vị Tiên nhơn này, trước khi chết, thốt lời oán hận là sẽ báo oán trả thù. Sau khi chết, ông liền tái sanh đầu thai làm con của Bình sa vương.
Khi hạ sanh thái tử, vua cha nghe lời tiên đoán của thầy tướng số, là đứa con này khi lớn lên nó sẽ trả thù giết chết nhà vua, nên nhà vua rất lo sợ và ra lệnh khi hoàng hậu lâm bồn không cho ai nâng đỡ thái tử. Mục đích là để cho thái tử rớt từ trên cao xuống mà chết. Nhưng thái tử không chết, chỉ gãy ngón tay út mà thôi. Do oan gia đó, mà sau này khi lớn lên, thái tử A xà thế nghe lời xúi giục của Đề bà đạt đa bắt vua cha tống giam vào trong lao ngục và đày đọa hành hạ cho đến chết. Đó là mối oán thù tương báo con giết cha.
Ngày nay, việc con giết cha, cha giết con, mẹ con, con mẹ, vợ chồng giết hại lẫn nhau, thuờng xảy ra hàng ngày khắp nơi trên thế giới. Tất cả đều do mối oan gia thù hận truyền kiếp sâu nặng mà phải đầu thai làm thân thuộc để gần gũi mà dễ bề trả thù sát hại lẫn nhau. Ôi! Nhân quả vay trả, trả vay thật đáng ghê sợ lắm thay!
Xin tất cả hãy chiêm nghiệm qua hai câu chuyện chứng minh trên mà mỗi người nên mở rộng cõi lòng bao dung tha thứ, đừng nuôi dưỡng ôm ấp oán thù trong tâm mà tự mình chuốc khổ lụy cho mình. Oán thù nên mở ra không nên kết chặt lại. Vì hận thù làm sao trừ diệt được hận thù. Càng thù hận thì càng chồng chất lên cao. Cứ thế mà vay trả, trả vay không biết đến bao giờ cùng. Nghe lời Phật dạy, chúng ta hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù. Có thế, thì đời sống của chúng ta mới được an vui hạnh phúc vậy.
292. “Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật,
Lậu hoặc ắt tăng trưởng.”
293. “Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ.”Lược giải
292. Việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, những người phóng túng ngạo mạn, thì lậu tập mãi tăng thêm.
The cankers only increase for those who are arrogant and heedless, who leave undone what should be done and do what should not be done.
Kệ tụng
Việc đáng làm không làm
Không đáng làm lại làm
Người kiêu mạn phóng dật
Lậu hoặc ắt tăng trưởng
293. Thường quan sát tự thân, không làm việc không đáng, việc đáng gắng chuyên làm, thì lậu tập[29]dần tiêu tan.
The cankers cease for those mindful and clearly comprehending ones who always earnestly practise mindfulness of the body, who do not resort to what should not be done, and steadfastly pursue what should be done.
Kệ tụng
Người siêng năng cần mẫn
Thường quán niệm tự thân
Không làm việc không đáng
Gắng làm việc đáng làm
Người tu niệm giác tỉnh
Lậu hoặc tất tiêu trừ.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, đức Phật dạy tại hang độngJàtiyà gần Bhaddiya, có liên quan đến các Tỳ kheo Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một thời, đức Thế Tôn đang ở tại động Jàtiyà, gần thành Bhaddiya. Các Tỳ kheo ở đây có thói quen trang trí giày dép của các thầy, như trong Vệ đà diễn tả: “Các Tỳ kheo ở Bhaddiya có thói quen mang những đôi dép sặc sở đủ kiểu”. Họ tự làm hoặc đặt làm những đôi dép bằng vật liệu quý nhẹ, đắt tiền, đúng mốt, hợp thời trang….Như thế họ lơ là với học hỏi, giới luật, thiền định, trí tuệ.
Các Tỳ kheo khác thấy thế rất bực tức, bèn bạch với Phật. Phật quở trách mấy thầy ham chưng diện này:
- Các ông đến đây vì mục đích gì, mà bây giờ đeo đuổi chuyện vô ích như thế”? Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên.
Các thầy Tỳ kheo ưa đẹp này nghe xong, liền chứng A la hán, hội chúng cũng được lợi ích. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 148)
Hai pháp cú trên, Phật răn nhắc chúng ta nên cẩn trọng khi làm việc. Cái gì đáng làm, nên làm, việc gì không đáng làm, thì không nên làm. Người tu cần phải vận dụng trí huệ để tư duy quán chiếu tự thân và hành động. Điều quan trọng mà Phật dạy ở đây là: “người buông lung phóng dật, thì lậu hoặc dần dần tăng trưởng”. Về buông lung ở nơi thân tâm, nhứt là ở nơi tâm ý, thì ở phẩm “Không Buông Lung”, đức phật đã khuyến giáo chúng ta rất kỹ. (Muốn hiểu rõ hơn, xin xem lại phẩm II, “Không Buông Lung” Pháp Cú tập một tr 38 cùng một soạn giả) .
Người tu hành mà sống buông lung phóng túng, không có giới luật kềm chế, thì đó là nếp sống sa đọa. Phật nói kẻ đó sống như thây ma. Nghĩa là sống mà như đã chết rồi. Không phải chết về thân xác mà chết về giới đức tinh thần. Đạo hạnh và nhân cách của người xuất gia không còn. Từ đó, mọi lậu hoặc phiền não phát sanh và tăng trưởng. Chí nguyện của người xuất gia là mong thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau, để chóng mau thành tựu đạo quả. Muốn thế mà chúng ta luôn để cho tâm ý buông lung, thì thử hỏi làm sao thành tựu được sở nguyện?
Chuyện trích dẫn trên, Phật đã quở trách các thầy Tỳ kheo làm những chuyện vô ích. Phí phạm thời giờ thật là luống uổng. Lẽ ra, người xuất gia phải luôn để tâm chuyên cần tu học. Hằng sống trong chánh niệm, chánh quán. Có thế, mới tương hợp với đạo lý giác ngộ và giải thoát.
Ngược lại, các thầy làm những chuyện không đâu, suốt ngày cứ mãi lo trang trí giày dép cho đẹp, không quan tâm gì đến việc tu hành. Như thế, thì làm sao dứt hết lậu hoặc để được giác ngộ giải thoát? Đó là làm những chuyện không đáng làm.
Nhân đây, chúng ta hãy tự quán xét lại mình, có giống như các thầy Tỳ kheo mà bị Phật quở trách hay không? Nếu có, thì mỗi người chúng ta nên tự hối cải sửa lại những sai lầm mà lâu nay chúng ta đã bị vướng mắc. Được vậy, thì mới xứng danh là người xuất gia tu học đúng theo đạo lý giác ngộ giải thoát. Bằng không, thì chúng ta khó mong thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau.
294. “Sau khi giết mẹ cha,
Giết hai Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, phạm chí sống.”
295. “Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà-la-môn,
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu, phạm chí sống.”Lược giải
294. Hãy diệt mẹ[30] (ái dục) và cha[31] (kiêu căng), diệt hai vua dòng Sát đế lợi[32], diệt vương quốc[33] luôn cả quần thần[34], mà hướng về Bà la môn vô ưu[35].
Having slain mother (craving), father (self-conceit), two warrior kings (eternalism and nihilism), and destroyed a country (sense organs and sense objects) together with its treasurer (attachment and lust), ungrieving goes the holy man.
Kệ tụng
Sau khi giết mẹ cha
Giết hại vua Sát lỵ
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, Phạm chí sống
295. Hãy diệt mẹ (ái dục) và cha (kiêu căng), diệt hai vua dòng Bà la môn, diệt luôn hổ tướng “nghi” thứ năm, mà hướng về Bà la môn vô ưu.
Having slain mother, father, two brahmin kings (two extreme views), and a tiger as the fifth (the five mental hindrances), ungrieving goes the holy man.
Kệ tụng
Sau khi giết mẹ cha
Hai vua Bà la môn
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu Phạm chí sống
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một thời, đức Thế Tôn đang ở tại Kỳ Viên, có một số Tỳ kheo đến viếng thăm Ngài. Sau khi đảnh lễ, các thầy kính cẩn lui ngồi một bên. Khi ấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi ngang đấy không xa. Đức Phật biết tâm của các Tỳ kheo đúng lúc, Ngài nhìn Tôn giả và nói với các Tỳ kheo:
- Các ông hãy nhìn kìa! Đó là Tỳ kheo đã giết cha, giết mẹ, thoát khổ đau.
- Đức Thế tôn nói gì thế?
Các Tỳ kheo kêu lên, nhìn nhau, nghi ngờ và hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ngài nói gì?
Phật bèn nói hai pháp cú trên. Nghe xong, các thầy chứng A la hán”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 150)
Chủ yếu của hai pháp cú trên là đức Phật dạy người tu hành muốn được giải thoát là phải diệt trừ vô minh và tham ái. Vì nó là động cơ thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Đồng thời Phật lại dạy tiếp: “diệt hai giòng Bà la môn”, có nghĩa là dứt trừ hai loại tà kiến: “Thường kiến và Đoạn kiến”. Đây là hai chủ thuyết của hai phái ngoại đạo thời Phật. Phái Thường kiến họ chủ trương có một linh hồn bất tử. Ngược lại, phái Đoạn kiến, thì chủ trương đoạn diệt, nghĩa là con người sau khi chết là mất hẳn không có linh hồn tái sanh đời sau.
Nói “diệt Vương quốc”, có nghĩa là chỉ cho dứt trừ thập nhị xứ, tức sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Còn “quần thần” là chỉ cho ngũ dục lạc thế gian. “Hướng về Bà la môn vô ưu” là hướng về quả vị lậu tận A la hán. “Diệt luôn hổ tướng nghi”, có nghĩa là đoạn trừ năm thứ triền cái. Năm triền cái là: “tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối và nghi”. Năm thứ này làm chướng ngại công phu thiền định của hành giả. Chúng cũng thuộc về loại phiền não nguy hiểm, có sức mạnh rất lớn làm cho hành giả rất trở ngại trên bước đường tu tập để đạt thánh quả. Nhứt là đối với phiền não “Nghi”. Đây là thứ tâm lý bất quyết, nghiệp tánh của nó là hay do dự nghi ngờ chân lý, nghiệp dụng của nó là làm cản trở cho việc tin tưởng đạt ngộ chân lý.
Chuyện trích dẫn trên, đọc qua, chúng ta thấy thật đơn giản, nhưng, không phải là việc dễ thật hành. Phật kêu các vị Tỳ kheo chỉ thầy Lakuntaka Bhaddiya đã giết cha và mẹ, thoát khổ đau. Nghe Phật nói thật là lạ lùng, làm cho các thầy Tỳ kheo đâm ra sửng sốt ngạc nhiên nghi ngờ. Tại sao thầy đó lại giết cha và mẹ? Ai cũng biết, đây là phạm tội ngũ nghịch rất nặng. Tội đọa địa ngục A tỳ. Nhưng sau khi nghe Phật dạy rõ hơn ở hai bài kệ, thì tâm trí các thầy bừng sáng, dứt hết nghi ngờ và ngay đó các thầy chứng thánh quả A la hán.
296. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Phật Ðà thường niệm.”
297. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Chánh Pháp thường niệm”
298. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Tăng Già thường niệm.”
299. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng sắc thân thường niệm.”
300. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại.”Lược giải
296. Đệ tử Kiều đáp ma[36], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Phật đà.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Buddha.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Phật Đà.
297. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Đạt ma.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Dhamma.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng chánh pháp.
298. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Tăng già.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Sangha.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Tăng Già.
299. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng sắc thân[37].
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise mindfulness of the body.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng sắc thân
300. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường vui điều bất sát.
Those disciples of Gotama ever awaken happily whose minds by day and night delight in the practice of non-violence.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Ý vui niềm bất hại
301. “Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán.”Lược giải
301. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường ưa tu Thiền quán.
Those disciples of Gotama ever awaken happily whose minds by day and night delight in the practice of meditation.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Ý vui tu thiền quán
Lược giảng
Sáu pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một cậu bé con người bán củi.
Theo truyện tích, tại thành Vương xá, có hai cậu bé một đứa con nhà Phật tử, một đứa con nhà ngoại đạo, chúng thường chơi banh chung với nhau. Vì thói quen, mỗi khi tung banh lên, thì đứa bé Phật tử, thường niệm “Nam mô Phật đà”. Ngược lại, đứa bé ngoại đạo, thì hay niệm “Nam mô A la hán”. Trong trò chơi, đứa bé Phật tử thường thắng cuộc. Đứa bé ngoại đạo thường thua nên tức mình quan sát thấy bạn trẻ này thường thắng ta là nhờ niệm câu Nam mô Phật đà. Vậy ta cũng sẽ làm như vậy. Và em bắt đầu tập thói quen tưởng niệm Phật đà.
Một ngày nọ, sau khi đốn củi ở rừng về, người cha và em dừng lại nơi bãi tha ma ngoài thành, để dùng cơm. Chiều lại, con bò kéo xe của ông theo đàn trâu bò khác vào thành. Người cha chạy bắt bò lại, nhưng khi trở ra trời tối cửa thành đóng lại. Đêm ấy, cậu bé đành phải ngủ một mình dưới chiếc xe.
Trong lúc cậu ta đang ngủ, bỗng có hai con quỷ xuất hiện. Một ác quỷ và một thiện quỷ. Quỷ dữ định ăn thịt cậu bé, quỷ hiền ngăn lại. Nhưng quỷ dữ không nghe liền nắm đôi chân cậu bé định xé đôi. Lúc ấy theo thói quen, cậu bé trong giấc ngủ chợt niệm: “Nam mô Phật”. Quỷ dữ nghe thế kinh sợ thối lui. Quỷ hiền bảo, thế nào chúng ta cũng bị phạt.
Để chuộc lỗi lầm, quỷ hiền canh giữ cậu bé suốt đêm. Trong khi đó, con quỷ dữ lén vào trong cung vua, lấy thức ăn đựng đầy trong một cái dĩa bằng vàng đem ra. Thế là, hai con quỷ săn sóc cậu bé như cha mẹ. Trước khi rời khỏi, chúng nó dùng thần lực viết thư lên dĩa kể lại câu chuyện và căn dặn chỉ có nhà vua mới đọc được thôi.
Hôm sau, trong cung vua phát hiện mất cái dĩa vàng. Mọi người lục lạo tìm kiếm khắp nơi mà không thấy. Cuối cùng, họ thấy chiếc dĩa trên xe cậu bé và bắt cậu bé về cung hạch hỏi. Sau khi xem qua câu chuyện, nhà vua ngạc nhiên hỏi: thế này là sao? Cậu bé cũng không hiểu chuyện gì xảy ra đêm hôm qua. Cha của cậu bé hay tin đến nơi cũng không hiểu chuyện gì. Sau đó, nhà vua dẫn hai cha con lên gặp Phật. Nhà vua bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, có phải niệm tưởng Phật là một sự che chở, hay tưởng niệm Pháp và những điều khác cũng được hộ trì?
Đức Phật trả lời:
- “Này đại vương, niệm tưởng Phật đà không phải chỉ là cách duy nhất có ý nghĩa được bảo hộ, nhưng người Phật tử chân chánh thực hành thâm sâu niệm tưởng trong sáu đề mục thì không cần bất cứ sự bảo hộ nào, câu thần chú nào, hay dược thảo nào cả”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, đức Phật nói những pháp cú trên.
Phân tích pháp cú 296, ta thấy lời Phật dạy có những cụm từ thật quan trọng. Phật bảo chúng ta “phải luôn tự tỉnh giác”, lời dạy này là cốt lõi của sự tu hành. Tỉnh giác đồng nghĩa với chánh niệm. Vấn đề chánh niệm, rải rác ở những pháp cú trước, chúng tôi cũng đã có giải thích sơ qua. Có thể nói, người tu theo đạo Phật mà thiếu chánh niệm hay tỉnh giác, thì không phải là người tu Phật.
Người tu có được an lạc hạnh phúc hay không, cũng đều do có chánh niệm, hay tỉnh giác mà ra. Nếu thất niệm là đau khổ. Vì thất niệm là mất mình. Có chánh niệm là có mặt mình cả thân lẫn tâm ngay trong giây phút hiện tại. Người có chánh niệm là biết rõ ràng những gì đang xảy ra. Vì nghĩa của chữ “Niệm” hay “Tỉnh giác” là “Biết” . Biết là tiếp xúc được thực tại một cách rõ ràng, mà không qua sự đắn đo phân biệt của ý thức. Có ý thức xen vào làm việc, thì sẽ có muôn ngàn khái niệm bị chia chẻ. Từ đó, mọi vật sẽ lăn cuộn tròn theo ý thức phân biệt và như thế là chúng ta đã đánh mất mình.
Vì thế, người tu muốn được giải thoát, thì phải luôn luôn tự tỉnh giác. Muốn có tỉnh giác, thì “không luận ngày đêm”. Chúng ta phải thường xuyên quán chiếu nhìn kỹ lại mình. Còn hạn cuộc thời gian là sự tu hành của chúng ta vẫn còn bị hệ thuộc vào thời khóa ấn định. Người thật tu hành, thì không phải chỉ hạn cuộc vào thời khóa không thôi, mà còn cần phải nỗ lực gắng tu giác quán trong mọi thời gian và nơi chốn. Như thế, thì mới mong được giác ngộ và giải thoát.
Kế tiếp Phật dạy “thường niệm tưởng Phật đà”. Niệm có hai nghĩa: nhớ và biết. Phật đà là người tỉnh thức. Nhớ Phật cũng có hai nghĩa: sâu và cạn. Nghĩa sâu là hằng nhớ lại tánh giác của mình. Nghĩa cạn là nhớ đến Phật bên ngoài. Như người tu Tịnh độ là hằng nhớ tưởng Phật Di Đà. Đó là nhớ qua hình tượng của Ngài. Nhờ luôn luôn nhớ như thế, mà phiền não không có cơ hội dấy khởi. Mà không có phiền não thì tâm ta được lặng lẽ an vui. Đó là nghĩa cạn của chữ “nhớ tưởng”. Còn nghĩa sâu của chữ “Biết”, là chúng ta biết tất cả những gì đang xảy ra chung quanh mình, nhưng biết với một tâm thể sáng suốt thanh tịnh hiện tiền, đó cũng có nghĩa là niệm tưởng Phật đà, theo nghĩa sâu. Người nào thường niệm như thế, không muốn giải thoát cũng được giải thoát. Giải thoát ngay trong đời sống hiện tại chớ không phải đợi đến mai sau. Vì đó là chúng ta đã thực sự trở về sống lại tánh giác của chính mình.
Pháp cú 297, Phật dạy ý nghĩa cũng giống như pháp cú trên, tuy nhiên chỉ có khác là: “thường tưởng niệm Đạt ma”. Đạt ma (Dharmma) là pháp. Chữ Pháp nghĩa của nó rất rộng. Nhưng chữ “Pháp” ở đây Phật muốn nói đến là chỉ cho pháp “Tứ Đế” hay Chánh pháp. Người Phật tử ngoài việc nhớ Phật còn phải hằng để tâm học hỏi Chánh pháp. Chánh pháp là những lời Phật dạy nhằm đưa chúng sanh đạt ngộ chân lý. Nghĩa là vượt thoát mọi khổ đau sanh tử, để thể nhập vào Niết bàn tự tại. Ngoài ra, về lý tánh, pháp cũng có nghĩa là Trí huệ, Từ bi, Bình đẳng, Nhẫn nhục, Vị tha v.v… chúng ta hằng nhớ tưởng quán chiếu sâu vào những pháp tánh này, và luôn phát huy hành động theo chúng, thì đời sống của chúng ta cũng sẽ được an vui giải thoát. Đó cũng có nghĩa là chúng ta đã khéo biết trở về nương tựa với pháp tánh của chính mình vậy.
Pháp Cú 298, Phật nhắc nhở chúng ta phải hằng nhớ đến Tăng già (Sangha). Tăng già có nghĩa là hòa hợp chúng, tức một đoàn thể tu học sống chung trong tinh thần thương kính hòa hợp, thật hành đúng theo ý nghĩa Lục hòa. Nghĩa là chúng ta phải thực sự sống “Hiểu” và “Thương” trong tình huynh đệ. Đó là nói về phần hình thức sự tướng bên ngoài. Còn nói về phần lý tánh bên trong, thì mỗi người chúng ta ai ai cũng đều sẳn có tánh thể thanh tịnh, hòa hợp, tức là ông Thầy gốc của mình. Nếu chúng ta khéo biết trở về nhận diện và hằng sống hòa hợp với đức tánh thanh tịnh này, thì đó mới thực sự là chúng ta tự quy Tăng.
Nói tóm lại, ba pháp cú trên (296, 297, 298) đức Phật nhằm thức nhắc người Phật tử nên tưởng niệm tin sâu vào Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Người Phật tử phải sống hài hòa dung hợp giữa “Sự” và “Lý” Tam bảo. Hằng sống được như thế, thì mới xứng đáng là người đệ tử Phật và mới thực sự có được nếp sống hướng thượng an lạc và giải thoát.
Pháp cú 299, Phật dạy chúng ta phải “thường niệm tưởng sắc thân”. Lời dạy này, Phật nhằm thức nhắc chúng ta phải lưu tâm thường xuyên quán tưởng đến cái thân bất tịnh. Đây là một phép quán với mục đích là để dứt trừ lòng tham dục đắm trước ở nơi thân mình và người. Pháp quán này cũng có cạn và sâu khác nhau. Nhưng tựu trung, cũng không ngoài năm phần quán sát sau đây:
- Quán chủng tử bất tịnh.
- Quán trụ xứ bất tịnh.
- Quán tự tướng bất tịnh.
- Quán tự thể bất tịnh.
- Quán chung cánh bất tịnh.
Nhờ trải qua tuần tự quán sát như thế, thì hành giả mới nhàm chán ở nơi tự thân và từ đó mọi thứ nhu cầu tham dục cho thân, nhứt là tham đắm sắc dục sẽ giảm bớt rất nhiều. Tuy nhiên, Phật dạy quán bất tịnh để thấy được cái thanh tịnh của nó, chớ không phải quán bất tịnh để rồi chúng ta đâm ra nhàm chán, đến độ muốn quyên sinh tự tử. Tâm niệm đó là trái với ý nghĩa Phật dạy. Nên nhớ, mục đích chính của pháp quán này, là để đối trị lại những ai có lòng tham mê sắc dục quá nặng. Nhờ đó mà thân tâm của họ được nhẹ nhàng và sẽ có một đời sống an vui hạnh phúc vậy.
Pháp cú 300, Phật dạy người Phật tử “thường vui điều bất sát”. Lời dạy này, Phật chú trọng đến vấn đề giới luật. Trong năm giới cấm của người Phật tử tại gia, thì giới cấm không sát sanh đứng đầu. Chủ yếu là Phật cấm người Phật tử không được giết hại sanh mạng người. Rồi từ đó hạ thấp dần xuống, giữ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.
Tại sao Phật nói thường vui với điều bất sát? Điều này rất dễ hiểu, khi chúng ta không giết hại sinh vật, tất nhiên, là chúng ta sẽ tránh được những quả báo oán thù vay trả, trả vay hiện đời này và đời sau. Hiện đời, chúng ta đi đâu cũng không lo sợ ai rình rập hại mình. Như thế, là chúng ta mới thực sự có được niềm vui tự do thoải mái. Thứ nữa, là thân ta lại ít bệnh đau, sống lâu, đó cũng là một niềm vui lớn, nhờ chúng ta khéo biết gìn giữ giới bất sát sanh này.
Pháp cú 301, Phật dạy người Phật tử “thường ưa tu thiền quán”. Bởi thiền quán thật hết sức quan trọng đối với người tu theo đạo Phật. Vấn đề này, chúng tôi cũng đã có nói qua nhiều lần ở những pháp cú trước. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được nói ngắn gọn tóm tắt mà thôi. Có thể nói, thiền quán là cánh cửa đi vào ngôi nhà giác ngộ giải thoát. Người tu hành, mà thiếu thiền quán, có khác nào người nấu ăn thiếu muối. Vì vậy, trong đạo Phật rất chú trọng đến thiền quán. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, cũng phải cần đến thiền định. Không có thiền định thì làm sao phát huệ? Thiền định và trí huệ là hai phạm trù bất khả phân ly. Nhờ có thiền định mà tâm ta mới được sáng suốt thanh tịnh. Và như thế, tất nhiên, người Phật tử sẽ được an lạc và giải thoát mọi khổ đau trong hiện tại và mai sau.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học đáng ghi nhớ là thói quen niệm Phật. Cậu bé ngoại đạo, trong lúc chơi banh, vì tự ái thua hoài, nên cậu ta nghĩ rằng, mình bị thua là do vì cậu bé Phật tử thường niệm Phật nên được Phật ủng hộ. Do nghĩ thế, nên cậu ta bắt chước niệm theo. Nhờ thói quen đó, nên trong giấc mơ cậu ta cũng phát ra thành tiếng niệm Phật. Nhờ vậy, mà cậu ta tránh khỏi nạn quỷ dữ định ăn thịt mình. Điều đó, cho thấy, người có thói quen niệm Phật, tất nhiên, sẽ tránh được nhiều họa hại. Không những thế, mà còn có nhiều lợi ích thiết thực trong đời sống.
302. “Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó,
Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ,
Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ.”Lược giải
302. Xuất gia dứt hết ái dục là khó, tại gia theo đường sinh hoạt là khó, không phải bạn mà chung ở là khổ, qua lại trong vòng luân hồi là khổ. Vậy các ngươi đừng qua lại trong vòng sanh tử luân hồi ấy.
Difficult is life as a monk; difficult is it to delight therein. Also difficult and sorrowful is household life. Suffering comes from association with unequals; suffering comes from wandering in samsara. Therefore, be not an aimless wanderer, be not a pursuer of suffering.
Kệ tụng
Vui hạnh xuất gia khó
Tại gia sinh hoạt khó
Sống bạn không đồng khổ
Trôi lăn luân hồi khổ
Vậy chớ sống luân hồi
Chớ chạy theo đau khổ.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Đại Lâm (Mahàvàna) gần thành Tỳ xá ly, có liên quan đến một ông hoàng dòng Bạt Kỳ (Vajjian) đã xuất gia thành Sa môn.
Theo truyện tích, sau khi xuất gia làm Sa môn, thầy Tỳ kheo vương giả này sống ẩn cư trong rừng gần thành Tỳ xá ly. Có một đêm, thầy nghe tiếng trống tiếng nhạc vọng lại từ thành phố, bất giác, thầy buồn than rên rỉ:
Ta cô đơn trong rừng
Như khúc cây bị bỏ
Trong đêm như đêm nay
Có ai bằng ta khổ.
Vì là một hoàng tử dòng Bạt Kỳ xuất gia, nên những tập khí thích vui chơi nghe âm nhạc nhộn nhịp ở ngoài đời, nhứt là trong cung đình, thử hỏi làm sao những tập khí đó không trổi lên sống dậy, khi nghe lại tất cả những âm thanh quen thuộc? Trong khi có rất nhiều hoàng tử và các quan đại thần trang sức lộng lẫy, họ lũ lượt kéo nhau từng đoàn đi dự hội, trong một đêm trăng sáng huyền ảo tuyệt đẹp. Thật là một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt, làm cho thầy Sa môn này đang đi kinh hành ở ngoài hành lang, thật là ngậm ngùi chạnh lòng nghĩ đến tủi cho thân phận cô đơn của mình! Trong khi mọi người vui chơi thỏa thích, thì mình lại sống đơn độc giữa rừng khuya thanh vắng, bốn bề tĩnh mịch. Than ôi! Còn nỗi buồn bất hạnh nào hơn!
Lâm thần thấy vậy, cảm thông cho thầy, vì muốn khuyến khích thầy, nên Lâm thần nói kệ:
Ngài cô đơn trong rừng
Như khúc cây bị bỏ.
Nhiều người ước được thế
Như kẻ đọa địa ngục
Ganh người ở thiên đàng.
Sau khi nghe Lâm thần nói kệ, hôm sau thầy đến đảnh lễ Phật định trình bày, Phật hiểu ý và muốn cho thầy biết đầy đủ về khổ đau của đời sống thế gian. Ngài liền nói bốn thứ khó, khổ trong pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú trên, Phật nêu ra bốn điều khó, khổ, đối với người xuất gia cũng như Phật tử tại gia:
Thứ nhứt, Phật nói: “xuất gia dứt hết ái dục là khó”. Mục đích của người xuất gia là muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Bởi gốc của sanh tử là ái dục. Đốn cội gốc ái dục, thì không còn cây sanh tử. Nhưng muốn đốn tuyệt bứng đi gốc rễ ái dục này, thật không phải là chuyện dễ làm. Vì gốc rễ của nó quá sâu dày. Muốn đốn tuyệt gốc, thì phải cần đến cây búa bén trí huệ. Và phải có một ý chí, tinh tấn phi phàm. Do đó, người xuất gia phải trang bị cho mình một ý chí sắt đá, một tinh thần dũng cảm gan dạ, với sức thiền định và một trí năng vượt bực, có thế, thì mới mong đốn được cội gốc ái dục. Bằng không, thì khó thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau.
Thứ hai, Phật nói: “tại gia theo đường sinh hoạt là khó”. Đường sinh hoạt Phật nói ở đây là sinh hoạt đúng theo Chánh pháp. Đối với người Phật tử tại gia, sống thật hành đúng theo Chánh pháp, thật không phải là chuyện dễ làm. Bởi vì người Phật tử tại gia có quá nhiều việc phải làm, phải giải quyết bao nhiêu công việc theo nhu cầu thiết yếu của đời sống. Do đó, tất nhiên, là họ vấp phải rất nhiều nỗi bức xúc, hệ lụy khổ đau. Tuy nhiên, cũng có một số ít, họ quyết chí vươn lên và xây dựng một đời sống, không những phù hợp với Chánh pháp, mà còn đem lại nhiều điều lợi lạc cho mọi người, mọi loài. Nhưng số người này, phải nói, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi. Còn lại, tất cả đều rất khó thật hành. Bởi thế, Phật mới nói là khó. Thế nhưng, điều gì khó làm, mà mình làm được, thì điều đó mới thực sự là có giá trị vô song.
Thứ ba, Phật nói: “không phải bạn mà chung ở là khổ”. Điều này là một chứng nghiệm rõ nét trong thực tế. Chữ bạn mà Phật nói ở đây, phải là người bạn thân, chớ không phải bạn thường. Chỉ có bạn thân, mới hiểu và cảm thông nhau. Ngược lại, thì rất khó sống chung, vì cả hai không hiểu tánh tình nhau. Vả lại, nếu không phải là bạn, tất nhiên là người xa lạ. Đã xa lạ thì làm sao có thể sống chung nhau. Phật nói “khổ” ở đây, là do hai người khác biệt tánh tình, khác nào như nước với lửa. Đã thế, thì không thể nào hiểu và cảm thông nhau được. Nên sống chung thì chỉ chuốc thêm bực mình khổ lụy mà thôi.
Thứ tư, Phật nói: “qua lại trong vòng luân hồi là khổ”. Điều khổ này, khỏi phải luận bàn nhiều, vì không ai là không biết. Chẳng những biết thôi, mà chúng sanh còn phải chịu đựng không biết bao nhiêu điều cay đắng khổ sở. Nỗi thống khổ của kiếp người điêu linh trôi nổi này, thật không có bút mực nào nói hết. Nội trong kiếp sống hiện đời này, đã quá khổ đau rồi, nói chi đến nhiều kiếp về trước. Nói đến sự khổ đau của con người, trong kinh thường nêu ra có ba khổ và tám khổ. Đó là nói một cách tóm yếu, còn nói rộng ra thì những nỗi thống khổ của chúng sanh thật không có ngằn mé. Nói ba khổ gồm có: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Tám khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội và ngũ ấm xí thạnh khổ. Đó là Phật nói những nỗi thống khổ lớn của con người. Đã mang nghiệp người, thì không một ai thoát khỏi những điều hệ lụy khổ đau đó.
Sau khi nêu ra bốn điều khó, khổ đó, Phật kết luận: “Vậy các ngươi đừng qua lại trong vòng thống khổ ấy”. Lời kết luận này, như là một thông điệp mà đức Phật nhằm nhắn gởi, cảnh giác khuyên bảo mọi người nên ý thức khổ đau mà tránh gây tạo nghiệp ác, để khỏi phải chuốc lấy những khổ đau sống chết qua lại trong vòng lục đạo luân hồi. Mỗi người sanh ra, vốn đã mang kiếp sống nhiều khổ đau hệ lụy lắm rồi! Vậy xin mọi người đừng tiếp tục gây thêm khổ đau cho nhau nữa. Nếu như không có từ tâm thương yêu giúp đỡ cho nhau, thì xin mọi người hãy nghĩ đến chút tình đồng loại, mà trên hết là tình người, đừng gây thêm thù hận để rồi đấu đá chém giết tàn hại lẫn nhau.
Loài người, tuy có khác nhau về màu da chủng tộc, nhưng nhìn kỹ lại, thì ai ai cũng có chung một dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Có khác chăng là khác ở mỗi gốc độ nhìn, do vọng thức biến kế của mỗi người mà ra. Vì mỗi người tâm tưởng khác nhau, nên mới có nhiều quan niệm sống khác nhau. Đó là nói khác nhau trên mặt hiện tượng của vọng thức, nhưng bản thể vẫn là một. Nhìn trên mặt hiện tượng thì có muôn ngàn lượn sóng lớn nhỏ khác nhau, nhưng tất cả có chung một bản thể là nước. Không ai có quyền tách sóng ra khỏi nước, hay ngược lại cũng thế. Như vậy, thử hỏi làm sao nước coi sóng là kẻ thù nghịch hay sóng coi nước là người xa lạ đối nghịch cho được? Chỉ có những ai tâm trí không bình thường mới không nhận ra điều đó.
Hiểu thế, thì mọi người xem nhau như tình huynh đệ, nên yêu thương giúp đỡ cho nhau không hết, có đâu lại thù hận, đấu đá, sát hại, gây ra làm khổ đau cho nhau! Vì sóng đau khổ cũng chính là nước đau khổ. Làm sao chia cắt tách rời giữa nước và sóng thành hai phạm trù dị biệt cho được. Nghĩ thế, thì mọi người chung sống và cùng nhau tiếp tay xây dựng một thế giới hòa bình an lạc. Được vậy, thì còn gì quí giá cho bằng và như thế, thì đời sống của kiếp nhơn sinh ngắn ngủi này mới thực sự là có đầy đủ ý nghĩa cao đẹp.
Câu chuyện lược dẫn trên cho ta thấy một tập khí khá sâu nặng, thật khó trừ khó đoạn. Dù đã từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia làm Sa môn, nhưng những tập khí dục vọng trụy lạc thích vui chơi âm nhạc, vẫn còn tiềm ẩn sâu kín trong tâm thức của vị Sa môn. Từ đó, thầy lại đâm ra chán nản bất mãn cho nếp sống tu hành đơn độc kham khổ. Ý chí xuất gia giải thoát ban đầu của thầy, dường như không còn đủ nghị lực để chiết phục. Thầy đã than thân trách phận, cho đến Lâm thần nghe được cảm thông khuyến khích thầy nên gìn giữ ý nguyện siêu thoát cao đẹp mà mọi người không ai có thể muốn có được.
Điều này chứng minh cho ta thấy, có nhiều vị trọng tuổi bỏ tục xuất gia, nhưng những thứ tập khí khi còn sống ở ngoài đời, vào chùa tu rồi, họ cũng không phải nhứt thời bỏ được. Những thứ tập khí như: tật già hàm nói nhiều, phát ngôn lớn tiếng, đi nhanh lẹ làng vụt chạt thô tháo, ngồi đứng không yên v.v… Nói chung, là họ không có tư cách oai nghi của một người xuất gia. Dù họ đã được các bậc tôn túc khuyên giải rất nhiều, nhưng lâu lâu nhìn lại, họ vẫn còn nguyên vẹn không sửa đổi tiến bộ chút nào. Ngôn hạnh của họ vẫn còn thô tháo. Có người chẳng những không sửa đổi, mà họ còn tăng thêm lòng ngã mạn cống cao. Họ khinh thường những lời thức nhắc của các bậc thầy đức độ. Họ vẫn luôn cố chấp bảo thủ những thói hư tật xấu ngoài đời. Họ không tỏ ra một chút hối cải phục thiện. Đó là nói những thứ tập khí hiện đời mà họ còn khó bỏ thay, nói chi đến những thứ tập khí nhiều đời. Tập khí nhiều đời thì nó còn sâu nặng đến mức độ nào. Người tu hành dù xuất gia hay tại gia chỉ hơn nhau ở chỗ, khéo biết sửa đổi làm mỏng dần những thứ tập khí phiền não sâu dày của mình mà thôi.
Trở lại trường hợp của thầy Tỳ kheo nói trên, khi thầy ra mắt đảnh lễ Phật, Phật thấu hiểu tâm trạng của thầy và để khuyến tấn khích lệ cho thầy tiến tu trên đường đạo để đạt giải thoát, Phật liền nêu bày cảnh giác về những điều khó, khổ ở thế gian. Mục đích là để cho thầy giác ngộ tinh tấn tu hành để chóng thành đạo quả vậy.
303. “Tín tâm, sống giới hạnh
Ðủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính.”Lược giải
303. Chánh tín và giới hạnh, được danh dự và thánh tài[38]; người nào được như thế, đến đâu cũng tôn vinh.
He who is full of faith and virtue, and possesses good repute and wealth – he is respected everywhere, in whatever land he travels.
Kệ tụng
Tín tâm, sống giới hạnh
Đủ danh xưng thánh tài
Chỗ nào người ấy đến
Luôn luôn được kỉnh tôn.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến cư sĩ Tâm (Citta).
Theo truyện tích, “Citta là một nam cư sĩ giàu tâm đạo, chàng luôn được quý trọng mỗi khi đến hầu Phật. Tôn giả A nan thấy thế bèn hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! chỉ khi nào Citta đến viếng Phật mới được trọng vọng như thế? Hay cũng được quý trọng khi đến thăm các người khác?
Phật dạy:
- Này A nan! Ông ấy luôn được quý trọng như vậy, dù cho đến viếng Ta hay viếng ai. Vì cư sĩ ấy đầy niềm tin, tâm đạo và đức hạnh. Người như thế, dù đi đến nơi nào cũng được tôn kính”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 159)
Chánh tín là niềm tin chơn chánh, một niềm tin được điều động chỉ đạo bởi lý trí. Niềm tin rất quan trọng đối với người tu. Nhất là đối với người tu theo pháp môn Tịnh độ, thì niềm tin đứng đầu trong ba món tư lương: “Tín, Hành, Nguyện”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của các thứ công đức”. Tu hành thiếu niềm tin, thì chẳng khác nào như cây thiếu rễ cái. Tất nhiên là thân cây phải khô cằn. Nhờ có niềm tin mạnh mẽ, vững chắc ở nơi Tam bảo, nhân quả, thì hành giả mới có thể tu tiến thoát khổ. Nên nhớ niềm tin phải được đặt định trên nền tảng trí giác, nếu không, thì niềm tin đó sẽ trở thành mê tín, mù quáng.
Khi tin sâu vào pháp lành, nên hành giả mới giữ giới. Bởi công năng của giới luật là ngăn chận các việc ác. Không những ngăn chận không thôi, mà hành giả còn phải gia công tích cực hành thiện, đó là thực hiện làm các hạnh lành. Giới và hạnh là hai phạm trù hỗ tương nhau. Nhưng giới là căn bản. Có thể nói, muôn hạnh lành nhờ giữ giới mà phát sanh. Hạnh là đức độ cảm hóa tha nhân.
Người tu thiếu hạnh, thì không thể khắc phục cảm hóa chính mình, nói chi đến hóa độ kẻ khác. Muốn có giới hạnh, thì người tu cần phải để tâm nghiên cứu học hỏi, nghĩa là học rộng nghe nhiều. Đó là văn huệ. Có nghe nhiều rồi nỗ lực huân tu thật hành những gì đã học. Từ đó, hành giả mới có được tấm lòng bao dung rộng mở hỷ xả. Biết tha thứ mọi lỗi lầm cho tha nhân. Đó là thể hiện ân đức.
Buông bỏ tất cả những tâm niệm chấp trước ở nơi tự ngã, tha nhân, rộng ra là muôn pháp, có thế, thì mới được giải thoát. Đó là hành giả thật hành hạnh “Tứ vô lượng tâm” của Bồ tát. Trong Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả mà hạnh xả là quan trọng hơn hết. Nếu không xả là có vướng mắc, chấp trước. Do xả bỏ mọi thứ nên trí huệ mới phát sanh và mới mau thành tựu đạo quả Bồ đề.
Còn tàm và quý của “Thất thánh tài” nói trên, cũng như là hai người bạn để giúp sức cho hành giả thành tựu ở 5 pháp trên: Tín, Giới, Văn, Xả và Huệ. Người nào trang bị đầy đủ “bảy thứ báu” này, thì người đó đi đến đâu cũng được người ta kính trọng tôn sùng.
Chuyện trích dẫn trên, cho ta thấy, Citta là một cư sĩ có đầy đủ tín tâm tin kính ở nơi Tam bảo. Một người có đạo đức thực sự, thì dù cho đi bất cứ nơi đâu hay ở đâu, họ cũng được mọi người quý kính. Ngược lại, nếu như người đó bản chất đạo đức của họ không có, thì dù cho họ có giả bộ làm ra vẻ đạo đức, hay thậm chí họ ở gần một bậc thầy nào đó có đạo đức cao, thì chưa chắc người đó đã được người ta kính trọng, thán phục. Bởi vì, đạo đức phải được toát ra từ cái tâm thể chân thật. Ở đời, cái gì chân thật thì cái đó bất hư. Còn cái gì giả dối, thì không thể tồn tại. Đó là chân lý muôn đời. Cư sĩ Citta, là người có tâm đạo và đức hạnh, nên Phật nói dù đi đến nơi nào cũng được người ta tôn kính. Thiết nghĩ, đó cũng là bài học sáng giá để chúng ta học hỏi noi gương cư sĩ Citta vậy.
304. “Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen.”Lược giải
304. Làm lành thì danh được vang xa, tỏ rạng như Tuyết sơn; làm ác thì mù mịt như bắn cung ban đêm.
The good shine even from afar, like the Himalaya mountain. But the wicked are unseen, like arrows shot in the night.
Kệ tụng
Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Cullà Subhaddà, con gái ông Cấp Cô Độc.
Theo truyện tích, Giữa ông Cấp Cô Độc và Úc Già là đôi bạn thân nhau lúc còn nhỏ. Vì chơi thân nhau, nên họ hứa hẹn, sau này sẽ kết tình thông gia với nhau. Lớn lên cả hai ông đều trở thành trưởng giả giàu có.
Một hôm. Úc già ghé thăm, cô gái theo lời dặn của cha tiếp đãi khách rất trịnh trọng chu đáo. Buổi tiếp kiến hôm đó, Úc Già tỏ ra rất hài lòng về người con gái ngoan hiền, nết hạnh và xin được cưới cho con trai mình. Việc này, ông Cấp Cô Độc có trình hỏi ý kiến đức Phật, Phật biết rõ nhân duyên của Úc Già sẽ chứng Thánh quả, nên Phật khuyên nhận lời. Thế là, cả hai bên đồng ý định ngày hôn lễ.
Vì là trưỡng giả giàu có nhứt xứ, nên ông Cấp Cô Độc cho con gái mình rất nhiều của hồi môn và khuyên dạy nhiều điều cặn kẽ. Đồng thời, ông cũng gởi gắm con mình cho nhà chồng. Ngày cử hành hôn lễ, bên nhà gái có thiết lễ trai phạn cúng dường Phật và chúng Tăng. Sau đó, là buổi lễ tiển đưa cô dâu lên xe hoa về nhà chồng thật là huy hoàng lộng lẫy. Dân chúng cả thành phố đều hoan hô chúc mừng hết lời ca ngợi vẻ đẹp và công hạnh của cô dâu.
Úc Già là đồ đệ của phái ngoại đạo lỏa thể. Hôm đó, có mặt của các vị đạo sĩ này. Úc già bảo cô dâu ra mắt chào hỏi các đạo sĩ, nhưng cô dâu cự tuyệt, và cho rằng, những vị đó khiếm nhã, thiếu đạo đức, không đáng kính, nên Úc già nổi giận, đuổi nàng ra khỏi nhà. Nhưng cô ta sau khi trình bày mọi việc, các vị bảo hộ bênh vực cô ta không có lỗi. Biết rõ cô là một Phật tử thuần thành trung kiên với đức Phật, bà mẹ chồng mới hỏi cô về đức độ của đức Phật. Nhân đó, cô nói một bài kệ rất dài để ca tụng Phật và chúng Tăng.
Sau khi nghe qua những lời tán thán Phật và chúng Tăng, bà mẹ chồng tỏ ý muốn gặp đức Phật. Cô dâu nhận lời và lên lầu cao đốt hương hướng về Phật với tâm nguyện chí thành tha thiết đảnh lễ cầu thỉnh đức Phật quang lâm đến tư gia. Cùng lúc đó, ông Cấp Cô Độc cũng đến thỉnh Phật, nhưng Phật từ chối, vì đã nhận lời con gái của ông. Ông rất ngạc nhiên hỏi Phật làm sao con gái ông thỉnh được, vì ở xa một trăm hai mươi dặm. Phật nói:
- “Đúng thế, nhưng người lành dù ở xa, vẫn hiện rõ như ở gần”. Nhân đó, Phật nói pháp cú trên.
Khi ấy trời Đế Thích biết rõ mọi việc, nên hóa hiện năm trăm ngôi tháp để đưa Phật và chúng Tăng đến thành của Úc Già.
Khi Phật và chúng Tăng đến, với phong thái oai nghiêm siêu phàm, Úc Già và vợ tỏ ra hết sức kính trọng tung hoa đốt hương cúng dường long trọng. Úc Già thỉnh Phật ở lại bảy hôm, nhân đó Phật thuyết pháp cho Úc Già nghe cùng tám mươi bốn ngàn người đều đắc pháp nhãn. Từ đó, dân chúng trong thành Úc Già trở nên thuần thành giàu tâm đạo. Tất cả đều nhờ ân đức nàng dâu Subhaddà mà ra. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Các bậc hiền thánh từ ngàn xưa, được thành tựu đạo quả, tất cả đều nhờ tu các hạnh lành mà được. Đức Phật mặc dù đã thành Phật, nhưng đối với mọi việc lành dù nhỏ hay lớn, Ngài cũng đều không bỏ qua. Có khi Ngài xỏ kim cho một bà già. Có lúc Ngài thoa sức thuốc cho một con vật đã bị thương tích. Thậm chí Ngài còn đích thân tắm rửa, chăm sóc thuốc men cho một thầy Tỳ kheo bị bệnh kiết lỵ không đi nổi. Có thể nói suốt đời Ngài, từ khi còn là một đông cung thái tử, cho đến khi xuất gia tu hành thành Phật, Ngài không từ nan bất cứ việc lành nào. Dù điều lành đó có khó khăn đến đâu, Ngài cũng vẫn kiên nhẫn bền chí để làm. Làm mà không dính mắc vào việc mình làm. Làm với một tấm lòng chân thật hỷ xả an vui.
Cổ nhân nói: “nên tham làm điều thiện, chớ thích làm điều ác. Thấy điều thiện như người khát nước, nghe điều ác như người tai điếc. Làm thiện là rất vui, đạo lý là rất lớn”.
Ông Mã Viện đời Hán nói: “Cả đời làm thiện, thiện như chẳng đủ. Một ngày làm ác, ác thấy đầy ra”. Vua Chiêu Liệt nhà Hán dặn vua Hậu Chủ rằng: “Dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ làm; dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm”.
Phật nói: “làm lành thì danh được vang xa, tỏ rạng như núi tuyết”. Điển hình như chư Phật, chư Tổ và các bậc hiền nhân quân tử, dù đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng tiếng tăm của các Ngài vẫn còn vang dội mãi trong lòng người muôn thuở. Gương sáng của các Ngài tỏ rạng còn hơn núi tuyết. Phật nói: “làm ác thì tối tăm như bắn cung ban đêm”. Trên đời, có biết bao kẻ làm ác, giết hại biết bao nhiêu sanh mạng, họ coi sinh mạng con người như đồ cỏ rác. Điển hình cho những hạng người này, ở Trung Hoa thì có Tần Thủy Hoàng, ở Đức, thì có Hitler, Việt Nam, thì có hôn quân Lê Long Đỉnh v.v… Tên tuổi của những tên bạo ác này vẫn còn ghi đậm nét lưu danh trong sách sử.
Tên tuổi của họ cũng vang dội, nhưng vang dội để mọi người khinh miệt, mạt sát, nguyền rủa. Kẻ làm ác vì họ có quá nhiều tham vọng, muốn chiếm hữu tất cả về mình. Họ là kẻ hoàn toàn nô lệ cho bản ngã, mất hết lương tâm và lương tri của một con người. Họ hoàn toàn hiện nguyên hình của thú tánh. Phật nói đó là hạng người tối tăm như bắn cung ban đêm. Đã tối tăm, thì làm sao bắn trúng đích? Thế nên những kẻ làm ác, suốt đời họ bị giam hãm trong ngục tù vô minh, không biết ngày nào, họ mới tiếp nhận được ánh sáng trí huệ, để thoát khỏi vòng hệ lụy khổ đau triền miên.
Chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho kẻ làm lành tất sẽ được phước báo. Vợ chồng trưởng giả Úc Già, nhờ cô con dâu chuyển hóa mà cả hai đều hướng về con đường chánh đạo. Điều đáng khen cho cô dâu Subhaddà là nàng vẫn giữ lập trường kiên định, không tùng phục phái ngoại đạo lỏa thể. Một lòng vẫn hướng về Phật. Mặc dù bị ông già chồng gây áp lực làm dữ, nhưng không vì thế mà cô ta khuất phục nghe theo. Không có một thế lực uy quyền nào có thể làm lay chuyển lập trường với tất cả tấm lòng trung thành của cô đối với đức Phật. Cô đã đặt hết niềm tin hướng về đức Phật để thỉnh cầu. Đức Phật đã đáp lại lòng tín thành của cô ta. Chính điều đó đã làm cho ông trưởng giả Cấp Cô Độc rất đổi ngạc nhiên. Ta nên lưu ý lời dạy của Phật: “Người lành dù ở xa, vẫn hiện rõ như ở gần”. Không có mùi hương nào bay xa bằng mùi hương đạo đức. Không có tiếng lành nào vang xa, bằng tiếng lành của con người “Toàn Thiện”. Chỉ có con người Toàn Thiện, mới xứng đáng để mọi người quy kính hướng về mà thôi.
305. “Ai ngồi nằm một mình.
Ðộc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình
Sống thoải mái rừng sâu.”Lược giải
305. Ngồi một mình, nằm một mình, đi một mình không mệt mỏi, một mình tự điều luyện, vui trong chốn rừng sâu.
He who sits alone, sleeps alone and walks alone, who is strenuous and subdues himself alone, will find delight in the solitude of the forest.
Kệ tụng
Người ngồi nằm một mình
Độc hành không buồn chán
Tự điều phục một mình
Vui sống trong rừng vắng.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Độc Cư.
Theo truyện tích, “Tôn giả Độc Cư nổi tiếng trong bốn bộ chúng rằng Ngài là người đi một mình, đứng một mình và ngồi một mình. Các Tỳ kheo đến bạch Phật về Tôn giả:
- Bạch Thế Tôn, Trưởng lão ấy làm như thế, như thế.
Đức Phật khen ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Tỳ kheo ấy có thể sống độc cư
Và khen ngợi đời sống viễn ly, đơn độc”. Ngài liền dạy pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 166)
Thời Phật, phần nhiều các thầy Tỳ kheo thường sống độc cư trong núi rừng để dễ bề thiền quán. Cảnh trí núi rừng vắng vẻ ít có người lui tới. Vì các ngài rất sợ cảnh náo động ồn ào. Cảnh yên, thì hành giả dễ nhìn lại chính mình để gạn lọc phiền não nhiều hơn. Bởi tâm tánh của chúng ta thường phan duyên theo trần cảnh, không lúc nào dừng. Ít khi nào chúng ta phản tỉnh, phản quán. Cảnh và tâm có sự liên quan mật thiết bất khả phân ly. Cảnh động, thì tâm ta bất an. Đó là một lẽ thật, không thể chối cãi.
Khi nào có sống đơn độc một mình, thì mình mới có cơ hội nhìn rõ lại mình hơn. Người tu sống trong thâm sơn cùng cốc, đương nhiên, họ sẽ gặp nhiều chướng ngại khó khăn. Nhứt là những nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn, mặc, ở. Tuy nhiên, đối với những ai có quyết tâm cầu giải thoát, với một ý chí sắt đá gan dạ, thì họ cũng có thể vượt qua những khó khăn này một cách dễ dàng. Từ đó, họ mới có đầy đủ chất liệu đạo đức, với một đạo lực thâm hậu, để khắc phục, cảm hóa mình và người đều được lợi ích an lạc giải thoát.
Đó là nói nếp sống độc cư theo nghĩa thông thường. Nếu luận sâu hơn, thì nếp sống độc cư của một vị khất sĩ cũng không hẳn là phải sống xa lánh hết mọi người. Mà nghĩa độc cư là hành giả phải khéo biết thường xuyên sống an trú trong chánh niệm. Người ấy ý thức được những gì thật sự xảy ra trong giây phút hiện tại. Họ không dính kẹt vào hai đầu quá khứ và tương lai. Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Dù rằng, họ đang sinh hoạt chung đụng với mọi người, nói rõ ra là họ đang sống chung trong tăng chúng, nhưng họ vẫn gìn giữ được chánh niệm trong mọi hoạt động thường nhựt. Người sống được như thế cũng thuộc hạng người mà Phật cho đó là hạng người đang sống một mình.
Luận về những nhu cầu của người xuất gia, dù ở bất cứ thời đại nào, Phật Tổ cũng thường khuyên dạy: “đời sống của người xuất gia, thì phải tam thường (ăn, mặc, ngủ nghỉ) bất túc”. Cái gì cũng phải thiếu thiếu, không nên dư thừa. Người xuất gia thời nay, phải thành thật mà nói, chúng ta có quá nhiều thứ tiện nghi vật chất. Nhứt là những thứ máy móc. Mà vật chất càng sang trọng, thì tâm niệm tu hành cầu giải thoát của chúng ta ban đầu, tất phải càng lui sụt. Nếu không khéo hạn chế kềm thúc, thì sự hưởng thụ của chúng ta sẽ không khác gì người đời. Nghĩa là tâm đắm nhiễm ái trước của chúng ta, sẽ hiện rõ nguyên hình khi chúng ta chưa tu. Đó là một hiện tượng có thật, không thể chối cãi. Hiện tượng này, đã và đang xảy ra một cách nguy kịch trầm trọng. Đối với những bậc chơn tu, nhìn thấy hiện tượng này, các ngài thật quá đau lòng! Đau lòng cho thể đạo nhơn tâm, cho phẩm hạnh đạo đức cao quí của người xuất gia ngày càng suy vi tuột dốc đến mức độ thê thảm!
Đối chiếu với nếp sống tu hành cầu đạo của người xưa, phải nói, nếp sống tu hành thời nay của chúng ta cách quá xa các ngài. Quá xa về mọi phương diện. Về mặt đạo đức nhân cách, chúng ta cũng chưa làm tròn, nói chi đến thứ đạo đức siêu thoát. Thế là, ta rơi vào hố sâu mâu thuẩn nội tại. Một đàng thì cũng muốn giải thoát, nhưng một đàng, thì cũng không dám dứt khoát từ bỏ những thứ tiện nghi vật chất theo dục lạc của thế gian thường tình. Dù viện dẫn biện minh dưới hình thức nào, thì ta cũng không thể nào che mắt được người đời. Mà rõ nét hơn hết là ta không thể che giấu được chính lòng ta.
Trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, có một bài ca nói về nếp sống độc cư này:
Thường độc hành, thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết bàn lộ
Điệu cổ thần thanh phong tự cao
Mạo tụy cốt cang nhân bất cố
Dịch nghĩa:
Tôi chấp nhận cô đơn trên đường đạo
Vui một mình vui theo nhịp bước chân đi
Tôi những mong có pháp lữ chung lòng
Cùng tiến bước vào Niết bàn thường lạc
Không như ý tôi nguyền làm người cổ lỗ
Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh
Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy
Không ân hận, tôi vui với lập trường kiên định ấy.
(Hòa Thượng Thích Từ Thông dịch)
Đó là một ý chí quyết liệt, một lập trường kiên định của một con người hùng tráng dám sống chết một mình trên bước đường hành đạo. Vui đâu chúc đấy, nghe đâu theo đó, bạ gì tin nấy, hạng người như thế, thử hỏi họ sẽ đi đến đâu và làm được gì? Bởi họ không giữ vững lập trường. Tu hành theo kiểu của họ, là “ai đi tôi đi theo”, “ai tu tôi tu theo”, thậm chí ai đó làm bậy họ cũng làm bậy theo. Hạng người như thế, đối với Ngài Huyền Giác, một con người chứng đạo, thì họ thật là đáng tội nghiệp thương xót biết bao! Trên thế gian này, hạng người “ba phải” như thế, thật không phải là ít.
Thà chấp nhận cô đơn trên đường đạo, chớ quyết định không thể có một người bạn mà họ với ta khác nhau trên ý hướng lập trường giải thoát. Dù vậy, ta cũng rất mong có những pháp lữ chung lòng để cùng nhau tiến bước tu học. Nếu không được vậy, thì đường ai nấy đi. Dù con đường đó có gặp khó khăn đến đâu, có làm cho thân ta xương trơ, thịt đét teo gầy, nhưng ta vẫn kiên quyết giữ vững lập trường bền lòng tiến bước một đường quyết không ân hận.
Bài Chứng Đạo Ca trên, Ngài Huyền Giác đã tự nhủ chính mình và cũng muốn gởi đến những ai có cùng một ý hướng, một lập trường kiên quyết sống chết vì đạo như tác giả. Vì muốn giải thoát mọi khổ đau của kiếp người, nên Ngài chấp nhận sống cô đơn, hơn thế nữa là chấp nhận làm người cổ lỗ. Sống một mình sống với gió mát trăng thanh. Nhưng xét trên thực tế, có phải là ta cô đơn không? Không. Làm sao ta cô đơn cho được, vì bên cạnh ta còn có biết bao cảnh tượng chung quanh luôn thức nhắc an ủi ta: trăng trong, gió mát, chim hót, hoa cười, suối chảy, thông reo v.v… tất cả đều là những bạn bè thân thiết của ta. Tất nhiên, là những bạn bè đó sẽ không bao giờ gây cho ta lắm điều phiền toái hệ lụy. Chẳng những thế, mà còn làm cho ta tiến sâu và tiến nhanh trên đường tu hành giác ngộ giải thoát. Chỉ có thiên nhiên mới đích thực là nguồn vui sống của đời ta.
Thiên nhiên cảnh trí rất nên thơ
Nắng ấm trời trong chẳng bụi mờ
Gió mát chim kêu lòng thanh thoát
Nước hồ yên tịnh trí buông tơ
Việc đời gác lại bên đồi núi
Phật đạo tâm gìn lắng đục nhơ
Tây cảnh sen vàng tâm nguyện ước
Di Đà chuyên niệm đạt ước mơ.
(Thích Phước Thái)
Phẩm Ðịa Ngục
306. “Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng,
Làm người, nghiệp hạ liệt.”Lược giải
306. Thường nói lời vọng ngữ, có làm mà nói không; người tạo hai nghiệp
ấy, chết cũng đọa địa ngục.With one denying truth there goes to hell
that one who having done says "I did not".
Both of them are making kammas base
are equal after death.
Kệ tụng
Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm
Cả hai chết đồng đẳng
Làm người, nghiệp hạ liệt
Lược giảng
Phẩm này có tên là phẩm địa ngục. Địa ngục nguyên tiếng Phạn là Naraka, Niraya. Dịch sang tiếng Hán Việt gồm có: “Địa ngục, Bất lạc, Khả yểm, khổ cụ, khổ khí, vô hữu”. Nói chung, đây là nơi thọ khổ của chúng sanh đã gây tạo ác nghiệp như tội ngũ nghịch, thập ác v.v… Tùy theo chúng sanh gây tạo các ác nghiệp nặng nhẹ mà địa ngục có nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, có điều ta nên nhớ là địa ngục có là có đối với những ai đã tạo tội, còn không có là đối với những ai không tạo tội. Như hiện tại chúng ta thấy trên thế giới, quốc gia nào cũng có những nhà tù. Như vậy, nhà tù có ra là để bắt nhốt tra tấn hình phạt đối với những kẻ phạm pháp.
Ngược lại, nếu chúng ta không gây tạo tội như: cướp của, giết người hay làm những việc phi pháp, thì mặc dù nhà tù có đó, nhưng đối với chúng ta thì có cũng như không. Cho nên, nếu chúng ta một bề phủ nhận là không có địa ngục hay khẳng định là có địa ngục, thì e rằng nói như thế cũng không đúng hẳn. Vì có người cả đời từ khi sanh ra cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, họ chưa bao giờ biết tới nhà lao là gì. Thế thì, bảo địa ngục có với họ sao được. Dù địa ngục có nhan nhãn trên thế gian này.
Đối với người tạo tội, bị pháp luật tống giam vào nhà lao, bảo rằng không có địa ngục đối với họ có được không? Như vậy, rõ ràng địa ngục có ra là do tâm ta tạo lấy. Đó là nói cảnh địa ngục bên ngoài. Nếu xét sâu hơn ở nội tâm ta, thì khi nào trong tâm ta bất an, buồn khổ, lo âu, sợ hãi v.v… thì ngay lúc đó là ta đã rơi vào địa ngục rồi. Vì địa ngục là nơi tối tăm đau khổ.
Do đó, muốn không rơi vào địa ngục hiện đời và đời sau, thì ngay khi còn sống, ta nên nghe theo lời Phật Tổ khuyên dạy mà cố gắng hành thiện, tu nhân tích đức, gìn giữ giới cấm đã lãnh thọ, ăn chay, niệm Phật hằng ngày. Được thế, thì đời ta chẳng những được hạnh phúc an vui trong hiện tại, mà mai sau chắc chắn chúng ta cũng sẽ hưởng được quả báo an vui.
Pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một nữ du sĩ ngoại đạo tên Tôn đà lỵ.
Theo truyện tích, thời gian Phật và Tăng chúng ở Kỳ Viên, dân chúng mỗi lúc mỗi kéo đến cúng dường phẩm vật rất đông. Do đó, các phái ngoại đạo họ càng ganh tỵ hơn. Họ cho rằng, kể từ khi đức Phật xuất hiện, thì mọi danh dự, lợi lộc của họ, không còn được mọi người ủng hộ dâng cúng như trước kia. Bấy giờ, họ sanh tâm tìm cách hãm hại Phật. Trong số các hàng tín đồ đệ tử của họ, có một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tên là Tôn đà lỵ.
Sau khi nghe các thầy ngoại đạo bàn tán tìm cách hại Phật, nàng ta liền khởi ý và trình bày mưu kế của nàng. Mỗi ngày nàng trang điểm cực kỳ mỹ lệ, rồi giả bộ đến tinh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Nàng ta đưa ra diệu kế: “hằng đêm, tôi thường ở lại trong tinh xá. Được một thời gian, các thầy hãy thuê người giết tôi và chôn xác tôi ở trong khu vườn của tinh xá. Ba hôm sau, các thầy cho người giả bộ đi tìm xác tôi và đến chỗ chôn cất moi xác tôi lên, rồi để xác tôi trên một chiếc xe ngựa đi khắp thành phố để bêu xấu Sa môn Cồ đàm và các đệ tử của ông ta. Thế là, uy tín danh dự của ông ta sẽ bị tổn thương nặng nề và chắc chắn ông ta sẽ không còn ai kính phục nữa”.
Sau khi nghe nàng ta trình bày diệu kế, các thầy ngoại đạo nghe rất hợp tình hợp lý, liền thực thi theo diệu kế đó. Quả thật, khi moi xác nàng ta từ trong đống rác ra, mọi người ai nấy đều tỏ ra bi lụy buồn tủi khóc than. Xong rồi, họ đem xác của nàng ta đi khắp thành thị, dùng tất cả những lời lẽ nặng nề mạt sát vu khống cho đức Phật và Tăng chúng.
Chuyện xảy ra đến tai đức Phật, đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo cứ hãy sinh hoạt bình thường và cũng đừng tỏ ra khó chịu bực tức chi cả. Vì có một số các thầy chưa chứng quả A la hán, tất nhiên, là còn phiền não nên tỏ ra rất khó chịu bực bội qua những lời vu khống mạ lị đó. Phật nói, chuyện không quá bảy ngày, rồi thì đâu sẽ vào đó. Nghĩa là mọi việc sẽ được phơi bày ra ánh sáng sự thật.
Thật vậy, chuyện đó đến tai nhà vua, tất nhiên, nhà vua không tin Phật và Tăng chúng có hành động như thế. Cho nên nhà vua cho các thám tử theo dõi tông tích âm mưu của các phái ngoại đạo. Các thám tử đã phát hiện ra một đám du đãng đang say sưa và tranh cãi với nhau về việc giết chết Tôn đà lỵ. Thế là, họ bị tóm cổ trọn ổ. Tất cả đều bị hành phạt đúng theo luật pháp về cái tội vu oan và giết người này. Sau đó, thanh danh và uy tín của Phật ngày càng tăng lên gấp bội và được mọi người hết lòng quy kính tu học. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật đã răn dạy và nhấn mạnh về cái tội nói dối, chuyện không nói có, chuyện có nói không. Tội nói dối là một trong bốn trọng tội của giới Tỳ kheo và cũng là tội nặng của giới Bồ tát. Phạm giới này, theo luật Phật dạy, thì không thể sám hối. Tất nhiên, phải đọa địa ngục. Trong ba nghiệp: thân, ngữ, ý, xét kỹ thì nghiệp ác nào của ba nghiệp gây ra cũng đều nặng cả. Hành động hoặc lời nói nào có ác ý cũng đều gây ra cho mình và người đau khổ. Nói rộng ra là cả muôn loài đều đau khổ.
Trong thập ác: “thân ba, miệng bốn, ý ba”, thì ta thấy cái miệng chiếm hết bốn: “vọng ngôn, ỹ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu”. Nói rõ ra, thân và miệng gồm có bảy phần, còn lại ba phần thuộc về ý nghiệp. Thân và miệng thuộc công cụ hay tay sai đắc lực của chú “Ý”. Sự tạo tác hành động hiện tướng gây ra khổ đau cho người và vật, cụ thể là do thân và miệng. Còn chú “Ý” thì chủ động ra lệnh sai sử giống như bộ tổng tham mưu. Cho nên chú Ý này có ba viên tướng làm tay chân bộ hạ tay sai đắc lực, trong việc nhận lệnh và ra lệnh trực tiếp cho thân và miệng phải nghiêm chỉnh tuyệt đối tuân hành. Ba viên tướng cộng tác đắc lực đó là: “Tham, Sân, Si”.
Đối với người không biết tu hành, họ hoàn toàn sống nô lệ cho dục vọng sai khiến, gây ra lắm điều họa hại cho mình và người. Họ không bao giờ biết kềm chế dục vọng. Từ đó, thân và khẩu nghiệp của họ tạo ra rất nhiều tội lỗi. Đó là nói những người không biết tu hành là gì. Còn đối với những người biết tu hành chút ít thì sao? Đối với hạng người này, tuy họ cũng sợ tội lỗi, biết tụng kinh, ăn chay, niệm Phật, đi chùa, tu tạo phước đức, nhưng họ mắc phải cái chứng bệnh khẩu nghiệp rất nặng.
Ghét ai, họ đặt điều dựng chuyện phê bình nói xấu đủ thứ, chuyện không nói có, chuyện có nói không. Họ có tài thêu dệt chuyện ít xích ra cho nhiều. Họ tìm đủ mọi cách để nói xấu. Họ đánh hơi những ai không thích người mà họ ghét, bấy giờ, họ bèn nhập cuộc để kéo thêm những người đó vào phe cánh của họ. Mục đích là để có thêm đồng minh đông người hùa nhau thù ghét kẻ mà họ muốn hại cho chết.
Bề ngoài, trước mặt mọi người, thì họ tỏ ra cho mọi người biết là họ tu hành rất đàng hoàng nghiêm chỉnh đúng đắn. Nhưng ở sau lưng, thì họ lại trề môi nguếch mắt chê bai nói xấu thậm tệ người mà họ đang thù ghét. Tu hành mà có tâm địa ác độc như thế, thì thử hỏi tu hành cái gì? Chỉ là kẻ giả đạo đức bề ngoài để che mắt thiên hạ mà thôi. Tu như thế thì thật là giả dối, gạt người. Đây là hạng người mà cửa địa ngục đang mở rộng để chờ đón họ. Thật là đáng thương xót tội nghiệp lắm thay!
Phật nói, đó là bệnh nặng của chúng sanh. Bệnh này, như là một thứ bệnh dịch thật nặng nề không phương thuốc nào cứu chữa. Đó là bệnh chung của nhơn loại không riêng một ai. Tuy nhiên, bệnh này, đối với phái nam thì tương đối ít hơn. Nặng nhứt, phải nói đó là phái nữ. Phái nữ nói về làm phước, bố thí, đi chùa, tu học…thì họ tỏ ra tinh tấn hơn phái nam nhiều lắm. Nhưng xét về cái tật tánh của cái khẩu nghiệp này, đối với họ thì thật là khó bỏ. Nhưng xin quý vị đừng quên rằng, hễ đã gây nhân bất thiện, thì làm sao tránh khỏi cái quả báo khổ đau đây! Chẳng qua cái quả báo nó sẽ đến với mình có mau chậm mà thôi.
Nghe theo lời Phật dạy trên, mỗi người chúng ta nên cẩn thận gìn giữ ở nơi lời nói. Đừng bao giờ nói xấu phê bình, châm chích, chỉ trích hại ai. Càng nói xấu hoặc vu khống mạ lỵ người ta, trước tiên mình đã chuốc lấy khổ đau cho chính mình rồi. Lòng mình luôn luôn bất an và quả báo chắc chắn là mình sẽ thọ khổ. Bao nhiêu công đức tu hành, bị cái miệng của mình nó thiêu đốt hết. Vậy người biết tu, Phật Tổ khuyên chúng ta nên dùng lời ái ngữ, chánh ngữ khi hành xử giao tiếp với mọi người. Nhứt là khi đối xử trực tiếp với những người thân trong gia đình. Mỗi người nếu khéo biết dùng lời hòa ái, nhã nhặn, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, thì gia đình đó thật là êm ấm hạnh phúc đẹp đẽ biết bao!
Thường trong gia đình hay xảy ra tình trạng cãi vả lớn tiếng tranh chấp hơn thua với nhau, lý do, là vì mỗi người coi thường, không có lòng nhân nhượng tương kính nhau. Bởi do sống chung đụng hằng ngày, mỗi người đều để lộ phơi bày tánh xấu của mình ra, nên không ai còn có lòng quý kính tôn trọng ai nữa. Từ đó, mới xảy ra sự tranh cãi miệt thị khinh thường nhau. Và rồi đưa đến tình trạng sứt mẻ tình cảm thân yêu, trở thành oán ghét căm giận hờn trách nhau.
Nếu mỗi người khéo biết hành xử áp dụng theo lời Phật dạy, nên dùng lời ái ngữ khi phát ra lời nói, và mỗi lời nói phải có chánh niệm hết sức thành thật trong khi xử sự với nhau. Khi người này nói, thì người kia phải thật sự trân kính có mặt để hết lòng lắng nghe, được thế, thì làm gì có chuyện tranh cãi lớn tiếng ăn thua đủ với nhau. Chúng ta nên nhớ rằng, nhường nhịn là đức tánh rất cao đẹp và nó là chất keo tạo nên sự hòa ái thương yêu gắn bó nhau hơn, trong thâm tình thân thuộc đầm ấm trong gia đình. Ngoài nhường trong nhịn, khéo biết tôn trọng lẫn nhau, thì còn gì tốt đẹp cho bằng.
Là Phật tử, chúng ta cương quyết không nói những điều sai sự thật. Cần nói những lời đem lại niềm an vui lợi lạc cho mọi người. Chúng ta quyết định không nói những điều có thể tạo nên sự mâu thuẫn, ly gián, bất hòa trong gia đình và đoàn thể. Hơn ai hết, chúng ta phải ý thức rằng, những lời ác ngữ nó sẽ gây ra làm tổn hại trực tiếp cho mình, gia đình và xã hội của chúng ta rất nhiều. Xin mọi người hãy vì sự lợi lạc cho bản thân, gia đình và tha nhân, mà lưu ý quan tâm cho vấn đề này.
Chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy rõ nhân và quả hiện tiền. Vì lòng ganh tỵ muốn hãm hại đức Phật của phái ngoại đạo, nên họ tìm đủ mọi cách để hạ uy tín thanh danh đức Phật. Họ dùng mưu chước rất độc ác, đến đổi phải hy sinh tánh mạng, để phao vu bêu xấu Đức Phật và Tăng đoàn. Nhưng kết quả, chẳng những không hại được đức Phật mà trái lại họ tự chuốc họa vào thân. Thế mới biết, hại người trở lại hại mình. Thiết nghĩ, qua câu chuyện trên, đủ làm tấm gương soi sáng cho những ai có manh tâm ác ý hại người lương thiện, thì nên thận trọng xét lại tâm địa của mình.
307. “Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Ðịa ngục.”
308. “Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như than hồng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.”Lược giải
307. Không ngăn trừ ác hạnh thì dù mặc áo Ca sa, người ác cũng sẽ vì nghiệp ác, chết phải đọa địa ngục.
Many who wear the yellow robe are unrestrained in evil things, these evil ones by evil deeds, in hell do they arise.
Kệ tụng
Nhiều người khoác cà sa
Ác hạnh không nhiếp phục
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi địa ngục.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến những chúng sanh bị quả báo xấu do ác nghiệp.
“Một ngày nọ, khi xuống núi với Trưởng lão Lakkhana, Tôn giả Mục Liên nhìn thấy những con quỷ hình thù chỉ có bộ xương khô, Ngài bèn mỉm cười. Khi được hỏi, Tôn giả chỉ bảo:
- Này huynh, chớ hỏi điều ấy ở đây. Khi nào đến trước đức Thế Tôn chúng ta sẽ thảo luận.
Và khi về đến tinh xá, trước đức Phật, Trưởng lão Lakkhana hỏi lại chuyện ấy. Tôn giả Mục Kiền Liên trả lời rằng Ngài thấy những con quỷ xương khô. Ngài còn kể tiếp:
- Khi tôi xuống núi, tôi còn thấy một Sa môn bay qua toàn thân bốc cháy.
Và còn thêm vài lần, Tôn giả thấy những con quỷ hình dáng Sa môn với y bát, dây lưng, tất cả đều bốc cháy. Nhân đó, đức Phật dạy các Tỳ kheo rằng: “Những tu sĩ ấy, thời Phật Ca Diếp đã xuất gia nhưng không làm tròn bổn phận của mình”.
Ngài nhấn mạnh đến quả báo ác nghiệp cho các Tỳ kheo đang hiện diện được rõ và nói Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 173)
Người xuất gia đắp y vàng mà tư tưởng bất chánh còn đắm nhiễm trần tục, chưa dứt trừ ác hạnh, không chế ngự điều phục được tâm ý, để tâm ý của mình buông lung phan duyên theo trần cảnh, tạo nhiều nghiệp bất thiện, như thế, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cảnh sa đọa khổ đau! Ca sa là chiếc áo giải thoát, làm ruộng phước của nhơn thiên cúng dường. Người mặc vào chiếc áo này, đã nói lên tâm nguyện là từ bỏ tất cả, không còn triền phược dính mắc với bất cứ thứ gì. Với một ý chí cao thượng sáng ngời, hạnh nguyện vị tha cao cả, độ mình, độ người, thoát khỏi duyên trần hệ lụy khổ đau.
Do đó, hạnh nguyện của người xuất gia là phải đoạn dục khử ái, thấu suốt nguồn tâm, đạt Phật thâm lý, trong tâm không thấy có sở đắc sở chứng, bên ngoài, không thấy có dục cảnh mong cầu. Được thế, thì mới xứng đáng mặc áo ca sa. Bằng ngược lại, thì khó thoát khỏi khổ cảnh ở nơi địa ngục.
Chúng ta hãy chiêm nghiệm thật kỹ qua hình ảnh khổ đau cùng cực của những con quỷ mà chính Ngài Mục Kiền Liên đã mục kích kể lại. Phật nói, người xuất gia mà không làm tròn bổn phận của mình, nên phải chịu quả báo thảm thương như thế. Thế mới biết, giải thoát hay địa ngục, tất cả đều tùy tâm ta tạo lấy mà thôi.
308. Phá giới chẳng tu hành, thì thà nuốt hoàn sắt nóng hừng hực lửa đốt thân còn hơn thọ lãnh của tín thí
Better to eat a ball of iron glowing as flame of fire than one should eat country's almsimmoral and unrestrained.
Kệ tụng
Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như lửa hừng
Hơn ác giới buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Đại Lâm (Mahàvana) gần thành Tỳ xá ly, có liên quan đến các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya.
“Các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya thường khen ngợi lẫn nhau rằng người này chứng quả, người kia chứng quả khi có mặt cư sĩ, để họ dâng cúng thức ăn ngon. Đức Phật biết chuyện, bèn hỏi các thầy:
- Này các ông! Có phải thật là chỉ vì cái bao tử mà các ông ca tụng lẫn nhau trước mặt cư sĩ để họ dâng cúng thức ăn ngon?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Phật bèn quở trách các thầy, và nói Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 175)
Thật là xấu hổ, chỉ vì lợi dưỡng mà quên đi bổn phận phẩm hạnh nhơn cách của mình. Một người xuất gia tu hành không chơn chánh, thì không xứng đáng thọ dụng của cúng dường.
“Xưa kia, có ông trưởng giả tên Tịnh đức sanh được hai người con trai, người cả tên La Hầu La Điểm, người thứ tên La Hầu La Đa. Ông hằng ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ, một cây trong vườn nảy thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành. Song chỉ ông và người con thứ hằng ngày đều nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ được. Ông bảo con thứ: Nấm cây này chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi thường. Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc này. La Hầu La Đa nói kệ:
Thử mộc sanh kỳ nhĩ
Ngã thực bất khô khao
Trí giả giải thử nhơn
Ngã hồi hướng Phật đạo.
Dịch:
Cây này sanh nấm lạ
Con ăn rất ngon lành
Người trí giải nhơn này,
Con xin theo Phật đạo.
Chợt gặp Bồ tát Đề Bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc này ra hỏi. Ngài dạy:
Khi xưa, lúc ông hai mươi tuổi thường mời một vị Tỳ kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ kheo ấy tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm không thấu lý, luống nhận sự cúng dường của ông. Song vị Tỳ kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sanh nấm này để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ kheo ấy đến nhà ông, trong nhà chỉ có ông và người con thứ này thành kính cúng dường, còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế, nên nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng.
Ngài lại bảo:
- Ông nay được bao nhiêu tuổi?
Trưởng giả thưa:
- Tôi được 79 tuổi.
Ngài nói kệ:
Nhập đạo bất thông lý
Phục thân hoàn tín thí
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử mộc diệc vô nhĩ
Dịch:
Vào đạo không thông lý
Hoàn thân đền tín thí
Trưởng giả tuổi tám mốt
Cây này không sanh nấm”
(Trích một đoạn nguyên văn trong quyển Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa từ trang 81- 83 do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn)
Phật bảo: “thà nuốt hòn sắt nóng, hừng hực lửa đốt thân, còn hơn thọ lãnh của tín thí mà phá giới chẳng tu hành”. Vì nuốt hòn sắt nóng, chỉ chết một đời này, còn nếu thọ dụng của cúng dường mà tu hành không ra chi, và không làm gì lợi ích cho ai, thì phải chịu thọ khổ trả nợ không biết bao nhiêu kiếp. Trường hợp như câu chuyện của hai cha con ông trưởng giả đã dẫn chứng trên. Qua đó, cho ta thấy sự tu hành chỉ vì lợi dưỡng, mà không quyết chí nỗ lực công phu diệt trừ phiền não để được giải thoát, thì than ôi! thật khó tránh khỏi chuốc lấy hậu quả lắm tang thương khổ đau cùng cực. Nên soi gương xưa để tự cảnh tỉnh mình.
309. “Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Ðọa địa ngục, thứ bốn.”
310 “Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người.”Lược giải
309. Buông lung theo tà dục, sẽ chịu bốn việc bất an: mắc tội, ngủ không yên, bị chê, đọa địa ngục.Four things befall that heedless one sleeping with one who's wed:demerit gained but not good sleep, third is blame while fourth is hell.
Kệ tụng
Bốn nạn chờ đợi người
Phóng dật theo vợ người
Mắc họa ngủ không yên
Bị chê là thứ ba
Đọa địa ngục, thứ bốn.
310. Vô phước, đọa ác thú, bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội: đó là kết quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến.
Demerit's gained and evil birth, scared man and women-brief their joy, the king decrees a heavy doom: so none should sleep with one who's wed.
Kệ tụng
Mắc họa, đọa ác thú
Bị hoảng sợ, ít vui
Quốc vương phạt trọng hình
Vậy chớ theo vợ người.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Khema, con trai trưởng giả, cháu Cấp Cô Độc.
“Khema là chàng trai tuấn tú khôi ngô. Các bà các cô khi gặp mặt chàng đều yêu mến mê mệt. Khema thì lại đeo đuổi vợ người. Một đêm nọ, người của nhà vua bắt chàng ta, giải đến trước mặt vua. Nhà vua cảm thấy ái ngại thay cho danh tiếng của Trưởng giả nên không nói gì, thả chàng ra. Khema vẫn cứ chứng nào tật nấy.
Lần thứ hai, lần thứ ba, chàng vẫn bị bắt và nhà vua cũng trả tự do cho. Chuyện đến tai Trưởng giả, ông đem con đến gặp đức Thế Tôn, trình bày câu chuyện và bạch:
- Xin đức Thế Tôn giảng dạy cho nó.
Đức Phật khơi dậy lương tri của Khema và chỉ cho chàng thấy lỗi lầm khi theo đuổi vợ người bằng hai Pháp cú nói trên”.
Đồng thời, Đức Phật lại kể tiếp chuyện quá khứ qua lời nguyền của Khema. (Lời của soạn giả)
Phật nói, “thời đức Phật Ca Diếp, Khema là một tay đô vật quán quân, ngày kia chàng treo hai cây cờ giải thưởng của mình bên ngôi tháp vàng của đức Phật, và nguyện: “Xin cho tất cả mọi phụ nữ, trừ các nữ nhân thân quyến và bà con ruột thịt của tôi, khi nhìn thấy tôi đều say mê”. Vì thế, dù tái sanh ở đâu, chàng cũng được các bà yêu mến”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 176)
Pháp cú 309, Phật nêu ra bốn cảnh khổ bất an: “Mắc tội, ngủ không yên, bị chê, đọa địa ngục”. Đây là hậu quả của một con người sống buông lung theo tà dục. Ái dục là cội gốc của khổ đau. Muốn tránh mọi khổ đau để xây dựng hạnh phúc cho chính bản thân mình, thì trước hết, chúng ta cần phải đoạn trừ ái dục. Người nào còn ôm ấp lòng ái dục nặng, thì người đó chắc chắn sẽ không bao giờ sống có hạnh phúc. Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay”. Thật vậy, người có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, sớm muộn gì cũng phải lãnh lấy quả báo khổ đau.
Thực trạng này, ta thấy đã và đang xảy ra nhan nhãn hằng ngày trong xã hội. Có lắm người đã có gia đình mà vì tâm bất chánh, ham mê sắc dục, không kềm chế được dục tính, nên lang chạ ngoại tình, làm cho gia đình phải tan nát đổ vỡ. Thảm kịch này đã xảy ra rất nhiều. Một ông chồng bắt được quả tang vợ mình đang ngoại tình âu yếm ngủ chung với một người đàn ông. Nhưng oái oăm thay! người đàn ông đó lại là người bạn chí thân của ông ta. Song, vì quá ghen tuông không còn kềm chế được lửa lòng sân hận đang bốc cháy trào dâng lên đến cực độ, nên ông ta đã ra tay hạ sát người tình địch của mình bằng một nhát dao căm hận ngang qua cổ.
Thế là máu đổ đầu rơi, lìa đời của một kẻ đã quá si tình phản bạn. Một tình cảnh xảy ra trong nháy mắt giữa đêm khuya thanh vắng, đã giết chết một mạng người. Khi chứng kiến hiện trường, mọi người đều thương tiếc cho một con người quá háo sắc. Họ vừa thương tiếc cho cái chết thật quá thảm thương, nhưng họ cũng vừa nguyền rủa cho kẻ đáng đời ham mê của lạ. Đó là hậu quả phải trả một cái giá rất đắt bằng cả sinh mạng. Chỉ vì mê say sắc dục mà quên cả mạng sống của mình. Một người thì bỏ mạng tại chỗ, còn một người thì bị công an còng tay lủi thủi ôm hận vào tù, vì phạm phải cái tội cố sát. Cổ nhân có lời khuyên bảo: “kẻ nào thích đi đêm sẽ có ngày gặp ma hay thích chơi dao ắt có ngày phải bị đứt tay!”
Có người vì muốn thỏa mãn dục tính nên vào lầu xanh mua vui trong giây lát, kết quả, họ phải mang bệnh tật ôm hận khổ sở suốt cả cuộc đời. Họ đã tự làm khổ mình và khổ cả gia đình. Có nhiều người bệnh nặng hết phương cứu chữa nên phải sớm đi chầu Diêm Chúa. Ôi! Còn nỗi đau đớn nào hơn! Vì bụng đã làm thì dạ phải chịu chớ biết trách ai đây!
Nói chung, những ai sống buông lung theo tình dục, hành động phi pháp, nhằm thỏa mãn cho sự đòi hỏi của xác thịt, tất nhiên, kẻ đó phải mắc tội báo rất nặng và dĩ nhiên, tâm trí của họ luôn luôn bất an ngủ không yên giấc, bị người đời khinh chê và cuối cùng phải đọa vào địa ngục thọ khổ. Không những sau khi chết mới bị đọa vào địa ngục, mà ngay khi còn sống, họ cũng đã rơi vào địa ngục rồi, vì địa ngục là nơi tối tăm hành phạt khổ sở.
Khi đã phạm phải lỗi lầm về những hành động bất chánh tà hạnh, dâm ô, hãm hiếp… thì thử hỏi làm sao người đó sống có hạnh phúc cho được? Dù thân xác của họ còn đó, nhưng tâm hồn của họ thì đã tan nát chết từ lâu rồi! Thế thì, có kéo dài thêm cuộc sống cũng chỉ kéo lê cuộc đời đi trong bóng tối tội lỗi mà thôi! Ngoại trừ, người đó biết hồi tâm cải hối nguyện ăn năn chừa bỏ những lỗi lầm xưa.
Pháp cú 310, Phật cho chúng ta thấy những khổ báo: “Vô phước, đọa ác thú, bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội”. Tất cả đều do kết quả của hành động tà dâm mà ra. Dâm loàn trái phép, tất nhiên đó không phải là hành động của con người có lương tâm đạo đức. Con người còn có chút nhơn tính, tình người, thì không ai lại nhẫn tâm gây ra làm đau khổ cho kẻ khác. Vì nô lệ cho dục tính phá hại trinh tiết hay làm mất hạnh phúc gia cang của người khác, thì Phật nói đó là đọa vào ác thú. Nghĩa là, tuy đội lốt con người, mà hành động lại còn thua thú tính. Là con người không ai lại không muốn bảo vệ hạnh phúc cho mình và gia đình mình. Muốn thế, thì chúng ta cần phải tôn trọng nhân phẩm, gia cang của mình và người.
Có biết bao trẻ em đã là nạn nhân trực tiếp của những kẻ xấu ác nhẫn tâm cưỡng bức hiếp dâm các em làm cho các em phải bị đau khổ quá nhiều. Cuộc đời trong trắng của các em kể từ đó luôn bị ám ảnh một hình ảnh tổn thương trầm trọng. Đây là một hình ảnh cưỡng bức khủng bố, mà suốt cả cuộc đời nó hằng in sâu vào tâm thức của các em thật không bao giờ quên được. Những kẻ tán tận lương tâm, mang đầy thú tính này, kết quả, họ sẽ bị đưa ra tòa xét xử. Và rồi sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng, nặng nề. Đó là Phật nói: “Quốc vương kết trọng tội”. Do vì vô minh vọng động che mờ lý trí, nên người ta mới có những hành động đê hèn xấu xa như thế.
Nói tóm lại, làm người, không ai tránh khỏi lỗi lầm. Khi biết đó là sai trái, thì chúng ta kíp mau ăn năn hối cải. Sám hối, cải ác tùng thiện, đó là cửa ngỏ mở ra để chúng ta mạnh dạn vươn lên quyết tâm bước vào ngôi nhà thánh thiện và nguyện xin làm mới lại cuộc đời. Có thế, thì mới mong thoát khỏi cảnh ngục tù đau khổ hiện tại và mai sau.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho thấy, Khema luôn đeo đuổi vợ người, thậm chí bị người ta bắt đôi ba lần, dẫn giải lên vua, được vua ân xá tha cho, nhưng chàng ta tánh nào tật nấy, cuối cùng, hai cha con cùng nhau đến hội kiến đức phật. Đức Phật chỉ bày cho Khema biết đó là những điều lỗi lầm sái quấy, làm mất hạnh phúc gia đình người khác. Đồng thời, nhân đó, đức Phật kể chuyện tiền kiếp của Khema, với một lời nguyền xưa mà hôm nay phải chịu quả báo như thế.
311. “Như cỏ sa (1) vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục.”
312. “Sống phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống Phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn?
313. “Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chỉ tăng loạn bụi đời.”Lược giải
311. Cũng như vụng nắm cỏ cô sa (kusa = cỏ thơm) thì bị đứt tay, làm Sa môn mà theo tà hạnh thì bị đọa địa ngục.
As blady grass when wrongly grasped the hand does lacerate so a mishandled monastic life drags one off to hell.
Kệ tụng
Như cỏ sa vụng nắm
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy
Tất bị đọa địa ngục
312. Những người giải đãi, nhiễm ô và hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm sao chứng thành quả lớn.
Whatever of kammas slack, whatever of vows corrupt, a faltering in the holy life never brings ample fruit.
Kệ tụng
Sống phóng đãng buông lung
Theo giới cấm ô nhiễm
Sống phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn.
313. Việc đáng làm phải làm cho hết sức, phóng đãng và rong chơi chỉ tăng thêm trần dục mà thôi.
If there's aught that should be done let it be done then steadily, in truth a slack monastic life all the more stirs up the dust.
Kệ tụng
Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia, sống phóng đãng
Chỉ tăng loạn bụi đời
Lược giảng
Ba pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo tự phụ.
“Chuyện kể rằng, có một vị Tỳ kheo lỡ tay làm đứt một cọng cỏ. Lương tâm thấy áy náy bèn tìm đến một huynh đệ, thuật lại câu chuyện và hỏi:
- Thưa huynh, Tỳ kheo làm đứt cỏ, có sao không?
Thầy kia trả lời:
- Đừng quan trọng khi cho rằng làm đứt cỏ cây sẽ bị hậu quả. Chỉ cần xưng tội ra là được khỏi tội thôi.
Nói xong, thầy nhổ luôn một bụi cỏ, vứt đi. Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật quở trách thầy Tỳ kheo tự phụ nặng nề, và nói ba Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 178)
Pháp cú 311, Phật dùng nắm cỏ cô sa, tức loại cỏ thơm, để so sánh với người xuất gia đeo đuổi theo tà hạnh mà phải bị đọa vào địa ngục. Cỏ thơm là biểu trưng cho những thứ vật chất dục lạc ở đời. Người tu hành, khi chưa chế ngự được lòng tham dục, tất nhiên, vẫn còn nhiều khát vọng ham muốn.
Mặc dù đã xuất gia, nhưng sự vận dụng công phu tu hành của chúng ta vẫn còn quá non kém, tâm thức của chúng ta chưa được thuần thục, nên con khỉ ý thức vẫn còn nhiều phóng dật, nó luôn thích đam mê dong ruổi theo trần cảnh để hưởng thụ. Vì vụng dại nên ham thích cỏ thơm ngũ dục, thấy cỏ thơm thì lòng muốn chiếm hữu cho kỳ được, nhưng chúng ta quên rằng trong cỏ thơm, nó có ngầm chứa chất độc trong đó. Khi nắm vào thì chắc chắn không sao tránh khỏi nạn độc hại sưng tay.
Trên đời này, thử hỏi có đóa hoa hồng nào mà lại không có gai? Dù biết có gai, nhưng người ta vẫn hái, vẫn bẻ và vẫn đùa vui với hoa hồng. Có khi bị gai đâm trầy da chảy máu, nhưng người ta vẫn chưa chịu thức tỉnh. Phật nói đó là tâm trạng của những kẻ quá si mê. Đã thế, thì không sao tránh khỏi sa đọa chuốc lấy khổ đau.
Tà hạnh là những việc làm bất chánh, không phù hợp với chân lý. Sống theo tà hạnh đó là con đường dẫn đến khổ đau. Người xuất gia là phải hằng sống đúng theo chánh hạnh. Chánh hạnh là con đường dẫn đến Niết bàn an lạc.
Pháp cú 312, Phật nêu ra ba vấn đề quan yếu làm chướng ngại trên bước đường tu tập tiến đến giải thoát của chúng ta. Ba điều quan yếu chướng ngại này, là người thật tu hành, chúng ta cần phải khắc chế chiết phục vượt qua.
Thứ nhứt là giải đãi. Giải đãi là lười biếng, là sống bê tha trục vật. Người tu hành mà mang chứng bệnh lười biếng này, thì thật khó mà tiến đạo nghiêm thân. Muốn giải thoát khổ đau, mà tối ngày chỉ biết rong chơi, tán hươu tán vượn, bàn luận những chuyện phù phiếm ở thế gian, như thế, thì thử hỏi làm sao chúng ta giải thoát khổ đau cho được? Lười biếng là kẻ thù bất cộng đái thiên của tinh tấn. Do lười biếng nên chúng ta dễ buông lung phóng dật. Sống không có giây cương giới luật kềm thúc. Đó là nếp sống trụy lạc sa đọa, mà Phật nói sẽ rơi vào địa ngục như tên bắn.
Thứ hai là ô nhiễm. Do vì sống buông lung thả trôi theo dòng đời, nên từ đó sanh ra bao nhiêu thứ nhiễm ô. Cả đời cam tâm làm nô lệ cho dục vọng vô minh sai sử, tạo nhiều nghiệp ác. Ngoài thì đắm nhiễm lục trần, trong tâm thì bị những thứ phiền não cấu uế khuấy động che mờ tánh giác. Đó là cái tệ nạn của người tu thiếu sự thực tập thiền quán, chánh niệm.
Thứ ba là hoài nghi. Hoài nghi là một chướng đạo rất lớn trên bước đường tu hành. Người hay ôm lòng hoài nghi, thì không làm được việc gì có lợi ích cho mình và người cả. Cho nên Phật nói hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm sao chứng thánh quả lớn.
Pháp cú 313, Phật khuyến tấn chúng ta khi đã tu hành thì phải cố gắng gia công tinh cần làm cho hết sức mình. Người tu hành thời xưa, các ngài tiếc từng tấc bóng, dồn hết nỗ lực vào việc công phu tu tập thiền quán. Khi chưa sáng đạo, thì các ngài phải luôn quyết tâm tu hành cho sáng đạo. Khi đã sáng đạo rồi, thì các ngài cũng không dám lơ là chểnh mãng khinh thường. Các ngài hằng quán chiếu, tỉnh thức trong từng phút giây, sống nhậm vận tùy duyên hài hòa cùng vạn vật vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Các ngài luôn bảo nhậm: “đối cảnh vô tâm, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò”. Nếu chưa được “Sáng Đạo” như các ngài, thì chúng ta nên cẩn thận đừng vội bắt chước: “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò”, mà phải bị sa đọa thọ khổ suốt đời.
Người xưa, vì mục đích giải quyết sanh tử, nên các ngài quyết chí tu học cho mau tỏ ngộ và chóng thoát khỏi con đường sanh tử khổ đau. Gương Phật Tổ và các bậc cổ đức tu hành như thế. Đó là những tấm gương sáng chói để chúng ta bắt chước học hỏi noi theo. Phải thành thật mà nói, sự tu hành của chúng ta ngày nay, so với các Ngài thì ôi thôi! thật là ngàn trùng xa cách.
Tổ Quy Sơn than rằng: “Nẳng kiếp tuần trần, vị thường phản tỉnh, thời quang yểm một tuế ngoạt sa đà…”Nghĩa là Ngài nói, nhiều kiếp rồi chúng ta mãi mê chạy theo trần tục, chưa từng có phút giây phản tỉnh. Nếu chúng ta biết phản tỉnh, thì chắc chắn không phải nổi trôi lang thang trong sáu nẻo luân hồi từ vô lượng kiếp. Thời giờ thì nó trôi qua vùn vụt, mà chúng ta thì không một chút luyến tiếc. Chúng ta không biết lợi dụng thời gian để gia công nỗ lực tu hành.
Chuyện trích dẫn trên, Phật quở trách thầy Tỳ kheo thật nặng nề vì tánh tự phụ. Việc nhổ cỏ vứt đi, đó là hành động thiếu lòng từ bi. Dù rằng, đó là vật vô tình, nhưng nó vẫn có mạng sống. Vô cớ làm tổn hại mạng sống của nó, đối với người xuất gia, thì Phật cho đó là một hành động không có từ tâm. Đối với loài vô tình mà Phật còn bảo trọng như thế, nói chi đến loài hữu tình, Phật còn quý trọng đến mức độ nào. Sự quở trách của Phật đối với hành động của vị Tỳ kheo đó, không phải chỉ vì vứt đi cọng cỏ, mà chủ ý của Phật là muốn dạy cho thầy ta một bài học về tình thương và dẹp đi tánh kiêu căng tự phụ. Người xuất gia không nên có tánh kiêu căng tự phụ này.
314. “Ác hạnh không nên làm,
Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn.”Lược giải
314. Không tạo ác nghiệp là hơn, vì làm ác nhất định thọ khổ; làm các thiện nghiệp là hơn, vì làm lành nhất định thọ vui.
Better an evil deed not done for misdeed later on torments. Better done is deed that's good, which done, does not torment.
Kệ tụng
Ác hạnh không nên làm
Làm xong, chịu khổ lụy
Thiện hạnh, ắt nên làm
Làm xong, không ăn năn
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một bà vợ ghen.
Theo truyện tích, “một ông chồng dan díu với một nữ tỳ giúp việc nhà. Vợ ông biết được, bèn trói người nữ tỳ, cắt tai, cắt mũi, nhốt vào phòng kín đóng cửa lại. Để che giấu tội ác, bà rủ chồng đi nghe pháp. Hai vợ chồng đến tinh xá, ngồi vào hội chúng. Khi ấy có vài người bà con bên vợ đến nhà thăm. Họ mở cửa, chứng kiến cảnh tàn nhẫn trong nhà, bèn mở trói cho cô tớ gái. Cô này đến tinh xá, tố cáo mọi việc với Phật và tăng chúng. Nghe xong Phật dạy:
- Không nên làm việc ác dù nhỏ, nghĩ rằng chẳng ai biết. Với việc lành, dù không người biết vẫn nên làm. Hành động ác dù che giấu vẫn ân hận về sau. Còn hành động tốt sẽ khiến ta an vui”. Nhân đó, Phật nói pháp cú trên.
“Cuối bài pháp, hai vợ chồng chứng quả Dự lưu. Họ trả tự do cho cô tớ gái và hướng dẫn cô theo chánh pháp”.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 179)
Sách Nho có câu: “Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa”. Nghĩa là: Người làm điều thiện, thì trời sẽ ban lại phúc cho; kẻ làm điều bất thiện, thì trời sẽ bắt nhận lấy tai họa. Chữ trời nói ở đây, không phải là có một vị trời (như vị thần nhân cách) có quyền hành tác oai tác quái, ban phúc giáng họa cho thế nhân. Mà chữ trời theo Nho Giáo, là luật tắc thiên nhiên, giống như lý thuyết nhân quả của đạo Phật. Người nào làm điều lành, giàu lòng nhân ái từ tâm, hay thương xót cứu giúp tha nhân, thì chắc chắn người đó sẽ được phước báo rất lớn. Ngược lại, kẻ nào làm điều ác hại người hại vật, gây cho mọi loài đau khổ vì mình, thì chắc chắn kẻ đó phải lãnh lấy quả báo rất là đau khổ. Đó là theo luật nhân quả tất yếu phải như vậy. Tuy nhiên, khi thọ báo tốt hoặc xấu, mau hay chậm, điều đó còn phải tùy thuộc vào thời gian. Song có điều nhân đã gây thì quả phải trả.
Sách Nho cũng nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, thời thần vị đáo” … Hoặc câu: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi diễn tẩu dã nan tàng. Hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhân do cánh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”. Nghĩa là: người làm điều lành, ắt sẽ được báo lành, người làm điều ác, tất phải có báo ác. Làm lành hay làm ác, cuối cùng cũng phải trả. Không thể nào cao bay xa chạy mà có thể tránh khỏi được cái nhân lành hay cái nhân ác đã gây, khó mà che giấu được lắm. Việc làm gian dối hay ngay thật, thì tự mình mình biết rất rõ, không cần phải hỏi ai. Vì đó là luật nhân quả rất công bằng.
Pháp cú trên, cũng như nhiều pháp cú khác, đức Phật luôn khuyến nhắc mọi người nên cố tránh đừng bao giờ gây tạo nghiệp ác. Vì hễ đã gây tạo nghiệp ác, thì khó tránh khỏi quả báo ác. Điều này, không cần phải chứng minh, vì nó đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện thương tâm hằng ngày, bởi do một phút sai lầm mà người ta gây ra lắm điều họa hại. Cuối cùng, thì họ phải lãnh lấy quả báo chịu nhiều hình phạt khổ sở.
Trái với hình ảnh khổ đau nói trên, người siêng năng làm lành thương người cứu vật, tất nhiên, họ sẽ hưởng được nhiều phước báo ân huệ an vui. Lòng họ bao giờ cũng trải rộng tình thương đem lại sự lợi lạc đến cho mọi người. Người vui là mình vui. Đó là hạnh phúc tuyệt vời làm thăng hoa tươi đẹp trong đời sống của bạn. Phật nói người làm thiện nghiệp nhất định là thọ vui. Điều này là một chứng thực.
Ngày nào mà bạn làm được nhiều điều phúc thiện, như hiến tặng cho người nào đó bằng một nụ cười thoải mái vui tươi, hoặc giúp đỡ cho ai một vài việc thiện nhỏ nhặt nào đó, hay ôm bế vuốt ve vỗ về một con vật vào lòng mà bạn thường yêu thương trìu mến nó, thì ngày đó hẳn bạn cảm thấy tâm hồn của bạn thật tươi mát hạnh phúc vô cùng. Ngược lại, nếu bạn nhẫn tâm làm khổ ai đó, họ cảm thấy chạm tự ái bức xúc khó chịu, thế là lòng bạn cảm thấy bất an, mang nặng ưu tư buồn thảm thật ray rứt khó chịu. Thế là, bạn đang rơi vào cảnh giới tối tăm của địa ngục rồi đó. Như vậy, muốn cho đời bạn có nhiều niềm vui hạnh phúc, theo lời Phật dạy trên, bạn cố gắng làm lành thật nhiều để cho đời sống của bạn có thêm nhiều ý nghĩa. Đó là niềm vui lớn mà chính bạn đã khéo biết tự ban thưởng cho bạn.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho chúng ta một bài học về việc bảo vệ hạnh phúc gia đình. Sự ghen tuông đến một mức độ mà vợ hay chồng không còn kềm chế được lòng sân hận nữa, thì sẽ gây ra một hậu quả khủng khiếp mà không ai có thể lường trước được. Chỉ vì ghen tức với một cô tớ gái, mà người vợ đã ra tay hành hạ tàn nhẫn người tớ gái một cách thật dã man.
Hiện trạng này đã và đang xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Thật là ghê gớm cho lòng dạ độc ác của con người. Bình thường, thì họ coi đó như là một sự tàn nhẫn ác độc. Nhưng khi họ lâm vào hoàn cảnh cực kỳ ghen tuông đó, thì có lẽ họ sẽ hành xử một cách ác độc tàn nhẫn hơn. Làm sao biết được lòng dạ con người. Biển dù có sâu đến đâu, người ta cũng có thể dò được, vì biển còn có đáy, còn lòng dạ của con người có đáy đâu mà dò. Ca dao Việt Nam có câu:
Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Lòng người thăm thẳm mù khơi
Không bờ, không bến biết đâu mà dò.
Vì thế, muốn cho gia đình được đảm bảo an vui hạnh phúc, thì Phật khuyên răn người Phật tử nên gìn giữ giới cấm không được tà dâm. Tà dâm là giới cấm thứ ba trong năm giới của người Phật tử tại gia. Giới này có công năng ngăn ngừa hành vi bất chánh của chồng hoặc vợ có tư ý ngoại tình. Một khi chồng hoặc vợ đã ngoại tình, thì chắc chắn gia đình sẽ bị tan nát đổ vỡ. Biết bao thảm kịch đã xảy ra vì hành động bất chánh lang chạ tà dâm này. Gìn giữ giới này là nền tảng chính yếu để xây dựng êm ấm hạnh phúc gia đình.
Trăm năm lòng gắng dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Trăm năm quyết chí một chồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
(Ca dao)
Người Phật tử nên chiêm nghiệm lời Phật dạy trên, mà quyết tâm gìn giữ giới này thật cẩn thận để mang lại sự tốt đẹp cho mình và người vậy.
315. “Như thành ở biên thùy,
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình,
Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn.
Khi rơi vào địa ngục.”
316. “Không đáng hổ, lại hổ.
Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.”
317. “Không đáng sợ, lại sợ,
Ðáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú.”Lược giải
315. Như thành quách được phòng hộ thế nào, thì tự thân các ngươi cũng phải nên phòng hộ như thế. Một giây lát cũng chớ buông lung. Hễ một giây lát buông lung là một giây lát sa đọa địa ngục.
Even as a border town guarded within and without,so should you protect
yourselves. Do not let this moment pass for when this moment's gone they grieve
sending themselves to hell.
Kệ tụng
Như thành ở biên thùy
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình
Sát na chớ buông lung
Giây phút qua, sầu muộn
Khi rơi vào địa ngục.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số Tỳ kheo.
“Một số các Tỳ kheo đến an cư ở một thị trấn biên giới. Tháng đầu trôi qua hết sức an ổn. Nhưng tháng thứ hai, bọn trộm cướp tấn công thị trấn và bắt một số người làm con tin. Từ lúc ấy, mọi người phải bận rộn phòng thủ, chống lại trộm cướp, và không còn thì giờ chăm sóc đến thức ăn vật dụng cho các thầy. Các thầy trải qua những tháng thật bất an.
An cư xong, các thầy trở về tinh xá Kỳ Viên, đảnh lễ Phật, lui ngồi một bên. Đức Phật hỏi thăm thân mật:
- Các ông có được an ổn không?
- Bạch Thế Tôn, tháng đầu thật an ổn. Nhưng những tháng sau trộm cướp hoành hành, dân chúng chẳng còn thì giờ đâu lo lắng cho chúng con. Thời gian đó thật khốn đốn.
Phật dạy:
- Không sao. Các ông đừng phiền muộn. Không dễ gì lúc nào cũng tìm được nơi an cư hoàn toàn như ý. Nhưng hãy như dân cư phòng thủ thị trấn của họ, mỗi thầy Tỳ kheo phải canh phòng mình”. Nhân đó Phật nói Pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 180)
Người tu hành muốn cho thân tâm được an ổn, Phật dạy ta phải chế ngự phòng hộ ở nơi sáu căn cho thật kỹ càng. Giống như người lính gác giữ thành, không một phút giây xao lãng. Nếu người giữ thành mà không canh phòng nghiêm nhặt, tất nhiên, thành trì sẽ mất về tay quân giặc. Chừng đó, thành trì đã mất mà bản thân người giữ thành cũng không còn.
Nhân câu chuyện do các thầy Tỳ kheo kể lại về việc dân chúng trong thành lo đề phòng chống lại bọn trộm cướp, mà các thầy phải bị khốn đốn vì không đủ thực phẩm để dùng, nên Phật mới dạy cho các thầy phương cách phòng hộ ở nơi thân tâm.
Các thầy kể lại tình cảnh thiếu thốn thực phẩm thật là cay đắng chua xót! Tuy rằng, vật thực ăn uống đối với người xuất gia thì không nên đặt nặng quan trọng. Nhưng nó cũng là một nhu cầu thiết yếu để giúp cho người xuất gia được yên ổn tu hành. Người ta nói: “có thực mới vực được đạo”. Điều đó, không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu chúng ta quá đặt nặng vấn đề ăn uống, thì sẽ mất đi phẩm hạnh đạo đức cao cả của người tu. Do đó, một người xuất gia, theo lời Phật Tổ dạy, thì phải “Tam thường bất túc”. Cái gì cũng phải thiếu thiếu, không nên quá dư thừa. Vì càng hưởng thụ nhiều chừng nào, thì lại càng mất đi đạo hạnh giải thoát của người xuất gia nhiều chừng nấy.
Người xuất gia phải là người luôn sống trong tỉnh thức. Đức Phật là người hằng sống trong tỉnh thức. Có tỉnh thức là có an lạc giải thoát. Người tỉnh thức phải là người sáng suốt luôn phòng ngự ở nơi ba nghiệp. Người tu phải giữ thân, khẩu, ý, cho nghiêm mật như kẻ giữ thành trì. Nhứt là phải gìn giữ ở nơi ý nghiệp. Đó là chúng ta khéo biết tu ở nơi cái gốc vậy.
316. Không đáng hổ lại hổ, việc đáng hổ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
They are ashamed where shame is not but where is shame are not ashamed so
by embracing evil views
beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không đáng hổ, lại hổ
Việc đáng hổ, lại không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú
317. Không đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
They are afraid where fear is not but where is fear are unafraid, so by embracing evil views beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không đáng sợ, lại sợ
Việc đáng sợ, lại không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến các đạo sĩ phái Kỳ na, lỏa hình ngoại đạo Ni kiền tử.
“Một hôm các thầy Tỳ kheo nhìn thấy các đạo sĩ phái Ni kiền tử, đã bàn tán với nhau:
- Này chư huynh, các Ni kiền tử này dễ nhìn hơn các đạo sĩ phái Acelaka (Lộ già na). Mấy ông kia hoàn toàn trần trụi, còn các Ni kiền tử này ít ra cũng có một tí vải che thân, nhìn đỡ xấu hổ.
Các Ni kiền tử nghe chuyện đã nói:
- Không phải vì xấu hổ mà chúng tôi che thân. Chỉ vì bụi đất cũng là những hữu tình chúng sanh có sự sống, vì sợ chúng rơi vào thức ăn mà chúng tôi mang một mảnh vải.
Các thầy Tỳ kheo, một số đồng ý với lý do trên, số khác không đồng ý, cứ bàn tán mãi. Sau cùng, tất cả đi đến chỗ Phật, thưa ra câu chuyện, Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, người nào hổ thẹn khi không đáng hổ thẹn, và không cảm thấy hổ thẹn khi cần phải hổ thẹn, sẽ chịu khổ về sau”. Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 182)
Hổ thẹn là đức tánh tốt của con người. Làm người thiếu đức tánh này, thì có khác gì loài cầm thú. Khi làm một điều gì bất chánh, hoặc lỡ lời thiếu ái ngữ, làm xúc phạm đến danh dự, tổn thương lòng tự ái của người, thì chúng ta cảm thấy rất hổ thẹn. Có người mạnh dạn trực tiếp xin lỗi; có người thì âm thầm tự thấy xấu hổ. Cả hai đều thầm nguyện với lòng không nên có những hành động hoặc lời nói bất cẩn như thế này nữa. Đứng trên phương diện đạo đức làm người, người ta sẽ đánh giá hai hạng người này, đều có lòng tự trọng và có nhơn cách xứng đáng như nhau. Đó là hạng người mà họ khéo biết giữ gìn phẩm hạnh.
Giá trị con người, không phải ở chỗ có địa vị cao, hay học lực khá, hoặc ở chỗ giàu nghèo, sang hèn, mà giá trị con người gốc là ở nơi hành xử có đạo đức. Vì đạo đức là nếp sống cao đẹp của con người. Người ở địa vị cao, hay giàu có sang trọng, mà ăn nói sổ sàng, hành động thô tháo, không có một chút cung cách đạo đức làm người, thì người đó hẳn không được ai kính trọng nể phục. Có chăng, chỉ có những kẻ dựa hơi bề ngoài để dễ bề kiếm chác chút ít quyền lợi. Hạng người này, vì sự sống, nên họ thiếu cung cách nhân phẩm, không có chất liệu đạo đức của một con người, nên người ta xếp họ vào loại người chỉ biết cong lưng uốn gối ton hót nịnh bợ. Đây là hạng người được đánh giá thấp nhứt của xã hội loài người. Nếu không muốn nói, quả thật họ là hạng người thật đáng khinh bỉ.
Pháp cú 316, Phật nói rõ có những điều không đáng hổ thẹn, mà người ta lại hổ thẹn. Ngược lại, có những điều đáng hổ thẹn, thì người ta lại cố tình che giấu. Người lầm lỗi mà không biết hổ thẹn ăn năn sửa đổi, thì Phật cho đó là hạng người tà kiến. Tà kiến là họ cố chấp thiên lệch một bên, không phù hợp với lẽ thật. Đời là vô thường, mà họ cho là thường còn, đó là tà kiến. Họ làm sai trái, người khác chỉ lỗi để họ sửa đổi, nhưng họ vẫn cố chấp, bảo thủ cho là đúng, đó là tà kiến. Phật nói hạng người ôm lòng tà kiến, thì khó tránh khỏi sa đọa vào địa ngục. Bởi do tà kiến, nhận định thiên lệch chấp nê một chiều, rồi từ đó, họ tạo nghiệp bất thiện, nên phải thọ khổ. Ngược lại, người có chánh kiến, nhận định đúng theo chân lý, họ tạo nghiệp lành, nên họ được hạnh phúc an vui.
Pháp cú 317, Phật nói: “không đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không”. Thế nào là việc không đáng sợ lại sợ? Sợ là một trong những nỗi lo âu lớn nhứt của con người. Khi mở mắt chào đời, thì con người đã có sự sợ hãi rồi. Lớn lên người ta lại thêm lo sợ đủ thứ. Sợ nghèo, sợ bệnh, sợ khổ v.v…nhưng điều sợ cuối cùng là người ta sợ chết. Vẫn biết chết không ai tránh khỏi, nhưng nói đến chết là người ta lo sợ. Nếu như lo sợ mà tránh khỏi, thì cũng nên lo sợ. Bệnh và chết có ai tránh khỏi đâu. Thế thì tại sao chúng ta phải lo sợ? Đó là Phật nói cái không đáng sợ lại sợ. Sợ hãi là con đẻ của tâm vọng tưởng điên đảo bất an. Ở đời có trăm thứ ngổn ngang lo sợ. Học sinh chưa vào phòng thi là đã lo sợ hồi hộp bị đánh rớt rồi. Đó là vì họ thiếu tự tin.
Phật nói việc đáng sợ lại không là sao? Việc đáng sợ là đọa lạc vào con đường sanh tử khổ đau. Bởi do tạo nghiệp ác mà phải chịu nổi trôi lang thang mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Đó là nổi khổ truyền kiếp của chúng sanh. Đó là điều mà ta cần phải quan tâm lo sợ. Muốn hết nổi ưu tư lo sợ này, Phật chỉ cho chúng ta con đường hành thiện. Có diệt trừ nguyên nhân gây ra đau khổ, thì chúng ta mới mong chấm dứt vòng luân hồi khổ đau bất tận. Nguyên nhân đó là gì? Là những thứ vô minh phiền não. Chính những thứ này, là nguyên động lực thúc đẩy chúng ta tạo nhiều nghiệp bất thiện để rồi phải chiêu cảm thọ báo ác thú khổ đau. Thế nên, muốn không sợ chết, thì ta nên cố gắng làm nhiều việc lành: bố thí, cúng dường, ăn chay, niệm Phật, tham thiền, quán tưởng v.v… Nói chung, là chúng ta làm những điều gì có lợi cho mình cho người và vật trong hiện tại và mai sau. Đó là chúng ta khéo biết chuẩn bị cho ngày ra đi của mình có một hướng đi rõ rệt. Một hướng đi chỉ có hoa và trái hạnh phúc mà thôi.
318. “Không lỗi, lại thấy lỗi,
Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.”
319. “Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến,
Chúng sanh đi cõi lành.”Lược giải
318. Không lỗi tưởng là lỗi, có lỗi lại tưởng không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
Faults they see where fault is not but where is fault they see it not, so by embracing evil views beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không lỗi, lại thấy lỗi
Có lỗi, lại thấy không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú.
319. Lỗi biết rằng lỗi, không lỗi biết rằng không lỗi, giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa.
A fault they understand as such, they know as well where fault is not, so
by embracing righteous views
beings go to a happy rebirth.
Kệ tụng
Có lỗi, biết có lỗi
Không lỗi, biết là không
Do chấp nhận chánh kiến
Chúng sanh đi cõi lành.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số cư sĩ ngoại đạo.
“Có một đám trẻ chơi chung với nhau, con nhà ngoại đạo và con các Phật tử. Khi các trẻ em ngoại đạo về nhà, cha mẹ chúng cấm không cho chào hỏi các Sa môn đệ tử Phật và không được vào tinh xá. Họ bắt chúng phải giữ lời thề. Và sang ngày khác, khi bọn trẻ chơi đùa gần tinh xá Kỳ Viên, chúng bị khát nước. Các trẻ con ngoại đạo phải nhờ một bạn Phật tử vào tinh xá xin nước uống. Em này vào tinh xá, gặp đức Thế Tôn, và kể lại câu chuyện cho Ngài nghe.
Phật dạy:
- Uống nước xong, các con ra kêu các bạn vào đây uống.
Tất cả bọn vào gặp Phật. Ngài kể cho các em nghe một câu chuyện dễ hiểu, giảng pháp, khiến các em có niềm tin vững mạnh rồi khiến các em quy y và giữ giới. Các trẻ em ngoại đạo về nhà, kể chuyện lại cho ba má. Họ giận dữ, khóc lóc rên rỉ:
- Con chúng ta đã theo thầy tà.
Khi ấy, một người láng giềng có trí tuệ ở gần đó, sang an ủi họ, giảng giải cho họ nghe. Chừng đó, họ nhận thấy Phật pháp lợi ích bèn quyết định:
- Chúng ta chỉ cho các con đi theo sự hướng dẫn của Ngài Cồ Đàm.
Với bà con dòng họ đông đảo, họ đưa nhau đến tinh xá lễ Phật, nghe pháp. Phật quan sát tâm tư của họ và nói hai pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 183).
Pháp cú 318, Phật nói có lỗi hoặc không lỗi, do tâm tưởng điên đảo khởi vọng chấp tà kiến, đó là hậu quả dẫn tới con đường khổ đau. Xã hội loài người sở dĩ khổ đau triền miên cũng chính vì do nhận định bảo thủ lộn ngược đầu này. Trắng họ cho là đen, đen họ cho là trắng, phải họ cho là quấy, quấy họ cho là phải, giả họ cho là thật, thật họ cho là giả vân vân và vân vân. Bởi do nhìn lộn ngược (điên đảo) như thế, nên mới có những thiên kiến cố chấp. Ai cũng thấy mình đúng, người khác sai, từ đó gây nên bao cảnh chiến tranh thù hận chém giết lẫn nhau. Tình thương yêu đồng loại không còn, bởi do vọng tưởng tri giác sai lầm này. Từ cá nhân, gia đình, đoàn thể, xã hội đều tạo nên mâu thuẫn chống đối nhau, tất cả đều do vọng tưởng tà kiến mà ra.
Pháp cú 319, Phật dạy rằng: “lỗi biết rằng lỗi, không lỗi biết rằng không lỗi, giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa”. Chỉ cần chúng ta thay đổi cách nhìn đúng theo lẽ thật, thì mọi khổ đau sẽ chấm dứt. Có lỗi biết có lỗi, không lỗi biết rõ là không lỗi, đó là chánh kiến thấy đúng sự thật. Khi đã thấy đúng sự thật ở nơi các pháp, thì mọi vọng chấp tri giác sai lầm sẽ không còn. Vọng chấp không còn, thì ngay đó là giải thoát, là chấm dứt khổ đau. Chỉ có con đường chánh kiến mới dẫn hành giả đúng theo lộ trình tiến đến Phật quả mà thôi.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy, trẻ em rất hồn nhiên ngây thơ thật là dễ thương. Chúng đùa giỡn vui chơi với nhau rất thân tình. Chúng nào có để tâm phân biệt: “đây là Phật tử, kia là ngoại đạo đâu”. Trước mặt chúng chỉ là những đứa bạn thân thiết vui chơi với nhau mà thôi. Ngoài ra, chúng không có tâm niệm phân chia kia, đây gì cả. Vậy ai là người phân cách tình bạn của chúng nó? Ai là người mang đầu óc bệnh hoạn kỳ thị phân chia ranh giới: đây là ngoại đạo, kia là Phật tử? Ai là người bắt chúng nó phải thề thốt không được chào hỏi các vị Sa môn và vào tinh xá?
Ai đó? Phải chăng tất cả đều do những con người mang danh mình là người lớn để tạo ra sự phân chia ngăn cách? Những con người bởi do huân tập những tri giác sai lầm, mang nặng những căn bệnh cận thị, cuồng tín, tà kiến, cố chấp, kỳ thị, nhìn sự vật theo lăng kính chủ quan của mình, nên mới thốt ra những lời cấm đoán đó. Làm cho tình thân trở nên thù hận. Chính con người gây ra làm mất đi giá trị cao đẹp tình người. Đôi lúc chúng ta mang danh là người lớn (chỉ có lớn xác), nhưng nhìn lại, thực chất tâm hồn của chúng ta thật quá nhỏ bé thấp hèn! Vẫn còn mang nặng những bệnh trạng: “ích kỷ, hẹp hòi, kỳ thị, ác ý, thù hận, ganh ghét, chia rẽ, khủng bố, tàn sát”, và luôn luôn hiềm thù chống đối gây khổ đau cho nhau.
Chúng ta chưa thật sự mở rộng cõi lòng và chưa thật sự học được bài học tình người: “trong dòng máu cùng đỏ và trong nước mắt cùng mặn”. Ngày nào nhơn loại còn mang nặng những thiên chấp dị biệt, còn nô lệ cho vọng kiến phân chia nhân, ngã, bỉ, thữ, còn ngập chìm trong vòng vọng chấp ý thức hệ nhị nguyên đối đãi, thì ngày đó nhơn loại vẫn còn tranh chấp thù hận gây nên tang tóc khổ đau cho nhau dài dài. Do vọng kiến, nên chúng ta nhìn sự vật méo mó, theo lăng kính “tỷ lượng” và “phi lượng”. Chúng ta chưa thực sự sống với “hiện lượng”. Chúng ta vẫn còn thích mang những cặp kính màu để nhìn sự vật. Quả chúng ta chỉ biết “đùa vui theo sóng mà quên nguồn suối trong”.
Nói rõ hơn, là chúng ta chỉ thấy hoa đốm lăng xăng mà quên mất bầu trời trong tạnh. Bầu trời trong lúc nào cũng hiện hữu với chúng ta. Nói cách khác, là chúng ta vốn sẳn có tánh giác sáng suốt thanh tịnh, nhưng khổ thay! vì vọng tưởng điên đảo, như người bị bệnh nhặm mắt, nên chúng ta vẫn còn bị mê lầm không nhận ra được tánh giác. Do đó, mà chúng ta mãi sống trong vòng vọng chấp mê lầm. Đó là đời sống phóng thể quên mất cội nguồn tâm linh. Đạo đức nhân bản ngày càng bị mất gốc, gây nên tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Và đó cũng chính là hệ quả của những cuộc tranh chấp, gây hấn trả thù sát phạt nhau: “giữa quốc gia này với quốc gia nọ, giữa dân tộc này, với dân tộc khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo kia, giữa chủ nghĩa này với chủ nghĩa nọ v.v…” Thật chưa biết ngày nào nhơn loại mới thật sự tháo gỡ những cặp kính màu vọng kiến, để thật sự nhìn nhau và thương yêu nhau trong tình đồng loại:
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
Đó là hai câu thơ bất hủ trong Truyện Kiều mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du nhằm nhắn gởi kêu gọi thức nhắc chúng ta.
Ca dao Việt Nam cũng có câu:
Bầu ơi! Thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Nhìn trên mặt hiện tượng, thì ta thấy có muôn vàn sai biệt, nhưng nhìn sâu vào mặt bản thể, thì nào có khác chi đâu. Vì vạn vật đồng nhứt thể kia mà! Có khác chăng chỉ là những giả tướng, giả danh, do con người vọng tưởng giả lập mà thôi. Đó là do thức biến: “Chấp thủ tướng và kế danh tự tướng”. Hơn lúc nào hết, con người hiện đang sống ở thế kỹ thứ 21, “phải là thế kỹ của tình người, của văn minh tân tiến về mặt đạo đức, phát huy phẩm chất làm người cao thượng trong chiều hướng thánh thiện, làm đẹp con người và cuộc đời”. Có thế, thì nhơn loại mới thực sự sống còn và không hổ thẹn với đất trời muôn thuở.
Điều đáng cho những người lớn cần lưu tâm học hỏi ở trẻ thơ, đó là đức tánh hồn nhiên và trong sáng. Dù bị ba má chúng cấm đoán nghiêm khắc, nhưng chúng vẫn tìm cách vào tinh xá và gặp được Phật nghe Phật thuyết giảng. Khi hay tin, ba má chúng tỏ ra phản kháng dữ dội, nhưng sau đó lại hồi tâm chuyển ý theo Phật, do một Phật tử tại gia dùng trí tuệ chuyển hóa họ. Thế mới biết, chỉ có trí tuệ mới đích thực là ngọn hải đăng soi sáng đưa người ta đến chỗ giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà thôi.
Phẩm Voi
320. “Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
Ác giới rất nhiều người.”
321. “Voi luyện, đưa dự hội,
Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng
Chịu đựng mọi phỉ báng.”
322. “Tốt thay, con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Xinh.
Ðại tượng, voi có ngà.
Tự điều mới tối thượng.”Lược giải
320. Voi xuất trận nhẫn chịu cung tên như thế nào, ta đây thường nhẫn chịu mọi điều phỉ báng như thế ấy. Thật vậy, đời rất lắm người phá giới, (thường ghét kẻ tu hành).
As an elephant in the battlefield withstands arrows shot from bows all around, even so shall I endure abuse. There are many, indeed, who lack virtue.
Kệ tụng
Ta như voi giữa trận
Hứng chịu cung tên bắn
Nhận chịu mọi phỉ báng
Đời nhiều kẻ phá giới.
321. Luyện được voi để đem dự hội, luyện được voi để cho vua cỡi là giỏi, nhưng nếu luyện được lòng ẩn nhẫn trước sự chê bai, mới là người có tài điêu luyện hơn cả mọi người.
A tamed elephant is led into a crowd, and the king mounts a tamed elephant. Best among men is the subdued one who endures abuse.
Kệ tụng
Voi luyện đi dự hội
Voi luyện được vua cưỡi
Kẻ luyện, người tối thượng
Nhận chịu mọi phỉ báng.
322. Con la[1] thuần tánh là con vật lành tốt, con tuấn mã tín độ[2] là con vật lành tốt, con voi lớn Kiều la[3] cũng là con vật lành tốt, nhưng kẻ đã tự điều luyện được mình lại càng lành tốt hơn.
Excellent are well trained mules, thoroughbred Sindhu horses and noble tusker elephants. But better still is the man who has subdued himself.
Kệ tụng
Tốt thay con la thuần
Tốt thay loài ngựa sind
Tốt thay đại tượng Kũnj
Tự điều mới tối thượng.
Lược giảng
Ba pháp cú trên, đức Phật dạy và thuật kể lại câu chuyện cho đại chúng nghe, khi Ngài đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên.
Theo truyện tích ghi lại, cô Magandiya (câu chuyện xảy ra và đã được đề cập đến ở Pháp Cú 179, tập 2 trang 200) sau khi bị Phật từ chối, nàng ta vô cùng thất vọng và bị xúc phạm làm tổn thương lòng tự ái của cô ta rất nặng. Bấy giờ, nàng ta ôm ấp nuôi dưỡng mối hận thù thầm kín rất thâm trọng. Về sau, khi trở thành một vị hoàng hậu, nàng nhứt quyết phải trả cho được mối hận thù nầy. Nàng dùng thủ đoạn độc ác là bỏ tiền ra thuê mướn một số người nghèo khổ thất học, có tánh ngang ngược côn đồ để mắng chửi hạ nhục Đức Phật.
Nàng bảo, khi Sa môn Cồ Đàm đến nơi nầy khất thực, thì các ngươi hãy cùng nhau tụ tập bu chung quanh ông ta, rồi dùng những lời lẽ tục tằn, xấu ác thô bạo nhứt mà mắng chửi thóa mạ ông ta cho thật thậm tệ. Đồng thời, các ngươi hãy nên xua đuổi ông ta phải đi nơi khác.
Bấy giờ, Đức Phật và Tôn giả A nan trên đường giáo hóa khất thực đến nơi nầy, dân chúng trong thành gồm những người không tin Tam bảo và những tay côn đồ đã được thuê mướn liền theo sau mắng chửi mạt sát Đức Phật và ngài A nan rất nặng nề. Nghe bọn họ mắng chửi mạ nhục, Đức Phật vẫn điềm nhiên. Trong khi đó, ngài A Nan không thể chịu nổi, nên bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, dân cư nơi nầy chửi mắng chúng ta, xin hãy đi nơi khác.
- Phật hỏi: chúng ta đi đâu, A Nan?
- Đi đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.
- Nếu như dân ở thành phố đó, họ cũng mắng chửi chúng ta thì sao?
- Thì chúng ta đi đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.
- Nếu như đến nơi đó cũng bị mắng chửi?
- Đi đến chỗ khác nữa, bạch Thế Tôn.
- Nầy A Nan! Chúng ta không nên làm như thế. Bất cứ nơi nào có rắc rối, phiền não nổi lên, chúng ta nên ở lại đó cho đến khi chúng lắng dịu hẳn, và chỉ khi đó chúng ta mới nên đi nơi khác. Nhưng ai đã chửi mắng chúng ta?
- Bạch Thế Tôn, những kẻ hạ tiện, nô tỳ, tất cả đều chửi mắng.
- Nầy A Nan! Ta như con voi đã ra trận. Và như con voi giữa trận hứng chịu tên bay từ bốn phía, bổn phận ta phải nhẫn nại nghe những lời ác độc thốt ra.
Sau khi nghe Phật nói ba pháp cú trên, quần chúng ở hai bên đường, ở ngã ba, ngã tư, những kẻ ăn tiền chửi mướn đều chứng từ Sơ quả đến Tam quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Người tu hành muốn thành tựu được đạo quả, tất phải có sức nhẫn nại chịu đựng dẻo dai trước mọi nghịch cảnh xảy đến. Phật dùng hình ảnh con voi khi lâm trận, phải hứng chịu nhiều lằn tên mũi đạn, từ tứ phía bắn tới, để thí dụ cho sức nhẫn nhục của người tu, mà Đức Phật là một minh chứng cụ thể điển hình. Dù voi đã bị không biết bao nhiêu mũi tên độc hại bắn vào, nhưng voi vẫn không hề tỏ ra một chút nao núng sợ hãi. Vì voi có đủ năng lực chịu đựng. Cũng thế, Đức Phật đã bị những kẻ ác tâm dùng mọi mưu chước thủ đoạn hãm hại, nhưng Đức Phật vẫn an nhiên nhẫn nhịn. Được thế do đâu? Do vì Đức Phật đã không còn những độc tố vô minh phiền não. Nhờ lòng từ bi, nên Ngài càng cảm thấy thương họ nhiều hơn.
Trên bước đường tu hành, dù xuất gia hay tại gia, tất nhiên, chúng ta sẽ không làm sao tránh khỏi những chướng duyên thử thách. Có thử thách, khảo đảo, mới biết được sức nhẫn nhục của sự tu hành. Cũng như muốn biết vàng thiệt hay giả, cần phải có thử lửa. Những ngọn lửa “bát phong” luôn luôn thổi tới. Nếu chúng ta không biết cách dập tắt, chuyển hóa, thì ắt không thể nào tránh khỏi họa lửa cháy và tất nhiên, sẽ phải chuốc họa vào thân. Tu hành, tự bản chất của nó đã nói lên một sự tuyên chiến dũng mãnh trước ma lực. Một là thắng, hai là thua. Thắng là vượt qua tất cả. Thua là đầu hàng khổ nhục. Thắng thì lòng vẫn an nhiên nhẹ nhàng tươi mát. Muốn thế, thì chúng ta cần phải vận dụng công phu nỗ lực huân tu cho đạo lực của chúng ta ngày càng thêm già dặn, thâm hậu. Có thế, thì chúng ta mới có thể khắc phục chiến thắng vượt qua những ma chướng khảo nghiệm. Ngược lại, nếu sức huân tu của chúng ta còn quá thô thiển yếu kém, thì chúng ta sẽ không thể nào khắc phục vượt qua những thử thách khó khăn đó được.
Chúng ta đừng quên rằng, hiện chúng ta đang sống trong thời pháp nhược ma cường. Đã thế, thì thử hỏi chúng ta làm sao có thể tránh khỏi những ma chướng nhiễu hại. Nội ma và ngoại ma chúng luôn luôn đe dọa khuấy nhiễu người tu hành. Ngoại ma, tuy là một chướng duyên rất lớn, nhưng nếu ta đã hàng phục được nội ma phiền não rồi, thì ngoại ma cũng không làm sao phá hại chúng ta được. Do đó, người tu không dẹp trừ được phiền não ma, thì không thể nào có được nhẫn lực thâm hậu. Đức Phật sở dĩ bị người ta mắng chửi thóa mạ hạ nhục như thế, mà Ngài vẫn an nhiên, không chút lộ vẻ bất bình khó chịu, là vì do Ngài đã diệt hết vô minh phiền não. Như con voi nhờ có sức mạnh vô song nên khi ra trận chiến đấu, vẫn xông pha hiên ngang mãnh liệt dũng tiến giữa rừng gươm giáo mà không một chút lộ vẻ sợ hãi thối lui. Người tu hành phải trang bị cho mình có một nhẫn lực hùng dũng như voi khi lâm trận vậy.
Người mắng chửi ta, mà ta không chút hờn giận họ, đó là ta đã vượt qua một cái ải ma chướng. Chẳng những ta không chút buồn giận họ, mà ta còn tỏ ra cám ơn họ. Vì nhờ họ mà ta mới biết được sức nhẫn nại chịu đựng của ta. Chính họ là người giúp cho ta chóng đạt thành đạo quả. Nếu như họ mắng chửi mạ nhục ta, mà ta cũng phùng mang trợn mắt mắng chửi lại họ, thì ta và họ có khác gì nhau đâu. Có đôi khi ta còn thua sút hơn họ rất nhiều, vì họ là người không biết tu, mà ta là người đang tu. Nếu ta cũng quyết ăn thua đủ với họ, thì quả thật ta đâu phải là người tu. Ta và họ cũng đồng khổ như nhau. Muốn đánh giá được người có thật tu hay không, chính là lúc ta bị người mắng chửi sỉ nhục thậm tệ, mà ta không một chút lộ vẻ bất bình tức giận họ. Đó là ta đã tiến rất xa trên đường tu giác ngộ giải thoát rồi.
Nhẫn là một sức mạnh mà từ cổ chí kim, không một bậc Hiền Thánh nào không trải qua. Đức điềm đạm, đó là cái dũng của thánh nhơn. Người quân tử khác hơn kẻ tiểu nhơn là ở chỗ điềm đạm. Người quân tử lúc nào cũng tỏ ra bình tĩnh sáng suốt. Dù gặp nghịch cảnh nguy nan, thiệt hại đến tánh mạng, nhưng các ngài cũng vẫn thản nhiên như hư không. Các ngài không còn là đối tượng tranh chấp. Từ đó, kẻ manh tâm ác ý muốn hãm hại các ngài, tất nhiên là không còn hiệu quả nữa. Vì một cú đấm mạnh vào hư không, chỉ là một cú đấm vô ích và đôi khi trở thành phản tác dụng có hại cho kẻ đấm. Sự tranh chấp hơn thua, bao giờ cũng phải có năng sở đối nghịch. Nhưng nếu chỉ có năng mà không có sở, nói một cách khác chỉ có chủ thể mà không có khách thể (đối tượng), thì chủ thể kia sẽ trở thành vô hiệu quả, vì không còn có sự tranh chấp hơn thua.
Người chân tu hơn người đời là ở chỗ đó. Vì người chân tu là người không còn chấp nặng dính kẹt vào ngã tướng. Ngã không có thì làm gì có nhơn tướng. Nhơn tướng đã không, thì chúng sanh và thọ giả tướng cũng không. Đến đây, thì những danh từ đối đãi nhị nguyên: tranh chấp, phải quấy, hơn thua v.v… tất cả đều không còn tác dụng nữa. Đó là hình ảnh của một con người siêu thoát hùng tráng hiên ngang hành hóa giữa lòng cuộc đời. Họ là hạng người cư trần bất nhiễm trần, hay hoa sen nở trong lò lửa. Dù lửa có cháy đến đâu, thì hoa sen vẫn an nhiên tươi mát. Đến đây, mới thực sự tột cùng của sức nhẫn nhục, tức hành giả đã đạt được vô sanh pháp nhẫn rồi vậy.
Pháp Cú 320, Phật nói kẻ phá giới bao giờ cũng tìm cách chỉ trích bươi móc nói xấu người giữ giới. Người giữ giới là người luôn sống trong đạo đức. Kẻ có đạo đức bao giờ cũng là đối tượng thù ghét của những con người vô đạo đức hãm hại. Điều nầy, ta thấy rất rõ trong trường đời cũng như trường đạo. Người tu hành muốn vượt thắng đạt đến sự an lạc giải thoát, tất nhiên, phải thật hành hạnh nhẫn nhục. Thiếu nhẫn nhục, thì không thể nào thành công được.
Pháp Cú 321, Phật so sánh cho chúng ta thấy giữa sự điều luyện voi và ngựa giỏi của người huấn luyện, nhưng không bằng sự điều luyện an nhẫn của người đã bị người ta chê bai kích bác nặng nhẹ nói xấu đủ điều. Đó là một sức mạnh vượt trội hơn mọi người. Về sự nhẫn nại (khanti) trong Kinh có nêu ra ba trường hợp:
1. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh tham.
2. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh sân.
3. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh si.
Nhẫn nại trong điều thứ nhứt, Phật khuyên chúng ta phải nhẫn nhịn những điều do lòng dục vọng ham muốn thèm khát kích thích sai sử. Lắm người vì không ngăn chế được lòng tham muốn sai khiến, nên đã gây ra bao điều xấu xa tệ hại: trộm cắp, cướp giựt, giết người, hãm hiếp dâm ô đồi bại v.v… cuối cùng, họ phải lãnh lấy quả báo khổ đau nặng nề.
Nhẫn nại trong điều thứ hai, Phật khuyên chúng ta phải nhẫn nhịn những gì bất như ý, khi chúng ta bị kẻ khác gây xúc phạm làm tổn thương đến danh dự lòng tự ái của ta. Thường tình ở đời, ai cũng thích khen hơn là bị chê. Có lắm người, vì không nhịn nổi những lời chỉ trích nói xấu trước mặt hoặc sau lưng, nên họ đã gây ra bao thảm họa cho mình và người phải chịu đựng khổ đau. Đó là vì họ không ngăn chặn được cơn giận tức, nên mới gây ra cớ sự như thế. Có khi họ phải chịu tù tội suốt cả cuộc đời.
Nhẫn nại trong điều thứ ba, Phật khuyên chúng ta nên ý thức kiểm soát kỹ lưỡng trong tâm tưởng của mình. Đừng vì một phút si mê tăm tối mà chúng ta không kềm chế được rồi tạo ra lắm điều khổ lụy cho mình. Từ si mê dẫn đến lòng tham, tham không được thì nổi sân, đó là ba nguyên nhân gây ra cho ta và người biết bao khổ hận. Vì một phút si mê mà ta xuôi tay nghe theo lời xúi giục của con quỷ dục vọng, rồi tạo nên lắm điều khổ hại cho mình và người. Cuối cùng, đời ta phải chịu nhiều đau khổ, cũng chỉ vì thiếu ánh sáng trí huệ soi xét nên mới tạo ra nghiệp quả như thế.
Pháp Cú 322, Phật nêu ra ba con vật: voi, ngựa, lừa đã được người chủ điều luyện tốt, nghĩa là người chủ bắt nó phải hành động theo ý muốn của họ. Quả là những con vật đã được huấn luyện thành những con vật thuần ngoan. Dù vậy, nhưng so với con người khi người đó đã tự điều luyện mình có những đức tánh như nhẫn nhục cao thượng, diệt trừ dục vọng, giới đức nghiêm minh, thì Phật nói làm sao có thể đem những con thú kia có thể so sánh với con người cho được. Dù rằng tánh hung hăng của chúng đã được khiển trừ, nhưng Phật nói chúng vẫn còn thua xa con người. Nhưng phải là con người có thực chất mang tính hiền hòa thuần thiện. Đó là hạng người đã được trau dồi giới đức, có đức nhẫn nại cao mới có thể điều phục chế ngự được cái tâm xấu ác của mình.
323 “Chẳng phải loài cưỡi ấy,
Ðưa người đến Niết-Bàn,
Chỉ có người tự điều,
Ðến đích, nhờ điều phục.”Lược giải
323. Chẳng phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết bàn, chỉ có người đã điêu luyện lấy mình mới đến được Niết bàn thôi.
Not by these mounts, however, would one go to the Untrodden Land (Nibbana), as one who is self-tamed goes by his own tamed and well- controlled mind.
Kệ tụng
Chẳng phải nhờ xe nầy
Đưa người đến Niết bàn
Chỉ có người tự điều
Đến đích, nhờ điều phục.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo từng là quản tượng.
Truyện tích kể lại: “Một ngày nọ, một vị Tỳ kheo trước kia từng là quản tượng, đứng bên bờ sông Aciravati thấy một người quản tượng đang cố gắng huấn luyện một con voi. Thấy người ấy không đạt kết quả, thầy muốn mách nước, bèn nói với các thầy Tỳ kheo đứng gần:
- Nếu đánh con voi ở chỗ nầy, chỗ nầy… nó sẽ nghe lời ngay thôi.
Người quản tượng nghe được, làm theo lời, và chẳng bao lâu con voi tuân theo ý ông.
Các vị Tỳ kheo bạch Phật câu chuyện. Phật cho gọi thầy Tỳ kheo ấy lên hỏi:
- Có phải thật ông nói như thế?
- Bạch Thế Tôn, vâng!
Phật quở:
- Ngươi vô tích sự, ngươi thi thố tài nghệ với người luyện voi, luyện thú để làm gì? Không phải leo lên lưng những con thú đó là có thể đi đến nơi muốn đến mà chưa đến được. Chỉ có trong tự huấn luyện bản thân mới có thể đến được nơi khó đến. Từ đây ngươi hãy tự điều phục chính mình, đừng làm trò huấn luyện thú như thế nữa”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 191).
Qua câu chuyện trích dẫn trên, Phật nhằm dạy cho chúng ta một bài học về việc tự điều phục khắc kỷ ở nơi mình, chớ không phải chế phục ở nơi ngoại cảnh. Người thực sự tu hành, là phải thường xuyên quán chiếu lại mình. Có quán chiếu nhìn kỹ lại mình, thì chúng ta mới thấy được những lỗi lầm của ta.
Trong các hệ thống kinh điển, từ kinh điển thuộc hệ giáo lý Nguyên Thủy (Tiểu thừa) đến kinh điển thuộc hệ giáo lý Phát Triển (Đại thừa), Kinh điển nào Phật cũng đều dạy rõ: người tu muốn được giải thoát thì phải thu nhiếp ở nơi sáu căn. Chính sáu căn là nguyên động lực gây ra nhiều tội lỗi. Người tu mà buông lung ở nơi sáu căn, thì chẳng khác nào tự mình rước giặc vào nhà. Cho nên, trong kinh thường gọi đó là lục tặc. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy cho Ngài A Nan :“Luân hồi hay giải thoát cũng từ nơi sáu căn của ông mà ra”. Nếu hành giả khéo thu nhiếp sáu căn, thì sáu trần không thể nào khuấy phá được. Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán cũng có nói:
Dục thú Nhứt thừa
Bất ố lục trần
Lục trần bất ố
Hoàn đồng chánh giác.
Tạm dịch:
Muốn đến Nhứt thừa
Đừng ghét lục trần
Lục trần chẳng ghét
Hoàn đồng Chánh giác.
Người tu muốn đạt đến quả vị Nhứt thừa hay còn gọi là Phật thừa, thì không nên oán ghét lục trần. Vì sao? Vì lục trần có lỗi gì đâu mà chúng ta phải ghét chúng. Nếu đối với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm ta không dính mắc, đắm nhiễm, thì sáu trần kia sẽ trở thành là sáu cảnh. Và sáu căn ta sẽ trở thành là sáu thần thông. Nghĩa là sáu căn không có gì bị nhiễm trước ngăn ngại. Dụ như chúng ta mang máy quay phim hay máy chụp hình, mà ta không quay chụp, thì làm gì có hình ảnh trong phim. Mà không có hình ảnh trong phim, tất nhiên là chúng ta không có gì để rửa. Chư Phật, chư Tổ, các Ngài cũng mang máy quay phim hay máy nhíếp ảnh giống như chúng ta (nghĩa là các Ngài cũng có đầy đủ sáu căn như chúng ta), mà các Ngài không bao giờ quay chụp. Như thế, nên các Ngài luôn sống trong an lạc giải thoát. Ngược lại, hằng ngày sáu căn của chúng ta khi đối cảnh xúc duyên, dù duyên tốt hay duyên xấu, chúng ta cũng đều thu nhiếp hết, như vậy bảo sao chúng ta không khổ cho được? Thế thì, có phải tự chúng ta trói buộc lấy chúng ta không?
Xưa kia, Ngài Phú Lâu Na muốn tu nhanh chóng để đạt thành thánh quả, Ngài liền đến bạch Phật nhờ Phật chỉ dạy một pháp môn tối thiết yếu, thật ngắn gọn, dễ nhớ và dễ thật hành. Phật dạy: “Ông chỉ cần thu nhiếp sáu căn, đừng cho sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của Ông dính mắc đắm nhiễm vào sáu trần, thì ngang đó tức Ông sẽ được giải thoát”. Ngài Phú Lâu Na nghe theo lời Phật dạy, Ngài đi sâu vào trong rừng để quán chiếu hành thiền. Quả thật, không bao lâu Ngài đã đạt thành sở nguyện, tức chứng quả A la hán.
Trong Kinh Lăng Nghiêm ở đoạn Phật bảo hai mươi lăm vị Thánh trình bày lại chỗ sở tu, sở chứng của mình. Trong số những vị Thánh đó, có Ngài Đại Thế Chí. Ngài trình bày về pháp tu của Ngài không có chi lạ, chỉ là chuyên niệm Phật để thu nhiếp sáu căn mà thôi. Nhờ Ngài khéo thu nhiếp sáu căn mà tịnh niệm được nối luôn, nên Ngài được chánh định (tam ma địa) hiện tiền.
Người tu thời nay, thường mắc phải cái chứng bệnh hay đổ thừa cho ngoại cảnh mà không tự xét lại mình. Tu không được, liền đổ lỗi tại, bị, cho cái nầy, cái kia. Tại, bị ngũ dục lục trần khuấy nhiễu làm tôi tu không được. Tôi muốn tu, nhưng tại vì hoàn cảnh khó khăn gia đình, nên chưa tu được. Còn biết bao nhiêu cái đổ thừa cho hoàn cảnh khác. Đó là cái bệnh nặng mà hiện chúng ta đều mắc phải. Nếu chúng ta tu mà hay đổ thừa như thế, thì quả thật chúng ta chưa hiểu rõ nghĩa của chữ tu. Nghĩa của chữ tu là sửa đổi. Sửa quấy thành phải, sửa dở thành hay, sửa tà thành chánh, sửa xấu thành tốt v.v… Hiểu nghĩa của chữ tu như thế, thì thử hỏi có cảnh nào mà chúng ta không tu được? Chỉ cần chúng ta chịu khó hãy nhìn kỹ lại mình. Có nhìn kỹ quán chiếu lại mình, thì mình mới sửa đổi chuyển hóa những phiền não lỗi lầm sai trái. Cứ lo dọn quét nhà mình cho sạch sẻ đi, đừng bao giờ để ý lo quét dọn nhà của thiên hạ. Nhưng khổ nỗi, cái bệnh của chúng ta thời nay, thì thích cầm chổi quét nhà thiên hạ hơn là quét nhà mình, dù vẫn biết nhà mình đầy ngập rác rến. Ít có ai thấy lỗi mình nhiều hơn thấy lỗi người. Nếu chúng ta chịu khó thường xuyên nhìn lại lỗi mình để lo sửa đổi chuyển hóa, thì chắc chắn đời tu của chúng ta sẽ tiến bộ rất xa trên đường giác ngộ giải thoát.
Nếu tu khá hơn nữa, thì Phật Tổ thường dạy, khi đối cảnh xúc duyên, chúng ta nên vô tâm đối với vạn vật. Sơ Tổ Trúc Lâm có nói: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Nghĩa là, khi đối cảnh xúc duyên, mà tâm ta không chạy theo ngoại cảnh để phân biệt tốt xấu, hay dở… Không phân biệt, thì niệm thương ghét không phát sanh. Ngay đó là giải thoát, là Niết bàn an lạc. Được vậy, thì còn hỏi thiền chi nữa. Vì thiền là tỉnh giác, là an lạc giải thoát, như vậy, càng hỏi, thì chỉ càng chuốc thêm lỗi lầm mà thôi. Như thế, thì ngay nơi Ta bà nầy là Cực lạc rồi. Trong cảnh ràng buộc mà được giải thoát, trong sanh tử mà đạt được Niết bàn.
Ngày xưa, khi vua Trần Thái Tông còn ngồi trên ngôi vua cai trị, hằng ngày có biết bao nhiêu công việc triều chánh để giải quyết. Thế mà, Ngài vẫn tu được và vẫn đạt ngộ lý thiền, giải thoát. Người tu không phải chạy trốn sáu trần, mà làm sao trốn thoát được. Không trốn thì phải đối diện. Đối diện nhưng không bị dính mắc, đó là giải thoát. Ngược lại, đối với sáu trần mà tâm ta còn dính mắc nhiễm trước, chính cái dính mắc nhiễm trước đó mới gọi là trần. Còn đối với những ai khi đối với sáu trần mà không có nhiễm trước, thì phải gọi nó là sáu cảnh, chớ không thể gọi là trần được. Cũng thí như cây cần sa có hại là đối với những người bị bệnh ghiền. Ngược lại, đối với những người không ghiền, thì nó lại là vị thuốc hay để chữa bệnh. Cùng một cảnh, đối với người mê thì khổ, nhưng đối với người tỉnh ngộ, thì lại an vui, đó là Niết bàn. Như vậy, tìm Niết bàn không phải ở ngoại cảnh, mà chính ở nơi tâm ta.
Bởi thế, pháp cú trên Phật nói rất rõ: “Không phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết bàn, chỉ có người khéo điều luyện lấy mình mới đến được Niết bàn mà thôi”.
324. “Con voi tên Tài Hộ,
Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống.
Voi nhớ đến rừng voi.”Lược giải
324. Con voi tên Tài hộ (Dhamapala: hộ vệ tài sản) nhưng đến kỳ phát dục[4]thì hung hăng khó trị, khó buộc trói, lại ăn nhiều và tâm thường nhớ mẹ ở rừng sâu[5].
Musty during rut, the tusker named Dhanapalaka is uncontrollable. Held in captivity, the tusker does not touch a morsel, but only longingly calls to mind the elephant forest.
Kệ tụng
Con voi tên Tài Hộ
Phát dục, khó điều chế
Trói buộc, không ăn uống
Nhớ rừng sâu, voi mẹ.
Lược giảng
Pháp cú trên Phật dạy khi Ngài ở Xá Vệ, Ngài nói với một Bà la môn già bị các người con hất hủi.
Theo truyện tích, một Bà la môn già có bốn người con trai, khi bốn người con trai lớn lên ông lần lượt cưới vợ cho chúng. Đồng thời, ông phân chia tiền bạc cho mỗi đứa con đồng đều. Ông có gia tài được tám trăm ngàn đồng tiền vàng. Ông phân phát cho mỗi đứa con một trăm ngàn đồng. Sau khi vợ ông chết, các người con sợ ông có người khác mà không được hưởng trọn số tiền còn lại, nên họ bàn tán với nhau, bằng cách là cùng nhau săn sóc người cha để hưởng trọn gia tài.
Thế là, cả bốn người hợp nhau lo cho ông rất chu đáo, từ cái ăn, cái mặc v.v… mọi việc không thiếu thốn thứ gì. Cuối cùng, bọn chúng yêu cầu ông cho chúng luôn số tiền còn lại. Ông chiều theo và cho luôn, tức mỗi đứa có thêm một trăm ngàn đồng nữa. Bấy giờ ông đã trắng tay. Từ đó, mấy người con dâu đối xử với ông rất là tệ bạc. Ông đến nhà đứa con nào cũng bị chúng nó hất hủi đuổi ông ra khỏi cửa. Trước tình cảnh ngược đãi đó, buồn quá, ông phải đi lang thang rày đây mai đó để xin ăn.
Ngày kia, ông trực nhớ đến Đức Phật. Ông liền đi đến gặp Phật. Sau khi trình bày về nỗi khổ đau của ông bị các đứa dâu con hất hủi, ông liền được Đức Phật an ủi và Phật nói cho ông nghe bài kệ:
Chúng là những đứa con khi sanh ra tôi vui mừng, mong mỏi.
Vậy mà chúng nghe lời vợ xúi giục, đuổi tôi như xua chó.
Chúng gọi tôi “Cha thân yêu…” thật ác độc và rỗng tuếch.
Quỷ đội lốt con trai, chúng bỏ rơi tôi khi tuổi già, như bỏ đói con ngựa già vô dụng.
Làm cha một lũ ngu, phải xin ăn lang thang từng nhà.
Một cây gậy còn tốt hơn lũ con bất hiếu.
Gậy còn đuổi được bò rừng chó dữ.
Gậy dẫn đường trong đêm tối, đỡ chân qua vũng nước bùn lầy.
(Bản dịch trong Tích Truyện Pháp Cú tập III của Viên Chiếu, tr 195)
Phật bảo ông nhớ học thuộc lòng bài kệ. Trong một buổi họp mặt đông đủ dòng Bà la môn và có những đứa con trai của ông tham dự, ông liền đọc bài kệ đó cho mọi người nghe. Các đứa con của ông nghe qua đều hốt hoảng kinh sợ, vì theo luật pháp thời bấy giờ đã ấn định: “Nếu người nào hưởng gia tài của cha mẹ mà không nuôi dưỡng cha mẹ, thì sẽ bị tội tử hình”. Nghe thế, các người con của ông khẩn cầu van xin ông tha tội chết. Với tấm lòng rộng lượng của người cha nên ông đã tha thứ cho các con. Từ đó, chúng hết lòng săn sóc hầu hạ ông như xưa và không dám đối xử tệ bạc với ông nữa. Và cũng từ đó, ông và các đứa con của ông thường hay phát tâm cúng dường thức ăn cho Đức Phật. Bọn chúng quỳ lạy và hứa trước Đức Phật, kể từ nay trở đi, chúng con phải chăm sóc lo cho cha chu đáo, không dám lơ là. Phật khen và dạy cho họ hãy noi gương con voi Tài Hộ mà đối xử tốt với người cha. Sau khi nghe Phật dạy, ông và các con dâu của ông đều chứng Sơ quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Sống trong cuộc đời tương đối, cái gì nó cũng có hai mặt: lợi và hại. Tiền bạc của cải … cũng thế. Đứng về mặt lợi của tiền bạc, thì sống trên đời nầy, hầu hết nhơn loại ai cũng phải cần đến nó. Vì nó là huyết mạch luân lưu của sự sống. Đời sống vật chất không có thứ gì mà không cần đến tiền. Người ta chế tạo ra đồng tiền là để giao dịch mua bán đổi chác cho tiện lợi trên thương trường. Người ta thường nói, có tiền là có tất cả. Nói một cách khẳng quyết mạnh mẽ hơn: “chỉ cần có tiền là người ta mua tiên cũng được”. Nói thế, để thấy sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Dù nó chỉ là một tờ giấy mỏng vánh, nhưng nó lại có một sức mạnh vạn năng phi thường. Nó chi phối tất cả mọi việc trên đời. Bởi thế ca dao Việt Nam có câu:
Đồng tiền là chúa cái khôn ngoan
Đủ mặt vuông tròn với thế gian.
Hay:
Vai mang túi bạc kè kè
Nói bậy nói bạ thiên hạ nghe rầm rầm.
Lời nói của người xưa là cả một kinh nghiệm sống. Cứ nhìn vào cuộc sống thực tế, ta thấy rất rõ điều đó. Bạn chỉ cần có nhiều tiền lắm của, thì bạn có thể giải quyết suông sẻ hết mọi vấn đề. Kể cả những vấn đề nan giải rắc rối nhứt trong cuộc đời bạn. Ngoại trừ cái chết của bạn. Có tiền, trắng người ta cũng có thể đổi thành đen. Họa cũng có thể chuyển thành phước. Kẻ có tội cũng trở thành vô tội. Ngược lại cũng thế. Người có tiền, lời nói đùa giỡn mua vui của họ, người ta cũng thấy nó có giá trị vô song. Ngược lại, kẻ rách rưới đói khát không tiền, dù có làm hay, nói giỏi người ta cũng khinh khi chê dở. Như vậy, đứng về mặt lợi của đồng tiền, thì nó ứng phó đủ muôn mặt, diễn ra thiên hình vạn trạng, nói không thể hết.
Ngược lại, đứng về mặt hại của nó, thì họa hại của nó cũng không lường. Nó có thể gây ra cho người ta điên đầu mất ăn mất ngủ. Chính vì nó có một sức mạnh vạn năng tiện lợi lớn lao như thế, nên ai cũng muốn chiếm hữu tranh giành. Do lòng tham lam của con người quá độ, nên ai cũng muốn chiếm đoạt tiền bạc tài sản cho nhiều về mình. Đó là mối họa hại rất lớn. Họ tranh giành chiếm đoạt bất chấp mọi thủ đoạn gian ác. Thậm chí ngay trong tình thân nhân ruột thịt máu mủ trong gia đình, người ta cũng có thể ra tay tàn sát lẫn nhau một cách không biết gớm tay. Chính cái lòng dục vọng si mê quá độ đó, nó che khuất làm mờ ám lương tâm, lương tri của con người. Quả đúng như một thi nhân nào đó đã nói:
“Tiền với bạc là nhân nạn khổ
Tiền xô người vào chỗ u minh
Tiền tài thay đổi tánh tình
Tiền gây nên cảnh đệ huynh tương tàn”.
Xét cho cùng, thì đồng tiền tự nó cũng không lợi mà cũng không hại. Lợi hay hại là do người ta sử dụng. Người ta làm ra tiền, nhưng phải khéo biết sử dụng nó. Xem nó như là một phương tiện giao dịch trong cuộc sống tạm bợ. Chúng ta quyết không làm nô lệ cho nó sai khiến. Đừng để nó sai khiến chúng ta làm những điều tội lỗi sai trái bất chánh. Có nhiều người họ khéo biết lợi dụng đồng tiền để làm những điều phước đức. Họ làm nhiều việc từ thiện bố thí thi ân giúp cho những người bất hạnh như: tàn tật, đau ốm, nghèo khổ v.v... Họ là người xem trọng đạo đức thương người nặng hơn đồng tiền. Đó là những con người thật đáng cho chúng ta noi gương và kính phục.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, đủ chứng minh cho ta thấy rõ điều đó. Các người con chỉ vì lòng tham lam, muốn lấy hết tiền bạc của người cha, nên họ đã dùng mưu chước thủ đoạn độc ác. Bề ngoài tưởng là họ có hiếu lắm, nhưng kỳ thật trong lòng thì họ muốn lấy hết tài sản của người cha. Đến các người con dâu cũng thế. Họ cùng toa rập đồng lỏa với nhau. Mục đích của họ là phải vơ vét cho sạch túi ông già.
Sau khi vét sạch túi rồi, họ trở mặt hất hủi bỏ bê người cha. Họ đối xử tệ bạc với người cha còn thua người dưng nước lã. Thế là, ông già chỉ còn có nước phải ôm hận nuốt tủi gạt lệ khóc thầm mà bỏ nhà ra đi. Ông đi lang thang rày đây mai đó để xin ăn. Tất nhiên là ông phải ngủ nơi đầu đường xó chợ, lấy đất làm chiếu, lấy sương làm mền. Ngẫm kỹ lại, con ruột của mình mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng không biết bao công lao mồ hôi khó nhọc, mà nó còn đối xử tệ bạc với mình như thế, trách gì là dâu rể. Nói thế, chúng ta cũng không nên quơ đũa cả nắm. Xét ra, ở đời, cũng có người vầy người khác.Vì tập khí nghiệp tánh sâu cạn của mỗi người có sai biệt. Có những người dâu, rể họ rất kính nể biết điều. Họ đối xử rất tốt với cha mẹ vợ hoặc chồng, có đôi khi còn hơn con ruột của mình nữa. Họ là người biết tôn trọng lễ giáo. Họ luôn tỏ ra lòng kính trọng biết ân đối với các đấng sanh thành giáo dưỡng. Tuy nhiên, hạng người nầy, phải thành thật mà nói rất là hiếm có trên đời. Nếu không muốn nói là lác đác thưa thớt như lá mùa thu. Chính vì cái hiếm có đó, nên các bậc làm cha mẹ mới yêu thương quý mến họ rất mực.
Ông già tuy bị dâu con hất hủi, nhưng ông cũng còn có phước duyên đến gặp Phật. Ông đã được Đức Phật chỉ bày phương cách để thuyết phục các con. Mục đích là để cho chúng nó biết lỗi mà hồi tâm phục thiện. Cuối cùng, ông cũng đã được các người con đem về nuôi dưỡng chăm sóc tử tế đàng hoàng. Điều quan yếu hơn nữa, là ông và các người con đều phát tâm cúng dường phẩm vật cho Phật và chúng Tăng. Đồng thời nghe Phật giảng dạy khuyên bảo nên cả nhà đều được chứng Sơ quả Tu đà hoàn.
Pháp cú trên, Phật nói con voi Tài Hộ (Dhamapalako), nghĩa là bảo hộ tài sản. Con voi này tuy đến kỳ phát dục thì nó hung hăng khó trị, khó buộc trói, lại bỏ ăn mà tâm thường chỉ tưởng nhớ rừng sâu. Nhớ rừng sâu là nhớ nơi nguồn gốc trú ẩn an toàn của nó. Dù là hung hăng dữ tợn, nhưng voi vẫn nhớ đến cội nguồn. Nói lên điều nầy, Đức Phật nhằm thức nhắc con người dù có hung ác đến đâu, cũng phải nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn đó chính là tổ tiên ông bà cha mẹ. Nói rõ ra là các đấng sanh thành dưỡng dục. Rộng hơn là quê hương đất nước nơi mà mình đã sanh ra và trưởng thành. Là con người, tất nhiên chúng ta phải có lòng tri ân và báo ân đối với các bậc tôn trưởng. Nhất là đối với bốn ân sâu nặng lớn: “Cha mẹ, thầy tổ, đàn na thí chủ và quốc gia thủy thổ”. Nếu con người quên mất cội nguồn nầy, thì Phật nói, không bằng con voi, tức thua loài thú vật vậy.
325. “Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi.”Lược giải
325. Như heo kia ưa ngủ lại tham ăn, kẻ phàm ngu vì tham ăn ưa ngủ, nên phải bị tiếp tục sanh mãi trong vòng luân hồi.
When a man is sluggish and gluttonous, sleeping and rolling around in bed like a fat domestic pig, that sluggard undergoes rebirth again and again.
Kệ tụng
Người ưa ngủ, tham ăn
Lăn lóc nằm qua lại
Chẳng khác heo no bụng
Tục sanh mãi luân hồi
Lược giảng:
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vua Ba tư nặc.
Truyện tích kể lại: “Có một lúc, vua Ba tư nặc thường ăn rất nhiều cơm nấu với càri, nước sốt gia vị. Ngày kia, sau bữa điểm tâm dồi dào quá độ, cơ thể và tâm tư ngầy ngật, nhà vua đến chỗ Phật, đi tới đi lui trước mặt Ngài với vẻ thật mệt mỏi. Nhà vua chỉ muốn nằm lăn ra ngủ mà không được nên đến ngồi xuống một bên Phật. Đức phật thấy thế bèn hỏi:
- Đại vương, trước khi đến đây Ngài chưa được ngủ nghỉ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không phải. Con luôn khó chịu sau khi ăn no.
- Nầy Đại vương! Ăn uống vô độ thường đưa đến sự mệt mỏi.
Nhân đó, Phật nói Pháp cú trên. Muốn giúp nhà vua Phật dạy thêm:
Người khôn ăn uống vừa chừng
Thân tâm nhẹ nhỏm, lâu già, sống vui.
Phật bảo hoàng tử Uttara (Uất đà):
- Con hãy học thuộc bài kệ nầy, và mỗi khi nhà vua ngự yến, con đọc lên theo cách sau và nhà vua sẽ tự ngừng.
Xong, Phật dạy cho hoàng tử cách làm. Hoàng tử tuân theo lời Phật dạy. Và sau một thời gian nhà vua ăn uống nhỏ nhẹ, giảm bớt trọng lượng và trở nên dễ chịu. Nhà vua thường xuyên đến thăm Phật, tổ chức lễ hội dâng cúng phẩm vật tối thắng trong bảy ngày. Khi Đức Thế Tôn nói lên lời hồi hướng, cả hội chúng triều đình đều được ích lợi lớn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 198)
Ăn uống tuy là để nuôi sống giúp cho người ta có thêm sức khỏe cường tráng để hoạt động, làm công kia việc nọ. Nhưng nếu người ta không khéo biết điều chế ăn uống, thì nó cũng trở thành một họa hại rất lớn. Bởi thế nên người xưa nói: “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Câu nói nầy như là một định lý bất di bất dịch. Ở đời có lắm kẻ chết vì cái lỗ miệng và cũng có nhiều người chết vì ăn uống. Nhất là ở các xứ văn minh tân tiến, vật chất dồi dào, thực phẩm thừa thải. Là con người ai lại không thích ăn uống. Ăn uống cũng là một cách hưởng thụ khoái lạc của con người. Vì nó là một trong “tứ khoái”. Hơn nữa, nó lại là một trong năm món dục lạc: “tài, sắc, danh, thực, thùy”.
Đối với thực phẩm ngày nay, có chứa quá nhiều độc tố. Bởi do ảnh hưởng nhiều thứ hóa chất đều do con người tạo ra. Thậm chí, những thức ăn thiên nhiên, không còn tinh khiết như ngày xưa nữa. Khắp mặt đất, thậm chí dưới sông, dưới biển, nơi nào cũng có chất độc. Thử hỏi những chất độc nầy do đâu mà ra? Một câu trả lời ngắn gọn: xin thưa: “tất cả đều do loài người tạo ra”. Chính con người giết chết con người chớ không ai khác.
Người ta vì lòng tham vọng quá lớn lao, ai cũng muốn làm bá chủ hoàn cầu, nên họ thi đua với nhau tạo ra đủ loại vũ khí hạt nhân nguyên tử. Để biết sự tác hại của nó tới đâu, người ta không ngần ngại mang nó ra đem thử dưới lòng biển, hoặc trên đất liền. Như thế, thì thử hỏi làm sao nhơn loại có được một môi trường sống an lành trong sạch cho được? Ngoài ra, hằng ngày họ còn cho thải ra không biết bao nhiêu lượng khí độc làm ô nhiễm bầu khí quyển. Con người sống cũng phải nhờ vào sự hít thở không khí của trời đất ban cho mà sống. Nhưng không khí hiện nay đã bị ô nhiễm đến mức độ phải báo động trầm trọng. Các nhà bảo vệ môi sinh phải la làng kêu gọi cầu cứu. Kêu gọi mọi người hãy ý thức cùng nhau bảo vệ môi sinh. Nếu không, thì họa hại không thể lường được.
Thế thì, thử hỏi làm sao con người không sanh ra nhiều thứ chứng bệnh nan y cho được? Con người đâu phải chỉ có ăn và uống không mà có thể sinh tồn, tất nhiên, còn phải nhờ vào những thứ khác nữa, mà cái quan trọng nhứt giúp cho người ta sống được đó là nhờ hít thở không khí. Một mặt, các nhà khoa học, ngày đêm miệt mài cặm cụi nghiên cứu tìm đủ mọi phương cách để chữa trị nhiều chứng bệnh nan y cho con người. Mục đích là để cứu vãn duy trì mạng sống, vì mạng sống của con người rất quý giá. Mặt khác, người ta lại vì túi tham không đáy, muốn giàu có, quyền uy thế lực cao tột nhứt thiên hạ, nên họ bất chấp những hậu quả tai hại của chất độc, họ sống vô ý thức cứ tiếp tục gây ra, ai chết mặc ai. Nhưng họ lại quên rằng, trong đó có họ, thân bằng quyến thuộc và đồng loại của họ. Đó là một hậu quả tai hại rất lớn, chính do lòng tham dục cao độ của con người gây ra.
Ngày xưa, người ta sống ít bệnh đau, là nhờ ăn uống có điều độ và thức ăn thiên nhiên tuy đơn sơ, nhưng có nhiều sinh tố thanh khiết, như các loại ngũ cốc hoa quả v.v... Nhờ ăn uống đơn giản đạm bạc mà đời sống tinh thần của họ cũng được thoải mái. Người ta ít có lo âu, sầu muộn, tính toán, dự án, mưu mô, thủ đoạn gian xảo v.v… nhiều như thời đại khoa học điện tử máy móc hiện nay.
Ngày nay thì có khác. Người ta bị nhiều chứng bệnh nan y phần lớn là do ăn uống mà ra. Theo thống kê cho biết, mỗi năm ở Mỹ, có hơn 500.000 người chết vì bệnh ung thư. Trong số đó 1/3 những cái chết liên quan đến việc ăn uống và thiếu vận động. Nhất là đối với người trọng tuổi, thiếu vận động thể dục, thể thao, nên rất dễ gây ra bệnh hoạn. Một câu hỏi được đặt ra là: muốn ngừa bệnh ung thư phải ăn uống như thế nào? Vấn đề nầy đã có nhiều sách vở hướng dẫn của các bác sĩ. Theo bác sĩ Nguyễn văn Đức, trong bài viết: “Sống sao để tránh ung thư” đăng trong quyển Y Học và Đời Sống, xuất bản năm 2003, có đoạn ông viết: “Hiện tại, người ta chưa thực hiểu rõ vai trò của thực phẩm đối với ung thư, nhưng, các điều tra dân số cho thấy trong nhóm những người ăn nhiều rau trái, ít thịt, ít mỡ động vật, số người bị các loại ung thư thường xảy ra giảm thiểu hơn những người trong nhóm thích ăn thịt, mở động vật, ít dùng rau trái”.
Nhìn lại, thời xưa, đời sống của Đức Phật và các thánh chúng, phần nhiều các Ngài ít có bệnh đau. Lý do tại sao? Vì các Ngài khéo biết điều hòa sự ăn uống và ngủ nghỉ. Đời sống của các Ngài thật đơn giản. Các Ngài chú trọng đến đời sống tinh thần nhiều hơn. Phần lớn các Ngài chuyên tâm thiền định. Đạo lực của các Ngài rất thâm hậu. Tâm có an thì thân mới lạc. Các Ngài một ngày ăn chỉ một bữa. Và nhất là các Ngài thường xuyên đi bộ. Không phải như ngày nay, hễ chúng ta bước chân ra khỏi nhà là leo lên xe. Chúng ta không có thói quen đi bộ. Có nhiều người rất lười đi bộ. Dù biết rằng, đi bộ là cách vận động tốt nhứt cho thân thể. Nhưng vì thói quen đi xe, nên dù khoảng cách rất gần nhà cũng phải lái xe đi. Các bác sĩ thường khuyên mọi người nên năng vận động bằng cách đi bộ. Đi bộ không tốn tiền mà lại vô cùng hữu ích cho cơ thể. Nhất là đối với người trọng tuổi, bác sĩ khuyên mỗi ngày đi bộ ít nhất là hai lần: buổi sáng và buổi chiều. Đi bộ vào buổi sáng khi mặt trời lên khoảng từ 8 đến 9 giờ, thì tốt nhất.
Đến vấn đề ăn uống cũng thế. Nhiều người lười nấu nướng hay đi ăn ở nhà hàng cho tiện. Thức ăn ở nhà hàng rất béo bổ ngon miệng. Càng béo bổ ngon miệng, càng giết chết con người. Lúc ăn uống thưởng thức món ngon vật lạ, có mấy ai nghĩ đến cái hậu quả của nó. Có người còn nói, sống mà không ăn uống hưởng thụ đủ hết mọi thứ mùi vị trên đời, nữa chết thành con ma đói khát thèm thuồng. Vì nghĩ thế, nên họ tha hồ thụ hưởng, tới đâu hay đó.
Có người lại thích ăn vặt, đồ ăn vặt thì chứa cất đầy tủ. Buồn miệng thì cứ lấy ra mà ăn. Thật là quá tiện lợi. Cứ tập thói quen ăn như thế, bảo sao không mập phì cho được. Càng mập phì lên cân chừng nào, thì càng sanh ra nhiều thứ bệnh chừng nấy. Nhất là bệnh tim mạch và các thứ bệnh khác. Sống, thì muốn sống lâu, nhưng ăn thì lại không chịu kiêng cử. Ngẫm lại, đời sống con người sao mà có quá nhiều mâu thuẫn?!
Nghĩ lại, ngày nay, chúng ta ăn uống thì nhiều, một ngày ba bữa ăn, mà sự vận động thì ít. Chính vì thiếu sự vận động đi bộ, thể dục, thể thao, nên cơ thể của chúng ta không được mạnh khỏe và hay sanh ra nhiều thứ bệnh hoạn.
Câu chuyện dẫn chứng trên là một minh chứng cụ thể. Vua Ba tư nặc, Ông có thói quen ăn nhiều quá mà không vận động thể dục, thể thao, nên cơ thể của ông càng lúc càng phát phì. Vua thì ăn toàn đồ bổ dưỡng, các loại trân tu sơn hào hải vị, thử hỏi làm sao mà không phát phì cho được. Nhất là ăn vào thì lại buồn ngủ. Ngồi đâu thì muốn ngủ đó. Đây là bệnh trạng của người già. Thấy thế, Phật khuyên ông nên ăn ít lại và bảo đầu bếp phải chọn lựa nấu thức ăn thích hợp cho ông. Nhờ thế, mà nhà vua giảm cân, bớt béo phì. Những người béo phì, thì khó mà sống lâu được. Tất cả cũng đều do ăn uống mà ra. Thiết nghĩ, chúng ta nên lấy đó làm một bài học và nghe theo lời Phật dạy mà điều chế sự ăn uống để có được sức khỏe sống lâu.
Pháp cú trên, Đức Phật cảnh giác thức nhắc chúng ta, không nên tham ăn mê ngủ giống như con heo, ăn rồi lăn ra nằm. Đời sống chỉ biết có ăn và ngủ, thì thật là đời sống vô vị, thừa thải. Nếu con người sống chỉ biết có ngần ấy, thì thật là uổng phí cho kiếp làm người!
326. “Trước tâm này buông lung,
Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự,
Như cầm móc điều voi.”Lược giải
326. Trong những thời quá khứ, ta cũng từng thả tâm theo dục lạc, tham ái và nhàn du, nhưng nay ta đã điều phục được tâm ta như con voi đã bị điều phục dưới tay người quản tượng tài giỏi.
Formerly this mind wondered about as it liked, where it wished and according to its pleasure, but now I shall thoroughly master it with wisdom as a mahout controls with his ankus an elephant in rut.
Kệ tụng
Trước tâm này buông lỏng
Chạy theo ái, dục, lạc
Nay tâm Ta điều phục
Như quản tượng điều voi.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chú tiểu Sànu.
Theo truyện tích, chú tiểu Sànu là con nhà mộ đạo. Sau khi được nhận vào Tăng đoàn, chú rất nhiệt tâm tu hành và có đạo hạnh. Chú làm tròn bổn phận đối với các bậc tôn túc. Chú có giọng tụng kinh rất hay. Các thầy Tỳ kheo khác thấy chú siêng năng cần mẫn chịu khó học tập, thường hay khuyến tấn và thích nghe giọng tụng kinh của chú. Khi các ngài yêu cầu tụng đọc, thì chú không bao giờ từ chối.
Khi trưởng thành tâm tánh của chú có đổi khác. Chú hay lười biếng và sống không có oai nghi đạo hạnh như xưa. Chú có ý muốn trở về nhà sống với cha mẹ. Bà mẹ của chú thấy chú về nhà một mình không có các thầy Tỳ kheo khác đi theo chú, mới hỏi lý do, chú bày tỏ là vì chú bất mãn, không muốn tiếp tục sống trong Tăng đoàn nữa. Nghe thế, bà mẹ hết lời khuyên bảo chú và tìm đủ mọi phương cách để thức nhắc ngăn cản chú. Bấy giờ có con quỷ Dạ xoa (bà mẹ tiền thân của chú) nhập vào xác của chú làm cho chú cả mình mẫy run lên giãy giụa bất tỉnh. Quỷ Dạ xoa không có ác ý muốn hại chú, mà chỉ là muốn thức tỉnh chú thôi. Thấy thế, bà mẹ ruột của chú ôm chú vào lòng và mọi người chạy đến cấp cứu cho chú tỉnh lại.
Sau khi đối đáp qua lại bằng những bài kệ giữa người mẹ ruột và quỷ Dạ xoa, cả hai đều ngầm ý khuyên chú nên tiếp tục tu hành. Chú không nên hoàn tục mà phải chịu nhiều đau khổ. Bằng những lời lẽ khuyên bảo thiết tha chân tình của hai người, cuối cùng, chú Sànu quyết từ bỏ ý định hoàn tục.
Sau đó, chú đã được bà mẹ dâng bình bát và đủ ba y cúng dường để cho chú thọ Tỳ kheo giới. Thế là, chú đã được Phật cho vào Tăng đoàn và Phật dạy: “Nếu một người để tư tưởng mình rong ruổi xa xôi, lâu dài, suy nghĩ đủ mọi chuyện mà không cố gắng kiểm soát, người ấy không thể đạt được giải thoát. Vì thế, phải nỗ lực kiểm soát tư tưởng, như người nài voi kiềm thúc con voi trong thời phát dục bằng móc sắt”.
Sau khi nghe Phật dạy, cả thính chúng và Sànu đều chứng được pháp nhãn. Về sau thầy Sànutrở thành một vị giảng sư tài giỏi thông suốt Tam tạng, sống 120 tuổi (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Đọc qua pháp cú trên, ta thấy Đức Phật lấy kinh nghiệm bản thân của Ngài trong quá khứ mà thức nhắc chúng ta không nên buông lung tâm ý. Vì đời sống buông lung phóng túng, là đời sống của con người sa đọa trụy lạc. Nhất là buông lung ở nơi tâm ý. Như nhiều lần Đức Phật đã từng dạy và nhấn mạnh đến hành động phóng dật của ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Đời sống của người có đạo hạnh là nhờ họ khéo biết điều phục được tâm. Vì tâm là chủ động tạo tác. Lời nói và hành động của thân, đều do tâm sai sử.
Tâm là biết, là hiện tượng suy tính. Đã là hiện tượng, tất nhiên nó là bóng mờ giả dối không thật. Nó từ bản thể khởi lên và không rời bản thể. Cũng như sóng từ nước dấy lên và sóng không bao giờ tách biệt khỏi nước. Làm sao sóng và nước có thể tách biệt ly khai thành hai phạm trù đối nghịch nhau cho được? Như vậy, điều phục tâm ý là Phật dạy chúng ta phải tu ở nơi cái gốc. Cái gốc vọng tưởng đã dừng, thì cái ngọn ở nơi lời nói và hành động cũng theo đó mà không còn tạo nghiệp. Nghiệp có ra là từ tâm vọng dấy khởi. Tức từ suy nghĩ tính toán của con người làm chủ động. Ở bình diện tương đối, thì Phật dạy người Phật tử phải nên suy nghĩ điều lành. Tâm nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm lành, đó là con đường hành thiện để tiến dần đến Diệu Quả Bồ Đề. Tu ở nơi ba nghiệp, đó là người Phật tử tự khéo biết xây dựng đời mình trên căn bản của đạo lý giác ngộ giải thoát. Khi ba nghiệp được thanh tịnh, thì người Phật tử đã giải thoát ngay trong cuộc đời nầy rồi. Đó là con đường ngắn nhứt dẫn người Phật tử chóng đạt được Niết bàn an lạc.
Cuộc đời nầy sở dĩ dẫy đầy những nỗi thống khổ đau thương, là vì nhơn loại không biết kềm chế ở nơi ba nghiệp. Cam phận làm nô lệ cho lòng dục vọng sai khiến. Tâm muốn điều gì thì chúng ta lại chiều theo điều ấy. Dù biết rằng, điều ấy sẽ đưa đến hậu quả rất xấu xa và tai hại. Biết thế mà vẫn làm, không tỉnh thức ngăn ngừa. Người ta cứ sống thả trôi theo dòng nước tâm ý xấu xa, mà không phút giây ngăn chận. Từ đó, gây ra muôn ngàn nỗi khổ đau cho nhau. Đức Phật khuyên bảo chúng ta, khoan vội tu ở đâu xa, mà chỉ tu ở nơi ba nghiệp. Đó là phương cách tu hành gọn nhứt và đạt được hiệu quả tốt đẹp rất cao.
Hòa bình, hạnh phúc, thật sự lòng người ai cũng mong muốn, chỉ trừ những kẻ mất hết tính người. Vì tham vọng của họ quá lớn, nên họ mới chủ trương chiến tranh mà thôi. Chiến tranh là mối thảm họa lớn nhứt của nhơn loại. Là con người đúng nghĩa thực chất của nó, thiết nghĩ không ai lại không chán ghét chiến tranh. Ước vọng chung của con người là muốn sống chung hòa bình. Nhưng xét kỹ lại, quả đó chỉ là ảo tưởng. Thực tế, thì thật khó mà có được. Vì con người còn quá nhiều tham vọng, mê chấp, bản ngã, ai cũng thấy mình là trung tâm của vũ trụ. Đã thế, thì làm sao mưu cầu hạnh phúc sống chung hòa bình cho được? Cho nên câu nói: “tâm bình thế giới bình”, đó chẳng qua chỉ là một ước vọng xa vời. Dù rằng, thực nghĩa của nó là như thế. Đức Phật thức nhắc mọi người, muốn có cuộc sống tương đối an vui hạnh phúc, thì mỗi người hãy tự điều chế tu ở nơi ba nghiệp, giống như người quản tượng điều phục được con voi hung hăng. Được thế, thì đó mới thật là người quản tượng giỏi.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về tâm buông lung của chú Sa di Sànu. Đó là cái bệnh chung của người tu. Lúc đầu thì chú rất siêng năng tinh tấn tu hành, nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Sau đó, thì cái tâm ban đầu tinh tấn kia càng ngày càng lui sụt. Tâm Bồ đề càng lúc càng thối thất. Người mới tu giống như giây đờn căng thẳng. Tu được một thời gian, thì giây đờn càng lúc càng chùng xuống dần. Ban đầu thì âm thanh của giây đờn khảy nghe rất trong thanh lảnh lót êm tai, nhưng được một chập, thì âm thanh kia không còn nghe được nữa. Chú Sa di Sànu lúc đầu thì tinh tấn, ai thấy cũng thầm khen ngợi, nhưng càng lớn lên, thì tâm tu hành của chú càng lười biếng chểnh mãng. Cuối cùng, thì chú thối tâm muốn bỏ cuộc. Cũng may, nhờ có bà mẹ của chú là người rất mực yêu thương chú và bà đã đánh thức chú bằng mọi cách, để cho chú tiếp tục tu hành. Rồi chú nhờ Phật chỉ điểm khuyến giáo, nên kết quả chú đã đạt thành sở nguyện. Chú đã trở thành một bậc Sa môn gương mẫu và thông suốt tam tạng ( Kinh, Luật, Luận ). Quả đó là một bài học gương mẫu cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta.
327. “Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy.”Lược giải
327. Hãy vui vẻ siêng năng, gìn giữ tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy.
Delight in heedfulness! Guard well your thoughts! Draw yourself out of this bog of evil, even as an elephant draws himself out of the mud.
Kệ tụng
Hãy vui không phóng dật
Khéo nhiếp phục ý tâm
Kéo mình khỏi ác đạo
Như voi bị sa lầy.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến con voi tên là Pàveyyaka.
Theo tuyện tích, “Vua Ba tư nặc có một con voi tên Pàveyyaka. Khi còn nhỏ nó rất mạnh, nhưng trở về già sức lực yếu đi. Một ngày nọ, nó lội ngang các hồ lớn, bị lún chân xuống bùn không bước được. Dân chúng kháo nhau:
- Xem kìa! Con voi hồi nhỏ mạnh như thế, bây giờ yếu như thế.
Nhà vua nghe tin, lập tức ra lệnh cho người quản tượng:
- Hãy kéo con voi ra khỏi đám bùn.
Người quản tượng đi đến bờ hồ, giả cách để cho voi thấy như mình sắp ra trận, đầu đội mũ sắt, trống đánh vang lừng.
Kiêu khí của con voi trổi dậy. Nó đứng lên mau mắn, và rút chân ra khỏi sình, bước liền lên đất khô. Các vị Tỳ kheo chứng kiến sự việc, về bạch Phật, Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo, con voi đã tự kéo mình ra khỏi sình lầy. Nhưng các ông bị đắm nhiễm trong bãi lầy dục vọng, hãy cố gắng với tất cả sức lực của mình để thoát ra”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 206).
Pháp cú nầy, Phật mượn hình ảnh con voi mạnh, yếu, sa lầy, rút chân ra khỏi sình lầy để so sánh với người tu hành. Voi lúc còn nhỏ thì mạnh, khi trở về già thì yếu. Điều nầy Phật muốn ám chỉ, người ta lúc mới tu, tức mới bước chân vào đạo, xem có vẻ tinh tấn lắm, như voi đang lúc mạnh khỏe, nhưng dần dần về sau thì lại lười mỏi không chịu tu học như trước, giống như con voi già yếu suy nhược.
Phật dạy, người tu hãy vui vẻ siêng năng, giữ gìn tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy. Lời dạy nầy, Phật nhằm cảnh giác chúng ta mỗi người phải tự nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào tha nhân. Tu hành mà còn ỷ lại tin cậy vào những hiện tượng bên ngoài, thì đó chưa phải là người tu học theo đạo lý giác ngộ. Bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ, tỉnh thức. Từ ngữ Buddha, có nghĩa là con người tỉnh thức. Phải hằng tỉnh thức ở nơi tự tâm. Phật bảo: “giữ gìn tự tâm để cứu mình ra khỏi nguy nan”. Muốn ra khỏi nguy nan, nghĩa là những nỗi khổ đau trong đường dài sanh tử, thì chỉ có chính mình tự cứu lấy mình mà thôi.
Những lời Phật dạy, chỉ có tác dụng giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Người tu học là phải nương theo ngón tay Phật chỉ để nhìn thấy mặt trăng. Ngón tay chưa phải là mặt trăng. Kinh điển chưa phải là giác ngộ. Nhưng khi chưa nhìn thấy mặt trăng, thì chúng ta chớ nên vội xa lìa ngón tay. Chưa đạt ngộ chân lý, chớ nên rời lìa kinh điển. Kinh điển là dụ như ngón tay để chúng ta nương vào đó mà tu học, vì đó thuộc về văn tự Bát nhã. Một khi đã đạt ngộ chân lý rồi, tức chứng được Thật tướng Bát nhã, thì không cần phải nương vào văn tự bát nhã nữa. Vô lý, đã thấy mặt trăng rồi mà còn chấp chặt vào ngón tay. Đó là thái độ của kẻ khùng điên.
Đạo Phật dạy chúng ta phải tự mình mạnh dạn đứng lên để tự cứu lấy đời mình. Đời mình vui hay khổ là chính do mình định đoạt lấy. Không có một bàn tay thần thánh nào cứu giúp cho mình thoát khổ. Đời mình mở ra hay buộc vào cũng chính do mình tự tạo. Mình tự trói buộc mình vào ngũ dục, lục trần, thì cũng chính do mình hãy tự tháo gỡ nó ra. Hiểu như thế, là hiểu đúng theo tinh thần giác ngộ của đạo Phật. Con voi kia, sở dĩ nó bị lún sâu vào sình lầy, là tại vì, một phần nó bị yếu đuối và một phần tự nó bước xuống bùn lầy. Không một ai bắt nó phải xuống đó để chiêu họa vào thân. Muốn cho nó rút chân ra khỏi sình lầy, thì chỉ có người quản tượng hiểu được nó. Và chính người quản tượng kia cũng không dùng tay của mình mà kéo dắt nó lên. Mà ông chỉ khéo léo dùng phương chước như một kẻ sắp ra trận, đánh trống la ó cổ võ làm cho voi hưng chí mà tự mình phấn đấu vượt thoát. Đó là cái khôn khéo dùng phương tiện của người quản tượng. Vì chỉ có chính ông mới hiểu ý con voi mà thôi.
Cũng thế, không ai bắt ta phải chui vào địa ngục thọ khổ, mà chính do ta tạo ra. Đức Phật dụ như người quản tượng, còn chúng sanh dụ như con voi kia. Chỉ có Đức Phật mới thấu hiểu hết căn bệnh tham ái của chúng sanh, nên Ngài dùng mọi phương chước, đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn, dùng mọi phương tiện pháp môn, để khéo dẫn dụ giảng dạy cho chúng sanh hiểu rõ để tự họ tu hành thoát khổ. Đó là tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật. Còn chạy theo nương cậy vào bên ngoài, mà không tự xoay về mình để quán chiếu tỉnh thức, thì đó không phải là người tu theo đạo Phật. Đạo Phật không chấp nhận vào sự ỷ lại tin cậy như thế. Bản thân Đức Phật là một chứng minh cụ thể. Chính Ngài tự cứu lấy đời Ngài. Ngài không bao giờ tin cậy vào bất cứ thần lực nào ngoài Ngài. Không ai có đủ quyền năng thưởng phạt cho mình. Thưởng hay phạt, Niết bàn hay địa ngục… tất cả đều do chính mình tự tạo lấy mà thôi.
328. “Nếu được bạn hiền trí
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy
Hoan hỷ sống chánh niệm.”
329. “Không gặp bạn hiền trí.
Ðáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi.”
330. “Tốt hơn sống một mình,
Không kết bạn người ngu.
Ðộc thân, không ác hạnh
Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi.”Lược giải
328. Nếu gặp bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lực, hàng phục được gian nguy, thì hãy vui mừng mà đi cùng họ.
If for company you find a wise and prudent friend who leads a good life, you should, overcoming all impediments, keep his company joyously and mindfully.
Kệ tụng
Nếu được bạn hiền trí
Đáng sống chung, khéo xử
Hãy chung sống hoan hỷ
Chánh niệm, diệt hiểm nguy.
329. Nếu không gặp được bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng.
If for company you cannot find a wise and prudent friend who leads a good life, then, like a king who leaves behind a conquered kingdom, or like a lone elephant in the elephant forest, you should go your way alone.
Kệ tụng
Không gặp bạn hiền trí
Đáng sống chung, khéo xử
Như vua bỏ nước bại
Hãy sống riêng cô độc
Như voi sống rừng sâu.
330. Thà ở riêng một mình hơn cùng người ngu kết bạn. Ở một mình còn rảnh rang khỏi điều ác dục như voi một mình thênh thang giữa rừng sâu.
Better it is to live alone; there is no fellowship with a fool. Live alone and do no evil; be carefree like an elephant in the elephant forest.
Kệ tụng
Tốt hơn sống một mình
Không người ngu kết bạn
Độc thân, không ác hạnh
Vô lự, như voi rừng.
Lược giảng
Ba pháp cú nầy, Phật dạy cho các thầy Tỳ kheo, khi Phật ở trong một khu rừng với con voi chúa Pàveyyaka.
Theo truyện tích, khi Phật ở Kosambi, các thầy Tỳ kheo thường hay xảy ra bất hòa tranh cãi với nhau. Đức Phật giải hòa nhưng không ai chịu nghe theo. Sau đó, Đức Phật bỏ đi vào rừng sâu một mình và Ngài làm bạn với con voi chúa tên là Pàveyyaka. Con voi chúa nầy hầu hạ Ngài rất chu đáo. Trong lúc đó, thì các hàng đệ tử xuất gia và tại gia, họ đều tỏ ra rất lo lắng cho Ngài. Mọi người yêu cầu Tôn giả A Nan cho họ gặp Đức Phật để nghe Phật thuyết pháp. Trước tình thế đó, Ngài A Nan không thể từ chối và rồi Ngài hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo đi vào rừng gặp Phật. Khi đến gần khu rừng, Ngài A Nan tự nghĩ, giữa lúc nầy mà ta dẫn năm trăm Tỳ kheo đến, không biết có thích hợp và Phật có chấp nhận cho gặp Ngài hay không. Tốt hơn hết là ta nên đi một mình vào gặp Phật trước. Con voi chúa thấy tôn giả A Nan đến, liền tỏ ra không hài lòng và nó có ý tung vòi tiến tới để quấn lấy tôn giả A Nan, khi ấy Đức Phật bảo:
- Hãy lui, Pàveyyaka, đừng xua đuổi người ấy. Đó là thị giả của Như Lai.
Voi chúa liền cuốn vòi lại và biểu lộ thái độ lễ phép với ngài A Nan. Sau khi đảnh lễ Phật, ngài A nan liền bạch với Đức Phật rằng, ngài có hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo đến để ra mắt Phật, nhưng hiện giờ họ còn chờ đợi ở ngoài rừng. Đức Phật cho phép họ vào. Sau khi đảnh lễ Phật, họ đều bày tỏ nỗi lòng lo lắng trong thời gian Phật sống một mình không có ai chăm sóc cho Phật. Hiểu ý, Phật nói:
- Nầy các Tỳ kheo, voi chúa Pàveyyaka đã làm giúp ta tất cả mọi việc. Đươc một người bạn như thế, sống độc cư cũng tốt. Và nếu không có bạn như thế, tốt hơn là nên sống một mình. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Nội dung ba pháp cú trên, Đức Phật nhằm nói lên việc kết bạn và sống chung trong tinh thần hòa hợp hỗ trợ cho nhau. Sống ở đời, dù người có khó tánh đến đâu, ít ra cũng phải có đôi bạn để tâm giao. Bạn hiền trí là người có thể giúp đỡ ta qua nhiều phương diện. Khi ta gặp cảnh ngộ hoạn nạn khó khăn hay những lúc ta bị bế tắc đau khổ về tinh thần, thì chính những người bạn hiền tốt sẽ giúp ta thoát qua cơn nguy nan đó. Muốn thế, thì Đức Phật khuyên chúng ta nên giao du và chọn bạn hiền. Nhưng phải là bạn đồng hành hiền trí. Bạn đồng hành có thể là cùng một nghề nghiệp hay cùng một lý tưởng. Như thế, thì tình giao kết giữa ta và bạn sẽ dễ cảm thông nhau hơn.
Pháp cú 328, Phật đã khuyên chúng ta như thế. Khi kết bạn để giao du, ta cần phải có sự chọn lựa kỹ càng. Ta nên phân biệt cho rõ qua những người bạn mà ta kết giao. Đối với những người bạn mà ta không coi trọng họ ở một vài phương diện cá tính nào đó, thì ta không nên lân la gần gũi thân cận với họ nhiều. Vì như thế, sẽ không có lợi ích gì cho ta cả. Còn đối với những người bạn mà ta thấy họ đối xử với ta một cách chân tình, không giả dối bề ngoài, không có ý đồ lợi dụng, không tìm cách bôi nhọ nói xấu nhau, đó là những người bạn hiền lương chân thật mà ta nên kết thân. Nhưng dù bạn chí thân đến đâu, ta cũng nên tiếp xử với bạn có giới hạn chừng mực và phải có lòng tôn kính bạn. Sự tôn trọng với nhau, đó là điều ta không nên coi thường, nếu như ta muốn tình bạn qua lại lâu dài. Đừng vì quá thân thiện mà ta không để ý đến lời nói và hành động của ta. Bởi tất cả đều còn là con người trần tục như nhau. Những thất tình, lục dục hỷ nộ ái ố v.v… vẫn còn mạnh bạo và nó hiện ẩn tàng trong mỗi con người. Chính vì còn quá nhiều tham, sân, si phiền não, nên khi giao tiếp với nhau, ta cần phải cẩn trọng. Không nên xem thường quá suồng sã mà sẽ có ngày xa nhau ân hận. Từ bạn chí thân trở thành thù địch, đó là chuyện thường tình ở thế gian. Ta phải cẩn trọng để ý điều nầy. Phật nói đối với những người bạn tốt, bạn hiền, biết cách cư xử, nghĩa là biết người, biết ta, cần giúp đỡ cho nhau, khi bạn bị hoạn nạn. Với hạng người như thế, thì Phật khuyên chúng ta nên hãy vui mừng mà đi cùng họ.
Pháp cú 329, Đức Phật nhắc nhở chúng ta: “nếu không gặp được bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng”. Bạn đồng hành mà phải hiền lương, hiền lương không chưa đủ mà cần phải có trí tuệ. Người có trí tuệ là người phán đoán nhận xét mọi việc rất sâu sắc. Họ không phải là hạng người bốc đồng nông nổi, nghe đâu theo đó, vui đâu chúc đấy. Đó là hạng người thuộc dạng “ba phải”, ta không nên giao du với họ. Đối với người bạn theo tiêu chuẩn mà Phật nói ở đây, trong xã hội ngày nay cũng không phải dễ kiếm. Ba yếu tố thiết yếu: đồng hành: cùng có chung một lý tưởng phục vụ. Hiền lương: tánh tình chân thật đạo đức, hòa ái, trung hậu. Giàu trí lự: phải có lý trí, khéo biết dung hòa giữa tình và lý trong tương quan nhận thức. Đó là ba yếu tố thiết yếu Phật dạy, khi chọn bạn kết thân, ta cần phải để ý.
Pháp cú 330, Đức Phật nhắc nhở chúng ta không nên kết bạn với những hạng người ngu dốt. Trong phẩm Hiền Trí, Đức Phật cũng đã từng dạy chúng ta không nên kết bạn với người kém hèn, mà phải kết bạn với những người lành, có chí khí cao thượng. Đọc lời Phật dạy đây, qua kinh nghiệm bản thân cũng như đối với bạn bè, ta thấy rất rõ khi giao tiếp hay sống chung với những người bạn kém học thức, thiếu suy nghĩ, họ làm cho ta thật nhức đầu bực mình về những ngôn từ và hành động của họ. Gặp phải những hạng người nầy, thì như lời Phật dạy, thà ở một mình còn khỏe trí hơn khi gần gũi tiếp xúc với họ. Như thế, là ta mới thật sự sáng suốt khi chọn bạn để giao du kết thân.
Qua những pháp cú trên, chúng ta chỉ tìm hiểu sơ qua về những việc cư xử giao tiếp qua lại thường tình của con người. Nhưng, thật ra, thâm nghĩa Phật dạy không hẳn chỉ có ngần ấy. Nó còn chứa đựng những ý nghĩa thâm trầm hơn. Tìm được một người bạn đồng hành, theo nghĩa lý sâu xa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Một người bạn, hơn nữa là một người thầy giác ngộ tỉnh thức chân lý, giữa thế gian nầy đâu phải dễ tìm. Một người bạn vượt thoát những ước lệ phàm tục, những giáo điều trói buộc, những tập quán thường tình, những tôn giáo nhãn hiệu, những quyền lực cai trị, nói chung, là những pháp thế gian hữu vi sinh diệt, còn nằm trong phạm trù nhị nguyên đối đãi. Có được người bạn như thế, thì chính đó mới thật sự là người bạn mà Phật dạy ta nên kết giao. Còn bằng không, thì chỉ còn có cách là phải đơn thân độc hành sống một mình trong cô đơn. Cô đơn không nằm trong ý nghĩa thường tình mà phải vượt lên trên vô thức. Làm một con người trần trụi buông thỏng hai tay giữa thế giới cuồng nhiệt tranh chấp hỗn loạn của cõi đời nầy.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, Tăng đoàn thời Phật không phải tất cả đều giữ hòa khí hết. Đối với người lậu hoặc phiền não không còn, thì đương nhiên những việc tranh cãi hơn thua bất hòa không có. Nhưng những vị mới tu, phiền não chưa sạch, tất nhiên không sao tránh khỏi những sự bất đồng. Dù đã được phước duyên lớn sống gần Phật, nhưng không phải việc gì các ngài cũng nghe theo lời Phật dạy hết. Điều nầy cho ta một bài học về giá trị của Lục Hòa. Sở dĩ có chuyện tranh cãi hơn thua, là vì các ngài không nghiêm chỉnh thật hành sáu phép hòa kính. Nếu trong một tăng thân, ai ai cũng tôn trọng giữ gìn Lục Hòa một cách nghiêm túc, thì chắc chắn đảm bảo sẽ không có chuyện tranh cãi phải trái hơn thua xảy ra.
Đó là bài học lớn mà chúng ta cần phải quan tâm thật hành. Nhất là, hiện ta đang sống trong đoàn thể tu hành. Nói rộng ra, là trong gia đình, xã hội, quốc gia cũng thế. Khi không dàn xếp được sự tình, Phật liền bỏ đi vào rừng. Sự bỏ đi của Phật không có nghĩa là Phật buồn giận (làm gì có chuyện đó). Nhưng thâm ý của Phật là nhằm thức tỉnh các vị Tỳ kheo tranh cãi nầy. Đó cũng là một phương cách giáo hóa của Phật. Thật vậy, khi vắng Phật, mọi người xôn xao bàn tán và muốn đi tìm gặp Phật. Những vị đó thỉnh cầu Tôn giả A Nan giúp hộ.
Dù là một bậc Thầy đáng kính, nhưng khi có mặt thường xuyên răn nhắc dạy dỗ, thì lại bị người ta coi thường. Chính cái niệm coi thường đó, nên gây ra nhiều việc bất ổn không hay. Ở đây, ta thấy sự vắng mặt của Phật thời gian tuy ngắn, nhưng đã gây cho mọi người sanh lòng hối tiếc. Đó cũng là một sự cảnh giác thức nhắc của Phật. Như thế, mới thấy sự hiện diện của Phật thật là vô cùng quý giá. Ngày nay, chúng ta thấy, có nhiều bậc Thầy đáng kính, thỉnh thoảng cũng vắng bóng lánh mặt ở trong chúng một thời gian, vì lý do nào đó xét thấy cần răn nhắc khuyến cáo trong chúng, phải chăng các vị đó cũng học theo phương cách giáo dục của Phật ở đây!
Khi các vị đó gặp Phật, Phật đem con voi chúa Pàveyyaka ra để chứng minh. Chính con voi nầy đã giúp hầu Phật đủ mọi thứ. Nhân đó, Phật dạy, sống chung mà không hiểu, thương, cảm thông, giúp đỡ lẫn nhau, thì tốt hơn hết là nên sống một mình.
331. “Vui thay, bạn lúc cần!
Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức!
Vui thay, mọi khổ đoạn.”
332. “Vui thay, hiếu kính mẹ,
Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn,
Vui thay, kính Hiền Thánh.”
333. “Vui thay, già có giới!
Vui thay, tín an trú!
Vui thay, được trí tuệ,
Vui thay, ác không làm.”Lược giải
331. Gặp bạn xa lâu ngày là vui, sung túc phải lúc là vui, mệnh chung có được thiện nghiệp là vui, lìa hết thống khổ là vui.
Good are friends when need arises; good is contentment with just what one has; good is merit when life is at an end, and good is the abandoning of all suffering (through Arahatship).
Kệ tụng
Vui thay gặp bạn cũ!
Vui thay sống biết đủ!
Vui thay chết có đức!
Vui thay thống khổ diệt!
332. Được kính dưỡng mẹ hiền là vui, kính dưỡng thân phụ là vui, kính dưỡng Sa môn là vui, kính dưỡng thánh nhơn là vui.
In this world, good it is to serve one’s mother, good it is to serve one’s father, good it is to serve the monks, and good it is to serve the holy men.
Kệ tụng
Vui thay kính dưỡng mẹ!
Vui thay kính dưỡng cha!
Vui thay kính Sa môn!
Vui thay kính hiền thánh!
333. Già vẫn giữ giới là vui, thành tựu chánh tín là vui, đầy đủ trí tuệ là vui, không làm điều ác là vui.
Good is virtue until life’s end, good is faith that is steadfast, good is the acquisition of wisdom, and good is the avoidance of evil.
Kệ tụng
Già có giới là vui
Tin chắc thật là vui
Đủ trí tuệ là vui
Ác không làm là vui.
Lược giảng
Ba pháp cú nầy, Phật dạy cho các ma vương khi Ngài ẩn tu trong núi Tuyết thuộc vùng Hy mã lạp sơn.
Truyện tích kể lại: “Khi đức Bồ tát còn ở trong thời kỳ tu ẩn dật ở trong dãy núi Tuyết (Himalaya), chế độ cai trị của các quốc vương khắc nghiệt. Và đức Thế Tôn trông thấy dân chúng bị nhiều hình phạt độc ác, Ngài động lòng thương xót. Ngài tự nhủ: “Tại sao không thực hành một chế độ công bình, chính trực, không có giết chóc, chinh phạt đau khổ”.
Khi ấy ma vương bắt gặp tư tưởng trên thoáng qua trong đầu đức Phật, hắn nghĩ: “Sa môn Cồ đàm vừa nghĩ đến việc cai trị. Có lẽ bây giờ ông ấy muốn làm vua, đó là một dịp cho ông ấy tán tâm. Nếu ông ấy ra nắm quyền cai trị, ta có thể cám dỗ ông ấy. Ta sẽ đến để gợi lòng tham ông ấy.”
Ma vương đến chỗ Phật và bảo:
-Thưa Ngài, hãy để đức Thế Tôn cai trị, hãy để bậc Tối Thắng cai trị, sẽ không có giết chóc, chinh phạt và khổ đau, mà chỉ có công bằng và chánh trực.
- Nầy Ma vương! Ông thấy ta thế nào mà nói như vậy?
- Thưa Ngài, một vị Phật có thể thi triển bốn phép mầu. Chỉ cần Ngài ra lệnh: Ngọn núi Himalaya hãy biến thành vàng, lập tức nó sẽ biến thành vàng. Tôi cũng sẽ lấy tài lực nầy để thực hiện tất cả những việc có thể thực hiện bằng tài lực. Như thế, Ngài sẽ cai trị công bằng chánh trực. Phật bảo:
Lòng tham người không thỏa
Dù có núi tử kim
Biết vậy, người khôn tìm
Đường thẳng ngay tiến bước.
Người đã sớm vẽ trước
Người nhân của khổ đau
Đâu có thể nào giao
Đời mình cho lạc thú?
Hãy để người đã thấu
Nhân sanh tử luân hồi
Tự tu tập điều phục
“Lưới ái” buộc bao đời.
Phật cảnh cáo Ma vương:
- Nầy Ma vương, ta khuyên ông một lần nữa, Ta không giống ông. Đó là điều Ta muốn nói”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 210)
Qua ba pháp cú Phật dạy trên, pháp cú 331, ta thấy Đức Phật nêu ra có 4 điều vui:
1. Gặp bạn xa lâu ngày là vui. Đây là tâm lý rất thường tình. Nếu là người bạn chí thân của ta, tức là bạn đồng hành, đã từng vào sanh ra tử với ta, khi xa vắng nhau lâu ngày, nay tình cờ bỗng gặp lại nhau, thì quả thật cả hai đều vui mừng không thể nào tả xiết. Điều nầy là một chứng nghiệm thực tế.
Đó là luận theo nghĩa thường tình trong cách đối nhân xử thế. Nếu luận về nghĩa lý thâm sâu hơn, thì chữ bạn mà Phật nói ở đây, đó là người bạn không tên tuổi, người “Bạn” mà không làm bạn với muôn pháp. Đây là người bạn mà ông Bàng Long Uẩn đã hỏi đức Mã Tổ: “Người không cùng với muôn pháp làm bạn là người gì?” Đức Mã Tổ bảo: “khi nào ông uống một hớp mà hết nước sông Giang Tây, thì ta sẽ nói cho ông nghe”. Người mà ông Bàng đã hỏi, không nằm trong bình diện là người thường nữa. Mà là một Người không tên tuổi họ hàng, siêu xuất thế gian, nhưng thực tế cũng không có gì là siêu xuất cả. Đối với người Bạn nầy, ta đã cách biệt quá lâu đời, từ vô lượng kiếp đến nay. Hôm nay, bỗng dưng gặp lại (tức nhận ra tánh giác hay bản tâm của mình) thì thử hỏi còn niềm vui nào có thể so sánh đây?! Đó mới thật là niềm vui tuyệt vời không lời diễn tả.
2. Sung túc phải lúc là vui. Sung túc là dồi dào đầy đủ. Sung túc phải lúc là như thế nào? Sung túc có hai nghĩa: vật chất và tinh thần. Sung túc về vật chất, nếu sự sung túc đó chính do bàn tay ta tạo dựng nên, bằng tất cả tâm huyết mồ hôi nước mắt, tạo dựng sự nghiệp chánh đáng lương thiện, thì Phật nói đó là sung túc phải lúc. Ngược lại, xây dựng sự giàu sang bằng cách vơ vét bóc lột xương máu của kẻ khác, thì đó không phải là sung túc phải lúc. Mà sự sung túc đó là bất nhân, bất nghĩa, phi pháp. Vơ vét của người làm của mình, đó là kẻ chuyên hút máu người để sống. Sống như thế, thật không hơn gì loài muỗi.
Sung túc về tinh thần, đây mới là sự sung túc đáng kể. Vì sung túc phần vật chất, chỉ là tạm bợ, vô thường, nay có, mai không, thay đổi bất thường. Còn sung túc phần tinh thần, tức là dồi dào phần giới hạnh đạo đức. Sung túc tinh thần, là do người ta khéo biết xây dựng đời mình trên căn bản đạo đức thanh cao. Nhờ có đạo đức tình người thanh cao sung mãn đó, nên tâm hồn của họ lúc nào cũng an vui, thanh thoát nhẹ nhàng thoải mái, không có gì ràng buộc họ. Đó là tinh thần giải thoát. Thứ sung túc đạo đức chân thật nầy, mới thật sự là bền bỉ lâu dài, xài hoài không hết. Đây mới thật sự là chơn hạnh phúc vậy.
3. Mệnh chung có được thiện nghiệp là vui. Thiện nghiệp là nghiệp lành. Có hai thứ nghiệp căn bản mà ta cần chú ý: thiện nghiệp và ác nghiệp. Nhờ tích lũy nghiệp lành trong đời sống hằng ngày, nên khi mạng chung, ta không còn lo âu sợ hãi. Vì ta biết chắc là ta sẽ đi theo thói quen lành mà ta đã gây tạo. Khi nhắm mắt đi theo hướng lành để thọ quả báo vui. Nếu khi sắp chết, ta có được một trợ duyên tốt, có bạn hiền nhắc nhở trợ niệm, khi đó, ta khởi niệm lành trong lúc tắt thở, thì chắc chắn là ta thác sanh vào cảnh giới an lành. Đó là cận tử nghiệp, tức thói quen niệm lành lúc gần chết. Ngược lại, thì là nghiệp báo khổ.
4. Lìa hết thống khổ là vui. Điều vui nầy rất là cụ thể rõ ràng. Không cần phải lý luận dài dòng. Hết khổ là vui, đó là điều thực tế nhứt. Nhưng Phật nói hết khổ ở đây, ta phải hiểu rõ nguồn gốc của nó. Cái gì gây ra cho ta phải chịu khổ? Khổ tuy rất nhiều, nói không thể hết, nhưng tóm lại, Phật nói chỉ có ba khổ và tám khổ. Ba khổ gồm có: Khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Tám khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết, thương yêu nhau mà phải xa lìa, mong cầu mà không được toại ý, oán ghét gặp nhau, năm ấm sung mãn lừng lẫy. Đó là tám nỗi thống khổ lớn của con người. Sở dĩ có những nỗi thống khổ lớn nầy, tất cả đều do vô minh phiền não gây ra. Muốn dứt khổ, thì phải diệt trừ hết vô minh phiền não. Khi tập nhân phiền não không còn, thì mọi quả khổ đau ngang đó chấm dứt. Đó là Niết bàn an lạc. Đây mới là cái vui cùng tột vậy. Nhưng điều quan trọng là làm sao mới diệt hết vô minh phiền não? Đây là cả một vấn đề khó khăn, mà bất cứ hành giả nào cũng phải nhắm tới.
Đến pháp cú 332, Phật cũng nêu ra 4 điều vui:
1. Ở đời được kính dưỡng mẹ hiền là vui. Đây là niềm vui lớn nhứt trong cuộc đời của những ai còn mẹ để phụng dưỡng. Vì mẹ là cả một bầu trời dịu ngọt thương yêu. Công lao của mẹ thật không sao kể xiết. Tình thương của mẹ đã dành hết cho con. Con là núm ruột của mẹ. Người ta thường nói còn mẹ là còn tất cả, mất mẹ là mất tất cả. Thế mà, ở đời có những người con, khi mẹ còn sống lại đối xử với mẹ mình một cách tàn nhẫn tệ bạc. Họ tính với mẹ từng đồng từng cắc, không mẻ một đồng xu. Trong khi đó, họ quên công ơn sanh thành giáo dưỡng của mẹ như trời cao bể rộng. Đúng là tình mẹ bao la như bể đại dương. Chính vì sự tính toán đó, nên ca dao Việt Nam mới có câu:
Mẹ nuôi con như biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
Khi mẹ còn thì đối xử tệ bạc như thế, đến khi mẹ mất, thì họ lại ăn năn hối tiếc. Sự ăn năn hối tiếc đã quá muộn màng. Chi bằng khi mẹ còn sống ta hết lòng chăm nom phụng dưỡng. Được thế, thì dẫu cho sau nầy mẹ có mất đi, thì ta cũng đã mãn nguyện, không có gì phải hối tiếc khó chịu trong lòng.
2. Kính dưỡng thân phụ là vui. Đây là niềm vui khi được phụng dưỡng người cha. Cha với mẹ cả hai đều có công lao giáo dưỡng con cái rất lớn. Vậy bổn phận làm con, chúng ta phải lo đền đáp báo ân cho cha mẹ. Lòng tri ân và báo ân là nghĩa cử cao đẹp tối cần thiết của đạo làm người. Mất đi yếu tính nầy, thì đạo làm người đã mất. Nói cách khác, là ta không còn ý nghĩa của một con người nữa. Ta nên lưu ý điều nầy, khi chăm sóc lo lắng phụng dưỡng cho cha mẹ, ta cần phải biểu lộ có thái độ cung kính. Nếu thiếu sự cung kính, thì dù cho ta có dâng lên bao thứ vật phẩm có giá trị cao, cũng không thể nào làm cho cha mẹ vui lòng được. Cho nên, sự phụng dưỡng không phải chỉ biểu lộ bằng vật chất không thôi, mà cần phải biểu lộ bằng tinh thần. Tinh thần, đó là sự cung kính bằng tất cả tấm lòng. Khi cha mẹ vui, thì chính ta mới có được niềm vui rất lớn. Nên Phật nói: kính dưỡng thân phụ là vui.
3. Kính dưỡng Sa môn là vui. Sa môn là những vị xuất gia đã thọ đại giới (giới luật của Tỳ kheo 250 giới). Những vị chân chánh tu hành có giới đức cao, ta phải hết lòng kính trọng. Được duyên lành cúng dường cho các ngài, đó là điều diễm phúc rất lớn. Sự cúng dường nầy, ta phải biểu lộ bằng tất cả tâm thành. Ta nên nhớ, cúng dường phải được biểu lộ cả hai: vật chất và tinh thần. Vật chất là tùy khả năng chúng ta có, nhiều ít không thành vấn đề. Nhưng điều quan trọng là biểu lộ lòng thành cung kính. Chính sự cung kính nầy, mới là căn bản của sự cúng dường. Vì có cung kính, thì cả hai: người nhận và người cúng thí mới được lợi lạc. Lợi lạc là chúng ta được tăng trưởng phước đức. Nếu cúng dường bằng thái độ thiếu cung kính, thì chẳng những ta không được phước đức mà còn mang thêm cái trọng tội là cống cao ngã mạn khinh người. Như vậy, thì làm sao ta có được niềm vui. Muốn có được niềm vui trọn vẹn, thì ta nên vâng theo lời Phật dạy, phải thành tâm cung kính cúng dưòng các bậc Sa môn chân chánh tu hành.
4. Kính dưỡng Thánh nhơn là vui. Thánh nhơn là những vị tu hành đã dứt hết cội gốc phiền não. Thánh nhơn cũng có nhiều bậc cao thấp khác nhau. Như Phật là bậc Thánh nhơn cao tột trong các bậc Thánh. Thấp hơn là các vị Bồ tát hoặc A la hán trở xuống. Trong tứ quả Thanh Văn của hàng tiểu thừa, đều gọi chung là Thánh nhơn. Tức từ quả vị Tu đà hoàn trở lên. Trong hàng Bồ tát, cũng có nhiều cấp bậc khác nhau. Sự khác biệt nầy là căn cứ trên vấn đề diệt trừ phiền não, lậu hoặc, vô minh, nhiều ít. Kinh nói, hành giả diệt một phần vô minh là chứng được một phần pháp thân. Đối với các bậc nầy, mà ta thành tâm cúng dường, tất nhiên chúng ta sẽ được phước báo rất lớn. Cho nên, Phật nói: “kính dưỡng Thánh nhơn là vui”.
Pháp cú 333, Phật cũng nêu ra bốn điều vui:
1. Già vẫn giữ giới là vui. Người già thường là kém minh mẫn, trí nhớ lẩm cẩm, hay lẫn lộn. Nhưng đối với những giới luật đã thọ, mà vẫn nhớ gìn giữ đúng pháp, thì quả đó là niềm vui. Niềm vui là vì mình vẫn còn tâm trí sáng suốt, khéo biết phân biệt tà giới và chánh giới. Có nhiều người, khi còn trẻ mạnh khỏe, thì giữ giới rất nghiêm minh, nhưng đến khi già, thì lại hay sanh tật phá trai phạm giới. Có đôi khi lại còn trở đũa ngã mặn. Cho rằng, vì già yếu cần phải bổ dưỡng.
Xưa kia, ăn trường chay, nay lại ăn chay kỳ, thậm chí có người không còn giữ ăn chay ngày nào nữa cả. Họ còn lý luận ngụy biện là xưa kia, Phật có ăn chay lạt ngày nào đâu mà Ngài vẫn thành Phật. Thật là tội lỗi ! Họ quên rằng, Phật thì không còn vô minh phiền não. Ngài ăn không có phân biệt ngon dở, ăn chỉ cốt để có sức khỏe mà làm lợi ích cho chúng sinh. Ngược lại, chúng ta còn là phàm phu vô minh phiền não dẫy đầy, ăn thì còn chê khen ngon dở, rồi sanh tâm đắm nhiễm, khởi phiền não ghét thương, để rồi tạo nghiệp thọ khổ. Thế mà dám so sánh ngang hàng với Phật được ư? Quả thật, họ là hạng người điếc không sợ súng, không sợ đọa địa ngục. Đó là gì? Là do họ quá coi trọng xác thân mà phải phá trai phạm giới đã thọ. Đó là một sự thật, không thể biện minh chối cãi. Có thể họ vui với vật chất, vui trong đau khổ, chớ không phải cái vui của người tu hành lạc đạo, pháp hỷ sung mãn ở nơi tâm hồn.
2. Thành tựu chánh tín là vui. Chánh tín là ngược lại với tà tín. Tà tín thì không tin Tam bảo, nhân quả nghiệp báo. Đã thế, tất nhiên, là họ dễ sa đọa. Ngược lại, người có lòng tin chân chánh đúng hướng nhân quả, thì họ không gây tạo ác nghiệp. Không gây tạo ác nghiệp, thì họ không sa đọa vào tam đồ ác đạo. Nghĩa là họ không đi vào con đường đau khổ. Chẳng những họ không gây tạo ác nghiệp, mà họ còn biết gây tạo nghiệp lành. Khi tạo nghiệp lành ở nơi ba nghiệp, tất nhiên là hiện đời họ không gặp quả khổ, mà tương lai họ cũng được hưởng những quả lành. Thế thì, có niềm vui nào bằng! Sở dĩ họ được an hưởng niềm vui đó, là do họ có niềm tin chân chánh vào Tam bảo và lý nhân quả. Tất nhiên, họ đã thành tựu trọn vẹn được niềm tin chân chánh vậy.
3. Đầy đủ trí tuệ là vui. Người tu học Phật, nếu thiếu trí tuệ, thì khó có thể thành công trong sự tu hành. Trí tuệ là sự nghiệp quan trọng vĩ đại của người tu. Nhờ có trí tuệ, mới phân biệt được lẽ chánh tà chân ngụy. Nếu không có trí tuệ, thì sự tu hành giống như kẻ mù lòa đi trong đêm tối. Đã thế, tất nhiên khó tránh khỏi rơi hầm sụp hố. Hầm và hố sâu tội lỗi đang chờ đón họ. Người có trí tuệ giống như kẻ có con mắt tinh sáng. Nhìn xa thấy rộng và tránh khỏi nạn té hầm sụp hố. Tức tránh được những tội lỗi sai lầm. Do nhờ trí tuệ mà đưa hành giả mau đến bến bờ giải thoát an vui. Như thế, thì thử hỏi có niềm vui nào bằng. Nên Phật nói: “đầy đủ trí tuệ là vui”.
4. Không làm điều ác là vui. Người nào đã gây tạo nghiệp ác, chắc chắn lòng họ khó có được giây phút an vui. Vì sao? Vì khi gây điều ác, lòng họ luôn bồn chồn bứt rứt không an. Họ luôn lo sợ đủ thứ. Thí như kẻ đã ra tay giết người, thử hỏi lòng họ sẽ như thế nào? Có thể họ sẽ thỏa mãn lòng sân hận nhứt thời trong khi họ ra tay hành hung hạ sát đối phương, nhưng sau đó, họ phải lãnh lấy cái quả báo thê thảm. Cõi lòng họ ảm đạm như bãi tha ma. Họ không có được giây phút nào an ổn. Pháp luật sẽ không dung tha họ. Phải trừng trị thích đáng cái nhân ác mà họ đã gây. Và hình ảnh giết người kia, nó luôn luôn ám ảnh bám sát theo họ. Hình ảnh đó nó đã ăn sâu vào tâm thức của họ. Thế là, họ sẽ đối diện trong nỗi khổ cô đơn tuyệt vọng, với bốn bức tường đen tối mà họ đã bị giam cầm. Đó là một ngục tù hành hạ họ cả thể xác lẫn tinh thần. Một sự đau khổ cùng cực, ăn ngủ không yên. Nhất là, mỗi khi họ nhớ lại hình ảnh hung bạo giết chết mạng người rùng rợn khiếp đảm đó. Đó là chưa nói đến sự báo oán trả thù sau nầy. Cho nên, người nào muốn được hiện đời và đời sau an vui, thì Phật dạy, không nên gây tạo điều ác.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, có một vài đặc điểm mà chúng ta cần chú ý:
Điểm thứ nhứt, khi Đức Phật khởi nghĩ, ma vương thấy rõ điều Phật suy nghĩ. Đối với các loại quỷ thần, chúng nhìn thấy rõ tư tưởng của ta. Khi chúng ta nghĩ điều lành, điều dữ, điều xấu, điều tốt, chúng nhìn thấy một cách rõ ràng. Vì thế, nên người đời thường nói, không thể qua mắt quỷ thần là vậy. Mình có thể che giấu việc làm tội lỗi phi pháp của mình với người đời, nhưng làm sao có thể che giấu với quỷ thần. Quỷ thần còn không che giấu được, nói chi đến Phật, Bồ tát. Tại sao chúng thấy rõ như vậy? là vì khi chúng ta dấy niệm khởi nghĩ là nó có hình bóng của cái khởi nghĩ. Như chúng ta khởi nghĩ cái nhà, thì hình ảnh cái nhà liền in trên tâm thức ta. Còn nếu ta không khởi nghĩ bất cứ cái gì hết, thì quỷ thần không tài nào thấy được. Đó là đến chỗ bặt hết dấu vết. Người tu hành mà tâm được an định như thế, thì chắc chắn sẽ được giải thoát.
Điểm thứ hai, ma vương cám dỗ khuyến dụ khi chúng ta khởi nghĩ điều ác. Đó là cơ hội tốt nhứt để ma vương dẫn dắt xúi giục chúng ta hành động sai trái. Do đó, tốt nhứt là khi khởi nghĩ, chúng ta không nên nghĩ điều xấu ác. Mà có lỡ khởi nghĩ, thì chúng ta phải cắt đứt ngay, đừng để kẻ hở cho ma vương lợi dụng xúi giục. Khi chúng ta đã nghe theo mệnh lệnh của chúng xúi giục sai khiến rồi, liền đó chúng ta thể hiện ra hành động ở nơi ba nghiệp sai lầm, thì đó là một tai hại rất lớn. Thế nên, chúng ta cần phải cẩn trọng dè dặt đề phòng.
Điểm thứ ba, chúng ta hằng phải có chánh kiến, chánh niệm. Có chánh niệm, tất nhiên chúng ta sẽ nhận rõ những ý niệm sái quấy, tội lỗi. Nhất là ý niệm tham lam theo danh lợi. Mà đầu mối của nó là vô minh. Chúng ta cương quyết không làm nô lệ cho vô minh lộng hành sai sử. Muốn thế, thì chúng ta cần phải có trí huệ. Có trí huệ mới có thể chiếu phá vô minh được. Vô minh phiền não không dấy khởi, thì ngay đó là chúng ta sẽ được giải thoát mọi khổ đau trói buộc vậy.
Phẩm Tham Ái
334. “Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như giây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng.”
335. “Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa.”
336. “Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen.”Lược giải
334. Nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài như giống cỏ Tỳ la na mọc tràn lan, từ đời này tiếp đến đời nọ như vượn chuyền cây tìm trái.
The craving of one given to heedless living grows like a creeper. Like the monkey seeking fruits in the forest, he leaps from life to life (tasting the fruit of his kamma).
Kệ tụng
Người sống mặc buông lung
Ái tăng như dây rừng
Sống đời này đời khác
Như vượn tham quả rừng
335. Nếu ở thế gian này, mà bị ái dục buộc ràng, thì những điều sầu khổ càng tăng mãi như loài cỏ Tỳ la gặp mưa.
Whoever is overcome by this wretched and sticky craving, his sorrows grow like grass after the rains.
Kệ tụng
Ai sống trong đời này
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng
Như cỏ Bi gặp mưa.
336. Nếu ở thế gian này, mà hàng phục được những ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ tự nhiên rụng tàn như nước giọt lá sen.
But whoever overcomes this wretched craving, so difficult to overcome, from him sorrows fall away like water from a lotus leaf.
Kệ tụng
Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu khổ tự tiêu dần
Như nước giọt lá sen.
337. “Ðây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây.
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau.”Lược giải
337. Đây là sự lành mà Ta bảo với các ngươi: các ngươi hãy dồn sức vào để nhổ sạch gốc ái dục, như người muốn trừ sạch giống cỏ Tỳ la phải nhổ hết gốc nó. Các ngươi chớ lại để bị ma làm hại như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy!
This I say to you: Good luck to all assembled here! Dig up the root of craving, like one in search of the fragrant roots of birana grass. Let not Mara crush you again and again, as a flood crushes a reed.
Kệ tụng
Đây sự lành Ta dạy
Các ngươi tụ họp đây
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi
Chớ để ma quân hại
Như nước tràn cỏ lau.
Lược giảng:
Bốn pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện con cá vàng Kapilamaccha.
Theo truyện tích, thuở xưa, thời đức Phật Ca Diếp, có hai anh em sanh trưởng trong một gia đình quý tộc, lớn lên xuất gia làm Sa môn. Người anh tên Sodhana và ngưòi em tên Kapila. Người mẹ Sàdhini và cô em gái Tàpanà cũng xuất gia làm Tỳ kheo ni. Sau khi xuất gia, hai anh em đều làm tròn bổn phận của một vị Sa môn. Một hôm, họ hỏi thầy Giáo thọ một người xuất gia có bao nhiêu bổn phận chánh yếu? Thầy Giáo thọ trả lời: có hai bổn phận chánh yếu: học và thiền định.
Nghe thế, người anh quyết tâm tu tập thiền quán và kết quả chứng A la hán. Ngược lại, người em thì chuyên tâm học hỏi thông suốt Tam tạng, không tu thiền định, bị con ma tham danh lợi quyến rũ, lại tự cao tự phụ, cậy mình học giỏi, khinh miệt các bậc tôn túc giới đức, kết bè lập phái, bất chấp lời khuyên giải của người anh, một bề hống hách, cuối cùng, thầy Kapila bị đọa vào địa ngục A tỳ.
Thời ấy, có năm trăm tên cướp, bị luật pháp truy tầm, nên cả thảy chạy vào rừng sâu ẩn náu. Bấy giờ, bọn họ gặp một vị ẩn sĩ và xin vị đó cho họ nương tựa. Vị ẩn sĩ bảo họ: không có nơi nương tựa nào an ổn bằng nương tựa vào đạo đức. Vậy, các anh có thể giữ năm giới được không? Tất cả đều đồng ý. Vị ẩn sĩ lại khuyên họ, các anh đã nguyện giữ năm giới cấm, từ nay về sau gặp phải bất cứ nghịch cảnh khó khăn nào, dù nguy hại đến tánh mạng, các anh cũng không được phạm giới. Họ nguyện quyết tâm vâng giữ.
Không bao lâu, dân làng biết được chỗ ẩn náu của họ, nên bọn họ đều bị dân làng giết sạch. Nhờ giữ giới luật trong sạch, nên tất cả đều được sanh lên cõi trời. Trải qua nhiều kiếp tái sanh đều được hưởng phước báo ở cõi trời.
Khi hưởng hết phước báo ở thượng thiên, cả bọn họ đều tái sanh ở nhân gian. Họ cùng tái sanh trong một ngày, vào thời của đức Phật Thích Ca còn tại thế. Riêng Kapila, sau khi mãn kiếp địa ngục, do dư báo của nghiệp ác, nên thầy tái sinh làm con cá nơi dòng sông Aciravati. Mình cá thì vàng óng nhưng hơi thở thì hôi thúi vô cùng.
Cá vàng lọt vào lưới của bọn trai dân chày trong làng. Biết được loại cá quý, bọn họ mang cá lên yết kiến nhà vua. Nhà vua nhìn thấy lấy làm lạ mới đem trình lên Phật và hỏi nguyên do về con cá vàng đó. Phật kể lại tự sự về tiền kiếp của Kapila trong thời Phật Ca Diếp. Tuy mang nghiệp ác mắng nhiếc các bậc Sa môn chân chánh tu hành, nhưng nhờ tụng đọc kinh điển, giảng pháp tán Phật, nên kết quả thân cá mới có được màu vàng đó.
Sau khi nghe Phật kể xong tiền kiếp của Kapila và những người thân trong gia đình, bà mẹ và người em gái cũng bị đọa địa ngục, vì tội phỉ báng Sa môn, chỉ có người anh là Sodhana nhờ tu thiền định mà được giải thoát. Nghe xong, tất cả thính chúng đều xúc động, lông tóc dựng ngược cả lên. Nhân đó, đức Phật nói bài kệ:
Hằng sống trong chánh kiến,
Hằng tu hạnh thanh tịnh,
Đấy hạt ngọc sang đẹp,
Quý hơn trong tất cả.
(Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Ái dục nguyên tiếng Phạn là Tanhà, nó có nghĩa là luyến ái, khát khao, bám víu. Có ba loại ái dục:
1. Dục ái: lòng ham muốn đam mê đắm nhiễm không rời ngũ dục, lục trần.
2. Hữu ái: thích thụ hưởng những thứ khoái lạc vật chất làm thỏa mãn ở nơi thân thể. Trong lúc thụ hưởng dục lạc, nghĩ rằng, sau khi chết không còn gì cả, đây là chủ trương thỏa mãn dục tính của phái Đoạn Kiến. Không sợ tội lỗi luân hồi nghiệp báo.
3. Vô hữu ái: Trong khi đam mê thụ hưởng khoái lạc vật chất, nghĩ rằng, đời đời sanh ra sẽ tiếp tục thụ hưởng, đây là thuộc về phái Thường Kiến hữu ái (Bhavatanha). Họ cho rằng, việc thụ hưởng khoái cảm vật chất nầy sẽ vĩnh cửu trường tồn bất diệt.
Bhavatanha (hữu ái) có khi được giải thích là sự đam mê luyến ái bám víu theo sắc giới và Vibhavatanha (hy hữu ái) là sự luyến ái đeo níu theo vô sắc giới.
Ái và dục là căn nguyên của sanh tử luân hồi. Trong Kinh Đại Bảo Tích ở phẩm Nhựt Mật Bồ Tát, Phật dạy: “ái là căn bản trong tất cả phiền não”.Từ ái sanh dục, từ dục sanh ưu, từ ưu sanh khổ não. Đó là một vòng tròn lẩn quẩn khổ đau mà hết thảy chúng sanh đều bị vướng mắc. Trong mười hai nhân duyên “Ái” và “Thủ” là đầu mối hay nguyên nhân gây ra quả khổ đau trong hiện tại. Luận cho cùng, ái và dục cũng phát sanh từ tâm vọng khởi. Vậy tâm mới thật sự là cội gốc. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi gốc rễ luân hồi thọ khổ, thì không còn cách nào hơn là phải đoạn trừ ái dục. Đây là nói đối với những hành giả tu theo hạnh xuất thế. Tức tu theo hàng Nhị thừa, hay Bồ tát thừa hoặc là Phật thừa. Ngược lại, nếu chúng ta tu theo Nhân và Thiên thừa, tất nhiên, không thể nào đoạn hết ái dục được. Vì ái dục nó có dục thiện và dục ác. Người tu theo hai thừa căn bản nầy, thì cần phải khử trừ dục ác mà giữ lại dục thiện. Vì nhờ có dục thiện, nên người ta mới tạo nhiều việc phúc thiện và làm lợi ích cho mọi người. Kinh nói: “tu hành vô dục, đạo quả nan thành”. Dục thiện là ước muốn hướng thượng cao đẹp, nhằm xây dựng bản thân, gia đình và xã hội có đời sống thánh thiện an vui hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu bạn muốn tu hạnh xuất thế, quyết vượt thoát khỏi vòng sống chết khổ đau, thì bạn phải hoàn toàn đoạn dục khử ái. Vì chính nó luôn làm cho bạn bất an. Nó khuấy động dẫn dắt bạn chạy theo nó không phút giây dừng nghỉ. Thất tình, lục dục là những thứ luôn làm cho mọi người phải bị điên đầu, điêu đứng vì nó.
Pháp cú 334, Phật dạy nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài. Thật vậy, lòng tham muốn khát vọng của con người, thật không bao giờ biết đủ dừng lại. Biển sâu đến đâu, người ta cũng còn có thể dò được, còn biển lòng của con người có đáy đâu mà đo! Quả đúng với câu nói của người xưa: “túi tham không đáy, đựng hoài không đầy, muốn mãi không thôi”. Nhưng người ta quên rằng càng tham muốn nhiều chừng nào, thì tất khổ lụy nhiều chừng nấy. Đời sống của những người không biết đủ, chắc chắn đời họ sẽ không bao giờ có hạnh phúc an vui. Bạn có thể cho rằng, những nhà tỷ phú, giàu có nhứt thế giới, đời sống của họ chắc là hạnh phúc lắm phải không? Nghĩ thế, bạn sẽ lầm to. Bề ngoài, tưởng là họ có nhiều tiền của hẳn là hạnh phúc lắm, nhưng kỳ thật, lòng họ không lúc nào an ổn. Họ là người luôn sống trong cô đơn và buồn chán. Đời họ chưa bao giờ có được hạnh phúc. Họ là người tính toán khổ tâm nhiều nhứt. Đầu óc của họ khó có được những giây phút an lạc thảnh thơi.
Ngược lại, đối với những người nghèo khổ, bạn cho rằng, đời họ sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Sự đoán định đó của bạn, theo tôi, cũng chưa hoàn toàn đúng hẳn. Ở đời, có lắm người nghèo khổ, nhưng lòng họ cảm thấy rất hạnh phúc, vì họ khéo biết đủ. Lòng họ lúc nào cũng tươi mát. Họ không tranh giành bon chen với đời. Họ là hạng người: “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Chỉ cần, khéo biết an phận tùy thời, thì đời họ sẽ có rất nhiều an lạc hạnh phúc. Tuy hai chữ hạnh phúc rất khó định nghĩa cho chuẩn xác, nhưng, theo tôi, thì lúc nào tâm bạn thật sự bình an, không làm nô lệ cho dục vọng sai khiến, dẫn dắt, thì chính ngay giây phút đó là bạn mới thật sự là người có hạnh phúc nhất trên trần gian nầy.
Đối với người không biết đủ để hạn chế bớt lòng tham dục, thì Phật nói, giống như loại cỏ Tỳ la na la mọc tràn lan từ đời nầy đến đời nọ và như vượn chuyền cây tìm trái. Phật nêu ra thí dụ cụ thể để so sánh tâm buông lung ham muốn vô độ của con người. Hình ảnh con vượn chuyền cây tìm trái, thật quá rõ ràng. Tâm chúng ta giống như con vượn chuyền nhảy phan duyên không lúc nào yên. Nó chuyền nhảy để tìm trái, đó là trái ngũ dục, lục trần. Khi nào vượn không còn chuyền nhảy tìm trái nữa, thì khi ấy, vượn mới thật sự có hạnh phúc. Cũng thế, chỉ có khi nào tâm ta chịu dừng lại, không còn săn đuổi đắm nhiễm theo sáu trần, thì khi ấy đời ta mới thật sự có hạnh phúc an lạc.
Pháp cú 335, Phật dạy, nếu ở thế gian nầy mà bị ái dục buộc ràng, thì những điều sầu khổ càng tăng trưởng mãi như loài cỏ Tỳ la gặp mưa. Ai cũng biết, ái dục từ tư tưởng sanh, nếu tư tưởng không sanh khởi thì làm gì có ái dục? Loài cỏ Tỳ la bản chất của nó là mọc lan tràn, đã thế, mà còn gặp mưa nữa, thì nó lại càng tăng trưởng tốt tươi mạnh mẽ hơn. Cũng vậy, lòng người vốn là ham muốn không dừng, nay lại gặp những thứ vật chất, toàn là những thứ đầy sức quyến rũ hấp dẫn, thử hỏi làm sao tâm người ta không buông lung tham đắm cho được? Khi khởi một niệm tham muốn thèm khát một đối tượng nào đó, là ta đã bị cái đối tượng đó nó ràng buộc siết chặt ta rồi. Siết chặt như niềng kim cô trên đầu Tôn Hành Giả. Mỗi lần bị siết chặt đau đớn khó chịu như thế, ta thấy thật là tội nghiệp cho Tôn Hành Giả quá! Ngẫm kỹ lại, ta đã bị những niệm tham dục thèm khát, chúng siết chặt ta đau đớn sầu khổ không khác gì thân phận của Tôn Hành Giả. Muốn tránh nỗi khổ đau đó, chỉ có cách là ta phải gấp rút chuyển hóa những hạt giống thèm khát tham muốn của ta. Có thế, thì đời ta mới thật sự an vui hạnh phúc vậy.
Pháp cú 336, Phật dạy: “nếu ở thế gian nầy mà hàng phục những ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ tự nhiên rụng tàn như nước giọt lá sen”. Lời Phật dạy tuy nhiều, nhưng ta có thể tóm gọn trong bốn chữ: “Giác ngộ giải thoát”. Giác ngộ là nhận diện trực giác cái hiện hữu đang xảy ra. Giải thoát là mở trói tháo gỡ những buộc ràng. Sự tháo gỡ không phải từ bên ngoài, mà chính trong tâm thức của mỗi người. Vì trong tâm thức của mỗi người có quá nhiều phiền não rối rắm, nội kết. Gốc của “nội kết” làm ta đau khổ là ái dục. Đó là thứ nội kết lớn. Thứ nội kết nầy không phải dễ hàng phục chế ngự. Nếu người nào hàng phục và chế ngự được nó, thì hẳn nhiên người đó sẽ là kẻ chiến thắng. Một sự chiến thắng hùng dũng oanh liệt nhứt. Đó mới thật sự giải thoát. Đã thế, thì mọi ưu tư sầu khổ, sợ hãi sẽ không còn nữa. Nên Phật nói: “như nước giọt lá sen”. Nước và lá sen không hề dính dáng gì nhau. Nghĩa là tâm và cảnh không còn liên quan dính mắc nữa. Tâm là tâm, cảnh là cảnh. Đến đây, mới thật sự như Ông Bàng Long Uẩn đã nói:
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ đề đạo bất thành.
Pháp cú 337, Phật bảo chúng ta phải nhổ sạch gốc ái dục, giống như nhổ cỏ phải nhổ cho hết gốc rễ của nó.Phật còn thức nhắc chúng ta thêm rằng: “các ngươi chớ để bị ma làm hại như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy”.Ái dục có gốc rễ rất sâu dày. Muốn nhổ tận gốc rễ của nó, thật không phải là chuyện dễ dàng. Người tu, nếu không có ý chí kiên quyết mãnh liệt và thanh kiếm trí tuệ sắc bén, thì khó có thể đoạn trừ ái dục lắm. Thường chúng ta rất yếu đuối, luôn bị nó khống chế sai sử. Nó sai sử chúng ta không phải trong hiện đời nầy thôi, mà còn trải qua vô lượng đời trong quá khứ. Do đó, nên Phật nói gốc rễ của nó rất sâu dày. Khi nó không hoạt động, ta cứ ngỡ là nó không có, nhưng sự thật, đó là lúc nó đang phục kích tiềm ẩn. Bởi bản chất của nó là tập khí. Bình thường ta không thấy hơi hám của nó ở đâu, nhưng khi đối cảnh xúc duyên, thuận hoặc nghịch cảnh, thì chừng đó ta mới thấy nó xuất đầu lộ diện. Nếu là thuận cảnh thì nó hiện tướng khoái cảm thích thú. Nếu là nghịch cảnh không vừa ý, thì nó hiện tướng hung hăng dữ tợn, thật đáng ghê sợ. Muốn mà không đáp ứng đúng theo nhu cầu thỏa mãn, thì nó có thể phá tung cả thế giới. Bao cuộc chiến tranh, tàn sát đẩm máu, đại loạn, đó là hậu quả của lòng tham sân mà ra.
Đức Phật đã từng trải nghiệm và nhận diện rất rõ loại ma ái dục nầy. Nó luôn luôn khát vọng đòi hỏi mọi thứ nhu cầu thỏa mãn. Phải thỏa mãn qua ba nhu cầu thiết yếu: vật lý, sinh lý và tâm lý. Nhưng làm sao thỏa mãn cho lòng ham muốn? Biết sao cho vừa túi tham. Nhưng chúng ta đừng quên rằng: “Nhơn tham tài tắc tử, điểu tham thực tắc vong”. Nghĩa là con người vì ham tiền bạc của cải mà chết, chim vì tham ăn mà mất mạng. Đó là câu nói đầy kinh nghiệm của người xưa. Con người vì tham tiền bạc giàu có mà chết. Có biết bao người bị treo cổ hoặc tử hình, nhẹ hơn thì bị tù tội giam cầm cho đến chết, cũng chỉ vì nghe theo lời xúi giục của con ma tham mà buôn lậu nha phiến. Còn biết bao thực trạng đau khổ ngút ngàn khác, chung quy cũng chỉ vì không thắng nổi bọn ma ái dục nầy. Phật nói: “giống như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy”. Đó là một họa hại không thể lường được.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, có hai đặc điểm đáng để cho chúng ta lưu ý ghi nhớ lấy đó làm bài học:
Thứ nhứt, mặc dù hai anh em đều xuất gia tu hành, nhưng người anh nhờ chuyên tu thiền quán, nên kết quả được giải thoát. Ngược lại, người em, thì lại chuyên tâm học hỏi, không lo tu hành thiền định, lại dựa vào sở học của mình mà khinh chê coi thường các bậc chân chánh tu hành, nên kết quả bị sa đọa. Như vậy, người tu mà chỉ một bề nghiên cứu nặng phần triết lý, chỉ ham đa văn lý thuyết suông, không chịu thật hành, kết quả không được lợi lạc trong sự nghiệp giải thoát.
Thứ hai, là chuyện của bọn giặc cướp. Bọn họ tuy làm ác, nhưng sau khi thức tỉnh hồi đầu, gặp được bậc thiện tri thức khai thị chỉ giáo, nên bọn họ quyết tâm nguyện vâng giữ năm giới cấm căn bản đạo đức của con người. Dù tất cả đều bị dân làng đuổi giết, nhưng đồng bọn thà chết, chớ không phá giới. Nhờ đó mà họ được sanh lên cõi trời hưởng nhiều phước báo. Ngược lại, thầy Kapila vì tạo nhân ác nên phải chiêu cảm đọa vào địa ngục A tỳ. Mãn kiếp địa ngục liền tái sanh làm con cá vàng mình mẩy hôi thúi. Đồng thời, bà mẹ và cô em gái, vì nghe theo lời xúi giục của Kapila kết bè lập phái tạo nhiều nghiệp ác, nên cả hai cũng đều bị đọa vào địa ngục thọ khổ. Đây là bài học cho chúng ta thấy rõ định luật nhân quả không bao giờ sai lệch. Từ đó, ta nên tránh những điều ác mà cố gắng làm những điều lành và luôn giữ tâm ý mình cho trong sạch. Được thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ hưởng được những quả báo tốt đẹp trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, thì rất là đau khổ.
338. “Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài.”
339. “Ba mươi sáu dòng Ái (1),
Trôi người đốn khả ái.
Các tư tưởng tham ái.
Cuốn trôi người tà kiến.”
340. “Dòng ái dục chảy khắp,
Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc.”
341. “Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc,
Họ vẫn phải sanh già.”
342 “Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Họ sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài.”Lược giải
338. Đốn cây mà chưa đào lấy gốc rễ thì tược vẫn ra hoài, đoạn trừ ái dục mà chưa sạch căn gốc thì khổ não vẫn sanh trở lại mãi.
Just as a tree, though cut down, sprouts up again if its roots remain uncut and firm, even so, until the craving that lies dormant is rooted out, suffering springs up again and again.
Kệ tụng
Đốn cây chưa sạch gốc
Rễ bén vẫn sanh hoài
Ái dục chưa sạch gốc
Khổ não vẫn sanh hoài.
339. Những người có đủ 36 giòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy, người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài.
The misguided man in whom the thirty-six currents of craving strongly rush toward pleasurable objects, is swept away by the flood of his passionate thoughts.
Kệ tụng
Ba mươi sáu dòng ái
Đẩy ngươi theo dục cảnh
Người có tâm ái dục
Bị dòng ái cuốn băng.
340. Lòng ái dục tuôn chảy khắp nơi như giống cỏ Man la mọc tràn lan mặt đất. Ngươi hãy xem giống cỏ đó để dùng tuệ kiếm đoạn hết căn gốc ái dục đi.
Everywhere these currents flow, and the creeper (of craving) sprouts and grows. Seeing that the creeper has sprung up, cut off its roots with wisdom.
Kệ tụng
Dòng ái dục chảy khắp
Như giây leo mọc tràn
Thấy giây leo vừa sanh
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.
341. Người đời thường ưa thích theo ái dục, ưa dong ruổi lục trần, tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm luân.
Flowing in (from all objects) and watered by craving, feelings of pleasure arise in beings. Bent on pleasures and seeking enjoyment, these men fall prey to birth and decay.
Kệ tụng
Người đời thích ái dục
Ưa dong ruổi lục trần
Tuy mong cầu hạnh phúc
Nhưng vẫn phải sanh già.
342. Những người trì trục theo ái dục khác nào thỏ bị sa lưới, càng buộc ràng với phiền não, càng trở lại chịu khổ lâu dài.
Beset by craving, people run about like an entrapped hare. Held fast by mental fetters, they come to suffering again and again and again for a long time.
Kệ tụng
Người bị ràng ái dục
Sợ như thỏ sa lưới
Càng buộc ràng phiền não
Càng chịu khổ lâu dài.
343. “Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham
Nên nhiếp phục ái dục.”Lược giải
343. Những người trì trục theo ái dục, khác nào thỏ bị sa lưới. Hàng Tỳ kheo vì cầu vô dục nên phải tự gắng lìa dục.
Beset by craving, people run about like an entrapped hare. Therefore, one who yearns to be passion-free should destroy his own craving.
Kệ tụng
Người bị ràng ái dục
Sợ như thỏ sa lưới
Nên tự gắng lìa dục
Tỳ kheo dục vô cầu.
Lược giảng
Sáu pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến cốt chuyện con heo nái tơ.
Chuyện kể rằng, một hôm Đức Thế Tôn vào thành Vương xá khất thực gặp một con heo nái tơ. Con heo nái nầy thường sống lăn lóc trong đống phân. Thấy thế, đức Phật mỉm cười và hào quang phát sáng từ răng của Ngài. Tôn giả A Nan liền thưa hỏi lý do, vì sao Phật lại cười? Nhân câu hỏi nầy, đức Phật liền kể lại câu chuyện tiền kiếp của con heo nái tơ cho Tôn giả A Nan nghe.
Phật nói vào thời đức Phật Kakusandha, con heo nái tơ nầy là một chị gà ở gần Thiền đường nọ. Nhờ chăm chú nghe âm thanh của một thầy Tỳ kheo khi niệm đề mục thiền quán, mà chị gà thoát kiếp sanh vào cung vua làm công chúa Ubbari.
Trong lúc đi cầu, cô chăm chú quan sát những con dòi lúc nhúc trong đống phân, tâm liền định tĩnh, vào được Sơ thiền. Mãn kiếp công chúa, cô tái sanh vào dòng dõi Bà la môn. Từ đó, cô lại tạo nhiều nghiệp ác, nên kết quả phải tái sanh làm con heo nái tơ nầy. Phật nói tiếp, vì biết rõ cảnh huống ấy nên Ta cười.
Trong khi đó, các vị Tỳ kheo khác đi phía sau Tôn giả A Nan, nghe Phật nói thế, các vị rất chạnh lòng xúc cảm. Sau khi tác động tâm tư họ, đức Phật liền giảng giải sự ngu si của tham ái, và rồi Phật nói những pháp cú trên.
Con heo nái tơ về sau trải qua mười ba kiếp tái sinh, khi thì bị đọa làm súc sinh, khi thì được làm người giàu có sang trọng v.v… Có một kiếp cô làm vợ của một vị tể tướng và khi ấy có vị trưởng lão Anula đi ngang qua nhà trông thấy cô bèn bảo các vị Tỳ kheo:
- Nầy chư huynh, con heo nái tơ đã trở thành phu nhân ngài Lakuntaka Atimbara, Tể tướng của đức vua, thật lý thú biết bao!
Nghe những lời nói ấy, bỗng nàng nhớ lại hết những tiền kiếp của mình và chứng được Túc mạng thông. Sau đó, nàng bỏ tục xuất gia làm Tỳ kheo ni Pancabalaca và không bao lâu chứng quả A la hán. Bấy giờ, cô kể lại đầu đuôi tự sự câu chuyện đã trải qua nhiều kiếp luân hồi của mình cho mọi người nghe. Kể xong, cô khuyên các vị: Xin chư vị mỗi người hãy tự mình chánh niệm tinh tấn đến giải thoát.
Nghe qua câu chuyện và lời khuyên của cô làm tứ chúng vô cùng xúc động. Sau đó, cô nhập Niết bàn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú 338, Phật so sánh sự đoạn trừ ái dục giống như người đốn cây. Muốn cho cây không còn đâm chồi nẩy tược nữa, thì chúng ta phải đào bứng lấy cho hết gốc rễ của nó. Nếu còn gốc rễ, thì cây sẽ còn đâm chồi nẩy tược hoài. Đoạn trừ ái dục cũng thế. Phải bứng tận gốc rễ của nó, mới mong không còn tái sanh. Nếu còn ái dục dù là một niệm ham muốn nhỏ nhiệm, vẫn còn phải tái sanh trong vòng sanh tử luân hồi. Thế nên, Phật dạy, muốn không còn tái sanh thọ khổ, thì hành giả phải đoạn trừ tận gốc rễ ái dục.
Pháp cú 339, Phật nói mỗi người chúng ta đều bị ba mươi sáu dòng thác đổ ái dục đang tuôn chảy mạnh mẽ xô đẩy chúng ta đi vào những con đường bất thiện. Con số ba mươi sáu Phật nói ở đây, là để tiêu biểu cho số nhiều, đó chỉ là một ẩn dụ. Kinh điển thường nêu ra gồm có 18 thứ: “sáu căn, sáu trần và sáu thức”. Gọi chung là thập bát giới. Thế nhưng ở đây, Phật nêu ra con số ba mươi sáu là nói ái dục chỉ có liên quan đến căn và trần. Sáu căn và sáu trần cộng lại là mười hai rồi đem nhân với ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai, thành ra con số ba mươi sáu. Nếu nói rộng ra, khi căn, trần và thức chúng duyên kết lại với nhau, sẽ tạo thành một năng lượng phân biệt kích thích cho sự thèm khát ham muốn.
Đời sống hiện hữu của chúng ta, luôn bị những dòng thác ái dục nầy chi phối tất cả. Chúng lôi kéo chúng ta chạy qua nhiều phương hướng khác nhau. Khi mắt chạm xúc với sắc trần, liền khởi phân biệt tốt xấu. Tốt thì ham thích, xấu thì ghét chê. Cả hai đều gây ra cho ta bất an đau khổ. Chính cái sắc trần tốt đẹp vừa ý đó, nó có một sức thu hút mãnh liệt lôi cuốn chúng ta phải chạy theo nó. Có biết bao người chết vì đam mê sắc dục. Sắc nói ở đây gọi chung là vật chất, trong đó dĩ nhiên là có nhan sắc duyên dáng của con người. Có biết bao cặp tình nhân nam nữ ngày nay đã tự tử, chỉ vì không thỏa mãn được lòng khát vọng cao độ của tình yêu. Một khi lòng dục vọng thèm khát lên đến mức cao độ như dòng thác chảy rồi, thì không có một mãnh lực nào có thể ngăn cản nó được. Ngăn cản là có sự kháng cự chống đối mãnh liệt. Đó là hậu quả của biết bao gia đình tan nát con cái ly tán, chỉ vì không đáp ứng đúng theo nhu cầu đòi hỏi sở thích của sắc dục.
Đến như thinh dục hậu quả tai hại của chúng cũng không lường. Thinh là nói về các thứ âm thanh của các loại âm nhạc. Có biết bao người say mê theo âm nhạc mà quên ăn bỏ ngủ, tán thân mất mạng. Có những người nghe tiếng sáo thổi lảnh lót du dương của một khúc nhạc trầm buồn tâm sự nào đó, mà người ta rụng rời cả tay chân và rồi sanh bệnh tương tư ngày đêm nhung nhớ. Trường hợp như câu chuyện giữa chàng Trương Chi và nàng Mỵ Nương chẳng hạn. Thuở xưa, có năm trăm vị Tiên nhơn tu luyện ở trong núi Tuyết, chỉ vì nghe tiếng ca của nàng Chân đà la mà mất Thiền định, tâm say mê đắm đuối cuồng loạn.
Chúng ta thử kiểm nghiệm qua năm loại dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, hay sắc, thinh, hương, vị, xúc, thì đủ biết tai hại của chúng đến mức độ nào. Luận cho cùng, thì căn và trần, thật ra chúng không có lỗi chi cả, mà lỗi là do ở nơi ý thức tác ý phân biệt. Do thức phân biệt tốt xấu… nên mới sanh tâm thương và ghét. Đó là đầu mối của sự ràng buộc trong vòng sanh tử khổ đau.
Pháp cú 340, Phật nhấn mạnh rõ thêm về tai hại của lòng khao khát ham muốn. Vì lòng ham muốn của con người không có giới hạn, giống như cỏ man la mọc tràn lan mặt đất. Lòng ham muốn của con người chỉ muốn thêm, không bao giờ muốn bớt. Dù là kẻ giàu có nhứt xứ, nhưng lòng họ cũng không bao giờ biết đủ. Kẻ ăn xin nghèo khó khao khát giàu có đã đành, nhưng bạn thử nghĩ các ông hoàng đế thì sao? Các ông nầy còn khao khát tham vọng của họ đến mức độ nào. Bản chất khao khát ước vọng của hai người chẳng khác gì nhau. Chỉ khác nhau trên hình thức bên ngoài mà thôi. Một kẻ ăn xin nghèo và một kẻ ăn xin giàu. Khi hy vọng mong cầu điều gì đó, người ta lại quên rằng, trong cái hy vọng đó đã ngầm chứa cái thất vọng. Có thất vọng là có buồn khổ. Người nào mong cầu nhiều, thì người đó đau khổ nhiều. Trong kinh thường gọi là cầu bất đắc khổ, một trong tám nỗi thống khổ lớn của con người. Muốn giảm bớt khổ đau, Phật dạy người Phật tử nên hạn chế bớt lòng ham muốn. Cao hơn là phải đoạn trừ tận gốc rễ của chúng. Có thế, thì mới thực sự được an lạc giải thoát vậy.
Pháp cú 341, Phật nói rõ tai hại của người nặng lòng ái dục. Người nặng lòng ái dục thường bám víu chạy theo những ham thích ở nơi sáu trần, dù có tâm hướng cầu an lạc, nhưng rốt lại, họ vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm luân. Qua lời Phật dạy, ngẫm kỹ, trong đời sống của chúng ta sao có quá nhiều mâu thuẫn. Một mặt, khi gặp nghịch cảnh khổ đau tràn ngập, thì lúc đó ta không còn tha thiết gì đến việc hưởng thụ những dục lạc ở đời. Chỉ một bề mong sao thoát khỏi cảnh khổ đau đó càng sớm càng tốt. Nhưng khi qua cơn đau khổ ngặt nghèo rồi, thì ta lại quên đi ý niệm mong được thoát ly. Bấy giờ cái tâm tha thiết giải thoát kia, như không còn có mặt với ta nữa. Ta trở lại nguyên hình với cái tâm tham cầu đắm nhiễm đam mê ở nơi dục lạc.
Nghe nói đến Niết bàn an lạc hạnh phúc, dập tắt mọi khổ đau thì ta cũng thích. Nhưng sự hưởng thụ những dục lạc ở thế gian thì ta cũng ham. Đó là tâm trạng của con chó chết giữa dòng sông. Người kia nuôi một con chó. Một hôm, ông cùng với nó đi dạo ở bờ sông. Bỗng nó nghe bên kia bờ sông có mùi thịt nướng thơm phứt, nó liền bỏ chủ cắm đầu bơi lội xuống sông định sang bên kia bờ. Nhưng khi nó bơi lội ra giữa dòng sông, thì nó nghe tiếng kêu gọi của ông chủ, nó liền quay đầu lại, định bơi trở về, vì nó không đành bỏ chủ. Vừa quay đầu lại, mùi thơm bên kia lại phất qua nữa, nó lại quay đầu hướng về mùi thơm, định bơi qua bên kia bờ. Cứ như thế, nó quay tới, quay lui, cuối cùng, đuối sức quá nó đành phải chết đuối giữa dòng sông. Tiếng kêu gọi của chủ là dụ cho ân nghĩa đạo đức. Còn mùi thơm là dụ cho ngũ dục lạc và sáu trần. Rốt lại, đạo đức cũng không thành, mà dục lạc cũng không hưởng được. Tâm trạng của chúng ta cũng mâu thuẫn tương tợ như thế. Cuối cùng, chúng ta cũng chết đuối giữa dòng sông sanh tử, giống như con chó kia chết đuối giữa dòng sông vật lý không khác.
Pháp cú 342, Phật nêu ra hình ảnh con thỏ bị sa vào lưới, để dụ cho những ai đam mê theo ái dục, cũng giống như thế. Con thỏ một khi đã bị sa vào lưới rồi, thì dù cho nó có muốn vùng vẫy để thoát ra, nhưng không phải thoát được dễ dàng. Chắc chắn là thỏ sẽ bị chết trong tay của người thợ săn. Cũng thế, Phật dạy, hàng Tỳ kheo vì cầu vô dục, nên phải gắng sức xa lìa ái dục. Nếu không, thì cũng chết như thân phận của con thỏ kia không khác. Lửa ái dục một khi đã bốc cháy cao ngọn, thì nó có thể thiêu hủy tất cả. Trước hết là tự thiêu mình trước, rồi sau đó, nó đốt cháy lan lây đến những người khác. Thật là đáng khiếp sợ cho lòng ái dục!
Cứ nhìn vào hiện trạng xã hội hiện tại, ta thấy có biết bao người đã và đang bị sa vào lưới dục vọng ái tình. Nói rộng ra là lưới ngũ dục lục trần. Sự hưởng thụ khoái lạc của xác thân, có lắm người cho rằng, đó là nguồn vui sướng khoái cảm nhất trên đời. Quan niệm nầy thật là sai lầm. Nặng lời hơn, theo như ông OSHO (tác giả bộ sách “Con Đường Của Phật” do Thích Nữ Trí Hải tuyển dịch), thì cho là quá ngu xuẩn. Chúng ta thử sát nghiệm có đúng như thế không? Hay đó chỉ là một sự trá hình mà chúng ta bị nó lường gạt thật vô cùng đau khổ. Vì lạc thú của thân xác thật là mong manh, vui đó rồi khổ đó. Có biết bao người bị thân tàn ma dại, cũng chỉ vì ham mê mua vui trong chốc lát, mà phải chịu khổ hận suốt cả cuộc đời. Chẳng những khổ mình mà còn làm khổ lây đến những người thân khác.
Sự đam mê chạy theo dục lạc, khác nào như người bị bệnh cùi ngứa ngáy, thích nướng mình trên lò than lửa cháy đỏ rực. Tuy có đã ngứa thật trong chốc lát, nhưng chứng bệnh cùi kia cũng vẫn còn nguyên vẹn, và mỗi ngày căn bệnh lại càng tăng thêm. Nếu không chữa trị tận gốc rễ kịp thời, thì người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Cũng thế, nếu không đoạn trừ được cái gốc ái dục, thì chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong biển sanh tử khổ đau.
Pháp cú 343, Phật lặp lại và nhấn mạnh thêm một lần nữa, người nào muốn xa lìa khổ đau, thì phải mau trừ ái dục. Đặc biệt, Phật dạy người xuất gia, hơn ai hết, cần phải đoạn trừ ái dục. Nếu không thì cũng giống như con thỏ bị sa lưới. Đó là lưới phiền não buộc ràng. Người tu, dù xuất gia hay tại gia, mà không dứt trừ phiền não, thì chắc chắn sẽ không thể nào thoát khỏi nghiệp quả khổ đau. Phật khuyên bảo người xuất gia phải luôn ý thức đến sự sanh tử khổ đau, mà gấp mau nỗ lực đoạn trừ ái dục.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học về hiệu năng lực dụng của thiền quán. Con heo nái tơ, trong lúc đọa làm kiếp gà, chỉ chăm chú nghe một thầy Tỳ kheo niệm đề mục thiền quán, mà kết quả gà được tái sinh vào cung vua và làm công chúa. Nhờ chăm chú quan sát đám dòi, tâm công chúa được định tĩnh và chứng được Sơ thiền. Sau khi chết, công chúa được sanh vào dòng Bà la môn. Nhưng rất tiếc, do tạo nghiệp ác, nên phải thọ sanh làm con heo nái tơ. Như vậy, dù tu chứng Sơ thiền, nhưng cũng không lấy gì làm đảm bảo. Một khi tạo nghiệp ác, thì cũng vẫn bị sa đọa như thường. Đó là luật nhân quả rất công bằng. Làm lành được hưởng phước, làm ác bị đọa lạc. Gieo hạt giống nào, thì lên hạt giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Không thể gieo hạt ớt mà lên cây cam được.
Trải qua nhiều kiếp tái sanh khổ vui đều có, nhưng cũng nhờ có chút ít phước lành, nên con heo nái tơ có một kiếp tái sanh làm phu nhân của một vị Tể tướng. Tuy sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, quyền uy thế lực, nhưng khi nghe được chuyện tiền kiếp lăn lộn khổ đau của mình, do một vị Trưởng lão tu chứng kể lại, cô liền thức tỉnh bỏ tục xuất gia. Tu hành không bao lâu, cô chứng được quả A la hán.
344. “Lìa rừng lại hướng rừng (2)
Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy,
Ðược thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc.”
345. “Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con.”Lược giải
344. Người đã lìa dục xuất gia, vui ở chốn sơn lâm, rồi trở về nhà lại; ngươi hãy xem hạng người đó, kẻ đã được mở ra rồi lại tự trói vào.
There is one who, turning away from desire (for household life) takes to the life of the forest (i.e. of a monk). But after being freed from the household, he runs back to it. Behold that man! Though freed, he runs back to that very bondage!
Kệ tụng
Người lìa dục xuất gia
Sống vui trong rừng thẳm
Nay chạy ngược về nhà
Nên xem người như vậy
Được thoát, lại tự ràng.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo hoàn tục.
Theo truyện tích, có một thầy Tỳ kheo vốn là đồ đệ của Trưởng lão Đại ca diếp. Nhờ tinh tấn tu tập, nên thầy đã đạt được Tứ thiền. Một hôm, thầy đến nhà của ông chú chơi, ông nầy hành nghề thợ bạc. Do trông thấy nhiều đồ trang sức quý giá, thầy động lòng tham luyến, nên từ bỏ tu hạnh xuất gia.
Sau khi hoàn tục về nhà, thầy ăn không ngồi rồi, nên bị đuổi ra khỏi nhà. Từ đó, thầy giao du với những bạn xấu ác chuyên hành nghề cướp bóc. Thầy bị bắt và bị tra tấn hành hình rất đau khổ. Thầy bị trói chặt và dẫn đi hành quyết. Bất thần, thầy gặp lại sư phụ. Sư phụ liền dùng thần lực làm cho dây trói lỏng đi và bảo thầy:
- Ông hãy quán tưởng lại đề mục thiền định như đã từng làm.
Vâng lời Sư phụ dạy, thầy liền nhập định Tứ thiền. Dù thầy đã bị bọn lính hành hạ đủ mọi cách hung bạo, nhưng thầy không chút tỏ ra run sợ. Thầy rất bình tĩnh trước mọi áp lực. Thấy thế, bọn lính rất kinh ngạc, thán phục và rồi bọn chúng tâu lên vua. Sau khi nghe thuật lại mọi việc, nhà vua ra lệnh thả thầy tự do.
Thấy việc xảy ra lạ lùng, bọn chúng kéo nhau đến bạch trình với đức Phật. Đức phật phóng quang và phân thân đến pháp trường nói kệ. Nhân nghe pháp âm Phật nói, thầy liền khởi quán tưởng đề mục sanh tử, thấu rõ ngã không và đắc quả Dự lưu. Và sau cùng thầy chứng quả A la hán. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú trên, nhân chuyện xảy ra của một thầy Tỳ kheo hoàn tục, nên Phật dạy chung cho tất cả những vị xuất gia. Tuy đã xuất gia, nhưng tâm tham dục luyến ái vẫn còn, nên khi thấy những món đồ trang sức chưng bày ở nhà của người chú làm thợ bạc, thì lửa tham dục của thầy bốc cháy lên dữ dội. Do không chế ngự được lòng ham muốn, nên thầy từ bỏ đời sống cao đẹp phạm hạnh xuất thế. Thầy trở về với đời sống của người thế tục. Tuy tu hành chứng được Tứ thiền, (loại thiền của phàm phu, vẫn còn trong vòng sanh tử tam giới), nhưng không lấy gì làm đảm bảo. Sau khi trở về nhà, thầy lại bị cuốn hút vào con đường tội lỗi, trở thành một kẻ đạo tặc hành nghề cướp bóc. Thầy sống trên sự đau khổ nước mắt của người khác. Nhân nào quả nấy, cuối cùng, thầy bị sa vào lưới pháp luật. Dù vậy, nhưng thầy nhờ có một vị Sư phụ, đạo lực cao thâm, biết rõ căn cảnh của thầy, nên cứu thoát được thầy thoát khỏi ngục hình tử tội.
Nhờ tập quán công năng của thiền định; nhờ sự thức nhắc của một bậc Đại thiện tri thức, người mà xưa kia thầy đã hết lòng tin tưởng, nên thầy an trụ vào Tứ thiền, quên hết mọi cảnh vật chung quanh, lúc đó, dù thầy đã bị bọn lính hành hạ đủ mọi cách hung bạo, nhưng thầy hoàn toàn không lộ ra một chút lo âu sợ hãi. Thế mới biết, sức mạnh của thiền định như thế nào. Đó chỉ là cái định của phàm phu thôi, mà còn có hiệu quả mạnh mẽ như thế. Nói chi đến những loại thiền định của các bậc A la hán, Bồ tát hay Phật.
Qua đó, chúng ta thấy tập khí của ái dục rất sâu nặng. Đối với người xuất gia chúng ta, cần phải nỗ lực đề phòng cẩn trọng những thứ tập khí trong tâm ta. Đối với người tu, dù xuất gia hay tại gia, Phật dạy, chúng ta đều phải luôn luôn tỉnh thức. Có tỉnh thức, chánh niệm, chánh quán, chúng ta mới có thể làm chủ được mình phần nào. Nếu không, thì chúng ta là những kẻ hoàn toàn làm nô lệ cho những thứ dục vọng phiền não sai sử. Đã thế, thì không sao tránh khỏi sự sa đọa khổ đau.
345. Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con, tài sản mới thật là sự trói buộc chắc bền.
345-346 That is not a strong fetter, the wise say, which is made of iron, wood or hemp. But the infatuation and longing for jewels and ornaments, children and wives – that, they say, is a far stronger fetter, which pulls one downward and, though seemingly loose, is hard to remove. This, too, the wise cut off. Giving up sensual pleasure, and without any longing, they renounce the world.
Kệ tụng
Sắt, dây gai trói buộc
Người trí xem chưa chắc
Tham châu báu vợ con
Trói buộc mới thật bền.
346. “Người có trí nói rằng:
“Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng.”Lược giải
346. Những kẻ dắt người vào sa đọa, là như sự trói buộc chắc bền, nó hình như khoan dung hòa huởn mà thật khó lòng thoát ra. Hãy đoạn trừ đừng dính mắc, lìa dục mà xuất gia.
Kệ tụng
Người có trí nói rằng:
“Trói buộc này rất chắc”
Rì kéo xuống, mềm mỏng
Nhưng thật sự khó thoát
Người trí cắt trừ nó
Bỏ dục lạc, không màng.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ngôi nhà tù.
Một hôm, các tội phạm bị dẫn đến trước vua Ba tư nặc. Bọn họ phạm nhiều trọng tội như: trộm cướp, giết người, hiếp dâm v.v… Những tội nhân nầy đều bị trói chặt. Các thầy Tỳ kheo nhân trông thấy bọn tội phạm bị hành hạ tra tấn trong nhà tù, các thầy liền kéo nhau đến bạch trình thưa hỏi đức Phật.
Sau khi trình bày qua sự chứng kiến tận mắt về những tội nhân bị trói bằng gông, dây thừng, dây xích, thật là đau khổ, các ngài thắc mắc hỏi đức Phật, không biết có thứ gì trói buộc bền chắc hơn nữa không? Nhân câu hỏi nầy, Phật cho biết, những loại dây đó không có gì bền chắc, chỉ có những dây tham ái, si mê, mới là những thứ dây gông cùm trói buộc siết chặt chúng sanh chịu đau khổ lắm tang thương hệ lụy trải qua nhiều đời. Phật lại nói tiếp, tuy những sợi dây đó, nó có sức mạnh trói buộc gấp trăm ngàn lần hơn những thứ dây mà các ông thấy, nhưng đối với những bậc hiền trí, người ta cũng có thể cởi bỏ nó được dễ dàng.
Đức Phật kể chuyện quá khứ của Ngài. Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại, Ngài là một con trai của một gia đình nghèo khổ. Lớn lên, cha chết, Ngài phải đi làm thuê nuôi mẹ. Sau khi lập gia đình, mẹ mất, vợ chàng mang thai đứa con đầu lòng, nhưng chàng không hề hay biết. Một hôm, chàng nói với vợ là chàng muốn đi tu. Người vợ mới nói thật là mình đã có thai và xin chàng ở lại. Sau khi sanh con, chàng thực hiện ý định cũng không muộn. Sau khi sanh, chàng nói với vợ, bây giờ hãy để cho anh đi. Nhưng người vợ lại xin chàng ở nán lại chờ khi con dứt sữa hãy đi. Trong thời gian chờ đợi, người vợ lại có thai đứa con thứ hai.
Bấy giờ, chàng tự nghĩ, nếu tình trạng kéo dài như thế nầy, thì biết bao giờ chàng mới thực hiện được ý định. Chỉ còn có cách là phải bỏ trốn đi thôi. Thế là, chàng bỏ nhà trốn đi vào giữa đêm, không một lời từ giã. Dù bị lính gác bắt giữ, nhưng sau cùng chàng cũng được toại nguyện.
Chàng lên núi Hy mã lạp sơn sống đời ẩn sĩ. Không bao lâu, chàng đắc thần thông và những quả vị cao hơn. Chàng thầm nghĩ: “Ta đã bứt tung được sợi dây trói thật quá ư bền chắc, sợi dây tham dục xấu xa, sợi dây của lòng luyến ái vợ con”.
Kể xong chuyện quá khứ, đức Phật liền nói kệ để làm rõ nghĩa bài kệ của nhà ẩn sĩ. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Hai pháp cú trên, Phật nói rõ về sự ân ái quyến luyến trong tình gia đình vợ con. Phật cho rằng, đối với người trí, thì mọi thứ dây trên đời, không có dây nào trói buộc bền chắc cho bằng sợi dây ân ái. Đây là sợi dây tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh trói chặt mãnh liệt. Ngoài sự luyến ái vợ con ra, người ta còn luyến ái của cải tài sản. Chính những thứ nầy, nó trói buộc chặt con người từ đời nầy sang đời khác. Hiểu được ý nầy, nên dân gian có câu nói: “Tu là cội phúc, tình là dây oan”. Sợi dây oan gia nầy mới đáng ghê sợ. Tuy biết là dây oan, nhưng nhìn lại, có mấy ai thoát khỏi sợi dây nầy. Thật là sông mê bể ái nghìn trùng. Xưa nay, sóng tình đã nhận chìm không biết bao anh hùng cái thế. Người ta có thể diệu võ dương oai, hò hét khét tiếng vang dậy khắp trong thiên hạ, nhưng bản thân họ thật sự lại rất yếu mềm hơn con bún thiêu trước sắc đẹp của mỹ nhân.
Thử nhìn lại, các ông vua, ông chúa, những ông tai to mặt lớn, đi đâu cũng được người ta tiền hô hậu ủng, oai phong lẫm liệt, mọi người trông thấy đều phải khúm núm sợ hãi trước oai quyền thế lực, nhưng cuối cùng, cuộc đời của các ông đó ra sao? Có phải phần lớn đều phải tán thân mất mạng, sự nghiệp tiêu tan, chỉ vì không qua khỏi cửa ải của mỹ nhân không?!
Người xưa có nói: “mưa không phải là cái khóa bằng sắt, mà nó có thể giữ lại người. Sắc đẹp không phải là sóng to, nhưng nó có khả năng nhận chìm con người. Xưa nay, có biết bao anh hùng đều chết vì nó, và có cả hằng trăm ngàn người đều phải bị sa vào hầm hố nầy”. (Vũ vô thiết tỏa năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân, thiên cổ anh hùng giai tạ thử, bá thiên đồng tác tự khanh trần).
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, có một bài kinh Phật nói về sự ân ái quyến luyến của tình thê tử. Phật dạy rằng: “Người bị ràng buộc bởi vợ con, nhà cửa còn quá hơn lao ngục, lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không có một ý niệm xa lìa. Một khi tâm thích về sắc đẹp, thì đâu còn sợ gì đến sự gian nguy. Dẫu cho có sự hoạn họa nơi miệng hùm, lòng cũng đành chịu. Vì tự đắm mình nơi lầy lội, gọi là phàm phu, nếu hiểu được lẽ ấy, chính là bực xuất trần La hán”.(Chương 23, giáo sư Thích Hoàn Quan dịch ).
Câu chuyện lược dẫn trên, Phật kể cho chúng ta biết về chuyện quá khứ của Ngài. Dù đôi lần muốn thoát ly, nhưng sự dứt khoát ra đi của Ngài quả là một vấn đề nan giải. Nhưng cuối cùng, Ngài cũng vẫn thực hiện được ý nguyện. Đó là nhờ căn lành trồng sâu trong nhiều đời, nên Ngài mới có được một ý chí cương quyết dứt khoát mãnh liệt. Nhờ đó, Ngài mới có thể cắt đứt sợi dây ái tình thê tử ràng buộc.
347. “Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng.”Lược giải
347. Những người say đắm theo dục, tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ. Ai dứt được sự buộc ràng không còn dính mắc nữa, thì sẽ xa mọi thống khổ để ngao du tự tại.
Those who are lust-infatuated fall back into the swirling current (of samsara) like a spider on its self-spun web. This, too, the wise cut off. Without any longing, they abandon all suffering and renounce the world.
Kệ tụng
Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt
Người trí cắt trừ nó
Bỏ thống khổ, không màng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện của bà hoàng hậu Khema, vợ của vua Tần bà sa la.
Bà Khema là người có nhan sắc tuyệt đẹp, do đó, nên bà rất tự kiêu tự hào về nhan sắc của mình. Sở dĩ được thế, là nhờ bà khéo biết tu hạnh nhẫn nhục và có lời nguyền dưới chân đức Phật Padumuttara. Do lòng kiêu hãnh, nên bà không muốn gặp Phật, vì bà thường nghe người ta nói Phật hay quở trách về sắc đẹp. Nhà vua, vì muốn thức tỉnh bà, nên ông cho người sáng tác bản nhạc tán thán Trúc Lâm. Vua ra lệnh cho các nghệ sĩ hát bài ca ấy khắp nơi.
Nghe qua bài hát, bà rất ngạc nhiên và muốn biết về Trúc Lâm. Bà hỏi thăm các nghệ sĩ chỉ khu rừng Trúc cho bà. Thế là bà tìm đến. Khi đến, trong lúc Phật đang thuyết pháp và biết ý bà, nên Phật dùng thần lực hóa hiện một cô gái tuyệt đẹp cầm quạt hầu Phật.
Thấy thế, bà rất ngạc nhiên, tại sao có một cô gái quá đẹp như thế? So với nhan sắc của ta, thì nhan sắc của cô gái hơn ta gấp trăm ngàn lần. Bà tự hỏi, tại sao Phật thường chê trách sắc đẹp mà hôm nay Ngài lại cho một cô gái đẹp đứng hầu bên Ngài. Bà tự nghĩ, chắc chắn những gì mà người ta nói về đức Phật chê bai sắc đẹp không được đúng lắm.
Bà luôn để mắt chăm chú nhìn người con gái đó, mà không quan tâm gì đến lời Phật giảng. Biết thế, Phật liền biến người con gái đẹp kiều diễm kia thành bà già lụ khụ, rồi cuối cùng chỉ còn là một bộ da bọc xương. Thấy thế, bà liền thức tỉnh về sự tàn phai và hoại diệt của nhan sắc thật rất nhanh chóng. Quả thân nầy không thật chút nào!
Biết được ý nghĩ của bà, Phật liền bảo:
-Khema, bà nghĩ một cách sai lầm rằng sắc đẹp thể chất là có thật. Bà hãy xem cái không thật của nó kìa. Phật liền nói kệ:
Bà Khema có thấy
Mớ duyên hợp kia không?
Đầy bệnh hoạn thối ung
Đồ bất tịnh dơ xấu
Từng phút giây rỉ chảy
Chỉ những kẻ ngu si
Mới đắm say thứ ấy.
Nghe xong, hoàng hậu Khema đắc quả Dự lưu, đức Phật bảo bà:
- “Nầy Khema, chúng sanh trong thế gian nầy đắm say ái dục, bị lòng sân hận làm hư hỏng, bị ngu si đánh lừa, do đó dính chặt trong dòng sông tham ái, không thể vượt thoát ra nổi”.
Khi bài pháp kết thúc, bà đắc quả A la hán và cả hội chúng đều được lợi lạc. Về sau bà xuất gia trở thành một trong những Trưởng lão ni xuất sắc của Tăng đoàn đức Phật. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, có một bài kinh Phật nói: “Người say đắm ái dục khác nào như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất không thể nào tránh khỏi nạn cháy tay”. Có biết bao người lâm vào khổ cảnh của nạn cháy tay nầy. Biết thế, nhưng con người vẫn thích đùa giỡn với cây đuốc ái dục. Khi nào bị cháy tay thiêu hủy tàn hại thân thể rồi, thì chừng đó người ta mới giựt mình ăn năn hối hận. Song rất tiếc, sự ăn năn đó đã quá muộn màng rồi! Chi bằng tránh cái nhân cầm đuốc đi ngược gió, thì làm gì có cái quả khổ nạn cháy tay. Không phải cháy tay trong hiện đời nầy thôi, mà nó còn kéo dài triền miên trong nhiều đời đau khổ nữa. Đó là hậu quả của những người say đắm đam mê theo sắc dục. Thực sự, họ không một chút tỉnh giác hồi đầu. Khác nào như con nhện tự sa vào lưới. Nhện giăng tơ dệt ra, rồi chính nó lại bị mắc kẹt trong đó. Dính kẹt một cách rất đau thương không còn cơ may vùng vẫy. Cũng thế, sắc dục do con người ham muốn gây ra, và rồi cũng chính con người tự hủy diệt đời mình. Không ai gây ra đau khổ cho mình, mà chính mình tự gây và tự chuốc lấy họa hại vào mình mà thôi. Khác nào như sắt sanh ra sét và chính chất sét trở lại phá hoại làm tiêu hủy hình hài của sắt.
Chuyện lược dẫn trên, khá khen cho bà hoàng hậu Khema. Nhìn thấy sự biến đổi vô thường nhanh chóng của nhan sắc, bà tự thức tỉnh giác ngộ ngay. Lòng kiêu hãnh, tự hào về sắc đẹp của bà, chỉ trong phút chốc đã tan biến hết. Mình đẹp có người đẹp hơn. Đời tương đối là thế. Có gì mà phải đắc ý kiêu hãnh. Nhưng cái đẹp của nhan sắc sao bằng cái đẹp của tấm lòng. Người có nhan sắc tuyệt trần, chim sa cá lặn, mà lòng dạ độc ác còn hơn quỷ Dạ xoa, thì cũng không ai thèm ưa thích. Bởi cái nết đánh chết cái đẹp kia mà. Nhưng ở đời người ta chỉ thích chuộng cái đẹp dáng vẻ bề ngoài, không mấy ai thấy được cái đẹp bên trong. Dù đẹp đến cỡ nào đi chăng nữa, cũng có ngày phải héo úa tàn phai!
Ở đây, ta thấy bà hoàng hậu Khema, đã thực sự hồi tâm tỉnh giác. Cuối cùng, bà đã xuất gia và trở thành một Trưởng lão ni gương mẫu. Đó là bài học cảnh tỉnh cho những ai còn quá coi trọng nhan sắc. Chính vì quá coi trọng nhan sắc mà gây lắm điều khổ hại cho mình và người. Chúng ta nên nhớ rằng, sắc đẹp ngoại diện chỉ là hào nhoáng giả dối và bất tịnh. Chúng không qua mắt lừa đảo phỉnh gạt được người có trí. Phật nói, chỉ có những kẻ ngu si mới bị chúng lường gạt đau khổ mà thôi. Quả thật, càng ham mê sắc đẹp, con người càng lao mình vào ngục tù đau khổ. Khác nào như con phù du đâm đầu vào ánh sáng để tự hủy diệt vậy.
348. “Bỏ quá, hiện, vị lai,
Ðến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng lại sanh già.”Lược giải
348. Bỏ quá khứ, hiện tại, vị lai mà vượt qua bờ kia; tâm đã giải thoát tất cả, thì không còn bị sanh già trở lại.
Let go of the past, let go of the future, let go of the present, and cross over to the farther shore of existence. With mind wholly liberated, you shall come no more to birth and death.
Kệ tụng
Bỏ quá, hiện, vị lai
Đến bờ kia cuộc đời
Tâm giải thoát tất cả
Không còn bị sanh già.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc lâm, có liên quan đến câu chuyện của Uggasena.
Theo truyện tích, có một đoàn xiếc đến trình diễn bảy ngày tại thành Vương xá. Nhà vua và nhiều khán giả đến xem họ biểu diễn. Bọn họ được mọi người tán thưởng và hiến tặng quà cáp, tiền, vàng rất nhiều.
Trong đoàn có cô gái vừa có nhan sắc đẹp lại vừa biểu diễn rất hay, làm cho chàng trai con của ông chưởng khố nhìn say mê đắm đuối và sau khi về nhà chàng nói: “nếu cưới được nàng ấy, thì chàng mới sống, còn không thì chết cho xong”. Từ đó, chàng ta nhớ nhung nàng quá độ đến đỗi bỏ ăn mất ngủ. Ba mẹ chàng thấy thế, hết lời khuyên nhủ, nhưng chàng vẫn một mặt khư khư đòi tự tử, nếu không cưới được nàng ta. Thấy con quá đau khổ vì tình yêu, người cha đành phải chiều theo ý con bằng cách dùng tiền lo lót cho ông chủ đoàn xiếc, tức ba của cô gái để ông ta đưa người con gái đến gặp mặt con trai quý của ông. Ông chủ đoàn xiếc từ chối và ông ta đưa ra một điều kiện là, người con trai đó phải đi theo đoàn xiếc, thì ông mới gả con gái cho. Vì muốn được sống chung với người mình yêu, nên chàng ta đành phải chấp nhận gia nhập đoàn xiếc.
Sau khi cưới xong, chàng ta cùng đoàn xiếc đi biểu diễn khắp nơi. Chẳng bao lâu, cô vợ sanh một đứa con trai. Những lúc đùa giỡn với con, nàng ta có ý dùng lời châm biếm mỉa mai người chồng, bằng những câu nói khó nghe. Chàng ta hiểu ý, chạm lòng tự ái, nên chàng nói, nếu nàng còn nói bóng gió chê bai như thế, thì chàng quyết định bỏ nàng. Người vợ ỷ vào tài năng diễn xuất của mình, nên nàng tỏ ra bất cần chàng. Thấy vợ có vẻ kiêu ngạo khinh mình, chàng ta quyết định sẽ học làm xiếc. Chàng học với cha vợ thời gian không bao lâu, chàng ta trở thành người diễn xuất rất giỏi, được khán giả hoan nghinh ủng hộ nhiệt liệt.
Một hôm đoàn xiếc trở về biểu diễn ở thành Vương xá, chàng Uggasena trèo lên đầu cây cột cao ba chục mét và đứng lơ lửng trên đầu sào.
Hôm ấy, Đức Phật quán sát và muốn độ chàng, nên Phật nói bốn câu kệ. Nghe xong, chàng Uggasena liền đắc quả A la hán.
Hôm sau, đức Phật và các Tỳ kheo vào thành Vương xá khất thực, đến chỗ biểu diễn, mọi người trông thấy Phật, tất cả đều để ý chăm chú nhìn Phật, không còn ai để ý đến việc biểu diễn của Uggasena nữa. Chàng ta buồn tủi và vô cùng thất vọng. Chàng tự nhủ thầm, ta phải mất một năm luyện tập mới được thế nầy. Thế mà mọi người khi nhìn thấy đức Phật, không còn ai chú ý đến tài nghệ biểu diễn của ta. Thật là quá đau lòng! Vì hiểu được ý nghĩ tâm tư của chàng, nên Phật sai bảo Trưởng lão Mục Kiền Liên:
- Ông hãy đến bảo con viên chưởng khố ta muốn xem chàng biểu diễn tài nghệ.
Nghe thế, chàng ta rất mừng và liền biểu diễn cho Phật và mọi người xem. Đức Phật bảo:
- Nầy Uggasena, người trí phải biết cởi bỏ buộc ràng của thân ngũ uẩn trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Như vậy, người ấy mới thoát được sanh, già, bệnh, chết. Sau khi nghe Phật dạy, mọi người đều được pháp nhãn thanh tịnh. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, đức Phật bảo chúng ta muốn thoát ly sanh, già, bệnh, chết, bốn nỗi thống khổ lớn của con người, thì phải mau quán chiếu xả ly ngũ uẩn. Sở dĩ ta đau khổ, vì ta còn quá coi trọng ngũ uẩn. Ngũ uẩn là do kết hợp bởi năm yếu tố: sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà thành thân tâm. Như vậy, mạng sống của ta là do duyên hợp. Đủ điều kiện tương hợp, thì còn sinh tồn, khi thiếu một điều kiện nào đó, thì thân xác ta tan rã. Năm yếu tố trên, tóm gọn cho dễ nhận hiểu là: “vật chất và tinh thần”. Vật chất thuộc về tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Tinh thần, là do bốn thứ: thọ, tưởng, hành và thức kết hợp. Phân tích ra từng yếu tố, ta thấy không có gì là mình, nên nói là vô ngã. Nghĩa là không có cái ta chân thật. Như vậy, cái mà ta gọi là mình hay tôi, ta, đó chẳng qua là tên gọi giả danh, rỗng tuếch mà thôi. Thực chất thì không có cái gì là cái ta cả. Cho nên, Kinh Bát Nhã nói: “Ngũ uẩn giai không là thế”. Nếu người nào hằng quán sát khế nhận tường tận như thế, thì Phật nói, người ấy sẽ vượt qua mọi khổ nạn. Ngược lại, thì khổ nạn dài dài, bởi do vọng chấp cho cái giả ngã là thật.
Sanh, già, bệnh, chết, suy cho cùng cũng chỉ vì có cái thân xác nầy. Đó là trạng thái biến dịch, vô thường, hoại diệt. Sinh, trụ, dị, diệt, là một chu kỳ thay đổi bất cứ một vật thể nào cũng đều phải nằm trong cái nguyên tắc căn bản của định luật đó. Còn luyến ái chấp chặt vào cái sắc thân ngũ uẩn, tất nhiên, ta còn phải đi lang thang trong tam giới khổ đau. Tất nhiên còn phải thọ thân qua ba thời gian: quá khứ, hiện tại, và vị lai, nếu như ta còn thấy thân tâm và vạn pháp là thật. Chính cái thấy thật nầy, đó là tà kiến, là tạo nghiệp, là thọ mạng trôi nổi trong biển sanh tử khổ đau mãi. Và tất nhiên, là ta sẽ cảm thọ những cái bất như ý của cái thân tâm giả hợp nầy.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một vài bài học đáng nhớ:
1. Duyên nợ khó tránh. Chàng trai Uggasena lần đầu gặp người con gái trong đoàn xiếc, tiếng sét ái tình đã nổ tung rung động trong trái tim chàng. Chàng đau tương tư quên ăn bỏ ngủ. Nhứt quyết phải cưới cho được nàng. Và mối si tình đó của chàng đã được toại nguyện. Âu đó cũng là do duyên nghiệp nhiều đời trong quá khứ.
2. Khích lệ người chồng. Sau khi hai người sống chung có con, nàng muốn cho chàng có tương lai sự nghiệp, nên trong lúc đùa giỡn với con, nàng nói những lời khó nghe để đánh mạnh vào lòng tự trọng, tự ái của chàng. Kết quả, người chồng đã chịu học hỏi và đã thành tài.
3. Nhân duyên khó lường. Biết rõ căn duyên của chàng Uggasena đã đến lúc chín muồi cần hóa độ, nên đức Phật hiện thân đến nói kệ và chàng ta nghe xong đã đắc quả A la hán. Thật là căn duyên của mỗi người khó mà đoán định. Chỉ có đức Phật mới thấu rõ mà thôi. Điều đó cho ta nhớ là chớ nên khinh thường ai. Vì duyên lành sâu dày của mỗi người không ai biết được. Mỗi người đều sẵn có chủng nhân Phật tánh.
4. Phá vỡ ngôi nhà ngũ uẩn. Muốn giải thoát sanh tử khổ đau, Phật dạy chúng ta phải cởi bỏ sự ràng buộc của ngũ uẩn. Vì chính ngũ uẩn là ngôi nhà giam hãm chúng ta trải qua nhiều đời, nay ta cần phải phá vỡ ngôi nhà nầy mới mong giải thoát.
349. “Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt.”
350. “Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc.”Lược giải
349. Những kẻ bị tư tưởng xấu ác làm tao loạn, thường cầu mong dục lạc thật nhiều. Mong dục lạc tăng nhiều là tự trói mình càng thêm chắc chắn.
For a person tormented by evil thoughts, who is passion dominated and given to the pursuit of pleasure, his craving steadily grows. He makes the fetter strong indeed.
Kệ tụng
Người ác ý giao loạn
Tham dục nặng, lạc cầu
Ái tất phải tăng truởng
Tự trói chặt thân mình.
350. Muốn lìa xa ác tưởng hãy thường nghĩ tới bất tịnh. Hãy trừ hết ái dục, đừng để ác ma buộc ràng.
He who delights in subduing evil thoughts, who meditates on the impurities and is ever mindful – it is he who will make an end of craving and rend asunder Mara’a fetter.
Kệ tụng
Ai vui lìa ác tưởng
Quán bất tịnh, chánh niệm
Người ấy sẽ diệt ái
Cắt hẳn với ma vương.
Lược giảng
Hai pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Tỳ kheo trẻ tên Culla Dhanuggaha Pandita, có nghĩa là chàng xạ thủ tài ba.
Theo truyện tích, một hôm, có một thầy Tỳ kheo trẻ sau khi khất thực về, thấy hết nước uống, thầy liền đến nhà Đàn việt xin. Trong nhà có cô gái trẻ. Cô nầy vừa trông thấy thầy, cô liền khởi tâm luyến ái, cô nói:
- Bạch Đại đức, khi nào cần nước uống, xin ngài trở lại đây chớ đừng đi nơi khác. Từ đó, thầy Tỳ kheo thường đến nhà cô ta và được cô ta cúng dường thức ăn đủ mọi thứ. Đó là cái cớ để cho cô ta dễ lân la trò chuyện. Sau vài lần chuyện trò thân mật cởi mở, thầy Tỳ kheo có ý muốn hoàn tục cưới cô. Bấy giờ, thầy rơi vào tình cảnh phiền muộn tấn thối lưỡng nan. Một mặt, thì vẫn còn muốn tiếp tục tu hành; mặt khác, thì cảm thấy chán nản cho việc tu hành ép mình kham khổ. Ý nghĩ của thầy rất là mâu thuẩn, không dứt khoát. Các thầy Tỳ kheo khác thấy thế, mới trình lên thầy Giáo thọ. Thầy Giáo thọ đến trình bày với đức Phật. Đức Phật liền quở trách thầy Tỳ kheo đó. Phật nói, người xuất gia lẽ ra phải luôn sống trong an lạc giải thoát, tại sao thầy lại để cho phiền não sai sử hoành hành, khiến cho thầy phải sống trong bức bách đau khổ. Ông thật là có lỗi lớn. Nhân đó, Phật lại kể tiếp câu chuyện quá khứ giữa hai người.
Phật nói, một thuở xa xưa, Culla Dhanuggha là chàng trai có tên Xạ Thủ Tài Ba. Do tài nghệ bắn cung tên giỏi, nên chàng được vị thầy mà chàng theo học gả con gái cho chàng. Có một hôm, tại thành Ba la nại chàng dùng năm mươi mũi tên đã giết năm mươi tên cướp. Hết tên, chàng túm lấy đầu một tên cướp và kêu vợ đưa kiếm cho chàng. Vừa thấy tên cướp, vợ chàng say mê đắm đuối và trao kiếm cho tên cướp. Tên cướp sau khi giết chàng Xạ Thủ, liền dẫn cô đi theo. Nhưng không bao lâu, tên cướp bỏ rơi nàng, vì sợ nàng cũng giết chàng như nàng đã giết người chồng của nàng…
Thấy người đàn bà thay lòng đổi dạ chẳng những không chung tình với chồng, mà còn mượn tay người khác giết chồng, nên trời Đế Thích liền hóa hiện xuống để trêu chọc cho nàng phải xấu hổ. Khi hiện xuống, trời Đế thích có mang theo người đánh xe và viên nhạc thần. Trời Đế Thích hóa thành con chó rừng, người đánh xe hóa thân con cá và nhạc thần hóa làm con chim. Cả ba đều trêu chọc người đàn bà, bằng những lời lẽ mỉa mai châm biếm. Người đàn bà cảm thấy bị nhục và vô cùng xấu hổ.
Kể xong câu chuyện, đức Phật kết luận: kiếp ấy, ông là chàng xạ thủ trẻ, người đàn bà kia là cô gái cho uống nước đó. Vua Đế Thích chính là ta. Cô kia chỉ mới thấy tên cướp đã mê mệt, giết chết chàng trai tài giỏi nhất Ấn Độ. Nầy Tỳ kheo, ông hãy nhổ hết gốc rễ lòng tham ái trong ông đối với người đàn bà nầy. Khuyên răn xong, Phật liền nói hai pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú 349, Phật dạy: “những kẻ bị tư tưởng xấu ác làm tao loạn, thường cầu mong dục lạc thật nhiều”. Như đã nói, tất cả sự ham muốn của con người đều do từ tư tưởng sanh ra. Trong tâm thức của mỗi người chúng ta đều sẵn có tiềm tàng hai loại hạt giống thiện và bất thiện. Hai loại hạt giống nầy đều có khả năng hướng dục. Nếu nó khởi dục thiện, thì lời nói và hành động của chúng ta theo chiều hướng thiện, mà làm nhiều điều lợi ích cho mọi người. Ngược lại, khi nó khởi dục ác, thì lời nói và hành động của ta sẽ gây ra bao tai họa khổ đau cho người khác. Người biết tu, Phật dạy chúng ta nên luôn luôn nuôi dưỡng chăm sóc và làm tăng trưởng dục thiện. Đồng thời phải thường xuyên quán chiếu phá trừ dục ác. Tư tưởng của con người dụ như ông vua (tâm vương). Đã là vua, tất nhiên, ông vua nào cũng có cái uy quyền tột đỉnh và tham vọng rất lớn. Mọi việc trị nước đều do vua quyết định. Tuy nhiên, làm vua cũng có ông vua nhân từ đức hạnh và cũng có ông vua bạo ác u mê. Nếu là bậc minh quân trị nước, thì thần dân sẽ được an ổn, nước nhà thái bình thạnh trị. Ngược lại, nếu là bậc hôn quân vô đạo trị nước, thì thần dân rối loạn, nước nhà sẽ lâm nguy, giặc giã nổi lên chống đối mãnh liệt không lúc nào an ổn.
Đất tâm của con người cũng thế, tất cả đều do tư tưởng con người chỉ đạo. Nếu tư tưởng hiền lương sáng suốt (dụ như minh quân), thì nó ra lệnh cho thân và miệng (dụ như các vị cận thần) làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh. Ngược lại, thì sẽ gieo rắc gây ra bao thảm họa tang thương khổ đau cho muôn loài hứng chịu. Những hôn quân bạo ác, chắc chắn sẽ không tồn tại lâu dài, vì chính những tư tưởng xấu ác đó nó sẽ tự hủy hoại tiêu diệt họ. Như sắt sanh ra sét, và chính chất sét đó sẽ trở lại làm tiêu hình của sắt. Cũng thế, những tư tưởng xấu ác nó sẽ phá hại chúng ta, làm cho chúng ta phải bị trầm luân sa đọa. Chẳng những sa đọa trong hiện đời, mà chúng ta còn phải bị đọa lạc trầm luân trong nhiều kiếp nữa. Con người vì có quá nhiều tham vọng, say mê theo dục lạc không dừng, nên bị nó luôn luôn trói buộc siết chặt người ta trong đau khổ. Do đó, nên Phật nói: “Mong dục lạc tăng nhiều là tự trói mình càng thêm chắc chắn”.
Pháp cú 350, Phật bảo chúng ta phải thường nghĩ tới bất tịnh, để diệt trừ lòng đam mê ái dục, đừng để ác ma buộc ràng. Có hằng quán chiếu thân tâm nầy bất tịnh, bất an, thì lòng ham muốn luyến ái về nhan sắc hay vật chất của chúng ta mới có thể giảm bớt. Sâu hơn là đoạn trừ tận gốc rễ của nó. Có thế, thì mới mong thực sự được giải thoát.
Phật dạy, quán thân bất tịnh để thấy rõ yếu tính không sạch, bất an và vô thường của nó. Các nhà tâm lý cho chúng ta biết, sự khoái cảm của nhục thể chỉ là một cảm giác rất mong manh. Nó chỉ thoáng qua trong chốc lát, rồi dập tắt và sẽ hiện lại nguyên hình của sự mệt mỏi, uể oải chán chường và đau khổ. Đó là một sự thật mà không ai có thể chối cãi phủ nhận được. Trong cơn si mê ân ái, người ta có thể quên đi tất cả. Nhưng bản chất bất tịnh, vô thường, nó vẫn hiện bày ra trước mắt ta. Người trí, họ thấy rõ bản chất bộ mặt thật của nó. Cho nên, họ không bị sóng tình nhận chìm đắm. Có vận dụng trí huệ, hằng để tâm quán chiếu như thế, thì ta mới mong thoát khỏi sự đam mê ràng buộc của ái dục.
Chuyện lược dẫn trên cho ta thấy duyên nghiệp, nghiệp duyên liên hệ trải qua nhiều đời thật khó nghĩ bàn. Tuy có duyên xuất gia, nhưng những tập khí ái dục phiền não trong nhiều đời, thật không phải dễ dàng chuyển hóa. Nếu người tu hành không trau dồi tài bồi cho mình có sức huân tu đạo lực thâm hậu, thì khó có thể thoát khỏi lưới ma dục tình ràng buộc. Thầy Tỳ kheo nói trên, là một điển hình của tâm lý khát vọng thường tình của con người. Tuy thầy đang rơi vào một trạng huống tâm lý mâu thuẫn giữa đạo đức giải thoát và dục tính trầm luân, nhưng thầy còn có phước duyên là gặp được những bậc Đại thiện tri thức cao đức, mà cụ thể tiêu biểu là đức Phật. Chính đức Phật đã cứu thầy thoát khỏi ách nạn dục vọng trầm luân trong hiện đời và nhiều kiếp. Cuối cùng, thầy đã được giải thoát. Đó là chuyện xảy ra thời xưa. Còn thời nay thì sao?
Ngẫm lại, thời nay, cũng có biết bao người tu hành lâm vào tình huống giống như thầy Tỳ kheo kia không khác. Nhưng làm sao có được cái phúc duyên hy hữu gặp được những bậc Đại thiện tri thức như Phật mà cứu thoát được mình đây?! Thế mới biết, tâm dục thì có thể giống nhau, nhưng hoàn cảnh và môi trường thì rất là khác biệt. Thời nầy, không dễ gì chúng ta gặp được bậc Đại tri thức cao đức như thế. Nghĩ thế, chúng ta nên lấy đó làm gương để tự soi rọi lại mình và nỗ lực quyết chí vươn lên để tự cứu thoát lấy mình. Đó là con đường hay biện pháp hay nhất trong tinh thần cảnh tỉnh tự giác để được giải thoát.
351. “Ai tới đích, không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng.”
352. “Ái lìa, không chấp thủ.
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại,
Hiểu thứ lớp trước sau.
Thân này thân cuối cùng
Vị như vậy được gọi,
Bậc Ðại trí, đại nhân.”Lược giải
351. Bước tới chỗ cứu kính thì không còn sợ hãi; xa lìa ái dục thì không còn nhiễm ô; nhổ lấy mũi tên sanh tử thì chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa.
He who has reached the goal, is fearless, free from craving, passionless, and has plucked out the thorns of existence – for him this is the last body.
Kệ tụng
Ai tới đích, không sợ
Lìa ái không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử
Thân này là thân cuối.
352. Xa lìa ái dục không nhiễm trước, thông đạt từ vô ngại, thấu suốt nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, và thứ lớp của tự cú [6], đó là bậc đại trí đại trượng phu, chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa.
He who is free from craving and attachment, is perfect in uncovering the true meaning of the Teaching, and knows the arranement of the sacred texts in correct sequence – he, indeed, is the bearer of his final body. He is truly called the profoundly wise one, the great man.
Kệ tụng
Ái lìa không chấp thủ
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại
Hiểu thứ lớp tự cú
Thân này là thân chót
Bậc đại trí đại nhân.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ma vương.
Theo truyện tích, “Một hôm, nhiều Trưởng lão Tỳ kheo đến tinh xá Kỳ Viên không phải thời. Các thầy vào thất Trưởng lão La hầu la, đánh thức Tôn giả dậy. Thấy chẳng còn chỗ nào để ngủ, Tôn giả bèn đến trước hương thất Phật. Vị Trưởng lão tôn kính nầy tuy mới tám tuổi nhưng đã đắc quả A la hán. Ma vương Vasavatti thấy vậy bèn nghĩ: “Con của Sa môn Cồ Đàm đang nằm trước cửa hương thất, còn Sa môn Cù Đàm thì nghỉ ở trong. Nếu ngón tay người con bị kẹp đau, vị Sa môn cũng sẽ thấy đau như mình bị kẹp vậy”.
Rồi hắn biến thành voi chúa khổng lồ tiến đến bên vị Trưởng lão, dùng vòi quấn đầu Tôn giả và gầm lên thật to. Trong hương thất, đức Thế Tôn thấy hết, bèn nói:
Nầy ma vương, trăm ngàn kẻ như ngươi cũng không làm La hầu sợ hãi được. Người nầy không còn kinh sợ vì đã diệt trừ tham ái, mạnh mẽ hùng tráng, đại trí huệ. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú trên, mọi người nghe xong, rất nhiều người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm. Ma vương tự bảo: Sa môn Cồ Đàm thấy ta, hắn bèn biến mất”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 248)
Pháp cú 351, Phật nói: “Bước tới chỗ cứu cánh thì không còn sợ hãi”. Sợ hãi là một kinh nghiệm sống mà hầu hết chúng ta ít nhiều đều có. Có những cái sợ hữu lý theo nếp nghĩ thường tình, như sợ khổ, sợ bệnh, sợ chết v.v… nhưng cũng có những cái sợ vô cớ phi lý, như sợ ma, sợ quỷ v.v… Sự thật, ta chưa bao giờ thấy ma quỷ. Nhưng nghe ai nói đến ma quỷ, thì ta lại hình dung tưởng tượng rồi phát run sợ. Đó là cái sợ do ta phóng đại vọng tưởng. Ta thật quá dồi dào tưởng tượng biến kế. Sống trong ảo giác biến kế, là ta luôn luôn tiếp nhận khổ đau. Ta không đủ sức vươn lên để nhận diện chân lý. Dù rằng thực tại chân lý đang hiện hữu phô bày sờ sờ trước mắt ta. Ta bị vô minh vọng tưởng điên đảo che mờ không nhận rõ.
Ta có thể nghĩ ra hình thù của những con ma quái dị. Đó là do ta thiếu trí huệ suy xét nhận thức vào sự thật. Sự nhận thức của ta thật là hời hợt theo thói quen cảm tính. Nhưng khi ta có được cái nhìn thẩm thấu vào sự thật hiện hữu của vạn pháp, thì những nỗi lo âu sợ hãi của chúng ta tức khắc sẽ tan biến ngay. Đó là ta đang tiến bước trên lộ trình giác ngộ. Nhận rõ lý duyên sinh, vô ngã của vạn pháp, thì còn gì nữa đâu mà ta phải lo sợ? Nhận rõ mặt thật của vạn pháp không sinh, không diệt, tự thể vắng lặng sáng suốt bặt dứt mọi dấu vết, hằng an trụ nơi thật tướng, Phật nói, đó là ta bước tới chỗ cứu cánh thì không còn sợ hãi.
Sở dĩ ta bị đắm chìm trong ao tù ô nhiễm, là vì ta còn chứa chất quá nhiều lòng ích kỷ ái dục. Muốn thoát khỏi ao tù ái dục đó, Phật dạy, ta cần phải có chánh kiến nhận định đúng chân lý. Khi đạt ngộ chân lý, thì mọi sự cám dỗ của ái dục tất nhiên không còn. Phật nói đó là xa lìa ái dục không còn ô nhiễm. Như người bị tên cấm sâu, nay nhổ lấy mũi tên ra khỏi thân xác. Đó là nhổ mũi tên sanh tử không còn bị tiếp tục thọ sanh nữa. Đến đây, mới được gọi là bậc đại trí, đại nhân.
Pháp cú 352, đức Phật nói rõ sự xa lìa ái dục không nhiễm trước. Nhưng với điều kiện là phải thông đạt thấu suốt Tứ vô ngại biện tài. Đó phải là bậc A la hán, Bồ tát mới có khả năng phá vỡ mọi thứ lậu hoặc phiền não, đạt được quả vị Niết bàn an lạc. Tứ vô ngại biện, còn gọi là Tứ vô ngại giải hay Tứ vô ngại trí. Đây là Trí huệ biện tài thuyết pháp của các vị Bồ tát. Nếu đứng về ý nghĩa thì gọi là Giải, là Trí, còn đứng về mặt khẩu nghi thì gọi là Biện. Tứ vô ngại gồm có: 1. Nghĩa vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông suốt hết mọi nghĩa lý thế gian và xuất thế gian. 2. Pháp vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông suốt hết tất cả pháp. 3. Từ vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông thạo hết các thứ tiếng. 4. Lạc thuyết vô ngại, còn gọi là Biện thuyết vô ngại: Có khả năng biện giải thông suốt hết cách trình bày và giảng nói một cách vui vẻ tự tại. Phật nói, người nào thấu suốt và hành trì đúng theo thứ lớp của tự cú, đó là bậc đại trí, đại trượng phu, chỉ còn thân nầy cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa. Đối với các bậc A la hán, thì không còn sanh nữa, vì các ngài đã dứt hết Kiến Tư hoặc phiền não. Thế nhưng, đối với các vị Bồ tát thì vẫn còn tái sanh. Các Ngài tái sanh theo bản nguyện để độ sanh, chớ không phải tái sanh theo nghiệp lực để thọ khổ. Ngược lại, chúng ta cũng tái sanh, nhưng tái sanh theo dòng nghiệp lực để chiêu cảm thọ khổ. Đó là ý nghĩa của hai hướng tái sanh khác nhau rất xa. Xin mọi người chớ có lầm nhận.
353. “Ta hàng phục tất cả,
Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào.
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát.
Ðã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta?”
354. “Pháp thí, thắng mọi thí!
Pháp vị, thắng mọi vị!
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!
Ái diệt, dứt mọi khổ!”Lược giải
353. Ta đã hàng phục tất cả, ta đã rõ biết tất cả, ta không nhiễm một pháp nào. Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ, thì còn ai là thầy ta nữa?
A victor am I over all, all have I known. Yet unattached am I to all that is conquered and known. Abandoning all, I am freed through the destruction of craving. Having thus directly comprehended all by myself, whom shall I call my teacher?
Kệ tụng
Ta hàng phục tất cả
Ta biết rõ tất cả
Không nhiễm lụy pháp nào
Ái diệt, tự giải thoát
Ta đã tự chứng vậy
Còn ai thầy ta nữa?
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy có liên quan đến đạo sĩ khổ hạnh tên là Upaka thuộc giáo phái Ajivaka.
Theo truyện tích, “Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật lưu lại bảy tuần tại đó. Rồi ngài mang y, cầm bát lên đường đi mười tám dặm về Ba la nại để chuyển bánh xe pháp. Trên đường đi, Ngài gặp đạo sĩ thuộc giáo phái khổ hạnh Ajivaka. Đạo sĩ hỏi:
- Huynh đệ, các căn Ngài thật tịch tịnh, da sáng đẹp quá. Ngài theo ai xuất gia? Ai là thầy Ngài? Ngài tu theo giáo lý của ai?
Phật đáp:
Như Lai không có thầy tế độ, cũng không có giáo thọ. Phật liền nói pháp cú trên.
Upaka chẳng lộ vẻ đồng ý hay bất bình trước những lời của đức Như Lai. Đạo sĩ chỉ lắc đầu, chép miệng rồi rẽ vào đường tẻ, đi đến lều một thợ săn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 252)
Đức Phật là người tỉnh thức, là bậc Đại giác ngộ. Ngài đã hàng phục chiến thắng tất cả ma quân. Trong nhà Phật thường nêu ra có bốn loại ma: phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma. Nói gọn là nội ma và ngoại ma. Các loại ma nầy đều bị Ngài hàng phục. Nên Phật nói: “Ta đã hàng phục tất cả”. Đức phật còn có danh hiệu là Chánh biến tri, hay Nhứt thiết chủng trí. Nghĩa là đối với muôn pháp, Ngài đều thấu suốt tất cả. Không có gì mà Ngài không biết rõ cội nguồn. Nên Phật nói: “Ta đã biết rõ tất cả”. Vì đã hàng phục tất cả vô minh phiền não, nên đối với vạn pháp, Ngài không một mảy may nhiễm trước, nên Phật nói: “Ta không nhiễm một pháp nào”.
Vì còn nhiễm là còn dính mắc vào trần cảnh. Còn dính mắc, thì sao gọi là Phật được? Do đó, đời sống của đức Phật hoàn toàn được tự do, tự tại, giải thoát. Cho nên Phật nói: “Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ, thì còn ai là thầy ta nữa”. Lời nói nầy, là đức Phật đã minh định rõ “Trí vô sư tự ngộ”. Trong kinh thường nói có hai loại trí: Trí hữu sư và Trí vô sư. Trí hữu sư là trí còn nương thầy bạn học hỏi. Nhờ học hỏi mà có được phát sanh trí huệ hữu lậu. Nghĩa là trí huệ nhận xét còn có giới hạn. Ngược lại, trí vô sư là thứ trí huệ sẵn có. Trí huệ nầy là tên khác của Phật tánh hay pháp thân v.v… Vì là sẵn có, nên đức Phật sau khi thanh lọc chuyển hóa hết vô minh phiền não, thì cái trí huệ nầy hiện bày. Nên Phật nói là không nhờ thầy chỉ dạy. Do Ngài sống trọn vẹn với cái trí sáng suốt thanh tịnh nầy, nên gọi Ngài là Phật hay đấng Đại Giác thế thôi.
354. Trong các cách bố thí [7], pháp thí [8] là hơn cả; trong các chất vị, pháp vị [9] là hơn cả; trong các hỷ lạc, pháp hỷ [10] là hơn cả; người nào trừ hết mọi ái dục là vượt trên mọi đau khổ.
The gift of Dhamma excels all gifts; the taste of Dhamma excels all tastes; the delight in Dhamma excels all delights. The Craving – Freed vanquishes all suffering.
Kệ tụng
Pháp thí, thì tối thắng
Pháp vị, vị tối thắng
Pháp hỷ, hỷ tối thắng
Ái diệt, thắng khổ đau.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vua trời Đế Thích.
Theo truyện tích, một hôm, chư thiên cõi trời ba mươi ba tụ họp lại đưa ra bốn câu hỏi:
- Vật gì cao quý nhất?
- Vị ngon nào trên tất cả?
- Hạnh phúc nào cao tột đỉnh?
- Tại sao diệt trừ tham ái là việc làm tối hệ trọng?
Qua bốn câu hỏi nầy, chư thiên không một ai trả lời được, dù họ đã đi khắp nơi để hỏi mà cũng không có một lời giải đáp thỏa mãn. Cuối cùng, tất cả chư thiên đồng đến gặp Tứ thiên vương. Sau khi nghe qua bốn câu hỏi, Tứ thiên vương cũng không trả lời được và rồi tất cả đồng kéo đến gặp trời Đế Thích. Họ nêu ra bốn câu hỏi với trời Đế Thích, trời Đế Thích cũng chịu thua không thể giải đáp được. Trời Đế thích nói, chỉ có đức Thế Tôn mới có thể giải đáp được. Họ đồng kéo nhau đến gặp Phật tại tinh xá Kỳ Viên. Phật hỏi họ lý do tại sao các ngươi đến đây đông đảo như thế? Trời Đế Thích mới nêu ra bốn câu hỏi và thỉnh cầu Phật giải đáp hộ. Phật đáp:
- “Chỉ có pháp thí thắng mọi thí. Pháp vị thắng mọi vị, pháp hỷ thắng mọi hỷ. Có diệt trừ tham ái mới đắc quả A la hán, cho nên đó là việc làm tối hệ trọng. Nói xong, đức Phật liền nói pháp cú trên”.
Trời Đế Thích thỉnh cầu Phật, nếu pháp thí cao tột như thế, thì tại sao Ngài không hồi hướng công đức ấy cho chúng con? Nghe qua lời thỉnh cầu nầy, Phật liền họp chúng Tỳ kheo lại và nói, từ đây về sau, trong tất cả những thời giảng pháp, các ông nên hồi hướng công đức pháp thí cho tất cả chúng sanh. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, đức Phật nêu ra bốn vấn đề lớn để trả lời bốn câu hỏi của chư thiên. Câu hỏi: vật gì cao quý nhất? Đức Phật trả lời: chỉ có pháp thí là cao quý hơn cả. Lý do tại sao? Vì trong các cách bố thí làm lợi ích cho chúng sanh, chỉ có pháp thí mới có đủ khả năng lực dụng đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ giải thoát. Ngoài ra, không còn pháp nào khác. Những lời Phật dạy, tùy theo căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh, mà Phật nói có sai khác. Tuy nhiên, chủ ý của Phật cũng chỉ nhằm vào một mục đích duy nhứt, là mở bày Tri kiến Phật cho hết thảy chúng sanh để họ chứng đạt chân lý giải thoát hoàn toàn. Đó là bản hoài duy nhứt của đức Phật ra đời.
Đến câu hỏi thứ hai: vị ngon nào trên tất cả? Đức Phật khẳng định chỉ có pháp vị là hơn cả. Pháp vị là hương vị khi được tiếp nhận chân lý. Nhận rõ chân lý và sống với chân lý, dù chưa được trọn vẹn hết, nhưng người ta cũng vẫn cảm thấy an lạc phần nào. Hơn là suốt đời chỉ biết sống chạy theo những thứ vật dục giả dối phù phiếm ở thế gian, làm cho tâm hồn người ta luôn luôn bị chao đảo rối loạn bất an. Những thứ hương vị tạm bợ ảo huyễn của thế gian, chỉ đưa người ta đến chỗ đắm nhiễm đam mê đau khổ. Tất cả đều là giả dối không thật. Hưởng được pháp vị là hưởng được hương vị giải thoát, không có hương vị nào trên đời có thể so sánh được.
Câu hỏi thứ ba: hạnh phúc nào cao tột đỉnh? Phật trả lời chỉ có pháp hỷ là hạnh phúc hơn cả. Pháp hỷ là niềm vui chân thật an thoát nhẹ nhàng. Đó là pháp vị khi chúng ta nghe pháp hay khi nhận ra được lẽ chân thật mầu nhiệm của sự sống. Hạnh phúc, theo quan niệm thế gian, thì thật khó tìm một định nghĩa cho chính xác. Tùy theo quan niệm, hoàn cảnh sống của mỗi người mà người ta hiểu ý nghĩa của hạnh phúc có muôn ngàn sai khác. Nhưng theo Phật giáo, thì mọi thứ hạnh phúc trên đời, không có hạnh phúc nào đạt đến Chân, Thiện, Mỹ. Tất cả chỉ là tương đối, nằm trên bình diện của sự hưởng thụ cảm lạc mà thôi. Vì bản chất của mọi hưởng thụ là đau khổ. Nói cách khác, những thứ hạnh phúc mà người đời quan niệm và có được, thì thật là mong manh như bọt nước. Học vị cấp bằng cao, giàu có sang trọng, địa vị quyền uy vinh quang tột đỉnh, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh v.v…những thứ đó có thực sự đưa người ta đến chỗ hoàn toàn hỷ lạc hay không? Và tất cả có phải thực sự là hạnh phúc hay không? Câu hỏi nầy, xin để tự mỗi người trả lời lấy.
Theo đạo Phật, con đường đưa chúng sanh đến chân trời hạnh phúc, đó là con đường: “Niệm, Định, Tuệ”.Niệm là “Biết” rõ những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Định là dừng hết mọi vọng tưởng tính toán nghĩ suy. Tuệ là sáng suốt thanh tịnh nhận định đúng theo chân lý. Chỉ có con đường đó, mới đưa chúng sanh đến đích giác ngộ an lạc và giải thoát mà thôi. Và đó mới thực sự là đạt đến tột đỉnh của chân hạnh phúc vậy.
Câu hỏi cuối cùng, tại sao diệt trừ tham ái là việc làm tối hệ trọng? Phật trả lời: “Người nào trừ hết mọi ái dục là vượt lên trên mọi khổ đau”. Đây là Phật trả lời giải bày một cách khẳng quyết tường tận. Bởi tham ái chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Dứt tham ái là chấm dứt mọi khổ đau. Đó là điều mà đức Phật đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong phẩm nầy. Vì trọng tâm của phẩm nầy là Phật nêu ra mọi khía cạnh của ái dục để chúng ta nhận rõ tai hại của chúng mà gấp mau đoạn trừ. Có thế, thì chúng ta mới mong thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
355. “Tài sản hại người ngu.
Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu,
Hại mình và hại người.”Lược giải
355. Giàu sang chỉ làm hại người ngu chớ không phải để cầu sang bờ giác. Người ngu bị tài dục hại mình như mình đã vì tài dục mà hại người khác.
Riches ruin only the foolish, not those in quest of the Beyond. By craving for riches the witless man ruins himself as well as others.
Kệ tụng
Giàu sang hại người ngu
Không hại người cầu giác
Kẻ ngu vì tham giàu
Hại mình và hại người.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến quan chưởng khố không con tên là Aputtaka.
Chuyện kể rằng khi quan chưởng khố chết, vua Ba tư nặc hỏi:
- Người không con khi chết tài sản thuộc về ai?
- Muôn tâu, thuộc về bệ hạ.
Sau khi chưởng khố chết, vua cho người chở hết tài sản về cung, và rồi vua thân hành đến bạch hỏi với đức Phật một vài lý do qua cung cách hành xử về việc ăn mặc của ông đối với những kẻ hầu hạ. Khi được mọi người dâng thức ăn thượng vị đựng trong dĩa vàng, thì ông lại từ khước và nặng lời quở trách họ. Khi người hầu đem đồ mặc đẹp, xe cộ tốt, ô dù v.v… đều bị ông đánh đuổi xử tệ, bạc đãi với họ. Ông chỉ ăn cháo, mặc vải thô, đi chiếc xe cũ kỹ, đầu thì hái lá che, không đội nón dù. Đó là những điều mà nhà vua nêu ra thắc mắc hỏi Phật.
Nhân đó, Phật kể câu chuyện về quá khứ của ông quan chưởng khố nầy. Phật nói, thuở xưa, có vị Bích Chi Phật tên là Tagarasikhi đã được ông quan chưởng khố nầy mang thức ăn đến cúng dường. Ông bảo bà vợ nên đem thức ăn thượng vị cúng dường cho vị Tỳ kheo. Bà vợ vốn là người mộ đạo, nghe thế, bà rất lấy làm vui mừng. Đây là lần đầu tiên, bà ta được nghe ông sai bảo như thế. Cúng dường xong, ông ta lại hối tiếc. Ông nghĩ thầm, phải chi những thức ăn nầy cho những kẻ hầu hạ ăn để chúng nó có sức làm việc cho ta, còn tốt hơn là cho vị Tỳ kheo nầy ăn rồi nằm ngủ. Đồng thời ông ta còn giết chết người con trai độc nhất của anh mình để đoạt lấy hết gia tài. Vì người cháu trai nầy cho rằng, tất cả tài sản trong nhà đều do cha của nó tạo ra và tất nhiên, tất cả đều thuộc về cha của nó. Nghe thế, lòng tham sân nổi lên, ông ta dắt đứa cháu vào trong rừng và xiết cổ đứa cháu cho đến chết.
Kể xong chuyện quá khứ, đức Phật nói với nhà vua, nhờ công đức cúng dường cho vị Bích Chi Phật mà suốt bảy kiếp ông được sanh và hưởng phước báo ở các cõi trời. Khi sanh xuống nhân gian, nhờ còn dư báo tốt, nên suốt bảy kiếp ông giữ độc quyền chức chưởng khố. Nhưng do ý nghĩ tiếc nuối và nói lời bất thiện, nên tuy làm chưởng khố mà ông không thể hưởng những thức ăn và những vật dụng quý giá. Hơn nữa, do giết cháu đoạt gia tài, nên ông phải bị đọa địa ngục trải qua trăm ngàn kiếp và suốt bảy kiếp không con.
Phật kể xong, vua Ba tư nặc thưa:
- Bạch Thế Tôn, quan chưởng khố nầy tội thật quá lớn. Gia tài đồ sộ thế kia sao hắn không dùng cho hắn hoặc cúng dường cho đức Thế Tôn?
Phật dạy:
Đúng vậy đại vương. Quả có thế, khi kẻ ngu được giàu sang họ chẳng tìm cầu Niết bàn. Trái lại, của cải chỉ khiến tham ái nổi lên trong tâm họ làm khổ họ lâu dài thôi. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Đối với người đời, thậm chí ngay cả những người biết chút ít tu hành, cũng không ai lại không ham mê tiền bạc của cải. Vì đó là bản chất tham dục của con người xưa hay nay ai cũng thế. Khó ai thoát khỏi dòng hệ lụy của sự tham đắm nầy. Ngoại trừ các bậc thánh nhân, hay những bậc chân tu, mới xem nhẹ tiền bạc của cải như cỏ rác. Đối với các Ngài không còn niệm tham chấp. Tuy nhiên, điều mà ta nên lưu ý lời Phật dạy ở đây là: “giàu sang chỉ làm hại người ngu chứ không phải để cầu sang bờ giác”. Lời dạy nầy, Phật nhắc nhở chúng ta nếu không muốn làm kẻ ngu muội, thì không nên tham đắm làm nô lệ cho tiền bạc của cải. Lời tục thường nói: “tham thì thâm”. Tham nhiều thì khổ nhiều. Đôi lúc vì sự giàu sang mà người ta đành bán rẻ cả lương tâm. Đối với tình nghĩa bạn bè cũng không còn. Câu nói: giàu đổi bạn sang đổi vợ, đó là chuyện xảy ra hết sức thường tình. Nhưng thử ngẫm kỹ lại, sự giàu sang có tồn tại lâu dài không? Có mấy ai giàu ba họ, khó ba đời. Bởi vì bản chất của vật chất là vô thường sanh diệt. Dù chúng ta có cố bám giữ nó, nó cũng không tồn tại lâu dài. Bản thân ta, ta còn không giữ được nói gì đến tài sản của cải ngoài ta.
Hiểu như thế, ta không còn cố tham chấp vào sự vật nữa. Ta không thể cam tâm làm người ngu để bị tài vật sai sử hại mình cũng như mình vì tài dục mà nhẫn tâm làm hại người khác. Đó là điều mà đức Phật muốn cảnh giác thức nhắc chúng ta qua pháp cú trên.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về nhân quả rất rõ. Ông quan chưởng khố sở dĩ được địa vị giàu có sang trọng trong hiện đời, Phật nói, nhờ ông biết cúng dường cho một vị Bích Chi Phật. Tuy nhiên, tuy giàu có mà ông vẫn keo kiết không hưởng dụng được những gì ông có, đó là vì khi bố thí ông còn cái tâm hối tiếc. Ông bị đọa địa ngục trong nhiều kiếp là do ông dùng lời chê bai mắng nhiếc một vị tu hành chứng quả. Ông không có con thừa kế tài sản, là do đời trước ông đã ra tay giết chết người cháu ruột để chiếm đoạt gia tài. Do đó, mà gia tài của ông bị sung vào quốc khố. Thế mới biết luật nhân quả rất công bằng, gieo nhân nào gặt hái quả đó, không mảy may sai chạy vậy.
356. “Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn.”
357. “Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn.”
358. “Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn.”Lược giải
356. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, tham dục làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa tham, sẽ được quả báo lớn.
Weeds are the bane of fields, lust is the bane of mankind. Therefore, what is offered to those free of lust yields abundant fruit.
Kệ tụng
Cỏ làm hại ruộng vườn
Tham lam hại thế nhân
Bố thí người lìa tham
Do vậy được quả lớn.
357. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, sân nhuế làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa sân, sẽ được quả báo lớn.
Weeds are the bane of fields, hatred is the bane of mankind. Therefore, what is offered to those free of hatred yields abundant fruit.
Kệ tụng
Cỏ làm hại ruộng vườn
Sân làm hại thế nhân
Bố thí người lìa sân
Nhờ vậy được quả lớn.
358. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, ngu si làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa si, sẽ được quả báo lớn.
Weeds are the bane of fields, delusion is the bane of mankind. Therefore, what is offered to those free of delusion yields abundant fruit.
Kệ tụng
Cỏ làm hại ruộng vườn
Si làm hại thế nhân
Bố thí người lìa si
Nhờ vậy được quả lớn.
359. “Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn.”Lược giải
359. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, dục vọng làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa dục, sẽ được quả báo lớn.
Weeds are the bane of fields, desire is the bane of mankind. Therefore, what is offered to those free of desire yields abundant fruit.
Kệ tụng
Cỏ làm hại ruộng vườn
Dục làm hại thế nhân
Bố thí người lìa dục
Nhờ vậy được quả lớn.
Lược giảng
Bốn pháp cú trên, Phật dạy tại Yellowstone Rock, Pandukambala Sila, có liên quan đến Ankura.
“Câu chuyện đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải câu kệ “Người chuyên tâm thiền định”, truyện liên quan đến Indaka.
Một hôm, Trưởng lão A na luật vào làng khất thực. Indaka cúng dường Tôn giả một muỗng thức ăn của phần mình. Đây là việc thiện ông làm trong đời trước. Còn Ankura thì cung cấp lò sưởi trên khắp năm mươi cây số suốt mười ngàn năm và bố thí cúng dường rất nhiều vật thực. Indaka được phước báo lớn hơn.
Phật dạy:
- Nầy Ankura, khi bố thí nên suy xét kỹ càng. Làm vậy sẽ giống như hạt giống gieo trên đất lành, đơm hoa kết trái sum suê. Nhưng ông đã không làm thế. Do đó, việc bố thí của ông chẳng đưa đến phước báo lớn.
Để làm sáng tỏ vấn đề, Phật bảo:
Bố thí nên suy xét
Mới gặt nên quả tốt
Bố thí có suy xét
Được người trí ngợi khen
Vật thực dâng cúng trước
Người xứng đáng cúng dường,
Sẽ được vô lượng phước,
Như hạt giống đem gieo,
Trên mảnh đất lành tốt”
(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III,
Viên Chiếu, tr 260)
Pháp cú 356, Phật dạy: “Cỏ làm hại ruộng vườn, tham dục làm hại thế nhân”. Điều nầy, đức Phật so sánh cho chúng ta thấy rõ. Muốn cho ruộng tốt, vườn tốt, tất nhiên, người làm ruộng, làm vườn, phải siêng năng nhổ cho sạch cỏ. Nếu không, thì có hại cho ruộng vườn. Vì nó sẽ ăn hết phân đất làm cho lúa mạ cây cối không còn được tốt tươi. Và như thế, thì sẽ không được thu hoạch lợi lộc nhiều. Cũng thế, tham dục nhiễm trước giống như loại cỏ hoang dại, làm hại người ta rất lớn. Nếu muốn xã hội được an ổn, thì mỗi người cần phải diệt trừ lòng tham dục, như người làm ruộng vườn diệt cỏ. Nếu không dứt trừ tham dục, thì con người sẽ không bao giờ có được đời sống an vui.
Muốn đối trị lòng tham, Phật dạy chúng ta nên mở rộng cõi lòng để san sẻ tài vật cho những người nghèo khổ. Đó là lấy bố thí để vượt qua cái lòng ích kỷ xan tham. Vì tham lam mà người ta tạo ra nhiều tội lỗi. Muốn cho người ta bớt đi lòng tham lam vô độ, thì Phật dạy nên bố thí chia bớt phần nào tài vật mà mình đã có. Hoặc chúng ta dùng những lời pháp ngữ, ái ngữ chân thành khuyên bảo cho người ta thức tỉnh mà giảm bớt đi lòng tham. Được thế, thì Phật nói, sẽ được quả báo tốt đẹp rất lớn.
Ba pháp cú 357, 358, 359, ý nghĩa và lời khuyến giáo của đức Phật cũng giống như pháp cú 356 đã nói ở trên. Tuy nhiên, pháp cú 357, Phật dạy phải dứt trừ sân nhuế. Pháp cú 358, Phật dạy phải dứt trừ ngu si. Vì đó là ba thứ độc tố làm hại người rất lớn. Thế giới ngày nay luôn xáo trộn loạn động bất an, cũng chỉ vì nhơn loại còn nuôi dưỡng và cam tâm làm nô lệ cho ba thứ độc tố nầy sai sử. Bao giờ loại trừ chúng ra khỏi khu vườn đất tâm, cũng như tiêu diệt hết cỏ hoang dại trong ruộng vườn, thì nhơn loại mới mong có được cuộc sống an bình hạnh phúc. Ái dục cũng là loại rất nguy hiểm, nếu không sớm tiêu diệt chúng, thì nhơn loại cũng không có ngày nào được yên. Gốc của nó cũng do từ si mê mà ra. Cho nên, pháp cú 359, Phật dạy, ái dục làm hại thế nhân, nên bố thí cho người lìa dục sẽ được quả báo lớn.
Phẩm Tỷ Kheo
360. “Lành thay, phòng hộ mắt!
Lành thay, phòng hộ tai.
Lành thay, phòng hộ mũi,
Lành thay, phòng hộ lưỡi.”
361. “Lành thay,phòng hộ thân!
Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý.
Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả.
Thoát được mọi khổ đau.”Lược giải
360- 361. Chế phục được mắt, lành thay; chế phục được tai, lành thay; chế phục được mũi, lành thay; chế phục được lưỡi, lành thay; chế phục được thân, lành thay; chế phục được lời nói, lành thay; chế phục được tâm ý, lành thay; chế phục được hết thảy, thật lành thay. Tỳ kheo nào chế phục được hết thảy thì giải thoát hết thảy khổ.
Good is restraint over the eye; good is restraint over the ear; good is restraint over the nose; good is restraint over the tongue.
Good is restraint in the body; good is restraint in speech; good is restraint in thought. Restraint everywhere is good. The monk restrained in every way is freed from all suffering.
Kệ tụng
Lành thay, chế ngự mắt
Lành thay, chế ngự tai
Lành thay, chế ngự mũi
Lành thay, chế ngự lưỡi
Lành thay, chế ngự thân
Lành thay, chế ngự lời
Lành thay, chế ngự ý
Lành thay, chế tất cả
Tỳ kheo chế tất cả
Thoát khỏi mọi khổ đau.
Lược giảng
Phẩm Tỳ kheo gồm có 20 câu, trình bày đời sống phạm hạnh chân chánh của một vị Sa môn sống trong hàng ngũ Tăng đoàn. Đời sống của một vị khất sĩ là phải “Tam thường bất túc”. Ăn, mặc và ngủ nghỉ không nên thừa thãi. Đó là đời sống đạo hạnh cao đẹp mà một vị Tỳ kheo phải có. Khước từ mọi dục lạc thế gian để chọn lấy đời sống phạm hạnh. Mục đích của người xuất gia rất cao siêu là phải đạt cho kỳ được mục đích tối hậu giác ngộ và giải thoát.
Hai pháp cú trên, đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, có năm thầy Tỳ kheo sau khi lãnh yếu chỉ Phật dạy, mỗi thầy tự điều phục một trong năm giác quan. Một hôm, các thầy gặp nhau bàn cãi. Thầy thì nói:
- Chỉ có giác quan của tôi khó điều phục.
Thầy khác cũng nói:
- Chỉ có tôi là người tự chế ngự giác quan khó nhất.
Rốt cuộc, các thầy cùng nhau đến bạch Phật. Mỗi người trình bày và ai cũng cho sự chế ngự giác quan của mình là khó nhất. Kính mong đức Thế Tôn phân định trong năm người chúng con người nào điều phục giác quan khó nhất.
Đức Phật thận trọng tránh không cho biết thầy Tỳ kheo nào kém hơn các huynh đệ mình. Ngài dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo, tất cả các căn đều khó canh phòng. Nhưng không phải đây là lần đầu các ông thất bại trong việc canh phòng ngũ căn. Trong một kiếp quá khứ, các ông cũng thất bại trong việc kềm chế ngũ căn. Vì các ông không nghe lời khuyên của bậc thiện tri thức nên đã bị hại”. Phật kể chuyện quá khứ.
Trong một kiếp quá khứ, Ngài là vị lãnh đạo năm ông quan cận thần đến thành Hoa Thị để nhận ngôi báu. Trong khi đó, cả hoàng tộc trong triều đều bị bọn quỷ Dạ xoa giết sạch hết. Trên đường đi, bọn quỷ Dạ xoa quyến rũ cám dỗ đủ mọi thứ: âm thanh, hình ảnh, mùi hương, thức ăn ngon và gái đẹp. Năm ông quan vì không nghe lời vị Bồ tát căn dặn, nên tất cả đều bị đắm nhiễm và bị hại. Chỉ có riêng Ngài kềm chế được mình nên không bị hại. Sau cùng, Ngài đến được thành Hoa Thị và trở thành một vị quốc vương. Trong khi đăng quang, ngồi trên ngai vàng Ngài tự nghĩ: Người ta nên sử dụng sức mạnh của ý chí mình. Ngài nói kệ:
Kiên trì tuân phục Hiền Trí
Lòng can đảm chẳng lung lay
Khỏi bị Dạ xoa khống chế
Vì ta không sợ không lo
Qua cơn hiểm nguy gian khó
Đến nơi ta được an toàn.
Phật kết luận: “Năm ông quan thuở ấy là các ông, người đến được thành Hoa Thị an toàn và làm vua chính là Ta”.
Phật dạy thêm: “Một Tỳ kheo cần phải canh phòng cẩn mật tất cả các căn, vì chỉ thu nhiếp lục căn mới thoát được khổ não”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Sự thu nhiếp sáu căn là điều tối hệ trọng trong việc tu hành. Người nào luôn canh phòng cẩn mật điều ngự sáu căn, chắc chắn người đó sẽ được đến bờ giải thoát. Riêng đối với người xuất gia, thì việc chế phục sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần, giữ không cho đắm nhiễm, không bị sáu trần lôi cuốn ràng buộc, đó là điều mà chư Phật Tổ hằng răn nhắc khuyên bảo. Vì luân hồi hay giải thoát cũng từ nơi sáu căn của chúng ta mà ra.
Chuyện lược dẫn trên là một chứng minh cụ thể. Đức Phật nhờ phòng ngự được sáu căn, nên Ngài mới đến được thành Hoa Thị và lên làm vua. Ngược lại, năm ông quan cận thần kia, vì buông lung các căn đắm say nhiễm trước ở nơi sáu trần, kết quả, tất cả đều bị sát hại dưới tay của bọn ác quỷ. Thành Hoa Thị là tiêu biểu dụ cho mục đích giải thoát mà tất cả người tu nói chung, cần phải hướng đến. Nhưng muốn đạt được mục đích giải thoát, không phải là chuyện dễ dàng. Người tu hành, đặc biệt là người xuất gia, nếu không trang bị cho mình có một ý chí mãnh liệt, thiền định cao thâm, và một thanh kiếm trí huệ sắc bén, thì chúng ta thật khó mà đạt thành ý nguyện. Bởi trên đường tu, có không biết bao nhiêu thứ chướng duyên cạm bẫy thử thách. Nhất là đối với những cạm bẫy ngũ dục, lục trần. Những thứ nầy có sức hấp dẫn cám dỗ quyến rũ người tu hành thật vô cùng mãnh liệt. Nếu không khéo canh phòng chế ngự nghiêm nhặt ở nơi sáu căn, chỉ cần lơ đễnh sơ sẩy một chút, thì chúng ta cũng dễ bị sa đọa vào con đường khổ đau nhanh như tên bắn. Pháp cú trên, đức Phật khen ngợi những ai khéo biết phòng hộ ở nơi sáu căn vậy.
362. “Người chế ngự tay chân,
Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định.
Ðộc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo.”Lược giải
362. Gìn giữ tay chân và ngôn ngữ, gìn giữ cái đầu cao, tâm mến thích thiền định, riêng ở một mình và tự biết đầy đủ, ấy là bậc Tỳ kheo.
He who has control over his hands, feet and tongue; who is fully controlled, delights in inward development, is absorbed in meditation, keeps to himself and is contented – him do people call a monk.
Kệ tụng
Người chế ngự tay chân
Chế ngự lời và đầu
Vui thích trong thiền định
Độc thân, biết tự túc
Thật xứng danh Tỳ kheo.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo giết ngỗng.
Theo truyện tích, tại thành Xá vệ, có hai thanh niên sau khi xuất gia làm Tỳ kheo, hai người trở thành đôi bạn chí thân. Một hôm, hai thầy cùng rủ nhau ra sông tắm. Tắm xong, hai thầy lên bờ phơi nắng chuyện trò. Trong lúc đó, có hai con ngỗng bay ngang qua. Cả hai nhìn thấy và lượm đá ném chúng. Thầy thứ nhứt ném không trúng. Thầy thứ hai, ném trúng một con mắt của ngỗng và nó kêu lên một tiếng thất thanh rồi rơi xuống đất trước mặt hai thầy. Các thầy Tỳ kheo khác trông thấy hành động sát hại bất nhẫn đó, liền quở trách vị Tỳ kheo kia và rồi đến bạch trình với đức Phật. Phật quở:
- “Nầy Tỳ kheo, sao đã xuất gia từ bỏ gia đình theo Ta để cầu đạo giải thoát mà ông lại làm như thế? Người trí thời Phật chưa ra đời, dù sống ở thế gian cũng còn phải e dè thận trọng từng việc nhỏ nhặt. Các ông đã xuất gia theo Phật, lại không lo dè dặt chút nào vậy. Rồi Phật kể tiếp chuyện tiền thân của Ngài là Kurudhamma”.
Phật nói, có một thuở xa xưa, Ngài là thái tử con vua Dhananjaya của vương quốc Kuru. Sau khi học bắn tên, thái tử trở nên một tay thiện xạ. Khi trở về vương quốc, thái tử được vua cha phong làm Phó vương. Vua cha băng hà, thái tử kế vị. Khi lên ngôi, nhà vua nghiêm trì năm giới cấm và ra lệnh cho các quan, cũng như hoàng tộc trong triều thảy đều gìn giữ năm giới không được trái phạm.
Lúc ấy, trong nước của vua Kalinga bị hạn hán nhiều năm, dân chúng đói khát rất đau khổ. Vua Kalinga thầm nghĩ, trong nước của vua Kuru nhờ giữ năm giới cấm mà thường được mưa thuận gió hòa không có hạn hán, dân chúng ấm no. Nghĩ xong, nhà vua ra lệnh cho các thầy Bà la môn và các quan sang nước Kuru xin khắc năm giới cấm vào một dĩa vàng rồi mang về nước.
Lúc đầu, họ đều bị từ chối, nhưng sau đó nhờ khẩn khoản nài nỉ van xin, nên cuối cùng, vua Kuru cho khắc năm giới mang về. Khi về nước, vua Kalinga và dân chúng trong nước đều hết lòng nghiêm trì năm giới và lập tức trời mưa.
Kể xong câu chuyện tiền kiếp, đức Phật kết luận: vua Kuru thuở ấy nay chính là Ta.
Đức Phật dạy tiếp:
- Nầy các Tỳ kheo, người trí thời xưa, dù một lỗi nhỏ họ cũng cảm thấy ái ngại. Còn các ông, đã xuất gia vào đạo của Phật đà lại chấp nhận một lỗi lớn là sát hại sanh vật. Một Tỳ kheo phải hằng kiểm soát được tay chân, và ngôn ngữ của mình. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Phật dạy: “giữ gìn tay chân và ngôn ngữ”, đây thuộc về thân nghiệp và ngữ nghiệp. Về thân nghiệp, nếu chúng ta khéo biết lợi dụng cái thân nầy để hành thiện làm lợi lạc cho chúng sanh, thì quả đó là điều đáng được tán dương khích lệ. Ngược lại, nếu chúng ta sử dụng tay chân làm những điều phi pháp trái với lẽ đạo, tạo nhiều ác nghiệp, thì đó quả là điều tai hại mà chúng ta cần nên tránh. Khi gây tạo ác nghiệp, chẳng những có hại cho bản thân mình mà còn gây tổn hại lây lan đến nhân quần xã hội nữa. Thế nên, trong năm giới cấm Phật chế cho người Phật tử tại gia gìn giữ, thì giới không sát hại sinh vật đứng đầu. Đây thuộc về giới trọng căn bản của người xuất gia và tại gia. Hành động sát hại, gây hấn bằng cách đánh đập, đâm chém, bắn giết v.v… đó không phải là cá tánh đạo đức hướng thượng của con người. Đó là hành vi bạo động, thuộc cá tánh hạ đẳng thấp hèn của những loài cầm thú. Một người có chút từ tâm, không ai nỡ ra tay sát hại sinh vật một cách vô cớ. Vì tất cả đều có mạng sống như nhau. Tất cả đều có chung một mẫu số là tham sanh úy tử. Điều gì mình không muốn, thì không nên gây tổn hại làm khổ đau cho người khác. Hành động sát hại con ngỗng của thầy Tỳ kheo nói trên, thật đó là hành động quá tàn nhẫn, trái với giới luật và đạo đức. Đạo đức của một con người thường và hơn thế nữa là đạo đức của người xuất gia tu hạnh xuất thế. Hành động gây tổn hại cho sinh vật không thể nào chấp nhận được.
Đến ngữ nghiệp cũng thế. Nếu chúng ta khéo biết sử dụng lời nói ái ngữ, thương yêu, xoa dịu, chia sẻ những nỗi khổ niềm đau của mọi người, thì đó quả là một lợi lạc vô cùng. Đó là chúng ta thể hiện được hạnh nguyện lắng nghe và an ủi của đức Bồ tát Quán Thế Âm. Thế giới ngày nay, rất cần đến loại ái ngữ nầy. Vì chúng sanh có quá nhiều đau khổ, chúng ta không nên sử dụng thứ quái ác ngữ làm khổ đau cho nhau thêm. Đó là Phật nói khéo gìn giữ ngôn ngữ ác độc, như gìn giữ cái đầu cao.
Tâm mến thích thiền định, đó là điều quan trọng của người tu. Từ sự giữ gìn cẩn thận ở nơi thân và ngữ nghiệp, nó cũng giúp ích rất nhiều cho công phu thiền định. Thiền định là công năng nhằm thanh tịnh hóa ý nghiệp. Muốn thực tập thiền định cho có kết quả cao, thì Phật dạy hành giả phải riêng ở nơi chỗ vắng vẻ một mình. Vì ngoại cảnh cũng trợ lực giúp cho hành giả một phần quan trọng rất lớn trong khi dụng công thật hành. Đối với một vị khất sĩ, Phật dạy phải tự biết đủ. Có biết đủ, mới dừng được tâm niệm tham cầu lợi dưỡng. Đồng thời, nó cũng giúp cho đời sống của người xuất gia đơn giản hơn để tiện lợi khi thực tập thiền quán.
363. “Tỷ kheo chế ngự miệng,
Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa,
Lời lẽ dịu ngọt ngào.”Lược giải
363. Tỳ kheo nào điều nhiếp được ngôn ngữ, khôn khéo và tịch tịnh, thì khi diễn bày pháp nghĩa, lời lẽ rất được hòa ái rõ ràng.
That monk who has control over his tongue, is moderate in speech, unassuming and who explains the Teaching in both letter and spirit – whatever he says is pleasing.
Kệ tụng
Tỳ kheo nhiếp phục lưỡi
Vừa lời, không cống cao
Khi diễn bày pháp nghĩa
Lời lẽ ắt ngọt ngào.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến thầy Tỳ kheo Kokalika.
Thầy Kokalika vì ác ý nên đã sanh tâm phỉ báng hai vị đại đệ tử của Phật là Tôn Giả Xá lợi Phất và Mục kiền liên. Đó là nguyên nhân mà thầy bị đọa địa ngục. Và đó cũng là nguyên nhân cho các thầy Tỳ kheo khác bàn tán về việc thầy Kokalika không giữ gìn khẩu nghiệp. Thấy thế, đức Phật đến hỏi rõ lý do về việc bàn tán xôn xao đó.
Sau khi nghe những vị đó thuật lại, Phật bảo, đây không phải là lần đầu thầy Kokalika bị đọa vào địa ngục vì không giữ gìn khẩu nghiệp, mà trong quá khứ cũng đã có xảy ra chuyện đó. Phật kể chuyện quá khứ về con rùa ham nói.
Đức Phật nói, xưa kia, trên vùng núi Hy Mã có một hồ nước và trong hồ có con rùa. Đôi ngỗng đi kiếm ăn tình cờ gặp được chú rùa và rồi kết tình bạn thân. Ngỗng tìm cách dụ rùa đến động vàng, vì nơi đó có nhiều cảnh đẹp thích thú. Nghe thế, rùa hăm hở, nhưng không biết phải đến đó bằng cách nào. Ngỗng bày kế. Rùa ngậm miệng cắn cây cho thật chặt, đôi ngỗng sẽ tha bay đi. Nhưng ngỗng ra lệnh cho rùa, dù gặp bất cứ tình huống nào, rùa cũng phải ngậm miệng cho chặt không được há ra. Rùa đồng ý. Thế là một giao ước đã được ký kết thực hiện.
Khi đôi ngỗng bay ngang qua cánh đồng, bấy giờ lũ trẻ chăn trâu trông thấy la lên:
- Bây ơi, ra xem hai con ngỗng tha ông thầy bói rùa. Lũ trẻ la lớn nhiều lần. Thế là rùa tức giận, không còn nhịn được nữa. Vừa há miệng định chửi lại, thì than ôi, thân rùa rơi xuống đất và tan nát thành từng mảnh vụn.
Rùa tự hại vì ham nói chuyện
Gậy ngậm rồi mà miệng vẫn thài lai
Rớt liền xuống đất tan thây
Người khôn ngoan thấy gương đây giữ mình
Lựa lời mà nói đẹp xinh
Dùng lời hòa ái đẹp mình người vui.
Kể xong, Phật kết luận:
-“Nầy các Tỳ kheo, một Tỳ kheo phải kiểm soát lời nói, sống lặng thinh, không tự kiêu và thoát khỏi phiền não”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú 361, đức Phật đề cập sơ qua về việc giữ gìn ngôn ngữ. Pháp cú nầy, đức Phật dạy rõ hơn. Phật dạy: “Tỳ kheo biết nhiếp được ngôn ngữ, khôn khéo mà tịch tịnh, thì khi diễn bày pháp nghĩa lời lẽ rất hòa ái rõ ràng”.Lời nói tuy không thật, bởi do duyên hợp mà có phát ra âm thanh, nhưng nó thật vô cùng quan trọng. Ở đời, có lắm người do thiếu suy xét cẩn trọng, không giữ được lời nói hòa ái, nói toàn những lời thô lỗ cộc cằn dao búa, nên họ phải chuốc lấy họa hại vào thân. Nhẹ thì bị đánh đập hành hạ giam cầm, nặng thì bị sát hại thủ tiêu. Tất cả cũng chỉ vì buông lung tâm ý phát ngôn bừa bãi, nên phải chịu cái hậu quả tang thương như thế. Người xưa nói: “luận người ở đời như búa bén ở trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác”. Đó là nói người đời, vì thiếu tu, nên họ không biết giữ gìn lời nói. Ngược lại, đối với người tu hành, nhứt là ngưòi xuất gia, Phật dạy, “phải khéo biết nhiếp được ngôn ngữ, khôn khéo mà tịch tịnh”. Quan trọng là phải khôn khéo mà tịch tịnh. Phật không cấm hẳn chúng ta không nói, nhưng nói phải có ý thức chánh niệm. Nói những gì có lợi lạc cho mình và người, thì nên nói. Tác dụng của ngôn ngữ đặt trên hai chiều thuận nghịch. Thuận, thì đem lại nhiều lợi ích. Đó là lời nói thuận theo chân lý. Nghịch, thì gây ra nhiều tai hại. Đó là lời nói ngược với chân lý. Thế nên, Phật bảo chúng ta phải giữ tâm tịch tịnh. Tịch là vắng lặng, không loạn động ồn ào. Một tâm thái thư thả điềm đạm an bình. Tịnh là trong sạch, không cáu bợn phiền não. Tịnh cũng có nghĩa là an ổn không xáo trộn tạp loạn. Giữ được tâm ý như thế, thì chắc chắn lời nói sẽ đem lại nguồn an vui hạnh phúc đến cho mọi người.
Chuyện lược dẫn trên, tuy rất đơn giản, không có gì thú vị cho lắm, nhưng ngẫm kỹ, có biết bao người tan xác như con rùa kia, chỉ vì không dằn được cơn tức giận, mà phải chịu một hậu quả rất thê thảm. Muốn sống an ổn, thì chúng ta hãy nên xem gương con rùa kia mà hành xử!
364. “Vị tỷ kheo thích Pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp.”
365. “Không khinh điều mình được,
Không ganh người khác được
Tỷ kheo ganh tị người,
Không sao chứng Thiền Ðịnh.”Lược giải
364. Tỳ kheo nào an trú trong lạc viên chánh pháp, mến pháp và theo pháp, tư duy nhớ tưởng pháp, thì sẽ không bị thối chuyển.
The monk who abides in the Dhamma, delights in the Dhamma, meditates on the Dhamma and bears the Dhamma well in mind, he does not fall away from the sublime Dhamma.
Kệ tụng
Vị Tỳ kheo trú pháp
Mến pháp suy tư pháp
Tâm tư niệm chánh pháp
Sẽ không rời chánh pháp.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Dhammarama.
Theo truyện tích, khi Phật tuyên bố còn bốn tháng nữa, Ngài sẽ vào Niết bàn. Nghe tin bất lành đó, có nhiều vị Tỳ kheo cảm động khóc lóc. Các vị chưa chứng Sơ quả (Tu đà hoàn), thì không ngăn được tình cảm rơi lệ khóc than. Còn những bậc chứng A la hán, tuy không xúc động như các vị kia, nhưng cũng không khỏi ngậm ngùi chua xót, vì Phật nhập Niết bàn là một sự mất mát vô cùng lớn lao cho thế gian.
Riêng thầy Tỳ kheo Dhammarama (Trú pháp hỷ) khi biết được còn bốn tháng nữa, đức Phật vào Niết bàn, thầy rời khỏi Tăng đoàn, tìm nơi thanh vắng để tư duy quán chiếu những gì Phật dạy. Thầy chẳng màng để ý đến ai và cũng không đến hầu Phật. Biết thế, các vị Tỳ kheo khác đến mách với đức Phật về việc làm của thầy. Nghe thế, Phật hỏi lý do, thầy đáp: vì thầy muốn chứng quả A la hán trước khi đức Thế Tôn vào Niết bàn. Phật khen ngợi và bảo các Tỳ kheo:
-“Nầy các Tỳ kheo, mỗi vị nên bày tỏ sự kính mến Ta như Dhammarama đã làm. Chẳng phải dùng hương hoa, hoặc những thứ cúng dường mà tôn kính ta. Chỉ có người thật hành theo giáo lý mới thật sự tôn kính Ta. Tiếp theo, Phật liền nói pháp cú trên.
Nghe Phật dạy xong, thầy Trú pháp hỷ liền chứng quả A la hán, hội chúng cũng được lợi lạc”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Trau dồi phạm hạnh, hành trì giới luật nghiêm minh, đó là nếp sống chân chính của người xuất gia. Muốn được an trú trong lạc viên chánh pháp, thì người xuất gia phải luôn luôn tài bồi con đường “Giới, Định, Huệ”, hay “Niệm, Định, Huệ”. Hằng tư duy thiền quán về chánh pháp, nương theo lời Phật dạy để tự quán chiếu lại mình. Có tư duy thiền quán, ta mới nhận diện thấy rõ đâu là nguyên nhân gây ra khổ đau và đâu là Niết bàn an lạc. Bát chánh đạo cũng là con đường thiết yếu để chúng ta hằng tư duy quán niệm. Đó là con đường thực tiễn dập tắt mọi khổ đau. Có hành trì suy nghiệm quán chiếu tận tường như thế, thì chắc chắn con đường giải thoát sẽ không còn xa vời với chúng ta nữa. Phật dạy người xuất gia muốn đạt được giải thoát, là phải tự trang bị cho mình cái tâm kiên cố và trường viễn. Có thế, thì mới mong vượt qua mọi khó khăn gian lao thử thách và tâm không hề thối chuyển.
Chuyện lược dẫn trên cho ta một chứng nghiệm thấy rõ điều đó. Thầy Tỳ kheo Dhammarama, thay vì ngồi đó buồn rầu bịn rịn khóc than, khi hay tin Phật sắp vào Niết bàn, thầy lại đi tìm nơi thanh vắng để quán chiếu thanh lọc đoạn trừ hết phiền não trước khi đức Phật nhập diệt. Bằng vào tất cả sự nỗ lực tinh cần thiền quán, không lâu, thầy đã chứng quả A la hán. Điều quan trọng mà ta cần chú ý, trong khi thật hành, thầy không màng gì đến những lời dư luận bàn tán đàm tiếu khen chê của những người khác. Thầy chỉ một bề lập nguyện tiến tu quyết tâm đạt cho kỳ được ý nguyện. Đó là điều mà không phải ai cũng có thể làm được. Phần nhiều, người tu chúng ta thời nay còn quá lệ thuộc vào dư luận khen chê. Khen thì vui vẻ, chê thì buồn giận. Đó là chúng ta nô lệ ngoại cảnh đánh mất quyền tự chủ ở nơi chính mình. Nếu chúng ta tu hành đàng hoàng, nhắm thẳng vào con đường giác ngộ giải thoát mà tiến tu, thì mặc cho ai đó đàm tiếu phải trái khen chê. Có thế, thì chúng ta mới có thể đạt được sở nguyện như thầy Tỳ kheo Trú Pháp Hỷ. Và chính đó mới thực sự là đền ơn giáo hóa dạy dỗ lớn lao của đức Phật. Khi đức Phật biết được sự thể rõ ràng, Phật liền tán dương khen ngợi thầy rất mực. Đó là tấm gương trong sáng cao đẹp mà chúng ta cần phải quan tâm noi theo tu tập.
365. Chớ nên khinh điều mình đã chứng, chớ hâm mộ điều người khác đã chứng, Tỳ kheo nào chỉ lo hâm mộ điều người khác tu chứng cuối cùng mình không được Tam ma địa (chánh định).
One should not despise what one has received, nor envy the gains of others. The monk who envies the gain of others does not attain to meditative absorption.
Kệ tụng
Không khinh điều mình được
Không ganh người khác được
Tỳ kheo ganh tỵ người
Không sao chứng thiền định.
366. “Tỷ kheo dầu được ít,
Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác,
Chư thiên khen vị này.”Lược giải
366. Hàng Tỳ kheo, dù được chút ít cũng không sinh tâm khinh hiềm, cứ sinh hoạt thanh tịnh và siêng năng, nên đáng được chư thiên khen ngợi.
A monk who does not despise what he has received, even though it is little, who is pure in livelihood and unremitting in effort, him even the gods praise.
Kệ tụng
Tỳ kheo dầu được ít
Không khinh điều mình được
Chánh mạng, không biếng nhác
Chư thiên khen vị nầy.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo lạc bầy.
Theo truyện tích, có một thầy Tỳ kheo ở Trúc Lâm ly khai Tăng đoàn kết bạn thân với thầy Tỳ kheo khác thuộc nhóm Đề Bà Đạt Đa. Vì chỗ quen thân thâm tình, nên một hôm, thầy đến nơi thầy Tỳ kheo bạn ở đó vài ngày. Sau khi trở về, thầy bị các thầy khác mách với đức Phật. Các thầy nói rằng, thầy Tỳ kheo đó, vì ham mê tặng phẩm vật thực, nên đã gia nhập với nhóm Đề Bà Đạt Đa rồi. Đức Phật gọi thầy đến hỏi duyên cớ. Thầy xác nhận việc mách đó là đúng, nhưng thầy không tán thành quan điểm của Đề Bà Đạt Đa.
Đức Phật bảo rằng, tuy ông không theo tà kiến, nhưng lập trường tu hành của ông không nhất định. Ông dễ bị lung lạc theo ý kiến của người khác. Thuở quá khứ, ông cũng đã từng làm như vậy. Nhân đó, Phật liền kể câu chuyện về con voi Damsel-Face. Đức Phật nói rằng, tuy con voi đó rất ngoan hiền, nhưng vì nó bị ảnh hưởng lời nói ác độc thô bỉ của bọn cướp, nên nó đâm ra bất trị thường hay chạy loạn và giết người. Về sau, nó ngoan hiền trở lại, bởi nghe các vị Bà la môn luận đạo. Voi Damsel- Face thuở ấy chính là thầy Tỳ kheo dễ tin hôm nay.
Kể xong, đức Phật kết luận:
- “Là một Tỳ kheo, nên hài lòng với những gì mình nhận được, và không ham muốn những gì người khác có. Nếu ham muốn như vậy chẳng bao giờ đắc Thiền định, Trí tuệ, hoặc Thánh quả. Nếu hài lòng với những gì đang có, ông sẽ có tất cả”. Dạy xong, Phật nói tiếp hai pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện ).
Hai pháp cú trên, Phật chỉ dạy cho chúng ta không nên có mặc cảm tự ty khinh thị coi thường mình. Tổ Quy Sơn cũng có dạy: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ”. Nghĩa là người kia là bậc đại trượng phu, thì mình cũng có khả năng như thế. Không nên tự khinh mình mà lui sụt (Bất ưng tự khinh nhi thối khuất). Đây là những lời sách tấn khuyến giáo răn nhắc chúng ta phải có ý chí vươn lên. Đức Phật đã từng dạy, mỗi chúng sanh đều sẵn có tánh giác sáng suốt thanh tịnh như Ngài. Ngài đã thành Phật, thì tại sao mình không có khả năng thành Phật giống như Ngài. Luận về lý tánh mà nói, thì giữa Phật và chúng sanh không khác nhau. Chỉ khác nhau trên phương diện hành trì, hay khác nhau giữa mê và ngộ mà thôi. Câu nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, đó là Phật đã xác quyết khẳng định một cách rõ ràng, không còn gì phải nghi ngờ. Điều quan trọng là chúng ta hãy nhìn kỹ lại mình xem mình có thật hành đúng theo lời Phật dạy hay không? Và mình có tận lực diệt trừ phiền não hay không? Nếu có, thì chắc chắn một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ thành Phật như Ngài.
Còn hâm mộ vào những gì mà người khác đã chứng, thì đó là ta còn có cái tâm vọng ngoại tìm cầu và hoàn toàn ỷ lại vào tha nhân. Điều đó là điều tối kỵ trong đạo Phật. Đạo Phật không chấp nhận chúng ta nương tựa lệ thuộc vào những gì bên ngoài. Vì còn lệ thuộc là còn vướng mắc, không phải thật mình. Đạo Phật bắt chúng ta phải thừa nhận lại cái mình sẵn có. Không nên tiếp tục làm thân phận của gã cùng tử ăn mày. Phải chân thiết nhận lại cái gia tài quý báu sẵn có của mình. Bởi vì ai cũng sẵn có cái “Chánh Nhân Phật Tánh”. Như trong cây sẵn có lửa, chỉ cần gia công tinh cần cọ xát, thì một lúc nào đó cây cũng sẽ phát lửa. Ai ăn người nấy no, ai tu người nấy chứng. không ai ăn thế và tu chứng cho ai. Ai tu người nấy thành, ai hành người nấy đắc. Đạo Phật rất công bằng bình đẳng là ở chỗ đó. Nếu một bề hướng ngoại tìm cầu hoặc ỷ lại vào sở chứng của người khác, thì muôn đời vĩnh kiếp chúng ta mãi mãi làm chúng sanh trong ba cõi, không mong gì giải thoát được. Khác nào một kẻ tối ngày chỉ biết đề cao khen tặng người giàu có nhiều tiền, trong khi đó mình lại ăn không ngồi rồi không làm gì hết, thử hỏi suốt đời mình có được gì không? Hay chỉ có hai bàn tay trắng thôi. Đó là thái độ của kẻ chỉ biết hâm mộ khen người mà lại quên mình.
Ngược lại, khi mình tu có được phần nào thanh tịnh an lạc, thì mình cũng không nên sanh tâm tự mãn khinh hiềm. Vì như thế là mình không có tâm cầu tiến. Đồng thời, mình cũng không nên có thái độ ngạo mạn khinh thường ai. Đó là hai thái độ bất lợi mà chúng ta cần phải tránh. Phật dạy chúng ta cứ sinh hoạt tinh tấn lo tu một cách bình thường. Như thế, thì mới hợp với lẽ đạo vậy.
Chuyện lược dẫn trên chứng minh cho chúng ta thấy thầy Tỳ kheo thiếu lập trường. Thầy không hài lòng với những gì mình đang có. Thầy nghe theo tiếng gọi đam mê của vật chất mà bị lung lạc tâm hồn. Cũng may là thầy biết quay đầu trở lại, không bị rơi vào con đường tà kiến. Người tu cần phải có một lập trường kiên định. Không nên đứng núi nầy trông núi nọ. Có lắm người chạy đông, chạy tây để tìm cầu, rốt lại, họ không được gì cả. Xin đừng vội nghe đâu chúc đó. Nếu thế, thì coi chừng chúng ta sẽ mất cả chùy lẫn chày. Có người thì lại chê pháp môn nầy, bài xích pháp môn kia, mà chính bản thân họ không tu hành gì hết. Cuối cùng, họ là kẻ đứng giữa ngã ba đường, dậm chân tại chỗ. Thật là đáng thương xót biết bao! Ta nên chú ý lời Phật dạy thầy Tỳ kheo kia rằng: “nếu ông hài lòng với những gì đang có, thì ông sẽ có tất cả. Bằng ngược lại, thì sẽ mất tất cả”.
367. “Hoàn toàn, đối danh sắc,
Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não.
Thật xứng danh Tỷ kheo.”Lược giải
367. Nếu đối với thân tâm mà không lầm chấp là “ta” hay “của ta”. Vì không ta và của ta nên không lo sợ. Người như vậy mới là Tỳ kheo.
He who has no attachment whatsoever for the mind and body, who does not grieve for what he has not - he is truly called a monk.
Kệ tụng
Đối với danh và sắc
Không chấp ta, của ta
Không tà, không sầu não
Mới danh xứng Tỳ kheo.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến người Bà la môn cúng dường năm lần thành quả đầu tiên.
Theo truyện tích, có một vị Bà la môn chuyên sống về nghề nông, ông có biệt danh là “người cúng dường năm lần thành quả đầu tiên”:
Lần thứ nhứt: Ông cúng dường những bông lúa cắt đầu tiên.
Lần thứ hai: Ông cúng dường những hạt lúa vừa mới đập xong.
Lần thứ ba: Ông cúng dường phần lúa đổ trong bồ đầu tiên.
Lần thứ tư: Ông cúng dường bát cơm đầu tiên, khi vừa mới nấu xong.
Lần thứ năm: Ông cúng dường những hạt cơm đầu tiên, khi múc ra dĩa.
Sau khi quán sát căn cơ của hai vợ chồng nông dân nầy, Đức Phật biết có thể độ họ chứng thánh quả A na hàm, nên Ngài liền đến nhà của ông để khất thực. Bà vợ nhìn thấy đức Phật, liền thầm nghĩ, chồng ta vừa mới cúng duờng năm lần, mà bây giờ ông ấy đang dùng bữa, nếu như ông ta thấy vị Sa môn nầy, thì chắc chắn ông ta cũng sẽ cúng dường hết phần ăn của mình. Như thế, thì ông ta sẽ biểu ta nấu cơm nữa, mà ta thì không muốn nấu. Nghĩ thế, bà đứng án che khuất lại không cho chồng bà nhìn thấy đức Phật. Thỉnh thoảng, bà liếc mắt nhìn trộm đức Phật, xem đức Phật đã đi chưa. Hiểu ý, đức Phật vẫn đứng yên vị trí. Bà thầm nói: “Ông đi đi chứ”, vì sợ chồng bà nghe được. Nhưng cuối cùng, bà phải thốt thành tiếng khẽ nói với đức Phật: “Ông đi đi”.
Đức Phật thầm nghĩ: “Ta không đi” và lắc đầu. Bà vợ không nén được tức cười liền bật tiếng cười lớn. Khi ấy, đức Phật liền phóng quang và hiện hình ở trong nhà. Bấy giờ, ông chồng mới thấy hào quang và hình ảnh đức Phật. Sau đó, ông la rầy và trách mắng bà vợ sao không mách cho ông biết khi đức Phật còn đứng ở bên ngoài. Thấy Phật, ông vội vã mang phân nửa phần ăn của ông đang ăn để dâng cúng dường đức Phật. Thay vì trả lời, Ta không nhận cơm ông ăn dư, đức Phật nói:
-“Nầy Bà la môn, dù là phần còn lại hay đầu tiên cũng được, chúng ta cũng giống như quỷ thần, sống bằng những thức ăn bố thí. Đức Phật liền nói kệ:
Dù phần đầu, phần giữa, phần dư,
Người khất thực đều vui lòng nhận,
Không phiền hà trách móc dư thừa,
Người không ấy chính bậc chánh trí”.
Nghe qua, ông ta rất vui mừng và dùng hết lời tán thán khen ngợi đức Phật. Sau đó, ông hỏi Phật: Bạch Ngài, những điều gì làm nên một Tỳ kheo? Đức Phật bảo:
- “Nầy Bà la môn, một vị Tỳ kheo là người không bị ràng buộc, cột trói bởi những gì thuộc về Danh (Tâm) hay Sắc (Thân) rồi đức Phật liền nói pháp cú trên”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Sở dĩ con người đau khổ nhiều, cũng bởi do chấp thân mà ra. Thân do duyên hợp mà có, nhưng vì si mê ái ngã, nên từ vô thỉ đến nay, chúng ta đã lầm chấp cho thân nầy là thật. Đó là thân kiến quá sâu nặng. Người có học Phật chút ít, khi nghe lời Phật dạy, cũng ngầm biết thân nầy do tứ đại giả hợp, vô thường, vô ngã, nhưng khi đối cảnh xúc duyên, ai cũng thấy thân nầy là thật hết. Bởi cái biết đó chỉ biết qua khái niệm của ngôn từ mà thôi. Thực sự chưa phải cái biết do trí huệ Bát nhã thể nhận. Nghĩa là chúng ta cứ ngầm tưởng cho nó là thật. Chính niệm lầm chấp nầy, mà chúng ta rất đau khổ vì nó.
Có người coi thân nầy quý trọng còn hơn vàng ngọc. Do đó, nên cả đời họ phải chịu vất vả khổ sở làm nô lệ cho nó. Thấy nó xấu xí đi một chút, thì họ rất lo sợ và mau mau sửa lại cho đẹp. Người ta rất sợ da nhăn má cóp, cho nên bằng mọi cách phải lo trang sức chăm sóc, bảo vệ cho nó. Mặc dù người ta nâng niu chiều chuộng nó đủ mọi cách, mọi nhu cầu ăn, mặc, ở, nhứt nhứt đều phải lo cung phụng cho nó được ấm êm đầy đủ. Thế nhưng, người ta lại quên rằng, dù cho có lo cung phụng trau chuốt sửa sắc đẹp cho nó đến đâu đi nữa, cuối cùng rồi nó cũng vẫn già, vẫn xấu xí, và vẫn phản bội lại chúng ta mà ra đi. Vì đó là sự thật. Không ai có thể chận đứng những biến đổi từng sát na của thân thể. Nó hằng biến dịch đổi thay luôn luôn. Bản chất của nó là bất tịnh, là vô thường và hoại diệt.
Biết thế, thì chúng ta nên ý thức mà bớt tham chấp làm kẻ nô lệ cho nó, đừng để nó sai khiến chúng ta phải phục vụ cho nó suốt đời. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta khinh thường không quan tâm chăm sóc tới nó. Không. Chúng ta vẫn kính trọng chăm sóc nó, vì nó là một chiếc bè, một chiếc xe đưa ta đến bến bờ giác ngộ giải thoát. Nếu chúng ta khéo biết lợi dụng nó để tu hành, làm nhiều điều lợi ích cho chúng sanh, thì đó là điều thật đáng tán dương khích lệ. Như thế, thì chúng ta không nên khinh thường nó. Cho nên, ý niệm khinh thường, ép xác, hủy hoại nó, hay cung phụng cho nó được thỏa mãn mọi nhu cầu, đó là hai ý niệm không chánh đáng mà ta cần phải loại bỏ. Đó là thái độ khéo biết hành xử trung hòa dung hợp không cực đoan.
Thân đã vô thường biến hoại như thế, còn tâm thì sao? Tâm chúng ta cũng luôn luôn đổi thay không dừng. Bởi bản chất của nó là vọng tưởng, giả dối. Lầm chấp một thứ giả dối, như hoa trong gương, như sương ngọn cỏ, như vầng trăng nhỏ dưới sông, tất cả không có gì là thật. Chấp chặt một thứ không thật, rồi khởi ra bao thứ khái niệm bóng mờ để rồi tranh chấp sát hại lẫn nhau. Thật nghĩ mà thương cho cái tâm si mê sâu dầy của chúng ta! Nó sâu dầy từ đời vô thỉ đến nay. Cả thế giới nhơn loại ngày nay đau khổ cũng chỉ vì lầm chấp ở nơi thân tâm nầy. Bao giờ chúng ta thực sự nhận ra chúng là giả dối như hoa đốm trong hư không, thì chừng đó chúng ta mới thực sự tháo gỡ những cặp kính màu định kiến. Và chừng đó, nhơn loại mới thực sự biết thương yêu hòa ái trân kính nhau hơn. Được vậy, thì thế giới nầy sẽ trở thành một thế giới Cực lạc tại Ta bà. Nhưng biết đến bao giờ nhơn loại mới có cuộc sống hạnh phúc an vui như thế?!
Chuyện lược dẫn trên, ta nên chú ý câu hỏi của vị Bà la môn kia và câu trả lời của đức Phật. Câu hỏi: Những điều gì làm nên một Tỳ kheo? Nói cách khác, muốn làm Tỳ kheo phải hội đủ những điều kiện gì? Đức Phật trả lời một cách ngắn gọn: “Một vị Tỳ kheo là người không bị ràng buộc, cột trói bởi những gì thuộc về Danh Sắc (thân tâm)”. Qua lời dạy nầy ta có thể nói ngược lại: nếu còn lệ thuộc bị ràng buộc cột trói bởi Danh Sắc, thì chưa xứng đáng làm một vị Tỳ kheo.
Qua lời Phật dạy, mỗi người chúng ta nên tự quán chiếu xét nghiệm kỹ lại mình có thực sự xứng đáng là một vị Tỳ kheo đúng nghĩa hay chưa? Có quán chiếu suy xét như thế, thì chúng ta mới cảm thấy thật là hổ thẹn và rồi mới cố gắng nỗ lực gia công tiến tu, thanh lọc chuyển hóa vô minh phiền não, để tâm được thanh tịnh an lạc và giải thoát. Được thế, thì mới xứng danh làm người khất sĩ tu hạnh xuất thế vậy.
368. “Tỷ kheo trú từ bi,
Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
Các hạnh an tịnh lạc.”
369. “Tỷ kheo, tát thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết-Bàn.”
370. “Ðoạn năm (1), từ bỏ năm (2),
Tu tập năm (3) tối thượng,
Tỷ kheo cắt năm trói (4),
Xứng danh vượt “bộc lưu” (5).”
371. “Tỷ kheo, hãy tu thiền,
Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục,
Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ!”
372. “Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết-Bàn.”
373. “Bước vào ngôi nhà trống,
Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân
Tịnh quán theo chánh pháp.”
374. “Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Ðược hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.”Lược giải
368. Hàng Tỳ kheo an trú trong tâm từ bi, vui thích giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát các hành (vô thường).
The monk who abides in universal love and is deeply devoted to the Teaching of the Buddha attains the peace of Nibbana, the bliss of the cessation of all conditioned things.
Kệ tụng
Tỳ kheo trú từ bi
Vui thích giáo pháp Phật
Chung cảnh giới tịnh lạc
Các hạnh thảy an bài.
369. Tỳ kheo múc nước trong chiếc thuyền nầy, hễ nước hết thì thuyền nhẹ và đi mau; đoạn trừ tham dục và sân nhuế trong thân nầy, hễ tham dục hết thì mau chứng Niết bàn.
Empty this boat, O monk! Emptied, it will sail lightly. Rid of lust and hatred, you shall reach Nibbana.
Kệ tụng
Tỳ kheo tát thuyền nầy
Thuyền không, nhẹ đi mau
Trừ tham, diệt sân hận
Tất mau chứng Niết bàn.
370. Tỳ kheo nào đoạn được năm điều, bỏ được năm điều, siêng tu năm điều, vượt khỏi năm điều say đắm, ta gọi người đã vượt qua giòng nước lũ.
Cut off the five, abandon the five, and cultivate the five. The monk who has overcome the five bonds is called one who has crossed the flood.
Kệ tụng
Vị Tỳ kheo đoạn năm
Bỏ năm, tu năm điều
Vượt khỏi năm say đắm
Xứng danh kẻ vượt dòng.
371. Hãy tu định chớ buông lung, chớ mê hoặc theo dục ái. Đừng đợi đến khi nuốt hoàn sắt nóng, mới ăn năn than thở!
Meditate, O monk! Do not be heedless. Let not your mind whirl on sensual pleasures. Heedless, do not swallow a red hot iron ball, lest you cry when burning, “O this is painful!”
Kệ tụng
Tỳ kheo hãy tu thiền
Chớ buông lung phóng đãng
Đừng để tâm mê dục
Buông lung, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ.
372. Không có trí tuệ, thì không có thiền định, không có thiền định, thì không có trí tuệ. Người nào gồm đủ thiền định và trí tuệ thì đã gần đến Niết bàn.
There is no meditative concentration for him who lacks insight, and no insight for him who lacks meditative concentration. He in whom are found both meditative concentration and insight, indeed, is close to Nibbana.
Kệ tụng
Thiếu trí, không thiền định
Thiếu định, không trí tuệ
Người có định, có tuệ
Nhất định gần Niết bàn.
373. Tỳ kheo đi vào chỗ yên tĩnh thời tâm thường vắng lặng, quán xét theo chánh pháp thì được thọ hưởng cái vui siêu nhân.
The monk who has retired to a solitary abode and calmed his mind, who comprehends the Dhamma with insight, in him there arises a delight that transcends all human delights.
Kệ tụng
Tỳ kheo sống nhàn tịnh
Tâm tư lặng thường hằng
Tịnh quán theo chánh pháp
Thọ hưởng vui siêu nhân.
374. Người nào thường nghĩ đến sự sanh diệt của các uẩn, thì sẽ được vui mừng hạnh phúc. Nên biết người đó không bị chết.
Whenever he sees with insight the rise and fall of aggregates, he is full of joy and happiness. To the discerning one this reflects the Deathless.
Kệ tụng
Người luôn luôn tu niệm
Sự sanh diệt các uẩn
Được hưởng hoan hỷ lạc
Kẻ trí biết bất tử.
375. “Ðây Tỷ kheo có trí,
Tụ tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ,
Giữ gìn căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành,
Sống thanh tịnh tinh cần.”
376. “Giao thiệp khéo thân thiện,
Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều,
Sẽ dứt mọi khổ đau.”Lược giải
375. Nếu là bậc Tỳ kheo sáng suốt, dù ở trong đời, trước tiên vẫn lo nhiếp hộ các căn và biết đủ, hộ trì giới luật.
Control of the senses, contentment, restraint according to the code of monastic discipline – these form the basis of holy life here for the wise monk.
Kệ tụng
Vị Tỳ kheo có trí
Tự hiểu phải bắt đầu:
Hộ căn biết tri túc
Trì giữ căn bản giới
Thường gần gũi bạn lành
Tinh cần, tham tịnh mạng.
376. Thái độ thì phải thành khẩn, hành vi thì phải đoan chánh, được vậy, họ là người nhiều vui và sạch hết khổ não.
Let him associate with friends who are noble, energetic and pure in life, let him be cordial and refined in conduct. Thus, full of joy, he will make an end of suffering.
Kệ tụng
Giao thiệp thì thành khẩn
Thái độ thì đoan trang
Do vậy hưởng vui nhiều
Sẽ dứt mọi khổ não.
Lược giảng
Chín pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một nhóm lớn Tỳ kheo.
Theo truyện tích, tại thành phố Kuraraghara thuộc nước Avanti, có vị Thượng Tọa Kaccana đang ẩn tu trên một ngọn núi gần thành phố. Bấy giờ, có một thanh niên Phật tử tên là Sona Kutikanna, sau khi học hỏi thấm nhuần giáo lý, chàng ta xin xuất gia với Ngài. Ngài hai lần từ chối. Dù biết đời sống xuất gia có nhiều khó khăn, nhưng chàng trai Sona quyết không nản chí cầu xin xuất gia cho kỳ được. Xin lần thứ ba, Sona được chấp nhận và gia nhập Tăng đoàn. Sau ba năm ở miền nam, thầy trở về Kỳ Viên để gặp Phật. Đến nơi, thầy được đức Phật đón tiếp thân mật và cho thầy vào hương thất của Ngài.
Suốt đêm hôm ấy, thầy Sona thiền hành ngoài trời, đến gần sáng thầy mới vào trong hương thất nằm nghỉ một chút. Đức Phật bảo thầy tụng bài kinh “Mười sáu đoạn”.
Tụng xong, Phật và Thiên long bát bộ đều tán thán ngợi khen thầy. Lúc ấy, có một vị thần ở trong nhà bà mẹ của thầy, cũng tán thán ca ngợi thầy. Bà mẹ thầy ngạc nhiên, hỏi ra mới biết vị thần đó ca ngợi con trai của bà. Vị thần đó còn nói, không phải riêng tôi ngợi khen mà đức Phật và chư thiên long tất cả cũng đều ngợi khen Tôn giả như thế. Nhờ vị thần đó nói, nên bà mới biết rõ là con của bà đã tụng kinh cho Phật nghe. Và bà nghĩ, sau nầy, khi con trai của bà trở về nhà, thì bà sẽ yêu cầu giảng giáo lý cho bà nghe.
Sau thời gian cận kề hầu Phật, thầy Sona trở về gặp lại vị sư phụ. Hôm sau, thầy cùng sư phụ đến trước nhà thân mẫu khất thực. Thấy con bà rất vui mừng, hỏi han, săn sóc chu đáo và bà thuật lại mọi việc liên quan đến thầy khi thầy còn hầu cận bên Phật ở hương thất.
Thầy Sona rất ngạc nhiên và hỏi duyên do. Bà mẹ cho biết, tất cả đều do thần nhân mách lại. Đồng thời bà thỉnh Tôn giả Sona thuyết pháp cho bà nghe. Tôn giả nhận lời.
Lúc ấy, có một đảng cướp đông đảo, bọn chúng định xông vào nhà bà. Nhưng chung quanh nhà có những bức tường bao bọc rất kiên cố và có chó dữ, nên bọn cướp không thể vào được.
Đến ngày hẹn bà đi nghe pháp, bọn cướp thừa cơ hội đó liền đào địa đạo xuyên qua những chướng ngại vật và chúng vào được trong nhà. Bọn chúng cho người theo dõi khi bà trở về nhà quyết thủ tiêu bà. Để bảo đảm chắc ăn hơn, nên tên đầu đảng đích thân theo dõi vào giảng đường và hắn đứng bên cạnh bà. Trong khi đó, bọn cướp thắp đèn sáng lên và mở cửa kho tiền đồng. Người tớ gái trông thấy, liền chạy báo tin cho bà chủ biết. Nghe tin, bà vẫn thản nhiên tiếp tục nghe pháp, mặc cho bọn cướp muốn lấy bao nhiêu thì cứ lấy. Khi chúng lấy sạch kho tiền đồng, sang lấy tiếp kho bạc và rồi đến kho vàng, người tớ gái đến báo tin cho bà biết, bà cũng trả lời như trên và tiếp tục nghe giảng pháp. Chẳng những bà không chút bận tâm gì đến vàng bạc của cải, mà bà còn quở trách la rầy người tớ gái làm rộn tâm bà. Bà đuổi người tớ gái đi về.
Tên tướng cướp đầu đảng đứng bên nghe thấy thế, liền thầm nghĩ: “Nếu chúng ta lấy tài sản của một người như bà nầy, trời Đế Thích sẽ đánh vỡ đầu chúng ta”. Nghĩ thế, hắn liền ra lệnh trả hết vào kho như cũ. Xong rồi, cả đồng bọn đều kéo đến nghe pháp. Sau thời pháp, tên đầu đảng và đồng bọn đều quỳ dưới chân bà xin lỗi. Đồng thời cả bọn xin được xuất gia theo Tôn giả vào Tăng đoàn. Tôn giả Sona nghe lời mẹ khuyên bảo, chấp nhận cho chúng xuất gia nhập Tăng đoàn. Đức Phật biết thế, liền hiện thân đến dạy cho họ những pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú 368, Phật dạy người xuất gia phải an trú trong tâm từ bi, vui thích giáo pháp Phật đà. Tâm từ bi là lòng thương rộng lớn trùm khắp tất cả. Muốn an trú (sự có mặt của tâm tỉnh thức an bình) trong tâm từ bi, chúng ta phải đi sâu vào thiền quán. Quán các pháp không có thực tánh. Chúng chỉ là những hiện tượng phơi bày qua lăng kính ảo giác của dòng tâm thức. Tất cả đều hệ thuộc vào lý duyên khởi hình thành. Sự có mặt của vạn pháp, cũng chính là sự có mặt của ta. Ta và muôn pháp không thể tách biệt thành đối tượng nhận thức. Vì đối tượng nhận thức chỉ nằm trên bình diện đối đãi nhị nguyên. Vượt lên khỏi mặt phẳng của nhị nguyên, hòa nhập cùng đại thể, chúng ta mới có được tâm thể từ bi rộng khắp. Còn dính mắc vào giả tướng, tất nhiên, là ta vẫn còn bị cột trói trong ảo giác khái niệm và như thế, ta sẽ không bao giờ có được tâm từ bi rộng khắp, vì ta còn nhận thức trong lăng kính chủ quan của nghiệp thức ái kiến. Như thế, thì tâm từ bi của chúng ta làm sao rộng độ khắp chúng sanh. Có mở rộng tâm từ bi làm lợi lạc chúng sanh, thì lòng ta mới thực sự an vui với chánh pháp. An vui với chánh pháp, đó là hạnh phúc, tịch tịnh, Niết bàn.
Pháp cú 369, đức Phật nêu ra một thí dụ cụ thể về nước ngập trong thuyền. Nếu muốn chiếc thuyền không bị chìm đắm, tất nhiên, ta cần phải múc cho hết nước. Khi nước không còn, thì thuyền mới có thể đi nhanh được. Cũng thế, người tu nói chung, Tỳ kheo nói riêng, muốn đạt được Niết bàn an lạc, thì Phật bảo chúng ta phải mau gấp rút đoạn trừ tham dục và sân nhuế. Vì chúng chính là thủ phạm gây nên bao thứ ác nghiệp tội lỗi để nhận chìm chiếc thuyền đời của chúng ta trong biển đời đầy khổ đau hệ lụy. Một khi không còn những thứ căn bản phiền não nầy, thì đời ta mới được an lạc giải thoát.
Pháp cú 370, Phật dạy: “Tỳ kheo phải đoạn năm điều, siêng tu năm điều, vượt khỏi năm điều say đắm. Được thế, mới có thể vượt qua khỏi dòng nước lũ”. Muốn hiểu rõ những điều nầy, trước tiên, ta cần nhớ lại mười món căn bản phiền não. Mười món căn bản phiền não, còn gọi là Thập kiết sử gồm có: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Kiết là trói buộc, sử là sai khiến, vì những thứ có khả năng trói buộc chúng sanh trong ba cõi và sai sử chúng sanh tạo nhiều nghiệp ác để chiêu cảm thọ khổ. Mười kiết sử nầy, người ta chia chúng ra làm hai loại:
1. Lợi sử: Là những món phiền não rất lanh lẹ nhạy bén dễ sanh khởi và cũng dễ đoạn trừ đó là: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, và giới cấm thủ kiến.
2. Độn sử: Là những món phiền não chậm lụt đần độn, chúng có gốc rễ sâu dày và sanh khởi một cách ngấm ngầm sâu xa nhưng rất mãnh liệt thật khó đoạn trừ, đó là: Tham, sân, si, mạn, nghi.
Năm điều Phật nói ở đây mà một vị Tỳ kheo cần phải đoạn đó là dứt năm kiết sử của hạ giới:
- Dục giới tham là sự tham muốn ở Dục giới.
- Sân là sự nóng giận khi gặp nghịch cảnh.
- Thân kiến là chấp thân ngũ uẩn giả hợp nầy làm ta.
- Giới cấm thủ là cố chấp các giới cấm tà vạy.
- Nghi là nghi ngờ không có lòng tin sâu vững chắc.
Năm điều mà Tỳ kheo phải từ bỏ đó là năm điều kiết sử của thượng giới gồm có:
- Sắc giới tham là tham đắm vật chất ở cõi sắc.
- Vô sắc giới tham là tham đắm ở cõi Vô sắc.
- Trạo cử là loạn động, phóng dật.
- Mạn là cống cao ngã mạn.
- Vô minh là mê mờ.
Còn nói tu năm điều đó là tu ở nơi năm căn lành, gồm có:
- Tín căn là lòng tin Tam bảo, nhân quả vững chắc mạnh mẽ.
- Tấn căn là tinh tấn dõng mãnh trên bước đường tu tập, không bao giờ thối lui.
- Niệm căn là ghi nhớ rõ ràng.
- Định căn là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp để suy đạt thật nghĩa của nó.
- Huệ căn là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp.
Còn nói vượt khỏi năm điều say đắm đó là: tham, sân, si, mạn và ác kiến vậy.
Pháp cú 371 và 372, Phật dạy chúng ta phải tu cả hai: thiền định và trí huệ. Đức Phật khuyến nhắc chúng ta chớ nên buông lung, và cũng chớ mê hoặc theo dục ái. Có thể nói, thiền định và trí huệ là hai yếu tố căn bản cốt lõi của đạo Phật. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, cũng phải có thiền định. Vì định có khả năng dừng mọi vọng tưởng. Theo Phật giáo Phát triển (Đại thừa) chủ trương, thì Định và Huệ không hai. Trong Pháp Bảo Đàn, đức lục Tổ Huệ Năng dạy: “giữa định và huệ không có trước sau”. Nghĩa là đồng thời đều có. Trong định có huệ, hay ngược lại cũng thế. Điều nầy, khác với Phật giáo Nguyên Thủy chủ trương: “nhân giới sanh định, nhân định phát huệ”. Như vậy, nhờ giữ giới luật nghiêm minh mà có định và nhờ có định lực mạnh nên phát sanh trí huệ, đó là định huệ có thứ lớp trước sau.
Nhưng muốn có định, thì hành giả không thể để tâm buông lung chạy theo sáu trần mà có được. Tất nhiên là phải nhiếp tâm vào một đề mục thiền quán nào đó, tùy theo sự lựa chọn thích hợp của hành giả. Nhưng sự lựa chọn nào, mục đích nhắm tới cũng là muốn được định tâm. Kinh Di Giáo Phật dạy: “Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện”. Nghĩa là nếu chúng ta chuyên tâm thiền quán vào một đề mục đối tượng nào đó, thì không việc gì chẳng xong. Tất nhiên là chúng ta sẽ đạt được kết quả rất cao. Cho nên, tu mà tâm không định, đó là tu sai, không phải tu theo Phật giáo. Nhưng xin nhớ rằng, định nói ở đây là dừng hết mọi vọng tưởng. Khi vọng tưởng lăng xăng lặng dừng rồi, thì con khỉ ý thức không còn cơ hội hoạt động thao túng chúng ta được nữa. Có định huệ là có Niết bàn an lạc, giải thoát. Và một khi tâm được định rồi, thì mọi ái dục không còn khả năng lôi kéo chúng ta đi vào con đường tội lỗi được nữa.
Câu cuối của pháp cú 371, là đức Phật nhằm cảnh tỉnh răn nhắc chúng ta. Nếu tâm ta buông lung đắm mê theo dục lạc, thì cánh cửa địa ngục đang mở rộng chờ đón chúng ta. Đó là Phật nói: “Đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than thở”. Sự ăn năn than thở đó, hẳn không còn kịp nữa rồi! Là người tu, ta nên quan tâm chú ý đến lời cảnh giác của đức Phật nói ở đây. Đồng thời, cũng nên lưu tâm ghi nhớ lời Phật dạy trong câu cuối của pháp cú 372: “Người nào gồm đủ thiền định và trí huệ, thì gần đến Niết bàn”.
Pháp cú 373,Phật dạy người xuất gia đi vào chỗ yên tĩnh thời tâm thường vắng lặng. Điều nầy, rải rác trong những pháp cú trước, đức Phật cũng từng khuyên bảo chúng ta như thế. Nên nhớ, bản thân của đức Phật, cũng như các vị Tỳ kheo đều sống đời sống phạm hạnh khất thực. Do đó, nên các Ngài không ở một chỗ cố định. Phần nhiều, các Ngài đều sinh hoạt trong rừng sâu núi thẳm. Sau khi đi khất thực ở xóm làng, các ngài thường tìm nơi vắng vẻ để thiền quán. Đó là đời sống không có gì bận rộn vướng mắc buộc ràng. Do vậy, nên tâm các Ngài luôn luôn được thảnh thơi an lạc.
Ngoại cảnh tuy là điều kiện ngoại tại, nhưng nó cũng giúp cho sự thanh lọc phiền não của người tu rất lớn. Đối với trình độ căn cơ của các Ngài thời đó, mà còn tìm chỗ thanh tịnh vắng vẻ để gạn lọc thanh tịnh hóa thân tâm. Còn đối với chúng ta thời nay thì sao? Thời nay, chắc chúng ta hơn các Ngài ở chỗ, là thường ở những nơi ồn ào náo động. Lý do biện minh, là vì thời đại khoa học tiến bộ, cần phải thích nghi với mọi nhu cầu hoàn cảnh. Thích nghi thì có, nhưng mà dứt “Si mê” thì không. Thật thế, đối với căn cơ hạ liệt như chúng ta, thử hỏi làm sao giữ tâm yên tịnh giữa cảnh phiền toái nhộn nhịp náo động cho được? Tâm ta chưa an tịnh, thì làm sao tránh khỏi không bị ngoại cảnh chi phối lôi cuốn?! Tâm có tịch tịnh, thì ta mới có thể dễ quán sát nhìn kỹ lại mình hơn. Đồng thời, ta mới có đủ năng lực sáng suốt để tư duy sát nghiệm chân lý. Khi sống trong tư duy chánh pháp, tất nhiên, là ta có được sự an lạc của tâm hồn. Sự an lạc nầy, chỉ có những người nào thiết thiệt thực nghiệm chân lý, mới có thể cảm nhận được mà thôi. Đó là điều mà người ngoại cuộc, thật không thể nào thấu hiểu được. Do đó, nên Phật nói: “quán sát theo chánh pháp thì được thọ hưởng cái vui siêu nhân”.
Pháp cú 374, đức Phật bảo chúng ta phải chánh niệm, chánh quán ở nơi xác thân ngũ uẩn. Ngũ uẩn là do năm thứ tích tụ kết hợp thành thân. Bản chất của chúng là sanh diệt vô thường. Thân tâm nầy chỉ là nhân duyên giả hợp. Đã giả hợp, tất nhiên, nó phải bị tan rã hoại diệt. Sanh, già, bệnh, chết, là một chu kỳ biến dịch của đời người. Từ sanh đến tử, trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm biến đổi, sanh diệt khổ đau. Chiêm nghiệm thật kỹ xác thân ngũ uẩn nầy, ta thấy quả nó là một chuỗi dài biến hoại đau khổ. Nhận rõ bản chất sanh diệt vô thường của nó, ta không còn tham chấp, để rồi gây ra làm khổ đau hệ lụy cho mình và người. Và như thế, là ta đã chứng nghiệm nếm được mùi vị của sự an lạc hạnh phúc. Vì ta sống có tỉnh thức, có chánh niệm trong từng mỗi phút giây hành động vậy.
Pháp cú 375, đức Phật nêu ra bốn vấn đề thiết yếu để thức nhắc chúng ta.
1. Sống trong đời phải sáng suốt. Sáng suốt là trí huệ. Muốn có được trí huệ sáng suốt, thì ta cần phải siêng năng trau dồi ba môn huệ học: Văn, Tư, Tu. Văn là nghe, rộng ra là đọc tụng nghiên cứu tìm hiểu kinh điển. Tư là suy nghĩ quán chiếu những gì đã nghe và học hỏi. Tu là thật hành thực nghiệm những gì đã tư duy chín chắn. Từ đó, chúng ta mới có được trí huệ thế gian và siêu xuất thế gian. Trí huệ thế gian là thứ trí huệ hữu lậu khéo biện biệt rõ những điều gì có lợi và có hại trong đời sống hằng ngày. Lợi thì nên làm và hại thì nên tránh. Như thế, trí huệ đó cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong khi tiếp cận với môi trường sống.
Còn trí huệ xuất thế gian là trí huệ vô lậu, còn gọi là trí huệ bát nhã. Thứ trí huệ nầy tuy sẵn có, nhưng cũng phải do tu mới được. Nghĩa là phải có năng lực công phu thiền định sâu dày mà phát sanh. Đây là thứ trí huệ có công năng phá tà hiển chánh, giản trạch nhận rõ các pháp là giả dối không thật. Do nhận định đúng chân lý, nên chúng ta không gây tạo các ác pháp. Do đó, nên được an lạc giải thoát.
2. Nhiếp hộ các căn. Vấn đề nầy Phật dạy chúng ta phải khéo gìn giữ ở nơi sáu căn. Không để các căn buông lung nhiễm trước ở nơi sáu trần. Vì có nhiễm trước là có đau khổ. Người tu phải phòng hộ sáu căn như người canh giữ gác cổng. Người gác cổng không thể nào chểnh mảng giải đãi lơ là được. Phải luôn luôn để tâm chú ý theo dõi hành tung của kẻ ra người vào. Có thế, thì thành trì mới mong an ổn. Cũng thế, chúng ta phải gìn giữ sáu căn như người canh gác cửa cổng. Phải chú ý kiểm soát cẩn trọng từng ý nghĩ, lời nói và việc làm. Phải kiểm soát nghiêm mật như kẻ chăn trâu, hay như mèo rình chuột. Có thế, thì đời tu của chúng ta mới có tiến bộ trên bước đường giác ngộ giải thoát vậy.
3. Biết đủ. Đây là Phật dạy người tu phải thật hành hạnh tri túc. Tri túc là đời sống biết đủ, đơn giản, chừng mực. Người nào không biết đủ tuy giàu mà nghèo, ngược lại, người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người biết đủ thì được an vui, vì họ không làm nô lệ cho những thứ dục vọng sai khiến. Họ là người khéo biết tùy duyên an phận thủ thường để sống. Đối với người xuất gia, hạnh tu nầy rất thiết yếu, nếu chúng ta muốn được an lạc giải thoát. Đây là vấn đề rất quan trọng trong sự tu hành. Do đó, nên Phật Tổ thường khuyên dạy hay nhắc đi nhắc lại vấn đề nầy rất nhiều. Ở đây, chúng tôi không muốn dong dài luận bàn thêm.
4. Hộ trì giới luật. Giới luật là căn bản giải thoát của người tu. Người không giữ giới, khác nào như ngựa không giây cương. Đó là hiện thân của đời sống phóng túng, bê tha trụy lạc. Tất nhiên, là phải chuốc lấy họa hại vào thân. Là người Phật tử, dù tại gia hay xuất gia, Phật dạy, tất cả đều phải nghiêm trì giới luật. Nếu không, thì đời đời phải chịu trầm luân đau khổ.
Pháp cú 376, Phật dạy chúng ta phải có thái độ thành khẩn và hành vi đoan chánh. Thái độ là biểu lộ hình tướng bên ngoài, tức thuộc về phần oai nghi. Thành khẩn là lòng chí thiết trong tâm. Như vậy, đối với người xuất gia, Phật dạy, trong ngoài đều phải nghiêm trang. Thái độ bên ngoài là hình thức có thể đánh giá được trong tâm chúng ta. Người xưa nói: “tâm ư trung xuất hành ư ngoại”. Nghĩa là trong tâm thế nào, thì biểu lộ ra hình tướng bên ngoài thế ấy. Trong tâm có thành khẩn thì biểu lộ bên ngoài mới nghiêm trang thành khẩn. Đây là điều rất quan trọng để đánh giá được nguời tu. Ngoại trừ những bậc đạt đạo, mới có những hành động xuất cách mà ta không thể nào đoán định được. Ngoài ra, kẻ phàm phu thường tình như chúng ta, thì cần phải giữ gìn cả hai. Nhất là lòng thành kính bên trong. Vì tâm là cội gốc, còn hành động biểu lộ bên ngoài là cành ngọn. Thế nên, giữ gìn chánh niệm trong tâm mới là điều quan trọng nhứt của người tu. Do đó, nên Phật nói: “Được như vậy họ là người nhiều vui và sạch hết khổ não”.
Chuyện lược dẫn trên, ta thấy bà mẹ của thầy Sona, vì hâm mộ tôn kính pháp, nên bà không màng gì đến tài sản. Điều nầy, thế gian thật hiếm có. Ba lần nhận tin, bà quyết không rời khỏi giảng đường. Lòng bà vẫn bình tĩnh thản nhiên, như không có chuyện gì xảy ra. Đó là do vì bà chứng nhận được lý vô thường. Vạn vật chỉ là phù hoa hư ảo. Chỉ có pháp tánh mới là chân thật. Nhờ nhận rõ mọi vật vô thường giả huyễn, dù đó là vàng bạc quý báu cũng không tồn tại lâu dài, cho nên bà không lộ vẻ một chút hối tiếc. Chẳng những thế, mà bà còn quở trách người tớ gái đưa tin làm rộn tâm bà. Chính thái độ đó, mà bà đã cảm hóa nhiếp phục được tên đầu đảng tướng cướp. Và cả bọn chúng đều hồi tâm quay về nẻo thiện, cải tà quy chánh. Tất cả đều xin xuất gia học đạo với Tôn giả Sona.
377. “Như hoa Vassikà (6),
Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo,
Hãy giải thoát tham sân.”
378. “Thân tịnh, lời an tịnh,
An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật,
Xứng danh “bậc tịch tịnh “.Lược giải
377. Cành hoa Bạt tất ca[11] bị úa tàn như thế nào, thì Tỳ kheo các ông, cũng làm cho tham sân úa tàn thế ấy.
Just as the jasmine creeper sheds its withered flowers, even so, O monks, should you totally shed lust and hatred!
Kệ tụng
Như hoa Vassika
Quăng bỏ cánh úa tàn
Cũng vậy vị Tỳ kheo
Giải thoát tham và sân.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm vị Tỳ kheo.
“Chuyện kể rằng, các thầy Tỳ kheo nầy sau khi được đức Thế Tôn cho đề mục thiền định rồi, liền lui vào rừng sâu và bắt đầu hành thiền. Đang ngồi thiền, các thầy trông thấy những bông lài mới nở tươi tắn chỉ sáng nay thôi, chiều đã úa tàn rũ cánh gục đầu. Các thầy tự nghĩ: “Chúng ta phải diệt trừ được tham sân si trước những đóa hoa lìa cành”. Và các thầy càng nỗ lực chuyên chú vào việc hành thiền, như vừa được tiếp thêm sức mạnh mới. Đức Thế Tôn quán sát các thầy Tỳ kheo ấy và dạy rằng:
- Nầy các Tỳ kheo, cũng như đóa hoa kia thoát khỏi cành, một vị Tỳ kheo phải gắng sức thoát khỏi mối khổ sanh tử.
Vẫn ở tại hương thất, Ngài phóng một đạo hào quang và nói kệ cho các thầy Tỳ kheo.
Nghe xong, tất cả năm trăm thầy Tỳ kheo đều đắc quả A la hán”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 290)
Đời người khác thể loài hoa
Sớm còn tối mất nở ra lại tàn.
Đức Phật mượn hình ảnh đóa hoa, nhằm để thức tỉnh các thầy Tỳ kheo về lý vô thường của vạn pháp. Vô thường là một đề tài thường được đức Phật giảng đi giảng lại. Cũng đồng thời nhìn một sự vật, nhưng đối với người giác ngộ thấy khác và người mê thấy khác. Người mê thì thấy mọi vật, chạm mắt đến đâu cũng thấy là thật cả. Nhưng đối với người giác ngộ, thì thấy vạn vật chỉ là hư ảo không thật. Từ cảnh vật cho đến thân tâm ta, tất cả đều không khác gì loài hoa! Hoa có nở tất phải có tàn. Đó là định luật tự nhiên. Đời người cũng thế, có sanh tất phải có tử. Sanh tử là định luật thường nhiên.
Đức Phật khéo dùng đóa hoa thoát khỏi cành, để cảnh tỉnh các thầy Tỳ kheo muốn thoát khỏi khổ sanh tử cũng phải cố gắng chuyên tu diệt trừ tham, sân, si như thế. Khi vô minh phiền não không còn, như hoa lìa cành, thì mọi khổ đau ngang đó sẽ chấm dứt.
378. Hàng Tỳ kheo mà thân giữ thanh tịnh, tâm an trú tam muội[12] xa lìa nơi dục lạc, ta gọi là người tịch tịnh.
The monk who is calm in body, calm in speech, calm in thought, well composed and who has spewn out worldliness – he, truly, is called serene.
Kệ tụng
Thân tịnh, lời an tịnh
Trí tịnh, trừ tam muội
Tỳ kheo bỏ thế tình
Xứng danh người tịch tịnh.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Santakaya.
Theo truyện tích, thầy Santakaya là người gìn giữ oai nghi rất cẩn thận. Mọi cử chỉ, hành động, lời nói, thầy đều tỏ ra rất tế nhị nhã nhặn và lịch sự với mọi người.
“Chuyện kể rằng, thầy vốn được sanh ra từ bụng một con sư tử. Loài sư tử mỗi khi kiếm được mồi, chúng thường vào trong những động vàng bạc châu báu, mã não và nằm ở đấy bảy ngày trên một lớp bột vàng trộn với bột hoàng thạch. Ngày thứ bảy, khi trỗi dậy, chúng quan sát chỗ nằm, nếu thấy có dấu vết di chuyển của đuôi, tai, hoặc bốn chân làm bụi bột tung toé, chúng liền tự bảo: “Thế nầy là chưa xứng với dòng dõi của mình”. Và ở lại nhịn đói thêm bảy ngày nữa, giữ gìn cẩn thận hơn. Cho đến khi không thấy bụi bột dấy lên, chúng tự nói “Đây mới xứng với dòng dõi của ta”. Chúng mới rời ổ, ngáp và duỗi tay chân, quan sát tứ phía, rống lên ba tiếng và đi tìm mồi. Được sanh từ bụng một con sư tử như thế nên thầy luôn có vẻ điềm tĩnh.
Tư cách trang nhã của thầy khiến các thầy khác chú ý đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, chúng con không hề thấy Sa môn nào như thầy Santakaya. Khi thầy đi đứng, không bao giờ thầy lúc lắc tay chân, không hề ngáp và quơ tay, đá giò…
Đức Phật bảo:
- “Nầy các Tỳ kheo, một vị Sa môn nên như Trưởng lão Santakaya, an tịnh trong khi đi đứng, trong lời nói, tư tưởng”.Phật liền nói pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 291)
Oai nghi tuy là hình dáng bề ngoài, nhưng nó cũng có một tác dụng rất lớn trong việc hành xử độ tha. Đối với người xuất gia, thì việc giữ gìn oai nghi tế hạnh, là điều không thể thiếu sót. Một vị mới vào chùa xuất gia, là đã được thầy dạy về bốn phép tắc oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, một cách rất kỹ lưỡng. Hành động, cử chỉ, nói năng thô tháo vụt chạc, đó là hành động thiếu cung cách oai nghi của người xuất gia. Phẩm hạnh của người xuất gia rất cao đẹp. Đức Phật cũng như chư Tổ, ngoài việc khẩu giáo, các Ngài còn phải dùng đến thân giáo. Thân giáo thuộc về đức tướng hạnh kiểm oai nghi. Muốn có được hạnh đức oai nghi đoan nghiêm, thì người tu cần phải giữ gìn giới luật. Nhờ giữ giới luật mà ba nghiệp: thân, ngữ, ý được thanh tịnh. Khi tâm được an định, thì mọi dục lạc ham muốn ở thế gian sẽ không còn. Đó là thoát ly thế tình, sống an tịnh, nhàn nhã, tự tại. Nên Phật nói: “Ta gọi họ là người tịch tịnh” (tên khác của Niết bàn).
379. “Tự mình chỉ trích mình,
Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ
Chánh niệm, trú an lạc.”
380. “Tự mình y chỉ mình,
Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục,
Như khách buôn ngựa hiền.”Lược giải
379. Các ngươi hãy tự cảnh sách, các ngươi hãy tự phản tỉnh! Tự hộ vệ và chánh niệm theo chánh pháp mới là Tỳ kheo an trụ trong an lạc.
By oneself one must censure oneself and scrutinize oneself. The self-guarded and mindful monk will always live in happiness.
Kệ tụng
Tự mình chỉ trích mình
Tự mình dò xét mình
Tự hộ trì chánh niệm
Tỳ kheo trú an lạc.
380. Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương náu cho các ngươi. Các ngươi hãy gắng điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành.
One is one’s own protector, one is one’s own refuge. Therefore, one should control oneself, even as the trader controls a noble steed.
Kệ tụng
Tự mình cứu hộ mình
Tự mình nương tựa mình
Vậy hãy tự điều phục
Như thương khách ngựa hay.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Nangalakula.
Theo truyện tích, xưa kia, có một người nghèo khổ chuyên đi làm thuê kiếm tiền độ nhựt. Anh ta ăn mặc rách rưới, chỉ có một chiếc khố rách, vai thì vác cày, trông anh rất là khổ sở. Anh ta gặp vị Sa môn trên đường. Sau khi hỏi chuyện, vị Sa môn độ cho anh ta xuất gia. Xuất gia xong, thầy gia nhập Tăng đoàn và theo vị Sa môn tu học tại tinh xá Kỳ Hoàn. Vị Sa môn bảo chú Sa di treo chiếc khố rách và cái cày trên một cành cây. Do đó, mà thầy có tên là Nangalakula, tức Tôn giả “Thợ Cày”.
Thời gian thầy sống trong tu viện, đôi lúc thầy cảm thấy bất mãn. Những lúc bất mãn, thầy hay đến dưới gốc cây nơi treo chiếc khố rách và cái cày, rồi tự sỉ nhục mình: “ Mi thật xấu xa, không thành tâm chút nào. Bộ mi muốn mặc chiếc khố rách nầy, trở về thế tục để làm thuê hay sao?”Sau khi tự trách mình, thầy trở về tu viện tiếp tục tu học. Nhưng sau đó, cơn bất bình lại nổi lên, thầy cũng ra gốc cây tự trách như thế. Các vị Sa môn khác thấy thế thắc mắc tìm thầy để hỏi rõ nguyên do. Thầy không ngần ngại trả lời là thầy đi gặp vị Giáo thọ. Nhờ tự trách xấu hổ, nên thầy nỗ lực tu hành, không bao lâu thầy chứng quả A la hán. Các Tỳ kheo khác không thấy thầy đến gốc cây như trước, mới hỏi đùa: “sao thầy không đi gặp vị Giáo thọ của thầy nữa?” Thầy Thợ Cày trả lời: “vì không còn vướng bận việc thế gian nên không đến đó nữa”.
Các thầy Tỳ kheo khác cho rằng, thầy ta nói vọng ngữ, liền đến bạch Phật.
Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo, thầy ấy nói đúng. Thầy ấy đã tự khuyên răn mình và đã đạt được Thánh quả”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Hai pháp cú trên, Phật bảo chúng ta mỗi người hãy tự cảnh tỉnh răn nhắc phản tỉnh lấy mình. Phải tự hộ vệ gìn giữ chánh niệm. Chính mình phải tự bảo hộ và nương tựa nơi chính mình. Phải cố gắng điều phục lấy mình như điều phục ngựa lành. Phản tỉnh là phương cách hay nhất để tự thấy lỗi mình. Đức Phật không muốn cho chúng ta lệ thuộc vào ngoại cảnh. Vì còn lệ thuộc ngoại cảnh là chúng ta còn có tâm vọng ngoại tìm cầu. Mà còn tìm cầu ở bên ngoài là trái với đạo lý giác ngộ. Chúng ta nên nhớ rằng, trước khi chứng ngộ chân lý, đức Phật là người hằng sống nhìn kỹ lại chính mình. Nhờ nỗ lực thiền quán, nên Ngài mới khám phá phát minh được cái chân lý siêu việt. Đó là điều trái với những hàng ngoại đạo đương thời.
Tại sao phải tự phản tỉnh răn nhắc lấy mình? Và tại sao phải nương tựa nơi chính mình? Người tu theo đạo Phật phải hằng tỉnh giác. Vì Phật là người tỉnh thức. Chữ Buddha có nghĩa là người tỉnh thức. Tu hành thiếu cảnh giác, tỉnh thức, tất nhiên, chúng ta sẽ bị ngoại cảnh lừa đảo lôi cuốn. Tâm chúng ta rất dễ bị ngoại cảnh lừa gạt. Vì chúng ta chưa thật sự sống được với bản tâm chân thật thanh tịnh sáng suốt của chính mình. Chúng ta luôn sống theo tâm vọng. Mà bản chất của tâm vọng là sanh diệt, là vô thường, biến đổi liên miên. Nó thường phan duyên bám theo trần cảnh. Nó không bao giờ để chúng ta yên. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn quán sát theo dõi nó để tự phòng ngự cảnh tỉnh. Có cảnh tỉnh kiểm soát chặt chẽ ở nơi tâm ý, thì chúng ta mới được an trú trong an lạc. Đó là cốt lõi của sự tu hành để được giác ngộ giải thoát vậy.
381. “Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.”
382. “Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây.”Lược giải
381. Tỳ kheo nào đầy tâm hoan hỷ, thành tín theo giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát các hành (vô thường).
Full of joy, full of faith in the Teaching of the Buddha, the monk attains the Peaceful State, the bliss of cessation of conditioned things.
Kệ tụng
Tỳ kheo tâm hoan hỷ
Vui thích giáo pháp Phật
Chứng giới cảnh tịnh lạc
Các hạnh thảy an bài.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Trưởng lão Vakkali.
Theo truyện tích, tại thành Xá vệ, có một thanh niên dòng Bà la môn. Một hôm, chàng nhìn thấy tướng hảo uy nghiêm của đức Phật, chàng rất yêu thích và đâm ra chán ghét thân mình. Chàng tự nghĩ, nếu được thấy tướng hảo của đức Như Lai suốt ngày thì thật là hay lắm. Nghĩ thế, chàng xin Phật xuất gia. Sau khi xuất gia vào Tăng đoàn, thầy không màng gì đến kinh kệ, thiền định, cứ tìm chỗ đứng để chiêm ngưỡng hình ảnh đức Thế Tôn. Biết thế, đức Phật không nói gì cả, chờ trí huệ của thầy được thuần thục, bấy giờ, đức Phật mới khai thị. Đức Phật bảo:
- “Nầy Vakkali, đâu có gì thích thú khi ngắm một hợp thể bất tịnh gọi là thân ta? Nầy Vakkali, người nào thấy pháp là thấy ta”.
Dù đức Phật khuyên bảo chỉ giáo chí tình như thế, nhưng thầy Vakkali vẫn cứ nhìn Phật như trước không chút thay đổi. Phật biết, thầy nầy không thể tỉnh ngộ, trừ phi gặp một cơn xúc động lớn. Đức Phật liền đưa thầy đến Trúc Lâm. Liên tục ba mùa an cư, thầy không gặp Phật. Buồn quá, thầy nảy sanh ý định tự tử. Thầy leo lên ngọn núi Linh Thứu và định nhảy xuống chết.
Đức Phật biết, thầy vì quá đau khổ chán đời, nếu không có sự an ủi của Phật, thì thầy sẽ tự hủy hoại cuộc đời và sẽ không bao giờ chứng Thánh quả. Để an ủi thức nhắc thầy, đức Phật liền hiện thân đến trước mặt thầy. Thấy Phật, thầy Vakkali rất vui mừng. Thầy cảm thấy yêu đời, nỗi buồn khổ tiêu tan và không còn có ý định tự tử nữa. Nhân đó, Phật dạy pháp cú trên.
Nghe xong, thầy rất hân hoan và rồi chế ngự được cơn hoan lạc, thầy liền chứng quả A la hán đầy đủ các thần thông. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Tâm hoan hỷ là tâm không còn bị vướng mắc vào những đối tượng ngoại duyên. Tâm còn dính mắc thì làm sao hoan hỷ cho được? Muốn không dính mắc buộc ràng, tất nhiên, chúng ta phải tiêu diệt phiền não. Phiền não không có, thì tâm ta mới hoan hỷ an lạc.
Chuyện lược dẫn trên, thầy Vakkali chỉ một lần nhìn thấy thân Phật tướng hảo uy nghiêm, thầy khởi tâm ham thích. Và rồi từ đó, tâm tưởng của thầy luôn bị dính mắc vào thân tướng đức Phật. Đức Phật muốn tháo gỡ sự cột trói đó, bằng cách là cách ly thầy phải rời xa đức Phật. Và chờ đến khi thầy bị một cơn cảm xúc đau khổ cùng cực, bấy giờ, đức Phật mới hiện thân đến để cảnh tỉnh cứu thoát thầy.
Ta nên chú ý lời Phật dạy qua câu nói: “Người nào thấy pháp là thấy ta”. Dù thân Phật tướng hảo quang minh, nhưng đó cũng chỉ là cái thân ngũ uẩn giả hợp. Đó là cái thân sanh diệt, vô thường, bất tịnh. Bị dính mắc chấp chặt vào cái thân giả hợp, vô thường, bất tịnh đó, thì thử hỏi làm sao chúng ta thấy được cái pháp thân thanh tịnh hằng hữu bất sanh bất diệt ? Đức Phật đã cảnh giác chỉ dạy rất rõ, nhưng tiếc thay! Thầy Vakkali không nhận rõ điều đó. Vì thế, khi không còn nhìn thấy được thân tướng đức Phật, thầy liền nảy sanh ý định tự tử. Nhưng ý định đó, thầy đã được cái phúc duyên hy hữu là nhờ đức Phật kịp thời hiện thân hóa giải cứu thoát thầy. Chỉ vì bất như ý không thỏa mãn được một điều gì đó, người ta lại tự hủy diệt đi thân xác của mình. Thử hỏi việc làm nầy có sáng suốt lắm không? Hay là tâm trí của họ bị điên đảo, rối loạn, vì màn vô minh phiền não dầy đặc che mờ. Đạo Phật không bao giờ chấp nhận hành động thiếu trí huệ suy xét chín chắn nầy.
382. Những Tỳ kheo tuy tuổi nhỏ mà siêng tu đúng giáo pháp Phật đà, là ánh sáng chiếu soi thế gian, như mặt trăng ra khỏi mây mù.
That monk who while young devotes himself to the Teaching of the Buddha illumines this world like the moon freed from the clouds.
Kệ tụng
Tỳ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu Phật giáo pháp
Soi sáng thế gian nầy
Như trăng khỏi mây mù.
Lược giảng
Pháp cú nầy đức Phật dạy tại Pubàrama, có liên quan đến Sa di Sumana.
Theo truyện tích, tiền kiếp của Sumana là chàng thanh niên tên là Anabhara ở vào thời của đức Phật Padumuttara. Vì muốn được thiên nhãn đệ nhất, nên chàng ta thỉnh đức Phật Padumuttara cúng dường suốt bảy ngày đêm và phát nguyện xin được thành thiên nhãn dưới thời một vị Phật tại thế. Lời phát nguyện đó đã được đức Phật Padumuttara thọ ký. Đức Phật cho chàng biết, một trăm ngàn kiếp nữa, trong thời đức Phật Thích Ca, chàng sẽ trở thành một vị có thiên nhãn đệ nhất. Thật vậy, thời Phật Thích Ca ra đời, chàng thanh niên thuở đó, nay chính là ngài A na luật, còn gọi là A nậu lâu đà. Ngài thuộc dòng họ Thích Ca vốn là đường đệ của đức Phật và là em ruột của đại tướng Ma ha nam.
Sau khi theo Phật xuất gia, nhưng thầy mắc phải chứng bệnh nặng là hay ưa ngủ. Những thời Phật thuyết pháp, ai nấy đều chăm chú lắng nghe, riêng thầy thì cứ ngủ gà ngủ gật. Thầy không nhận hiểu gì hết. Thấy thế, đức Phật thường quở trách thầy. Phật thường tỷ dụ người nào ham mê ngủ thì chẳng khác gì loài sò ốc. Bị Phật quở trách nặng, thầy cảm thấy xấu hổ vô cùng, và tự giận trách mình sao nghiệp chướng quá sâu dầy. Thầy cương quyết tinh tấn hành trì suốt bảy ngày đêm, mắt không hề nhắm lại. Do đó, nên thầy bị mù cả đôi mắt. Đức Phật thương xót dạy thầy tu tập phép: “Nhạo kiến chiếu minh kim cang tam muội”, không bao lâu, thầy liền chứng pháp Thiên nhãn thông, thấy suốt cả đại thiên thế giới, cũng như thấy trái cây trong lòng bàn tay. Cho nên, trong hàng Thập đại đệ tử của đức Phật thầy là người chứng Thiên nhãn thông đệ nhất.
Thầy có một đệ tử Sa di nhỏ tuổi tên là Sumana. Tuy nhỏ tuổi nhưng đạo lực của chú rất thâm hậu. Chú đã chứng quả A la hán. Vì thấy Sa di Sumana còn nhỏ tuổi, nên các thầy Tỳ kheo khác thường hay chọc ghẹo nhéo tai đùa giỡn với chú. Trong khi đó, đức Phật biết Sa di Sumana không phải là một đứa trẻ tầm thường và Phật cho rằng, các thầy Tỳ kheo kia đã lầm lẫn lớn. Sa di Sumana nhỏ tuổi hơn hết trong số năm trăm chú Sa di khác. Có lần Tôn giả A na luật bảo chú Sa di lớn tuổi nhất cầm bát đi lấy nước cho đức Phật rửa chân. Chú từ chối. Tôn giả lần lượt hỏi các Sa di khác, chú nào cũng từ chối. Cuối cùng, Tôn giả bảo Sa di Sumana. Chú nhận lời. Sau khi lấy nước đem về, Phật hỏi chú bao nhiêu tuổi? Chú đáp: con được bảy tuổi. Đức Phật cho chú thọ Tỳ kheo giới. Các vị khác nghe vậy bất bình bàn tán xôn xao. Phật đến hỏi và rồi Phật bảo:
- “Nầy các Tỳ kheo, sự chứng đắc ấy ngay cả một Tỳ kheo nhỏ tuổi vẫn có thể đạt được trong giáo pháp ta, nếu người ấy tinh tấn”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Trong đạo Phật, luận về tu chứng thì không phân biệt tuổi tác, phái tính. Nhưng, đứng về mặt hình thức giới luật, thì có phân chia phẩm trật cao thấp, là tùy theo tuổi hạ lạp nhiều ít. Những vị xuất gia thọ đại giới và có quá trình tu học, cộng thêm tuổi đời và đạo cao niên, tất nhiên, những vị đó sẽ được đại chúng tôn kính liệt vào hàng giáo phẩm. Tuy nhiên, cũng không phải vì lớn tuổi đời hay tuổi đạo mà được đánh giá cao, nếu như những vị đó không có đầy đủ phẩm hạnh giới đức. Giới đức là điều quan trọng để đánh giá người tu. Chúng ta không nên hời hợt chỉ đánh giá trên hình thức bề ngoài. Muốn đánh giá người chân tu hay giả tu, chúng ta nên căn cứ vào phần giới hạnh tài đức của vị đó. Nếu một người có học vị bằng cấp cao, mà bản thân họ không có giới đức, thì không ai xem trọng đánh giá cao người đó được. Trông mặt mà bắt hình dung, coi chừng chúng ta sẽ dễ bị lầm lẫn.
Chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, tuy là chú Sa di bảy tuổi, nhưng đạo lực nội chứng của chú rất cao. Chỉ có đức Phật mới biết rõ chú là một bậc đã chứng quả A la hán. Trong khi đó, các thầy Tỳ kheo khác thì lại hay đùa giỡn với chú, cho chú là một đứa trẻ con ngây thơ. Như vậy, nếu đánh giá người tu trên hình thức tuổi tác, e rằng không đúng lắm. Đức Phật cho đó là một sự sai lầm. Có những vị tuy tuổi còn trẻ, nhưng họ có một phẩm hạnh cung cách hành xử rất cao đẹp, chưa chắc người lớn tuổi có thể sánh kịp. Có đôi khi, người lớn tuổi mà phẩm hạnh cung cách giới đức của họ chưa chắc là đã hơn một chú Sa di nhỏ tuổi. Vì tuy nhỏ tuổi, nhưng căn lành chủng duyên Phật pháp nhiều đời của vị đó gieo trồng quá sâu dầy, đương nhiên, là vượt trội hơn những vị khác. Vượt trội về cả hai phương diện: tài và đức. Đó là một sự thật, không ai có thể phủ nhận được. Vì thế, nên Phật nói: “sự chứng đắc ngay cả Tỳ kheo nhỏ tuổi vẫn có thể đạt được trong giáo pháp ta, nếu người ấy tinh tấn”. Nói cách khác, bất cứ ai dù nhỏ tuổi hay trọng tuổi, dù xuất gia hay tại gia, nếu người nào gia công nỗ lực tinh cần tu học, gạn lọc phiền não, chuyển hóa thân tâm, thì đều có thể đạt được đạo quả cả.
Phẩm Bà La Môn
383. “Hỡi này Bà là môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi.”
384. “Nhờ thường trú hai pháp (1)
Ðến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.”Lược giải
383. Dũng cảm đoạn trừ dòng ái dục, các ngươi mới là Bà la môn! Nếu thấu rõ các uẩn diệt tận[13], các ngươi liền biết được vô tác (Niết bàn).
Exert yourself, O holy man! Cut off the stream (of craving), and discard sense desires. Knowing the destruction of all conditioned things, become, O holy man, the knower of the Uncreate (Nibbana).
Kệ tụng
Hãy tinh tấn đoạn dòng
Bà la môn bỏ dục
Thấu hiểu uẩn diệt tận
Người thật chứng vô tác.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Bà la môn Đại Hỷ, Pasadabahula.
Theo truyện tích, Bà la môn Pasadabahula sau khi nghe Phật thuyết pháp, từ đó ông phát tâm luôn thỉnh mười sáu vị Tỳ kheo đến nhà cúng dường. Ông ân cần tiếp đón các thầy rất cung kính niềm nở. Đối với các thầy Tỳ kheo, ông đều xưng hô là A la hán cả. Trong số các thầy, có thầy chưa chứng sơ quả nghĩ thầm: “Ông cư sĩ nầy tưởng trong chúng ta có thầy chứng A la hán”. Còn các thầy chứng A la hán lại nghĩ: “Ông cư sĩ không biết chúng ta đã đắc A la hán”. Kết quả, các thầy đều buồn lòng không đến nhà ông nữa.
Ông Bà la môn không hiểu duyên cớ thế nào, nên đến tinh xá bạch hỏi đức Phật. Đức Phật hỏi các thầy Tỳ kheo và bảo:
Các ông không muốn ông ấy gọi các ông là A la hán ư? Các thầy trả lời là không.
Đức Phật ôn tồn giải thích và cho đó là cách xưng hô để bày tỏ tấm lòng hoan hỷ. Việc biểu hiện niềm hoan hỷ ấy đâu có gì sai trái. Phật khen Bà la môn về tấm lòng quý mến các thầy Tỳ kheo của ông thật vô bờ. Đồng thời Phật thức nhắc các thầy Tỳ kheo là phải diệt trừ tham ái, không nên lấy việc chứng A la hán là sự mong muốn duy nhất của mình. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Phẩm Bà la môn gồm có 41 câu nói về phẩm hạnh của Bà la môn. Bà la môn (Brahmana) nói trong phẩm nầy, là chỉ chung cho những người tu hành thanh tịnh chớ không phải như nghĩa thông thường nói về giai cấp Bà la môn. Đức Phật nhấn mạnh về hạnh tu của một người có đức độ phạm hạnh cao, chớ không phải chỉ về dòng dõi hay là hình thức bề ngoài.
Pháp cú trên, đức Phật bảo một người thật hành hạnh tu Bà la môn là phải dũng cảm đoạn trừ lòng ái dục. Vì sao phải dũng cảm? Bởi ái dục là cội gốc phiền não rất lớn thật khó đoạn trừ. Nếu người tu hành mà thiếu ý chí cương quyết mạnh mẽ và lòng can đảm mãnh liệt, thì không thể nào xa lìa ái dục, chứng được Niết bàn. Muốn xa lìa ái dục, Phật dạy, phải “thấu rõ các uẩn diệt tận”. Nói diệt tận là vì tự thể của các uẩn vốn không. Chúng do duyên hợp mà có. Nói các uẩn, chúng ta có thể hiểu rộng ra là muôn pháp. Thấu rõ các uẩn là thấu rõ vạn pháp thể tánh vốn không. Thấu rõ được tánh không nầy là thấy được vô tác. Vô tác là không do ai tạo ra. Các pháp do nhân duyên hội tụ sinh thành. Các pháp vốn là như thế, không do bàn tay nào tạo tác làm ra. Cho nên, Phật nói: “Các người liền thấy được vô tác”. Vô tác là tên khác của Niết bàn. Vì không ai tạo tác nên thể tánh của muôn pháp là vắng lặng. Thể hay tự tánh thì vắng lặng, nhưng tướng thì vẫn có. Cái có đó cũng chỉ là giả tướng mà thôi.
Chuyện lược dẫn trên, Phật khen ông Bà la môn với tâm hoan hỷ quý kính các thầy. Ngược lại, các thầy còn bị dính kẹt vào danh tướng nên tỏ ra buồn lòng qua cách xưng hô của ông Bà la môn. Khi dính kẹt vào danh tướng, tất nhiên, là có sanh tâm bảo thủ chấp trước. Đó là vì các thầy chưa hiểu rõ bản chất của các pháp vốn là giả danh, không thật. Chấp chặt vào giả danh, giả tướng, thì chẳng khác nào theo đuổi nắm bắt một làn hương, hay tìm người trong giấc mộng. Thế thì, thử hỏi làm sao giải thoát? Muốn thấu đạt chân lý, Phật dạy phải xả ly tất cả. “Ly nhứt thiết tướng, tức nhứt thiết pháp”. Nghĩa là, rời lìa tất cả pháp, thì sẽ được tất cả. Vì tất cả pháp không ngoài bản tâm thanh tịnh mà có. Chúng ta còn nhớ, đức Lục Tổ Huệ Năng, sau khi đại ngộ, Ngài thấy tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh. Ngài nêu ra trình bày với đức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn năm cái đâu ngờ:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh vốn không giao động
Đâu ngờ tự tánh vốn sanh muôn pháp.
Sau khi trình bày, đức Ngũ Tổ liền ấn chứng cho Ngài làm vị Tổ thứ sáu, rộng độ chúng hữu tình, truyền pháp đời sau không cho đoạn dứt.
384. Nhờ thường trú trong hai pháp[14], hàng Bà la môn đạt đến bờ kia; dù có bao nhiêu ràng buộc, đều bị trí tuệ dứt sạch.
When a holy man has reached the summit of the two paths (meditative concentration and insight), he knows the truth and all his fetters fall away.
Kệ tụng
Nhờ thường trú hai pháp
Bà la môn đến bờ kia
Bao nhiêu pháp kiết sử
Được trí tuệ dứt sạch.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nhiều vị Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, có ba mươi Sa môn ở xứ khác đến Kỳ Viên đảnh lễ đức Phật và ngồi một bên. Tôn giả Xá lợi phất biết rằng các thầy có đủ điều kiện chứng A la hán, bèn đến trước đức Phật thưa:
-Bạch Thế Tôn, Ngài thường dạy về “hai trạng thái”, thế nào là “hai trạng thái”?
Đức phật dạy:
- Nầy Xá lợi phất, hai trạng thái là thiền định và trí tuệ.
(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 325)
Phật dạy: “Nhờ thường trú trong hai pháp, hàng Bà la môn đạt đến bờ kia”. Thường trú nghĩa là luôn luôn có mặt trong giây phút hiện tại. Hai pháp là thiền định và trí huệ. Người tu hành, Phật dạy, phải luôn luôn có mặt với hai pháp nầy. Muốn chứng ngộ chân lý, không thể thiếu một trong hai pháp nầy. Có thiền định tâm ta mới được vắng lặng. Vắng, là vắng bóng các thứ phiền não khuấy nhiễu, loạn động, thì nguồn tâm mới an lạc thanh tịnh. Tuy nhiên, sự vắng lặng của tâm, đó mới chỉ là phần tiêu cực. Tiêu cực không chưa đủ mà hành giả cần phải tích cực. Tích cực đó là trí huệ. Nhờ có trí huệ, nên chúng ta mới làm nhiều điều lợi ích cho chúng sanh. Nếu không có trí huệ hằng chiếu soi, không khéo hành giả sẽ rơi vào định tánh Thanh Văn. Cho nên, trong đạo Phật, thiền định và trí huệ phải được song hành, như chim hai cánh, xe hai bánh. Chim hai cánh mới có thể bay xa. Bay xa đến bờ giải thoát, đó là Niết bàn. Thế nên, Phật nói: “Dù có bao nhiêu ràng buộc đều trí huệ dứt sạch”. Trí huệ là hướng tiến đưa hành giả đến bến bờ tự do giải thoát hoàn toàn.
385. “Không bờ này, bờ kia (2)
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà-la-môn.”
386. “Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Ðạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
385. Không bờ kia cũng không bờ nầy[15], hai bờ đều không thật, chỉ xa lìa khổ não, chẳng bị trói buộc nữa, Ta gọi là Bà la môn.
He for whom there is neither this shore nor the other shore, nor yet both, he who is free of cares and is unfettered – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Không bờ nầy bờ kia
Cả hai bờ không có
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ma vương.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, ma vương giả dạng đến chỗ đức Phật và hỏi Ngài:
- Bạch Thế Tôn, Ngài hay nhắc đến “bờ bên kia”. Xin cho biết cái gì là “bờ bên kia”?
Đức phật biết đó là ma vương, Ngài bảo:
- “Này ma vương, ông liên hệ gì đến bờ bên kia? Chỉ có người thoát khỏi tham dục mới đạt đến đó thôi”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 326)
Pháp cú nầy, Phật dạy chúng ta không nên để tâm dính kẹt vào hai đầu: quá khứ và vị lai. Đây là hai ngục tù giam hãm luôn luôn trói buộc chúng ta. “Không bờ kia cũng không bờ nầy, hai bờ đều không thật”. Bờ nầy, bờ kia, chẳng qua cũng chỉ là khái niệm đối đãi giả tưởng. Điều quan trọng của người tu là phải vượt thoát khỏi phạm trù đối đãi khái niệm nhị nguyên nầy. Thường chúng ta hay bị dính mắc vào những khái niệm danh từ. Khác nào kẻ chỉ biết chấp chặt vào ngón tay mà quên mất mặt trăng. Ngón tay hay mặt trăng cũng chỉ là những khái niệm danh từ giả lập. Thực chất chúng chỉ là trống rỗng. Đã lâu rồi, chúng ta đã bị những ngôn từ chữ nghĩa lừa đảo chúng ta.
Việc này, giống như câu chuyện nói về thân phận của anh chàng thợ săn khi bị đi lạc trong rừng, anh ta tìm mãi đường ra mà không thấy. Anh ta cứ đi loanh quanh cho đến chiều tối mà vẫn tìm không ra lối thoát. Bỗng dưng, anh thấy tấm biển lớn ngoài cổng đề: “Coi chừng cho dữ”. Anh nghĩ thầm, thà vào đại bên trong gặp chó dữ, còn hơn bị dã thú ăn thịt. Hơn nữa, tuy chó dữ, nhưng vẫn còn có người chủ trông coi. Nghĩ thế, anh liền đi vào. Anh rất hồi hộp run sợ, nhưng không còn cách nào khác để thoát thân. Đi đưọc vài thước, anh trông thấy một tấm biển lớn hơn nữa đề là: “COI CHỪNG CHÓ DỮ”. Bấy giờ, tim anh đập mạnh liên hồi như muốn rớt ra ngoài. Nhưng anh vẫn cắn răng bặm gan đi tới. Nhưng rồi, anh gặp một con chó nhỏ xíu đang đứng bên cạnh với người chủ của nó. Anh ta lấy làm lạ mới hỏi người chủ:
- Thưa ông, chó dữ đâu nào?
- Không có chó dữ chi cả, đây là con chó duy nhất của tôi.
- Con chó nhỏ xíu như thế nầy, làm sao đủ sức ngăn cản người ta vào đây?
- Ông lầm to rồi. Tuy con chó nầy nó không ngăn cản được người ta, nhưng tấm biển ấy có thừa sức để ngăn người lạ mặt vào đây. Ông có hiểu không? Bấy giờ, anh chàng thợ săn ngẩn người ra, thế là người ta không sợ chó dữ mà người ta lại sợ cái tấm biển: “COI CHỪNG CHÓ DỮ “. Ấy thế mới chết!
Người ta điên đảo, đảo điên, bị chết ngộp vì những danh từ rỗng tuếch nầy. Bạn thử tưởng tượng, như trong rạp chiếu bóng, mọi người đang say mê thích thú xem phim, bỗng dưng lúc ấy, có ngưòi la to lên: “lửa cháy! lửa cháy!...” Thế là, cả đám người hốt hoảng ngơ ngác chạy nhanh tìm đường tẩu thoát. Nhưng thực tế, thì không có lửa cháy chi cả. Người ta sống quen theo quán tính của ngôn từ, nặng chấp vào những danh ngôn giả lập. Từ đó, mới có gây ra bao cảnh tranh chấp thương tâm sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì chấp chặt vào những danh từ trống rỗng. Cả nhơn loại ngày nay đều như thế. Điều nầy, trong Khởi Tín Luận gọi là kế danh tự tướng. Nghĩa là chấp chặt vào cái tướng của danh tự chữ nghĩa, mà thực chất của nó thì không là gì cả.
Chuyện dẫn trên, đức Phật trả lời thẳng với bọn ma vương là họ không biết gì đến bờ bên kia cả. Bờ nầy họ còn chưa thấu rõ làm sao họ rõ được bờ bên kia. Vậy, bờ nầy là bờ gì? Và bờ kia là bờ gì? Nói bờ nầy là chỉ cho sáu căn, bờ kia là chỉ cho sáu trần. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, mà không bị dính kẹt, không khởi tác ý tham đắm, không bị ô nhiễm vào sáu trần, thì ngay đó là vượt khỏi hai bờ, tất nhiên, là giải thoát, là Niết bàn hiện tại. Đó là địa chỉ thường trú: “bây giờ và ở đây”! Điều nầy, làm sao ma vương có thể làm được, nên Phật nói: “chỉ có người thoát khỏi tham dục mới đạt đến đó thôi”.
386. Ai nhập vào thiền định, an trụ chỗ ly trần, việc làm đều đã xong, phiền não lậu dứt sạch, chứng cảnh giới tối cao, Ta gọi là Bà la môn.
He who is meditative, stainless and settled whose work is done and who is free from cankers, having reached the highest goal – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Tu thiền trừ ly trần
Phận sự xong, vô lậu
Chứng mục đích tối thượng
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
Theo truyện tích : “Nergày nọ, một ông Bà la môn chợt nghĩ: “Đức Phật thường gọi các đệ tử là Bà la môn, còn ta cũng sanh trưởng trong dòng Bà la môn, ta cũng đáng được gọi như thế”.
Nghĩ vậy, y bèn đến chỗ Phật và nói lên vấn đề ấy. Đức Phật nói:
- “Ta không gọi ai là Bà la môn, chỉ vì dòng dõi. Ta chỉ gọi những người đạt đến quả vị A la hán là Bà la môn”.(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 327)
Pháp cú nầy chủ yếu Phật nhấn mạnh một lần nữa về pháp tu thiền định. Bởi thiền định là cửa ngõ quan yếu đi vào ngôi nhà giác ngộ và giải thoát. Giáo pháp của Phật, đức Phật tuy đã phô diễn ngàn muôn sai khác, có vô lượng pháp môn, vô lượng phương tiện, nhưng tựu trung không ngoài hai chữ Thiền na. Thiền na Trung Hoa dịch là Tịnh lự hay Chỉ Quán. Tịnh là Định mà Lự là Huệ; Chỉ là Định mà Quán là Huệ.
Định và Huệ hay Chỉ và Quán đây là hai pháp tu mà từ ngàn xưa, người tu theo Phật giáo thảy đều bước vào con đường nầy, không còn có con đường nào khác. Dù tu Hiển hay tu Mật, tu Tịnh hay tu Thiền, tu Giáo hay tu Giới v.v… tất cả đều phải bước qua con đường nầy. Phương tiện hành trì của mỗi pháp môn sâu cạn, tánh tướng, hữu vô tuy có khác, nhưng chung quy cũng phải đạt đến Định Huệ. Nếu bước ngoài con đường chánh lý nầy, thì hành giả tu sai, tất nhiên, sẽ rơi vào tà kiến. Nói một cách nghiêm khắc, đó không phải là tu theo Phật giáo.
Đức Phật nhờ hành thâm Định Huệ mà Ngài hàng phục được các ma quân và thành tựu được đạo quả. Hành giả muốn xa lìa phiền não lậu hoặc, chỉ có con đường duy nhứt là phải an trú vào thiền định. Thiền định có công năng đoạn trừ năm thứ triền cái (tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối, nghi hoặc) đưa hành giả chóng đến quả vị Niết bàn. Phật nói, như thế mới xứng đáng gọi là Bà la môn.
387. “Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.”
388. “Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.”Lược giải
387. Mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khí giới chiếu sáng dòng vua chúa, thiền định chiếu sáng kẻ tu hành, nhưng hào quang đức Phật chiếu sáng tất cả thế gian.
The sun shines by day, the moon shines by night. The warrior shines in armour, the holy man shines in meditation. But the Buddha shines resplendent all day and all night.
Kệ tụng
Ban ngày trời chiếu sáng
Ban đêm trăng chiếu sáng
Khí giới sáng chúa vua
Thiền định sáng Bà la môn
Nhưng hào quang Đức Phật
Chói sáng cả ngày đêm.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại lâu đài Mẹ Migara, có liên quan đến Tôn giả A nan.
Theo truyện tích, vào ngày lễ Tự tứ, vua Ba tư nặc đến tinh xá, nhà vua trang phục mang trên người bằng những châu báu rực rỡ. Lúc đó, Tôn giả Ca lưu đà di đang nhập định, toàn thân tỏa ra một luồng hỷ lạc, sáng như vàng. Mặt trời sắp lặn, mặt trăng vừa mọc. Tôn giả A nan ngắm nhìn ánh trăng đang lên, chiếu sáng vào châu báu trên mình của nhà vua, và hào quang chung quanh của Ngài Ca lưu đà di, nhưng khi nhìn đức Phật, hào quang trên thân của Ngài chiếu sáng vượt hơn tất cả.
Thấy thế, Tôn giả A nan đến bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, hôm nay con ngắm ánh sáng của những thân và vật ấy, chỉ có hào quang Ngài làm cho con mãn nguyện, vì thân Ngài chiếu ánh sáng rực rỡ hơn hẳn các ánh sáng khác.
Đức Phật bảo:
- “Nầy A nan, mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, nhà vua thì sáng khi trang điểm lộng lẫy, các vị A la hán sáng khi nhập định thoát phàm. Nhưng chỉ có chư Phật luôn luôn chiếu sáng ngày cũng như đêm, rực rỡ hơn gấp năm lần”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên Phật so sánh các thứ ánh sáng để quy kết vào ánh sáng của Phật. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đó là thứ ánh sáng bên ngoài tuy cũng chiếu sáng trùm khắp, nhưng vẫn còn có giới hạn. Ánh sáng khí giới và những đồ trang sức châu báu của nhà vua, cũng chỉ là những thứ ánh sáng của vật chất không đáng kể. Ánh sáng tỏa ra do công năng thiền định, tuy có nội lực thâm hậu dứt trừ phiền não, phát sanh trí huệ của hàng A la hán, nhưng so với ánh sáng chiếu ra từ nơi đức Phật, thì không gì có thể so sánh được. Hào quang của Phật chiếu sáng trùm khắp cả ngày lẫn đêm, không có giới hạn. Đó là những thứ ánh sáng: giới hạnh, trí huệ, từ bi, oai lực v.v… Giới đức của Phật có oai lực sáng tỏ làm lu mờ những điều bất thiện. Đức hạnh của Ngài có oai lực làm lu mờ các tật xấu. Ánh sáng của trí huệ che lấp vô minh. Và oai lực của chánh hạnh che lấp điều bất chánh. Chính ánh sáng của Phật mới làm cho Tôn giả A nan mãn nguyện.
388. Dứt bỏ các ác nghiệp, gọi là Bà la môn; thường tu hành thanh tịnh, thì gọi là Sa môn; còn trừ bỏ cấu uế, gọi là người xuất gia.
Because he has discarded evil, he is called a holy man. Because he is serene in conduct, he is called a recluse. And because he has renounced his impurities, he is called a renunciate.
Kệ tụng
Dứt ác gọi Bà môn
An tịnh gọi Sa môn
Tự mình trừ cấu uế
Nên gọi bậc xuất gia
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích: “Một người Bà la môn nọ xuất gia theo thầy khác chứ không theo Phật, rồi lại nghĩ: “Sa môn Cồ đàm gọi đệ tử là Tỳ kheo. Ta cũng đáng được gọi như thế”. Y bèn đến gặp Phật và nói lên vấn đề ấy.
Đức Phật nói:
- “Ta không gọi ai là Tỳ kheo chỉ vì lý do ông đưa ra. Ta chỉ gọi người đã trừ lậu hoặc và cấu nhiễm là Tỳ kheo - “người đã xa lìa”.
(Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 330)
Pháp cú nầy, đức Phật nêu ra ba vấn đề rõ rệt:
1. “Dứt bỏ các ác nghiệp, gọi là Bà la môn”. Nói thể, là đức Phật dựa vào phẩm chất tu hành, chớ không phải căn cứ trên hình thức hay danh xưng. Dù danh xưng có to lớn đến đâu, mà phẩm hạnh giới đức không ra gì, thì danh xưng đó chỉ là rỗng tuếch, trò đùa, chỉ để che mắt lừa bịp thiên hạ chơi mà thôi. Người chân tu, không cần đến hình thức, mà cốt yếu chỉ cần đến chất lượng nội dung. Một nội dung có chất lượng cao. Đó là chất lượng của giới đức, của việc đoạn trừ phiền não và đời sống an lạc hạnh phúc.
2. “Người hành vi thanh tịnh gọi là Sa môn”. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trong chương đầu, có đoạn Phật dạy: “Những người từ giã cha mẹ đi xuất gia, nhận biết tự tâm, rõ suốt bản tánh, ngộ pháp vô vi, gọi là bực Sa môn, thường giữ gìn 250 giới, sống đời thanh tịnh, tu hành bốn chân đạo (Tứ diệu đế), thành bực A la hán…” Cũng trong Kinh đó, ở chương ba, Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc làm bực Sa môn, là người thọ lãnh đạo pháp, phải xa bỏ của cải ở đời, mong cầu vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa, dưới gốc cây ngủ một đêm, cẩn thận không trở lại, phải biết rằng: những điều khiến cho người ta ngu tệ là ái và dục”. (Bản dịch của giáo sư Hoàn Quan)
Qua hai đoạn văn kinh nêu trên, đức Phật đã nói rõ về hạnh tu của một vị Sa môn. Hạnh tu của Sa môn, trong là phải thấu suốt nguồn tâm, ngoài thì phải gìn giữ oai nghi giới hạnh. Cả trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, như thế, mới xứng danh là bực Sa môn.
3. “Trừ bỏ cấu uế, gọi là người xuất gia”. Trong lời Phật dạy nầy, ta nên chú ý đến hai chữ “cấu uế”. Cấu uế có nghĩa là dơ bẩn nhớp nhúa không trong sạch. Người xuất gia là phải lìa xa hai thứ nhớp nhúa dơ bẩn quan trọng, đó là: “phiền não trược và mạng trược”. Vì có xa lìa phiền não, thì tâm mới an lạc. Nhờ tâm an lạc, nên đời sống mới có tươi mát, hạnh phúc. Mạng trược là người xuất gia không nên nuôi sống bằng những nghề nghiệp bất chánh. Như trong Kinh Di Giáo, đức Phật dạy rất rõ về những việc làm nuôi sống bất chánh nầy. Như buôn bán, coi tướng, bói toán, đoán xăm tốt xấu, làm bùa, làm chú v.v… Là người xuất gia, Phật dạy, không nên làm những điều ấy. Vì như thế là trái với hạnh nguyện xuất trần thượng sĩ của người xuất gia vậy.
389. “Chớ có đập Phạm chí!
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí
Ðập trả lại xấu hơn!”
390. “Ðối với Bà-la-môn,
Ðây (3) không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt,”Lược giải
389. Chớ nên đánh đập Bà la môn! Bà la môn chớ nên sân hận! người đánh đập mang điều đáng hổ, người sân hận lại càng đáng hổ hơn.
One should not strike a holy man, nor should a holy man, when struck, give way to anger. Shame on him who strikes a holy man, and more shame on him who gives way to anger.
Kệ tụng
Chớ đập Bà la môn!
Bà la môn chớ sân!
Đập Bà la môn đáng hổ
Bà la môn sân, hổ hơn.
390. Bà la môn! Đây không phải là điều ích nhỏ, nên biết vui mừng chế phục tâm mình. Tuy lúc đoạn trừ tâm độc hại thì thống khổ sẽ được ngăn dứt liền.
Nothing is better for a holy man than when he holds his mind back from what is endearing.To the extent the intent to harm wears away, to that extent does suffering subside.
Kệ tụng
Đối vị Bà la môn
Đây không phải ích nhỏ
Khi trí không ái luyến
Khi tâm hại được trừ
Chỉ khi ấy khổ diệt.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Xá lợi phất.
Theo truyện tích, một hôm, các thiện tín cùng nhau ca ngợi đức hạnh cao cả của Tôn giả Xá lợi phất. Dù bị người ta chửi mắng đánh đập, nhưng Ngài tuyệt nhiên không chút tỏ ra sân hận. Trong số đó, có một vị Bà la môn ngoại đạo nghe thế bất bình, liền nói: “nếu thầy các ngươi không giận, ta sẽ chọc giận ông ta, rồi các ngươi sẽ biết”.
Hôm sau, trong khi Ngài Xá lợi phất đang đi khất thực, ông Bà la môn đi theo sau lưng và đánh thật mạnh vào lưng Ngài. Tôn giả vẫn tiếp tục đi, không hề tỏ ra chút hờn giận. Thấy thế, ông Bà la môn liền thán phục đức hạnh cao quý của Ngài và sụp xuống lạy cầu xin tha tội. Tôn giả tha thứ. Ông thỉnh Tôn giả về nhà cúng dường ngọ trai. Hành động xúc phạm đánh đập của ông Bà la môn làm cho các vị khác nổi giận. Họ mang theo các thứ vũ khí kéo nhau đến đứng trước cửa nhà Bà la môn. Thọ thực xong, Bà la môn ôm bát của Ngài đi ra. Cả đám la lên nên xử tội Bà la môn, vì ông cả gan dám xúc phạm đến Tôn giả. Tôn giả giải quyết ôn hòa và mọi người ra về. Các vị Tỳ kheo khác thấy thế rất bất bình. Họ cho rằng, tại sao người ta đánh đập Ngài mà Ngài còn đến nhà của ông ấy thọ thực?
Việc xảy ra, đến tai đức Phật, đức Phật bảo:
- “Nầy các Tỳ kheo, không có việc người Bà la môn đánh Bà la môn, chỉ có Bà la môn phàm tục đánh vị Bà la môn thánh quả. Bởi vị nào đã chứng quả A na hàm hoàn toàn dứt hết mọi giận dữ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Bạo động hành hung là hiện thân của hạt giống sân hận. Đối với khoa học hiện nay, Người ta có khả năng chế tạo ra đủ mọi thứ tiện nghi vật chất máy móc trên đời, kể cả những thứ máy móc tinh vi, như phi thuyền có năng lực vượt ra khỏi quả địa cầu, để khám phá những hành tinh khác, nhưng rất tiếc, người ta không thể chế ngự được cơn giận dữ khi nó bộc phát mạnh bạo. Hạt giống “giận” tuy nó rất nhỏ, chỉ là một “ý nghĩ” thôi, nhưng hậu quả sức tàn phá tai hại của nó thật khủng khiếp vô cùng. Hẹp, thì thanh toán sát hại giữa cá nhân với cá nhân. Rộng, thì giữa quốc gia nầy với quốc gia khác và rồi có thể lan rộng ra khắp cả thế giới. Đó là hậu quả tàn khốc của những cuộc chiến tranh đẫm máu đã xảy ra khắp nơi. Cụ thể là hai cuộc thế chiến: “Đệ nhứt và Đệ nhị” đã xảy ra giết chết không biết bao nhiêu sinh mạng con người. Theo nhà tiên tri Vanga lừng danh thế giới, tiên đoán chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ xảy ra vào năm 2010. Chúng tôi xin trích một đoạn mở đầu của bản tin đăng trên mạng lưới internet vào ngày 14/4/09/ như sau:
“Nhân loại liệu có đứng trước một thảm họa nữa không khi nhà tiên tri lừng danh thế giới – Baba Vanga dự đoán Chiến tranh Thế giới Thứ 3 sẽ nổ ra vào năm 2010. Nếu như trước kia ít ai để ý thì trong bối cảnh suy thoái kinh tế như hiện nay, ai cũng hiểu một cuộc chiến tranh thế giới nổ ra có thể thiết lập lại một trật tự thế giới mới một cách toàn diện và triệt để. Vậy phải chăng tiên đoán của Vanga sẽ trở thành hiện thực”.
Nếu lời tiên đoán nầy trở thành sự thực, thì đó là một đại nạn thảm họa lớn lao cho cả nhơn loại. Muốn vô hiệu hóa lời tiên đoán đó, thì chỉ có cách là mỗi người chúng ta nên tự chế ngự lòng tham lam sân hận của mình. Có thế, thì nhơn loại mới mong thoát khỏi kiếp tai ách khói lửa đao binh.
Đứng trước cảnh bạo hành chửi mắng đánh đập, mà ta an nhẫn được, thật không phải là chuyện dễ dàng. Chỉ có những bậc đạo lực cao thâm, mới có khả năng dập tắt lòng sân hận. Chuyện dẫn trên là một chứng minh cụ thể cho sức nhẫn nhịn chịu đựng nầy. Thầy Xá lợi phất, bị một Bà la môn đánh đập, nhưng Ngài vẫn thản nhiên không tỏ ra chút hờn giận. Trong khi đó, những người bàng quan trông thấy thì lại tức giận thay thầy. Đây cũng là một tâm lý bênh vực rất thường tình của con người. Khi người ta gặp chuyện bất bình, thì họ thường nhảy vô can dự. Vì họ là những người sống theo bản năng, không chút kềm chế. Ngược lại, đối với những người biết tu hành thì lại khác. Nếu không có sức huân tu tẩy trừ phiền não, thì làm gì có thể an nhẫn dễ dàng như vậy được? Bị người chửi mắng hành hung đánh đập, mà vẫn chịu đựng không chút trả treo, thì quả đó mới thật là cái “Dũng của Thánh nhơn”. Nhẫn điều khó nhẫn, mới có thể đo đạt đánh giá được sự tu hành. Ngoài ra, chỉ là những kẻ nói suông khoác lác cho sướng cái lỗ miệng mà thôi!
391. “Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.”
392. “Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí chờ lửa.”Lược giải
391. Không đem thân, ngữ, ý ra làm các điều ác, chế ngăn được ba chỗ đó, Ta gọi là Bà la môn.
He who does no evil in deed, word and thought, who is restrained in these three ways – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Với người, thân, khẩu, ý
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được hộ trì
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Bà Ma ha ba xà ba đề.
Theo truyện tích, trước khi công bố Bát kỉnh pháp, đức Phật đã ân cần nói riêng cho Bà di mẫu biết về ý nghĩa nội dung của Bát kỉnh pháp. Bà tuân theo lời Phật dạy và được đức Phật cho nhập vào Tăng đoàn. Chính vì điểm nầy, mà bà đã bị trong chúng bàn tán xôn xao. Họ cho rằng, bà tự thọ giới và không có thầy tế độ.
Nghe thế, các Tỳ kheo ni khác bất mãn không chịu làm lễ Bố tát và lễ Tự tứ với bà. Họ đến bạch Phật, Phật dạy:
- “Chính ta trao Bát kỉnh pháp cho bà, ta là thầy tế độ, là giáo sư của bà. Kẻ đã từ bỏ được những lỗi lầm cả về thân, miệng, ý, đã thoát mọi tham dục, với những người như thế không nên nuôi dưỡng tư tưởng bất mãn”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Chủ ý của pháp cú nầy, ta thấy đức Phật lại nhắc nhở về việc thật hành ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý. Rải rác trong những pháp cú trước, đức Phật đều có nêu ra để khuyến giáo về ba nghiệp nầy. Tại sao Phật lại phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế? Vì nó là điều tối hệ trọng trong việc tu hành. Dù chúng ta tu bất cứ pháp môn nào, mà nếu không giữ gìn ở nơi ba nghiệp nầy, thì coi như sự tu hành của chúng ta chỉ là con số không mà thôi. Chính vì nó là nền tảng căn bản của sự giải thoát, nên đức Phật phải nhắc đi nhắc lại cho chúng ta nhớ mà cố gắng hành trì. Ở đây, chúng tôi xin được nhắc sơ lại. Xét về ba nghiệp thì nó có hai mặt: “tiêu cực và tích cực”.
Về mặt tiêu cực là ta chỉ ngăn ngừa gìn giữ không cho phạm. Như về thân nghiệp, thì ta gìn giữ 3 điều:
1. Không giết hại sinh vật, chủ yếu là không được giết người.
2. Không được gian tham trộm cắp, cướp giựt tài sản của cải của người khác.
3. Không được làm những chuyện tà hạnh dâm ô phi pháp, phá trinh tiết, và làm tan nát hạnh phúc gia cang của người khác.
Về khẩu nghiệp thì Phật dạy ta phải gìn giữ 4 điều:
1. Không nên nói dối, chuyện có nói không, chuyện không nói có.
2. Không được nói lời hung ác, trù rủa, chửi mắng.
3. không được nói lời ly gián, gây cho người ta sanh tâm oán thù chia rẽ nhau.
4. Không được nói lời thêu dệt vẽ vời đặt điều tô thêm câu chuyện cho đậm nét thêm lên. Có ít xích cho nhiều.
Về ý nghiệp, thì Phật dạy bớt tham lam, sân hận và si mê.
Đó mới là “chỉ ác” chớ chưa có “hành thiện”. Chỉ mới tiêu cực chớ chưa có tích cực. Tích cực là ta phải hành thiện. Chẳng những ta không sát hại sinh vật, mà ta còn phải tìm đủ mọi cách để bảo hộ giúp cho các loài sinh vật được sinh sống an toàn, chúng không phải lo âu sợ hãi. Đối với tài vật của cải, chẳng những ta không dùng mưu chước hành động cướp giựt hay trộm cắp của người, mà ta còn phải gia tâm bảo vệ tài sản của họ và đồng thời làm những việc giúp ích bố thí cho những kẻ tàn tật, nghèo khổ, đói khát, cơ hàn v.v…
Đối với bản thân, ta phải khéo biết lợi dụng cái xác thân nầy để làm nhiều điều lợi lạc cho mình và cho nhân quần xã hội. Còn đối với tâm ý, ta cũng phải chận đứng những ý niệm xấu ác. Chẳng những ngăn ngừa chận đứng không thôi, mà ta còn phải chuyển hóa những hạt giống xấu ác trở thành những hạt giống tốt lành. Như vậy, chỉ cần tu ba nghiệp về hai mặt một cách tích cực thường xuyên như thế, tất nhiên, là chúng ta sẽ đạt được Niết bàn an lạc tại thế gian nầy rồi. Đó mới thực sự là chơn hạnh phúc tuyệt vời vậy.
Chuyện lược dẫn trên, ta thấy trong chúng có sự hiểu lầm đâm ra nghi ngờ. Bất cứ nghi ngờ nào cũng làm trở ngại lớn lao cho sự tu hành của chúng ta. Thay vì tìm hiểu cặn kẽ vấn đề, thì các vị Tỳ kheo ni lại nghi ngờ rồi không chịu Bố tát và làm lễ Tự tứ chung với bà Di Mẫu. Đây là một bài học để trong chúng lấy đó làm gương. Đến khi Phật giải thích, mới phá tan sự nghi ngờ đó. Sống trong chúng, nhứt là trong một đoàn thể tu hành, ta nên tránh những chuyện nghi ngờ vô lý không căn cứ. Vì như thế, sẽ dễ gây ra tình trạng bất hòa và không khéo sẽ đưa đến sự mâu thuẫn, tan rã, nghi kỵ, không tốt lẫn nhau.
392. Được nghe đấng Chánh đẳng giác thuyết pháp, bất luận ở nơi nào, hãy nên hết lòng cung kính như Bà la môn kính thờ thần lửa.
Just as a brahmin priest reveres his sacrificial fire, even so should one devoutly revere the person from whom one has learned the Dhamma taught by the Buddha.
Kệ tụng
Từ ái, nghe chánh pháp
Bậc Chánh giác thuyết giảng
Hãy kính lễ vị ấy
Như Bà la môn thờ lửa.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Xá lợi phất.
Theo truyện tích, Tôn giả Xá lợi phất nhờ nghe bài kệ đầu tiên của thầy Ác Bệ, mà được chứng quả Tu đà hoàn. Từ đó, Tôn giả Xá lợi Phất luôn hướng lòng cung kính lễ lạy thầy Ác bệ. Các thầy Tỳ kheo khác thấy thế mới bàn tán:
-Tôn giả Xá lợi Phất theo tà đạo, mỗi ngày đều lễ tứ phương.
Sau đó, họ đến bạch Phật và Phật hỏi Ngài Xá lợi phất có phải như thế không? Ngài Xá lợi phất trả lời: việc đó có hay không, chắc đức Thế Tôn sẽ hiểu rõ con. Nhân đó, Phật bảo các thầy Tỳ kheo:
- “Xá lợi phất không hề kính lễ phương hướng. Chỉ vì kính lễ Tôn giả Ác Bệ, người đầu tiên mà Xá lợi phất nghe pháp nên mới làm thế. Một vị Sa môn kính trọng người dạy pháp như người Bà la môn kính thờ lửa thiêng”.(Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Chủ yếu của pháp cú nầy Phật nhấn mạnh về vấn đề trọng pháp. Giáo pháp Phật dạy nhằm mục đích đưa con người đến chỗ giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Nghĩa là không còn phải chịu trầm luân sanh tử khổ ải nữa. Đức Phật tuy có tùy cơ thuyết pháp, nhưng tựu trung, Ngài cũng chỉ muốn nhắm thẳng vào mục đích chính đó thôi. Với một nền giáo pháp thậm thâm vi diệu như thế, vậy mà trong khi nghe, chúng ta lại thờ ơ khinh thường, thì thật là mang tội rất lớn. Có cung kính tôn trọng pháp, thì ta mới chịu khó lắng nghe. Ở đây, ta thấy, Phật so sánh hai vấn đề quan trọng: “lòng cung kính nghe pháp như đạo Bà la môn cung kính thờ Thần lửa”. Việc thờ lửa đối với đạo Bà la môn thật tối ư quan trọng. Cũng thế, khi nghe pháp muốn lãnh hội ý nghĩa quan trọng của bài pháp thoại, thì ta phải hết lòng chú ý thành khẩn lắng nghe. Có thế, thì việc nghe pháp của ta mới không luống uổng vô bổ vậy.
Chuyện lược dẫn trên, Ngài Xá lợi phất chỉ vì tôn trọng pháp và tôn kính người nói pháp, mà gây ra trong chúng có sự bất bình hiểu lầm. Bởi vì, Ngài Xá lợi phất mỗi khi nghĩ đến thâm ân sâu nặng của thầy Ác Bệ nói bài kệ cho Ngài nghe, nhờ đó mà Ngài được ngộ đạo và chứng quả Tu đà hoàn. Cho nên, Ngài hướng lòng về thầy ác Bệ để đảnh lễ. Đó là biểu lộ tấm lòng nhớ ơn người thầy đầu tiên đã đưa mình đến với đạo giải thoát. Ấy thế mà, người ta không hiểu được tấm lòng biết ân cao cả đó, lại còn sanh tâm chế nhạo chê cười. Điều nầy, ngẫm kỹ lại thời nào cũng có. Vì thiếu hiểu, nên dễ gây ra sự ngộ nhận và từ đó làm tổn thương gây ra mối bất hòa trong tình huynh đệ thầy trò với nhau. Xin mọi người hãy chú ý lời Phật dạy trong pháp cú nói trên và câu chuyện dẫn chứng để tránh việc hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra không hay!
393. “Ðược gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.”
394. “Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.”Lược giải
393. Chẳng phải vì núm tóc, chẳng phải vì chủng tộc, cũng chẳng phải tại nơi sanh mà gọi là Bà la môn; nhưng ai hiểu biết chân thật, thông đạt chánh pháp, đó mới là kẻ Bà la môn hạnh phúc.
Not by matted hair, nor by lineage, nor by birth does one become a holy man. But he in whom truth and righteousness exist – he is pure. He is a holy man.
Kệ tụng
Được gọi Bà la môn
Không vì đầu bện tóc
Không chủng tộc, thọ sanh
Ai thật chân, chánh, tịnh
Mới gọi Bà la môn
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn đầu bện tóc.
“Chuyện kể rằng, một ông Bà la môn chợt nghĩ: “Ta thuộc dòng dõi Bà la môn thuần tý. Sa môn Cồ đàm thường gọi đệ tử là Bà la môn. Ta cũng đáng được gọi như thế”.
Nghĩ rồi, y bèn đến chỗ Phật và nói lên vấn đề ấy. Đức Phật bảo:
- “Này Bà la môn, ta không gọi ai là Bà la môn chỉ vì người ấy đầu bện tóc, chỉ vì dòng dõi, huyết thống. Ta chỉ gọi người đã thâm nhập chân lý là Bà la môn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 338)
Tu hành mà còn quá coi trọng hình thức, lễ nghi, dòng dõi, chức vụ, địa vị v.v…thì chưa có thể được gọi là người tu hành chơn chánh. Hình thức lễ nghi…tuy cũng quan trọng về mặt cảm hóa, nhưng tất cả cũng chỉ là phương tiện. Nương phương tiện để đạt cứu cánh, đó mới thật là người khéo biết tu hành. Ngược lại, nếu chúng ta chấp chặt đắm chìm trên phương tiện, dù là phương tiện hay đẹp đến đâu đi nữa, thì cũng chỉ là kẻ chết đuối trong dòng sông phương tiện mà thôi. Ta nên nhớ, đạo Phật chủ trương “Sự Lý” phải viên dung.
Câu chuyện trên, đức Phật đã minh định rất rõ điều đó. Đối với những ai nương lời Phật dạy để tìm hiểu thâm nhập sâu vào chân lý, có đời sống an lạc hạnh phúc thật sự, thì người đó dù ở giai tầng nào cũng được gọi là người chân thật tu hành. Nói theo pháp cú trên, thì Phật gọi người đó là Bà la môn. Như vậy, thực chất Bà la môn là phải đạt ngộ chân lý. Bốn chân lý mầu nhiệm có khả năng đưa con người từ địa vị phàm phu tiến lên thánh quả, đó là Tứ diệu đế. Đó là bốn sự thật mầu nhiệm có mặt hiện thực trong đời sống của chúng ta. Pháp cú trên, đức phật cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta không nên mê chấp trên hình thức mà quên mất phần nội dung thực tiễn giác ngộ và giải thoát.
394. Người ngu bó tóc đùm và chuyên mặc áo da lộc đâu có ích chi? Trong lòng còn chứa đầy tham dục, thì dung nghi bên ngoài chỉ là trang điểm suông.
What is the use of your matted hair, O witless man? What of your garment of antelope’s hide? Within you is the tangle (of passion); only outwardly do you cleanse yourself.
Kệ tụng
Kẻ ngu có ích gì
Bện tóc với da dê
Nội tâm toàn phiền não
Ngoài mặt điểm trang suông.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy khi Ngài đang trú ngụ tại Pagoda Hall, có liên quan đến người Bà la môn gian xảo, treo ngược mình lên cây như vơi.
Theo truyện tích, tại thành Tỳ xá ly, có một Bà la môn vì cầu lợi dưỡng, nên ông ta bất chấp mọi thủ đoạn. Ông kêu gọi mọi người hãy cho ông tiền bạc và người tớ gái, nếu không, thì ông ta sẽ từ trên cây rơi xuống mà chết và sẽ trở thành ác thần phá hoại tan nát thành nầy.
Khi ấy, trong lúc đang đi khất thực trong thành, các thầy Tỳ kheo trông thấy ông ta treo ngược người trên cành cây và khi rời thành ông vẫn còn treo như thế. Mọi người trong thành thấy thế lo sợ, nên đem lại những thứ mà ông yêu cầu để dưới gốc cây. Sau đó, y leo xuống thu chiến lợi phẩm và ra đi.
Ông ta đi lang thang đến gần tinh xá và rống lên như một con bò. Các thầy Tỳ kheo biết ông ta gian xảo và đã đạt được yêu cầu. Muốn biết rõ sự việc, các thầy đến bạch Phật. Đức Phật cho biết, đây không phải là lần đầu ông làm như thế, mà trong quá khứ ông ta cũng đã từng là một người ẩn tu giả để che mắt gian xảo lường gạt trục lợi thiên hạ như thế. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Việc giả dạng hình thức bề ngoài tu hành để lường gạt moi tiền thiên hạ, chắc chắn là thời nào cũng có. Nhất là trong thời đại mạt pháp hiện nay, người ta đội lốt giả dạng mang vào mình chiếc áo nhà tu, thì rất dễ bề kiếm tiền lợi dưỡng. Có thể họ giả dạng hóa trang dưới mọi hình thức. Nhưng có lẽ hấp dẫn nhứt là, hình thức ăn mặc càng khổ hạnh, thì càng dễ kiếm được nhiều lợi dưỡng hơn. Đó cũng là một thủ thuật gian xảo rất dễ kiếm tiền. Họ khéo khai thác tâm lý con người, nhứt là đối với phái nữ nhẹ dạ cả tin. Đối với họ, miễn sao kiếm được nhiều tiền bạc của cải là được. Họ bất chấp thủ đoạn, tội lỗi. Nếu đã sợ tội, thì họ không bao giờ dám làm như vậy. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta quơ đũa hết cả nắm. Cũng có những vị tu hành bề ngoài ăn mặc khổ hạnh, nhưng bên trong thì họ thật sự tu hành để được giải thoát. Song, ở đời vàng thau lẫn lộn, thật khó mà đoán định phân biệt rõ ràng. Thôi thì, cứ thấy ai mặc chiếc áo nhà tu, thì cứ thành tâm mà hết lòng dâng cúng cho họ. Phân biệt chân giả chi cho nó thêm hao hơi mệt sức! Đó là tâm trạng chung của những người giàu lòng hảo tâm trọng đạo.
Chuyện Bà la môn nói trên là một điển hình trong muôn ngàn cách thủ đoạn gian xảo, lường gạt. Có lắm người gia đình của họ bị xào xáo bất an mất hạnh phúc, cũng bởi do hiến cúng cho các vị giả tu làm tiền nầy. Phải nói đa số bị lường gạt nhiều nhứt là phái nữ. Quý bà rất giàu lòng từ tâm bố thí. Họ quan niệm rằng, ai lường gạt giả dạng tu hành, thì tội họ gánh chịu. Đồng ý là như vậy. Đó là một tâm niệm rất tốt. Nhưng xin quý bà đừng quên rằng, trong đạo Phật từ bi phải kèm theo trí huệ. Chúng ta không thể tin tưởng một cách mù quáng. Vì như thế, là vô tình chúng ta lại tiếp tay cho họ gây thêm tội lỗi. Thì đó không phải là từ bi. Xin tất cả hãy lưu tâm điểm nầy.
Do đó, Pháp cú trên, Phật dạy rất rõ, không phải vì lý do ăn mặc khổ hạnh bên ngoài mà có thể đánh giá họ là người chân thật tu hành. Dù cho có bện tóc đùm, chuyên mặc áo da lộc, mà trong lòng của họ còn chứa đầy tham dục, thì dung nghi bên ngoài chỉ là trang điểm suông mà thôi. Đó là cảnh tỉnh thức nhắc của Phật để chúng ta lấy đó mà suy gẫm thật kỹ.
395. “Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Ðộc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà-la-môn.”
396 “Ta không gọi Phạm Chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
395. Dù mặc áo phấn tảo[16], gầy ốm lộ gân xương, mà ở rừng sâu tu thiền định, Ta gọi là Bà la môn.
The person who wears a robe made of rags, who is lean, with veins showing all over the body, and who meditates alone in the forest – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người mặc áo phấn tảo
Gầy ốm lộ gân xương
Riêng sống rừng tu thiền
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại núi Linh Thứu, có liên quan đến Tỳ kheo ni Kisa Gotami.
“Vào buổi đầu hôm, trời Đế Thích cùng chư Thiên đến vây quanh đức Phật nghe pháp. Họ kính cẩn ngồi một bên để lắng nghe những lời dạy từ hòa của đức Thế Tôn. Lúc ấy, Đại Đức Tỳ kheo ni Kisa Gotami chợt nghĩ: Ta sẽ đến viếng đức Thế Tôn. Bà bay lên không trung, đến chỗ Phật, nhưng thấy trời Đế Thích bèn quay lui. Đế Thích thấy vậy hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, ai mới đến vừa thấy Ngài liền trở ra?
Đức Phật bảo:
- Đại vương, đó là đệ tử ta, Tỳ kheo ni Kisa Gotami, người có hạnh đầu đà bậc nhất”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu tr 343)
Thời Phật, việc tu khổ hạnh như là một tập tục rất phổ thông. Chính bản thân đức Phật cũng đã trải qua sáu năm nếm mùi vị khổ hạnh cùng cực nầy. Bởi thời đó, nếu tu hành mà không chịu đựng nổi khổ hạnh, thì họ cho rằng không thể nào thành tựu được đạo quả như ý muốn. Do đó, bất cứ vị tu sĩ hay Bà la môn nào cũng phải vào rừng sâu để thật hành khổ hạnh. Đây gọi là hạnh đầu đà. Đầu đà tiếng Phạn là Dhuta, Trung Hoa dịch là Đẩu tẩu. Người tu hạnh đầu đà phải gìn giữ 12 hạnh sau đây:
1. Ở a lan nhã: xa lìa chỗ đông đảo, chọn nơi vắng vẻ yên tĩnh.
2. Thường hành khất thực: thường đi khất thực.
3. Thứ đệ khất thực: theo thứ tự đi từng nhà khất thực không phân biệt nghèo giàu.
4. Thọ pháp nhất thực: ngày ăn một bữa.
5. Tiết lượng thực: không ăn quá nhiều, chỉ thọ một nắm cơm trong bát.
6. Trung hậu bất đắc ẩm tương: sau buổi ngọ trai không được uống nước trái cây.
7. Trước tệ nạp y: đắp ca sa được chắp vá bằng những vải vụn bỏ.
8. Đản tam y: chỉ có 3 y.
9. Trủng gian trụ: ở trong nghĩa địa.
10. Thọ hạ chỉ: ngủ dưới gốc cây.
11. Lộ địa tọa: ngồi ở chỗ đất trống.
12. Đả tọa bất ngọa: thường ngồi không nằm.
Pháp cú trên, Phật cho rằng, một người tu khổ hạnh như mặc áo phấn tảo (vải rách người ta vất bỏ ở bãi tha ma, lượm giặt sạch, may lại thành áo cà sa để mặc), hay gầy ốm để lộ gân xương, rồi phải vào rừng sâu để thiền định, như vậy mới gọi là Bà la môn.
Câu chuyện trên, qua lời hỏi của trời Đế Thích, đức Phật nói, đó là Tỳ kheo ni Kisa Gotami, tức là bà Kiều đàm di mẫu. Sau khi bà hoàng hậu Ma Gia qua đời, bà thay thế người chị của mình để nuôi dưỡng đức Phật. Bà xin Phật xuất gia đôi ba phen, nhưng Phật không đồng ý. Bà buồn tủi khóc than và nhờ Ngài A nan xin hộ. Cuối cùng, đức Phật chấp nhận cho bà được toại nguyện. Sau khi xuất gia trở thành Tỳ kheo ni, bà là người lãnh đạo Tăng đoàn bên ni chúng. Phật nói, bà là người tu hạnh đầu đà bậc nhất bên chư Ni. Còn bên chư Tăng, thì có Tôn giả Đại ca diếp là người tu hạnh đầu đà đệ nhất.
396. Bà la môn không phải từ bụng mẹ đẻ ra. Nếu cứ chấp chặt các phiền não, thì chỉ được gọi là “Bồ” suông[17]. Người nào lìa hết chấp trước, Ta gọi là Bà la môn.
I do not call him a holy man because of his lineage or high born mother.
If he is full of impeding attachments, he is just a supercilious man. But he who is free from impediments and clinging - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Ta không gọi Bà môn
Vì sanh từ bụng mẹ
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não
Không phiền não chấp trước
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
“Một người Bà la môn thầm nghĩ: “Sa môn Cồ đàm thường gọi các đệ tử là Bà la môn. Ta sanh trưởng trong dòng Bà la môn, vậy ông ấy phải gọi ta danh hiệu Bà la môn”. Nghĩ thế, ông đến yêu cầu Phật điều ấy. Phật nói:
- Ta không gọi ai là Bà la môn chỉ vì họ sanh ra từ một người mẹ dòng Bà la môn. Người nào không sở hữu của cải thế gian, không chạy theo những thứ thế tục, chỉ người ấy ta gọi Bà la môn”. (Trích nguyên văn Tích Tuyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 344)
Thường chúng ta quen sống theo những thuận lý, hơn là nghịch lý. Vì sống theo thuận lý nên chúng ta mải miết đeo đuổi bám chặt theo dòng đời chảy trôi không định hướng. Càng đeo đuổi bám chặt vào những nhãn hiệu quảng cáo vật chất, ta càng đau khổ. Bởi thực chất của những nhãn hiệu là giả dối không thật. Bám vào cái không thật, có khác nào ta đùa giỡn với cái bóng. Quên hính bắt bóng, đó là tâm trạng chung của tất cả chúng ta. Đôi khi trong cơn hôn mê tối tăm, ta loé lên một chút tỉnh giác, biết rằng ta là kẻ đang đùa giỡn bắt bóng. Nhưng chỉ được một chút rồi thì cũng hôn mê tối tăm trờ lại như cũ. Ta cũng thấy tất cả sự vật đang phô bày trước mắt ta là thật. Từ nhận định sai lầm đó, ta trở thành làm kẻ nô lệ cho dục vọng sai khiến. Ta đã bị cuốn hút theo dòng đời, nổi trôi chìm đắm trong biển đời sanh tử.
Các pháp hiện đời là giả danh không thật. Nhưng lâu rồi, ta bị những thứ tập khí phiền não che ngăn, làm cho tâm trí ta không còn đủ sáng suốt để nhận định đúng theo chân lý. Muốn thấy đúng sự thật, tất nhiên, ta cần phải gấp rút gỡ bỏ cặp kính màu tà kiến. Không vọng chấp bảo thủ vào bất cứ thứ gì, thì Phật nói, đó mới xứng danh là Bà la môn. Bà la môn chỉ là một tên gọi suông, tự nó không có nghĩa lý gì cả. Nhưng lâu nay, người ta tàn sát lẫn nhau, cũng chỉ vì chấp chặt vào những danh từ nhãn hiệu kêu rỗng nầy. Người ta bị ràng buộc với nhau trong một ý thức và quan niệm sai lầm trên những danh ngôn sắc tướng. Từ đó, người ta mới nảy sanh kết thành bè phái kiến thủ vào những sở tri theo dòng vô minh nghiệp thức, để rồi tạo không biết bao nhiêu nghiệp ác cùng nhau thọ khổ. Đó là cộng nghiệp mà cả nhơn loại ngày nay đang phải hứng chịu.
397. “Ðoạn hết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà-la-môn
398. “Bỏ đai da (4), bỏ cương (5)
Bỏ dây (6), đồ sở thuộc (7),
Bỏ then chốt (8), sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
397. Đoạn hết các kiết sử, không còn sợ hãi chi, không bị đắm trước ràng buộc, Ta gọi là Bà la môn.
He who, having cut off all fetters, trembles no more, who has overcome all attachments and is emancipated -him do I call a holy man.
Kệ tụng
Đoạn hết các kiết sử
Không còn gì sợ hãi
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Uggasena.
“Chuyện nầy đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: “Bỏ quá, hiện, vị lai”.
Lúc ấy, các thầy Tỳ kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Uggasena nói: “Tôi không sợ”, chắc chắn thầy ấy đã nói dối.
Đức Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo, giống như con ta, kẻ nào đã dứt trừ mọi ràng buộc, kẻ ấy chẳng còn sợ hãi”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 345)
Đoạn hết các kiết sử nghĩa là dứt trừ hết mọi thứ phiền não. Như chúng ta đã biết, phiền não có rất nhiều loại nặng nhẹ khác nhau. Nhưng tựu trung, trong kinh thường nêu ra có hai loại chính: “căn bản phiền não và tùy phiền não”. Căn bản phiền não gồm có mười thứ chia ra làm hai: “thượng phần kiết sử và hạ phần kiết sử”. Kiết nghĩa là trói buộc, sử là sai khiến. Sở dĩ chia ra như thế, là vì người ta căn cứ vào tính chất nặng nhẹ của nó. Những thứ nặng như: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ nầy thuộc về Sự, chúng có gốc rễ sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Còn những thứ nhẹ hơn gồm có năm thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Năm thứ nầy, tương đối dễ trừ đễ đoạn, vì tính chất của nó thuộc về mê Lý. Những thứ phiền não nầy dù căn bản hay chi mạt, đối với người tu, nhất là người xuất gia, thì Phật dạy cần phải dứt trừ tất cả. Có thế, thì ta mới không còn lo âu sợ hãi và tất nhiên, là vượt khỏi mọi ràng buộc, và sẽ được tự do giải thoát.
398. Như ngựa bỏ đai da, bỏ cương, bỏ giày và đồ sở thuộc[18], người giác trí bỏ tất cả chướng ngại, Ta gọi Bà la môn.
He who has cut off the thong (of hatred), the band (of craving), and the rope (of false views), together with the appurtenances (latent evil tendencies), he who has removed the crossbar (of ignorance) and is enlightened - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Bỏ đai da, bỏ cương
Bỏ giày, đồ sở thuộc
Bỏ then chốt, sáng suốt
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến hai người Bà la môn.
“Hai người Bà la môn nọ có hai con bò, một tên Tiểu Hồng (Culla Rohita), và một tên Đại Hồng (Maha Rohita). Một hôm, hai ông Bà la môn bàn cãi, so sánh hai con bò của nhau, ai cũng nói “Bò tôi mới là số dzách!”
Cãi lộn hết hơi rồi, họ nghĩ ra cách thử sức kéo của bò. Lập tức họ đánh xe bò ra bờ sông Aciravati, thi nhau chất lên xe bò mình nào cát, đá thật đầy và bắt bò kéo. Nhưng mặc cho họ thúc giục, chiếc xe vẫn không nhúc nhích và thình lình dây thừng đều bị đứt. Các vị Tỳ kheo lúc ấy ra sông tắm, thấy vậy về bạch Phật. Ngài dạy:
- “Này các Tỳ kheo, đó là những dây bên ngoài, có thể cắt đứt. Nhưng một vị Sa môn phải cắt đứt những sợi dây giận dữ và tham dục ở nội tâm”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 346)
Sống trong vòng vô minh nghiệp thức, thì việc tranh chấp hơn thua cãi vả nhau, đó là chuyện thường tình ở thế gian. Đã tranh chấp tất nhiên là có ý hơn thua. Từ đó, mới gây ra oán thù và rồi sát hại chém giết lẫn nhau. Thế giới ngày nay điên đảo thác loạn, cũng bởi do nhơn loại tranh chấp hơn thua nầy. Thắng thì làm vua, thua thì làm giặc, trên chiến trường hay thương trường xưa nay đều như thế. Muốn chiến thắng đối phương, người ta không ngần ngại dùng mọi mưu mô thủ đoạn tuyệt xảo để quyết chiến hơn thua. Dù thủ đoạn đó có làm tổn thương giết chết bao nhiêu sinh mạng con người, họ cũng không từ nan thẳng tay sử dụng sát hại. Thật ghê gớm thay! lòng độc ác của con người!
Chuyện kể trên, hai ông Bà la môn cãi vả nhau vì tranh chấp hơn thua giữa hai con bò của họ. Tuy việc xảy ra ở mức độ nhẹ, nhưng nếu không khéo chế phục lòng sân hận, thì cũng dễ đưa đến tàn sát chém giết lẫn nhau. Ai có thể biết được lòng sân hận của con người ra sao? Một khi lửa giận bốc cháy cao ngọn, thì nó sẽ đốt cháy thiêu hủy tất cả. Như chỉ cần một đốm lửa nhỏ thôi, nó cũng có thể thiêu hủy cả đám rừng rậm.
Nhân việc tranh chấp xảy ra và dây thừng bị đứt, thấy thế, các thầy Tỳ kheo bạch Phật. Phật dạy: “một vị Sa môn phải cắt đứt những sợi dây giận dữ và tham dục ở nội tâm”. Chỉ có cắt đứt những sợi dây trói buộc nầy, thì chúng ta mới có thể giải thoát mọi khổ đau. Còn dây bên ngoài, dù có đứt ngàn triệu sợi cũng không ăn nhằm gì. Vì nó không có liên hệ gì đến việc dứt trừ phiền não cả. Nhưng ở đời, người ta lại quan trọng những thứ vật chất bên ngoài hơn là quan trọng những phiền não trong tâm. Chính vì thế, nên Phật nói chúng sanh mãi chịu trầm luân trong cõi đời đầy đau khổ là thế!
399. “Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.”
400. “Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
399. Nhẫn nhục khi bị đánh mắng, không sinh lòng sân hận; người có đội quân nhẫn nhục hùng cường, Ta gọi Bà la môn.
He who without resentment endures abuse, beating and punishment; whose power, real might, is patience - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Không giận, chịu phỉ báng
Chịu đánh, chịu phạt hình
Lấy nhân làm quân lực
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Akkosa Bharadvaja.
Theo truyện tích, có một tín nữ Bà la môn đã chứng quả Tu đà hoàn, nhưng bà có thói quen khi có việc gì bất trắc xảy ra, thì bà liền niệm Phật to tiếng. Ông chồng mỗi khi nghe tiếng bà niệm Phật, thì ông nổi xung thiên lên và trách mắng bà ta là ngu ngốc, cứ lải nhải xưng tụng ông Sa môn đầu trọc kia. Để hả cơn giận tức, ông nói với bà là ông quyết ăn thua đủ với Phật, bằng cách là mở ra cuộc tranh luận. Bà thách thức ông chồng, cứ làm thử xem sao, biết ai thắng ai.
Thế là, ông tìm đến đức Phật và bắt đầu tranh luận bằng cách ông nêu ra những câu hỏi hốc búa để cho Phật không thể trả lời được. Nhưng ông đã lầm to. Không câu hỏi nào mà Phật không trả lời thông suốt. Từ đó, ông vô cùng cảm phục và xin quy y xuất gia với Phật, không bao lâu chứng quả A la hán. Rồi đến người em trai kế của ông, khi hay tin người anh xuất gia, hắn cũng đến mắng chửi đức Phật và cũng được đức Phật độ cho xuất gia. Đến hai người em trai út cũng thế. Như vậy, bốn anh em lúc đầu, họ giận tức trách mắng Phật đủ điều, nhưng tất cả đều bị Phật cảm hóa độ họ xuất gia và cuối cùng đều chứng quả A la hán. Các thầy Tỳ kheo bàn tán về hạnh nhẫn nhục cao tột của Phật. Phật biết, nên Phật bảo các thầy:
- “Này các Tỳ kheo, vì ta có sức từ nhẫn, vì ta là người không gây tội giữa thế gian đầy lỗi lầm, nên ta là nơi nương tựa chân thật cho chúng sanh”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Người tu hành thiếu đức tánh nhẫn nhịn, thì khó đạt được thành công. Từ xưa tới nay, sách sử ghi lại, không có một bậc hiền nhân quân tử nào thành công sự nghiệp mà không trải qua những thử thách chịu đựng. Nhẫn nhịn, phải xuất phát từ một tấm lòng bi mẫn của những con người biết thương yêu vạn loại. Muốn cảm hóa độ đời, Bồ tát phải rèn luyện trang bị cho mình đầy đủ nghị lực nhẫn nại chịu đựng. Trên đường đời cũng như đường đạo, muốn cho sự nghiệp được kết quả tốt đẹp như ý muốn, thì chúng ta cần phải học hạnh nhẫn nhục của các bậc Thánh Hiền. Và từ đó, chúng ta đem ra áp dụng ngay trong đời sống. Có thế, thì chúng ta mới được lợi ích lớn.
Chuyện lược dẫn trên là một chứng minh cụ thể cho điều đó. Đức phật đã bị bốn anh em Bà la môn dùng toàn những lời lẽ dao búa trịch thượng mắng chửi Ngài thậm tệ, nhưng Ngài vẫn thản nhiên bình tĩnh. Được thế do đâu? Thứ nhứt, do đức Phật không còn phiền não. Muốn thế, thì phải nỗ lực huân tu dứt trừ phiền não, thì chúng ta cũng sẽ có được đạo lực thâm hậu như Ngài. Thứ hai, do vì lòng từ bi của đức Phật trải rộng khắp hết muôn loài. Những kẻ còn u mê tăm tối, thì đức Phật quan tâm chiếu cố thương độ họ nhiều hơn. Cho nên, đức Phật trả lời với các thầy Tỳ kheo rằng: “vì ta có sức từ nhẫn”. Phải có con mắt từ nhẫn như thế, thì mới có thể thương xót cứu giúp chúng sanh thoát khỏi đau khổ. Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát đã có đôi mắt “từ nhãn thị chúng sanh” nầy. Chỉ có đôi mắt đó, nên Ngài mới có thể an ủi xoa dịu làm giảm thiểu những tiếng kêu la thảm thiết đau khổ của chúng sanh. Cụ thể là cả nhơn loại ngày nay rất cần đôi mắt sáng suốt từ nhẫn lực đó.
Tóm lại, người tu hành cần phải: “thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn”. Thân nhẫn là phải chịu đựng những nghịch cảnh thời tiết nóng lạnh bất thường hay những cảnh thiên tai hoạn họa gây ra bao thảm cảnh: đói khát, bệnh tật… Thậm chí bị người trù dập chửi mắng, đánh đập, hành hung v.v… tất cả đều phải nhẫn nhịn.
Khẩu nhẫn là giữ gìn cái lỗ miệng khi phát ra ngôn từ. Khi gặp nghịch cảnh trái ý nghịch lòng, chướng nạn thử thách, thân bị hành hạ như trên đã nói, thì miệng cũng không nên thốt ra những lời độc địa chua cay xấu ác để chửi mắng người hay vật.
Ý nhẫn rất là quan trọng. Có khi thân nhẫn, khẩu nhẫn mà trong tâm không nhẫn, ôm ấp nuôi lớn hận thù, thì đó là điều thật vô cùng tai hại. Khi dồn nén lâu ngày, nó trở thành một “Nội kết ung nhọt” rất lớn, đến khi bùng nổ ra, thì ôi thôi! hậu quả không thể nào lường được! Thế nên, người khéo biết tu hành là phải lấy tâm nhẫn làm gốc. Phải có lòng thương xót mà hoan hỷ buông xả tất cả. Có thế, thì sự tu hành của chúng ta mới mong có kết quả tốt đẹp vậy.
400. Đầy đủ đức hạnh không nóng giận, trì giới thanh tịnh không dục nhiễm, thì chỉ ngang thân nầy là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa, người như thế, Ta gọi Bà la môn.
He who is free from anger, is devout, virtuous, without craving, selfsubdued and bears his final body – him I call a holy man.
Kệ tụng
Không hận, hết bổn phận
Trì giới, không tham ái
Nhiếp phục thân cuối cùng
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tôn giả Xá lợi phất.
Theo truyện tích, khi Phật ở tinh xá Trúc Lâm, lúc ấy Ngài Xá lợi phất cùng năm trăm thầy Tỳ kheo đến trước nhà thân mẫu của Ngài khất thực, bà mẹ mời tất cả vào nhà, khi dọn thức ăn bà nặng lời mắng nhiếc quở trách Tôn giả. Bà mắng nhiếc nhục mạ Tôn giả là kẻ ăn mày bỏ cả gia tài sự sản, mà làm kẻ ăn xin thật là đáng xấu hổ. Sẵn trớn bà chửi luôn các thầy Tỳ kheo khác. Ngài Xá lợi phất lặng thinh nhận thức ăn và rồi trở về tinh xá. Khi Ngài La hầu la dâng thức ăn cho Phật, Phật hỏi duyên cớ đã xảy ra và Ngài La hầu la kể hết mọi việc đầu đuôi cớ sự cho Phật nghe. Phật hỏi vậy lúc đó thái độ của thầy ngươi thế nào? Ngài La hầu la cho biết là thầy con (Xá lợi phất) lặng thinh không nói gì hết. Các thầy Tỳ kheo nghe thế, đồng khen ngợi hạnh nhẫn nhục cao quý của Tôn giả Xá lợi phất. Đức Phật biết thế, Ngài liền bảo các thầy Tỳ kheo:
- “Nầy các Tỳ kheo, người nào thanh trừ được mọi dục vọng xấu xa, người ấy không còn sân giận”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Nóng giận hầu như ít nhiều ai cũng có. Vì nó là hạt giống lâu đời đang tiềm ẩn trong tâm thức ta. Nóng giận tùy theo sự huân tu sâu cạn của mỗi người mà nó có cường độ mạnh yếu, nặng nhẹ khác nhau. Đó là nói người có biết tu hành chút ít. Còn đối với người không biết tu, thì cường độ của lòng sân hận, nó bộc phát thật mạnh mẽ không thể lường được. Người có tu thường kiểm soát thiền quán sâu vào nội tâm mình, khi gặp chướng duyên nghịch cảnh xảy đến, thì cơn giận tức của họ có thể bộc phát nhẹ và chậm hơn. Vì họ có ý thức và kịp thời kềm chế phần nào. Nếu là người tu khá, thì phiền não giảm thiểu rất nhiều. Hoặc người tu cao thâm hơn, tuy phiền não thô trọng không còn, nhưng phiền não vi tế vẫn còn. Đối với hàng A la hán thì các Ngài đã dứt sạch Kiến, Tư hoặc phiền não. Điển hình như Tôn giả Xá lợi phất. Tuy Ngài đã bị người mẹ la mắng chửi bới nặng nề, nhưng Ngài vẫn an nhiên lặng thinh không thốt một lời bực tức. Đó là do Ngài không còn phiền não gốc tham, sân, si. Chính nhờ sức huân tu già dặn mà được như thế. Do đó, việc huân tu để đoạn trừ phiền não ai cũng có thể làm được, nếu chúng ta có ý chí cương quyết mãnh liệt. Cho nên trên đường tu, người ta chỉ hơn nhau là ở chỗ diệt trừ phiền não nhiều hay ít đó thôi.
Từ cái gốc đã đoạn, tất nhiên cái ngọn cũng theo đó mà không còn. Nếu sức huân tu nội lực của chúng ta còn yếu kém, thì chúng ta nên tu từ ngọn vào. Nghĩa là chúng ta nên khéo gìn giữ ở nơi thân nghiệp và khẩu nghiệp. Cũng thí như một cái cây to, ta không đủ sức bứng gốc nó đi, thì ta chỉ cần gia công bẽ cành lặt ngọn lần hồi, thét rồi cây kia cũng phải chết khô thôi. Đó là chúng ta đi từ phần thô để lần hồi đi sâu vào phần tế. Ngược lại, nếu sức huân tu của ta mạnh, thì ta có thể đi thẳng vào phần gốc, tức phần vi tế trong tâm. Một niệm vừa dấy lên ta nhận diện nó rõ ràng. Chỉ cần nhận diện thì nó sẽ tan biến ngay. Vì bản chất của nó là giả dối không thật. Muốn thế, tất nhiên là ta phải hằng có chánh niệm. Chính tu ở nơi phần gốc nầy mới thật là quan trọng. Khi không còn niệm khởi tạo nghiệp, thì dòng sanh tử ngang đây chấm dứt. Như Tôn giả Xá lợi phất, dù Ngài bị bà mẹ nặng lời trách mắng thậm tệ, nhưng tâm Ngài vẫn thản nhiên tươi mát. Vì tâm Ngài đã không còn phiền não nhiễm ô. Ngài Luôn sống trong tịch tịnh Niết bàn. Do đó, nên Ngài là người có quá nhiều tự do hạnh phúc.
Muốn được thế, thì ta phải nỗ lực huân tu trong từng giây phút. Phải thường xuyên quán chiếu ở nơi tâm mình. Như người ngồi trên bờ nhìn ngắm dòng sông đang chảy. Biết rõ ngõ ngách đường đi nước bước của nó, như thế, thì ta mới mong có được bình an hạnh phúc ngay trong từng bước đi, nụ cười và hơi thở.
401. “Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.”
402. “Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
401. Người nào không nhiễm đắm những điều ái dục như nước giọt trên sen, như hột cải đặt đầu mũi kim, người như thế Ta gọi là Bà la môn.
Like water on a lotus leaf, or a mustard seed on the point of a needle, he who does not cling to sensual pleasure - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Như nước trên lá sen
Như cải đặt đầu kim
Người không nhiễm ái dục
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tỳ kheo ni Uppalavanna.
“Chuyện được kể đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: “Người ngu nghĩ là ngọt, khi ác chưa chín mùi”. Truyện kể tiếp rằng:
Sau đó ít lâu các Tỳ kheo bàn tán ở Pháp đường: “Chắc các vị đã trừ hết lậu hoặc vẫn còn phải thỏa mãn nhục dục. Tại sao không? họ đâu phải cây đá hay đất cục mà cũng mang thân người với máu thịt, do đó, thế nào cũng còn ưa khoái lạc”.
Đức Thế Tôn nghe chuyện bèn giải thích:
- “Này các Tỳ kheo, không bao giờ người đã thanh trừ ái dục lại yêu thích khoái lạc hay thỏa mãn nhục dục. Như một giọt nước rơi trên lá sen không bao giờ dính lại, nó lăn tròn và rơi xuống, như hạt cải không bao giờ dính trên đầu cây kim, cũng như tình ái không bao giờ ràng buộc hay còn vương vấn nơi những vị đã tận trừ ái nhiễm”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 352).
Pháp cú trên, đức Phật nhắc lại sự say đắm ái dục của con người. Phật minh định rõ, bất cứ ai nếu không đắm nhiễm vướng mắc những điều ái dục, thì Phật nói người đó như nước đổ trên lá sen. Nước và là sen không dính dáng gì nhau. Vấn đề nầy, đức Phật đã dạy rất rõ trong phẩm ái dục. Ở đây, chúng tôi không muốn luận bàn nhiều. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, gốc của ái dục là do từ tư tưởng sanh, nếu tư tưởng không sanh thì ái dục không có. Đã là người, ít nhiều gì không ai lại không có ái dục. Nếu là người thật sự tu hành, thì lòng ái dục của họ tương đối nhẹ hơn người giả tu và không biết tu. Ái dục sanh ra là tùy theo quan niệm của chúng ta. Ái dục có nhiều đẳng cấp nặng nhẹ khác nhau. Nếu là người hoàn toàn sống buông thả theo dòng thác dục vọng, lúc nào cũng muốn thỏa mãn cho những dục tính, nặng về phần xác thịt, không chút kềm chế ở nơi tâm ý, thì quả sóng tình của họ cao hơn núi Tu di và như thế, chắc chắn là họ sẽ bị nhận chìm chết đuối trong biển ái dục vậy.
Vì muốn ngăn ngừa ái dục đối với nặng tình nam nữ, trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, bài kinh số 29, đức Phật có dạy: “Phải dè dặt chớ nhìn ngó nữ sắc, chớ cùng nói chuyện, nếu phải cùng người nữ nói chuyện, thì nên chánh tâm suy nghĩ: Ta là bực Sa môn ở trong đời ác, phải như hoa sen chẳng bị bùn làm ô uế, tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, kẻ nhỏ như em, đứa bé như con, mà sanh lòng độ thoát, thì diệt được niệm xấu”.
Phật dạy điều nầy, tuy riêng cho người xuất gia, nhưng nếu như người tại gia muốn thoát khỏi lưới ái tình ràng buộc đau khổ, thì cũng có thể áp dụng lời Phật dạy trên. Đây là một khía cạnh tâm lý quan trọng. Như trên đã nói, ái dục đều do quan niệm phát sanh. Như gần gũi người khác phái (ngoại trừ những người bệnh hoạn đồng tính luyến ái), nhứt là gần gũi đối tượng có nhan sắc đẹp, thì ít nhiều gì lòng ái dục thèm khát của ta cũng phát sanh. Lý do, tại vì ta quan niệm người đó xa lạ, nên ta có quyền yêu thương luyến ái. Ngược lại, nếu như ta quan niệm rằng, họ là những người trong thân thuộc dòng họ huyết thống của ta, thì chắc chắn niệm ái dục của ta thật khó phát sanh.
Cao hơn nữa, là khi nhìn đối tượng đẹp, mà lòng ta không nhiễm trước, thì Phật nói như nước trên lá sen hay hột cải đặt trên đầu mũi kim, cả hai không dính dáng ăn nhập gì với nhau. Được thế, mới thực sự là người tư do giải thoát, và như thế mới xứng danh là Bà la môn.
402. Nếu ngay tại thế gian nầy, ai tự giác ngộ và diệt trừ đau khổ, trút bỏ gánh nặng mà giải thoát, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who in this very life realizes for himself the end of suffering, who has laid aside the burden and become emancipated – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Ai tu trên đời nầy
Giác khổ, diệt trừ khổ
Bỏ gánh nặng, giải thoát
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
“Khi chưa có điều luật không cho phép nhận nô lệ trốn chủ vào Tăng đoàn, một hôm người nô lệ của một Bà la môn đến xin xuất gia. Y được nhận vào Tăng đoàn và chẳng bao lâu chứng A la hán. Người Bà la môn tìm khắp nơi nhưng không gặp. Một hôm đức Phật dẫn vị A la hán ấy vào thành khất thực, người Bà la môn trông thấy ở cổng thành bèn níu y của Tôn giả nọ. Đức Phật quay lại hỏi:
- Nầy Bà la môn, chuyện gì vậy?
- Thưa Ngài Cồ đàm, đây là kẻ tôi tớ của tôi.
- Nầy Bà la môn, gánh nặng đã rời khỏi y.
Nghe đức Phật nói, người Bà la môn lập tức hiểu rằng người ấy đã chứng A la hán. Ông hỏi lại:
- Có thật không, thưa Cồ đàm?
Đức Phật xác nhận:
Thật vậy, gánh nặng của người ấy đã buông xuống rồi”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 353)
Xã hội Ấn Độ thời Phật người ta phân chia thành bốn giai cấp rất rõ rệt: 1. Giai cấp Bà la môn, gồm những Giáo sĩ giữ quyền thống trị tinh thần, chuyên phụ trách về những việc lễ nghi cúng tế. 2. Giai cấp Sát đế lợi, là hàng vua chúa quý phái, nắm quyền cai trị về chánh trị. 3. Giai cấp Phệ xá, gồm những thương gia chủ điền chuyên lo vấn đề kinh tế trong nước. 4. Giai cấp Thủ đà la, là hàng hạ tiện nô lệ, phục dịch làm khổ sai suốt đời cho ba giai cấp trên. Đó là những giai cấp bất công nhất của xã hội Ấn Độ trước khi Phật ra đời cũng như trong thời đại của đức Phật. Có thể nói, đức Phật là người đả phá san bằng những cái hố giai cấp bất công nầy. Ngài đã đem lại cho mọi người có một đời sống bình đẳng ngang nhau. Ngài không phân biệt sang hèn, nghèo giàu, bất cứ họ thuộc giai cấp nào, Ngài cũng đều hóa độ tất cả. Dù người đó có học thức hay dốt nát, thậm chí những hạng người mà xã hội liệt họ vào thành phần bất trị, là những con sâu mọt ăn hại phá hoại xã hội, Ngài cũng độ họ trở thành những con người lương thiện cao quý.
Chuyện dẫn chứng trên là một chứng minh cụ thể cho vấn đề đó. Một kẻ nô lệ đến xin Phật xuất gia, và đã được đức Phật thâu nhận vào Tăng đoàn. Việc làm nầy, đối với xã hội giai cấp thời đó, phải nói đây là một cuộc cách mạng vĩ đại của đức Phật. Đức phật đã bị xã hội đương thời chống đối kịch liệt. Nhưng với chủ trương một nền giáo lý bình đẳng, mỗi chúng sanh đều sẵn có tánh giác sáng suốt như nhau, và nếu ai chịu khó tu hành đạt ngộ chân lý, cuối cùng, cũng có thể thành Phật như Ngài. Đó là một nền giáo lý tôn trọng quyền tự do tinh thần bình đẳng tuyệt đối của con người. Do đó, nên đức Phật cương quyết giữ vững lập trường, vượt qua mọi trở ngại chống đối bất cứ từ đâu đến. Vì thế, người ta thấy, trong Tăng đoàn của Ngài có đủ mọi giai cấp thành phần, từ hàng quý phái sang trọng giàu có nhứt, cho đến hàng cùng đinh dốt nát nghèo khổ. Nhưng khi gia nhập sống chung trong một Tăng đoàn, thì mọi mâu thuẫn phân chia không bao giờ xảy ra. Tất cả đều nỗ lực thẳng tiến tu hành thành tựu đạo quả. Ngoại trừ một số ít chống đối phá hoại Tăng đoàn gây ra sự bất hòa, như nhóm Lục quần Tỳ kheo, hay nhóm của Đề bà đạt đa chẳng hạn. Ngoài ra, tất cả đều gìn giữ lục hòa nghiêm túc và có đời sống thánh thiện cao cả. Đó là Phật nói, họ đã trút bỏ gánh nặng phiền não và đã được an lạc giải thoát. Người nào được như thế, Phật nói, mới xứng danh là Bà la môn.
403. “Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.”
404. “Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
403. Người có trí tuệ sâu xa, biết rõ thế nào là đạo, thế nào là phi đạo và chứng đến cảnh giới vô thượng, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who in this very life realizes for himself the end of suffering, who has laid aside the burden and become emancipated - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người trí tuệ sâu xa
Biết rõ đạo, phi đạo
Chứng đạt vô thượng giới
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại núi Linh Thứu, có liên quan đến Tỳ kheo ni Khema.
“Ngày nọ, lúc đầu hôm, vua trời Đế Thích dẫn chư thiên đến nghe Phật thuyết pháp, lúc ấy Tỳ kheo ni Khema cũng khởi nghĩ: “Ta sẽ đến thăm đức Thế Tôn”.
Bà hay đến chỗ Phật, gặp Đế Thích và chư thiên, bèn đảnh lễ Phật rồi lui ra. Đế Thích hỏi Phật:
- Ai vậy, thưa Thế Tôn?
- Này Đại vương, đó là Tỳ kheo ni Khema, trí tuệ đệ nhất, biết rõ đâu là đạo và đâu không phải là đạo”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 354)
Cuộc đời nầy, sở dĩ tràn đầy đau khổ là bởi chúng ta không làm chủ được vô minh phiền não sai sử. Đời sống của chúng ta, từ lúc chào đời cho đến khi vĩnh viễn từ giã cõi đời, khoảng thời gian đó, chúng ta đã gây tạo nhiều nghiệp ác, triền miên thọ khổ. Ta làm kẻ nô lệ tù đày. Ta đi lang thang mãi trong vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Đó là vì ta thiếu trí huệ chiếu soi. Một khi ta hồi tâm tỉnh giác, có trí huệ chiếu soi, lập tức vô minh phiền não không còn. Mà vô minh không có, thì ngay đó là giải thoát. Sự mê ngộ như trở bàn tay. chỉ cần lật qua lật lại không có gì khó khăn. Khó khăn là tại vì ta không muốn làm người trí. Ta thích làm người mê. Ta còn thích ngao du trong dòng đời đau khổ. Giống như gã cùng tử đi lang thang trong bụi đời sóng gió. Khi tỉnh ngộ, ta quyết phải làm người trí. Ta quay hướng trở về để nhận lại gia bảo quý giá mà ngàn đời ta bị lãng quên. Ta không muốn làm kẻ lãng tử phong trần nữa. Ta phải vươn lên tìm lại lẽ sống chân thật trong ánh hào quang trí huệ. Ta cương quyết phục hồi lại con người thật của ta. Ta không làm kẻ nô lệ tù đày nữa. Đó là ta sẽ bắt gặp hình ảnh cao đẹp của Tỳ kheo ni Khema. Vì ta đã có trí huệ phân biệt rõ: “đâu là chân thật và đâu là giả dối”.Khi nhận rõ như thế, thì ta không còn lầm lẫn để cho cảnh trần giả huyễn che mờ tâm trí ta nữa. Đó là ta hòa nhập cùng đại thể trong nguồn sống bao la bất tận vậy. Bấy giờ ta mới thực sự khôi phục hoàn toàn con người thật của chúng ta.
404. Chẳng lẫn lộn với tục luân, chẳng tạp xen với tăng lữ, xuất gia lìa ái dục, người như thế, Ta gọi Bà la môn.
He who holds aloof from house holders and ascetics alike, and wanders about with no fixed abode and but few wants – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Không lẫn lộn cả hai
Xuất gia và thế tục
Sống độc thân, lìa dục
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Tissa Pabbharavasi.
Theo truyện tích, sau khi nhận đề mục thiền quán từ nơi đức Phật, thầy Tissa vào rừng sâu để an trú tu tập. Thầy tìm được một hang động kín đáo thích hợp. Thầy vui mừng và nhứt quyết sẽ ở đây tu tập, để hoàn thành bản nguyện của một vị Sa môn. Thầy vào trong hang ẩn tu. Vị nữ thần trong hang thấy thế, liền sanh tâm bực tức và tìm cách hãm hại. Nhưng tìm mãi không thấy lỗi của thầy Sa môn đức hạnh nầy.
Hôm sau, thầy Tissa đi khất thực gặp một vị nữ thí chủ thỉnh thầy về nhà cúng dường. Nàng phát nguyện sẽ cúng dường cho thầy suốt thời gian ba tháng an cư. Thầy Tissa nhận lời. Trong khi đó, vị thần trong hang cứ ngỡ rằng, thầy sẽ rời khỏi hang động vì đã có người thỉnh cúng. Nhưng chờ mãi mà thầy cũng không đi. Vị thần thất vọng và thầm nghĩ: “thật khó lòng sống chung với vị Sa môn đức hạnh. Vậy ta phải tìm cách kiếm chuyện để bày lỗi lầm cho thầy ấy rời khỏi nơi đây mới được”. Nghĩ xong, vị thần liền đến nhà vị thí chủ thường cúng thức ăn cho thầy, và nhập vào đứa bé trai con của nữ thí chủ. Đứa bé tự dưng trợn mắt và sùi bọt mép. Bà mẹ hoảng hốt la lên! Vị thần bảo bà mẹ phải nhờ thầy Tỳ kheo Tissa cứu hộ, bằng cách là cho thuốc con ngươi uống. Bà mẹ từ khước quyết không tuân theo. Vị thần bảo hai lần, bà đều từ chối. Nhưng đến lần thứ ba, vị thần bảo phải dùng nước rửa chân của thầy Tissa mà rảy lên đầu đứa bé. Lần nầy, bà chịu. Đứa bé hết bệnh. Thọ trai xong, thầy trở về hang động. Vị thần đứng trước cửa hang chào thầy và mừng thầy lang chữa bệnh rất hay. Thầy hỏi tại sao ngươi nói vậy? Vị thần nói: nhờ thầy rưới nước lên đầu đứa bé mà nó hết bệnh. Như thế, chính thầy là thầy thuốc chữa bệnh rồi. Nghe nói thế, thầy Tissa tự nghĩ: ta đã làm được một việc lành lớn và thầy rất hoan hỷ. Dù bị vị nữ thần nặng lời quở trách xua đuổi, nhưng thầy không hề lộ ra một chút hờn giận. Do thầy quán chiếu chế ngự cảm xúc sâu xa, ngay khi đó, thầy đắc quả A la hán. Sau ba tháng an cư, thầy trở về tinh xá. Biết được sự việc xảy ra như thế, các thầy Tỳ kheo đến bạch Phật và họ cho rằng, thầy Tissa nói dối. Đức phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, con ta không sân giận. Thầy ấy chẳng chuyện trò với cư sĩ, sống đời độc cư, thiểu dục và tri túc”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Đời sống ẩn cư đơn độc, tất dễ dưỡng tâm nuôi đức hơn là sống trong cảnh phồn hoa náo nhiệt. Chư Thiền đức xưa nay, muốn huân tu cho đạo lực thêm vững mạnh, phần nhiều các ngài hay tìm những chỗ vắng vẻ để ẩn tu. Đọc lại lịch sử về hành trạng của chư Tôn thiền đức ở Ấn Độ, Trung hoa và Việt Nam v.v… ta thấy rõ điều đó. Tuy nhiên, vấn đề nầy, còn tùy thuộc vào thời tiết khí hậu và nhất là hoàn cảnh xã hội của mỗi thời đại. Nếu trong một xã hội tương đối an bình, khí hậu tốt, thì việc tìm những nơi vắng vẻ ẩn tu, không có gì trở ngại lắm. Tuy nhiên, nếu là trong thời chiến tranh loạn lạc, cũng như thời tiết khí hậu khắc nghiệt, như nóng quá hay lạnh quá, thì việc ẩn tu trong rừng núi, tất nhiên có phần trở ngại hơn.
Vả lại, điều nầy nó còn đòi hỏi ở nơi ý chí cương quyết can đảm của mỗi người. Nhưng, dù gì đi nữa, thì việc ẩn tu, tất nhiên là nó sẽ mang lại cho người ta nhiều an lạc nội tâm hơn. Cõi lòng cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhàng an thoát hơn, nếu hành giả quyết chí mong cầu giải thoát khỏi vòng đau khổ hệ lụy. Nhưng ẩn tu như thế, không có nghĩa là chạy trốn xã hội. Làm sao có thể cắt đứt mọi liên hệ với xã hội được? Còn sống, là còn hít thở, ăn uống, còn cần đến những nhu cầu tương đối về thể chất, tất nhiên, chúng ta vẫn còn liên hệ ít nhiều với ngoại cảnh. Nhưng thời gian ẩn tu, chính là thời gian để cho người hành giả trau dồi nội lực huân tu nhiều hơn. Và sau đó, các ngài sẽ tùy cơ duyên mà ra hoằng pháp độ sanh.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy rõ ý chí nhẫn nại cương quyết của thầy Tỳ kheo Tissa. Dù bị vị thần tìm cách phao vu đuổi thầy đi, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn chịu đựng tiếp tục ở trong hang đá tu hành cho đến khi hoàn thành chí nguyện.
Đời sống phạm hạnh đơn độc lại ở nơi hang sâu vắng vẻ, nếu không phải là người có ý chí siêu trần thoát tục, quyết tâm tu hành đạt đạo, thì khó mà nhẫn nại chịu đựng được hoàn cảnh như thế. Cho nên, sự tu hành muốn hoàn thành sứ mạng đạt ngộ chân lý, tất nhiên, hành giả phải gan dạ cương quyết vượt qua mọi trở ngại khó khăn. Có thế, mới kỳ vọng đạt thành sở nguyện của người xuất trần thượng sĩ, nối thạnh dòng pháp và làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
405. “Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.”
406. “Thân thiện giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
405. Đối với bất luận loài nào lớn hay nhỏ, mà đã thả bỏ con dao sát hại, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who has renounced violence towards all living beings, weak or strong, who neither kills nor causes others to kill – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người bỏ dao sát hại
Bất luận chúng sanh nào
Không giết, không khiến giết
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, Phật dạy cho thầy Tỳ kheo một đề mục thiền quán, sau khi nhận lãnh, thầy đi vào rừng sâu để chuyên chú hành thiền, không lâu thầy đắc quả A la hán. Thầy thầm nghĩ, nên trình lên đức Thế Tôn thành quả đạt được nầy. Sau đó, thầy trở về tinh xá. Trên đường về, ngang qua xóm làng nọ, thầy thấy hai vợ chồng người kia đang cãi nhau kịch liệt. Ông chồng tức giận bỏ nhà ra đi. Sau đó, người đàn bà buồn quá cũng đi về nhà cha mẹ mình. Thầy Tỳ kheo và cô ta cùng đi chung một đường. Cô ta bám đi theo sau sát thầy. Thầy Tỳ kheo cứ lặng lẽ đi và không bao giờ để ý nhìn ngó cô ta.
Sau cơn giận, ông chồng trở về nhà, thấy vắng vợ mình, đoán biết là nàng ta về nhà cha mẹ. Ông vội vã đi kiếm và gặp thầy Tỳ kheo đang đi chung với vợ mình. Ông nổi giận tiến đến đe dọa thầy Tỳ kheo. Vì ông nghĩ, ông nầy dụ dỗ vợ mình. Thấy thế, bà vợ vội kêu lên:
- Vị Sa môn tu hành chơn chánh, không xúc phạm gì đến tôi, ông không nên xúc phạm tới thầy. Đang cơn ghen tức, ông không để ý đếm xỉa gì đến lời bà vợ nói, ông thẳng tay đánh thầy Tỳ kheo nhừ tử. Thế là, thầy Tỳ kheo bị thương tích đầy mình. Về đến tu viện, các thầy Tỳ kheo khác thấy thế cùng nhau trị liệu vết thương cho thầy. Sau khi biết rõ duyên cớ, các thầy Tỳ kheo đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, thầy Tỳ kheo đó bị người ta đánh đập mình mẩy đầy thương tích, nhưng thầy ta nói không hề giận người đánh mình. Như thế, có phải là thầy ấy nói dối không?
Phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, kẻ nào đã trừ được lậu hoặc liền bỏ hết roi gậy. Dù ai đánh họ, họ cũng không sân hận lại”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật nhấn mạnh đến lòng hỷ xả tha thứ. Muốn có được tấm lòng bao dung rộng lượng hỷ xả, không phải tự nhiên mà có được. Chúng ta cần phải gia công nỗ lực tu hành, diệt trừ hết lậu hoặc phiền não, nhất là ba món phiền não căn bản: tham, sân, si. Có thế, thì mới mong có được tấm lòng cao cả vị tha nhân ái.
Là phàm phu, lòng người ai cũng dẫy đầy sân hận. Mỗi khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, tức thời tâm sân hận nổi lên. Người ta chưa đụng chạm tới thân hình của mình, chỉ cần mình nghe lời nói trái tai, châm biếm, mỉa mai, kích bác nặng lời của họ, tất nhiên tam bành lục tặc của mình sẽ nổi lên ngay. Nổi lên một cách mãnh liệt. Đừng nói chi đến việc xúc phạm hành hung đánh đập, thử hỏi việc đó, có mấy ai nhịn nhục được?! Hay là máu giận tức sẽ nổi lên đến điên cái đầu. Bị người hành hạ đánh đập, mà vẫn an nhẫn được, không tỏ ra một chút hờn giận, đó phải là bậc thánh nhơn mới có thể làm nổi.
Ở một cường độ thấp hơn, nếu người nào có sức huân tu đạo lực khá, thì cũng có thể nhẫn nhịn được, không đến nỗi phải đánh đập hay sát hại lẫn nhau. Vì họ đã từng thật hành tu tập đức tánh nhẫn nhục. Do đó, nên họ có thể dằn được cơn giận dữ nhứt thời được. Như người lái xe giỏi, trong lúc bất trắc xảy ra, họ có thể thắng chiếc xe kịp thời, nên không xảy ra tai nạn. Đó là do thói quen lái xe đến mức độ thuần thục và lúc nào họ cũng chú ý đến tay thắng an toàn. Như đã nói qua, người tu hạnh nhẫn nhục là người phải có lòng từ bi biết yêu thương muôn loài. Nhờ có lòng thương xót rộng lượng, nên họ không còn chấp nhứt phiền lòng người khác, dù vẫn biết người đó gây ra cho họ phải đau khổ. Giữa Bồ tát cà chúng sanh khác nhau là ở chỗ đó. Khác nhau trên phương diện thật hành, chớ không phải trên lý thuyết suông.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về đức nhẫn nhục của thầy Tỳ kheo, khi bị người hành hung đánh đập. Thậm chí, các Tỳ kheo khác không tin, khi nghe thầy đó nói lại. Cho nên, họ kéo nhau bạch Phật về chuyện đó. Phật bảo, người nào đã trừ hết lậu hoặc, thì không còn sân hận nữa. Nếu nói ngược lại, kẻ nào còn sân hận tràn trề, thì biết rằng kẻ đó còn đầy dẫy phiền não lậu hoặc. Người tu muốn giải thoát cho mình và độ người, thì mỗi người cần phải thường xuyên quán chiếu lại mình để gạn lọc thanh trừ phiền não. Có thế, thì mới mong đạt được an lạc giải thoát vậy.
406. Ở giữa đám người cừu địch mà gây tình hữu nghị, ở giữa đám người hung hăng cầm gậy mà giữ khí ôn hòa, ở giữa đám người chấp đắm mà lòng không chấp đắm, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who is friendly amidst the hostile, peaceful amidst the violent, and unattached amidst the attached – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Thân hữu giữa cừu địch
Ôn hòa giữa hung hăng
Không chấp, giữa chấp đắm
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến bốn vị Sa di.
Theo truyện tích, có một gia đình Bà la môn phát tâm cúng dường một ngọ trai cho bốn vị Sa môn đặc biệt được chọn mời. Bà vợ chuẩn bị lo thức ăn, bảo ông chồng đi thỉnh bốn vị Bà la môn lão thành. Nhưng rất tiếc, những vị được thỉnh mời lại là bốn vị Sa di mới có bảy tuổi. Bốn vị nầy đều chứng quả A la hán. Khi thấy bốn vị Sa di nhỏ tuổi ông chồng thỉnh về, bà vợ nổi trận lôi đình quát tháo ông chồng:
- Ông đến tinh xá mà đưa về bốn đứa trẻ nít chẳng lớn bằng cháu chắt ông.
Thay vì mời bốn vị vào chỗ ngồi đã định sẵn, bà lại mời ngồi chỗ khác. Đồng thời bà bảo ông chồng đến tinh xá mời bốn vị khác về. Lần nầy, ông chồng mời được Tôn giả Xá lợi phất. Đến nơi, nhìn thấy bốn vị Sa di đang ngồi đó, Ngài hỏi: bốn vị nầy đã thọ trai chưa? Biết những vị nầy chưa thọ trai, Ngài liền ôm bát đi nơi khác. Bà vợ lại sai ông chồng đi thỉnh vị khác. Lần nầy, ông thỉnh được Tôn giả Mục kiền liên. Cũng như Tôn giả Xá lợi phất, biết những vị Sa di chưa thọ trai, Ngài lại bỏ đi không thọ trai. Bà vợ quay sang ra lệnh cho ông chồng lần nầy phải thỉnh cho được một sa môn lão thành. Trong khi đó, các vị Sa di nầy ngồi hoài mà không thấy bà mời thọ trai, ai nấy đều đói cào lên.
Trời Đế Thích quán sát biết rõ sự tình, liền hiện ra một Sa môn già lọm khọm. Đến nơi, ông chồng nhìn thấy liền thỉnh ngay, vì ông nghĩ rằng lần nầy chắc là vừa ý bà vợ. Khi ông thầy Sa môn già đến liền đến đảnh lễ bốn vị Sa di, quyết không để ý gì đến lời thỉnh mời của bà vợ. Ông liền đến ngồi kiết già chỗ thấp gần bốn vị Sa di. Hai ông bà thấy thế, cho rằng ông già nầy lẩm ca lẩm cẩm, quyết xua đuổi ông ra. Nhưng lôi kéo ông ra mấy lần, rồi cũng thấy ông vẫn ngồi chỗ cũ. Hai ông bà thất kinh, sợ hãi liền vội mời cả năm vị thọ trai. Thọ trai xong, mỗi vị Sa di bay qua mỗi cửa sổ.
Các vị Sa di về lại tinh xá, các Tỳ kheo bu quanh hỏi chuyện về việc đi thọ trai. Các vị Sa di thuật lại mọi việc cho các thầy Tỳ kheo nghe. Nghe xong, các thầy Tỳ kheo hỏi: họ hành xử các huynh như thế, các huynh có giận họ không? Bốn vị đồng nói: “không giận”. Các thầy Tỳ kheo không tin, liền đến bạch Phật. Phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, người đã trừ được lậu hoặc chẳng kháng cự kẻ chống đối họ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, đức Phật nêu cao đức hạnh nhu hòa nhẫn nhục. “Ở giữa đám người cừu địch mà gây tình hữu nghị”. Tình hữu nghị là tình bạn lữ thân thiện, là tình tứ hải giai huynh đệ. Với tình thần từ bi bình đẳng của đạo Phật, đạo Phật không coi ai là kẻ thù. Dù ai đó có manh tâm ác độc hãm hại dìm đạo Phật đủ mọi cách thế. Đạo Phật vẫn coi họ là bạn. Đạo Phật không có cái nhìn ác cảm khinh khi kỳ thị với bất cứ một chủng tộc sắc dân nào. Đạo Phật không có cái nhìn hời hợt theo lăng kính nghiệp thức của một tôn giáo hay bè phái. Bởi đạo Phật coi tất cả chúng sanh đều có chung một bản thể. Nhìn trên hình tướng tuy có nhiều sai khác, nguyên do là bởi chúng sanh tạo nghiệp thiện ác bất đồng. Nhưng nhìn sâu vào bản thể, thì không có gì khác biệt. Vì vạn vật đồng nhứt thể. Như nhìn trên hiện tượng của các loại sông, hồ, kinh, rạch, biển cả lớn nhỏ có khác nhau, nhưng thể nước chỉ là một. Đạo Phật dạy người Phật tử phải có cái nhìn thấu suốt “Vô Tướng”, đừng dính kẹt mắc mứu trên “Hữu Tướng”. Vì tất cả các pháp hữu vi, đều do duyên hợp giả có. Nếu bám chấp dính mắc trên hình tướng, tất nhiên là nhơn loại sẽ gây ra bao sự tranh chấp oán thù và rồi đưa đến tình trạng mâu thuẫn chống đối tàn sát lẫn nhau.
Với cái nhìn “vô tướng” đó, đạo Phật chủ trương phải luôn luôn đứng trên và đứng ngoài mọi thể chế chánh trị theo đường lối bá đạo, nhằm mục đích tạo thế lực trục lợi gây chia rẽ hận thù sát hại lẫn nhau. Đạo Phật luôn tôn trọng nhân phẩm quyền tự do hướng thượng của con người. Đạo Phật kêu gọi nhơn loại hãy dẹp bỏ mọi tỵ hềm, mọi quan niệm định kiến dị biệt, mà hãy nên thương yêu nắm lấy tay nhau để cùng chung lo xây dựng, đem lại nguồn an vui hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại. Đó là bức thông điệp hòa bình mà đức phật đã gởi đến cho nhơn loại cách đây trên hơn hai mươi lăm thế kỷ. Nhưng rất tiếc, ngày nay nhơn loại vẫn chưa ý thức được vấn đề đó. Họ vẫn còn chìm đắm sâu nặng trong vòng vô minh tranh chấp, hận thù, và rồi gây ra bao thảm cảnh chiến tranh tàn khốc khổ đau mà cả nhơn loại phải hứng chịu.
Ngày nào nhơn loại chưa ý thức nhận ra tình huynh đệ, tình đồng loại, tình yêu thương trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn một cách thiết thực, thì ngày đó nhơn loại vẫn còn phải chịu đau khổ dài dài, bởi do lòng dục vọng sai khiến làm tan nát tình yêu thương đó. Nhơn loại muốn được sống an ổn trong vòng tay yêu thương lẫn nhau, thì chỉ có cách duy nhất, theo Phật dạy trên là phải phá bỏ mọi dị kiến tham chấp, mọi quyền lực đấu tranh, phải có tấm lòng bao dung tha thứ hỷ xả tương thân tương ái lẫn nhau. Có thế, thì nhơn loại mới mong được sống trong cảnh an bình tràn đầy hạnh phúc vậy.
407. “Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.”
408. “Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
407. Từ lòng tham dục, sân nhuế, kiêu mạn cho đến lòng hư ngụy đều thoát bỏ cả như hột cải không dính đầu mũi kim, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He whose lust and hatred, pride and hyprocrisy have fallen off like a mustard seed from the point of a needle – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người thoát cả tham sân
Không mạn, không hư ngụy
Như hột cải đầu kim
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tôn giả Đại bàn đặc (Big Wayman).
“Khi Tôn giả Châu lợi bàn đặc (Little Wayman) ba tháng không thuộc nổi một bài kệ, anh của ngài là Tôn giả Đại bàn đặc đuổi Ngài ra khỏi tinh xá, đóng cửa lại rồi bảo:
- Chú thiếu khả năng, không hiểu nổi Phật pháp, còn hạnh phúc thế gian chú cũng rời bỏ rồi. Đâu còn lý do gì để chú tiếp tục ở lại đây? Chú hãy đi đi.
Các thầy Tỳ kheo bàn tán về chuyện ấy, nói:
- Nầy chư huynh, Tôn giả Đại bàn đặc làm thế nầy thế nọ. Chắc chắn ngay cả những vị đã xa lìa cấu nhiễm thỉnh thoảng vẫn còn sân hận.
Lúc ấy, đức phật đi đến hỏi:
- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán việc gì?
Các thầy bạch lên đức phật vấn đề. Ngài dạy:
- “Này các Tỳ kheo, không phải đâu. Những kẻ đã xa lìa cấu nhiễm trong tâm chẳng còn các hoặc, tham, sân và si. Ông ấy hành động như vậy chỉ vì ông đặt Phật pháp và tinh thần Phật pháp lên trên tất cả”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 368)
Pháp cú trên, chủ yếu Phật dạy người tu phải xa lìa Tam độc. Vì ba món nầy, nó gây ra cho người ta lắm điều đau khổ hệ lụy. Phật dạy, người xuất gia phải có đầy đủ nếp sống giới hạnh và trí huệ. Một nếp sống hướng thượng rất cao đẹp. Do đó, nếu tu hành mà chúng ta còn chất chứa dung túng ba món độc hại nầy nhiều, thì đời tu hành của chúng ta sẽ không có kết quả tốt đẹp là bao! Đạo Phật chủ trương phá ngã. Còn nặng lòng chấp ngã, pháp chấp, là chúng ta vẫn còn đi quanh quẩn trong vòng sanh tử khổ đau. Hãy dẹp bỏ tham, sân si, ngã mạn, như tống khứ những con rắn độc ra khỏ nhà. Nếu không, thì chúng ta sẽ bị những con rắn độc hại nầy cắn chết đời ta lúc nào không hay. Vì chính nó làm cản trở ta trên bước đường tiến về ngôi nhà Bảo sở. Chúng ta hãy mạnh dạn diệt trừ bọn chúng. Có thế thì ngôi nhà của chúng ta mới được an ổn êm ấm hạnh phúc.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy, Châu lợi bàn đặc tuy không thông minh bằng người anh, nhưng không phải vì thế mà không tu được. Điều quan trọng là phải dẹp trừ cấu nhiễm phiền não trong tâm. Nếu chỉ biết học rộng hiểu nhiều, dù cho có lão thông ba tạng giáo điển, hay thông kim bác cổ đi chăng nữa, nhưng nếu không gia công nỗ lực tu hành dẹp trừ những cấu nhiễm phiền não trong tâm, thì thật không có ích lợi gì trên con đường tu niệm giải thoát.
Do đó, trong đạo Phật chú trọng phần thật hành hơn là phần lý thuyết. Học mà không tu, thử hỏi có ích lợi gì? Chỉ được tăng thêm phần kiến giải mà thôi. Nhưng chính cái kiến giải sở tri nầy, nó lại làm chướng ngại sanh ra cống cao ngã mạn coi người dưới mắt. Thấy ai cũng trề môi khinh bỉ, cho người ta là kẻ thất học. Coi chừng, học nhiều không tu trở thành sa đọa. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Cho nên, chúng ta phải khéo léo quân bình giữa tu và học. Nói rõ hơn, học là để bổ túc cho sự tu. Như con mắt sáng là để thấy rõ dẫn đường ta đi tránh được hầm hố họa hại. Dụ như học thông về lý thuyết. Còn đôi chân dụ cho sự thật hành. Có mắt sáng mà đôi chân yếu, thì cũng không thể đi tới đâu. Ngược lại, có đôi chân mạnh mà thiếu đôi mắt sáng, thì cũng ngồi ỳ một chỗ. Cho nên, học và hành, lý thuyết và thực nghiệm phải được song hành. Nghĩa là tri và hành phải hợp nhứt vậy. Có thế, thì mới được lợi lạc rất lớn trong sự nghiệp tu hành.
408. Chỉ nói lời chân thật hữu ích, chẳng nói lời thô ác, chẳng xúc giận đến ai, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who utters gentle, instructive and truthful words, who imprecates none – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Lời ôn hòa lợi ích
Vô hại và chân thật
Người không hại một ai
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tôn giả Pilindavaccha.
Theo truyện tích, thầy Pilindavaccha có thói quen sử dụng ngôn từ của hạng người thất học. Khi tiếp xúc với bất cứ ai, dù đối tượng là bậc trưởng thượng, thầy cũng dùng lời lẽ của những kẻ đá cá lăn dưa hay đầu đường xó chợ. Do đó, mà các thầy khác hay phàn nàn và trình lên đức Phật về hành vi ngôn ngữ thiếu lễ độ của thầy.
Đức Phật gọi thầy đến hỏi và thầy xác nhận có nói và phạm lỗi lầm như thế. Sau đó, đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo không nên quở trách thầy Pilindavaccha, vì không phải hiện đời nầy mà trải qua năm trăm kiếp trong quá khứ, thầy ấy cũng đã sử dụng ngôn từ nói năng như thế. Đó là do sức mạnh của tập khí thôi. Một người đã không còn lậu hoặc, thì họ không bao giờ dùng thô bỉ như thế. Không bao giờ dùng lời nói làm tổn thương người khác. Vậy các thầy hãy thông cảm và tha thứ cho người có tập khí quá sâu nặng mà chưa thể dứt trừ được. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, đức Phật khuyên bảo chúng ta phải cẩn thận ở nơi lời nói. Lời nói tuy là một lợi khí sắc bén trong khi giao tiếp, nhưng nó cũng rất quan trọng về hai mặt lợi và hại. Đứng về mặt lợi ích của nó, thì nó có tác dụng lợi ích rất lớn. Nếu chúng ta khéo biết sử dụng dùng những lời lẽ hòa nhã êm dịu từ ái để trao đổi hay khuyên nhủ an ủi người khác. Đó là lời nói mang tính ái ngữ làm đẹp mình và người. Tuy nhiên, phải là lời nói toát ra từ cái tâm chơn thật. Tâm có chân thật, thì lời nói mới chân thật. Bởi lời nói, chẳng qua là biểu hiện của tư tưởng. Từ tư tưởng mới diễn đạt ra lời nói. Phật dạy, lời nói chân thật là lời nói hữu ích. Hơn ai hết, người Phật tử dù gặp bất cứ hoàn cảnh thuận nghịch nào, chúng ta cũng phải dùng lời nói nhỏ nhẹ hiền hòa không nên dùng lời nói ác độc làm tổn thương cho bất cứ ai.
Về mặt hại của lời nói, chúng ta nên nhớ rằng, mỗi lời nói hoặc hành động, nó đều có mang theo chữ ký, hay dấu ấn của chúng ta một cách rõ ràng. Cho nên, ta cần phải cẩn trọng như khi ta hạ bút ký tên vào một bản văn kiện nào đó vậy. Nếu lỡ ký tên lầm vào một văn kiện mà ta thiếu cẩn thận xem xét kỹ, thì hậu quả của nó cũng rất là tai hại. Cũng thế, khi đã thốt ra lời nói hoặc hành động gây ra làm tổn thương tác hại cho người khác, thì hậu quả tai hại xảy đến cho ta hoặc hiện tại hay về sau thật cũng khó mà lường được. Khi thốt lời rồi, làm sao ta có thể tẩy xóa hết đây! Giống như khi ta hạ bút ký tên vậy. Ta đừng quên, một lời nói có thể mang đến lợi ích cho cả quốc gia, nhưng cũng một lời nói có thể gây ra đại họa cho cả quốc thể nước nhà. Đại họa cho cá nhân không nói chi, mà còn đại họa cho cả một tập thể rộng lớn. Thế nên, là Phật tử chúng ta phải cố gắng thực tập cho mình khi nói năng hoặc hành động đều phải luôn luôn có chánh niệm. Phải biết tôn trọng sự thật. Được vậy, thì chắc chắn chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc ngay trong từng giây phút.
Chuyện lược dẫn trên, đức Phật cho chúng ta thấy một tập khí lâu đời thật đáng kinh sợ! Thầy Tỳ kheo Pilindavaccha bởi do tập khí nói năng cẩu thả, ác độc, vô lễ trong nhiều đời, nên nay tuy đã xuất gia đến bậc Thượng Tọa, nhưng tập khí nói năng đó cũng không thể bỏ được. Đọc qua chuyện nầy, ta mới có thể thông cảm cho những ai có tập khí xấu ác sâu nặng lâu đời. Đồng thời, ta cũng nên quán chiếu nhìn kỹ lại tập khí của ta. Tuy họ cũng biết tu hành, đi chùa, ăn chay, niệm Phật, bố thí, cúng dường, làm phước v.v… nhưng những tập khí xấu ác, thô bỉ của họ cũng không phải dễ gì một sớm một chiều mà họ có thể bỏ hết được.
Hiểu như thế, thì ta mới có thể dễ tha thứ và dễ cảm thông cho họ hơn. Đó là điều mà ta nên chú ý và học hỏi qua cốt chuyện lược dẫn trên. Ta nhứt quyết phải loại trừ cho kỳ được những tập khí xấu ác mà chính nó đã gây cho ta phải đau khổ. Như những tập khí nói nhiều, vụt chạc thô tháo, rượu chè, bài bạc, hút xách, ăn nhiều, hay nói chuyện thị phi đàm tiếu thiên hạ sự v.v… Bỏ được thứ nào là ta sẽ được nhẹ nhàng và giải thoát thứ ấy. Khi đã bỏ những thói quen xấu, bên cạnh đó, chúng ta cũng phải cố gắng thực tập cho mình có những thói quen tốt lợi mình lợi người. Như những thói quen: tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, ngồi thiền, quán niệm hơi thở, lắng nghe, bớt nói, đi trong tĩnh lặng an lạc, thường quán chiếu lại mình, hằng xét lại lỗi lầm của mình v.v… Thực tập được những thói quen tốt lành đó, tất nhiên là ta đã khéo biết làm mới lại cuộc đời ta. Và như thế, chắc chắn là ta sẽ có an lạc hạnh phúc ngay. Bạn cứ thực tập đi, rồi bạn sẽ thấy sự kết quả an vui lợi lạc của nó. Chúc bạn thành công trên bước đường tu tập.
409. “Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.”
410. “Người không có hy cầu,
Ðời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
409. Đối với bất luận vật gì xấu hay tốt, dài hay ngắn, thô hay tế mà người ta không cho thì không bao giờ lấy, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who in this world takes nothing that is not given to him, be it long or short, small or big, good or bad – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Bất luận vật dài ngắn
Lớn nhỏ, đẹp hay xấu
Phàm không cho, không lấy
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, có một Bà la môn ở Xá vệ, vì sợ mùi hôi của tấm vải choàng nên đem phơi bên ngoài. Trong khi đó, có một thầy Tỳ kheo đã đắc quả A la hán, đi ngang qua thấy tấm vải còn tốt, nhìn quanh không thấy ai, thầy nghĩ tấm vải nầy chắc là vô chủ, nên thầy nhặt tấm vải rồi đi. Ông Bà la môn thấy thế liền đến mắng chửi Tôn giả.
Khi đó, thầy Tỳ kheo xin lỗi, tưởng là vô chủ nên mới lấy. Nói xong, thầy trả tấm vải lại cho ông ta. Về đến tinh xá, thầy thuật lại chuyện đó cho các thầy khác nghe. Nghe xong, các thầy khác có ý trêu chọc thầy. Thầy ôn tồn nói: thưa các thầy, không phải vì tấm vải tốt, mà tôi khởi tâm tham đắm, chỉ vì tôi nghĩ nó là vô chủ, nên tôi lấy đó thôi. Chuyện nầy, các thầy khác trình bạch với đức Phật. Phật bảo:
- “Nầy các Tỳ kheo, không phải đâu. Tỳ kheo nầy đã nói rất thật. Kẻ nào trừ được lậu hoặc không lấy vật người khác”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Trộm cắp cướp giựt đó là những hành vi xấu ác trái với đạo lý làm người. Nếu là người còn có chút lương tâm đạo đức, thì không ai làm chuyện đó. Bởi vì tài vật của mình tạo ra, lúc nào mình cũng quý trọng bảo vệ nó. Vì đó là do bao công lao mồ hôi nước mắt của mình. Theo lẽ công bằng, mình không muốn ai lấy của mình, thì mình quyết không nên lấy của ai, dầu đó là vật rất nhỏ nhặt. Câu nói: “kỷ sở bất dục vật ư thi nhơn”. Nghĩa là điều gì mình không muốn, thì mình chớ nên làm cho người khác phải đau khổ. Là Phật tử khi quy y thọ giới trước Tam bảo, chúng ta đã phát nguyện quyết tâm gìn giữ giới không trộm cắp cướp giựt nầy. Khi hành động phi pháp, lòng ta luôn bất an. Ta lo sợ đủ thứ. Nhất là đối với pháp luật, cũng không dung tha cho ta. Luật nhân quả cũng luôn bám sát ta. Hôm nay, ta có thể dùng bạo lực cướp đoạt của người, thì mai kia ta cũng sẽ bị người cướp đoạt lại. Theo luật nhân quả có vay, tất phải có trả. Nghĩ thế, ta quyết không nên cướp đoạt chiếm hữu tài sản của người. Vì ta mà người khác phải chịu lắm điều đau khổ, thử hỏi làm sao ta sống yên thân? Ta nên nhớ rằng, lưới trời lồng lộng nhưng không lọt một ai. Ác lai ác báo, chẳng qua việc trả quả đến với mình có mau chậm đó thôi.
Chuyện lược dẫn trên, ta thấy thầy Tỳ kheo không có ý trộm cắp. Thầy nghĩ rằng, tưởng là tấm vải người ta vứt bỏ, nên mới lượm lấy. Đó không phải là tâm xấu ác. Điều nầy đã được đức Phật xác chứng như thế. Bởi thầy đã đắc quả A la hán làm gì còn có tâm xấu ác đó. Khác hơn chúng ta là ở chỗ thầy không còn lòng tham lam. Ngược ta lấy chiếm đoạt của người, dĩ nhiên động cơ phát xuất từ lòng tham lam mà ra. Vả lại, khi bị người chủ tấm vải chửi mắng thầy, nhưng thầy không tỏ ra một chút hờn giận, còn hết lòng xin lỗi và ôn tồn nhã nhặn phân trần cho người đó nghe. Thế mới biết người có tu hay không tu là ở chỗ đó.
410. Đối với đời nầy cũng như đời khác, đều không móng lòng dục vọng, vô dục nên giải thoát, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who wants nothing of either this world or the next, who is desire-free and emancipated – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người không có dục vọng
Đời nầy và đời sau
Người vô dục giải thoát
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Xá lợi phất.
Theo truyện tích, Tôn giả Xá lợi phất cùng năm trăm thầy Tỳ kheo an cư tại trú xứ tinh xá suốt thời gian ba tháng. Dân chúng phát nguyện cúng dường suốt mùa an cư. Sau lễ Tự tứ những phẩm vật cúng dường vẫn chưa được mang đến hết. Trước rời khỏi trú xứ về gặp lại đức Phật, Tôn giả dặn dò các thầy Tỳ kheo ở lại: những phẩm vật mà thí chủ mang đến cúng dường cho các thầy Tỳ kheo trẻ và Sa di, xin các thầy phân phối gởi đi giùm. Dặn dò xong, Tôn giả ra đi. Nghe thế, các thầy bàn tán cho rằng, Tôn giả Xá lợi phất vẫn còn chút lòng tham muốn nhận hết của cúng dường đó.
Khi ấy, đức phật hỏi các thầy đang bàn tán về vấn đề gì? Các thầy cho biết về việc đó. Đức phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, con Ta không còn tham. Trong tâm ông ấy chỉ nghĩ: “mong rằng các thí chủ không bị mất phước, mong rằng các Tỳ kheo trẻ và Sa di không bị thất thoát những lợi dưỡng cao quý”. Do vậy ông ấy mới dặn dò như thế. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Những thứ dục lạc ở thế gian không ai lại không ham muốn. Tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, đó là năm món dục lạc mà hầu hết nhơn loại đều mưu cầu khao khát thèm muốn. Muốn mà không được toại nguyện thì đâm ra bực tức sân hận. Chỉ có những bậc tu hành đạt đạo, xem mọi vật trên đời chỉ là ảo mộng phù du. Khác nào như mây nổi, gió thổi, chiêm bao. Tất cả đều vô thường huyễn hóa. Do nhìn đời như thế, nên các ngài không sanh tâm đắm nhiễm. Sống trong dòng đời, nhưng không bị dòng đời cuốn hút say đắm. Đó là sinh thức “cư trần bất nhiễm trần”. Vượt thoát ngoài vòng cương tỏa của ngũ dục sai khiến. Ngược lại, chúng ta vì còn hoặc lậu phiền não dày đặc, nên nhìn đâu cũng bị đắm nhiễm. Đối với ngũ dục lạc thế gian, không thứ gì là không ham muốn. Vẫn biết ham muốn nhiều thì khổ nhiều. Nhưng vì đã trót làm nô lệ cho dục vọng rồi, nên chúng ta mãi trung thành với nó mặc cho nó sai khiến thế nào cũng được. Quả chúng ta là kẻ bất lực không cưỡng chế được lòng dục vọng của chúng ta. Người nào lòng sạch như băng tuyết, thì người đó mới dám tự xưng mình là kẻ vô dục. Và như thế, Phật nói mới đáng gọi là Bà la môn.
Chuyện lược dẫn trên, Ngài Xá lợi phất tuy đã chứng quả A la hán không còn phiền não, nhưng Ngài vẫn bị các vị khác hiểu lầm cho Ngài còn có lòng tham. Không phải Ngài thọ nhận những phẩm vật cúng dường cho Ngài, mà Ngài bảo phân chia cho những vị khác, nhất là đối với các thầy Tỳ kheo trẻ tuổi và các chú Sa di. Vì Ngài nghĩ, khi thọ nhận của tín thí cúng dường, là phải phân chia cho đồng đều. Dù kẻ lớn hay người nhỏ, cũng đều có phần hưởng dụng. Đây cũng là thể hiện một trong sáu phép Lục Hòa Phật dạy. Đó là lợi hòa đồng quân. Thế nhưng, việc làm nầy của Ngài vẫn bị những vị khác dèm pha chê bai châm biếm. Một bậc tu hành giới đức nghiêm minh còn bị hiểu lầm như thế, hà tất vì là kẻ phàm phu như chúng ta. Thử hỏi tránh sao khỏi miệng đời chỉ trích biếm nhẻ chê bai. Cũng may, nhờ có Phật giải bày và chứng minh xác quyết cho Ngài đã không còn lòng tham. Do đó, nên các Tỳ kheo khác không còn có ý nói xấu nữa. Đây là bài học, đừng có suy bụng ta ra bụng người, mà mang trọng tội vậy.
411. “Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.”
412. “Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
411. Người không còn tham dục và nghi hoặc thì được giác ngộ chứng bậc vô sanh, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who has no attachment, who through perfect knowledge is free from doubts and has plunged into the Deathless – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người không còn tham ái
Có trí không nghi hoặc
Chứng đạt quả bất tử
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Mục kiền liên.
Theo truyện tích ghi lại, câu chuyện xảy ra của Tôn giả Mục kiền liên cũng tương tự như Tôn giả Xá lợi phất. Cuối cùng, mọi người mới biết Tôn giả Mục kiền liên đã dứt tham ái. Do đó, nên Phật nói pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn)
Tham dục và nghi hoặc, đây là hai món căn bản phiền não làm chướng ngại rất lớn trên đường tu. Người tu muốn được giải thoát, tất nhiên phải đoạn trừ hai thứ nầy. Vô sanh là quả vị Niết bàn của A la hán. Người chứng quả A la hán, do dứt hết lậu hoặc phiền não, nên không còn tái sanh trở lại cõi đời nầy nữa. Nói rõ hơn, là không còn một niệm nhiễm ô nào. Vì còn niệm là còn sanh. Niệm (khởi nghĩ) dù niệm chánh hay niệm tà, cũng vẫn còn tái sanh. Nếu niệm chánh, niệm lành, thì sẽ được vãng sanh về cảnh giới lành để hưởng phước báo. Ngược lại, thì sẽ sanh vào cảnh giới đau khổ. Niệm là do ý nghiệp phát sanh. Hàng A la hán dứt trừ hết ý nghiệp nầy. Tức con khỉ ý thức không còn cơ sở hoạt động nữa. Khi ý nghiệp không còn, thì con đường sanh tử ngang đó chấm dứt. Nên gọi là vô sanh. Nghĩa là không sanh về đâu cả. Mà chỉ an trụ vào Niết bàn. Niết bàn là cảnh giới vắng lặng bặt dứt mọi dấu vết phiền não. Đây còn gọi là Vô dư y niết bàn. Ngược lại, đối với Niết bàn của Bồ tát thì gọi là Vô trụ xứ niết bàn. Loại Niết bàn nầy không an trụ một nơi nào cố định. Đây là loại Niết bàn tùy nguyện lực độ sanh. Do đó, Niết bàn của Bồ tát khác hơn Niết bàn của hàng A la hán.
412. Nếu đối với thế gian nầy, tâm không chấp trước thiện hay ác, không còn ưu lo mà thanh tịnh, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who in this world has transcended the ties of both merit and demerit, who is sorrowless, stainless and pure – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Người sống ở đời nầy
Vượt cả ngoài thiện ác
Vô cấu, tịnh vô ưu
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Pubbarama, có liên quan đến Tôn giả Revata.
“Câu chuyện nầy đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu với câu: “Làng mạc hay núi rừng”. Chuyện kể rằng:
Lại một hôm, các thầy Tỳ kheo bàn tán trong pháp đường:
- Ôi, vị Sa di đó được lợi lạc lớn lao biết mấy! Ôi! phước đức của chú thật vô lượng vô biên! Tưởng tượng một người mà xây dựng được năm trăm chỗ ở cho năm trăm thầy Tỳ kheo.
Lúc ấy, đức phật đi đến hỏi:
- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán việc gì?
Các thầy bạch Phật câu chuyện. Ngài dạy:
- “Này các Tỳ kheo, Revata chẳng có phước hay vô phước. Người ấy đã buông cả hai”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 376)
Sự đau khổ của con người là do lòng chấp trước quá nặng. Từ chấp ngoại cảnh cho đến thân, tâm, không có thứ gì mà người ta chịu buông bỏ. Đối với ngoại cảnh, dù vẫn biết đó là vật ngoài mình, nhưng người ta vẫn cố bám chặt. Đó là chưa nói đến những vật dụng sở hữu do người ta tạo ra. Trong kinh thường gọi là chấp ngã và ngã sở. Nói rộng ra là chấp ngã và chấp pháp. Nặng nhứt là chấp cái thân nầy. Ai cũng thấy cái thân nầy là thật cả. Dù còn một hơi thở tàn, họ cũng cố bám víu lấy thân. Do ái ngã quá nặng, nên vừa mất thân nầy, họ tìm lấy thân khác ngay. Chính niệm ái ngã đó, mà chúng ta mãi đi trong sanh tử luân hồi. Chấp cảnh, chấp thân đó là hai thứ chấp thô, tức bên ngoài mà người ta còn không bỏ được, nói chi đến chấp tâm. Tâm là biết là những dòng tư tưởng tiếp nối sanh diệt liên tục. Người ta khó nhận ra sự sanh diệt tương tục của nó. Người ta cứ ngỡ nó là thật. Chính vì thấy nó thật, cho nên người ta bám chấp vào nó. Vì lầm nhận nó là thật, nên nó dẫn người ta chạy theo nó không bao giờ dừng nghỉ.
Pháp cú trên Phật dạy. chúng ta không nên chấp thủ vào vấn đề thiện ác. Thiện và ác là tiêu biểu cho tất cả những cặp đối đãi trên đời. Có đối đãi là không thật. Sở dĩ người ta nói ác là vì có thiện. Cũng như nói đẹp là vì có xấu. Nếu không có xấu thì không có đẹp. Đẹp và xấu hay thiện và ác, chẳng qua chỉ do vọng tưởng con người giả đặt mà thôi. Tất cả đều là những danh từ đối đãi giả lập.
Đã thế, thì làm gì có thật? Tất cả đều là những khái niệm giả danh. Chấp vào cái không thật, khác nào là kẻ bắt bóng. Người mà cả đời chạy đuổi theo bắt bóng, nếu là người trí thì cho kẻ đó là như thế nào? Chắc ai cũng nói đó là kẻ ngu si mê muội. Người tỉnh thức ai mà dại dột gì đi bắt bóng? Khác nào như kẻ nằm mộng, trong cơn mộng, nói cảnh trong mộng là giả, làm sao họ có thể chấp nhận được? Khi nào đánh thức họ dậy, thì lúc đó họ mới biết cảnh trong chiêm bao là giả. Giả một trăm phần trăm, không còn một niệm nghi ngờ gì cả.
Phật nói, chúng ta là những kẻ đang trong mộng. Dù Phật Tổ có nói gì đi nữa, chúng ta cũng không bao giờ thấy cảnh mộng là giả được. Muốn biết giả, chỉ có một cách duy nhứt là phải thức giấc. Có tỉnh thức thì mới thấy các pháp hiện đời là giả huyễn, như mộng, như điện chớp, như bọt nước v.v…
Phật nói Revata là người đã khéo buông cả hai. Không còn thấy có phước hay vô phước. Chính cái thấy đó mới thực sự là thấy đúng như thật của các pháp. Đó là thấy được “tánh không” của vạn pháp. Đó là cái thấy của Bát nhã trí: “Thị chư pháp không tướng bất sanh bất diệt v.v… “ Và người nào thấy như thế, thì Phật nói người đó sẽ được tự do, tự tại giải thoát. Ngược lại, là kẻ còn bị pháp trần ràng buộc trong vòng hệ lụy đau khổ dài dài…
413 “Như trăng, sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái, được đoạn tận,
Ta gọi Bà là môn.”
414. “Vượt đường nguy hiểm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Ðến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
413. Dứt sạch dục vọng không cho tiếp tục sanh nữa, như trăng trong không bợn, như nước yên lặng sáng ngời, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who, like the moon, is spotless and pure, serene and clear, who has destroyed the delight in existence - him do I call a holy man.
Kệ tụng
Tịnh, vô cấu như trăng
Sáng trong và tịnh lặng
Trừ diệt mọi hữu ái
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Nguyệt Quang.
Theo truyện tích, Tiền kiếp của Tôn giả Nguyệt Quang là anh thợ rừng, nhờ cúng dường tháp Phật Ca Diếp bằng bột gỗ đàn hương đựng trong một cái đĩa lớn như mặt trăng tròn, nên kiếp nầy khi sanh ra ở rốn của cậu bé phát ra vòng hào quang lớn bằng chiếc đĩa mặt trăng, nên cha mẹ đặt tên là Nguyệt Quang. Do có tướng hảo quang minh như thế, nên Tôn giả được các Bà la môn để trên xe đẩy đi khắp nơi, ai sờ đụng vào thân Tôn giả thì sẽ được quyền lực và vinh hiển. Muốn sờ vào, người ta phải trả tiền một trăm hoặc một ngàn đồng. Cứ lang thang như thế, cho đến một hôm, họ vào thành Xá vệ và nghỉ một nơi gần tinh xá Kỳ Viên.
Khi đó, các hàng thiện tín đông đảo họ lũ lượt kéo đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Trên đường đi, họ bị số Bà la môn chận lại và bảo họ hãy đến sờ vào người Bà la môn Nguyệt quang là người có thần thông quảng đại, sẽ được nhiều quyền lực và vinh hiển không ai bằng. Các vị thiện tín không tin, họ nói chỉ có đức Thế Tôn mới có đại thần thông thôi. Thế là hai bên tranh cãi với nhau kịch liệt, bất phân thắng bại.
Cuối cùng, họ đề nghị là Nguyệt Quang đến tinh xá so tài với đức Phật. Vừa đến nơi, đức Phật làm cho vòng hào quang của Nguyệt Quang biến mất. Khi họ kéo Nguyệt Quang ra xa, thì vòng hào quang sáng rực lại, nhưng khi đến gần Phật thì lại biến mất, trải qua ba lần đều như thế. Nguyệt Quang cho Phật là giở trò huyễn thuật. Ông hỏi Phật có phải như thế không? Phật trả lời đúng vậy. Nguyệt Quang xin Phật chỉ dạy. Phật hứa khả, nhưng với điều kiện là ông phải xuất gia theo ta học. Nguyệt Quang tuyên bố với mọi người là chỉ xuất gia học vài hôm, thì ông ta sẽ là nhân vật siêu phàm nhất ở cõi Ta bà nầy.
Nhờ Phật chỉ dạy chú thuật để ông tập trung tư tưởng quán chiếu, nên không bao lâu ông đắc quả A la hán. Kể đến đó, đức phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo Nguyệt Quang là người không còn tham đắm các thú vui thế gian nữa”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Người dứt sạch ái dục, lòng như trăng không bợn, như nước trong yên lặng sáng ngời. Đây là hai hình ảnh tuyệt đẹp. Ánh trăng không thể chiếu sáng được là tại vì bị mây mù che ngăn. Nước sở dĩ không trong lặng là tại vì có quá nhiều bụi bặm nên nước phải đục. Cũng thế, trăng Phật tánh của mỗi người lúc nào cũng hằng chiếu sáng, nhưng khổ nỗi vì bị mây vô minh phiền não che mờ, nên ánh trăng không hiển hiện được. Bản chất của nước vốn trong sạch, nhưng vì bị những thứ cặn cáu bụi bặm hòa tan trong đó, nên nước trở thành đục ngầu. Vẹt mây mù, lóng cặn cáu, thì cả hai sẽ hiện ra nguyên thể của nó. Người tu hành chỉ cần phá tan mây vô minh, thì trăng Phật tánh sẽ hiển hiện. Không cần tìm kiếm đâu xa. Muốn tâm ta trong sáng thanh tịnh trở lại, thì cần phải lóng hết cặn bã phiền não. Vọng tưởng phiền não không còn, thì cái “tánh không” vọng tưởng phiền não hiện ra. Đó là nhiệm vụ chính yếu của người tu. Người nào khéo lóng và lóngthường xuyên, tất nhiên, là người đó chóng được an lạc giải thoát.
Chuyện lược dẫn trên, Tôn giả Nguyệt Quang nhờ dùng đĩa tròn như mặt trăng cúng dường tháp Phật, kết quả, Ngài được hào quang phát sáng như thế. Ngài tự hào về hào quang của mình. Các Bà la môn khác cũng muốn phô trương khoe khoang thần thông của Ngài để tranh tài đọ sức với Phật. Vì họ muốn tranh giành đệ tử của Phật. Tất cả đều kéo đến gặp Phật và bị Phật làm cho hào quang của Nguyệt Quang không phát sáng được. Ba lần như thế. Thấy không thể hơn Phật, cuối cùng, ông xin thọ giáo xuất gia theo Phật. Và không bao lâu Tôn giả chứng quả A la hán. Đây là bài học thức nhắc chúng ta, không nên ỷ vào tài năng của mình mà khinh thường miệt thị kẻ khác. Chúng ta nên nhớ: “núi cao hơn núi, người cao hơn người”. Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị. Nghĩa là, mình tài gỉỏi sẽ gặp người tài giỏi hơn. Vỏ quýt dầy sẽ gặp móng tay nhọn. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du khuyên ta:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
414. Vượt khỏi con đường gồ ghề lầy lội[19], ra khỏi biển luân hồi ngu si mà lên đến bờ kia, an trú thiền định, không dục vọng, không nghi lầm, cũng không chấp đắm rằng mình chứng Niết bàn tịch tịnh, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who, having traversed this miry, perilous and delusive round of existence, has crossed over and reached the other shore; who is meditative, calm, free from doubt, and, clinging to nothing, has attained to Nibbana – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Vượt khỏi đường lầy lội
Ra khỏi si, luân hồi
Đến bờ kia thiền định
Không tham ái, không nghi
Không chấp, chứng tịch tịnh
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Kundadhanavana, gần Kundakoji, có liên quan đến Tôn giả Sivali.
Theo truyện tích, bà Suppavasa mang thai đến bảy năm mới sanh. Khi sanh đứa bé, bà bị cơn đau hoành hành dữ dội. Trong lúc đau đớn, bà liền nghĩ đến đức Phật: “Đức Phật là bậc Đại Giác Ngộ. Ngài đã dạy con đường thoát khổ cho mọi người. Ai thật hành đúng theo lời Ngài dạy thì sẽ được thoát khổ và sẽ đạt đến quả vị Niết bàn”. Nhờ quán tưởng như thế, bà chịu đựng nhẫn được cơn đau. Bà bảo ông chồng thay bà đến đảnh lễ đức Phật. Ông bạch với đức Phật về những nguyện ước của bà. Đức Phật chúc bà an khỏe và sanh con trai.
Lời chúc nguyện của Phật vừa xong, bà liền hạ sanh đứa con trai trông thật kháu khỉnh, hồng hào, đẹp đẽ. Sau đó, bà thỉnh Phật và chư Tăng đến nhà thiết lễ cúng dường trai Tăng suốt bảy ngày. Lớn lên, cậu bé phục vụ hầu chư Tăng và rồi xuất gia tu hành đắc quả A la hán. Thấy thế, các thầy Tỳ kheo khác bàn tán về việc thầy Sivali phải ở trong bụng mẹ chịu khổ suốt bảy năm trời. Không hiểu lý do tại sao một thầy chứng quả A la hán cao quý, mà phải chịu cái cảnh khổ sở như thế? Các thầy thắc mắc và bạch trình với đức Phật. Đức Phật bảo:
- “Này các Tỳ kheo, đúng thật như vậy. Ông ấy giờ đã thoát hết khổ, đạt đến Niết bàn an lạc”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Vì niệm bất giác tạo nghiệp, mà chúng sanh mãi trôi lăn chịu nhiều khổ đau trong vòng luân hồi sanh tử. Nhận thức được con đường gồ ghề lầy lội sanh tử đó, chúng ta cần phải gấp rút lo tu hành. Phải thường xuyên quán chiếu lại mình. Phải nhìn thấy rõ đâu là con đường đưa đến khổ đau và đâu là con đường đưa đến an vui hạnh phúc. Đức Phật dạy ta phải tìm cho được nguyên nhân gây ra đau khổ. Có thấy được nguyên nhân, chúng ta mới có thể diệt trừ được. Sự sống, nếu chúng ta thiếu chánh kiến, chánh niệm, nhìn sâu vào cuộc đời, thì coi chừng chúng ta sẽ trở thành một cái máy người khi nào không biết. Khi tiếp cận với sự sống, chúng ta luôn đánh mất mình. Mất mình một cách thật oan uổng!
Hằng ngày, chúng ta hít thở không khí, ăn uống, làm việc tính toán đủ mọi thứ trên đời, nhưng có bao giờ chúng ta ý thức được rằng mình đang thở, đang cười, đang nói và đang ăn uống, làm việc v.v… chưa? Chắc là chúng ta không biết sự có mặt hiện thực của mình trong những lúc đó. Như vậy, chúng ta tự hỏi cuộc sống của mình là gì? Chỉ là ăn, mặc, ở, nói, cười, làm việc, giao tiếp v.v… và chỉ có thế thôi sao?! Không lẽ từ khi sanh ra có mặt với đời cho đến ngày nhắm mắt ra đi, chỉ có bao nhiêu việc ngần ấy cứ thế mà lặp đi lặp lại hoài thôi sao? Thật là phi lý và vô vị biết bao! Không. Sự sống không phải chỉ có đóng khung ngần ấy. Chúng ta phải khám phá tìm cho được cái gì cao quý chân thật hơn nữa trong đời sống. Nếu chúng ta chỉ biết dừng lại và thỏa mãn những nhu cầu cho sự sống ngang đó, thì vĩnh kiếp chúng ta vẫn mãi mãi trôi lăn trong cuộc đời đầy hệ lụy khổ đau nầy. Trong nhà Phật thường gọi là trôi lăn trong ba nẻo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) sáu đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người, và A tu la). Là người sống có lý tưởng mong cầu giải thoát, chắc chắn là chúng ta sẽ không bao giờ chịu dừng lại ngang đó.
Pháp cú trên, Phật dạy chúng ta muốn ra khỏi biển luân hồi ngu si lên bờ giải thoát, thì chúng ta phải luôn an trú trong thiền định (hằng sống trong tỉnh thức) không đòi hỏi tham muốn làm thỏa mãn những nhu cầu thèm khát của dục vọng sai khiến, không nên nghi ngờ nhân quả, con đường chánh pháp có khả năng đưa chúng sanh thoát khỏi mọi ràng buộc chấp trước khổ đau. Có thế, thì mới không uổng phí đời người, vì đã tìm ra một lẽ sống lý tưởng chân thật vậy.
Chuyện lược dẫn trên cho thấy, trong cảnh khổ đau cùng cực, bà Suppavasa đã liên tưởng đến đức Phật và những lời giáo huấn của Phật, làm cho cơn đau đớn hành hạ bà dịu lại. Đó là nhờ bà khéo tập trung tâm ý quán tưởng mạnh của bà. Điều nầy không phải dễ làm, nếu hằng ngày chúng ta không có sức huân tu đạo lực mạnh, thì khó mà được an tâm. Đối với người thường trong lúc đau đớn như thế, thì chỉ biết rên la nghĩ đến cơn đau nhức mà thôi. Do đó, muốn vượt qua khỏi khổ đau, ta phải có định lực thiền quán sâu mạnh. Không thể tu lai rai lơ là mà được như thế. Đến thầy Visali, mặc dù ở trong thai mẹ suốt bảy năm, nhưng nhờ căn lành trồng sâu, nên khi chào đời được sống hầu cận chúng Tăng và Phật. Nhờ đó mà ông được Phật hóa độ xuất gia tu hành thành A la hán. Hiện đời, chúng ta cố gắng huân tu thiện nghiệp sâu dày và gieo trồng căn lành với Phật pháp, thì nhứt định trước sau gì chúng ta cũng sẽ được đạt thành sở nguyện.
415. “Ai ở đời, đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
415. Xa bỏ dục lạc ngay tại đời nầy mà xuất gia làm Sa môn, không cho phát sinh trở lại, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who, having abandoned sensual pleasures, has renounced the household life and become a homeless one; has destroyed both sensual desire and continued existence – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Ai ở đời bỏ dục
Bỏ nhà, sống xuất gia
Trừ dục trừ hữu ái
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Mỹ Hải, Sundaramudda.
Theo truyện tích, Mỹ Hải là một thanh niên người Xá vệ, địa vị cao sang, sanh trưởng trong một gia đình giàu có, tài sản lên đến ức triệu. Chàng đến tinh xá, sau khi nghe Phật thuyết pháp, liền tỉnh ngộ và xin Phật xuất gia. Phật bảo phải được cha mẹ cho phép chấp thuận, thì Phật mới cho xuất gia nhập Tăng đoàn. Chàng tìm đủ mọi cách để thuyết phục cha mẹ. Cuối cùng, chàng được toại nguyện. Tuy cho con xuất gia, nhưng hai ông bà rất buồn lòng, mỗi khi thấy những đứa cùng lứa tuổi với con mình vui chơi, thì ông bà rất nhớ đến con. Trong khi hai ông bà buồn tủi rơi lệ khóc than, thì bỗng có một cô gái giang hồ đến nhà khuyên lơn an ủi. Nàng ta hứa sẽ tìm cách kêu thầy Mỹ Hải về nhà, với điều kiện là ông bà sẽ cho cô làm nữ gia chủ của căn nhà nầy. Ông bà đồng ý và cho nàng tiền lệ phí.
Nàng đến thành Xá vệ và tìm cách gần gũi dâng cúng phẩm vật cho thầy, mỗi khi thầy đi khất thực. Sau vài ngày, nàng thỉnh thầy Mỹ Hải về nhà cúng dường. Nàng bày mưu kế cho các đứa trẻ trong làng khi thấy thầy Mỹ Hải đến nhà thọ thực, thì chúng đến làm tung bụi thật nhiều cho dính đầy mình thầy. Dù lúc đó, nàng có la rầy, chúng cũng vẫn cứ làm, nàng căn dặn những đứa trẻ làng như thế. Hôm sau, khi thầy Mỹ Hải đến chúng làm y như lời nàng dặn. Thấy thế, nàng mời thầy vào nhà để tránh bụi bặm. Nàng dặn bọn trẻ, trong lúc thầy dùng bữa, các cháu chạy giỡn làm ồn náo lên. Các trẻ làm ồn, nàng thỉnh thầy lên tầng lầu trên. cứ như thế, cho đến khi lên đến tầng cao nhứt của ngôi biệt thự. Thế là, thầy không còn giữ gìn quy cũ theo phép khất thực từng nhà nữa, mà thầy lại bị quản thúc trên tầng lầu cao nhứt. Đó là do cô gái điếm bày ra đủ mọi cách quyến rũ thầy.
Bấy giờ, thầy chợt tỉnh ra vì biết mình đã phạm trọng giới và bàng hoàng lo sợ. Đức Phật biết được tâm ý thầy, liền mỉm cười rồi đức Phật bảo Ngài A nan: một trận chiến đang xảy ra giữa thầy Mỹ Hải và cô gái điếm giang hồ ở trên tầng lầu cao nhứt của ngôi biệt thự sang trọng. Tôn giả A nan nghe thế hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, ai sẽ thắng? ai sẽ thua?
Phật bảo: A nan, thầy Tỳ kheo Mỹ Hải sẽ thắng, cô gái giang hồ sẽ thua. Nói xong, đức phật liền phóng hào quang ảnh hiện thân đến trước Tỳ kheo và nói:
- “Này Tỳ kheo, hãy xa lìa các thứ tham ái, hãy cởi bỏ mọi dục vọng”.. Nhân đó, Phật nói bài kệ của pháp cú nầy. Nghe xong, thầy Mỹ Hải liền đắc quả A la hán, dùng thần thông bay lên trời, xuyên qua nóc nhà cô gái điếm, trở lại thành Xá vệ, đảnh lễ tán thán thân Phật. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Hạnh nguyện của người xuất gia là tìm phương cách giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sanh. Đó là con đường cao thượng mà chỉ có những người dám cương quyết từ bỏ mọi dục lạc thế gian mới có thể hoàn thành sứ mạng được. Chuyện tích trên, thầy Mỹ Hải là người đã thắng được lòng ham muốn ái dục. Dục ái mà Phật muốn nói ở đây, đó là thứ tình yêu thương nam nữ. Rộng hơn là trong gia đình thân thuộc. Đó là thứ tình yêu nằm trong phạm vi bảo thủ ái kiến.
Tình yêu nam nữ, đứng về mặt xã hội nhơn văn truyền chủng, thì không có gì là tội lỗi cả. Vì nếu không có thứ tình yêu thương nầy thì xã hội loài người, tất nhiên là sẽ bị diệt chủng. Đây là điều mà xã hội xưa nay đều thừa nhận như thế. Tuy nhiên, phải là thứ tình yêu thương chánh đáng trong việc hôn nhân. Đây cũng là nền tảng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều nầy, đối với các tôn giáo cũng đều thừa nhận như thế. Riêng Phật giáo, trong năm nguyên tắc xây dựng đạo đức căn bản cho con người mà Phật đã chế ra, thì nguyên tắc thứ ba, (hay giới cấm thứ ba) là Phật dạy, sau khi thành hôn, người Phật tử tại gia chỉ một vợ một chồng, không được tư tình lang chạ đối với người khác phái. Vì như thế, sẽ mất hạnh phúc gia đình. Đó là nguyên tắc để bảo vệ hạnh phúc gia đình, chớ không phải là thứ giới điều ràng buộc khắc khe như có một số người lầm tưởng. Đó là nói người Phật tử tại gia. Còn đối với người xuất gia, vì muốn thoát ly sanh tử khổ đau, nên cam nguyện sống độc thân giữ gìn phạm hạnh thanh tịnh. Chỉ có thế, mới mong dứt bỏ mọi ràng buộc từ ngoại cảnh cho đến thân tâm. Nhất là đối với những ràng buộc của kiết sử phiền não. Có buông bỏ gánh nặng nầy, thì người xuất gia mới đạt thành sở nguyện giác ngộ và giải thoát.
Chuyện lược dẫn trên, ta thấy thầy Mỹ Hải tuy bị cô gái giang hồ bày mưu hãm hại, nhưng thầy còn có quyết tâm giữ được đạo hạnh của mình, chưa đến đỗi phải phá giới thể. Đồng thời, thầy còn có đầy đủ phước duyên là nhờ đức Phật giải cứu kịp thời. Nếu không, thì không biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào? Thời Phật, các bậc xuất gia tu hành, đầy đủ giới hạnh, mà còn bị những kẻ ác tâm bày mưu quỷ quyệt hãm hại như thế, so với thời nay, là thời pháp nhược ma cường, thử hỏi người tu hành làm sao tránh khỏi những cảnh bày mưu hãm hại như thế?! Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhứt, là khi bị người hãm hại liệu chúng ta có thể vượt qua được không? Hay chúng ta sẽ bị rơi vào cạm bẫy của họ. Ngày xưa khi lâm nạn, còn có Phật hiện thân đến cứu hộ, thử hỏi ngày nay ai là người sẽ giải vây cứu thoát mình? Thiết nghĩ, cách hay nhứt là chỉ có mình nên ý thức và phải nên dè dặt cẩn thận tự cứu lấy mình là hơn!
416. “Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.”
417. “Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
416. Xa bỏ ái dục ngay tại đời nầy mà xuất gia làm Sa môn, không cho phát sinh trở lại, người như thế, Ta gọi Bà la môn.
He who, having abandoned craving, has renounced the household life and become a homeless one, has destroyed both craving and continued existence – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Ai ở đời trừ ái
Bỏ nhà, sống xuất gia
Trừ ái, trừ thọ sanh
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tôn giả Jatila.
Theo truyện tích, thầy Jatila trải qua bảy kiếp, kiếp nào cũng vậy, vừa mới chào đời, thầy đều bị bỏ xuống sông, và kiếp nầy là kiếp cuối cùng. Do hai người con lớn không phụ giúp với cha nên không được thọ hưởng núi vàng, chỉ có người cha và đứa con út được thôi.
Quan chưởng khố sau khi dặn bảo các con, ông theo Phật xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán. Có lần, đức Phật và chúng Tăng đến nhà các con ông khất thực và được các người con cúng dường vật thực liên tiếp suốt nửa tháng. Sau đó, các thầy Tỳ kheo bàn tán và rồi hỏi thẳng thầy Jatila: thầy bỏ núi vàng vá các người con mà đi xuất gia, như thế, thầy có luyến tiếc hay hãnh diện không? Thầy trả lời: không bao giờ luyến tiếc và hãnh diện. Các vị khác cho câu trả lời của thầy, là thiếu thành thật, chỉ nói dối lường gạt mình mà thôi. Đó là phạm tội vọng ngữ. Nghe thế, đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo rằng:
- “Này các Tỳ kheo, đúng là ông ấy chẳng tiếc nhớ hoặc hãnh diện về việc làm của ông”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Tài sản của cải là những thứ vật chất sở hữu của con người không phải ai cũng có thể bỏ được. Chỉ trừ những người ngộ đạo. Sau khi nhận ra được lẽ thật của cuộc đời, tất cả chỉ là vô thường huyễn hóa, thì họ mới có thể mạnh dạn dứt bỏ mà không một chút hối tiếc. Trường hợp như ông cư sĩ họ Bàng ở Trung hoa vào thời đại nhà Đường. Sau khi lãnh hội được yếu chỉ Thiền tông và sáng đạo, ông liền đem tất cả số vàng mà bấy lâu nay ông và gia đình của ông đã dành dụm được đều đem bỏ xuống sông hết. Việc làm của ông, đã làm cho nhiều người phải ngậm ngùi tiếc núi. Vì họ nào có biết được việc làm của ông. Do lòng tham muốn, nên họ mới luyến tiếc và trách cứ ông đủ thứ.
Có người còn thắc mắc: tại sao ông không đem số vàng đó hiến tặng cho người khác, như vậy, có phải là lợi ích lắm không? Chớ tại sao ông lại đem vứt bỏ như thế? Họ đâu có biết rằng, ông đã dứt bỏ lòng tham muốn. Một khi mình đã dứt bỏ tham muốn, nếu đem cho người khác, thì lại khơi dậy tạo cho người ta tăng thêm lòng ham muốn. Mình đã dứt bỏ lẽ ra phải khuyên người dứt bỏ mới phải, có đâu lại tạo cho người ta như thế. Như vậy, thử hỏi việc làm của mình chẳng có ý nghĩa ích lợi gì hết! Do nghĩ thế, nên ông vứt bỏ tất cả mà không một chút luyến tiếc. Sau đó, ông và gia đình ông làm lụng vất vả kiếm tiền vừa đủ để độ nhựt qua ngày. Như thế, thì mới diệt trừ được lòng tham. Đó là một việc làm mà từ xưa tới nay, đối với người thường trong thiên hạ, thật khó có ai dám làm như thế.
Qua việc làm đó, với cái nhìn của đạo Phật, tuy ông không có thế phát xuất gia ở trong chùa, nhưng mà lòng ông đã xuất gia rồi. Vì nghĩa thứ hai của hai chữ xuất gia là ra khỏi nhà phiền não. Quả thật ông đã ra khỏi ngôi nhà phiền não, dù thân xác ông đang ở trong ngôi nhà thế tục. Chính ra khỏi ngôi nhà phiền não, đó mới thật là điều quan trọng. Ngược lại, thân tuy ở trong chùa, mà tâm thì vẫn còn dính mắc chấp trước vào trần cảnh, rồi cũng tham, sân si, chấp ngã đủ thứ, lòng ham muốn sắc trần cũng vẫn còn đầy dẫy nguyên vẹn, như thế, Phật nói đó chưa phải là người thực sự xuất gia. Đó chỉ mới được hình tướng xuất gia thôi, chớ tâm tánh thì chưa có xuất gia. Người xuất gia đúng nghĩa của nó là phải xuất gia cả hai: thân và tâm đều phải xuất gia, rõ ra là tâm hình phải dị tục. Như thế, thì Phật nói mới xứng danh xuất gia làm Sa môn vậy.
Chuyện lược dẫn trên, là một chứng minh cụ thể của thầy Jatila. Thầy đã từ bỏ tất cả, không một chút luyến tiếc. Nhờ buông bỏ như thế, nên tâm thầy không còn bị vướng mắc ràng buộc. Do đó, mà việc hành trì thiến quán của thầy mới mau thành tựu kết quả. Thầy dứt sạch hết phiền não và đã trở thành một vị A la hán.
417. Rời khỏi trói buộc của nhân gian, vượt khỏi trói buộc ở thiên thượng, hết thảy trói buộc đều xa lánh, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who, casting off human bonds and transcending heavenly ties, is wholly delivered of all bondages – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Bỏ trói buộc nhân gian
Khỏi trói buộc thiên giới
Giải thoát mọi buộc ràng
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tôn giả Jotika.
Theo truyện tích, sau khi giết vua cha, vua A xà thế lại muốn đánh chiếm tòa lâu đài của quan chưởng khố. Khi kéo quân xuất chinh, bóng của nhà vua và đoàn quân phản chiếu trên các bức tường chạm châu ngọc, vua nghĩ, như thế là đối phương đã có sự phòng bị sẵn sàng chiến đấu, nên nhà vua không dám tiến lại gần.
Hôm ấy, nhằm lúc quan chưởng khố trai giới thanh tịnh và đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Trong khi đó, vua A xà thế bị thần gác cổng quở trách và đánh cho một trận thất kinh hồn vía. Nhà vua chạy trốn vào tinh xá, bất thần gặp quan chưởng khố. Nhà vua kinh ngạc và hai bên lời qua tiếng lại tranh luận với nhau. Nhà vua thì muốn chiếm đoạt hết gia tài sản nghiệp của quan chưởng khố. Quan chưởng khố thì lại thách thức nhà vua bằng cách cho nhà vua thử lấy được hai mươi chiếc nhẫn đang đeo trên tay. Nhà vua cố sức lấy mà không được. Qua hành động của nhà vua, quan chưởng khố cảm thấy ngao ngán cho tình đời rối xin Phật xuất gia. Xuất gia tu hành không bao lâu Jotika chứng quả A la hán. Khi đắc quả, mọi của cải châu ngọc quý giá đều tan biến hết và chư thiên đưa cô vợ Satulakayi của ông về xứ Uttarakuru.
Một hôm. Các thầy Tỳ kheo hỏi Tôn giả Jotika:
- Này huynh Jotika, huynh có nhớ tiếc tòa lâu đài hoặc vợ huynh không?
- Thưa chư huynh không.
- Bạch Thế Tôn, thầy Tỳ kheo này nói dối, phạm tội vọng ngữ.
Đức Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, đúng là ông ấy chẳng tiếc nhớ gì những thứ ấy”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Lòng tham vọng của con người thật không có đáy. Không bao giờ người ta trám cho đầy cái lỗ trống tham lam khổng lồ đó. Người ta chỉ muốn thêm chớ không ai muốn bớt. Vẫn biết càng tham lam càng khổ lụy nhiều, nhưng thà chịu khổ, chớ không một ai biết dừng lại. Vua A xà thế là điển hình cho mẫu người đầy tham vọng đó. Lòng tham vọng của các ông vua còn gấp trăm ngàn lần hơn người thường. Các ông là những người nghèo nhứt thiên hạ. Dù ngồi trên địa vị cao sang quyền uy tột đỉnh, nhưng các ông không bao giờ hài lòng biết đủ. Chỉ trừ các bậc minh quân biết tu hành và có lòng đạo đức nhân hậu. Đối với các ông vua nầy, các ông thương dân còn hơn bản thân mình. Chỉ có các ông vua đức độ hiền lương như thế, mới có thể biết khắc phục lòng tham của chính mình. Đây là các ông vua của Chánh pháp, chỉ biết mưu cầu làm lợi ích cho muôn dân. Các ông vì ích nước lợi dân, nên sẵn sàng dẹp lòng vị kỷ mưu cầu quyền lợi cá nhân mình. Điển hình cho các bậc Thánh quân nầy, ở Ấn Độ, thì có A Dục Vương, ở Việt Nam thì có vua Trần Thái Tông v.v… Họ đều là những ông vua đặt quyền lợi của quần chúng nhơn dân lên trên cái quyền lợi của bản ngã vị kỷ. Ngoài ra, tất cả đều là những ông vua vị kỷ chứa đầy tham vọng quyền lực nhằm thụ hưởng cho cá nhân mình.
Vua A xà thế, muốn chiếm đoạt tài sản của quan chưởng khố, nhưng cuối cùng, ông bị thất vọng, vì có thần linh ngăn cản đánh dẹp. Câu chuyện mới nghe qua như có vẽ hoang đường, nhưng nếu chúng ta ngẫm kỹ, thì mới thấy được cái hay của nó. Trên đời không có lòng tham nào thỏa mãn vừa ý. Thần linh là biểu trưng cho trí huệ nhận xét, phải khéo biết dừng lại. Nếu không, thì hậu quả sẽ không thể lường được. Nhà vua chạy vào tinh xá gặp quan chưởng khố, dùng mọi cách để chiếm đoạt hai mươi chiếc nhẫn, nhưng nhà vua đã thất bại. Thế mới biết, quyền lực không thể sánh được với thần lực của trí huệ. Chỉ có ánh sáng trí huệ chiếu soi mới phá trừ được màn đêm tăm tối dày đặc của vô minh tham vọng. Khi trí huệ bừng sáng, mới nhận ra được cảnh giả huyễn của cuộc đời. Quan chưởng khố nhìn thấy được bản chất lòng tham vọng của nhà vua, đâm ra chán ngán cho thế sự tình đời, dùng mọi thủ đoạn quyền lực để chiếm hữu quyền lợi của kẻ khác dưới tay mình, nên ông nhứt quyết buông bỏ tất cả, để theo Phật xuất gia. Và với ý chí cương quyết buông bỏ tất cả đó, tu hành không bao lâu ông được chứng quả A la hán.
Pháp cú trên, Phật dạy chúng ta phải buông bỏ tất cả mọi ràng buộc, không những ở cõi người mà kể cả ở cõi trời. Có buông xả xa lánh hết mọi thứ, thì hành giả mới mong giải thoát an vui được.
418. “Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.”
419. “Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
418. Xa bỏ những điều đáng mừng và điều không đáng mừng, thanh lương không phiền não, dũng mãnh hơn thế gian, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who, having cast off likes and dislikes, has become tranquil, is rid of the substrata of existence and like a hero has conquered all the worlds – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Bỏ điều ưa, điều ghét
Thanh lương, không nhiễm ô
Hùng dũng thắng mọi cõi
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo trước khi xuất gia là diễn viên kịch câm.
Theo truyện tích, nội dung cốt chuyện cũng giống như chuyện lược dẫn trên, chỉ có khác chút ít là qua lời đức phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, ông ấy đã bỏ điều ưa, điều ghét”. (Hết phần lược dẫn)
Ưa và ghét là hai phạm trù tương phản làm cho tâm trí người ta thường bấn loạn. Ưa hay ghét cũng là biến dạng khuấy động của tâm thức. Ưa thích là theo chiều hướng thuận lý, kích thích tính đam mê, thỏa mãn cho dục vọng thèm khát. Nó là chất liệu ngọt dễ đưa bạn vào cửa chết mà bạn không hay biết. Thường người ta ưa thích một đối tượng nào đó, chỉ vì đối tượng đó nó phù hợp với sở thích của họ. Đó cũng là biến thể của lòng tham, khởi từ vọng thức phân biệt mà sanh ra. Sự ưa thích nào nó cũng có bắt nguồn từ một thói quen ban đầu. Thói quen đó được tái diễn lặp đi lặp lại lâu ngày thành tích lũy nghiệp. Bạn sử dụng thói quen đó thường ngày, tạo thành tập quán nghiệp. Khi hạt giống ưa thích thuần thục rồi, thì nó có một sức mạnh thúc đẩy bạn hành động theo mệnh lệnh của nó sai khiến.
Đứng trên bình diện tương đối mà nói, thì thói quen ưa thích có hai mặt: lợi và hại. Về mặt lợi, thì đó là những thói quen tốt làm lợi ích cho mình và người. Như những thói quen tụng kinh, niệm Phật, bố thí v.v… Nói chung là những thói quen hành thiện giúp người. Cũng có những thói quen giải trí lành mạnh, như thể dục thể thao, đi bộ, bơi lội v.v…Đây là những thói quen rất bổ ích cho sức khỏe của bạn. Bạn cần nên luyện tập cho có những thói quen tốt nầy. Có thế thì đời bạn mới cảm thấy vui tươi yêu đời. Ngược lại, là những thói quen xấu. Như những thói quen cờ bạc, hút xách, rượu chè v.v… Đó là những thói quen có tác hại cho đời bạn rất lớn. Nếu bạn là người muốn có một đời sống lương thiện hạnh phúc, thì xin bạn hãy nên xa lánh những thứ thói quen xấu ác nầy. Đó là bạn khéo biết xây dựng đời sống bản thân và gia đình của bạn được an ổn vui tươi và hạnh phúc.
Đó là luận về mặt tương đối theo cách sống thế gian, còn đứng về mặt tuyệt đối hay Chơn đế mà nói thì, đức Phật dạy chúng ta phải vượt lên trên hai phạm trù đối nghịch nầy. Phật dạy phải xả bỏ những điều đáng mừng và điều không đáng mừng. Có xả bỏ như thế, thì tâm ta mới được thanh tịnh. Nghĩa là chúng ta không còn bị những cặp đối đãi nầy khuấy rầy chúng ta nữa. Được thế, mới thật là người mà Phật nói dũng mãnh hơn thế gian, vì những thứ phiền não gây ra đau khổ không còn. Đến đây mới thực sự là con người hoàn toàn tự do giải thoát.
419. Nếu biết tất cả loài hữu hình tử thế nào, sinh thế nào, rồi đem tâm khôn khéo vượt qua, không chấp trước như Phật, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He who in every way knows the death and rebirth of all beings, and is totally detached, blessed and enlightened – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Hiểu mọi cảnh sanh tử
Tất cả loài hữu tình
Giải thoát thiện thệ Phật
Ta gọi Bà la môn.
420. “Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La hán.
Ta gọi Bà-la-môn.”
421 “Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
420. Dù chư thiên, càn thát bà hay nhơn loại, không ai biết được nơi chốn của những vị A la hán đã dứt sạch phiền não, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He whose track no gods, no angels, no humans trace, the Arahat who has destroyed all cankers – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Thiên nhân Càn Thát Bà
Không rõ chỗ thọ sanh
Lậu tận A la hán
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Hai pháp cú nầy đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Vangisa.
Theo truyện tích, tại thành Vương xá, có người Bà la môn tên là Vangisa, chuyên gõ đầu lâu của người chết mà đoán biết họ thác sanh về đâu. Một nhóm Bà la môn khác lợi dụng Vangisa để lừa bịp lòng tin và moi tiền của thiên hạ. Họ cho Vangisa mặc đồ khác lạ rồi đưa ông ta đi loan báo khắp nơi.
Tin đồn đến tai mọi người, họ kéo nhau đến đưa tiền nhiều ít tùy theo túi tiền của họ, và rồi họ nhờ Vangisa coi giùm cho những thân nhân của họ đã chết thác sanh về cảnh giới nào.
Cứ thế rày đây mai đó lang thang hết chỗ nầy đến chỗ khác lường gạt mà mắt làm tiền thiên hạ. Một hôm, cả bọn đến thành Xá vệ rồi họ ở gần tinh xá Kỳ Viên. Thấy mọi người kéo đến nghe Phật thuyết pháp, họ chận lại và quảng cáo thuyết phục mọi người đến gặp Vangisa. Sau khi hai bên bàn cãi tranh luận hơn thua không ngã ngũ, cuối cùng, họ đưa ra một đề nghị là hãy mời Vangisa đến tinh xá gặp đức Phật. Tất cả đồng ý. Phật biết rõ sự tình, khi họ kéo đến nơi, đức Phật đặt năm cái đầu lâu thành một hàng dài để cho Vangisa tiên đoán. Trong năm cái đầu lâu của năm người mỗi người thác sanh về mỗi cảnh giới khác nhau. Chỉ có một cái sọ thứ năm là cái sọ của một vị đã đắc quả A la hán. Phật hỏi Qua bốn chiếc sọ, Vangisa đều trả lời đúng hết. Phật hỏi sọ thứ năm, Vangisa lắc đầu chịu thua không biết. Sau đó, Vangisa thỉnh cầu đức Phật chỉ dạy thuật tiên đoán, đức Phật không hứa khả, Phật chỉ dạy, với điều kiện khi nào ông xuất gia làm Sa môn. Thế là, Vangisa đồng ý xuất gia và Phật dạy cho ông một đề mục thiền quán, không bao lâu ông đã đắc quả A la hán. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Khi sanh ra, không ai biết mình từ đâu đến. Khi chết đi, cũng không ai biết mình sẽ đi về đâu. Cả hai đến và đi đều mù tịt. Đó là thân phận u mê tối tăm của con người. Khi chết, ai cũng muốn biết thân nhân ruột thịt của mình sẽ tái sanh về đâu. Đó là tâm lý chung thường tình của con người. Dù trong lúc còn sống, đôi khi người ta thù ghét nhau thậm tệ đến đổi hai bên không muốn nhìn thấy mặt nhau. Họ căm thù đối xử tệ bạc độc ác với nhau. Họ dùng mọi thủ đoạn mánh khóe để tranh chấp hơn thua tàn hại lẫn nhau. Ấy thế mà, khi một người thân (dù người đó họ rất ghét) chết đi, thì người còn ở lại vẫn ngậm ngùi thương nhớ. Lúc đó, họ mới thực sự biểu lộ tình cảm của họ.
Như vậy, thù ghét âu cũng là bộ mặt trái của thương yêu. Vì quá thương nên quá ghét. Điều nầy, cứ nhìn vào những cặp vợ chồng, khi có một người ngoại tình, thì người kia nổi máu ghen tuông như thế nào, ai cũng thấy rõ. Người nào ghen tuông nhiều là vì người đó quá thương. Không thương, thì làm sao có ghét. Ở đời, cũng có những mặt trái mà lòng người khó đoán định được. Như thế, thì tại sao lúc còn sống mình không đối xử với nhau cho đẹp, mỗi người chịu khó nhường nhịn với nhau một chút có phải hay hơn không? Cứ đối xử tốt đẹp với nhau đi, đến khi chết, mình cũng không có gì phải lưu luyến hối hận. Hãy nghĩ đến kiếp sống của con người thật quá ngắn ngủi, ai rồi cũng phải chết, hơn thua tranh chấp với nhau làm chi cho phải thêm đau khổ!
Chết, chỉ là một sự thay đổi của một cuộc hành trình mới. Nơi đến, có được an lành hay khốn khổ, là còn tùy thuộc vào nghiệp nhân hiện tại mình đã gây. Nếu hiện đời chúng ta gây nhân ác, thì nơi đến, chắc chắn là chúng phải lãnh lấy quả báo khổ đau. Ngược lại, nếu hiện đời chúng ta gây tạo nghiệp nhân lành, thì nơi đến, chắc chắn là chúng ta sẽ hưởng được quả báo an lành. Nếu hiện đời ta gây tạo nghiệp nhân lành, dữ lẫn lộn, thì tương lai ta cũng gặt hái quả báo có lành có dữ không nhứt định. Đó là căn cứ theo định luật nhân quả tất yếu như thế. Muốn biết đời trước ta gây tạo nhân gì, thì hãy nhìn cái quả báo hiện tại mà ta đang mang đây. Muốn biết quả báo đời sau của ta thế nào, thì chúng ta hãy chiêm nghiệm xét kỹ cái nghiệp nhân mà chúng ta đã và đang gây tạo.
Nhìn vào đời sống hiện tại, mỗi khi chúng ta muốn thay đổi chỗ ở, tức thay đổi địa chỉ mới, ai cũng muốn tìm nơi chỗ ở tương đối bảo đảm an toàn, không phức tạp ồn ào hay có nhiều xáo trộn bất an. Và căn nhà đó phải đảm bảo vững chắc, cũng như cảnh trí chung quanh vườn tược cây cối xinh tươi mát mẻ. Nghĩa là mọi thứ đều phải trang nhã thanh lịch đẹp đẽ. Muốn là như thế, nhưng điều kiện để được như ý mình muốn lại là một chuyện khác. Mình hãy xét lại, xem mình có đủ khả năng để đạt được nguyện vọng như ý mình muốn không? Hay là túi tiền của mình quá ít không thể nào thực hiện được.
Cũng thế, ai cũng muốn sau khi mình chết, tái sinh đến một cảnh giới an lành tốt đẹp. Muốn là như thế, nhưng mình hãy xét lại xem cái nhân hiện tại mình đang gây tạo đây, nó có tương ưng với quả báo tốt đẹp mà mình mong muốn hay không? Mình có đủ phước báo để tiếp tục thừa hưởng sự nghiệp tương lai an lành tốt đẹp hay không? Tất cả đều do mình quyết định. Khổ hay vui, lành hay dữ, mình hãy tự kiểm điểm lại những hành động tạo tác ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý của mình. Nếu ba nghiệp tạo lành, thì chắc chắn hiện đời và đời sau mình sẽ hưởng quả lành. Đó là mình khéo biết chọn địa chỉ mới nơi mình sẽ dọn đến ở để được đảm bảo an lành tốt đẹp hơn. Đời người trước sau gì chúng ta cũng phải thay đổi địa chỉ, không ai có thể ở hoài một chỗ được. Cũng vậy, ai rồi cũng phải ra đi, không ai sống hoài được. Thế thì, tại sao chúng ta không chuẩn bị cho mình có địa chỉ tốt, khi ngày mai mình dọn đến ở có thêm tươi sáng an lành đẹp đẽ hơn? Xin mọi người hãy nhìn lại thật kỹ nơi địa chỉ của mình đang ở và hãy tạo cho mình có một địa chỉ mới tốt đẹp hơn địa chỉ mà chúng ta đang sống trong hiện tại. Đó là nói địa chỉ trong vòng tương đối. Thực tế hơn, địa chỉ hạnh phúc an lạc nhứt đời ta là: “Bây giờ và ở đây”.
Chuyện lược dẫn trên, chứng minh một hạng người khéo biết lợi dụng thời cơ để lường gạt lấy tiền thiên hạ. Xã hội loài người thời nào cũng có những hạng người nầy. Tâm lý con người đôi khi nghĩ cũng buồn cười: vẫn biết hạng người chuyên môn quảng cáo nói láo ăn tiền, nhưng rồi, không hiểu sao thỉnh thoảng chúng ta cũng phải bị lầm lẫn mắc bẫy. Có nhiều người không phải chỉ mắc bẫy một lần, mà vướng phải nhiều lần. Thế mới chết! Ở đời, có muôn ngàn cạm bẫy đã gày sẵn, đôi khi chúng ta lại trở thành những con cừu non ngây thơ vướng vào. Một lần kinh nghiệm là một lần đau thương rát bỏng. Thế mà, nhìn lại, thỉnh thoảng chúng ta cũng bị mắc bẫy. Có phải vì người gày bẫy quá khéo léo tinh vi chăng, làm cho chúng ta phải bị mờ mắt không thể nhận ra. Nhưng đối với người có trí thì lại khác. Vangisa không lừa bịp qua đôi mắt sáng suốt tinh tế của đức phật. Cuối cùng, ông phải đảnh lễ hạ mình xin Phật xuất gia. Thế mới biết, ở đời không phải ai cũng dễ qua mắt lường gạt được. Coi chừng phải lãnh lấy cái hậu quả đau khổ gấp trăm ngàn lần của sự lường gạt đó!
421. Dù pháp quá khứ, vị lai hay hiện tại, người kia chẳng có một vật chi; người không chấp đắm một vật chi ấy, Ta gọi là Bà la môn.
He who clings to nothing of the past, present and future, who has no attachment and holds on to nothing – him do I call a holy
Kệ tụng
Ai quá, hiện, vị lai
Không chấp trước vật gì
Không chấp trước, chấp thủ
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Tỳ kheo ni Dhammadinna.
Theo truyện tích, Tỳ kheo ni dhammadinna khi chưa xuất gia có người chồng tên là Visakha. Ông là một Phật tử thuần thành. Sau khi nghe Phật giảng pháp, ông đắc quả A na hàm. Một hôm, ông tỏ ra khác thường hơn mọi khi. Ông không để ý gì đến bà vợ cả. Ông dùng bữa trong yên lặng, thay vì mời bà dùng bữa như trước kia. Bà vợ rất ngạc nhiên. Bà thầm nghĩ, không lẽ ông ta giận mình. Bà tự xét mình không có lầm lỗi điều gì. Dùng cơm xong, ông nói: nầy bà! tất cả tài sản của cải trong nhà nay tôi giao hết cho bà. Bà hãy gìn giữ lấy. Nghe thế, bà lại càng ngạc nhiên hơn! Tuy nhiên, bà cũng hỏi lại: còn ông thì sao? Ông nói: kể từ nay trở đi, tôi không dính dáng gì đến chuyện thế tục nữa. Bà nói: tôi cũng không hốt ba thứ đàm dãi mà ông đã nhổ ra. Vậy, ông cho tôi xuất gia làm Tỳ kheo ni. Ông chấp nhận ngay. Thế là bà được toại nguyện trở thành Tỳ kheo ni. Tu hành không bao lâu, bà chứng quả A la hán. Và sau đó, bà độ cho ông cũng được giải thoát. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Cách hành xử của cặp vợ chồng nầy thật hiếm có trên đời. Tuy là một cư sĩ, nhưng ông Visakha đã tu và chứng quả A na hàm. Đây lá quả vị thứ ba trong tứ quả Thanh Văn. Người chứng quả vị nầy, tuy chưa hết sạch phiền não như quả vị A la hán, nhưng đã diệt trừ hết phiền não thô trọng. Sự tu hành, làm sao chúng ta có thể quyết đoán trên hình thức. Vấn đề tu chứng của mỗi người, thật khó biết được, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Có những người nhìn bề ngoài, thấy họ dường như không biết tu hành gì, nhưng mà bên trong họ tu rất kỹ lưỡng. Một niệm dấy lên là họ nhận ra ngay. Những phiền não trong tâm họ vừa khởi lên, họ đều nhận diện ngay. Như vậy, ai có thể biết được họ đang an lạc giải thoát. Ngoại trừ chư Phật và Bồ tát. Cụ thể nhứt là tự họ biết rõ họ. Người tu thật hay tu giả tự mình biết lấy mình. Và mình cũng biết rõ, hiện mình đang ở đâu và tương lai sẽ về đâu. Đó là điều khẳng định không nghi ngờ. Vì không ai biết rõ bằng mình biết mình.
Điều kỳ thú hơn nữa, là sau khi lãnh hội giáo pháp, yếu chỉ tu hành, ông liền giao hết tài sản của cải cho bà. Ông không còn dính mắc gì đến tài sản nữa. Đó là điều nếu không phải là người đạt đạo, thì không phải dễ làm. Tiền tài của cải có mấy ai không ham muốn. Người nào cũng muốn chiếm hữu lợi lộc về mình cho nhiều. Không có một ai muốn nhả ra cho người khác hưởng, dù đó người là người thân nhứt của mình. Đối lại, bà vợ cũng không phải tay vửa. Một câu nói của bà, nếu không phải là người tu khá, thì làm sao thốt ra được như thế:“Tôi không hốt ba thứ đàm dãi mà ông nhổ ra”. Tài sản của cải, bà coi nó như là đàm dãi. Như vậy, đủ chứng minh tâm bà đã an lạc giải thoát đến mức độ nào. Một câu nói đáng cho chúng ta vô cùng kinh ngạc kính phục. Cuối cùng, bà đã xuất gia. Nhờ nỗ lực tinh tấn tu hành, không bao lâu bà chứng quả A la hán. Và rồi bà trở lại độ cho ông cũng được giải thoát như bà.
Pháp cú trên, chúng ta nên chú ý Phật dạy: “Đối với pháp quá khứ, vị lai hay hiện tại, người kia chẳng có một vật chi”. Qua lời dạy nầy, chúng ta nhớ lại trong kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật nói cũng có câu tương tự như thế. Nghĩa là Phật nói về ba thời tìm tâm không có. Tâm có đó là tâm vọng. Còn tâm chơn làm sao tìm thấy. Vì khi tâm vọng dấy khởi là có tướng trạng hình ảnh của sáu trần. Cái tướng trạng đó dù là rất vi tế, nhưng thực chất của nó vốn không. Vì cái tâm vọng tưởng đó là do duyên cảnh mà có. Không, là không có cái tâm vọng tưởng điên đảo, chớ không phải là không có cái tâm chơn thật. Xin chớ có lầm lẫn ngộ nhận điều nầy. Cái gốc khởi ra là giả, thì vật thể do tâm nương gá đặt định giả lập làm gì có thật. Thời gian đã không, không gian dời đổi, không có thứ gì tồn tại. Nói gọn là tất cả đều KHÔNG, tức tánh không của muôn pháp. Ngộ được tánh không nầy, thì gọi là đạt đạo. Không ở đây là không có phiển não, chớ không phải không trơn như lông rùa sừng thỏ. Câu kế tiếp Phật nói: “Người không chấp đắm một vật chi ấy, gọi là Bà la môn”. Không chấp vật chi là buông xả mọi thứ. Không phải buông cảnh vật bên ngoài không thôi mà buông ở đây là Phật nói phải buông những phiền não rối rắm trong tâm ta. Vì có buông xả như thế, thì cái bản tâm mới an nhiên tự tại giải thoát.
422. “Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.”
423. “Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn.”Lược giải
422. Hạng người dũng mãnh tôn quý như trâu chúa[20], hạng người thắng lợi[21]vô dục như đại tiên, hạng người tắm xong[22] sạch sẽ và giác tỉnh, người như thế, Ta gọi là Bà la môn.
He, the Noble, the Excellent, the Heroic, the Great Sage, the Conqueror, the Passionless, the Pure, the Enlightened one – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Trâu chúa, thánh, anh hùng
Bậc đại sĩ chiến thắng
Vô dục, phiền não diệt
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Angulimala.
“Câu chuyện nầy đã được kể trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: “Keo kiết không sanh thiên”.
Các Tỳ kheo hỏi Angulimala:
- Nầy huynh Angulimala, khi huynh thấy con voi độc cầm lọng đứng trước mặt, huynh không sợ sao?
- Không, thưa chư huynh , tôi chẳng sợ.
Các thầy Tỳ kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Angulimala nói dối.
Đức phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, Angulimala không sợ hãi, Bởi vì, trong số những bậc đại sĩ đã xa lìa tham ái, những Tỳ kheo như Angulimala là tôn quí nhất, và không sợ hãi nữa”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 435).
Pháp cú trên, đức Phật nêu ra ba hạng người dũng mãnh. “Hạng người dũng mãnh như trâu chúa”. Dũng nói ở đây là cái dũng của Thánh nhân. Cái dũng nầy khác hơn cái dũng của kẻ phàm phu. Đây là sức mạnh phi thường của nội tâm. Sứ mạnh dám hiên ngang đứng lên buông bỏ tất cả. Đó phải là bậc Đại Hùng. Muốn có được cái tâm đại hùng, thì phải có đại lực và đại từ bi. Chính nhờ cái tâm đại từ bi, mới thành tựu được cái tâm đại hỷ đại xả. Đức Phật Ngài buông bỏ tất cả để rồi có tất cả. Có cái mà người đời bình thường không thể có. Chính cái có đó mới lưu lại cho nhơn loại tôn thờ kính quý học hỏi. Còn những cái có của thế gian chỉ là trò chơi ảo huyễn. Người đời, vì không dám buông bỏ, nên mãi trôi lăn trong đau khổ. Muốn buông bỏ không chấp trước bất cứ vật gì, thì Phật nói phải là sức mạnh của con trâu chúa mới có thể làm nổi. Còn trâu nghé, trâu con, thì chắc là chỉ biết cúi đầu gậm lấy cỏ non sáu trần mà thôi. Muôn đời vĩnh kiếp không làm nổi trâu chúa.
Câu thứ hai, Phật nói: “Hạng người thắng lợi vô dục như đại tiên”. Thắng là khắc chế, là phải vượt ra ngoài cái vòng tròn danh lợi. Muốn làm bậc đại tiên là phải như thế. Phải là: “cái thân ngoại vật là Tiên trong đời” (Ôn Như Hầu). Vô dục là không có cái tâm mê say dục nhiễm. Bởi dục có dục thiện và dục bất thiện. Phật bảo chúng ta phải từ bỏ cái tâm dục nhiễm. Trừ bỏ những thứ ham muốn để cung phụng cho xác thân ngũ uẩn. Còn có dục nhiễm ái trước là còn có đau khổ. Mà còn có đau khổ, thì làm sao có thể làm Tiên cho được. Nếu chúng ta không làm được đại Tiên, thì ít nhất cũng phải làm tiểu Tiên. Nếu chúng ta bớt tham đắm đua đòi chạy theo vật chất, và an phận thủ thường biết đủ mà sống, thì đó là ta đang làm tiểu Tiên rồi. Nghĩa là ta không phải đau khổ nhiều trong trường danh lợi bon chen. Đó là ta đã chế ngự phần nào của lòng dục vọng rồi. Như vậy, muốn làm tiểu Tiên cũng không phải là khó. Vì Tiên là có nếp sống thoát tục an nhàn thanh thoát thảnh thơi, không vướng bận hệ phược vào những mùi tục lụy. Vì mùi tục lụy có nhiều cay đắng lắm! Ai đã từng nếm qua ít nhiều đều biết rõ. Không nếm thì thử hỏi làm gì có cảnh xảy ra lưỡi tê tân khổ chớ? Muốn lưỡi không bị tê, thì xin mọi người chớ có nếm. Hễ nếm nhiều thì bị tê nhiều. Càng nếm thì càng đau khổ đó thôi!
Câu thứ ba là Phật nói: “hạng người tắm xong sạch sẽ và giác tỉnh”. Nghĩa tắm Phật nói ở đây không có nghĩa là tắm thường. Mà chúng ta phải lấy nước từ bi để thường xuyên tắm gội. Có tắm bằng nước từ bi, thì thân tâm của chúng ta mới được tươi mát. Kế đến phải lấy nước giới luật để thường xuyên tắm gội. Vì có tắm bằng nước giới luật nầy, thì thân tâm của chúng ta mới được trong sạch. Nói gọn và dễ hiểu hơn là hằng ngày chúng ta phải dùng bốn thứ nước: Từ, Bi, Hỷ, Xả. của Bồ tát mà năng tắm gội cho thân tâm. Tắm cho sạch hết những thứ cáu bợn nhơ nhớp trong lòng. Nhất là tắm loại nước “Xả”, thì tâm hồn của chúng ta sẽ được tươi mát thơm tho thật là dễ chịu. Có tắm như thế, thì cuộc đời của chúng ta mới được thăng hoa và giải thoát.
423. Những vị Mâu ni (thanh tịnh) hay biết đời trước, thấy cả cõi thiên và các cõi đau khổ (ác thú), đã trừ diệt sự tục sinh, thiện nghiệp hoàn toàn, thành bậc vô thượng trí; người viên mãn thành tựu mọi điều như thế, Ta gọi Bà la môn.
He who knows his former births, who sees heaven and hell, who has reached the end of births and attained to the perfection of insight, the sage who has reached the summit of spiritual excellence – him do I call a holy man.
Kệ tụng
Ai biết được đời trước
Thấy thiên giới, ác thú
Trừ diệt sự tục sinh
Thắng trí, thiện, Mâu ni
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà la môn.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu hỏi của ông Bà la môn Devahita.
“Một hôm, đức Thế Tôn bị chứng khó chịu trong người, liền bảo Tôn giả Upavana đến nhà người Bà la môn tên Devahita xin nước nóng. Tôn giả đến, nói rõ chứng bệnh của đức Phật và xin ông Bà la môn nước nóng. Ông nghe vậy vô cùng hoan hỷ:
- Thật may mắn cho tôi quá, được dịp cúng nước nóng cho bậc Giác ngộ Vô thượng.
Ông lấy nước nóng và một bình mật mía đưa Tôn giả, ra lệnh cho một gia nhân mang phụ nước nóng đi.
Tôn giả thỉnh Phật tắm nước nóng, và pha mật bằng nước ấm cho Ngài dùng. Ngay sau đó cơn đau của Ngài dịu xuống.
Ông Bà la môn thầm nghĩ: “Người ta nên cúng dường ai để được phước lớn? Ta sẽ hỏi đức Thế Tôn”.
Ông đến gặp Phật và đọc một bài kệ:
Bố thí ai phước lớn?
Ai nên được cúng dường?
Thí chủ phải thế nào?
Mới được phước vô lượng?
Đức Phật dạy:
- “Một người Bà la môn như sau, cúng dường sẽ được phước báo rất lớn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 436).
Đức Phật đã chứng được Tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Nhờ chứng được tam minh, nên đức Phật thấu suốt tất cả vạn pháp. Thiên nhãn minh là Ngài thấu suốt tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo hình thành của nó. Túc mạnh minh là biết rõ thọ mạng sinh hoạt trải qua nhiều kiếp quá khứ của mình và của muôn loài sanh tử trong tam giới. Lậu tận minh là biết rõ nguồn gốc của khổ đau và phương pháp dứt trừ nguyên nhân gây ra đau khổ để được giải thoát sanh tử luân hồi. Đó là nhờ công phu thiền quán, dứt sạch hết vô minh phiền não, tâm được an nhiên tịch tịnh (mâu ni) nên mới được như thế. Các bậc Hiền Thánh, tuy các ngài không còn sanh tử như phàm phu, nhưng vì nguyện lực độ sanh, nên các ngài vẫn hiện thân khắp nơi trong ba cõi để chuyển mê khai ngộ cứu độ các loài hữu tình cho chúng được thoát khổ.
Đó là bản hoài của các Ngài thị hiện ra đời. Cho nên sự tái sinh của các bậc Hiền Thánh và phàm phu khác nhau là ở chỗ đó. Nghĩa là phàm phu vì nghiệp lực ra đời thọ khổ trả khổ quả đã gây, còn Bồ tát ra đời vì nguyện lực độ sanh, nên các Ngài không có đau khổ rên la như phàm phu. Có chăng, chẳng qua đó là các Ngài thị hiện cho giống với phàm phu để mà cứu độ cho họ thôi. Hiểu thế, thì ta không còn gì phải nghi ngờ rằng: tại sao các Ngài cũng đau bệnh rồi cũng sống chết như chúng ta? Ta nên nhớ, những bậc tu hành đạt đạo, tuy có trả nghiệp quả đã gây (theo cái nhìn vọng thức của chúng sinh) nhưng các Ngài không thấy có gì phải trả. Bởi vì nghiệp tánh bổn lai không hay ngũ uẩn giai không kia mà! Đã thế, thì có gì là trả hay không trả. Theo cái nhìn trong vòng vô minh nghiệp thức của chúng ta, thì thấy các Ngài dường như cũng bị trả quả đau khổ như người thường. Như những trường hợp: Tôn giả Mục kiền liên bị đám côn đồ đánh chết hay như Tổ Huệ Khả bị ngồi tù v.v… Nếu không hiểu, đôi khi chúng ta bị thối thất Bồ đề tâm, nghĩ rằng, các Ngài tu hành đến mức độ đó mà còn phải chịu trả quả như vậy. Chả lẽ công phu tu hành khổ nhọc, rốt lại cũng phải chịu như thế sao? Xin chớ có lầm nhận như thế mà mang tội với các Ngài.
Sự thị hiện của Bồ tát, với nhục nhãn của chúng ta làm sao có thể nhìn thấu suốt được. Thân phận phàm phu của chúng ta giống như người đang ngủ mê say không hay biết gì cảnh thức cả. Còn các vị đã giác ngộ giống như người đã thức giấc. Các Ngài nhìn thấy rất rõ những gì đang xảy ra trong cảnh thức. Một người hoàn toàn thức nói cho một người hoàn toàn đang ngủ mê, thì thử hỏi làm sao người mê có thể hiểu được? Chỉ cần tỉnh mộng thức giấc như các Ngài, chừng đó dù các Ngài không nói, thì chúng ta cũng hiểu rõ không còn lầm lẫn nữa. Phật và chúng sanh chỉ khác nhau giữa mê và ngộ mà thôi. Mê ngộ như trở bàn tay. Muốn chấm dứt cảnh tái sinh thọ khổ, Phật dạy ta phải gắng tu hoàn thành thiện nghiệp. Đến đó, là ta trở thành bậc Vô thượng trí viên mãn thành tựu quả vị Bồ đề. Đó là thành Phật, là đấng toàn giác vậy. Đó là khả năng thành Phật có thể đạt được, vì nó sẵn tiềm tàng hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Câu nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Đức Phật đã xác minh khẳng định cho điều đó. Chúng ta không còn gì phải nghi ngờ. Vì mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân. Đã có sẵn Phật nhân, nếu chúng ta chịu khó gia công nỗ lực tu hành, thì một ngày nào đó, tất nhiên là ta sẽ đạt được Phật quả mà thôi. Vì đó là con đường đức Phật đã đi qua và đã chứng đắc thành tựu viên mãn vậy.
Lời cuối sách
Thật là một cơ duyên hy hữu cho chúng tôi. Trong mùa an cư năm 2005, khi thảo luận qua chương trình giảng dạy nhằm giúp cho chư Tăng Ni học chúng tại Tổ Đình Phước Huệ, tôi nhận lãnh phần hướng dẫn giảng giải về Kinh Pháp Cú. Sau khi nhận lãnh trách nhiệm, tôi liền nghĩ ngay đến việc biên soạn thành tập tài liệu cho học chúng tiện bề theo dõi học hỏi.
Về những bản Việt ngữ, tôi chọn bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu. Vì bản dịch nầy trước kia tôi đã từng học qua, trong những năm còn học ở Phật Học Viện. Thêm vào đó, tôi muốn cho những Tăng Ni sinh trẻ tuổi có trình độ Anh ngữ khá, khi học tiện bề đối chiếu từ chữ Việt qua chữ Anh, nên tôi cho thêm phần Anh ngữ đối chiếu trong quyển Dhammapada của dịch giả Àcharya Buddharakkhita. Đồng thời, chúng tôi cũng có thêm vào những bài kệ do Hòa Thượng Thích Minh Châu phiên dịch từ trong nguyên bản Pali. Mục đích là để cho người học tiện bề đối chiếu qua bản văn trường hàng.
Ngoài phần chú thích một số những từ ngữ hơi khó hiểu ra, trong phần lược giảng, chúng tôi có lược dẫn hoặc trích nguyên văn những mẫu chuyện ngắn. Còn những mẫu chuyện nào khá dài thì chúng tôi chỉ tóm lược dẫn chứng lý do xuất xứ. Tuy tóm lược, nhưng chúng tôi vẫn giữ đúng theo ý chính của mỗi cốt chuyện. Phần trích dẫn những mẫu chuyện nầy, chúng tôi y cứ vào bộ Tích Truyện Pháp Cú 3 quyển của các Thiền sinh Viên Chiếu phiên dịch. Sau đó, là phần góp ý giảng giải đôi điều sơ sài của chúng tôi qua mỗi pháp cú. Mục đích là để cho người học tạm nhận hiểu qua phần nào về ý nghĩa của mỗi câu Phật dạy. Chúng tôi đặt danh đề là: “Kinh Pháp Cú Song Ngữ Chú Giải”.
Trong khi biên soạn để hướng dẫn trình bày qua mỗi mùa An cư kiết Đông tại Tổ Đình Phước Huệ, chúng tôi tạm phân ra mỗi mùa an cư là một tập. Khi đọc qua 4 tập, quý vị thấy số câu mà chúng tôi phân ra không đều, lý do, thú thật là vì chúng tôi không có ý định phân chia trước. Đó cũng là lỗi sơ ý của chúng tôi. Vì thế, nên tập đầu số câu nhiều hơn ba tập sau và số trang cũng nhiều hơn.
Lẽ ra, chúng tôi đã hoàn thành phần giảng giải bộ kinh nầy trong mùa an cư năm rồi (2008), nhưng mùa an cư của năm 2006, chúng tôi bị bệnh nặng nên phải ngưng trệ hết một kỳ. Vì thế, nên phải kéo dài đến năm nay (2009) mới hoàn tất.
Như chúng ta đã biết, Kinh Pháp Cú còn gọi là Kinh Lời Vàng. Đây là chư Tổ ghi lại những lời dạy vàng ngọc quý báu của Đức Phật. Những lời dạy nầy, tùy theo mỗi hoàn cảnh, tâm lý, địa phương, của người và việc xảy ra trong chúng ở mỗi nơi mà Đức Phật tùy cơ nghi chỉ dạy. Do đó, chúng ta thấy có những lời dạy đôi khi cũng được Đức Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Với mục đích là để răn nhắc cho hàng tứ chúng ý thức tu hành. Vì vậy, nên trong khi biên soạn trình bày, chắc chắn một điều là chúng tôi cũng không làm sao tránh khỏi sự trùng lặp những ý tưởng trong khi giải thích qua từng pháp cú một. Nếu có sự trùng lặp thì quả đó là ngoài ý muốn của chúng tôi. Kính mong quý độc giả lượng tình tha thứ bỏ qua cho sự mắc phải lỗi lầm nầy.
Sở dĩ chúng tôi trình bày dong dài như thế, là vì chúng tôi muốn nhân cơ hội nầy một lần nữa, để chúng tôi chân thành tri ân quý ân Sư, quý ân nhân đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp cho chúng tôi có đủ thiện duyên thực hiện hoàn tất bộ Kinh Pháp Cú Song Ngữ Chú Giải nầy.
Người trước tiên, thường khuyến khích và chỉ giáo cho chúng tôi là Hòa Thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ. Hòa Thượng đã tạo cho chúng tôi có được một cơ duyên thuận lợi tốt đẹp, để chúng tôi có dịp trình bày hướng dẫn đại chúng tu học trải qua các mùa an cư. Nhờ đó, mà chúng tôi mới có được trọn bộ tài liệu biên soạn nầy. Với thâm tình ân đức sâu nặng đó, chúng con xin thành kính bái tạ thâm ân Hòa Thượng.
Kế đến, là chúng tôi cũng xin chân thành cám ơn quý Tăng Ni học chúng, vì có quý vị theo học nên chúng tôi mới có cơ hội để biên soạn quyển Kinh nầy. Và trên hết, chúng con thành kính đảnh lễ tri ân cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Hòa Thượng Thích Minh Châu, nhờ có những bản dịch Việt văn căn bản của quý Ngài mà chúng con mới có cơ duyên giảng dạy hoàn thành. Đồng thời, chúng tôi cũng xin hết lòng tri ân dịch giả Àcharya Buddharakkhita và quý Ni sinh của Thiền Viện Viên Chiếu.
Về việc ấn bản, chúng tôi xin chân thành tri ân chư Tôn Đức Tăng Ni nhất là chư Tăng Ni ở Tổ Đình Phưóc Huệ và quý liên hữu Phật tử của hai đạo tràng Phước Huệ và Quang Minh, cũng như quý Phật tử ở các nơi khác đã phát tâm ủng hộ tịnh tài để góp phần công đức vào việc ấn tống pháp thí qua bốn quyển Kinh Pháp Cú Song Ngữ Chú Giải nầy. Đồng thời, chúng tôi cũng không quên tri ân quý thầy, quý sư cô và các Phật tử đã nhiệt tâm góp sức trong việc trình bày về kỹ thuật và sửa bản in.
Lời sau cùng, vì văn chương còn vụng về non nớt, ý tưởng khô khan nghèo nàn, trình độ kiến thức Phật học còn kém cỏi nông cạn, nên trong khi biên soạn trình bày, dù đã cố gắng hết sức mình, nhưng chắc chắn là chúng tôi cũng không làm sao tránh khỏi những lỗi lầm sai sót. Kính mong các bậc thiện hữu thức giả Phật học uyên thâm khi xem qua, nếu thấy có chỗ nào sai sót lỗi lầm, kính mong quý ngài niệm tình thứ lỗi và chỉ giáo cho. Chúng tôi xin cúi đầu hết lòng đón nhận lắng nghe những lời chỉ giáo quý báu của quý vị.
Xin tất cả nhận nơi đây lòng biết ân sâu xa đầy chân tình nhứt của chúng tôi.
Nguyện đem công đức pháp thí nầy hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Tổ Đình Phước Huệ, mùa an cư năm 2009
Ngày 29 tháng 6 năm 2009 (mùng 7 tháng 5 năm Kỷ Sửu)
Tỳ kheo Thích Phước Thái.
Chú thích:
(1) Thiền Chỉ và Thiền Quán
(2) 6 nội xứ, 6 ngoại xứ
(3) Sự trả đủa, trả thù
(4) Hận.
(5) Ái.
(6) Tà kiến.
(7) Tuỳ miên.
(8) Vô minh.