Không có kẻ thù

Không có kẻ thù

Mục lục

Trong kinh Pháp Cú đức Phật đã dạy: “Thắng thì thêm thù oán/ Bại chuốt lấy khổ đau/ Hơn thua đều xả bỏ/ Sống an lạc dài lâu”. Ôn lại vài lời Phật dạy để nhắc nhở nhau về cách tháo gỡ mọi tranh chấp, bất hạnh, mọi xung đột, nhằm chuyển hoá các mâu thuẫn và khổ đau giữa những người thân, giữa các cộng đồng, giữa mọi dân tộc trên thế giới. Làm được như thế thì hoà bình sẽ nở trong tâm mọi người và ở mọi nơi, nhờ đó hạt giống của thù hận và giết chóc được chuyển hoá đến tận cùng gốc rễ. “Không Có Kẻ Thù” chính là lời khuyến tấn để tiến đến đời sống hoà bình và an lạc.

Chương 1: Không có kẻ thù

Ngày  11-9-2001, ai cũng  đều biết  đến  bản  tin những kẻ khủng bố đã gây  ra nỗi kinh hoàng tại hai tòa tháp  đôi Trung tâm Thương mại của Mỹ. Nghiên  cứu nguyên  nhân sâu xa,  ta thấy sự khủng  bố có mặt  trên cuộc  đời này  từ khi con người biết  yêu  và ghét. Thù hận được  gieo  rắc trong các tình huống khác nhau, phát  triển  rất nhanh chóng và  được  nuôi dưỡng dưới hình thức xung  đột  về ý  thức  hệ chính trị, ý  thức  hệ tôn giáo  và giữa bản  ngã  của  các  cá nhân. Bất  cứ khi nào, nơi đâu lòng thù hận chưa được rửa sạch  thì nỗi khổ niềm đau  và tình trạng khủng bố sẽ có mặt.

Qua chuyên đề này chúng tôi xin chia sẻ lời Phật dạy về cách thức  hóa giải lòng hận thù. Đây là  những  viên thuốc rất bổ dưỡng cho  tâm linh. Phục  hồi sức khoẻ tinh thần chính là tiến trình tìm lại cuộc sống yêu thương vốn có. Như trong  buổi pháp thoại,  vị Hòa thượng giảng về đề tài Xóa bỏ hận  thù, xong ngài hỏi các Phật tử:

- Ở  trong đây ai đã xóa được  lòng hận thù?

Có ông  lão khoảng 80 tuổi,  đứng  dậy xung phong trình bày. Rất nhiều  cặp mắt hướng về phía ông  với thái  độ ngạc nhiên.

- Thưa thầy tôi không  còn hận thù nữa. Hòa thượng hỏi:

- Ông tu tập phương pháp nào mà hoá giải được hận thù hay thế?

- Thưa  thầy, những kẻ phá phách  tôi, hại tôi, muốn  giết tôi đều bị Diêm  Vương bóp cổ chết  hết  trơn rồi!

Câu  trả lời như khôi hài, nói lên trạng thái tâm lý  mà nhà Phật gọi là hận  thù.  Nó được  tiềm  tàng dưới dạng  cảm xúc “Tuỳ miên,” tức ngủ ngầm,  luôn bám víu theo. Rõ ràng  ông  lão chưa dứt được  lòng hận thù. Đối tượng tạo ra sự thù hận cho ông không  còn trên  cuộc đời, nên lòng hận thù đó tạm thời  được nguôi ngoai.  Nếu như những người đó chưa  chết thì lòng hận thù  có thể  lớn  và trưởng  thành  một cách rất trung thành theo cuộc sống của ông. Nghĩa là sau khi ông qua  đời nó tiếp tục  trở thành người đồng hành và nỗi khổ niềm  đau  vẫn tiếp tục tiềm ẩn dưới dạng  tùy miên.

Nếu phân tích theo ngôn ngữ triết học Phật giáo, tùy miên là trạng  thái tâm lý ngấm ngầm, luôn bám víu theo con người. Khi ta không thấy  sự biểu đạt  của lòng sân thông qua lời nói cộc  cằn,  hành động thô  lỗ thì cứ tưởng sân hận  không còn trong lòng. Nhưng mỗi khi nghe  người nào đó khơi lại nỗi khổ đau  khó quên trong quá khứ như bị cướp, giết, hãm hại đến nỗi mất hết  tất  cả nhân quyền, nhân phẩm lúc ấy, nỗi khổ đau và thù hận bắt đầu được  kích hoạt  sống dậy. Tình trạng đó  nhà Phật gọi là tùy miên  được  thể hiện như một trạng  thái trương phồng của bong bóng cảm xúc.

Nếu như có chất  xúc tác của những người xung quanh, lập tức  khí sân  hận sẽ được bơm vào  trong bong bóng tâm của chúng  ta.  Đến khi lực chứa không  còn chịu  đựng  được  nữa thì bong bóng này có thể  bị nổ tung thành từng mảnh.

Lòng thù hận kích hoạt trong tâm thức con  người  rất nguy hiểm.  Đến khi nào  tất  cả mọi chất  xúc tác không  còn ảnh hưởng được nữa, hoặc đứng trước những  hành động xúc tác đó mà tâm vẫn không  lay  động thì ta mới  có thể  tin tưởng được rằng mình đang  sống trong trạng  thái cảm thông,  hỷ xả, bao dung. Lúc  đó an lạc  bắt đầu có mặt, như là một dòng tĩnh  lặng không hề gợn  sóng  trên  bề mặt  tâm  thức.

Tùy miên  làm cho con người phải chạy theo quán tính. Quán tính này được  nuôi dưỡng  bởi sự biện hộ thông qua phong tục, tập quán, truyền  thống  văn hóa, là phải trả thù, phải răng đền răng, máu đền máu, ai mang nỗi khổ cho mình thì phải đền trả lại nỗi khổ cho  người  đó. Dĩ nhiên, kể  cả chủ nghĩa yêu nước cũng  được  đặt trên  nền tảng  của lòng hận thù.

Nhà Phật dạy ta uống nước phải nhớ nguồn, yêu quê hương, tổ  quốc, giống nòi, yêu tất cả các loài động vật, môi trường và thiên  nhiên. Nhưng, khi đứng trước hoàn cảnh bi đát của lịch sử, giặc  ngoại xâm đang thôn tính, mang  lại nỗi khổ niềm đau cho dân  tộc thì phản ứng tự vệ để ngăn cản tất cả những cưỡng lực ngoại  xâm trỗi dậy. Sự dấn thân của những người yêu nước có thể được  chấp nhận dưới hình thức làm vì nghĩa lớn. Trong nghĩa lớn vì dân  tộc đó, nếu được cộng thêm tinh thần từ bi của đức Phật dạy, thì  nghiệp sát sanh có thể được giảm đi rất nhiều.

Trong tình huống bộc  lộ cảm  xúc  quá  mạnh,  không kiềm chế được,  ta có thể  quát  tháo, chửi bới,  đánh đập  và thể hiện bất cứ điều  gì để cho  nỗi khổ niềm đau  được lắng dịu xuống. Nên  biết  rằng,  cách  thức  đó chỉ làm  hả cơn giận chứ không phải là phương pháp  để chữa  trị  bệnh  thù  hận,  đang  ngấm ngầm hoạt động trong  cơ thể.

Trong kinh Tăng Chi,  đức  Phật  dạy  có bốn  tình huống, theo đó, lòng thù hận được  trưởng dưỡng  và rất  khó  tháo gỡ khỏi mảnh đất tâm của con người.

Tình huống thứ nhất: Thái độ tâm lý lấy mình làm  hệ quy chiếu, coi giá trị hạnh  phúc, mạng  sống, tuổi thọ là tất cả, bất cứ người nào đụng đến  bản ngã đó thì xem như là đối thủ  của mình. Mỗi khi nhớ lại những  cảnh tượng  đã tạo cho  mình khổ đau, hận thù  sẽ được nhen  nhúm và thể  hiện.

Tình huống thứ hai: Xuất hiện dưới dạng  thức ngã sở hữu. Những người thân, đồng loại... bị kẻ thù  làm  thương tổn, được quan  niệm như đã từng  làm  thương tổn đến bản thân  mình. So hai tình huống, đôi lúc kẻ thù  làm  thương tổn chính mình thì có thể  tha thứ, vì nỗi khổ niềm  đau  có thể  được xoa dịu theo năm tháng. Nhưng khi nhìn thấy những  người thân thương bị cùng cảnh  huống  khổ đau  đó, ta không  dằn được  cảm xúc và lập tức lòng thù hận gia tăng.

Tình huống  thứ ba: Phức  cảm  tâm  lý, xảy ra khi ta biết được ai đang hỗ trợ cho người  mà ta không ưa thích.  Trạng thái không ưa thích kẻ thù  dẫn đến không ưa thích những  người liên  hệ đến  kẻ thù,  làm  cho ta không tùy hỷ với những thành công  của người. Trạng thái  này tiềm ẩn dưới  hình thức rất vi tế là lòng đố kỵ, tánh ganh  đua,  sự cạnh tranh. Họ không muốn người khác hơn mình, thay thế vị trí của mình trong xã hội.

Tình huống thứ tư: Đối với những người ta thương yêu nhưng  lại được người khác chăm sóc vỗ về, cảm xúc ghen tuông lập tức có  mặt. Ta chỉ muốn biến người đó trở thành sở hữu của tình yêu mà  không người nào được quyền hưởng đặc ân đó. Như vậy dòng cảm  xúc muốn chiếm hữu dễ trở thành thù hận.

 Bốn  tình huống vừa nêu  làm cho con người sống quán  tính  theo hai thái cực: bên bạn, bên thù; một bên chấp nhận và một  bên loại trừ. Tính cách chấp nhận và loại trừ đẩy ta vào tình thế đối  lập với người khác, giống như mặt trời và mặt trăng, đêm và ngày.

CHỦ NGHĨA CỰC ĐOAN

Con  người hay  lấy bản ngã của mình làm trục xoay, cân đo tất  cả hệ giá trị  của cuộc đời. Trục xoay xung quanh hệ  ý nghĩa của bản ngã làm con người  trở nên cực đoan, không chấp nhận người  khác,  chỉ chấp nhận  chính mình và cho mình là chân  lý. Đó  là lý do tại sao Adolf  Hitler lại không thích người Do Thái. Vì nếu người  Do  Thái còn tồn tại thì trí khôn  của Hitler đâu  có là gì so  với dân tộc đó.

Từ Thứ bị Tào Tháo ghét bỏ vì Từ Thứ là người lương thiện có tài, lại thường phát hiện lỗi của Tào Tháo. Những chiến lược của Châu Du  luôn bị Khổng Minh vô hiệu hoá nên ông phải  thốt  lên lời than  “Trời đã sanh Du rồi sao  lại còn sanh Lượng nữa”.

Thái độ đặt mình trên bàn cân với người khác và muốn trọng lượng nghiêng về bản ngã của mình, sẽ làm cho ta không nhìn được sự thật. Có rất nhiều người trong cuộc đời này giỏi hơn, tài hơn ta nhưng vì lòng đố kỵ đã biến ta thành kẻ ganh ghét những ai tài giỏi hơn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, ông vua nào đề cao bản ngã thì khổ đau sẽ có mặt khắp đất nước. Cho đến lúc nào trục xoay bản ngã vẫn còn lăn trên bề mặt của cuộc đời thì vẫn còn sự gập ghềnh cảm xúc khổ đau, bất hạnh.

Như vậy vận mệnh, cộng nghiệp của dân tộc, của quốc  gia trong bước ngoặt lịch sử bị cuốn hút  bởi những trục xoay bản ngã  lớn.  Nó để lại nỗi khổ niềm  đau  cho  rất nhiều  người,  mỗi khi nghe đến những  con người  đó, ta khó  có thể  quên  được. Điều  này đã làm  cho nhiều  người  bất đắc chí, không còn lối thoát,  đến nỗi phải cúng dường cho  cá (đi vượt  biên chết) mà không cần đốt nhang. Nhớ đến những  cảnh tượng  đó đôi lúc ta ăn không ngon, ngủ không yên dòng cảm xúc cứ tiếp tục vận hành và khống chế đời sống hạnh phúc rất nhiều.

Mỗi lần, liên tưởng  đến cảnh tượng  tòa tháp  đôi của Mỹ bị sụp  đổ chỉ trong vài phút, cả thế  giới  kinh hoàng  sửng  sốt - nỗi sợ bắt đầu len lỏi trong từng mạch máu. Nỗi sợ hãi đó đã làm cho  người ta bị đóng băng, không  dám đi đến những  nơi công cộng vì việc đánh bom, tự  sát có thể  xảy ra... Cái tôi loại  trừ đã làm cho  nhân loại trở thành  nạn  nhân và khổ  đau cứ tiếp  tục gia  tăng, sự thù hận cũng theo đó mà bùng phát.

Làm sao không  thù được,  khi người  thân  của mình đột ngột qua  đời, gia  tài sự  nghiệp cũng theo  đó mà bị ảnh  hưởng, đời sống sa  sút, kéo theo cả  một vùng khổ đau  nên ta giận cũng phải lắm chứ! Đó  là tâm  lý của con người.

Tâm lý học  Phật giáo dạy chúng  ta phải có cái  nhìn thật bình tĩnh, để cứu  mình trong những  biến cố khổ  đau. Con người  đôi lúc không  đủ sức  để tránh được những biến cố, dẫn đến bế tắc  và giao phó thân mạng cho may rủi. Họ tự an ủi theo cách thức  tâm niệm  của dân gian “Trời  kêu ai nấy dạ,” nghĩa là cái  hoạ,  cái chết  đã được an bài,  dầu  có trốn tránh cũng chưa chắc thoát khỏi. Quan  niệm về sự  an bài đó tạo  cho ta cảm giác an toàn  nhất  thời.  Cứ đi chợ, sinh  hoạt, du lịch, ngoại giao, làm kinh tế rồi  chuyện ra sao thì ra.

Dĩ nhiên trạng thái đó chỉ giúp mình vượt qua khỏi những biến cố ở một mức độ. Phân tích bề mặt sâu thẳm của dòng chảy cảm xúc, thì ta biết trạng thái an lạc đó chỉ là tạm thời. Nó được phủ trùm bởi một cưỡng lực trấn an có ý thức của con người là “Cứ liều đi, bây giờ mình có làm gì cũng đâu khác hơn được”. Ứng phó như vậy là chưa tìm cho mình giải pháp thật sự hiệu quả.

Ta  hãy phân tích bản chất của cuộc sống như quy  luật vận hành tiến trình theo chu kỳ: Sanh,  trụ, dị, diệt. Sanh  ra, lớn lên, già bệnh  và chết đi. Vũ trụ  có sự  hình thành chuyển biến rồi tan hoại. Không có cái nào thoát khỏi quy  trình đó.

Như vậy liệu  sự sợ hãi cái chết  có thể  giúp  cho con người thoát khỏi nỗi khủng  hoảng của nạn khủng bố hay  không? Câu trả lời chắc  chắn  là không. Như  vậy, chẳng  có lý do gì để đổ dồn cảm  xúc vào sợ hãi. Hãy tập trung bồi dưỡng  đời sống đạo đức, tuệ  giác, để gieo  trồng tất  cả những  phước lực cần  có trong cuộc đời. Phước  lực  này chính là hàng rào hộ vệ mạng  sống và tuổi thọ con  người.

Người xưa  thường nói: “Đức trọng  quỷ thần  kinh,” đức của mình sẽ vượt ra khỏi mọi biến cố cộng nghiệp;  người ta có thể bị mất mạng, nhưng mình chỉ bị thương tật; người ta có thể bị thương tật, mình chỉ bị trầy xước;  người  ta có thể  bị té ngã còn mình vẫn không hề hấn gì. Sự khác nhau trong cùng những biến cố đó khẳng định một điều là do nền tảng của đời sống phước  đức ta gieo trồng trong cuộc đời một cách có ý thức hay không.

Hiểu được như vậy ta vẫn cứ làm,  sinh hoạt,  đối tác, ngoại giao, di chuyển  mà không  hề sợ bất cứ điều  gì. Trạng  thái đó hoàn toàn  khác  hẳn  với tâm  lý liều  mạng,  cuốn theo  chiều gió như định mệnh đẩy đưa.

NGHỆ THUẬT  BUÔNG  XẢ

Dòng cảm xúc hận thù tùy thuộc  rất nhiều  vào thái  độ sống và tâm lý ứng  xử của  con  người. Cũng trong một  biến  cố, nỗi khổ niềm đau  như nhau, thế  mà có người có thể  quên đi trong vòng  vài ngày,  có người vài năm, có người vài mươi năm, có người mang theo đến đời sau,  khi sanh ra tiếp tục mang  hận thù  mà mình không  hề biết tại  sao  mình lại  hận thù họ.  Có những giao thoa từ hận  thù  tạo  ra sự tắc nghẽn trong mối quan hệ đối  tác. Điều này đã làm cho rất nhiều người bị khổ đau kéo dài từ đời này sang kiếp nọ. Để có trạng thái an lạc, thảnh thơi, đức Phật dạy hãy chuyên tâm thực hành buông xả. Nếu muốn giảm tối thiểu lòng hận thù thì phải trưởng dưỡng sự buông xả một cách có ý thức và có nghệ thuật.

Sự buông  xả  được ví như cách ta xé mảnh giấy nợ của ân oán giang hồ giữa  ta và người. Người tạo ra khổ đau  có thể  nghĩ rằng họ làm vì công bằng, hoặc không  có lựa  chọn nào khác; trong khi đó ta là nạn  nhân  hoàn toàn bị động.  Cái chết ập đến, khổ đau  chầu chực,  bất hạnh có thể  diễn  ra với ta theo  cách thức này hay  cách thức khác dưới sự chủ đạo ý  thức  của người kia, do đó nỗi khổ niềm đau  của ta dễ dàng  gia tăng.

Buông xả được  thiết  lập thì món nợ được an bài. Nếu mạnh dạn xé đi giấy nợ, thì tâm ta sẽ được thoải mái, an lạc. Còn giữ nó  là đang  nuôi ong  tay áo, có ngày  bị  chích  đau điếng; hoặc như đang giữ ngọn  lửa trong căn nhà,  có thể  tạo  ra hỏa hoạn.

Trong sự thiêu cháy của lòng sân. Kẻ thù chưa chắc đã bị đốt, trái  lại, người ôm hận đang nỗ lực có ý thức thiêu đốt chính mình và  người thân. Truyền dòng cảm xúc hận thù đó cho người thân hay  bất kỳ ai, thì hận thù tiếp nối hận thù không tháo gỡ được. Trong kinh Đại Bảo Tích, đức Phật đưa  ra ẩn dụ về con khỉ  đang nhảy từ cành này sang cành khác, bất thình lình, cành cây  gãy, nó bị rơi xuống đầm lầy. Nó càng vẫy vùng thì càng bị chìm  sâu, cho đến lúc không còn đủ sức để vẫy vùng nữa thì chết. Đức  Phật dạy, dòng cảm xúc khổ đau của hận thù cũng như vậy.

Khi ta bị một  mũi  tên của hận thù bắn vào tim thì sự đau nhói  làm cho ta giãy giụa. Đức Phật  dạy  nghệ  thuật  tháo  gỡ bằng  cách  đừng  dùng  đuôi  của mũi  tên  để kéo ra, vì kéo như vậy mũi  tên theo thế nghịch sẽ xé  da thịt  bên trong. Tốt nhất phải chịu đựng,  có bản  lãnh cầm  lấy mũi  tên  bẻ gãy phần đầu, sau đó mới  dùng  hết sức bình sinh, rút mũi  tên ra. Chịu đau một chút nhưng sau đó ta còn  có cơ hội  để chữa lành. Nếu lúc đó ta vội vàng giãy giụa,  muốn  trả đũa, thể hiện tất cả nỗi khổ niềm đau, là chính ta đã tự  biến mình thành  nạn  nhân  lần thứ hai. Mỗi lần tâm niệm  hận thù xuất hiện thì ta trở thành nạn nhân  lần nữa, dẫn đến tự hoại  lần hồi mà không hay. Như  vậy, ý  thức về tác nhân  gây ra khổ đau  là  nguyên nhân sinh ra nỗi hận thù rất lớn.

Để xóa bỏ hận  thù có hiệu quả,  trước nhất hãy quán  tưởng  không có tác nhân gây ra. Dù họ có cố ý hay vô tình cũng không  thành vấn đề. Quán như vậy, để  ta không gieo hận  thù. Nếu  không buông xả thì mắt xích khổ đau giữa ta và người sẽ gút  mãi,  sau đó nhân  lớn  vòng mắt  xích này  liên  thông qua gia  đình mình, dẫn đến hễ ghét người nào là ghét luôn cả dòng họ.

Từ một  cảm  xúc của khổ  đau  nhỏ nhoi biến thành một vùng từ trường ảnh hưởng  lây lan rất lớn,  đến  độ gặp những người không hề liên  can  trực  tiếp ta vẫn cảm thấy khó chịu  khi biết được giữa  họ  có cùng  ý thức  hệ, quan  điểm, khuynh hướng trong cuộc sống.

Như vậy, tác nhân  của nỗi khổ niềm  đau, dưới  góc độ tâm lý  trị  liệu, không  phải do kẻ thù,  mà chính nạn nhân không buông bỏ được  cảm giác hận thù tạo ra. Vì vậy sự trả đũa không phải là giải pháp lâu dài. Trong kinh Pháp Cú có câu:

Hận thù diệt hận thù

Đời này không  có được

Từ bi diệt hận thù

Là định luật nghìn thu”.

Chỉ  có tình thương, lòng  từ bi, sự tha thứ  mới  có thể  chấm dứt hận thù một cách vĩnh  viễn. Đây là quy luật của muôn  đời, nghĩa là nó  không chỉ có giá trị trong hiện  tại mà còn tiếp tục có giá trị vĩnh  viễn trong tương lai.

Để tháo gỡ lòng hận thù, thực tập pháp quán không có tác nhân tạo ra khổ cho mình, sẽ có hiệu quả nhanh chóng và lâu dài. Không nên nghĩ rằng “Tôi cần phải trả thù vì tôi yêu nước, hoặc là tôi phải trả thù vì lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đã qua đời”. Tư duy về tác nhân là một trong những cách làm cho con người bị bế tắc, trong hướng giải quyết vấn đề toàn triệt. Quán chiếu như vậy để thấy rằng kẻ thù của nhân loại hay kẻ thù của khổ đau chính là lòng tham không đáy, lòng sân như lửa bỏng, sự si mê đắm nhiễm, chứ không phải là con người. Con người chỉ là công cụ của ý thức mà thôi.

Muốn tháo gỡ hận thù  và không gieo rắc khổ đau cho người khác, tốt nhất ta chuyển ý  thức  từ cực đoan trở thành ý  thức khoan dung, rộng mở, biết tôn trọng sự sống.  Có như thế ta mới bước vào và mở rộng  bầu không  gian an lạc  vô cùng tận.

KHOANH VÙNG CẢM XÚC

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy nghệ thuật không  nhân lớn khổ đau.  Nghệ thuật  đó có thể  được triển khai dưới nhiều góc độ tâm  lý:

Thứ nhất  là  khoanh vùng  cảm xúc khổ đau để  lòng  hận thù  chỉ có mặt  trong vùng này thôi. Cách  thức đó, có thể  hình dung  giống như đưa vi khuẩn vào cơ  thể qua  tiêm chủng,  tạo ra vùng kháng thể, cô lập hoàn toàn  vi trùng  độc hại  xâm nhập vào. Tương tự, khoanh vùng  cảm xúc của lòng  thù hận lại  để nó không lan truyền cho thân  bằng  quyến thuộc. Nếu để nó truyền,  chẳng những  mình mà người  khác  cũng  bị khổ đau tương tự. Nếu thương thân bằng quyến thuộc và bản  thân thì trước  hết hãy khoanh vùng cảm  xúc giận  dữ đó lại.

Khoanh vùng như thế,  tạo  cảm  giác an toàn  khi ta chưa đủ sức chuyển hóa nó bằng  cách quán  “Không có tác giả”  thì ít nhất ta vẫn  có thể sống  được yên ổn. Quán  tưởng nhiều về cảnh giới của sự sống,  bỗng  dưng ta cảm thấy mình cần  có tình thương yêu  để thay thế những  nỗi khổ đau trong quá khứ.

Khi quan  niệm về tình thương yêu, ta có thể  tự  an ủi rằng: Có  lẽ trong kiếp  nào đó, mình đã từng tạo  ra cảnh ngang  trái cho người khác. An ủi  như thế giúp  cho mình buông đi nỗi thù hận ở  mức  độ nhất định.  Tuy  nhiên,  nếu ai quy  hết trách nhiệm về quá  khứ  thì người đó sẽ rơi vào chủ nghĩa định mệnh, không  phát khởi nỗ lực  rằng “Tôi  phải làm lại cuộc đời, phải cách tân, thay đổi, phấn đấu, vươn lên”.

Quy trách nhiệm về quá khứ chính là kẻ thù của sự tiến hóa.  Dù tin vào nhân quả nhưng ta phải xác định rõ những hạt giống  đã gieo trồng trong quá khứ. Nó sẽ tồn tại dưới dạng thức năng  lực và năng lực này được kích hoạt theo quán tính của thói quen.  Quán tính đó có thể chi phối đời sống sinh hoạt, tư tưởng, ý thức của ta khoảng 30% đến 50% là hết. 50% đến 70% còn lại lệ thuộc  rất nhiều vào ý thức tư duy, hành động, lời nói, việc làm, cử chỉ và  cách thức giao tế.

Ý  thức được  như vậy thì ta không đổ lỗi cho quá khứ.  Đổ lỗi cho quá khứ  có thể  dẫn  đến  tình trạng đổ lỗi cho  thời cuộc, hoàn  cảnh, bất cứ cái gì mà ta có thể gán ghép. Người như thế sẽ rơi vào tình trạng bế tắc không có lối thoát.

Hóa giải hận thù là nhu cầu rất cần thiết. Hãy bình tĩnh để phân tích rõ ràng nguyên  nhân chủ quan,  khách quan, nguyên nhân  cộng nghiệp của một thời đại,  giai đoạn lịch sử hay  nỗi bất hạnh chung cho cộng đồng. Khi thấy được chân tướng của các nguyên nhân rồi ta hãy bắt tay làm mới cho cuộc đời mình, tập sống trong trạng  thái vô úy. Lúc  đó ta sẽ không  còn bị chi phối bởi những  biến cố đau thương trong đời.

Nếu bế tắc thuộc bóng tối hãy hướng tâm mình về mặt trời; nếu  bế tắc là khổ đau thì hướng tâm về hạnh phúc; nếu bế tắc là thù  hận thì hãy hướng tâm về sự tha thứ; nếu bế tắc là sự ngột ngạt  đơn lẻ thì hãy hướng tâm về một bầu không gian vô tận. Ở đó ta  không hề thấy sự trói buộc ngang trái giao thoa với nhau.

Cứ để tâm mình vào  hư không  rỗng lặng thì hận  thù  sẽ không có chỗ  để bám  víu. Dù muốn bám víu  đi nữa cũng bị rơi vào  trạng thái chân không,  không  bị lực  hút của trái đất chi phối.  Lực  hút của trái đất trong tình huống  này là sự thù hận, tật đố, trạng thái bất an. Bỏ hết  tất  cả những dây mơ rễ má này, ta sẽ tồn tại trong trạng thái chân không,  không  còn dín dáng gì những biến cố cuộc  đời.  Lúc  đó ta sẽ biết tôn trọng và chăm sóc cảm  xúc của mình trong bất cứ trường  hợp  nào. Đây cũng là yếu  tố quan trọng để dẫn đến thành  công trong ứng xử.

Nếu bất hạnh  sanh ra trong truyền thống  văn hóa tương tự Hồi giáo, ta khó  có cơ hội chăm  sóc cảm xúc, vì đã bị tiêm

chủng bằng chủ nghĩa  cực đoan  và  khủng bố. Người  theo  các giáo phái cực đoan có thể  được  nhồi sọ rằng, giết kẻ thù  nhiều chừng  nào thì sẽ sớm có visa vào thiên  đàng chừng  đó. Tâm trí si mê cuồng  tín này đã làm  cho con người dấn thân  vào khổ đau,  tạo ra sự  bế tắc mà họ lại vui  mừng hân hoan tình nguyện.

Quan  niệm về Thánh chiến trong Hồi giáo là sai lầm. Không có chiến tranh nào là thánh thiện. Tất  cả chiến tranh đều mang lại khổ đau  và nạn nhân chính là  những  người dân vô tội.  Dù chiến tranh đó  là chánh nghĩa thì khổ đau  vẫn  luôn có mặt. Nhân chiến tranh lên thành  một chân lý tôn  giáo  đã làm  cho rất nhiều  người  bất hạnh. Nỗi bất hạnh đó kết  thành vòng  từ trường của thù hận.

Khi những chiến sĩ qua đời với lòng thù hận thì trong kiếp sau  họ lại tiếp tục có những trạng thái tâm lý thù hận. Cứ thế mà kết  thành dây mơ rễ má từ kiếp này sang kiếp nọ rất nguy hiểm.

Tóm lại, khoanh vùng nỗi khổ niềm đau  là cách ngắn nhất, theo đó  ta không  nhân  bản, không  lan truyền  khổ đau cho người thân. Những  gì của quá  khứ, hãy  để nó thuộc về quá khứ. Ta là  nạn nhân thì đã chấp  nhận nó rồi, còn thế hệ sau là  những  người không nên chịu cùng một số phận đó, nên  ta đừng để thù  hận  lây lan  cho  người không liên can.

QUÁN ÂN NGHĨA

Phương pháp quán  này là nghệ thuật tìm kiếm những giá trị tích cực ở  người đã tạo ra nỗi khổ niềm đau  cho  ta.  Nhân gian có câu  “Hơi đâu mà giận người  dưng nước  lã,” câu nói này đôi khi cũng đắc dụng. Ví dụ mình đang  giận ai đó, mình nói “Ôi, người dưng  nước lã giận làm  chi”. Mặt  khác,  nó cũng  có tác dụng phụ  mà ta cần phải lưu ý,  vì ngay khi dựa vào  câu  đó là mình đã vô tình dựng  lên một chân lý mới  đó  là “Tôi phải giận những  người thân, nếu họ làm tổn thương mình thì sẽ không tha thứ được”.  Vậy  là tránh vỏ dưa gặp  vỏ chuối.

Ta tự biện hộ cho mình được quyền giận, hận thù những người  mà mình thương nhất, bởi vì họ đã từng hiểu được ta, từng chung  sống với ta, vậy mà họ lại gây ra những trái ngang cho nên nỗi thù  hận đó được gia tăng. Theo cách nhìn tích cực, ta hãy lập luận đối  nghịch  lại, vì họ  là những người  thân cho nên được quyền  làm  những chuyện đó, còn người dưng đâu dám làm, phải thủ lễ, ngoại  giao đàng hoàng. Quan niệm mới để  tìm  thấy giá  trị  tích cực ở  người kia, và lòng hận thù giảm đi rất nhiều.

Đạo Phật dạy phải nhận rõ rằng,  cái tốt hay không chỉ có giá trị về mặt tương đối. Tốt trong tình huống này nhưng sẽ không tốt trong tình huống khác. Ở  những xứ văn  minh về khoa học và vật  chất, thì sự khổ đau  đó  được hỗ trợ  bằng  hệ thống an sinh xã  hội. Ngược  lại, những  quốc gia nghèo  lập luận rằng, phải cho  người  dân khổ đau  để họ  có sức chịu  đựng.  Họ cho  hệ thống an sinh  xã hội này  là nguy  hiểm vì sẽ làm người ta ỷ  lại. Lý luận  nào cũng có chỗ  đúng và sai.  Hệ thống an sinh xã hội được  đặt trên nền tảng tương thân,  thuộc  cùng chất liệu với lòng  từ bi. Nhu cầu đó không thể thiếu, mặc  dù phải  loại  trừ những con  người lợi dụng vào lòng  tốt của chính sách, nhưng chuyện đó  là chuyện phụ.

Đối với vai trò một quốc gia, tất  cả những hỗ trợ tương  tác, lấy lương bổng cao của những người có công ăn việc  làm  hỗ trợ người thất nghiệp nghèo đói hay bệnh  tật là điều cần thiết.  Đặt con  người trong tình huống  làm quen với nỗi khổ niềm  đau  để cho  họ đứng vững, thực chất chỉ là một  lập luận  để an ủi.

Nếu ai lý luận rằng, hạnh  phúc phải có mặt  từ khổ  đau thì người đó sai  lầm, bởi khổ đau  không  thể tạo ra hạnh  phúc. Khổ đau có thể  được sử dụng như một  công  cụ  để ta vươn lên, tìm thấy hạnh phúc. Nếu nói rằng, trong khổ đau  ta có được hạnh phúc thì sai  lầm.  Đó cũng  là  sai lầm  của  Ấn Độ giáo  và nhiều tôn giáo khác. Chẳng  hạn  như cho rằng, cứ đè nén thân  thể bằng cách khổ hạnh  ép xác  như đứng một chân, quanh  năm suốt tháng  không  hề tắm, nằm trên chông gai  để cho  cảm xúc về tính dục không  còn hiện hữu...  và bấy  giờ  trạng  thái hạnh phúc  tối hậu sẽ bắt  đầu  có mặt.

Trên thực  tế, trạng  thái hạnh  phúc chỉ có mặt  khi dòng khổ đau  được  chuyển  hoá. Đặt nền tảng hạnh  phúc trên khổ đau  là ta đã sai lầm ngay  từ căn bản của cách  thức  đặt vấn đề. Đừng rơi vào trạng  thái sai lầm đó, hãy gieo những nhân hạnh phúc để ta có được an vui.

Trong những  biến cố khổ  đau, nếu biết  cách  tỉnh  thức  để quán chiếu về nhân  quả, nghiệp  duyên,  điều kiện, hoàn cảnh... và dấn thân một cách tinh tấn không  mỏi mệt, chán nản thì ta sẽ có  cơ  hội làm mới những  gì mọi  người nghĩ  rằng sẽ không làm được.  Như thế hai khuynh hướng ứng xử khác  nhau sẽ dẫn đến hai hệ quả hoàn  toàn  trái ngược.

Quán về ân nghĩa, để  ta không rơi vào tình trạng vong ân bội nghĩa. Uống nước phải nhớ nguồn.  Tìm một cử chỉ  đẹp của người  tạo ra nỗi khổ đau  cho  mình, để nỗi  hận  thù  không trương sình lên mức tối đa.

Chẳng hạn như trong Tam Quốc Chí, Quan Vân Trường biết  Tào Tháo là kẻ gian hùng, nhưng ông vẫn tìm kiếm những giá trị  tích cực của Tào Tháo để xóa bớt hận thù. Ông luôn nhớ thời hàn  vi, Tào Tháo rất trọng thị ông. Bây giờ biết Tào là kẻ hiểm ác, muốn  trừ hậu hoạ  là phải giết, nhưng giết vì chánh nghĩa chứ không  phải giết vì thù hận. Trước khi ra tay, ông tìm cách trả ơn trước,  bằng cách tha tội chết cho Tào Tháo. Gia Cát Lượng có ý muốn  giúp giải tâm  lý Quan Công và cũng hiểu được thâm tình của  Lưu Bị nên yêu cầu ông ta ký vào hiệp ước “Nếu kháng quân lệnh  sẽ bị chém đầu”. Cuối cùng ông đã chống trái và bị Gia Cát Lượng  ra lệnh chém đầu, rất may nhờ Lưu Bị xin tha và được thoát chết.

Trong câu  chuyện trên, Quan  Công đã quán về ân nghĩa, tìm kiếm những giá trị  tích cực  của người  xấu để nỗi  khổ  niềm đau  giữa mình và  người kia được  tháo gỡ. Trên chiến trường bên nào cũng  phải  bóp cò, ai nhanh thì sinh tồn, ai chậm thì chết, nhưng phải  có tâm chiến  đấu vì chính nghĩa  chứ không nên dùng tâm hận thù. Như thế  lòng thù  hận sẽ được  tháo gỡ và oan khiên không kết chặt.

Có vị tướng trước khi qua đời đã làm  hai câu thơ:

Còn chút rượu nồng xin rót cạn

Giải oan cuộc thế bể dâu này.

Đối với chiến  sĩ, rượu  là một trong những  người bạn giúp họ quên đi nỗi thương vợ, nhớ con  để hướng về trách nhiệm ở biên cương.  Rượu còn là phương tiện  để dồn  nén  lòng  sân hận đối với kẻ thù.  Nhưng ông ta xin tình nguyện  rót hết những  ly rượu  nồng  của sự thù hận đó để mong sao giải oan  cuộc  thế bể dâu, mong cho cuộc đời không còn đau thương  nữa.

Theo đức Phật, nếu ta giải oan  bằng lòng sân thì lòng  sân đó gia  tăng. Giải oan  cuộc thế bằng những  viên đạn thì oan khiên đó sẽ tiếp tục sinh  trưởng. Chỉ có giải  oan bằng  lòng  từ bi, bằng sự tha thứ,  bằng  cách  thức  quán  ân nghĩa thì ta mới thoát khỏi ách tắc trong đời sống cảm xúc của chính mình.

GIEO TÂM QUẢNG  ĐẠI

Tâm quảng đại là một trong những yếu  tố quan trọng của bậc Bồ-tát. Tâm quảng đại đó thường được gieo trồng bằng cách quán đại địa không có sự phân biệt. Quả đất này là nơi dung chứa tất cả những thứ quý báu như vàng bạc, đá quý hoặc chứa những chất thải của con người, vậy nên không hề có chút gì khác biệt về tác dụng.

Kinh Tâm Địa Quán cũng như kinh Hoa Nghiêm Phật dạy, phải quán tâm quảng đại của mình như quả đất để có thể chứa tất  cả nỗi khổ niềm đau, thích và không thích, tích cực và tiêu cực của  những người khác đối với mình. Cũng như rác mà bỏ dưới lòng đất  sau một thời gian thì tất cả sẽ bị hư hoại hết và trở về với đất. Ta  có thể tạo dựng hệ thống tự đào thải tất cả những bợn nhơ tâm lý  bằng cách nhân lớn tâm quảng đại của mình, theo cách sánh ví nó  như bầu không gian vô cùng tận. Không gian vật lý thì có khoảng  cách, mặc dù đến bây giờ chưa biết được biên độ giãn nở của nó là  bao nhiêu nhưng ta tin chắc rằng nó vô cùng.

Khi quán rằng tâm quảng  đại của mình vô cùng  tận  thì nỗi khổ niềm đau  chỉ  là những vật rơi của định tinh nào đó ở trong không gian, thỉnh thoảng ngẫu nhiên  rơi trúng  ngay địa cầu mà mình đang sống.  Cứ nghĩ như vậy thì không có lý do gì để thù hận cái mảnh  thiên  thể khổ đau  đó rớt trên đầu, ngôi nhà, đổ dồn  lên trên  cộng  đồng  của mình. Quan  niệm như vậy là thái  độ ứng  xử tích cực  để tháo  gỡ khổ  đau.

Lịch sử Phật  giáo  Việt  Nam vào thời  Lý, vua Lý Nhân Tông được sự hỗ trợ  đắc lực  của Lý Thường  Kiệt, Việt Nam đã chiến thắng  khỏi  ách nô lệ Trung Hoa. Nhà vua  rất hiểu  đạo  lý Phật giáo nên ông tập theo hạnh Bồ tát,  thay vì giữ thế đối đầu với Trung Hoa thì ông  đã dâng sớ cầu hòa.  Hiệp ước  hòa bình đó được  thiết  lập bằng tâm quảng  đại chứ không phải thủ thuật của chiến  tranh. Đây không  phải là tình thế khi thế lực không cân bằng,  tốt nhất  là  người ta hoãn binh hay tìm cách khác để  thương lượng. Ở  đây vua  Lý Nhân  Tông  phát  xuất  từ lòng thương yêu nhân  dân của hai nước. Chiến tranh sẽ  mang  lại chết chóc và khổ  đau  nên ông phải hạ mình cầu  hòa  để nước Trung Hoa không  uất hận mà sanh ra trả thù, hầu mưu cầu sự thái bình, an vui và hạnh  phúc cho  dân tộc.

Tinh thần  cầu hòa là  nghĩa cử rất  cao thượng, chỉ  những người có chất hùng dũng mới dám làm. Dĩ nhiên  cũng có rất nhiều  người  bán nước  cầu vinh, phải trở thành  thuộc  hạ,  nô lệ cho  một ý  thức hệ nào đó. Lý Nhân Tông đã sáng suốt thấy vận mệnh  đất nước, chỉ có đặt trên  nền  tảng  tình thương yêu và lòng quảng đại mới có hoà  bình thật sự, giúp cho  con  người tháo  gỡ được bế tắc trong cuộc sống.

Trong kinh Đại  Bảo Tích, đức  Phật kể câu chuyện ngụ ngôn về phản  ứng của con chó  và sư tử.

Có anh chàng nọ rất phiền não vì tiếng sủa, tiếng chạy đùa giỡn  của mấy con chó, nó đã làm anh mất ngủ nên anh muốn trả thù.  Anh dùng cục xương to và cầm ná để bắn chúng. Chó bị đau, phản  ứng thông thường là phải tìm những gì đã tạo ra cơn đau. Chúng  thấy đó  là cục xương nên nhào tới cắn xé. Càng cắn xé thì răng  chúng lại càng đau hơn, nỗi đau của thân thể chưa giảm thì nỗi  đau của răng lại bắt đầu có mặt.

Nếu dùng cục xương đó bắn  vào con sư tử, ta thấy phản ứng hoàn toàn khác biệt. Nó  sẽ không  cắn cục xương, cũng không giãy giụa,  kêu la thất thanh trong hoảng  hốt. Cặp mắt  nó  sẽ nhìn liếc  để định  hướng vị trí cục xương  từ đâu  lao tới. Nó biết tác nhân  chính của nỗi khổ niềm  đau  này không  phải là  cục xương mà hẳn  có kẻ đang tác động.

Cách  thức  ứng  xử của sư tử và chó  khác nhau rất xa.  Chó vì thiếu khôn ngoan  nên làm cho  nỗi khổ niềm đau  gia  tăng. Sư tử vì bình tĩnh, tìm cách truy nguyên  nguồn  gốc khổ đau  nó gặp phải. Hai phản ứng khác nhau  tạo ra hai kết  quả  và giá trị khác nhau.

Đệ tử Phật  nên  ứng  xử ít ra như sư  tử. Đừng  bắt chước chó, mà trở nên thiển  cận. Loài chó thường có tính cách a dua,  một con sủa thì cả đàn  sủa theo. Thế giới của loài chó là thế giới của biên cương và  tranh giành,  chủ quyền quản lý biên cương đó theo cách tự khoanh vùng như các  sứ quân”.

Ví dụ trong làng  ấp nào  có 100 con chó, thì chúng sẽ bầu lên chó “tổng thống,” rồi đến  các bộ trưởng. Các cư dân của chúng đều  có hộ chiếu, quốc tịch  đàng hoàng. Để bảo vệ biên cương bờ cõi của chúng, bất cứ con nào ở  chỗ khác tới, chúng  sẽ theo dõi,  cô lập  và tấn công.  Nếu con chó lạ không  đủ sức kháng cự lại đàn chó này thì nó phải  vĩnh  viễn đi chỗ khác, không  có cơ hội tìm kiếm những thức ăn rơi rớt ở  trong khu vực đã có chủ.

Thái  độ liên  minh này thường tạo ra những phản ứng gây khổ đau.  Có thêm liên minh trong sân hận như có thêm những hỗ trợ  của vùng  từ trường tiêu cực, thì người  nối kết liên minh sẽ càng gia  tăng nỗi khổ niềm đau.

Trở lại câu chuyện, khi các con chó nghĩ  rằng tác nhân  gây ra nỗi khổ niềm  đau  của mình là  cục xương,  chúng giành giật cắn cục  xương đó. Thấy cục  xương này có mùi  vị thơm ngon nên  từ chỗ trả thù  dẫn đến chỗ tranh chấp lẫn nhau.  Như  vậy, từ bế tắc thứ  nhất kéo theo bế tắc thứ  hai. Nói cách  khác,  từ bế tắc của lòng  sân dẫn  đến  bế tắc của lòng  tham, muốn  trở thành  chủ nhân  của cục  xương, nhưng không ngờ  đó lại  là đầu mối  của rắc rối.  Cuộc  đời này cũng thế.  Có nhiều người nghĩ sai lầm muốn  biến mình trở thành  chủ nhân  của cảm xúc tiêu cực, nhưng không  ngờ lại thành  nạn  nhân  không  lối thoát.

Nhìn thấy tác nhân gián tiếp không chỉ là cái nhìn phiến diện,  mà còn là phản ứng đôi lúc trở nên thiển cận. Hãy theo hạnh sư tử,  không thù hằn cục xương, vì sự hận thù và trả đũa đó là hoàn toàn  vô ích. Cục xương chỉ là công cụ của anh chàng cầm ná.

Nên hướng  về tác  nhân trực  tiếp và chính yếu  là cách thức ta nhận diện để tháo gỡ nỗi khổ niềm  đau  thật sự. Dĩ nhiên,  tác nhân đó không phải  là  nhân  vật cụ thể. Phật dạy rằng, đừng nên quan  niệm tác nhân  khổ đau là con người  mà là lòng tham sân si, là thái  độ thiếu  sáng suốt. Hiểu  được  điều đó, ta sẽ bình tĩnh như con sư tử, mắt không  nháy,  thân  thể an nhiên  bất động, đi từng bước chậm rãi để định hướng và tìm giải pháp an toàn và bền vững cho niềm đau nỗi khổ của mình.

Cách thức ứng xử đó tuy đơn giản nhưng có hiệu quả cao. Đừng  như hai con gà, hễ mạnh thắng, yếu thua. Trong chiến tranh, cả  kẻ chiến thắng và người thua đều là nạn nhân, chứ không phải chỉ  có người thua mới là nạn nhân. Chỉ có cách dàn trải tình thương,  tháo gỡ lòng hận thù mới thật sự là chiến thắng oanh liệt nhất.

Muốn được  như vậy,  ta đừng tạo  tâm  lý lây lan hận thù. Đừng đem  hận thù của mình gieo rắc cho  những người thân. Không khéo, ta sẽ biến người  thân  trở thành  tấm thớt  của cơn tức  giận, có gốc từ người dưng nước  lã.

Khi muốn chia sẻ vấn đề gì đó  cho người thân,  phải chắc chắn  rằng  người  đó hiểu  mình như thiện  hữu tri thức.  Nếu không, ta không  đón nhận được  những  gì mong đợi và bực tức bắt  đầu  có mặt.  Lúc đó, thay vì giận kẻ thù, người giận cá chém thớt sẽ giận những người thân.

Như vậy trạng thái của lòng hận thù được chuyển sang một bước ngoặt  thứ hai. Nó tiếp tục  bị thay hình đổi dạng  vì được đặt trên  nền tảng của chủ nghĩa cực đoan.  Tức, cho  rằng mình là chân  lý; những gì ta chủ trương phải là đúng; ai không theo là  sai  lầm nên ta chuyển  hướng  tấn công những người không theo mình và biến họ thành kẻ thù.

Thay vì kẻ thù  là tác nhân  đầu tiên,  ta lại nghĩ những người không  tán đồng mình là  những người tạo ra cho mình sự bực dọc.  Cách  thức  ứng  xử đó kéo theo dây chuyền của sự  bế tắc, không  lối thoát.  Trong mọi tình huống ta cứ điềm nhiên, định tĩnh, đem trí tuệ  để giải quyết mọi  việc một cách chính đáng thì tất  cả đều  qua đi nhẹ nhàng.

Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có một câu chỉ bốn chữ nhưng rất hay “Quốc độ nguy thúy”. Khái niệm “Quốc độ” trong ngữ cảnh này có thể theo hai nghĩa. Theo nghĩa địa lý, quốc độ là hành tinh ta đang có mặt, trong khi “Nguy thúy” mô tả tính chất tạm bợ, không bền bỉ của vô thường. Nghĩa là hành tinh nào, định tinh nào dù có theo quỹ đạo của nó, cuối cùng rồi cũng đến lúc bị tan rã thành những mảnh như thiên thể rơi trong không gian.

Theo  nghĩa  phát sinh, “Quốc  độ” là quốc gia có  chính thể với ý thức  hệ chính  trị. “Nguy  thúy” trong  ngữ  cảnh này có thể hiểu là bất  kỳ chính thể nào không  thể tồn tại  vĩnh hằng  với thời gian. Nói cách khác, khổ đau  dù do chính thể nào gây ra sẽ không là vĩnh  viễn hay  mãi mãi với ta trong đời.

Tin tưởng nguyên lý  vô  thường là  niềm tin tích cực. Con người sẽ không  còn buồn về những nỗi đau trong quá khứ. Nếu không có những chiếc lá rơi trong mùa thu, đông sẽ không có được những chiếc lá xanh  non  mơn  mởn trong mùa xuân. Quy trình thay đổi của vũ trụ  diễn  ra theo cách thức  riêng  mà ta không  thể nào đặt ý  thức chủ quan bắt nó chạy theo những gì mà mình muốn được.

Hãy  quán  chiếu sự vô thường của cuộc đời, vũ trụ,  vạn  vật để không bị cuốn hút theo nỗi khổ niềm đau.  Ta tin tưởng rằng sau những chiếc lá  rụng đó  sẽ có  lá xanh xuất hiện.  Nhờ vậy đời sống mới bắt  đầu  có mặt, ánh  sáng  xuất  hiện và niềm hy vọng sẽ bừng lên.

THÁO DÂY OAN  TRÁI

Đức Phật dạy hãy nỗ lực tháo gỡ thù hận với những người đã cố ý tạo ra cho ta. Sự tháo gỡ là một trong những nhu cầu rất quan trọng. Ngài nhìn thấy trong đời, rất nhiều người có động cơ sai trái, đến độ họ không chấp nhận người khác được  hạnh phúc,  thành  công nên mới đẩy họ vào trạng thái không có lối thoát, vì vậy khổ đau  cứ mãi  gia tăng  từ kiếp này sang kiếp  khác. Thấy rõ điều  này,  đức  Phật  dạy  ta tháo gỡ hận thù để cuộc sống được hạnh phúc, an vui.

Kế đến, muốn cho cảm xúc khổ đau  không  lây lan thì phải biết  rõ tính cách tích cực  của tác nhân  bằng cách tìm những giá trị  cao  đẹp  của người  đó để ta vơi bớt niềm  đau  từ từ và loại trừ chúng  một cách triệt để.

Nếu không có được  thói quen nhìn  thấy những  tích cực hay  giá trị của người khác, thì ít nhất ta cứ nghĩ rằng mình là một vị  Bồ-tát có tâm lượng rộng lớn. Thay vì giận hờn trả đũa thì có thể  bỏ qua theo cách thức “đừng đánh người dưới ngựa”. Thái độ anh  hùng đó có thể làm cho ta bỏ được hận thù. Nếu là Bồ-tát thật sự  thì ta không lấy chủ nghĩa anh hùng của võ lâm, mà phải lấy chủ  nghĩa anh hùng của lòng từ bi để đối đãi. Như thế sẽ không có thù  và thân. Lúc đó khổ đau dù có mặt đi nữa thì cũng giống như viên  sỏi thả xuống mặt hồ tĩnh lặng. Dĩ nhiên viên sỏi sẽ làm cho nước  loang ra nhưng chỉ một lúc sau sẽ tĩnh lặng lại như trước. Nếu ta  quán được như thế thì dù kẻ thù có còn đó, khổ đau cũng sẽ nhanh  chóng được tan biến trong ta.

Đừng chụp lại những hình ảnh khổ đau trong quá khứ, càng chụp lại thì những hình ảnh  đó càng  loang lổ nhiều thêm trên bề mặt tâm thức. Như  vậy  là ta đang biến khổ đau  thành  cái gì đó  thường  còn bất biến. Ta  càng ghi nhận hình ảnh khổ đau lâu dài bao nhiêu thì sai lầm càng chồng  chất lên bấy nhiêu. Do vậy, cần phải loại  trừ chúng  ra khỏi tâm thức  của mình càng nhanh càng tốt.

Ba kỹ năng thực tập tâm  lý đó, đức  Phật dạy  rất nhiều trong kinh với nhiều ẩn dụ  minh họa,  người  biết quý trọng hạnh phúc nên  áp dụng.

Cuộc khủng  bố bằng  máy  bay  làm sụp hai tòa nhà  thương mại  của Hoa Kỳ, không  chỉ nhắm đến nước  này, mà còn đối với những  liên minh của Mỹ, trong đó Anh là đối  tác  quan trọng. Đứng từ phía những  người  dân vô tội,  ta cảm thấy  rất căm phẫn những kẻ đã tạo ra khủng bố và bạo động,  chỉ vì hận thù cá nhân và cuồng tín tôn giáo. Nếu ta cất cùng  tiếng  nói của sự hận thù thì chắc chắn những  bế tắc  đó sẽ không  được  tháo gỡ.

Trong khi lên  án những  người cuồng tín và sai lầm, ta vẫn lên án sự khủng bố đã gieo rắc nỗi khổ niềm  đau.  Mục đích  của việc  lên án là để  tìm kiếm giải pháp từ chất  liệu  của lòng  từ bi, chứ không  phải của thù hận. Chỉ có chất  liệu  từ bi mới  có thể mang lại cho thế giới sự bình ổn thật  sự. Mang lại công lý bằng bạo lực mạnh  để  chiến  thắng  bạo lực yếu, hẳn không  phải là giải pháp lâu dài.

Ta có thể  lấy oai quyền của người  lớn ra  lệnh cho con em  đang cười giỡn to tiếng,  làm mất giấc ngủ phải ngưng ồn ào  ngay lập tức. Dĩ nhiên con em ta sẽ sợ và không dám làm ồn. Trong sự ngừng và không dám làm ồn đó, nó vẫn ấm ức, khó  chịu bên  trong. Nếu bị hà hiếp quá đáng, nỗi bực dọc đó  sẽ  được nuôi lớn. Đến lúc trưởng thành, được luật pháp bảo vệ, tự  do cá nhân được tôn trọng, nó có thể kháng cự hoặc nổi loạn theo  cách thức này hoặc  là cách thức nọ. Sự nổi  loạn đó được thể  hiện đối lập giữa hai ý thức hệ của người lớn tuổi và người trẻ.

Vì thế, phải thấy được  nỗi khổ của những  nạn nhân cũng như của những kẻ đã tạo  ra nỗi khổ đau  để tìm cách tháo gỡ. Sống trong vô  minh, cuồng tín và bế tắc, không có lối  thoát, con người có thể  gieo rắc những ngang trái trong cuộc  đời. Phải thương họ nhiều hơn, để họ  thấy  vẫn còn cái phao  rộng lượng, sẵn lòng giúp họ quay đầu  về sự sống tốt đẹp.  Chỉ có cái nhìn đúng đắn và rộng lượng  mới giúp những  kẻ khổ  đau và tội lỗi tìm thấy được  miền  đất hứa, giúp họ làm mới lại cuộc đời.

Các vị Bồ-tát luôn  phát  nguyện vào địa ngục, cứu vớt chúng sanh.  Địa ngục hay  thiết thực hơn  là tù  ngục, là nơi hội tụ của những kẻ đầu trâu  mặt  ngựa,  những  người đâm thuê chém mướn, hay  cuồng tín độc đoán. Nếu không  có những bậc Bồ- tát phát  tâm  hoá  độ thì có lẽ cuộc đời của họ sẽ tàn  tệ hơn nữa. Những người này thường nghĩ cuộc  đời của họ  đã hết rồi, nên họ  từ bất cần, bất chấp,  dẫn đến sự gia  tăng hành vi gây khổ đau nhiều hơn  cho mình và cuộc đời.

Phải  có những người mang tâm niệm  Bồ-tát gần gũi, chia sẻ và hiểu được tại sao họ bạo động, khủng bố để thiết  lập nhịp cầu tình thương, lần lần chuyển hóa rốt ráo. Cầm tù kẻ phạm pháp không phải là giải pháp dứt điểm.  Nếu nhà tù được quan niệm như sự trừng phạt là  sai  lầm lớn. Sự trừng phạt  làm cho các  tù nhân  không  dám làm điều xấu ác, chứ không xóa được tâm  xấu.  Nhà  tù nên được quan  niệm như công cụ hay  phương tiện  tốt  để giáo  dục tội phạm. Phương pháp giáo dục  tội phạm phải được  nuôi  dưỡng  bằng  chất liệu từ bi và tuệ  giác, thì sự chuyển hóa mới thành công viên mãn.

Các vị Bồ-tát dấn thân,  gần gũi những kẻ xấu  thì mới tháo gỡ được  nỗi khổ niềm  đau  một cách trọn  vẹn và dứt điểm.  Nếu trong quá khứ ta đã lỡ gây  ra khổ đau  cho  người khác thì nên học hạnh sám hối  và không  tái phạm trong tương lai

Nếu ta đã từng là nạn nhân thì nên tâm nguyện rằng: “Tôi xin  tha thứ cho bạn và những ai đã tạo ra nỗi khổ niềm đau cho tôi và  người thân để gút mắc, oan trái được tháo gỡ ngay trong kiếp này”.  Nếu người Phật tử hiểu được đạo lý, tình thương của đức Phật mà  không phát nguyện như thế, đến khi sanh ra ở kiếp sau, nếu không  còn là Phật tử nữa thì chưa chắc oan trái đó được tháo gỡ.

Hãy tận dụng  những  cơ hội  để tháo gỡ oan  trái một cách khôn ngoan.  Được vậy, những biến cố, khổ đau dù  có xảy  ra cũng không  làm ta lao  đao  thêm  lần nữa. Lúc đó, ta sẽ  là một chiến  sĩ khải hoàn,  không  có đối thủ, không có kẻ thắng người bại, mà chỉ có sự an lạc, hạnh phúc.

Chương 2: Quán không tác giả

Ở  chương 1, chúng ta đã khảo sát sơ lược vài quan  niệm của Phật  giáo  về cách  hóa giải  thù  hận  ở  kiếp  này  và những  kiếp khác. Trong đó, chúng tôi đề cập đến  pháp  môn “Quán không tác giả,”  mà ở  chương này, chính là nội dung trọng tâm.

Pháp quán này giúp  ta có cái nhìn đích  thực về bản  thân và  tác nhân. Con người là hợp thể nhân tính, gồm năm thành phần,  không có thực thể bất biến. Các tổ hợp thuộc năm thành phần này  bắt đầu hình thành từ cấu trúc nhân thể vật lý, gồm bốn yếu tố là  đất, nước, lửa và gió hay nói khác hơn là chất rắn, chất dịch, nhiệt  độ, thể khí và tất cả qui luật liên hệ đến các yếu tố này.

Quán  không tác giả là quán phân tích về sự tách  rời các yếu tố ra, bằng cặp mắt tuệ quán,  sẽ thấy rằng không  có một chủ thể tác nhân  tạo ra nỗi khổ niềm  đau cho bản thân mình. Dòng cảm xúc của con  người như một dòng thác mạnh  bạo, nhìn từ xa thấy  nó như một thực  thể, nhưng khi nhìn gần thì dòng thác này cũng  chỉ được  hợp  thành  bởi các phân  tử nước  cho  nên nó vốn không  có một thực  chất nào.

Tương  tự ta áp dụng cho  tiến trình ý  niệm  hóa khi các giác quan:  mắt, tai, mũi,  lưỡi, thân,  ý tiếp  xúc  với  các đối  tượng trần cảnh như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, hương, vị, sự xúc chạm và sự  hình dung của ý v.v... Tất  cả dòng ý  niệm  hóa này chỉ  là sự liên tưởng tổng hợp từ cách  tiếp  xúc với các giác  quan mà thôi.  Sự vận hành  của chúng tạo  ra tiến trình nhận thức mà ta thường gọi là cái  thấy của  con mắt,  cái nghe của  lỗ tai, ngửi  của lỗ mũi,  nếm  của lưỡi, sự xúc chạm của thân  hay các ý niệm  hóa lưu lại trong bộ não  của con  người. Các yếu tố nhận thức  đó không có cái  nào  là thực thể bất biến.

Để quán chiếu không có tác giả, trước nhất ta quán không  có kẻ thù. Đây là cách thực tập vô ngã trong ứng dụng tâm lý  trị liệu. Kế đến ta quán tiến trình tách rời dòng chảy của cảm xúc  tâm lý ra khỏi sự vận hành của thân. Sự sống của con người được thiết lập khi thân này với lục phủ ngũ tạng đang hoạt động. Khi  tim ngưng đập, não tạng đã bị chết, các cơ quan khác đến tình  trạng kết thúc thì lúc đó tạm gọi là “Cái chết lâm sàng”. Chết lâm  sàng chưa phải là chết thật sự, bởi vì có tình huống thần thức vẫn  còn lẩn quẩn. Đó là lý do tại sao ta thỉnh thoảng thấy người chết  sống lại sau một vài giờ, hay vài ngày nằm trong nhà xác.

Dù trong tình trạng chết lâm sàng hay  chết thật, thì chắc chắn  rằng sự tương tác giữa  các nhóm yếu  tố tâm vật  lý đã ngưng hoạt  động. Dòng cảm xúc thường  vận hành rất hữu cơ và đa  chiều  với thân  thể vật lý. Nếu tách rời hai cái này ra thì mạng  sống con người  không  còn nữa, ngoại  trừ trong những trường hợp đặc biệt như khi ngủ hoặc ý  thức không hoạt động khi bị mê man bất tỉnh,  không còn sự bấn loạn  của cảm xúc trên  bộ não của chúng ta. Trong  tình huống đó dòng cảm xúc gần như lắng đọng.

Tất  cả nỗi khổ niềm đau  hay  hạnh  phúc  của con người có được, đều đặt trên  nền tảng  của dòng  chảy cảm xúc. Nó được sánh ví như một  bản đồ nhiệt lượng, từ độ âm  cho  đến 1000C hoặc hơn thế nữa v.v... Hễ còn nằm  trong bảng  nhiệt, dầu có lạnh đến mức  nào hoặc nóng  đến mức  nào thì vẫn được  xem là nhiệt  độ.

Tất  cả những gì thuộc về cảm  xúc  thì bản chất  của nó vẫn là khổ đau.  Muốn  tách rời nỗi khổ đau của hận thù ra khỏi thân thể  vật lý của mình, chỉ cần quán  tưởng  dòng cảm xúc và thân thể  vật lý không phải là một. Quán tách  rời để khổ  đau không còn chỗ bám víu.

Nỗi khổ đau của việc bị người  ta cướp  bóc  thuộc về tinh thần, nỗi khổ đau  bị người ta đánh đập thuộc  về vật chất  v.v... hãy  quán rõ như vậy.

Giống như thân  cây chuối,  mới nhìn vào ta cứ tưởng như một khối không  thể tách rời, nhưng khi ta mở ra từng  bẹ thì không thấy  lõi bên trong. Mạng sống của con người với cấu hình vật  lý cũng hoạt  động một cách tương  tự như vậy.

Bằng cách quán đó, ta thấy thân thể vật lý này với các dòng cảm  xúc không hề có chỗ để dung chứa nỗi khổ niềm đau. Như vậy, ta  quán không có tác giả là không có kẻ tạo tội ác, không có kẻ khủng  bố, không có người đã gây những thương tích cho mình.

Dĩ nhiên,  quán không tác giả nhằm trị  liệu về phương  diện tâm  lý, để không bám víu  cảm xúc, không  trả thù đối với người tạo ra khổ đau.  Trên thực  tế, sự kiện  khổ đau  vẫn từng diễn ra và luật  pháp vẫn  truy nguyên được ai là  tác nhân,  ai là kẻ  chủ mưu, tội trạng thế nào. Quán  không tác giả không có nghĩa kẻ tạo tội không  bị tội lỗi trừng phạt về mặt pháp luật. Như vậy, ta quán để tách  rời cảm  xúc  khổ  đau ra khỏi thân thể  vật lý trong khi mình chính là nạn nhân.

Phương pháp  quán  nào cũng  nên  áp dụng  hướng  dẫn cho một số đối  tượng  nhất định,  phải tùy bệnh cho thuốc. Phương pháp quán không  tác giả chỉ được  áp  dụng cho chính những nạn nhân để không  kéo dài khổ đau, hoặc là  người  thân  của nạn nhân, để không tạo sợi dây lan truyền về cảm  xúc  khổ  đau khi thấy  người  thân  của mình bị hãm hại.

ĐỪNG VIN VÔ NGÃ  ĐỂ CHẠY  TỘI

Gần đây, tôi có đọc trên báo nước ngoài một câu chuyện nói  về luật pháp ở Thái Lan (Phật giáo ở Thái Lan được xem là quốc  giáo) như sau: Có một anh tù nhân rất giàu. Tài sản một phần do  anh chơi cổ phiếu, phần anh mánh mung trộm cắp. Khi bị bắt và  truy tố, anh nhờ một luật sư Phật tử lý luận trước tòa rằng:

- Thân  chủ tôi không  phải là  người  trộm  cướp, bởi vì nhà

Phật dạy không hề có tác giả.

Ông thẩm phán nói:

- Tôi đồng  ý  luật Phật dạy như vậy. Tôi cũng  là  Phật  tử, tôi hiểu học thuyết  đó.

Bây giờ ta hãy phân tích học thuyết  trên dưới góc độ tâm  lý mà đức Phật dạy:  “Không có tác  nhân, chỉ có chuỗi sự kiện”. Tương  tự, “Không có người đã ăn cắp mà chỉ có sự  kiện  ăn cắp”, không  nên hiểu về  mặt hiện thực  rằng người trộm cắp không có đủ  lý do để bị cầm tù.

Luật sư vừa nhận ra sự ứng  dụng của học  thuyết vô ngã trong tâm  lý trị liệu đối với nạn  nhân,  chứ không  nên áp dụng cho tác nhân, trên thực tế thì ông thẩm  phán  yêu cầu chọn lựa:

- Chủ nhân của ông phạm tội ăn cắp. Nếu nói không có người  ăn cắp mà chỉ có bàn tay ăn cắp và sự kiện ăn cắp, tôi xử tội và  giam tù bàn tay bằng cách chặt đứt bàn tay rồi bỏ tù ba năm, thay  vì giam thân chủ của ông ba năm, ông chọn cách nào?

Luật sư biện  hộ lặng  người, không nói lời nào. Lúc  đó chắc hẳn cả người biện hộ lẫn  kẻ phạm tội trộm  cắp  sẽ hoảng hốt và chấp nhận ngồi tù ba  năm,  còn hơn bị chặt đứt cánh tay thì cả đời không làm ăn gì được từ đôi tay nữa.

Sử dụng phương pháp trị liệu tâm lý đối với nạn nhân vào tình  huống luật pháp thực tế đối với tác nhân là sự sai lầm về phương  pháp luận, dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng từ sự biện hộ. Khi  quán vô ngã, ta phải hiểu bàn tay ăn cắp vẫn là bàn tay lấy của phi  pháp. Người có bàn tay ăn cắp vẫn phải chịu trách nhiệm trước  pháp luật và nhân quả từ hành vi lấy của phi pháp.

Những  người tạo ra khổ đau  cho  người khác thì không được quyền quán như thế, vì như vậy  sẽ trở thành  ngụy  biện, không thừa nhận  lỗi lầm của mình. Nếu những người đã gây ra tội lỗi mà nghĩ  rằng không  có tác  giả  nghĩa là  tôi không  phải là  tác nhân, rõ ràng  là thiếu trách nhiệm đạo đức trước pháp luật.

Phải biết phương pháp quán không tác giả chỉ áp dụng cho nạn  nhân và thân nhân để không gieo rắc hận thù trả đũa với người đã  tạo ra nỗi khổ cho mình, còn những người lợi dụng vào học thuyết  này biện hộ cho họ để khỏa  lấp  sự  thật,  sẽ gây  ra  tội  lỗi nhiều  hơn. Khi quán phải biết phương pháp nào dành cho mình, phương  pháp nào dành cho người. Đối với những người tạo ra tội lỗi, nhà  Phật cũng có những phương pháp quán khác.

BA PHÁP  QUÁN  ĐỂ TRỊ LIỆU

Thứ nhất là quán thân  nhân.  Quán tất cả mọi người nam  lớn tuổi đều là cha, ông  tất  cả mọi  người  nữ lớn tuổi đều là mẹ,  bà. Những người ta gặp trong đời từng  là ông bà tổ tiên, con  cháu, thân  bằng quyến  thuộc  của mình ở  những  kiếp trước. Như  thế mỗi lần muốn  làm tổn hại cho  người  nào thì cứ nghĩ là  người thân nên sợ không  dám làm. Người  có lòng tôn  kính và thương tưởng người thân, khi áp dụng phương pháp quán thân nhân sẽ giúp họ không dám cố  ý gây tội lỗi.

Thứ hai là quán  sám hối, tức nhận  diện  tội lỗi và nỗ lực vượt qua  bằng sự hồi đầu lương  thiện. Hình dung  những tội lỗi mà ta gây ra trong cuộc  đời như giết người,  trộm  cắp, lường gạt, ngoại tình, tham nhũng, hối lộ, móc  ngoặc  làm lũng  đoạn hệ thống  luật pháp v.v... nếu không  bộc bạch  để làm mới cuộc đời thì giống như tình trạng đóng băng  trên  mặt  biển, dần  dần  sẽ to lên  và trầm xuống. Khi tảng băng đóng trên và trong lòng biển,  tàu thuyền qua  đó có thể  bị  va  chạm vào, dẫn đến tình trạng bị đắm chìm, như tàu  Titanic. Sự  sống  của con người cũng giống như những con tàu lênh đênh  trên  biển sanh  tử. Cần phải làm tan những  tảng băng che  giấu  tội lỗi, để những con tàu đạo  đức  của bản  thân có thể  thong dong  vượt thoát sanh tử, khổ đau.

Thứ ba là  quán không  thọ  giả. Đây là  cách quán  không có chủ thể cảm nhận những  nỗi khổ niềm  đau  do người nào đó gây ra. Dĩ nhiên  cách quán này được  sử  dụng cho chính nạn nhân hay đương sự đang đối diện với nỗi khổ tâm lý và nỗi  đau vật  lý.  Ta quán  rằng  không có một  bản ngã đang  tồn tại để chịu đựng  sự hàm oan,  đau  đớn, bực  tức, thù hằn, bất công hay những cảnh đời trái ngang thì cảm xúc  sẽ lắng dịu.

Ý  thức về mình như một nạn nhân bị lừa đảo, bức hiếp,  xúc phạm, bị trù dập v.v... làm tăng sự khó chịu.  Ý  thức về sự bất công làm cho  con  người dễ có phản ứng nổi loạn,  xung đột, nó đều dẫn đến  sự đổ vỡ lớn hơn trong tương lai.

Không thực tập phương pháp này để tự trị liệu tâm lý, đôi lúc  người ta lầm lỗi với mình chỉ có một, mình có thể gây lỗi lại gấp  hai, gấp ba lần. Một đứa lỗi thêm đứa lỗi nữa thì hai đứa lỗi cũng  giống nhau, theo đó, bế tắc này có thể kéo theo bế tắc khác  lớn  hơn, nếu không biết cách tự chuyển hóa để cứu bản thân.

Quán không thọ giả để thấy được  dòng cảm xúc khổ đau,  bất hạnh mà mình chịu đựng chỉ  là một  sự kiện  của oan  trái hay của dòng chảy bất hạnh.  Quán như vậy thì dù khổ  đau  lớn như núi Tu  Di nó cũng  teo lại thành  quả núi lớn, quả đồi, đống  đất, viên  đá rồi chỉ còn lại một  hạt  cát. Quán  cách vừa nêu thì khổ đau lớn  sẽ trở thành  nhỏ như hạt cát  rồi  sẽ tan biến thành hư không, nghĩa là không  còn tác dụng gây đau  khổ nữa.

Ba  pháp quán niệm trên là  nghệ thuật tâm lý, có khả  năng giúp người khổ đau  có thể  sớm  hóa  giải  hận  thù.  Dĩ  nhiên phải đòi hỏi  đến  thái  độ buông bỏ của  đương sự.  Người có khuynh hướng  dứt khoát  công thưởng, tội trừng  thì khó tu tập  được những phương pháp quán này.

Nếu không  chịu  tu tập các pháp quán,  nỗi bất hạnh ngày càng lớn, trong tương lai sẽ  thuộc về họ  chứ không thuộc về người đã tạo ra tội lỗi.  Bởi  kẻ gây án đã bị luật pháp trừng  phạt và  ngay cả nếu như kẻ tạo  tội  may mắn qua  mặt được  luật pháp, không bị trừng phạt thì nhân  quả nghiệp báo vẫn không dung tha; trong một  đời kiếp  nào đó họ cũng phải gánh lấy.

Món nợ mà không  chịu  trả ngay trong lúc mình có khả  năng thì sau  này khi bị thất nghiệp lại càng khó trả hơn. Đó  là chưa nói  tới tình trạng tiền vay sẽ  gia tăng  lãi suất,  tùy theo năm tháng  thời gian vay mượn.  Tiến trình nhân  quả cũng diễn ra theo cách tương  tự, ai chịu trả nợ sớm thì không phải lo trả lãi.

XOA DỊU NỖI ĐAU

Hành giả đừng nên bận tâm rằng, ai là người đã tạo ra nỗi khổ  cho mình. Hãy để sự trừng phạt nằm về phía luật pháp, cứ xem nó  như là một sự kiện. Nếu là thân bằng quyến thuộc của nạn nhân  thì cũng đừng chăm sóc cảm xúc của nạn nhân bằng cách hỏi  “Cho tôi biết ai là tác nhân, tôi sẽ trả thù giùm cho”. Thương như  thế chỉ làm gia tăng thêm cảm xúc khổ đau của nạn nhân. Cả họ  và ta đều rơi vào tình huống bế tắc. Đừng đổ dầu vào lửa, sự sân  hận làm cho tâm lý con người luôn bị đốt cháy và theo đó ta đánh  mất dòng chảy của cảm xúc an lạc, thảnh thơi.

Khi dạy phương pháp  quán  không có tác nhân tạo  và  chủ thể cảm nhận  nỗi khổ đó, đức Phật  không đưa ta vào tình trạng thiếu trách nhiệm mà Ngài muốn dùng phương pháp tâm lý để xoa dịu đi nỗi khổ niềm  đau.  Nỗi khổ đau  giống  như ly nước  có cặn. Thương người thân, có người khuấy ly nước  bằng cách hỗ trợ để trả thù  v.v... Càng khuấy thì cặn  sẽ không lắng được và người thân không uống được ly nước trong.

Đừng khuấy nước khổ đau  lên.  Cứ để nó lắng  đọng  với thời gian. Thời gian là phương pháp chữa trị vết thương lòng. Đừng tác động  mà hãy hướng  tâm của nạn  nhân  về phía tích cực  và tươi sáng hơn,  họ sẽ tách rời khỏi  trạng  thái khổ đau theo cách thức  mà đức Phật  đã dạy.  Khổ đau  nằm trên thân  thể vật lý, ảnh hưởng  đến dòng cảm xúc thông  qua hệ thống  dây thần kinh trung khu và cảm  giác.  Khi tách  rời hai yếu tố này, nỗi khổ đau  dù có mặt  như là sự thật, nhưng lại không ảnh hưởng đến bản thân. Từ đó, đau  khổ không thể làm cho  con  người bị ức chế sống  trong dày vò, đau đớn.

Ta hãy làm thí nghiệm để thấy được tính ảo  giác của cảm xúc trong nỗi khổ niềm đau.  Nếu là người sợ máu, khi đưa  vào bệnh viện để chích thuốc giảm đau, nỗi  sợ hãi  về tiêm chích và máu làm đương sự hình dung động  tác đưa  kim vào cơ  thể họ là một sự đau  nhức. Trên thực  tế, đau nhức có thể chỉ bằng  cái chích của một  con  kiến, nhưng cảm xúc sợ hãi làm cho nỗi đau này gia tăng  đến  độ có thể ngất xỉu.

Nhiều người đã từng  bị rơi vào trạng  thái tâm lý đó.  Thực tế,  chích kim vào  cơ thể không  làm con người  phải khổ đau quá mức.  Chỉ vì sợ hãi mà khổ  đau  được gia  tăng. Do đó tách rời tâm  lý khỏi cảm  xúc  là một trong những phương pháp hữu hiệu  có khả năng  giúp  đương sự vượt  qua  khổ đau  dễ dàng và nhanh  chóng.

Phương pháp quán không thọ giả  là nghệ thuật hình dung mình không phải là nạn nhân. Đừng nên nghĩ  ta là nạn nhân, để dòng cảm xúc không  bị đè nặng  trên  tâm lý. Dĩ nhiên còn có nhiều phương pháp thực tập khác, cốt làm cho  tâm ta phấn chấn,  không  còn khổ đau  là được.

Năm 1999,  khi cộng  đồng  Tây Tạng tổ chức  40 năm lưu vong tại  Ấn Độ, đức Đạt  Lai Lạt Ma đã dùng tiêu  đề Tưởng niệm “40 năm đại chuyển  pháp luân”.  Ngài không  dùng từ 40 năm Pháp nạn như Phật giáo Việt Nam. Dùng khái niệm “Pháp nạn” là cách trực  tiếp thừa nhận rằng mình là nạn nhân, hoặc có thọ  giả, trong khi đức Phật dạy ta hãy quán bốn đối tượng vô ngã là ngã, nhân, chúng  sinh và thọ giả.

Quán chúng sinh vô ngã  tức  là không có  ý niệm về chúng sinh, bao  gồm tha nhân và bản  thân như một  chủ thể với ý niệm và dòng cảm xúc đang tiếp nhận khổ vui. Đó  là tinh thần của kinh Kim Cương Bát Nhã. Quán như vậy, nỗi khổ niềm  đau sẽ tan biến rất nhanh.

Khi dùng  từ “40 năm Pháp nạn,” xem như  ta đã chấp nhận  mình là nạn nhân và Phật pháp đang bị lâm nạn. Thực ra, Phật  pháp không lâm nạn. Chỉ có người hành đạo bị nạn, do chịu ảnh  hưởng xấu của nghịch duyên. Cách dùng từ của đức Đạt Lai Lạt  Ma rất phù hợp với tinh thần vô ngã. Nhờ biến cố Trung cộng, Phật  giáo Tây Tạng đã có mặt ở Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.

Như vậy, trong biến  cố của Tây Tạng, ta thử hỏi nên buồn hay  vui?  Buồn về một quá khứ không  như ý,  nhưng vui trong hiện tại  và tương lai khi Phật  giáo Tây Tạng được phát triển toàn cầu. Không nhìn thấy  phương diện  tích cực  này, con người dễ sống  trong tình trạng uất  hận và chịu  khổ đau  lâu dài, nhất là  trong tình huống ta không  thể làm gì khác hơn, dù có nỗ lực  chân  chính.

Như thế, quán không  thọ  giả là cách thức tích cực, nhằm tách rời khổ đau  quá khứ khỏi đời sống hiện  tại.  Được  vậy, ta có thêm  bản lãnh sống ở  hiện  tại  để gầy dựng lại cuộc đời và có thể  hưởng được hạnh  phúc. Nếu  chỉ  ký ức về quá  khứ và cho rằng mình là nạn  nhân của lịch  sử, chiến tranh, ý  thức  hệ, bất đồng, xung đột v.v... thì cảm xúc khổ đau sẽ dâng cao.  Nếu thực tập như thế, chắc chắn sự tiến bộ về tâm lý sẽ cứu thoát  ta khỏi hoàn cảnh khổ đau  đã có, như con khỉ nhờ bám  vào nhành  cây mà lên khỏi vũng  lầy.

Người thực  tập nên loại  bỏ lòng tự  ái. Về bản  chất, tự  ái là cảm xúc  thương yêu bản ngã hơn bất  kỳ ai khác.  Nó được núp bóng dưới dạng  thương yêu người,  nhưng trên thực tế  là thương yêu chính mình. Chẳng hạn, đứng trước cảnh sanh  ly tử biệt của người  thân,  có người buồn bã, khóc  lóc,  bỏ ăn mất ngủ  và gào thét với  những câu cảm  xúc như: “Ba ơi! Ba đi rồi, bỏ con lại cho ai? Con khổ lắm!”  Hoặc người  vợ nói với chồng vừa qua  đời: “Anh ơi! Anh đi rồi, cuộc sống của em trở nên  vô nghĩa. Anh là điểm  tựa  cuộc đời em”. Tất  cả những lời than  vãn từ tình thương hoặc tình yêu có thể xuất  hiện  dưới  hình thức quan tâm người  quá cố, nhưng trong chiều  sâu tâm  lý  là lo sợ cho bản thân mình bị cô đơn.

Thực ra, người  khóc  đâu phải  thương tưởng  người ra đi. Phần lớn khóc trong tình huống  của tang tóc  là sợ rằng  mình không  còn ai chăm sóc, vỗ về, giúp đỡ khi cô đơn và túng thiếu. Trong tình yêu nam nữ, hoặc giữa hai người đồng giới tính, tự ái  là  trục xoay chính yếu. Người  ta yêu chính bản thân  mình nhiều hơn  yêu người khác.

Gốc tự ái trong tình yêu có thể bị biến dạng thành nỗi hận thù,  khi các yêu cầu, cảm xúc và khao khát bị từ chối hoặc không thỏa  mãn. Lúc đó, đương sự có khuynh hướng trả đũa để chứng minh  rằng “Tôi đâu phải không có giá!” Càng chứng minh mình có giá  trên nền tảng tự ái thì giá trị càng bị giảm.

Nhiều người ngạc nhiên khi nghe Thế Tôn, là Bậc phước  trí vẹn  toàn, sao  đời Ngài vẫn còn gặp nhiều  cảnh  trái ngang. Lý giải truyền  thống  cho  rằng đó  là sự thị hiện, Ngài hiện thân là con người  nên  cũng  phải  có những  cuộc sống và  hoàn cảnh éo  le, ngang  trái, nhưng Ngài  đã vượt qua được tất cả. Muốn khẳng định  rằng, là  con người ai cũng  có thể làm  được như Ngài. Nhằm  giáo dục  con người về tính kiên nhẫn vượt  khó. Tôi thích khuynh hướng nhìn đức Phật  dưới  góc độ con người lịch sử,  dầu là Bậc giác ngộ, Ngài vẫn chịu  khổ đau  về thân thể nhưng hoàn toàn không  có nỗi  khổ  tinh thần.

Quy luật nhân  quả rất xác thực và  công  bằng,  không hề bị lũng đoạn,  không  ai có thể sống  vượt ngoài  vòng  kiềm tỏa của  nó.  Dù  là đức Phật,  Bồ-tát, A-la-hán, những gì đã gieo thì phải gặt. Người  giác ngộ biết cách chuyển hóa khổ đau, vượt lên trên nghịch  cảnh, thay  vì phải gặt hái trọn vẹn  quả không như ý, nhờ sự chuyển  nghiệp,  các hạt  giống  xấu trong quá khứ không đủ sức trổ quả ở  hiện tại,  hoặc nếu trổ thì tác dụng xấu của nó không nhiều  như trong tình huống của người phàm.

TÌNH YÊU  VỊ KỶ

Chuyện kể rằng có một thiếu nữ  tên  là  Magadida, thuộc hàng danh môn  vọng tộc. Cô xinh đẹp  đến  độ các công tôn, vương tử thoạt nhìn đều si mê, như có sự cuốn hút lạ lùng. Sắc đẹp  đó đã làm  cho cô đau  khổ nhiều hơn là  hạnh phúc. Được quá nhiều  người  thương và săn  đón  từ:  thái tử,  phú hộ,  kẻ hào hiệp cho  đến người thường  dân, cô không biết phải lựa chọn  ý trung nhân nào.

Cha cô muốn con mình được hạnh  phúc, môn đăng hộ đối cùng giai  cấp, nên không  đồng ý  cho cô đính hôn với ai thuộc giai cấp thấp  hơn. Ông tìm khắp nơi nhưng vẫn chưa hài lòng về ứng  cử viên tương  xứng.

Một hôm nọ, ông đến thành Xá-vệ, thấy đức Phật đang đi khất  thực, ông không tin vào mắt mình khi nhìn thấy một người đẹp  trai lạ lùng đến thế! Với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp,  mặc dù chiếc y của Ngài mặc đã quá cũ, nhưng Phật vẫn đẹp và  hấp dẫn. Ông nảy sinh ý định chọn Phật làm rể. Sau đó, ông lập kế  thỉnh Phật về nhà cúng trai Tăng và dặn dò con gái:

- Con ơi, ba sẽ cưới cho  con  một người rất xứng đáng. Nét đẹp và sự  phương phi của người  này là  điều không  người đàn ông  nào có thể  hơn được. Nhất định khi lấy anh ta, con sẽ rất hạnh  phúc. Đây là niềm mơ ước của ba.

Hôm ấy, đức Phật  và Tăng đoàn  đến  nhà  ông  bá hộ theo lời thỉnh  cầu. Ngài đi nhẹ  nhàng  với bước chân thảnh  thơi, ngồi

xuống trong tư thế an lạc. Gia đình  ông ai cũng phấn chấn bởi nghĩ  Phật sẽ trở thành  chú rể.

Suốt đêm, Magadida sửa soạn,  trầm  tư không ngủ được. Khi  Phật đến nhà, cô không chịu ra, ở trong phòng trang điểm tăng  thêm hương sắc và tập điệu bộ, dáng đi, cách thể hiện ánh mắt, nụ  cười để quyến rũ Phật chấp nhận làm chồng mình.

Trái với dự kiến, khi cô bước  ra khỏi phòng,  đức Phật dường như không quan  tâm đến. Theo  truyền thống, sau  khi nhận phẩm vật cúng  dường của ai, Phật  tạ  ơn bằng cách thuyết giảng pháp thoại, như thực  phẩm tâm linh. Trong sự giao  hoán này, một bên hiến  vật chất,  một bên tặng tâm linh.

Phật dụng  ý  giảng về sự  bất tịnh của thân.  Thân  thể con người  dù đẹp  cũng  chỉ là  nghĩa trang, chứa  đầy xác chết  bên trong. Khi ăn thịt các loài thú,  nói chung là loài có sự sống, ta đã biến bao  tử này thành nghĩa trang tập thể. Phật  phê phán thái  độ hãnh diện  tự  hào về sắc đẹp. Theo  Phật,  sắc đẹp  của thân  chỉ là chiếc túi da chứa đựng  những  thứ bất tịnh mà thôi. Lời thuyết pháp của Phật như cơn sấm sét, tấn công  vào não trạng của cô. Cô tức giận,  cho rằng Thế Tôn chọc  tức và khinh mình. Cô thầm nghĩ mình thuộc hàng sắc nước  hương trời mà ông thầy tu lại so sánh cô như nghĩa địa hay  cái túi da hư thúi, thì còn gì đau  đớn cho bằng.

Cô giữ  mối thù  đó và nói  với  cha:

- Ba ơi, con không thèm cưới ông này. Ông này đẹp trai nhưng  chảnh quá, lại nghèo rớt mồng tơi sao làm chồng con được.

Trong tâm  cô oán hận, thầm  nghĩ:  “Đến ngày nổi tiếng,  tôi sẽ cho ông biết tay, để ông không  khinh thường tôi nữa”. Niềm uất hận  đó đã được nuôi dưỡng trong lòng  cô ngày càng lớn.

Ba năm sau có đợt tuyển cung, vì là người đẹp nhất nên cô đã được nhà vua tuyển làm quý phi và được sủng ái hơn hoàng hậu. 

Nhà vua  là  Phật tử thuần  thành.  Một hôm,  vua  thỉnh  đức Phật đến hoàng  cung thuyết  pháp. Khi nghe tin đó quý  phi thuê người đứng dọc đường  đến kinh thành, chửi bới đức Phật. Điều  đó đã làm  A Nan xót xa, thưa đức Phật rằng:

- Bạch  Thế Tôn, con thấy chỗ này không  yên, nếu Thầy trò ta ở  đây thêm  nữa, vô tình tạo tội lỗi cho  kẻ xấu.  Chi bằng ta hãy đi nơi khác.

Đức Phật nói:

- Nếu đi chỗ khác cũng bị chửi bới tương  tự thì sao? A Nan thưa:

- Thì đi tiếp nữa. Đức Phật nói:

- Nếu  chỗ  tiếp  đó nữa  cũng  gặp tình trạng tương tự hoặc nặng hơn  thì tính sao?

- Thì đi chỗ khác tiếp.

Triết lý của câu chuyện là khi con người để tình yêu giới tính  mang tính chiếm hữu khống chế, thì các quan hệ sẽ dẫn đến tình  trạng nếu không độc hữu về tình yêu được thì sanh tâm thù hận.  Cô gái trong câu chuyện không quên được cái tự ái một chiều, khi  nghĩ rằng Phật đã khinh thường cô, mà trên thực tế muốn giúp  cô vượt qua cái tôi cao ngạo về ngoại hình. Tự ái sai lầm dẫn đến  thù hận, rồi trả đũa bằng cách thuê người sỉ nhục đức Phật quả là  một chuỗi sai lầm. Điều chính yếu của câu chuyện là trong nghịch  cảnh đó, đức Phật dạy A Nan phải giữ tâm vững chãi để vượt qua,  thay vì đầu hàng nó một cách vô điều kiện.

Câu chuyện trên còn cho thấy, kéo dài sự lẩn tránh không phải là  giải pháp. Nghịch cảnh xuất hiện chỗ nào thì đối diện tháo gỡ chỗ đó.

Nghệ  thuật tháo  gỡ khổ  đau theo nhà Phật là đối diện  với thực  tại khổ đau  đó và nhận diện mặt mũi khổ đau, truy nguyên nguồn gốc  và nguyên nhân, để chuyển hóa  và vượt  lên trên nó. Trốn tránh  không  phải là  giải pháp.  Đối diện  theo kiểu  liều mạng  lại càng không phải là  giải pháp. Trốn tránh  và bỏ  mặc là hai thái  độ cực đoan,  nếu không  nói là thiếu trách nhiệm.

Cứ quan sát, nhìn nhận  sự việc xảy ra như là  một sự kiện. Lúc đó, nhìn thấy sự vật chỉ đơn thuần là sự thấy, nghe các âm thanh chỉ đơn thuần là sự nghe dù có chửi bới hay khen chê thì cũng  chỉ là âm  thanh. Quán được  như vậy  là đang nhìn thấy được  chân  tướng  của sự vật. Lúc đó, ta không  còn chạy  theo phản ứng thuận và nghịch của  cảm xúc.  Tất  cả dụng ý xấu của người  khác không  hề tác động  đến thành  trì kiên cố của đời sống nội tâm. Bằng cách thực  tập như vừa nêu,  nỗi khổ đau  dù có mặt cũng không  làm ta bị khủng hoảng.

Trong câu chuyện đức Phật  đã  chuyển hóa được những thành phần đâm thuê, chém mướn bằng thái độ thản nhiên và không  hận thù. Những  hành động chửi bới, ném liệng của họ không hề làm cho  đức Phật cảm thấy bực dọc,  thù hằn. Ánh mắt của Ngài đối với họ chan chứa  tâm  từ ái. Ứng xử này,  giúp cho người  xấu nghĩ đây phải là  một  nhân  vật siêu phàm  với tính cách  đặc biệt.  Tâm hóa  giải  của Ngài  đã làm  cho mọi hận thù tan biến  rất nhanh. Cuối  cùng  Ngài  cũng  độ được bà  quý phi thoát khỏi mặc cảm, tự ái và thù hận.

Nếu tự ái tạo ra hận thù, thì tự ái sai lầm là tự sát. Trong tình yêu giới  tính, thái  độ đòi hỏi luôn  cao hơn nhu cầu ban tặng. Trong tình bạn, sự ban  tặng nhiều hơn là  sự tiếp nhận.  Trong kinh Tăng Chi, Phật  dạy  có bảy cách  làm  vợ  chồng:  vợ như là  người mẹ, chị, em gái, bạn  đời, người đầy tớ, kẻ sát nhân. Trong các loại  trên,  vợ chồng  như bạn là lý  tưởng nhất.

Quan hệ vợ chồng như bạn, sẽ  không có phân  biệt  đối xử trọng khinh, cao thấp cả hai luôn sống trong sự chia sẻ khổ đau  và hạnh phúc. Người chồng không đòi hỏi người vợ phải chiều  anh ta bằng cách này cách nọ. Trong cách ứng xử ngang hàng  như vậy, tình yêu chân thật sẽ trưởng thành, đơm hoa kết trái  bền vững cả đời. Thương ai không phải để người đó mang lại  cho mình gia tài, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, hoặc để hãnh  diện với bà con về nhan sắc, văn bằng học vị, vai trò vị trí xã  hội mà họ có. Những thứ đó sẽ không bền vững.

Quan  niệm tình yêu như tình bạn, sẽ không có sự  hơn thua; thay vào  đó là sự  hy sinh cho nhau. Trong tình yêu vị kỷ, luôn có điều  kiện  để buộc  người yêu thuộc về mình. Do vậy,  khi không đạt được mục đích,  rất dễ sinh ra thù oán nhau.

Đừng  ứng  xử theo cách  tự  ái, vì tự  ái là biến dạng  của thù hận. Trong tình yêu  nếu  để chất liệu  tự  ái trưởng thành thì dễ bị đổ vỡ. Đức  Phật  dạy, hãy lấy chất  liệu  tình bạn  đặt vào tình yêu, nên dầu cưới nhau mấy mươi năm vẫn xem nhau như hai người bạn quý. Thường  xuyên hâm nóng lại tinh thần  đó.

Phương Tây thường tổ chức kỷ niệm 50 năm sau hôn nhân, hoặc ngắn hơn như 20 năm, 10 năm, để thắp  sáng  tinh thần bằng hữu hay  thiện hữu tri thức, nói theo  đạo Phật. Thiện tri thức là  bạn có đạo  đức,  tuệ giác,  nương tựa  lẫn nhau, dìu dắt nhau để cả hai  người cùng hướng về con  đường hạnh  phúc.

Sống như vậy thì sự  đổ vỡ sẽ không  xuất hiện.  Cần nhổ lên hạt giống tự ái trong các mỗi  quan hệ. Được vậy, thế giới này sẽ có được màu xanh của bình yên bất tận.

DÒNG SUỐI GIẢI OAN

Phương pháp  khác  có khả  năng xóa bỏ sự thù  hận  là buông bỏ hàm oan.  Những  người chết oan  ức, hay bất đắc kỳ tử thường bị ức chế tâm  lý, nên  khó siêu thoát. Trong cách chết trợ  tử, nếu bệnh  nhân  không  yêu cầu mà thân  nhân  tự động  làm thì khả năng  sân hận có thể  có, dù đang bị hôn mê họ vẫn không chấp  nhận  cái chết  đang  diễn ra như sự thật.

Người  chết  mà không  chấp nhận  cái chết  thường rơi vào cảnh  giới ngạ  quỷ, tức hồn  ma sống thuần  bằng tâm thức. Thần  thức  này tồn tại không  bị giới hạn  bởi không  gian vật lý, nên  có thể  nhìn thấy con  người,  sự vật, cây cảnh, màu  sắc và có trường hợp hiểu được tâm lý người  còn sống với những tình cảm nhớ thương.

Dĩ nhiên cảm quan của người sống và người chết khác nhau rất  xa. Nếu người sống nhìn thấy tất cả hình thù, màu sắc, thì sự cảm  nhận này trực tiếp từ mắt; trong khi người chết chưa được siêu  thoát chỉ cảm nhận bằng sự hình dung và tưởng tượng. 

Muốn xem kỳ quan và cảnh đẹp, người sống chỉ tốn tiền mua vé  máy bay hay đi xe đến nơi là có thể xem được, hoặc xem lại từ VCD  hay hình ảnh được chụp lại. Các hương linh sống bằng cảm xúc, không có các giác quan như người sống để tiếp xúc trực tiếp. Khi  nhu cầu của con mắt nhìn hay lỗ mũi ngửi, lỗ tai nghe âm thanh  có mặt thì sự thèm khát hưởng thụ dâng trào nhưng họ không thể  thực hiện được. Dòng cảm xúc thèm khát này làm cho hương linh  chưa siêu bị đói về mọi phương diện, nên họ được gọi là ngạ quỷ.  Chết oan uổng mà không được sự giúp đỡ bằng các khóa lễ cầu siêu  thì hương linh khó đầu thai được.

Một trong những cách xóa  bỏ hận thù có hiệu quả  là phải tháo gỡ những nỗi hàm oan. Mặc  dù vẫn  biết  mình bị  oan nhưng đừng cố chấp  vào nỗi  hàm  oan đó, thì mối gút hận thù được tháo gỡ phân nửa  về phía nhận  thức  của nạn  nhân.  Còn người đối tác có thừa nhận hay  không là chuyện khác, ta không nên quá bận tâm.  Nếu tác nhân  thừa  nhận  cái gút hàm  oan tạo cho  người khác nên mở thì tốt cho  cả  hai. Bằng không nhận thức được,  người  không  giữ nỗi hàm oan vẫn được  an  toàn bản thân. Về sau  hay  kiếp sau  có gặp  lại, nếu không  với tư cách là người bạn, thì cũng không vì thế mà hận  thù  nhau, nhờ  đó, không vấp phải những đổ vỡ và tổn  thất.

Bộ Từ bi thuỷ sám là tác phẩm Phật học, dạy nghệ thuật làm mới đời sống đạo  đức rất hay trong thời cận đại.  Tác phẩm dưới dạng  sám pháp, nói về cách  thức tháo  gỡ lỗi lầm, khi đã lỡ gây tạo cho  người khác. Sự tích của bộ sám  này từ câu chuyện có thật liên  quan đến Ngộ Đạt quốc sư,  bậc chân  tu đạo cao đức trọng, trong kiếp quá khứ từng  tạo  ra nỗi hàm oan  cho một người hiền lương.

Trong tiền kiếp, Quốc sư Ngộ Đạt từng làm quan thẩm phán  tối cao, tên là Viên Án. Có một thường dân tên là Triệu Thố, do vì  tình ngay lý gian, đã bị kết án tử hình. Triệu Thố van xin bằng  mọi cách nhưng Viên Án không tin. Với chứng cứ giả, không  biện hộ được, theo luật pháp lúc đó, Viên Án xử tử Triệu Thố. 

Cái chết  đó đã làm  cho Triệu  Thố uất ức và thù  hận. Trước khi bị hành  hình, Triệu  Thố thề: “Tôi sẽ báo  thù  Viên Án dù phải trải qua  nhiều  đời kiếp”. Cuối  đời Viên  Án đã trở thành một nhà sư. Trong lúc tĩnh tâm thiền  quán,  ông lật lại những trang dữ liệu  quá  khứ  và biết  rằng mình đã xử oan  Triệu Thố, dẫn  đến  cái chết của cả gia đình người hàm oan.  Dù Viên  Án ăn năn  hối hận,  làm  lễ sám hối  nhưng oan khiên đó vẫn  không buông tha ông.

Sau nhiều kiếp tái sanh làm nhà sư tu hành giới luật nghiêm  minh, đến kiếp thứ 10, Viên Án trở thành quốc sư tên là Ngộ Đạt.  Quốc sư Ngộ Đạt rất thông thái, đạo cao đức trọng và rất khiêm hạ.  Vị vua Trung Quốc lúc đó rất tôn kính Phật pháp Tăng, thỉnh Ngộ  Đạt về triều thuyết giảng đạo lý, sau đó phong làm quốc sư.

Trong ngày lễ phong chức, vua cho  làm tòa ngồi  bằng  trầm hương, quý hơn long tọa của vua. Khi Quốc sư Ngộ Đạt khởi lên ý niệm  hãnh  diện tự hào, thì lập tức nghiệp oan trái của 10 kiếp trước có cơ hội  xúc  tác để trả quả. Bỗng  dưng, đầu gối của Quốc sư  Ngộ Đạt mọc  mụt  ghẻ hình mặt người, lại có thể  phát ra âm thanh. Dù không  phải ngôn  ngữ của con  người nhưng với khả năng nghe  của Ngộ Đạt,  đây hẳn là âm  thanh của sự oan  trái than thở, trách móc, đòi đền  tội để rửa thù:

- Là người học sâu hiểu  rộng về lịch sử  và  văn chương, hẳn  ngài  đã đọc qua  quyển Tây Hán Thư, ra đời dưới triều đại Đường Ý  Tâm.  Tác phẩm  này có đề cập đến  chuyện oan khiên giữa Viên Án và Triệu Thố.

Quốc sư  Ngộ Đạt nói:

- Tôi biết chuyện  đó. Thật  tội nghiệp cho  Triệu Thố. Mụt  ghẻ phát ra những tín hiệu cho  biết rằng:

- Trong câu chuyện đó, ngài  là Viên Án  còn tôi  chính là Triệu  Thố.  Tôi làm oan hồn theo ngài đã 10 kiếp  rồi nhưng chưa có cơ hội  để trả thù,  bởi ngài  đã trở  thành một vị chân sư. Do kiếp  này ngài  có tâm cống cao,  ngã mạn  nên  tôi có cơ hội để trả thù  rửa hận.

Nói xong, mụt nhọt làm thân  thể quốc sư nhức nhối kinh khủng, không sao chịu nổi. Trong sự đau  nhức, Quốc sư  Ngộ Đạt nhớ lại cuộc tao  ngộ đặc biệt với một  vị cao Tăng trước đây. Vị cao  Tăng  này xuất hiện  dưới hình thái một người ăn mặc xốc xếch, đi đâu cũng  bị mọi  người  xa  lánh.  Chỉ có tu sĩ trẻ Ngộ Đạt tỏ ra kính trọng, gần gũi dâng cơm nước, tặng phẩm vật. Nhân đó, vị cao Tăng nói:

- Sau này, nếu gặp nạn, thầy nhớ lên trên núi Tà Lũng thuộc khu  Bành Thành mà tìm. Chỉ cần liên tưởng đến thì thầy sẽ gặp tôi.

Lúc giúp vị cao  Tăng, Ngộ Đạt  nghĩ  đơn thuần là nhà sư nói chơi  thôi, hơn nữa ngài cũng chẳng  cần ai giúp  đỡ trả ơn, vì không  còn sợ tai nạn và bất  hạnh. Khi bị oan  khiên hoành hành, Ngộ Đạt đã tìm đến núi Tà  Lũng. Làm theo  lời dặn, Ngộ

Đạt  gặp lại người  xưa.  Vị cao  Tăng nói:

- Nỗi oan  khiên  của quốc sư tôi đã biết.  Bây giờ quốc  sư hãy đi xuống con suối bên cạnh núi Tà Lũng,  dùng nước, quán tâm  từ bi của mình đang trải rộng  dài khắp  nơi và mọi  loài, từ chúng sanh  có sự sống, cho  đến  thảo  mộc  vô tình. Quốc sư hãy tâm niệm:  “Xin những giọt nước từ bi này xóa tan những  nỗi oan  khiên,  thù hận đã tạo  trong quá khứ,  dù vô tình hay cố ý”.

Quốc sư  Ngộ Đạt đã làm  theo lời hướng dẫn của cao Tăng, cuối cùng đã hóa giải thành  công mối thù truyền kiếp của Triệu Thố. Cảm phục  giá trị  của phương pháp sám hối này, Quốc sư Ngộ  Đạt đã sáng  tác ra bộ Từ bi thuỷ  sám  với lời văn tha thiết, nói  về quy luật nhân  quả, đạo đức chi phối hạnh  phúc hay  khổ đau của con  người trong cuộc đời.

Các Phật  tử thỉnh thoảng  nên đọc lại bộ sám pháp này, với tất cả lòng chí thành để sám hối, những  lỗi lầm do vô tình hay cố  ý gây ra cho  người khác. Có những  chuyện  làm sai nhưng ta không hề hay biết,  cứ tưởng mình làm đúng theo lương tâm  và luật pháp, nên đã tạo ra những  nỗi oan  khiên,  biến người vô tội thành  những  oan  hồn, chịu  nhiều  nỗi khổ đau  qua  nhiều  kiếp.

Thực  tập thói quen sám  hối  để tháo  gỡ những nghiệp oan trái cũ và mới.  Phải  buông bỏ nỗi oan  khiên  với người khác. Dù với tư cách nạn nhân hay  tác nhân,  ta nên  tháo  gỡ các oan khiên để không  trói buộc oán thù từ đời này sang đời khác.

TỪ BI & THA THỨ

Bên cạnh các phương pháp  vừa nêu, hạnh từ bi và tha thứ là hai đức tính giúp ta tháo  gỡ hận  thù.  Dòng suối  mà Quốc  sư Ngộ  Đạt sử dụng, sở dĩ được gọi là suối Từ  bi là vì từ bi là chất liệu thanh lương, thẩm thấu vào lòng  người có thể  mang  lại sự an lạc.

Không ai nói là núi  từ bi, đất từ bi mà thường  nói là nước  từ bi, bởi vì nước có khả năng  tẩy rửa, làm sạch.  Sử dụng  chất liệu từ bi có nghệ thuật, ta sẽ làm cho tâm sân hận được  rửa sạch. Lúc  đó, cảm xúc  thù  hận  sẽ được phóng thích ra khỏi cơ thể vật  lý và tâm sinh lý, con  người sẽ trở  về với  trạng  thái thanh tịnh, an vui, hạnh  phúc. Tha  thứ là  chất  liệu  để cho hạt giống từ bi được  nảy mầm.  Điều quan trọng là đừng  lẫn lộn tình cảm với lòng  từ bi.

Ví dụ, đứng trước cái chết  của người  thân,  ta rơi nhiều nước mắt và tưởng  đây là lòng  từ bi của mẹ  đối với con, ông đối với cháu... Thực ra, đó  chỉ  là tình cảm thông  thường  trong quan hệ huyết thống. Muốn biết mình có từ bi nhiều hay không thì hãy thử. Mỗi khi nghe đến một tai nạn giao thông hay những đại nạn  động đất, sóng thần,  hỏa hoạn,  nói chung trước chết chóc  xảy ra, nếu ta không hề có chút  tâm  thương xót, không dành một phút mặc niệm nào  để hồi hướng  cho những người bất hạnh  được  siêu sanh thì ta biết hạt  giống  từ bi của mình đang bị ngủ quên.

Khi để dòng cảm  xúc  của tình thân phủ trùm  lên cuộc sống, ta làm vì trách nhiệm, tình thương lại lầm tưởng là thể hiện  từ bi. Tình cảm thì có nặng  nhẹ,  bên này bên kia. Lòng  từ bi thì không  phân  biệt. Đứng  trước  cái chết của một  người  thân  thì khổ đau, trong khi trước  cái chết  của mấy  chục ngàn người thì dửng dưng, như vậy  là chưa khơi dậy được  lòng từ bi cần có.

Phật  dạy,  cứ mỗi  ngày  trước  khi đi ngủ  phải  quán  từ bi. Quán từ bi có lợi  ích nhiều trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chẳng hạn khi giận chồng hay  giận vợ, nếu biết quán từ bi thì rất dễ dàng  tha thứ;  biết rằng tội lỗi và sai lầm như là thuộc tính của người  phàm.  Hễ là người phàm, ai cũng lầm lỗi. Có người lỗi nặng, người lỗi nhẹ. Thấy được thuộc tính người phàm giúp ta không chấp trước và dễ dàng khởi ý niệm tha thứ, bỏ qua.  Tha  thứ người khác vì biết rằng mình có thể  vi phạm sai lầm trong tình huống tương tự. Biết tha thứ cho  người khác thì khi mình lầm  lỗi họ  cũng dễ dàng  tha thứ cho  mình. Đó  là nhân  quả của đạo  đức tha thứ. Điều quan  trọng  hơn, tha thứ tháo  gỡ hận  thù,  là phương thuốc  trị liệu vết thương  lòng.

Khi có tu chuyển hóa, ta dễ tha thứ bất cứ lỗi lầm nào của con  người. Tha thứ  là những giọt nước tẩy rửa bợn nhơ đạo đức của  con người, đồng thời là chất liệu giúp họ làm mới cuộc đời. Quan  niệm được như vậy, ta sẽ không khó chịu khi thấy người bạn đời  hay thân bằng quyến thuộc đã làm cho mình khổ đau.

Đừng tuôn ra những câu thề thốt  độc địa,  khi giận  dữ. Lời thề cay,  rủa độc không phải là chánh ngữ. Đó  là ngôn ngữ thiếu từ ái, thể  hiện sự  sân si, mang theo khổ đau,  dẫn  đến  bế tắc trong quan hệ.

Nếu trong đời,  lần  nào  đó vì giận  quá nên ta đã buông ra những lời thề hăm  doạ  thì hãy rút lại  lời nói đó. Phải  biết “Một cái giá bằng  ba cái đánh”.  Đánh một lần đau  rồi hết  còn giá sẽ làm người  sợ, vì không  biết sẽ bị  đánh lúc  nào,  ở  đâu. Trạng thái hồi hộp, lo sợ cứ chầu chực,  làm cho  họ  quên  ăn bỏ ngủ. Nhân quả của hù dọa  có trường  hợp lớn hơn là  đánh  thiệt, về phương diện tác hại  tâm lý đối với đời sống.  Nhân  quả rất phức tạp. Không  phải khi nào có làm  cụ  thể  mới  thật sự có nhân,  có quả. Một hành  động  của tư duy  tiêu cực xuất hiện là đã  tạo ra nghiệp quả xấu rồi.

Xóa  bỏ lời thề  cay,  rủa độc giống  như ta delete các tập tin bị lỗi trong hệ điều hành  tâm  thức  của mình. Tháo hết ra để người kia  thấy rằng họ đã được  đón nhận  bằng tất cả lòng từ bi, giữa ta và họ không  còn những  khoảng  cách nữa. Như vậy chất liệu của tha thứ  đã làm  cho  người kia trưởng thành hơn trong đạo đức và  là một dưỡng chất làm cho  họ cảm thấy hân hoan, nhẹ nhàng, phấn chấn.

Thông thường  có  hai tình huống mẹo vặt giúp  người dễ dàng tha thứ. Tình huống một là  lúc người cố chấp  đang  khổ đau  nhất; sự quan tâm và chia sẻ của  ta dễ được chấp nhận như lời xin lỗi. Trong nỗi khổ đau  cùng cực, con  người dễ dàng tiếp nhận  sự xin lỗi  và tha thứ,  để có thể  thiết lập tình thân, vượt qua cô đơn và khổ  nạn.

Tình huống  thứ hai là  khi được hạnh  phúc cực điểm, con người cũng dễ dàng  tha thứ.  Lúc  đó sự tha thứ được thực  hiện như một biểu hiện  của chủ nghĩa anh hùng, theo  nghĩa tỏ ra ta là  người  nhân  từ, rộng lượng. Trong tâm trạng  sung  sướng người ta thường tỏ ra dễ dãi  và sẵn  sàng tha thứ cho  những  kẻ lỗi lầm. Những  ngày lễ lớn  như Quốc khánh  2/9 hay Giải phóng 30/4, lệnh ân xá cho những tội nhân thường được thực hiện.

Lợi dụng vào cảm  xúc hạnh phúc nhất của họ  để bày tỏ lỗi lầm thì ta dễ dàng thiết  lập được nhịp cầu thông cảm, tha thứ. Nhờ  đó lòng thù  hận  sẽ được xoá  bỏ và không  dây chuyền từ kiếp này sang  kiếp khác.

Dĩ nhiên, cả hai nghệ thuật tâm lý vừa nêu chỉ thành công khi cả hai cùng nỗ lực; nếu chỉ một bên thì kết quả sẽ không nhiều.

KHÔNG THA THỨ GÂY RA ĐẠI HỌA

Trong lịch sử Ấn Độ thời  đức  Phật, có một cuộc chiến đẫm máu mà nguyên nhân là do lòng chấp thủ. Dòng tộc Thích Ca, tổ phụ  của đức Phật Thích Ca, đã có lần  chơi trác dòng họ Lưu Ly. Trong nước  cộng  hòa Ấn Độ gồm  16 bang, Sakya là  nước nhỏ nhưng sự phồn thịnh về văn  hóa,  giáo  dục, kinh tế, đã làm cho  những  nước khác phải nể sợ. Ma Kiệt Đà  là nước lớn mạnh cũng phải e dè trước  dòng tộc Thích Ca.

Khi tổ phụ dòng  họ  Thích Ca quá mạnh,  vua  nước Lưu Ly muốn cầu hòa, xin cầu hôn  con gái dòng  họ  Thích Ca cho hoàng  thái tử. Dòng họ Thích Ca khinh thường  dòng họ Lưu Ly bằng  cách  gửi  tỳ nữ đẹp  về làm vợ hoàng  thái tử nước  Lưu Ly, sau này trở thành hoàng hậu.

Theo phong tục  Bà-la-môn  giáo, người  nào giai cấp  vua chúa  mà đính hôn  với người  giai cấp thấp  hơn thì sự thanh tịnh nhiều đời nhiều  kiếp bị phá vỡ.

Nỗi đau  sĩ diện này là tổn thất không  thể đo  lường được  đối với nước  Lưu Ly. Mấy đời trôi  qua,  cho  đến thời đức Phật, vua Lưu Ly con  phát hiện sự chơi  khâm  của nước  Sakya, nảy sinh ý định  trả thù.

Biết chuyện đó, đức Thế Tôn tìm mọi  cách để hóa  giải lòng hận thù của vua Lưu Ly, nhưng vẫn không thành công. Trước khi vua Lưu Ly cất quân  đánh  nước  Sakya, đức Phật khuyên rằng: “Tôi thừa nhận tổ phụ của Sakya đã từng tạo  ra khổ đau cho nước Lưu Ly. Khổ đau  đó đã trở  thành  quá khứ mấy thế kỷ rồi. Vậy tại  sao  phải  hâm  nóng  nỗi đau quá khứ. Tôi khuyên ngài hãy vì lòng  từ bi mà xóa bỏ nỗi  khổ  đau này  để cho hai dân tộc có thể  trở thành bạn trong hòa bình và phát triển.

Nếu đại vương cất quân  đánh  thì biết bao  người dân vô tội sẽ bị chết. Đại vương nên ý  thức  rằng  hành động trả thù  đó đã gieo nghiệp  sát, vốn không  có liên  hệ gì đối với tác nhân gây tạo trước  đây. Nỗi khổ đau  này  sẽ không cùng tận.

Đức Phật thuyết  phục  mấy, vua  Lưu Ly vẫn không  nghe. Tha thứ vẫn không  được  thiết  lập, binh phạt đã xảy  ra và biết bao  nhiêu  người  dân vô tội của dòng tộc Thích Ca đã phải  chết.

Đức Phật không phải kém  tài  thuyết phục. Khi quy  luật của  lòng tham, sân, si đã hoạt dụng ở trục cực điểm thì những gì thuộc  về chân lý, đạo đức, từ bi đều trở nên vô dụng. Phật đã từng nói  trong kinh rằng: “Ta có  thể cứu độ vô  lượng, vô số chúng sanh  nhưng không thể độ những người không có duyên với Ta”. Nghiệp  quá khứ của dòng họ Thích Ca đã gây ra thì phải chấp nhận trả. Phật có  thể độ rất nhiều người nhưng không  thể độ những  người có thành kiến quá nhiều mà không sẵn lòng tháo mở.  Thành kiến và cố chấp là ổ khóa, đóng lại cánh cửa tâm hồn, mặc  cho chân lý có thiết tha đến gõ cửa cũng không cách nào vào được.

Sự  cố trả thù  của vua Lưu Ly không thuộc về trách nhiệm của Phật  Thích Ca.  Lỗi ở nơi lòng  sân  hận  và sự  trả  thù,  đã mang lại tang  tóc, khổ đau  cho  biết bao  nhiêu người. Ít nhất  về phía dòng tộc Thích Ca  được  sự giáo hóa của đức Phật nên họ không còn lòng sân hận trước  cái chết  tàn khốc.

NỐI DÂY THÂN  ÁI

Là người con  Phật, chúng ta phải  mở rộng  lòng  để nối  dây thân ái với  mọi người. Dù ai có gây bất cứ lỗi lầm  nghiêm trọng như thế nào chúng ta cũng nên tạo cơ hội, giúp họ làm mới cuộc đời, không mặc cảm tội lỗi và  ý thức được những lỗi lầm đã gây  ra. Ta luôn  luôn  mở rộng  cửa tâm  hồn  để chấp nhận người  khác,  sau đó tùy theo thái  độ từng người  mà nối rộng vòng dây thân  ái như thế nào.

Có bản  lĩnh hơn nữa thì chúng ta cứ tin rằng người kia  đến với  tất  cả tấm lòng chân thật, đừng nhìn họ bằng lăng kính quá khứ. Ưa nhìn thấy  lỗi lầm của người  khác  sẽ  chất chồng  khổ đau, từ một  nắm  đất bất hạnh  trở thành đồi, núi, hay  vạn lý trường  thành  bất hạnh.  Quên đi quá khứ của người,  ta có thể tiếp nhận  người  khác bằng cái mới của họ trong hiện tại như sự thật đang diễn ra. Lúc đó, không còn  quá  khứ  nào có thể tác động, ảnh hưởng,  chi phối và cũng không  còn những khoảng cách phân  ly nữa. Hạt  giống  của sự tha thứ  rất quan trọng trong quan hệ tình người. Thiếu đi sự tha thứ, chính bản thân người  chấp giữ cũng bị bế tắc.

Có nhiều người trừng phạt mình bằng cách tự chặt bàn tay đã  từng ăn cắp. Nếu cái miệng này đã từng nói dối, lừa đảo thì bây giờ làm cho lưỡi bị câm, bị ngọng; nếu đã tạo cái chết cho người khác  thì tự sát để đền nợ. Tất cả sự trừng phạt đó là sai lầm, không giải  quyết được vấn đề. Chẳng hạn, Hitler dù tự sát thì nghiệp sát của  ông với dân Do Thái vô tội vẫn không trả được. Nếu những nạn  nhân không có hạnh tha thứ, ôm giữ mối hận thù thì Hitler khó  siêu sanh. Bản thân Hitler nếu không tháo mở sự uất hận để hồi  đầu làm mới cũng khó có cơ hội tái sinh với đời sống an vui.

Tha  thứ là một nhu cầu lớn. Ta  có thể  hình dung tha thứ như chiếc phao  cho  người  tội lỗi bám để được vào bờ. Vì giá trị của lòng  tha thứ  có thể làm  mới  cuộc  sống  hạnh  phúc, bằng mọi  cách, ta cố gắng  gieo  trồng càng nhiều càng tốt.

Hãy thực tập bằng cách nghĩ rằng tha thứ người khác như tha  thứ chính mình. Không tha thứ thì mỗi khi nhìn thấy tác nhân,  nỗi ám ảnh về lỗi lầm của họ xuất hiện, làm cho ta cứ luôn ray rứt  phiền não, mặt khác không nhìn thấy được những cái tốt của họ  đang có. Thay vì chấp nhận người xấu với hình ảnh làm mới, nhiều  người cố chấp nhìn thấy họ như với quá khứ lỗi lầm, nên bế tắc  và hận thù cứ tiếp tục theo ta không chấm dứt. Rốt cuộc bất hạnh  vẫn nằm về phía ta, cho nên tha thứ chính là giải thoát cho chính  mình khỏi khổ đau của cảm xúc.

Có một  trăm người bạn  tốt vẫn chưa đảm bảo được  an vui nhưng chỉ cần  có một kẻ thù  là ta đã bị khủng hoảng. Số lượng kẻ khủng bố rất  ít so với  dân  số con  người trên hành tinh, thế mà chỉ cần một hành động khủng bố cũng đủ làm  cho  biết bao nhiêu  người  phải bị khủng  hoảng  và khổ đau. Tinh thần tha thứ làm cho  ta mở rộng  lương tâm và thiết  lập nhịp cầu tình bạn.  Xóa bớt lòng hận thù tức là  bớt thù thêm bạn, dù người bạn đó không giúp ích được gì cho mình cũng không sao, miễn họ chấp nhận  làm bạn  với ta là quý rồi.

Sở dĩ,  ta không  chấp nhận người khác làm mới được  là vì có những thành kiến về cũ mới, đúng sai giữa quá  khứ và hiện tại, tạo thành rào cản lớn.  Thiết  lập thành  trì tâm  lý vướng  mắc đó chẳng  khác nào ta đang cô lập chính mình.

Cần có lòng  từ bi và tha  thứ, như cặp đức tính sinh đôi. Chỗ nào có lòng  từ bi thì chỗ  đó có sự  tha thứ.  Chỗ  nào có tha thứ thì hạt  giống  từ bi sẽ  sinh sôi.  Nên  áp dụng hai đức tính này trong các mối quan hệ tình người.

Nếu chỉ giải quyết  sự thù hận bằng cách dùng  bạo lực  lớn để oanh  tạc bạo lực nhỏ, bạo lực đó  sẽ tạm thời  dừng lại  rồi nó sẽ nổi loạn trong tương lai. Dùng cưỡng lực mạnh  để áp chế  một lực khủng bố nhỏ  hơn không phải là giải pháp. Đừng  khủng  bố lẫn nhau mà cần  làm  thế  nào để cho  người kia  phải chịu trách nhiệm nhân quả đạo đức trước  luật pháp,  sau  đó lấy tình người để tháo gỡ và chuyển hóa  họ. Nếu  chỉ sử dụng bạo lực thì tình trạng sẽ  bị biến dạng.  Khi hận thù biến dạng  thì nỗi khổ đau khủng bố  sẽ được  thiết  lập, giống  như những quả mìn nằm ở mọi nơi, chỉ cần phút  bất cẩn là chúng có thể  nổ tung.

Chỉ  có tình thương và lòng tha thứ mới góp phần thiết  lập môi trường trong lành, thoải  mái, người  với người  biết thương nhau hơn. Điều này ai cũng có thể  thực hiện được, chỉ cần mỗi người cố gắng  một  ít. Hãy quán chiếu theo lời Phật dạy rằng “Tất cả người xa lạ  đều là thân bằng quyến thuộc”  thì ta đâu nỡ giết hại lẫn nhau để gieo  thêm cảnh chia  ly, tang  tóc.

Nói tóm  lại,  xóa bỏ hận thù được  thể hiện bằng nhiều  cách khác nhau như gieo trồng hạt giống từ bi, thể hiện sự tha thứ, nhổ  sạch gốc rễ tự  ái, mạnh dạn từ bỏ nỗi hàm  oan, hay quán tưởng rằng ta không phải là chủ  thể  để tiếp nhận  nỗi khổ niềm đau,  cũng như quán  không có một  tác nhân nào gây ra khổ đau.  Kết hợp những  cách quán sát như thế thì nỗi khổ niềm đau sẽ giảm đi đến  độ không còn  có mặt  trên cuộc  đời này nữa.

Chương 3: Tâm tưởng hận thù

SÁT SANH TRONG TƯ TƯỞNG

Khi chia sẻ một vài quan điểm hóa giải lòng hận thù theo tinh thần đức Phật dạy ở hai phần đầu, chúng tôi có đề cập đến câu chuyện ngụ ngôn trong kinh Đại Bảo Tích, liên hệ về phản ứng của sư tử và chó trước một khúc xương. Câu chuyện ngụ ngôn đó nói về đối tượng của lòng thù hận chính nó đã tạo ra khổ đau cho con người.

Con chó nghĩ rằng cục xương là tác nhân tạo ra sự đau đớn thân xác của chúng nên đã cấu xé khúc xương. Sư tử, ngược lại, biết rất rõ tác nhân không phải là khúc xương mà là con người, nên định hướng được nơi mà khúc xương xuất phát.

Phật dạy, ta nhìn nhận tác nhân không phải nằm ở  sự kiện, sự vật, ngay cả con người, mà nằm ở lòng tham, sân, si của người thiếu sự kiểm soát tâm. Trong cuộc sống nhiều  người có khuynh hướng tâm lý ngã hóa đối tượng, tức là hình dung đối tượng đã tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình và định vị đối tượng đó. Thay vì, thấy rõ được con người là do hợp thể của năm uẩn tạo thành thì ta lại đi mê mẩn cái giả tạm đó. Tiến trình ngã hóa đối tượng làm cho con người tìm kiếm cơ hội để phóng thích nỗi khổ niềm đau qua lòng thù hận.

Nhiều nơi trên thế giới, có thói quen trút bỏ  lòng thù hận lên hình nộm của người bị ghét, để không ảnh hưởng trực tiếp đến mạng sống của người đó. Khi ghét người nào họ làm hình nộm của người đó, rồi đọc bản tuyên án, cầm dao, gậy, bật lửa để đánh đập, đốt hình nộm đó.

Làm như vậy họ cảm thấy thỏa mãn cơn tức giận và an toàn hơn; trong khi trả thù trực tiếp thì sẽ bị luật pháp cầm tù, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm, sự nghiệp, hạnh phúc. Đó là sự phóng thích lòng thù hận theo hướng “ngã hóa” đối tượng qua hình nộm. Có người dùng hình phóng to để thay thế hình

nộm, rồi đốt như hành động rửa hận. Có người khắc tên kẻ thù trên khúc cây, mảnh gỗ, rồi dùng dao chặt bằm khúc cây ra nhiều mảnh, nghĩ rằng họ đang băm dằm thân thể của kẻ thù.

Dù bất cứ hình thức nào thì tiến trình ngã hóa đối tượng cũng  đã làm cho lòng thù hận có cơ hội gia tăng. Mặc dù đối với pháp  luật, kẻ trả thù hình nộm được xem là không có tội, nhưng trong  nhân quả đạo đức, người đó đã sát sanh trong tâm tưởng. Tức là  hành động sát sinh bằng tâm ý đã được gieo, có sự hưởng ứng,  sự đồng tình của nhiều người đang gieo trồng chung một cộng  nghiệp trả thù bằng tâm thức, mà tác hại của nó không thua kém  gì so với tác hại của một hành động giết người cụ thể.

Hành động thường được thể hiện qua ba khuynh hướng: Hành động của thân thể, lời nói và chữ viết, tâm tư duy với kế hoạch hay những âm mưu.

Hành động của  tâm còn nguy hại hơn những hành động cụ  thể. Trong hành động cụ thể, chẳng hạn, khi bắn giặc chết nghĩa  sĩ có thể ngưng bắn để không phí đạn. Còn hành động ngã hóa  đối tượng là bắn, chặt, giết bằng tâm, nên động tác giết hại diễn  ra nhiều lần như thể chết nhiều lần. Sự trả thù này chỉ làm cho  người sân hận thoả mãn cơn tức giận trong ảo giác. Bất cứ cái gì  có thể hình dung đều được sử dụng như công cụ ngã hóa kẻ thù  bằng hình nộm, tranh ảnh để tha hồ giết đốt. Kẻ thù không chết  thật nhưng nghiệp sát là có thật.

Có người ngã hóa đối tượng theo cách giết người trong giấc mộng. Khi ức chế không giải phóng được, con người có khuynh hướng mang vào giấc ngủ, giấc mơ tạo ra ác mộng để tự thỏa mãn. Ý thức giết người trong mộng để trả thù cũng là  nghiệp sát của tâm, cần được chuyển hóa.

Học đạo đức của Bồ tát phân tích, rằng tác nhân  chính yếu của hành động nằm ở tâm. Một người được gọi là đạo đức không chỉ được đánh dấu qua những biểu đạt của thân và khẩu. Người giỏi về ngoại giao thường là người thâm thúy, có thể không thể hiện ra ngoài nhưng trong dòng cảm xúc của họ vẫn nghĩ đến hoặc tán đồng các hành vi sát hại.

Hãy trưởng dưỡng lòng từ bi để tất cả những nghiệp thù hận được tháo gỡ và chuyển hóa. Hành động giúp đỡ với động cơ tốt mới thật sự là một thiện sự đúng ý nghĩa, bằng không chưa chắc đã có giá trị tốt đẹp cho cuộc đời.

Như vậy tiến trình ngã hóa có thể thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau, mỗi người hình dung ra một cách để thỏa mãn bằng hành động, tư duy hay bất cứ một hình thức nào, làm thương tổn trực tiếp hay gián tiếp đến người khác.

Trong công nghệ ăn chay ngày nay, có thể nói rằng Đài Loan là một trong những xứ sở tiên phong tạo ra khuynh hướng ngã hóa đối tượng của việc ăn chay. Lúc đầu, công nghệ thực phẩm chay giả mặn được hình thành với một thiện ý. Thay vì để thực khách ăn thịt những con vật thật  thì họ tạo ra những món chay giả các loại thịt cá bằng tàu hủ, mì căn để cho người ăn bớt đi nghiệp sát. Khẩu vị tiếp xúc thì giống nhau nhưng nghiệp sát mạng sống thật thì không có. Thiện chí đó có ý nghĩa dẫn dụ người chưa quen ăn chay.

Về  lâu dài,  thực phẩm chay được  sản xuất theo công nghệ  dây chuyền và trở nên phổ biến khắp thế giới. Dĩ nhiên tác dụng  lúc đầu của nó không còn nữa. Hiện nay thực phẩm chay giả mặn  được sản xuất với hình thù và mùi vị y hệt như thịt cá thật. Nếu  có dịp  thưởng  thức nước mắm chay  thì quý vị  sẽ cảm nhận  được hương  vị  của nước mắm  cá  thu  không  khác  chút nào.  Tương tự mắm ruốc chay hay các loại cá chay, đùi gà chay, tôm  sú,  tôm  càng  chay  v.v...  không  còn hương  vị  chay  tịnh nữa,  tanh  hôi  vô  cùng. Ăn  những  thực  phẩm  đó  nếu  không  biết  trước là đồ chay giả mặn thì không thể phân biệt được giữa thật và giả. Vô tình ta đang ngã hóa đối tượng các con cá, gà thành  các hình thù thực phẩm chay. Trong hành động ăn chay đó, ta  vẫn đang tiếp tục gieo trồng các hạt giống của sát hại bằng tâm  nghĩa  là sát sanh trong tư tưởng, do đó nghiệp sát trong tâm  cũng khó có thể hóa giải.

Cần loại trừ thói quen tiêu thụ các thực phẩm chay giả mặn. Về phương diện y học, các thực phẩm đó không có dưỡng chất và chứa nhiều độc tố. Hạt giống của tâm sát hại vô tình vẫn được tồn tại dưới dạng tùy miên, tức là ngủ ngầm trong tạng thức con người. Lúc ăn những đồ chay giả mặn, hạt giống sát hại thầm lặng được xúc tác, tưới tẩm và nuôi lớn. Ăn loại thực phẩm chay giả mặn chẳng khác nào ăn những động vật thật, dưới góc độ tâm tưởng. Để xóa bỏ được lòng thù hận ta phải dẹp bỏ tiến trình ngã hóa đối tượng.

BÌNH NGUYÊN TƯƠI MÁT

Trong giới luật của người xuất gia có một điều khoản hỗ trợ cho đời sống hòa hợp của tập thể Tăng già, được gọi là “Như cỏ phủ đất”. Đây là một trong những nghệ thuật quý báu, giúp cho hai đối tượng đang trong tình trạng bất hòa có thể hoà giải trong hiểu biết. Hình ảnh cỏ phủ đều trên đất làm cho ta hình dung đó là một bình nguyên tươi mát, những màu xanh mang lại sức sống và không hề có những ổ gà, ổ voi.

Cỏ trải trên đất làm cho người bộ hành có cảm giác nhẹ nhàng an lạc từng bước chân và có lợi cho sức khoẻ. Bác sĩ vẫn khuyên ta nên đi bộ bằng chân không, để tiếp xúc với khí nitơ và cỏ, tạo ra dưỡng chất tốt. Nếu đi trên cỏ, tiếp xúc với cỏ, đất và khí nitơ thì sức khỏe sẽ gia tăng.

Đức Phật dạy, hãy quan sát mặt bằng của cỏ phẳng lì như vậy để khi có sự rầy rà, thù hận nào diễn ra thì nhanh chóng thực tập bỏ qua. Lúc đó không còn đặt vấn đề ai đúng ai sai. Cách thức đặt vấn đề ngã hóa đối tượng theo sự thù  hận sẽ tan biến. Tiến trình của sự hóa giải hận thù được thiết lập và đem lại an lạc hạnh phúc cho đời sống cộng đồng.

Khi Tăng đoàn đã làm phép Yết ma, tức là biểu quyết tập thể, chấp nhận giải quyết vấn đề tranh chấp bất hòa giữa hai bên trên tinh thần “Ngã hóa đối tượng”, từ đó về sau nếu ai còn khơi gợi lại chuyện cũ để tạo ra mối hiềm khích trong quan hệ thì người đó sẽ bị lỗi nặng.

Đức Phật đã dùng nhiều phương pháp tạo dựng một cộng đồng hoà hợp, trong đó tất cả những gai góc của cảm xúc, sự cá biệt và bản ngã trong các mối quan hệ con người đều được san bằng để không ai bị thương tổn.

Trải cỏ trên đất là nghệ thuật hóa giải thù hận rất hay. Nếu áp dụng phương pháp này trong các mối quan hệ xã hội thì rất hữu dụng. Trong quan hệ gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, những người láng giềng thậm  chí giữa những người dưng nước lã, đặc biệt giữa những kẻ thù, nếu áp dụng phương pháp “Như cỏ phủ đất” thì nhất định đời sống hoà bình sẽ được thiết lập.

Có thể do quán tính của mặc cảm hay thành kiến được gieo trồng lâu dài, ta cảm thấy rất gượng ép, khó chịu khi áp dụng phương pháp này. Nếu nỗ lực làm một cách có ý thức thì sẽ thấy rằng đó là nhu cầu cần thiết cho đời sống.

Thực tập “Như cỏ phủ đất” trong tình huống bất phân đúng sai là đang gieo trồng hạt giống Dược sư, tức là thầy thuốc trong suy tư, hành động, lời nói, cách ứng xử v.v... Các hạt giống Dược sư này có thể làm cho con người đạt được ước nguyện.

ĐỪNG NHÂN BẢN HẬN THÙ

Để hỗ trợ về pháp quán không ngã hóa đối tượng, thì ta đừng nhân bản sự thù hận. Nếu chưa đủ bản lãnh để phóng thích nỗi khổ niềm đau dưới góc độ quán vô ngã hay quán không tác giả, thì cũng đừng nhân bản nó lên ở một mức độ nguy hại hơn.

Ngài Mục-kiền-liên là một trong những đệ tử của Phật có công hoằng  truyền chánh pháp. Nhiều lần ngài đã vận dụng thần thông cản ngăn việc làm sai quấy của các vị Bà-la-môn, nên bị họ sanh tâm thù hằn, tìm đủ mọi cách để làm hại. Ngài Mục-kiền-liên đã nỗ lực tháo gỡ vài ba lần sự thù hận của đối phương, nhưng không có kết quả. Kẻ thù của ngài hăm dọa nếu không chấp nhận nạp mạng thì nhiều người dân vô tội sẽ bị giết chết. Thấy nghiệp lực sâu dày này khó vượt qua được nên cuối cùng ngài chấp nhận cái chết để cho nghiệp sát hại tập thể không có mặt, đồng thời lại tháo gỡ nghiệp bản thân.

Khi giết được ngài Mục-kiền-liên, họ vẫn không chịu dừng ở  đó, mà còn nhân bản sự giết hại lên thành nhiều lần. Họ nghĩ rằng  ngài là thần thông đệ nhất, có thể biến cái chết trở thành sự sống,  hoặc giả dạng ra Mục-kiền-liên giả chứ không phải Mục-kiền-liên  thật, nên đã bằm chặt thân thể ngài ra thành nhiều mảnh vụn, để  thân thể không còn có điều kiện ráp nối.

Hành động băm chặt nhiều lần đối với một đơn vị sự sống thì nghiệp sát sanh được nhân lên theo. Bằm một trăm lần thì nghiệp sát sanh sẽ thành một trăm lần và sự thù hận lớn lên một trăm lần. Đó là nhân bản sự thù hận, giết một người mà nghiệp sát nhân thành một trăm lần thì quả là một sự tổn thất lớn về nhân quả.

Sự thù hận thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau. Tính cách  nhân bản khổ đau được thể hiện trong lịch sử của loài người rất  nhiều. Chẳng hạn khi ghét người nào, đến lúc họ chết rồi nhưng  vẫn đào mồ cuốc mả lên, móc mắt, dùng súng bắn, dao chặt như  thể cho người đó chết lần thứ hai, cho đến mấy chục lần.

Tiến trình nhân bản của cảm xúc hận thù có thể được diễn ra bằng những hành động cụ thể, làm cho con người chết đi nhiều lần hoặc nhục mạ hoặc đem ra xử án. Mặc dù người đó đã chết rồi nhưng vẫn đem ra xử lại. Thậm chí có những loại tuyên án phải xử tử năm lần bảy lượt mới có thể hết tội.

Nếu ngành hành pháp làm như thế thì đang nhân bản sự giết hại và hận thù không đáng đâu vào đâu. Người cầm cân nảy mực luật pháp mà mang tâm niệm đó thì nghiệp sát hại được gieo nhiều hơn.

Vẫn biết rằng nhân quả rõ ràng, làm vì công chính để tạo sự công bằng xã hội và bảo vệ an ninh là một điều rất cần thiết, nhưng nếu tâm niệm vướng vào sự thù hận, bực tức thì ta đã biến mình trở thành tác nhân của hận thù.

Bộ phim Kỳ Quan Trung Quốc, giới thiệu về các điều kỳ diệu trong lịch sử Trung Hoa. Từ văn học nghệ thuật, điêu khắc, cho đến thiên nhiên, phong tục tập quán, tôn giáo, văn hóa.... Phần cuối cùng giới thiệu về văn hóa ẩm thực của người Trung Hoa. Ẩm thực rất tài tình nhưng khó chấp nhận được.

Người ta lựa một đầu bếp thật giỏi, cho phép các thực khách tự chọn những con cá mà họ thích. Sau khoảng 10 giây, con cá được cắt cả chục lát (cắt rất nhanh để cho con cá không kịp giãy giụa) rồi bỏ vào chảo dầu sôi trong vòng mấy giây là thịt của cá đã chín gần hết nhưng tim cá vẫn còn thoi thóp. Khi ăn vào, thực khách có cảm giác ngon hơn và lấy làm sung sướng.

Một đoạn phim khác giới thiệu về cách ăn thịt gà. Người ta chọn một con gà cồ với đùi và chân thật to, nhổ sạch hết lông đùi, rửa sạch lông từ đùi đến chân, rồi đặt trên  chảo sắt có độ nóng rất ghê gớm, sau đó chụp cái lồng lại. Con gà nóng quá giãy giụa, càng nhảy thì nó càng đau càng la. Máu từ não, cánh, thân đổ dồn xuống làm bung cái đùi ra to. Chỉ trong vòng một đôi phút con gà đã chết hẳn trên mặt chảo. Đầu bếp bẻ hai đùi để thực khác ăn.

Phương pháp ăn như thế thật nhẫn  tâm và để lại lòng hận thù nguy hại. Vì khi chết trong sự đau đớn, các con vật khó có thể siêu sinh, theo đó, lòng thù hận của chúng sẽ gia tăng. Rất tiếc con người không thể nghe được ngôn ngữ của các loài động vật trong lúc chúng chết. Nếu nghe được con người sẽ không có những hành động như thế!

Kinh thánh của các tôn giáo khác nói rằng “Thượng đế rất thương con người, nên tạo ra các loài vật để cho con người ăn”. Học thuyết đó được các nhà thần học giải thích dưới góc độ nhân đạo, tức vì con người. Nên trước khi ăn, người có đạo Nhất thần thường cám ơn Thượng đế!

Đó cũng là một trong những học thuyết đã đẻ ra ngày Lễ tạ ơn (Thanksgiving) của  Hoa Kỳ. Thay vì những người Anh đầu tiên định cư ở vùng biển Massachuset, phải biết ơn những người da đỏ tại đây đã dạy họ cách săn bắn, chài lưới và trồng trọt để vượt qua bệnh dịch và đói khát, thì họ lại đi đền ơn Thượng đế. Như vậy, lễ tạ ơn của phương Tây được đặt trên nền tảng vong ân, một đạo lý sai lầm.

Nhân bản nỗi khổ niềm đau thường có nhiều hình thức, trong đó, cách ăn uống thể hiện sự nhẫn tâm đối với loài vật, làm mất nhân phẩm, tạo nhiều  nghiệp sát nặng nề. Nếu không có thái độ ăn năn hối lỗi thì những lỗi lầm này sẽ nhân lớn lên và sẽ trở thành nạn nhân của nhau dưới nhiều hình thức. Có những kiếp, ta giết hại chúng và cũng có những kiếp khác ta lại bị chúng giết hại. Hoặc bị cộng nghiệp chung một số phận như chết tập thể trên máy bay, ở nơi công cộng, nơi bị khủng bố, hay những nơi bị sóng thần, động đất, hỏa hoạn v.v...

Khi nhìn thấy sự biểu diễn của “vua bếp”, vỗ tay hoan hô khen: “Quả thật đây là văn hóa ăn uống đặc sắc. Đây là đầu bếp giỏi nhất thế giới!” cũng đã gieo nghiệp sát gián tiếp rồi. Nhân bản sự khổ đau có thể tồn tại dưới dạng thức đồng tình, a dua, hỗ trợ, khuyến khích v.v... Tất cả đều mang chung một cộng nghiệp khổ đau lâu dài trong niềm vui phút chốc.

Hiểu được tính chất của cộng nghiệp, ta nên thận trọng trong cách suy nghĩ và hành động. Bằng không ta có thể gieo trồng nhiều nghiệp sát mà không hề biết, vì tưởng rằng không tự tay giết thì không gieo nghiệp ác.

Nghiệp ác của tâm còn mạnh gấp nhiều lần so với hành động tay chân. Một ông tướng chỉ huy, ra lệnh giết một tập thể thì nghiệp sát có thể được nhân lên, nếu tập thể đó là 100 người thì ông ta đã tạo ra cộng nghiệp giết 100 người. Những người lính tham chiến một người giết một đối thủ thì chỉ gieo nghiệp sát một lần. Người ra lệnh giết tập thể thì phải lãnh hậu quả của cộng nghiệp tập thể.

Người Ấn Độ rất khôn ngoan trong trường hợp này. Nếu ăn mặn, họ không ăn những con cá lòng tong, giống như người Việt Nam ăn những con cá cơm bé xíu. Cứ mỗi bữa cơm nếu gia đình nào có 10 thành viên, thì có thể gieo nghiệp sát khoảng 1000 con. Người Ấn Độ chỉ mua một con cá biển hay cá sông thật to, ăn trong một tuần lễ cho cả gia đình, như vậy đơn vị nghiệp sát chỉ có một mà thôi. Người Ấn Độ không quan trọng vấn đề ăn uống. Họ ăn những món rất đơn giản mà vẫn ăn ngon lành. Ai bị bệnh biếng ăn mà thường xuyên quan sát bữa ăn của người Ấn Độ thì cũng cảm thấy muốn ăn theo. Cách ăn đó không chú trọng đến khẩu vị, nên hạn chế nghiệp sát tối đa. Đó là bài học cho những người ăn mặn suy nghĩ.

Đến bờ biển hoặc chợ Ấn Độ không thấy cảnh bán tôm, cua,  sò hến, ngao, ốc, như ở Việt Nam, vì người Ấn nếu ăn mặn họ chỉ ăn toàn những loại cá to. Những người theo Hồi giáo và Thiên  Chúa giáo ăn nhiều loại hải sản nên nghiệp sát cũng nhiều. Nếu ai không hạn chế được nghiệp sát thì nên học theo cách  này để giảm thiểu việc sát sanh. Đừng phá những tổ ong tổ kiến vì  có vô số những con còn nằm trong trứng nước.

Nếu gieo nghiệp  sát như vậy thì sau này có thể đang mang thai sẽ bị sẩy thai hoặc  muốn thực hiện một nguyện vọng nào thì dễ bị thất bại ngay từ  lúc sơ khởi, hoặc phải trải qua năm lần bảy lượt thất bại mới có cơ  hội nếm mùi thành công.

Nhân bản sự khổ đau và thù hận sẽ để lại nhiều hậu quả rất đau đớn mà con người không trốn tránh được. Ý thức được điều này thì phải hạn chế tối đa nghiệp sát sanh. Khi nhìn thấy một tổ kiến đang trôi trên mặt nước, ta hãy vớt chúng lên để trên chỗ an toàn. Đó là ta đã gieo  hạt giống tình thương. Hành động đơn giản nếu ta làm hết lòng thì có khả năng chuyển hóa được những nghiệp xấu.

TÂM LÝ ĐỘC TÔN

Xóa bỏ thù hận còn được đặt trên nền tảng chuyển hóa tâm lý độc tôn. Châu Do không thể nào chấp nhận Gia Cát Lượng. Hitler không thể chấp nhận dân Do Thái. Tào Tháo không thể nào chấp nhận Từ Thứ. Bởi vì giữa đen và trắng, ngày và đêm, ánh sáng  và bóng tối, thiện và ác, tốt và xấu luôn luôn nằm ở trận tuyến rạch ròi, trên thế một còn một mất.

Người  hận thù không muốn kẻ đối nghịch song tồn với mình. Thái độ tâm lý đó tạo ra bản ngã độc tôn. Khi bản ngã tăng trưởng thì lòng thù hận cũng dễ thiết lập. Cứ mỗi lần gieo nghiệp không tùy hỷ thì lòng thù hận đã được hình thành rất vi tế, đôi lúc ta không nhận ra được.

Câu chuyện ngụ ngôn kể về anh chàng nuôi gà đá chuyên nghiệp.  Anh có một con gà rất thiện chiến, nhờ nó mà anh đã trở nên nổi tiếng. Nhưng rốt cuộc cái gì cũng phải theo quy luật của nó, con gà  lập được nhiều chiến công rồi cũng phải già đi. 

Một hôm anh mang về thêm một con gà trẻ, hùng dũng hơn  nhiều  con gà già. Nhưng  chỉ  có một  cái  chuồng, không  còn  cách nào khác, anh đành nhốt hai con gà chung nhau.

Khi được nhốt chung, gà trẻ này tỏ vẻ cống cao, hống hách, nó vỗ cánh cất tiếng gáy ò ó o o! Lạng qua, lạng lại ra vẻ thách thức. Nó nói với con gà già rằng: “Nếu biết khôn, xin ông hãy cút khỏi nơi đây. Kể từ nay, vương quốc này thuộc về tôi. Tôi là chủ nhân mới. Còn nếu ông không phục, tôi với ông sẽ trải qua cuộc tranh hùng, để phân thắng bại”.

Chú gà già rất buồn vì biết rằng thế hệ trẻ ngày nay không còn tôn trọng thế hệ đi trước. Gà già suy nghĩ rằng, nếu thế hệ gà trẻ biết khiêm tốn một  chút thì có lẽ sẽ học được rất nhiều kinh nghiệm của thế hệ gà già. Không có sự thành công và thất bại của thế hệ đi trước thì thế hệ trẻ sẽ mất rất nhiều thời gian cho khởi sự ban đầu. Gà già càng suy nghĩ thì càng hận thù con gà trẻ này. Dĩ nhiên nếu đấu đá với nó thì làm sao thắng được, nên gà già đã nghĩ cách hoãn binh. Gà già nói:

- Này chú em, tôi rất khâm phục ngoại hình của chú, tôi cũng rất thần tượng sức khỏe mà chú có. Với kinh nghiệm của tôi, chỉ cần nhìn thấy mồng, cánh của chú và nghe tiếng gáy thôi thì tôi biết rằng chú giỏi hơn tôi rất nhiều. Nhưng tại sao ta lại giải quyết vấn đề bằng cách tranh nhau một mất một còn. Chú cũng giống như con cháu của tôi thôi. Nếu chú muốn hơn thua thì tôi không còn cách nào khác. Tôi đề nghị ta hãy cược một trò chơi về sức khỏe. Hy vọng chú đồng ý.

Gà trẻ nghe vậy mừng lắm, cười gáy đắc ý:

- Ông cứ bày ra trò gì tôi cũng sẵn sàng chơi.

Gà già nói:

- Bây giờ tôi với chú chạy marathon. Khi nghe hiệu lệnh một, hai, ba thì hai ta cùng chạy. Ai về trước sẽ làm vua của vương quốc này. Lúc đó ta vẫn có thể là bạn thân của nhau không sao hết.

Gà trẻ mừng nói:

- Tôi chấp nhận. Gà già thách thức:

- Chấp chú chạy trước ba bước, tôi chạy theo sau.

Gà già đứng vào vị trí. Ra hiệu lệnh xong, cả hai cùng chạy. Gà già dùng kinh nghiệm, gắng lực bình sanh chạy giữ khoảng cách cố định sau đuôi gà trẻ.

Lúc đó, anh chủ chuẩn bị cho gà ăn, nhìn vào  chuồng và không tin vào mắt mình nữa. Anh càng cố nhìn thật kỹ thì cảnh tượng gà già đuổi theo gà trẻ vẫn tiếp tục diễn ra. Giận quá, anh lầm bầm: “Đây là lần đầu tiên, ta sai  lầm trong việc chọn con gà trẻ chẳng ra hồn gì, còn thua xa con gà già”. Đoạn, anh ta thò tay vào chuồng gà, tóm cổ gà trẻ quẳng vào vách tường, làm nó gãy cổ chết.

Anh ta than: “Trong nghề chơi gà của tôi, chưa bao giờ nhìn thấy một con gà nào vô dụng như con gà trẻ này. Lần đầu tiên tôi bị lầm”. Quả thật, con gà trẻ bị chết oan. Những gì anh ta thấy không đúng như anh tưởng.

Giữa chân lý và logic vẫn có thể có những khoảng cách rất lớn. Nếu ta đánh giá chân lý trên những sự kiện có logic với các tình tiết, dựa vào mắt thấy tai nghe, đôi khi tạo ra nhiều nỗi hàm oan, tương tự như chú gà trẻ này. Ở đây, gà già giận gà trẻ háo thắng, không còn biết uống nước nhớ nguồn, không còn biết đạo lý người đi trước kẻ đi sau, nên

định cho chú ta một bài học thôi, không ngờ bài học đó đã mang đến cái chết cho chú gà trẻ. Khi gà già bám theo đuôi gà trẻ với khoảng cách, khiến anh chủ nghĩ rằng gà trẻ bị gà già dí sợ, chạy trối chết. Nếu thua con gà già thì làm sao đá thắng được những con gà trẻ khác nên quẳng nó chết luôn cho rồi.

Lòng thù hận và thái độ độc tôn thường mang lại kết cuộc hoàn toàn không như ý. Nếu gà già thấy được chú gà trẻ chết dưới sự khôn ngoan của mình thì không biết liệu có cảm thấy ăn năn hay không? Nếu chú gà già nói: thôi tôi chịu thua, tôi nhường vương quốc này lại cho chú và ta vẫn có thể là bạn của nhau thì có lẽ không mang cái chết tức tưởi đó. Rõ ràng chết trong sự háo thắng, oan ức khổ đau thì con gà đó không siêu sanh được và sẽ bị đọa trong cảnh giới ngạ quỷ.

Có rất nhiều loại ngạ quỷ. Có loại ngạ quỷ con người. Có loại ngạ quỷ động vật, ngạ quỷ của chư thiên, ngạ quỷ của A-tu-la. Chết mà không siêu sanh thoát hóa sẽ tồn tại dưới hình thức ngạ quỷ. Điều đáng nói là lòng hận thù, sự háo thắng thường tạo ra những cảnh trái ngang đó.

Phải nỗ lực tháo gỡ các oan trái. Đừng để cho tâm lý bản ngã  độc tôn khống chế, ta sẽ có cơ hội sống trong hòa bình và thảnh  thơi. Khi phát hiện mình có thái độ tâm lý độc tôn thì hãy nhanh  chóng tháo gỡ, chuyển hóa. Nhân gian có câu: “Không có mợ chợ  vẫn đông,” để cho thấy rằng dù người quan trọng nhất cũng chỉ  đóng vai trò nào đó thôi, đừng cho mình là tất cả.

Người quan niệm như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa công thần, chỉ nghĩ về chiến công, đóng góp và thành công của mình nên không thừa nhận đóng góp và thành công của người khác. Như vậy họ sẽ đánh mất rất nhiều tiềm năng của giới trẻ và đó là một sự tổn thất lớn. Ta có thể đổi  câu này thành: “Không có mợ chợ càng đông”, nghĩa là khi bản ngã được vứt ra chỗ khác thì sự thành công như hợp chợ sẽ tốt hơn nhiều. Chỉ cần tâm niệm như thế là ta có thể chuyển hóa được trạng thái tâm lý độc tôn.

Nên thực tập vô ngã, bằng cách quán tưởng rằng mình như cái  nùi giẻ để cho người khác dậm chân, thau nước để người tắm rửa,  cái bàn để người đặt những vật liệu, chén cơm cho người ta được  no v.v... Thái độ dấn  thân phục vụ đó, giúp  ta không còn điểm  nào để bám víu vào cái tôi được nữa. Lúc đó ta ý thức được hạnh  nguyện của từ bi, không còn những sân si, bực tức. Khi thấu được  lẽ đạo rồi thì những công việc làm hằng ngày sẽ thuận lợi suôn sẽ.

Giả sử, ta là công nhân quét đường phố. Hôm đó một đồng nghiệp xin nghỉ phép nên chỉ còn một mình ta quét thôi. Nếu không hiểu giá trị của phục vụ, ta sẽ buồn phiền và tự hỏi: “Tại sao nay tôi phải làm phận sự của hai người?” Hiểu được tinh thần Bồ-tát, ta sẽ hoan hỷ: “Cám ơn bạn, nhờ bạn nghỉ phép mà tôi có cơ hội đóng  góp gấp đôi”. Tâm lượng đó làm cho quả phúc gia tăng.

Hoặc trường hợp, một hôm đi chùa và người phụ bếp vắng mặt, ta xung phong vào làm bếp bằng chánh niệm. Trong sự hoan hỷ vừa làm, vừa lắng nghe tụng kinh, thuyết pháp, phước báu sẽ tăng gấp bội. Hãy tận dụng các tình huống để làm việc lành và gieo công đức. Nếu ai ý thức được như thế thì tiến trình tu tập sẽ được rút ngắn mà kết quả vẫn cao.

Khi tâm lý bản  ngã  được chuyển hóa thì tâm thù hận, giết hại sẽ theo đó được giảm thiểu nhiều. Có những tâm lý  nhìn từ xa gần như không liên hệ đến sự thù hận, nhưng phân tích sâu thì chúng có liên đới với nhau. Nên muốn chuyển hóa cái tôi một cách trọn vẹn thì phải học nhiều phương pháp khác nhau, ứng dụng trong nhiều tình huống khác để nghiệp lực xấu ngày càng giảm, cái tốt được tăng trưởng.

ĐẦU MỐI SÂN HẬN

Một phương diện cần lưu tâm là phải dứt trừ đầu mối của lòng  sân hận. Đầu mối đó có  thể diễn  ra dưới nhiều cách  thức khác  nhau. Chẳng hạn khi xem các bộ phim về chiến tranh, ranh giới  của bạn và thù, làm ta chọn chánh nghĩa và lên án phi nghĩa. Ta có  thói quen hoan hô và cảm thấy hài lòng khi phía chính nghĩa giết  được giặc. Nếu người chính nghĩa bị lâm nguy, ta khắc khoải lo sợ  và gần như hoà vào dòng cảm xúc của người đó. Như vậy ta đang  tạo ra sự đồng tình và nạp vào đầu những cảm xúc đồng minh hay  đồng chí. Đó là một cộng nghiệp.

Phần lớn, tình tiết trong phim là hư cấu, người xem vô tình gieo rắc những hạt giống của sự sát hại và thù hận trong tâm thức, hậu quả là phải gánh chịu nhiều cộng nghiệp không tốt. Đức Phật khuyên không xem quân trận, chiến tranh để không gieo cộng nghiệp hận thù và sát hại. Khi xem cảnh đau  thương, tang tóc, máu đổ, thịt rơi, xương chất cao thành núi, lòng hận thù dễ trỗi dậy.

Đứng về một phe nào đó là đang tạo ra đầu mối của ủng hộ và  chống đối. Không phát xuất từ lòng từ bi mà phát xuất từ cảm xúc  thuận nghịch, thương ghét thì cộng nghiệp xấu phải vương mang.  Nếu có dịp, hoặc bất đắc dĩ phải xem những phim như vậy  thì  đừng tán đồng bên nào, chống đối bên nào để tránh được nghiệp  sát gián tiếp. 

Hãy ghi nhận sự khổ đau của chiến tranh là một thực tại thuộc  về quá khứ, nên không cần hâm nóng quá khứ đó, cũng không cần  lên án, vì đó là công việc của luật pháp. Công việc của ta là gieo  những hạt giống của từ bi, mong sao cho những oan hồn chết khổ  đau đó được siêu sanh thoát hóa. Không giữ lòng hận thù và đồng  thời cầu nguyện cho những người đã tạo ra nỗi khổ niềm đau đó  không tái phạm trong tương lai.

Đồng tình với cảnh chiến tranh, giết chóc trong phim làm cho sự thù hận được gia tăng. Khi xem những trò chơi điện tử bắn giết nhau, ta đừng để cảm xúc lao theo chúng. Những phụ huynh khôn ngoan sẽ không cho phép con em chơi các games bạo lực. Nó sẽ gieo những hạt giống vào mảnh đất tâm của trẻ và sẽ biến thành một lệnh điều khiển nhân cách của chúng về sau. Lệnh điều khiển này có thể làm chúng nổi loạn với bạn bè, thể hiện qua hình thức đấu đá, đánh nhau. Nguy hiểm hơn là chúng có thể cầm dao, súng thật để bắn giết.

Các bậc phụ huynh không để ý đến những mầm mống ban đầu của hạt giống thù hận, vốn có thể tiêm nhiễm một cách tình cờ  qua phim ảnh hay những trò chơi mà ta mua tặng. Tưởng như thế  sẽ tạo cho chúng hạnh phúc, nhưng ta không ngờ rằng những đồ  chơi dao, gậy, súng, ống đó đã gây cho chúng nghiệp hận thù mà  hậu quả sau này không lường trước được.

Phim ảnh ngày nay có nhiều điều đáng học hỏi. Phim hoạt hình giúp cho trẻ tăng trưởng lòng thương yêu động  vật. Dùng hình ảnh của các con vật, để nói lên cảm xúc của con người. Các bộ phim hoạt hình đã nhân triết  lý đó lên bằng cách cho các con vật có khả năng nghe nói được tiếng nói của loài người. Chúng cũng có cảm xúc, thương yêu, sự chăm sóc y hệt như thế giới con người. Xem những bộ phim này thì hạt giống của nhân đạo, thương yêu, tha thứ được gieo vào não của các em một cách có ý thức.

Phim hoạt hình mang chất liệu giáo dục rất cao. Chỉ cần ta thay đổi cách nhìn là có thể gieo trồng những hạt giống tốt cho các em và rút ngắn giai đoạn giáo dục đáng kể.

Hollywood đã thực hiện bộ phim Kundun (tên của đức Đạt lai Lạt ma do cha mẹ của ngài đặt), nói về cuộc đời của Dalai Lama trong thời niên thiếu, với tính cách nhân từ và đạo đức. Bộ phim đề cập đến sự kiện trước khi Kundun được phục hồi chức vụ trong truyền thống tái sinh.

Khi đến ngôi làng ở biên giới Tây Tạng, quan sát từ xa, các cao  đệ của Dalai Lama nhìn thấy các chú bé đang chơi trò đá dế cắn  nhau. Kundun chạy tới, đẩy hai phe trẻ ra và bắt một con dế bỏ vào  bụi rậm, con còn lại bỏ bên bức tường để chúng không cắn nhau  nữa. Hành động đó là một quán tính của lòng từ bi.

Không cần lý giải hay ra lệnh với trẻ em rằng: “Con phải làm  thế này, hay không được làm thế kia”. Giáo dục nhồi sọ mà không  có giải thích ý nghĩa sẽ tạo thói quen, chứ không có hiểu biết, nên  trẻ em sẽ nhàm chán và không làm lâu dài được. Giáo dục bằng  hình ảnh và ngôn ngữ cụ thể, trẻ em dễ tiếp thu hơn.

Căn bản của khổ đau và hạnh phúc được hình thành bởi tâm. Tâm điều khiển và chỉ đạo  tất cả hành động ứng xử của con người. Nếu không biết kiểm soát thì cũng giống như con lật đật. Sợi dây giựt chính là tâm, tâm giựt về phía nào thì nó sẽ ngả nghiêng  múa máy về phía đó. Mới nhìn vào cứ tưởng con lật đật là tác nhân nhưng tác nhân chính là sợi dây giựt bên trong. Tác nhân đó là tâm, tâm được thể hiện qua sự hận thù, trả đũa, giết hại thì hành vi con người trở nên nguy hiểm.

MỞ RỘNG TÂM HỒN

Ngã hóa đối tượng còn được thể hiện qua tâm lý “Giận cá chém thớt”. Thớt là đối tượng bị oan uổng, vì giận con cá nên bằm cái thớt. Đó là một thành ngữ chỉ cho tình huống thể hiện sai đối tượng của cơn giận.

Chẳng hạn, một người lớn tuổi phải làm việc dưới quyền của người nhỏ, thiếu tài cán, mỗi lần bị ra lệnh, hạch sách thì người lớn tuổi cảm thấy khó chịu; phản kháng thì mất việc nên phải cắn răng chịu đựng. Cảm xúc bị đè nén đó tạo thành nỗi hận thù nhưng không thể trút đổ được. Nên về nhà trút nỗi bực tức lên người thân.

Như thế là đang ngã hóa đối tượng bằng cách biến tất cả người thân thành những đối tượng, sự tức giận một cách oan uổng. Thấy được tính thiên biến vạn hóa của sự thù hận, ta nên tìm nghệ thuật tháo gỡ hoặc phóng thích chúng an toàn.

Trong giáo lý Đại thừa có học thuyết “Thọ ký”. Theo đó, đức Phật báo trước cho các đệ tử biết rằng, một hành giả nào đó sẽ được thành Phật trong kiếp tương lai, ở đâu. Vị Phật đó sẽ có hạnh nguyện gì, công cuộc hoằng hóa, độ sanh của vị ấy ra sao, dĩ nhiên đối tượng được thọ ký không nhất thiết là những bậc Bồ-tát, đạo cao đức trọng, bởi vì các Bồ-tát đạo cao đức trọng mà thành Phật là chuyện thường.

Chẳng hạn như ngài A Nan, phát nguyện trong bài dẫn nhập  của kinh Thủ Lăng Nghiêm: “Như nhất chúng sanh vị thành Phật,  chung bất ư thử thủ nê hoàn”. Nghĩa là: “Nếu còn một chúng sanh  nào chưa giác ngộ thành Phật thì con đây xin phát nguyện không  chứng Niết-bàn”. Con sẽ sống hòa vào khổ đau của chúng sanh,  với những kẻ đầu trâu mặt ngựa để chuyển hóa họ.

Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã thọ ký cho A Nan sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn, nước tên là Thường Phật Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly. Đức Phật còn thọ ký cho nhiều người Nhất-xiển-đề, tức là những người không hề có niềm tin đối với Tam bảo, sống theo bản năng và độc ác.

Đề-bà-đạt-đa là nhân vật có nhiều ân oán với đức Phật. Đức Phật từ bi, biết cách huấn luyện tâm cho nên các hạt giống thù hằn của Đề-bà-đạt-đa rót vào tâm của Như Lai cũng giống như cầm một hạt cát mà thảy lên trời xanh, chẳng có giá trị gì. Đức Phật vẫn thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật trong tương lai. Đạo lý này chỉ có Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa.

Ta có dám thọ ký cho kẻ thù thành Phật không? Đối với người  phàm, tất nhiên là không; trù ẻo, nguyền rủa thì có. Lâu lâu nghe  ngóng kẻ thù bị thất bại, đau khổ thì lại mừng. Nếu học hiểu giáo  lý Phật giáo thì nên thực tập, mong cho người kia thành Phật. Đây là cách thể hiện phẩm chất cao thượng nhất. Ta nên mở tâm mình  ra, tâm niệm rằng: “Tất cả kẻ thù mang lại khổ đau cho tôi, gây  chướng ngại cho tôi, tôi tha thứ để họ và tôi không còn thù hận  nhau nữa”. Hằng tâm niệm như vậy thì ân oán sẽ được chấm dứt,  bằng không cứ kéo nhau đi từ kiếp này đến kiếp khác.

Những cặp vợ chồng ly dị, không khéo rất dễ trở thành kẻ thù. Kiếp này không tháo gỡ oan khiên được thì kiếp sau lại phải gặp, thương nhau rồi trở thành kẻ thù của nhau nữa. Trước khi ly dị hãy làm bạn. Điều này hơi khó, nếu làm được hẳn có nhiều giá trị. Hãy nhẫn nại để khỏi khó chịu về sau.

BÀN TAY YÊU THƯƠNG

Trong một thiền viện nọ, sau thời khóa tu tập thiền quán vị thiền sư yêu cầu các thiền sinh ra xung quanh chùa sinh hoạt. Thông qua cách thức sinh hoạt, vị thiền sư sẽ biết tâm của đệ tử ở mức độ nào. Chánh niệm hay thất niệm? An lạc hay khổ đau? Nhìn cách thể hiện là vị thầy có thể đoán biết được. Có người thích ngồi trầm lặng, có người thích ngồi quán tưởng, có người thích đi thiền hành, người thích thảo luận, người thích trao đổi, người thích học hỏi v.v...

Có một thiền sinh đến con rạch để quán về sự thinh lặng của dòng nước như một  công án. Đang quán chiếu, thấy con bò cạp bị rớt xuống rạch, thiền sinh dùng bàn tay vớt con bò cạp lên. Khi đặt bàn tay xuống mặt đất, con bò cạp theo phản ứng, dùng cái đuôi chích vào bàn tay của vị thiền sinh.

Thiền sinh cố vượt qua cái đau. Đi một quãng, trở lại con mương, thấy con bò cạp rớt lần  thứ hai, vị thiền sinh vớt lên tương tự, rồi lại bị chích lần thứ hai. Những pháp hữu đứng xung quanh quan sát nói rằng:

- Này hiền hữu,  tại sao huynh lại làm chuyện ngớ ngẩn. Con bò cạp vốn vô ơn bạc nghĩa, chích hai lần mà huynh vẫn còn muốn giúp đỡ nó?!

Vị thiền sinh trả lời rằng:

- Thưa hiền huynh, chít là thói quen của bò cạp. Cứu nó là thói quen của tôi.

Câu chuyện ngụ ý một điều rất sâu sắc: Học hạnh Bồ-tát thì phải có đủ sức chịu đựng những chướng duyên; không phải chỉ có hai cú chích, có thể là 30 cú. Không chỉ bị chích ở tay, mà có thể cả mắt, đầu hay bất  cứ chỗ nào. Nếu câu trả lời là không đủ sức thì hãy khoan làm Bồ-tát. Hãy huấn  luyện tâm cho thật vững chãi rồi hãy làm Bồ-tát.

Trong khi làm phước và tu tập, hành giả phải đối đầu với rất nhiều loại bò cạp khác nhau: Bò cạp của thị phi, thù hận, ganh tức, thái độ không tùy hỷ, và bò cạp phá hoại v.v... Các bò cạp đó sẽ chít khác nhau và phản ứng của nó cũng rất đa dạng. Không cần phân biệt đâu là đúng, đâu là sai, người xấu có khả năng chít túi bụi người tốt, thậm chí là người giúp đỡ họ.

Phải trang bị cho mình sức chịu đựng bằng lòng từ bi, hỷ xả, tha thứ, bao dung thì mới có thể xem bò cạp là bạn của mình. Không khéo trong lúc làm lành, gặp nhiều cản lực, giận tức quá, dùng tay hại giết con bò cạp luôn. Như vậy, phát xuất lòng từ bi nhưng nhiều người dấn thân thiếu trang bị trở thành gieo nghiệp sát sanh. Chỉ cần vài chiêu chích của  bò cạp cũng đủ để biết được tâm mình đang nằm ở mức độ nào.

Khi làm Phật sự, dĩ nhiên ta gặp rất nhiều loại bò cạp. Đôi khi lời  nói, ý nghĩ, việc làm của người thiếu thiện chí cũng mang tính chất giống như những cú chít của con bò cạp. Những lúc như  vậy không nên bực tức và cũng đừng nuối tiếc rằng, tại sao tôi  phải làm việc tốt với người không hề biết mang ơn nghĩa là gì?

Các tư duy, lý luận như vậy sẽ làm ta vĩnh viễn vẫn là phàm phu tục tử, không thể nào làm Bồ-tát được. Học hạnh Bồ-tát, ta phải bất chấp tình huống ngang trái, thể hiện sự thản nhiên trong thuận và nghịch. Nếu không có được bản lĩnh thì không cứu được con bò cạp mà còn bị bò cạp cắn chết.

Trong đời, có nhiều người nhất-xiển-đề khó hoà giải. Đôi lúc, ta phải cưu mang họ bằng bàn tay thương yêu, như vị thiền sinh đối với bò cạp, thì mới thành công. Hành trì Bồ-tát đạo là con đường đa chiều, đôi lúc có nhiều hương thơm cỏ lạ, có khi có nhiều cỏ dại gai góc đủ loại. Hãy để tâm hướng  về các giá trị tích cực, phục vụ chúng sanh để ta không cảm thấy ngạc nhiên khi làm điều tốt mà bị người khác chống đối và chỉ trích.

Nếu ai cũng thực tập được tinh thần khoan dung thì chính nơi đây sẽ trở thành thế giới Cực lạc. Cực lạc có thể được thiết lập ngay từ trong hành động của con người. Ở nhà cũng như ở chùa, hành giả đều có thể thiết lập được Tịnh độ. Khi Tịnh độ hiện tại được thiết lập thì tin chắc 100% rằng sau khi qua đời sẽ tái sanh cảnh  giới Cực lạc. Tái sanh về Tây phương chỉ  là chuyện phụ. Điều cần thiết là lập Tịnh độ ngay trong đời hiện tại này mới quan trọng hơn gấp trăm lần. Đôi lúc ta chỉ tìm kiếm Tịnh độ ở Tây phương mà bỏ quên việc thiết lập Tịnh độ ngay ở hiện tại.

Không hiểu được tinh thần nhập thế của Phật giáo, ta tự mâu thuẫn trong hành trì. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, chúng ta thường tụng thời công phu khuya, ngài A Nan không muốn thành Phật, phát tâm gần gũi chúng sanh để hóa độ. Đến phần hồi hướng thì lại có câu: “Xin cho con sanh về Tây phương Tịnh độ”. Chỉ trong thời kinh 45 phút mà phần đầu thì phát tâm hùng dũng nhưng cuối thời kinh thì lại đọc câu thể hiện sự lui sụt.

Khi việc tốt đến, ta nên xung phong làm. Nếu nghĩ nó như  một gánh nặng, ta đánh mất rất nhiều cơ hội  làm Phật sự. Học  hạnh Bồ-tát sẽ có vô vàn công đức và nhiều cơ hội. Chỉ cần mở  rộng tâm hồn đón nhận thì bạn sẽ cảm thấy cuộc đời này có rất  nhiều ý nghĩa. Tiến trình tu tập, rèn luyện trong gian nan thử  thách sẽ giúp ta thành tựu nhanh hơn rất nhiều so với người  tu tập bình thường. Đến chùa trong một ngày trời nắng trong  xanh thì rất dễ, còn đến chùa trong bão táp mưa sa mới thật  đáng quý.  Điều đó cũng đánh dấu được tần số tâm thức của  con người đang ở mức độ nào.

Ai tu theo hạnh Bồ-tát, hãy thực tập giống như vị thiền sinh, hoan hỷ chấp nhận những cú chích của con bò cạp. Đó là cách thức xóa bỏ hận thù tốt nhất theo tinh thần: “Thi ân đừng cầu báo đáp, nhưng khi mang ơn người nào thì đừng quên”. Quả là một đạo lý vi diệu!

Chương 4: Hóa giải nội kết

Phần lớn, các mối quan hệ trong cuộc sống đều có ít nhiều nội kết, khiến chúng ta không được vui, không như ý và bị não phiền. Vốn các nội kết rất bình thường, nhưng nếu phản ứng thiếu khôn ngoan làm vấn đề trở nên phức tạp.

Bộ phim cao bồi Mỹ có  tựa đề,  “The good,  the bad and  the  ugly”  tạm dịch, “Người  tốt, người xấu và người  tồi,” nói đến ba  nhân vật với ba cá tính. Người tốt (the good)  là người  luôn  luôn  làm việc thiện, ngay cả trong tình huống bị lợi dụng và cuối cùng  anh ta trở thành người thành công. Trong khi đó, người xấu (the  bad) là người mang lại sự bất công cho cộng đồng và xã hội từ lời  ăn tiếng nói. Y sẵn sàng lợi dụng những người tốt. Hình ảnh của  người tồi (the ugly) thì tồi thật, phức tạp, thiên biến vạn hóa, khó  lường trước được. Có khi y đóng vai người tốt, lúc đóng vai người  xấu. Thậm chí, để đạt mục đích, y có thể sử dụng những phương  tiện tồi tệ. Ba hình ảnh người tốt, người xấu và người tồi được xem  là đại diện cho phần lớn con người trong xã hội.

Theo nhà Phật, ba hình ảnh đó là ba tính cách khác nhau trong một con người. Một người có những  lúc rất tốt, lại có những khi rất xấu và tồi. Tu theo đạo Phật, có thể khống chế, ngăn được những nhân tố biến thành người xấu, người tồi. Hóa giải được rốt ráo sẽ trở thành người hoàn thiện hay hơn thế, như kinh gọi là bậc thánh.

Sự đối lập giữa người tốt và người xấu diễn ra theo quy luật vận hành và phát triển của cuộc đời. Nếu không có người xấu thì người tốt cũng không nổi bật. Nhưng sự xuất hiện của người tốt không phải để nổi bật mà để tạo nên sự thăng bằng trước điều không tốt. Những người thuộc chủ nghĩa cơ hội có thể thừa nước đục thả câu. Vì lợi ích bản thân, họ có thể dấn thân làm rất nhiệt tình.

Ba thành phần này đại diện cho ba nhân cách, có thể trở thành nội kết trong một con người bất kì. Nội kết đó diễn ra như trận chiến. Do vậy, trước nhất, cần phải tự chiến đấu với bản thân bằng mọi cách để trở thành người tốt chứ không phải kẻ xấu, càng không phải là tên tồi.

NHẬN DIỆN NỘI KẾT

Nhận diện được bản chất của nội kết là nhu cầu   và con đường giúp hoàn thiện tốt bản thân. Con đường này mang lại trạng thái an vui, hạnh  phúc, an lạc.

Có thể định nghĩa, nội kết trước nhất là cái gút của đời sống tâm lý và nhận thức. Gút này sẽ sai xử con người trong mọi ứng xử. Tuy nó vô hình nhưng khi bản ngã bị va chạm thì trở thành móc câu, làm cho mối quan hệ giữa người với người trở nên lận đận, bất trắc, khổ đau và bất như ý. Nội kết là sự đóng băng và bế tắc về tâm lý, ứng xử trong các mối quan hệ con người. Nội kết được xem như ổ khóa đóng bít những cửa ngõ dẫn đến bình minh, bầu không gian đầy hoa thơm cỏ lạ.

Khi các cánh cửa bị đóng bít, người ta chỉ nghe biết những điều  vừa nêu qua âm  thanh gián  tiếp vì đang bị giam  trong nội kết.  Hoặc chỉ có thể thấy được những hình ảnh, hiện tượng bên ngoài  theo cách tưởng tượng hay sự trải nghiệm bằng cách hình dung  những gì thuộc về quá khứ chứ không thấy bằng mắt thật. 

Con người có khuynh hướng sống với những cái đã qua. Sự hồi  ức về nỗi đau và thất bại kết thành nội kết, làm cho mối quan hệ  của con người ngày càng trở nên bi đát, không có lối thoát. Do đó,  nội kết là kẻ thù của con người và giết chết hạnh phúc.

Theo quan niệm nhà Phật, con người không hẳn là kẻ thù của nhau dù trên phương diện chính trị và quân sự có thể có sự đối kháng. Chỉ có nội kết mới chính là kẻ thù của con người. Nội kết dẫn đến khủng hoảng, bất hạnh, khổ đau, làm rạn nứt mối quan hệ tình cảm, quan hệ xã hội, cộng đồng. Tất cả những loại kẻ thù này đều có chung một nguồn gốc là cái tôi quá lớn, cái tôi không muốn tương nhượng với ai. Khi sống với ý thức hữu ngã, người ta tự thấy mình quan trọng, là trung tâm điểm, trục xoay của các mối quan hệ và là nền tảng đánh giá mọi giá trị tốt xấu, phải trái, nhục vinh...

Bản ngã tạo ra những lăng kính và góc cạnh cá nhân. Từ góc cạnh, lăng kính quan sát hình ảnh nào đó, hẳn sự quan sát đó ít nhiều đã bị biến dạng, bóp méo theo cái nhìn chủ quan và không  phản ánh đúng nguyên dạng nữa. Khi quan sát và đánh giá, đừng nhìn qua lăng kính thành kiến, trên nền tảng những va chạm của hữu ngã. Vì những cái đó sẽ tạo thành sợi dây, mắt xích làm cho mối quan hệ ngày  càng xấu và nội kết có cơ hội bám rễ.

Mối quan hệ có nội kết như những cây gai, càng va chạm vào thì càng bị đau nhức. Nói cách khác, nội kết chính là vết thương lòng dưới dạng tiềm ẩn. Nó nằm đó giống như tên du kích, sẵn sàng khống chế các mối quan hệ, làm cho đạo đức và lương tâm bị yếu đi. Không tháo gỡ cái gút mâu thuẫn này thì tình người trở thành bệnh tật, thậm chí là ung thư và có thể dẫn đến cái chết!

Sẽ là sai lầm khi cho rằng cách tốt nhất để chấm dứt nội kết là cắt đi mối quan hệ đang có vấn đề. Sự chấm dứt rõ ràng không phải là giải pháp hay, vì có thể kéo theo những rắc rối khác, chứ không phải dấu chấm hết. Cho nên, người hiểu được nhân quả, nghiệp báo không bao giờ nghĩ có dấu chấm trong đời. Do vậy, gút dính mắc ở chỗ nào thì nỗ lực chân chính để tháo gỡ chỗ đó.

Đừng tưởng chặt hai đầu cái gút thì sẽ đến hồi kết thúc. Bởi vì, khi chặt hai đầu, cái gút vẫn là cái gút. Cái gút của khổ đau giống như kẽm gai hay mảnh chai. Cái đau của mảnh chai, kẽm gai đâm vào lòng bàn chân gây cảm giác đau đớn khó chịu. Trước một tình huống, phản ứng của con người hoàn toàn khác nhau. Có người không chịu đi mà chờ người khác đến dắt đưa vào bệnh viện   để băng bó. Có người dùng các phương tiện  cầu cứu người khác đến giúp, nhiều người yên lặng, không hề nói bất cứ lời nào. Tuy nhiên, một số người không chấp nhận các giải pháp này. Họ nỗ lực tự rút gai ra và đứng dậy đi, dù máu rướm nhưng họ vẫn đi. Sau nỗ lực với những bước đi có phương pháp, họ sẽ có cơ hội quý báu là đến được nơi có phương tiện chữa lành vết thương!

Sự phản ứng khác biệt ở từng người trước nội kết cho thấy, giá trị an vui hay khổ đau gắn liền ít nhiều đến những khác biệt đó. Có những chiến sĩ khi lâm trận bị thương chân, tay họ yêu cầu đồng đội chặt đứt đi để sự đau đớn không hoành hành nữa. Khi đã chặt đứt cánh tay hay bàn chân thì sự đau đớn không kết thúc mà vẫn tiếp tục. Nhưng nếu mạnh dạn chặt đứt vết thương lòng bằng cách tháo gỡ các gút ra thì sẽ có được sự an toàn lâu dài, giống như một bệnh nhân khỏi hẳn bệnh khi điều trị có phương pháp, có người hỗ trợ, chăm sóc đúng cách.

Nội kết cá nhân xảy ra giữa hai người hay hai đối tượng. Nó thể hiện bằng cách bùng nổ hay tiềm ẩn là tùy theo cá tính của từng người. Sự bùng nổ có thể là những lời quát tháo, đập bàn ghế, la hét, mặt tái mét, môi run run nói không nên lời. Có người phản ứng hoàn toàn bằng im lặng, xem như việc không hề xảy ra. Có người phản ứng thành mối hận nên một lúc nào đó, nội kết ấy sẽ thành quả bom nổ tung.

Các mối quan hệ như bạn tình, vợ chồng hay giữa cha mẹ và con cái, anh, chị, em, nếu diễn ra như một nội kết thì quả là bất hạnh!

Có những quan hệ bị lận đận do xung đột về ý thức hệ hay cá tính. Khi xung đột, người ta có thể dùng ngôn từ, ngòi bút, lời nói, ngay cả điệu bộ cơ thể làm vũ khí để tấn công và triệt hạ đối phương. Hậu quả của sự tấn công   đó làm hai đối tượng trở thành nạn nhân. Theo đó, sự buồn phiền và nội kết lại có dịp bùng nổ và lan truyền như chất độc. Chất độc này lan tới đâu sẽ làm héo tàn sức sống đến đó! Cho nên, đừng xem thường các nội kết cá nhân, dù sự khởi thuỷ của nó chỉ nhỏ nhặt, không đáng kể.

Có loại nội kết được xem như chiến tranh lạnh. Biểu hiện của loại nội kết này là hai người không hề nói với nhau lời nào, gặp nhau cũng không thèm nhìn mặt.

Nếu vô tình chạm mặt thì họ nhìn nhau bằng cái liếc mắt không thiện cảm, có thể  hàm chứa lưỡi lam, mảnh chai hoặc cả lựu đạn cây! Khi bị  nội kết cá nhân chi phối, dù ở  một mình vẫn cảm thấy đầu óc xây xẩm.

Chiến tranh lạnh do nội kết gây ra, người thâm hiểm vẫn bình  tĩnh chào thân mật như nhà ngoại giao được đào tạo từ trường lớp  hẳn hoi, làm không ai ngờ được. Sự ngọt ngào đó chính là con dao  cắt đứt tâm hồn của họ ra thành từng mảnh vụn.

Trường hợp này có thể được gọi là chiến tranh lạnh như một ván bài lật ngửa. Hai bên đều chiến đấu bằng những ngôn ngữ rất vui tươi, những ánh mắt, nụ cười rất đẹp, nhưng trong đó lại toàn vũ khí khiến người ta dễ sơ ý hơn so với các cuộc chiến bùng nổ bên ngoài dưới dạng thức hoặc hành động khác.

Nội kết có  thể diễn  ra bắt nguồn  từ nền văn hóa giữa hai  quốc gia, hai cộng đồng hay hai liên minh được đặt trên nền  tảng ý thức hệ tôn giáo hoặc chính trị. Nội kết loại này có sức  tàn phá lớn hơn, vì tác hại có vùng ảnh hưởng trên bình diện  rộng sâu và lâu dài. Nội kết văn hoá gây ảnh hưởng đến đời sống  hạnh phúc, là mối đe doạ của đời sống thái bình và thịnh vượng.  Nội kết văn hoá còn có thể bắt nguồn từ sự mâu thuẫn giữa hai thế  hệ, hay sự khác biệt giữa truyền thống và cách tân, Đông và Tây, nội quan và hướng ngoại hoặc tình cảm và cách ứng xử trong mỗi  cộng đồng về những quán tính, cách thức khác nhau, giống như  hai thanh gươm khi chạm vào nhau sẽ xẹt lửa.

Khi dựa trên nền văn hoá và cách suy nghĩ của cộng đồng A để nhận diện, đánh giá cách hành xử của cộng đồng B sẽ gặp nhiều rắc rối. Lấy một nền văn hoá làm hệ quy chiếu giá trị để thẩm định các nền văn hoá khác có thể tạo ra tình trạng xung đột văn hoá. Xem thường giá trị nền văn hoá khác, nhưng đề cao bản ngã văn hoá của mình thì nội kết văn hoá sẽ xuất hiện.

Như vậy, trục xoay ý thức hệ của bản ngã văn hóa dẫn đến va chạm, xung đột, nội kết khó tháo  gỡ. Từng vùng, miền có những phong tục tập quán và “lệ làng”  riêng. Mỗi khi nhắc đến một vùng, miền nào đó, phải liên tưởng   ngay đến các đặc tính mà nó có. Nhìn bằng định kiến về một cộng đồng, quốc gia hay một ý thức hệ tôn giáo, nội kết sẽ xuất hiện phức tạp hơn.

Tiếp xúc, hoà nhập với một nền văn hoá mới, đòi hỏi người đến phải hiểu biết và thích nghi. Hiểu biết để đừng đánh mất gốc rễ, thích nghi để có thể hoà vào nền văn hoá khác.

Chẳng hạn, sự biểu lộ đồng tình hay phản đối giữa nền văn hoá giao tế của Ấn Độ và Việt Nam là khác nhau. Khi đồng ý, người Ấn Độ lắc đầu lia lịa. Ngược lại, người Việt Nam lại hiểu đó là sự bất đồng hay phản đối.

Do vậy, nếu không hiểu được thì khi tâm đắc, tán đồng vấn đề gì đó với người Ấn Độ bằng cách gật đầu theo phong tục của nước Việt, vô tình làm họ cảm thấy khó chịu vì nghĩ bị phản đối. Sự quy chiếu, tính ưu tiên văn hoá về một dân tộc hay một nước nào đó thường tạo ra nội kết quốc gia hay nội kết văn hoá.

Truyền thống người Ấn Độ thường dùng bàn tay bốc thức ăn, họ cho như vậy miệng sẽ tiết ra dịch   vị đầy đủ hơn khi ăn bằng muỗng, đũa. Cho nên họ mặc định với nhau rằng, bàn tay trái là bàn tay vệ sinh, còn bàn tay phải là bàn tay dùng trong giao tế, ăn uống, làm việc...

Nội kết giữa các nền văn hóa không nhất thiết bắt nguồn từ sự cố ý va chạm mà có thể là sự xung đột tình cờ. Khi con người có thói quen hành xử theo nền văn hóa truyền thống, thường cho đó là chân ly. Những nền văn hoá khác không có phong tục tập quán giá trị với mình thì không. Do vậy, khi tiếp xúc nội kết xuất hiện ngay, nếu không phải là người phóng khoáng thì sự khác biệt đó khó được chấp nhận.

Phản ứng đẩy ngược các nền văn hóa khác ra bên ngoài là phản ứng rất tự nhiên trong thái độ sống. Bảo thủ nhiều chừng nào thì nội kết văn hoá tỷ lệ thuận chừng đó. Không khéo ứng xử thì những nội kết văn hoá có thể dẫn đến hận thù và chiến tranh là chuyện không tránh khỏi.

NGUYÊN NHÂN NỘI KẾT

Phương pháp tháo gỡ những vướng mắc về tâm lý, nhận thức,  ứng  xử giữa  con người  trước nhất  là  truy nguyên gốc  rễ  của  vấn đề. Khi chẩn đoán được gốc bệnh thì việc chữa trị đã đạt  được 50%. Có thể tốn nhiều thời giờ để xác định gốc bệnh của  nội kết. Nỗ lực tìm gốc rễ nội kết để tháo gỡ là con đường khai  thông mọi ách tắc trong cuộc sống. Nội kết bám rễ trên nền  tảng của bản ngã và những cái thuộc về ngã sở hữu. Nó liên hệ  đến những người thân thương, ngay cả tài sản.

Thái độ nội kết bắt nguồn từ nhu cầu phục vụ lợi hay núp bóng dưới bình phong bản ngã. Dấu ấn của bản ngã làm người nội kết tâm niệm, ứng xử, nhận định, đánh giá thế này thế kia nhằm bảo vệ quyền lợi bản thân.

Để đánh bóng giá trị bản ngã,  nhiều người bị hoang tưởng hoặc cố tình thổi phồng giá trị của mình hoặc tự cho quyền lợi, danh vọng, địa vị của mình đang bị đe doạ, hay người khác đang và sẽ có hành động không tốt với mình. Từ đó, thái độ không vui biểu lộ công khai hay ngấm ngầm sẽ làm héo tàn tình cảm của họ với đối phương.

Thứ hai suy nghĩ rằng, người hay liên minh nào đó đã làm tổn hại đến lợi  ích của những người được mình thương yêu. Khi thương ai, đều muốn những người mình thương được bảo vệ. Chính ý tưởng muốn bảo vệ và chăm lo cho người mình thương mang tính vị kỷ đã tạo ra những nội kết.

Thứ ba là trạng thái tâm lý phức tạp, phản ứng không đồng thuận với những người giúp đỡ mà họ không thích. Do vậy, khi nhìn thấy người khác tạo điều kiện nâng đỡ những người đó, lập tức cảm thấy khó chịu, bực tức hoặc nổi cáu. Nguyên do có thể do không muốn người ta hơn bản thân về nhiều mặt như thành công, đẹp hơn, nhiều người cảm mến. Do hiềm khích và ganh tỵ, nội kết ngày càng gia tăng.

Năm 1999, cuộc chiến giữa Pakistan và Ấn Độ diễn ra rất quyết  liệt. Mỗi ngày hai bên phải bỏ khoảng một triệu Mỹ kim để phục  vụ chiến  tranh. Nơi cuộc chiến diễn ra  là khu biên giới băng  giá, quanh năm-30oC và không có tiềm năng về mặt kinh tế. Cuộc chiến đã xảy ra dưới mục đích chủ nghĩa dân tộc. Biết bao chiến sĩ đã nằm xuống vì tinh thần yêu nước. Tình cảm giữa hai nước láng giềng vốn là anh em nay trở thành kẻ thù chỉ vì khác ý thức hệ tôn giáo, tạo thành những nội kết gay gắt.

Khi được hỏi về nội kết của cuộc chiến giữa hai bên thì có người  nói, không sao đâu, chúng tôi là anh em, mọi việc cũng sẽ qua thôi. Người khác lại nói, biết làm sao bây giờ, tốt nhất cam phận, chấp nhận theo sự an bài của Thượng đế. Làm sao thoát khỏi định mệnh từ khi có mặt trên cuộc đời.

Khuynh hướng thứ ba cho rằng, chúng tôi cần phải hy sinh để bảo vệ biên cương bờ cõi, để những người còn sống được bình an vô sự.

Khuynh hướng thứ tư cho rằng, đã nỗ lực hoà  giải và làm mọi cách rồi mà không ra gì, bây giờ đến đâu hay đến đó. Và còn nhiều lối trả lời khác nữa. Như vậy, thông qua bốn khuynh hướng trả lời khác nhau, có thể phác   hoạ   các phương pháp giải quyết những gút mắc như sau

Phủ định nội kết là không thừa nhận mình và người đang có  rắc rối, trong quan hệ tình cảm hoặc cái gì đó chưa giải quyết được.  Có người cố ém nhẹm như dùng mền phủ trùm con dao. Độ bén  của dao có thể cắt đứt cái mền làm đôi, người có thái độ phủ định  vẫn cố phủ trùm và cho rằng chẳng có gì cả. Nhưng trên thực tế  vấn nạn vẫn đang có mặt, thậm chí, gây ảnh hưởng đến đời sống,  hạnh phúc của mình và những người xung quanh.

Phủ định nội kết là phản ứng trốn chạy khổ đau, bất hạnh, bất như ý trong cuộc đời. Người phản ứng chạy trốn nội kết chỉ chứng minh bản thân chưa có bản lĩnh. Bề ngoài ém nhẹm để không mất mặt, nhưng bên trong tồn tại như một nỗi đau. Người có vấn đề trong hôn nhân nhưng không muốn cho ai biết và lại muốn chứng minh cho người ngoài thấy đang hạnh phúc. Câu nói “Thấy vậy nhưng không phải vậy” rất có ý nghĩa trong tình huống này.

Vào đầu năm 2000, chúng tôi giúp phái đoàn Phật giáo Úc đến cứu trợ động đất tại bang Gujarat, miền Nam Ấn Độ. Trong đoàn cứu trợ có cặp vợ chồng nhìn từ bề ngoài rất hạnh phúc vì đi đâu họ cũng cặp tay nhau. Cử chỉ thân mật và âu yếm của đôi vợ chồng ấy rất hiếm thấy ở Ấn Độ. Đối với người Ấn Độ, biểu lộ tình cảm nam nữ là chuyện ở khuê phòng chứ không phải tự do ngoài phố. Nhà báo Manpreet, đi theo giúp đoàn là người bị lận đận trong tình cảm. Người anh thương thì gia đình không chịu, còn người cha mẹ anh chịu thì anh không thích.

Anh đã sống độc thân rày đây mai đó. Khi thấy cặp vợ chồng đó, Manpreet thầm ước ao có được một mối tình như vậy. Anh nhờ tôi hỏi thăm bí quyết giúp vợ chồng họ có hạnh phúc.

Tôi đã hỏi người chồng thay cho Manpreet. Ông chồng thở dài chán   nản. Ông kể, vợ rất khó chịu dù ông ra sức chiều chuộng nhưng bà vẫn đòi ly dị thường xuyên. Trước khi đi Ấn Độ, bà đã đòi ly dị lần thứ mười lăm, nhưng nhìn từ bên ngoài không ai biết được. Nỗ lực giấu nhẹm nội kết giữa hai người chỉ là giải pháp tạm thời để giảm bớt cơn  đau, không cho người ngoài biết hoàn cảnh riêng. Hành động ém nhẹm vô tình làm cho nội kết gia tăng, vì người bị nội kết cảm thấy ngán ngẩm khi đối đầu tìm cách giải quyết.

Trong hôn nhân, nếu không tháo gỡ được nội kết giữa hai người thì trước sau gì cũng phải đối đầu với ly dị. Khi hôn nhân kết thúc, hai bên không muốn nhìn mặt nhau nữa. Nếu phải gặp thì cả hai có thể nhét bông vào tai và đeo kính đen để không nghe, không thấy mặt đối phương. Họ có thể đều nhắm mắt như để phủ định sự hiện diện của đối phương. Nhưng càng nhắm mắt thì hình ảnh đối phương càng nổi cộm do phản ứng phụ cưỡng lực rất lớn.

Có người lý giải, mọi nghịch duyên và trở ngại trong đời đều được sắp xếp và an bài  như định mệnh. Nhiều người Ấn Độ, Pakistan tự an ủi, cuộc chiến giành biên giới Kasmir như định mệnh. Đó là cách lý giải tiêu cực, chấp nhận nội kết như thực trạng bất biến.

Dĩ nhiên, nội kết là cái móc câu với hai mũi nhọn, ghim vào hai bàn tay. Người bị nội kết vẫy vùng không khéo càng đau. Nếu bàn tay này cứ vẫy vùng thì bàn tay còn lại cũng đau theo. Cho nên, chấp nhận nội kết như định mệnh sẽ làm cuộc đời ngày càng buồn thảm, khổ đau.

Khi cả hai rơi vào tình trạng vô vọng, họ không còn nỗ lực nghĩ đến giải pháp tốt hơn nhằm tháo gỡ nội kết đó.

Trong hôn nhân cũng thế, vợ chồng có hai cá tính mâu thuẫn,  nhưng vẫn cố sống với nhau như định mệnh khắc nghiệt, nên  đã không nỗ lực tìm cách cho cả hai hòa hợp. Phải biết tưới tẩm  đóa hoa hạnh phúc bằng những giọt nước mát của hiểu biết,  thương  yêu,  thông  cảm. Các  yếu  tố này  giúp  cho hôn nhân  được tồn tại bền lâu. Ém nhẹm nó không phải là giải pháp và  có khả năng mang lại khổ đau cho cả hai.    

Giải pháp thoả hiệp là sự chọn lựa bất đắc dĩ, khi hai bên vẫn chưa tìm ra giải pháp tốt và hiệu quả hơn. Do vậy, cả hai tiếp tục phải chịu đựng lẫn nhau. Nếu người chồng có quan điểm bảo thủ, trong khi người vợ hiền hậu, chịu đựng thì nội kết không thể phát triển. Vì  khi chồng cáu gắt thì vợ không hề phản kháng; bởi mục đích muốn những đứa con được hạnh phúc trong sự có mặt của mẹ cha. Nhiều người vợ đã chấp nhận khổ đau về phía mình. Đây tạm gọi là giải pháp thương lượng, thỏa hiệp và chỉ có giá trị 50%. Giải pháp này vô tình khoá chặt nội kết của người vợ lại, một ngày nào đó không còn chịu nổi thì phản ứng xảy ra là điều khó lường.

Khi thương nhau quá mức thường dẫn đến các chấp trước và vướng lụy về cảm xúc. Câu thành ngữ, “Thương nhau lắm cắn nhau đau” nói đến tình trạng không buông xả và không rộng lượng đối với lỗi lầm của người thân, thậm chí đôi lúc chỉ là hiểu lầm. Lý ra phải xí xóa, châm chước cho nhau mà không cần đào sâu khoảng cách xung đột. Nếu bảo hộ tình cảm bằng sự thỏa hiệp thì tình cảm không thể kéo dài. Tình cảm phải khởi phát từ trái tim và đong đo bằng lý trí. Thoả hiệp tạo ra ranh giới, nên khó kéo dài trong các mối quan hệ xã hội.

Trong mọi  tình huống cần phải  sáng  suốt, bình  tĩnh để giải  quyết. Thừa nhận các bế  tắc hiện hữu ở nhận  thức,  tâm  lý hay quan hệ, nhưng chúng không phải là định mệnh và bất biến. Nhờ  suy nghĩ tích cực, con người có khả năng tháo gỡ.  

PHƯƠNG PHÁP THOẢ HIỆP

Dựa vào tinh thần đức Phật dạy, chúng tôi xin trình bày các giải  pháp tháo gỡ nội kết an toàn. Dùng chữ an toàn vì trong thực tế  đã có nhiều người tìm cách tháo gỡ nhưng không an toàn, nên  vô tình chặt đứt sợi dây đoàn kết làm đôi và tình cảm từ đó bị  sứt mẻ. Nhiều người giải phẫu nội kết giống như một mụt ghẻ.  Biết cách thì vết thương sẽ lành, ngược lại làm cho vết thương  thêm lở loét.  Có những trường hợp không cần phải giải phẫu  mà chỉ cần thuốc thang thích hợp thì mụt ghẻ sẽ lành lặn.

Trước nhất, đề cập đến giải pháp  thỏa hiệp. Thỏa hiệp trong các quan hệ là cần thiết vì cá tính, sở thích và cách   ứng xử ở mỗi người khác nhau. Sự thoả hiệp để tạo ra biên giới bất khả xâm phạm mà hai đối tác cần tôn trọng và không nên vượt quá mức cho phép để duy trì sự hoà hợp, hợp tác.

Thông thường, sự khác biệt về cá tính tạo nên hấp lực trong thời gian đầu. Cá tính càng cá biệt chừng nào thì hấp lực càng lớn chừng đó. Sự giống nhau tạo ra hấp lực dẫn theo công thức “Đồng thanh tương ứng,” sự bén rễ “đồng thanh” càng chậm thì tuổi thọ của mối quan hệ càng cao. Ngược lại, khác nhau về bản tính thì lực hút nhanh hơn nhưng tuổi thọ mối quan hệ lại không bền. Nếu hai bên gặp nhau cứ tạo ra xung đột hay đối kháng thì sự cách biệt sẽ tạo ra hai cái rãnh của đường   ray, không bao giờ gặp nhau ở một điểm.

Người Trung Hoa, giải thích những cá tính khác biệt theo luật  Ngũ hành tương sinh hoặc tương khắc. Tương sinh tạo ra sự lớn  mạnh, thành công, phát đạt. Một bên đóng vai trò tác động và một  bên đóng vai trò tiếp nhận. Trong trường hợp tương khắc thì hai  bên xung đột, công phá, làm suy giảm năng lực và giá trị của nhau. Thí dụ như lửa và nước, nước và đất, đất và cây, cây và kim loại,  kim loại và lửa thuộc tương khắc. Các đối tác hoặc phối ngẫu có cá  tính mặt trời và mặt trăng như vừa nêu dễ dàng xung khắc về quan  điểm, hành vi, lời nói nên khó thành công.

Trong khi các đối tác tương sinh như lửa và đất, đất và kim,  kim và nước, nước và cây, cây và lửa, dễ dàng thành công trong  các nỗ lực tập thể. Tương sinh là hỗ trợ nhau phát sinh, tồn tại  và  thịnh vượng. Sai  lầm của người  tin vào học  thuyết  tương  sinh và  tương khắc không phải  tại bản  chất  của  thuyết này,  mà ở chỗ nghĩ rằng mỗi “mệnh” sinh và khắc là một bản tính,  định mệnh, không thể thay đổi được. Nghĩ thế, người có niềm  tin vào xung khắc không còn nỗ  lực chuyển hóa những khác  biệt nên dẫn đến tình trạng bất cần. Từ đó, đổ vỡ có mặt.

Như vậy, bất cứ quan niệm thường thấy về cá tính nhưng bản tính không thay đổi đều làm cho mối quan hệ ngày càng tồi tệ hơn. Khi có sự việc xảy ra thì họ đổ thừa vì cá tính không phù hợp nên đành phải xa nhau. Trong thực tế, nếu biết nỗ lực có phương pháp thì vấn đề nghiêm trọng   cũng trở nên bình thường. Các kết luận kéo theo sau thường mang tính biện hộ như “tôi và anh không thể nào sống đời với nhau” hay tồi tệ hơn, “một ngày nào đó chúng ta phải chia tay nhau”.

Khi đặt cái cày trước con trâu trong mối quan hệ tình cảm dựa trên  định kiến của Ngũ hành tương sinh, tương khắc thì sự thỏa hiệp được thiết lập không bao giờ kết thúc. Nếu có kết thúc sẽ kết thúc trong khổ đau.

Để các ách nạn đó không xảy ra, trước nhất nên ngưng trận chiến giữa ta và người, khi ý thức về sự bất  hòa là cơ sở của nội kết. Nên ngưng trận chiến trước vì những vấn đề đưa đến sự thảo luận có thể tạo ra gút mắc vốn có thể được đổi hướng tích cực hơn. Nhờ  đổi đề tài thảo luận, cuộc chiến của sự bất hoà không tiếp tục diễn ra theo kiểu “thêm dầu vào lửa”.

Như vậy, dừng cuộc chiến nội kết là bước đầu của sự thỏa hiệp giữa hai bên. Dĩ nhiên, thỏa hiệp phải có nghệ thuật, bằng không sẽ làm cho hai bên không bao giờ hiểu nhau, mà nếu gặp nhau thì lại dùng miệng lưỡi tranh cãi, khiến tác hại của quan hệ ngày càng nghiêm trọng. Bước thứ hai là nên gần gũi, đến với nhau bằng thái độ cởi mở chân thành. Tuy nhiên,  đừng lấy thành kiến để nhận định, đánh giá thái độ của người đến với mình. Như vậy, cần bỏ những thành kiến để cùng ngồi lại, gần nhau để sưởi ấm mối quan hệ lâu dài.

Có nhiều cuộc thỏa hiệp rất khó khăn, vì quyền lợi bên này đặt quá cao còn bên kia bị khống chế nên kháng cự lại. Một bên nổi, một bên chìm mạnh lấn yếu, hướng nội và hướng ngoại, áp bức và bị bất công... Do vậy, nếu thấy thỏa hiệp gặp phải khó khăn thì cần thương lượng, trả giá với nhau. Sự trả giá trong trường hợp này là cách thức tạo biên giới để đảm bảo sự tôn trọng của hai bên, không bên nào được xâm phạm.

Chẳng hạn, trong gia đình, giữa nàng dâu và cha mẹ chồng có sự bất hòa. Trong lúc nói chuyện, nàng dâu đã có những lời không phải đối với cha mẹ chồng, khi đó, nội kết sẽ xuất hiện với chính người chồng của cô ta. Một bên là tình cha mẹ, một bên tình vợ chồng, bấy giờ người chồng phải có sự lựa chọn.

Người xem chữ hiếu nặng sẽ chọn cha  mẹ, người xem chữ tình nặng sẽ chọn vợ. Tuy nhiên trong trường hợp này, sự lựa chọn theo bên nào cũng dẫn đến đổ vỡ rất lớn về sau. Do vậy, nếu rơi vào trường hợp làm cha mẹ hoặc vợ chồng, đừng đẩy người chồng hoặc vợ vào chỗ thất vọng do phải lựa chọn hoặc vợ, chồng mình hoặc cha mẹ. Nên tạo cơ hội để hai bên ngồi lại thỏa hiệp với nhau. Nghĩa là, có những biên giới mà hai bên không nên đụng chạm vào. Nếu tôn kính cha mẹ ruột thế nào thì cũng phải tôn kính cha mẹ vợ hoặc chồng như thế ấy thì tình cảm mới được tốt đẹp hơn. Nếu sự thiết lập biên giới gặp khó khăn, cần phải thiết lập sự hỗ trợ như mở hộp thư để nói lên những điều mình cần nói.

Có những người, lúc đối diện không đủ can đảm để nói nhưng khi viết có thể biểu lộ rất nhiều điều cần nói. Tuy nhiên, viết cần có diễn tả để người kia dễ dàng chấp nhận và có sự cảm thông. Trường hợp đã làm   tất cả những điều vừa nêu nhưng không kết quả thì nên xem đây là giải pháp ban đầu rồi tiếp tục duy trì và tìm biện pháp lâu dài để giải quyết.

Nếu nội kết bắt nguồn từ một bên nào thì bên đó tháo gỡ, từ hai bên thì hai bên phải tìm cách tháo gỡ chứ không thể chỉ một bên và bên còn lại cứ cột mãi thì nội kết đó không thể giải quyết, nó sẽ tiếp tục kéo dài.

Khi viết cần viết những lời từ ái trên nền tảng hiểu biết và cảm thông, không nên nói trách móc người đã tạo đau khổ cho mình. Có những người dù tâm không có ý xấu nhưng khi cơn giận bốc lên thì có thái độ bất cần, chuyện đến đâu cũng sẵn sàng ứng phó.  Nếu hiểu được cảm xúc của đối phương là sự bốc đồng chứ không phải bản chất thì sẽ có sự cảm thông sâu sắc. Cần hâm nóng lại tình thân giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng dù tình thân hay tình yêu đó đã nguội lạnh 20, 30 năm đi nữa.

Có hai vợ chồng rất thương yêu nhau, một người vượt biên và người kia ở lại Việt Nam. Họ trao đổi nhau bằng thư với những lời thiết tha, nồng thắm. Rồi hai bên có cơ hội đoàn tụ thì bỗng dưng xuất hiện nhiều nội kết. Người vợ kể khi chồng ra đi, mình ở lại Việt Nam bị mẹ chồng hiếp đáp. Từ đó, người vợ bộc lộ sự không   thể tha thứ  cho mẹ chồng. Điều đó lặp đi lặp lại trong những bữa ăn thay vì sự chăm sóc, quan tâm lẫn nhau nên khiến không khí trong bữa cơm nặng nề. Khi những chuyện như thế cứ tiếp tục lặp đi lặp lại thì tình cảm vợ chồng sứt mẻ, làm cho nội kết giữa hai vợ chồng ngày càng gia tăng, thậm chí dẫn đến tan vỡ. Có những người vợ chấp chước chuyện quá khứ thay vì “phóng sinh” đi để thảnh thơi.

Cho nên, sự tiếc nuối, chấp chước trong quan hệ vô tình nuôi dưỡng những nỗi đau mà nếu hành xử đúng đắn thì không được khai sinh trong mối quan hệ. Cách làm đó vô tình nuôi dưỡng những nỗi đau không có giá trị gì cho thực tế. Nó chính là phát súng ân huệ nhưng không phải để tạo sự sống mà là cái chết, giống tội nhân bị xử tử và đang chờ được ban ân huệ sau cùng. Do vậy, thỏa hiệp là giải pháp bắt nguồn từ sự hiểu biết.

Cần nhìn rõ bản chất ứng xử của người khác và đừng thiết lập  khung áp đặt họ thuộc dạng tâm lý nào, trên thực tế không phải,  rồi định vị cách ứng xử cho tâm lý đó. Trong cuộc sống hằng ngày,  người ta phác thảo những trận chiến bằng cách dựng lên các hình  nộm và dùng súng bắn vào cho chúng ngã xuống rồi cho rằng đã  chiến thắng. Quả thật rất đáng tội nghiệp!

Thực tế, nếu con người có thái độ suy luận loại suy, quy nạp, tổng hợp... và không biết lắng nghe người khác giải thích, bấy giờ nội kết được siết chặt. Không nên nhân rộng nội kết ở bình diện lớn và sâu. Cần khoanh lại trong phạm vi nhất định để những quan hệ về tình thân gia đình, tình cảm vợ chồng, cuộc sống được đơm hoa kết trái!

PHƯƠNG PHÁP ĐỒNG ĐẲNG

Sự đồng đẳng là giải pháp dựa trên tinh thần bình đẳng của nhà  Phật. Trong 7 nguyên tắc đức Phật đưa ra để tháo gỡ những nội kết  rầy rà, bất đồng trong đời sống của người tu có giải pháp “Như cỏ  trải đất”. Mặt đất có những chỗ gồ ghề nên trước khi trải cỏ phải  san bằng khoảng đất đang bị gồ ghề đó, rồi mới cấy, trồng loại cỏ  đặc biệt lên. Bấy giờ, mặt đất những quan hệ không còn chỗ gồ  ghề. Đức Phật nói, trong cuộc sống đôi khi con người đặt quan hệ  đối xử giữa người cấp trên với cấp dưới, quyền hạn của người lớn với người nhỏ, ông bà, cha mẹ với con cháu hay anh, chị với em...  Ứng xử vậy, đôi khi có những oan ức rất  lớn mà người cấp nhỏ  không có dịp nói.

Có câu chuyện về đức Khổng Tử. Một hôm, ngài đi trên đường, thấy một cậu bé khoảng 6, 7 tuổi đang đắp cát để tạo dựng những thành trì. Khổng Tử liền xuống xe và nói cậu bé cho ông chạy xe ngựa qua những thành  vừa đắp. Cậu bé nhìn Khổng Tử và nói, thưa bác, bác cần nhớ quy luật là xe tránh thành chứ thành không tránh xe. Sau đó, đức Khổng Tử  đã kể lại câu chuyện cho mọi người nghe rồi ngài kết luận, “Hậu sinh khả uý”.

Nghe qua câu chuyện, khó có thể đồng cảm với cậu bé, nhưng  nếu hiểu theo cách thức đối thoại thì phải biết chấp nhận sự ứng xử  của cậu bé như người có nhận thức, giá trị và tư cách. Phải tôn  trọng và không được quyền cưỡng bức người khác theo những  gì mình muốn. Cần đặt người khác ngang hàng với mình theo  cách thức bình đẳng Phật tính mà đức Phật đã dạy. Do vậy, chú  tiểu có thể nói chuyện bình đẳng với Hòa thượng.

Câu chuyện khiến nhớ lại lời đức Phật dạy, có bốn thứ nhỏ mà đừng bao giờ khinh thường: đốm lửa nhỏ, thái tử nhỏ, tội lỗi nhỏ và chú tiểu nhỏ. Nếu không có chú tiểu nhỏ thì không có Hòa thượng. Trong cuộc luân hồi, con người đã được sinh đi tử lại rất nhiều lần. Các tri thức, tình cảm, phương thức hành trì được truyền từ kiếp này sang kiếp nọ. Bởi vậy, dù tuổi nhỏ nhưng chất liệu tu tập từ nhiều đời nhiều kiếp của người ta tích lại rất lớn, không nên khinh thường. Bởi thế, đối với con cháu trong gia đình hay đối với hậu sinh ngoài xã hội nên ứng xử giống như lời đức Phật đã dạy.

Nền văn hóa phương Tây, tập cho trẻ em có bản lĩnh rất dạn dĩ trong cách ứng xử, bởi chúng được xem như người trưởng thành. Có điều, nó quá cực đoan, khiến cho bản ngã trẻ em trở thành chủ nghĩa cá nhân, không giống như lời đức Phật dạy là phải phát triển trí tuệ. Như vậy, sự phát triển của nền văn hóa phương Tây và đạo Phật khác nhau. Dĩ nhiên, sẽ dẫn đến những hệ giá trị hoàn toàn khác.

Do vậy, khi tiếp xúc với người khác bằng sự đồng đẳng để đi đến thỏa hiệp trong các mối quan hệ, nhằm tháo gỡ những nội kết, cần tôn trọng đối phương như một cá thể. Có quyền tự do phát biểu, ngôn luận nhưng với tư cách của người tri thức, đạo đức thì không bao giờ lấn lướt người khác. Tuy nhiên, đôi lúc trong thực tế người ta đã lấy quyền hạn của người lớn để cưỡng ép trẻ em. Lấy quyền cha mẹ để buộc con cháu làm theo những điều mình muốn, thay vì được quyền làm những gì đứng đắn mà nó muốn.

Trong đà phát triển của xã hội, người lớn cho rằng lớp trẻ hiện nay đã Tây hóa nên không hiểu tâm tư của ông bà, cha mẹ. Ngược lại, giới trẻ lại cho rằng ông bà, chú bác, cha mẹ đã sống trong nền văn hóa cổ hủ, không thấy được cái tốt đẹp của nền văn hoá Âu Mỹ. Từ những quan điểm đối lập đó, họ cho rằng mình mới được quyền phát biểu còn người khác thì không và đặt người ta vào lựa chọn phải và làm theo những gì mình muốn. Nếu những đứa trẻ là người có lòng hiếu thảo thì chúng có thể chấp nhận để vấn đề được trôi qua, dù không hài lòng. Nhưng nếu cứ cố tình áp  đặt, chúng sẽ có sự nổi loạn trong cách ứng xử ở gia đình, rồi lan ra ngoài xã hội.

Khi có quan niệm đồng đẳng thì sẽ lắng nghe người khác vô tư, khách quan. Thỉnh thoảng, có đứa trẻ phát biểu những ý kiến rất hay mà đôi lúc là người lớn nhưng chưa bằng. Cũng có những phát biểu rằng, trẻ em ngày nay thông minh hơn rất nhiều thế  hệ mấy mươi năm về trước. Do vậy, trong lu- ân hồi sinh tử nếu luân hồi nhiều chừng nào thì kiến thức nhiều chừng ấy. Có những đứa trẻ mới sinh ra nhưng rất thông minh. Sự phát triển của trí tuệ không phụ thuộc vào độ tuổi. Có những khác biệt về cách thức, sự lựa chọn trong cuộc đời như một lý tưởng, ý thức hệ để sống.

Trong dịp chúng tôi vận động các chú tiểu in lịch, có em bé khoảng hai tuổi được vận động cạo tóc nói rằng, “Cạo tóc xấu lắm thầy ơi!” Chúng tôi tin cha mẹ em bé ấy không hề dạy cạo tóc là xấu giống tục ngữ Việt Nam thường nói, “Cái răng cái tóc là gốc con người”. Khi chúng tôi đề nghị, em bé liền phản ứng. Bấy giờ chúng tôi nói, con thấy thầy có đẹp trai không? Cuối cùng cũng thuyết phục được em bé đó mặc chiếc áo tu sĩ màu vàng. Khi mặc, em bé lại nói chiếc áo xấu quá. Chúng tôi lại phải nói, chiếc áo con mặc đẹp hơn chiếc áo thầy đang mặc và nói em đang trở thành người nổi tiếng nhưng em bé vẫn cho rằng chiếc áo mình đang mặc không hề đẹp. Kiến thức về thời trang đối với những đứa trẻ là không thể có, vậy mà em bé đó đã phân biệt về thẩm mỹ, cái đẹp và cái xấu.

Xem phim Thiếu Lâm Tự, các nhà sư không hề xấu. Nhìn họ, dễ dàng thấy được vẻ an lạc và thanh thản, kể cả những vị sư đã già. Đây là sự khác biệt rất rõ ràng. Khi ứng xử tính đồng đẳng với người đối diện để họ phát lồ trình bày, đánh giá, phân tích, nghĩa là tạo cho người khác cơ hội sáng kiến, giúp họ tháo gỡ những nội kết giữa mình và người. Do vậy, không dựa vào sự lớn tuổi mà quan trọng là ở cách thức ứng dụng lời Phật dạy, những kinh nghiệm sống như thế nào. Cần để người khác giải bày quan niệm của họ và phải chú ý lắng nghe bằng tất cả tấm lòng với sự trân trọng!

Nếu là người xuất gia, khi muốn gặp đức Dalai Lama, chỉ cần trình đơn kèm theo một bản photocopy hộ chiếu thì vài ngày sau được gặp. Trong đạo Phật, các vị sư trẻ luôn tỏ lòng tôn kính đối với những vị tôn túc bằng cách là ngồi né một  bên, nhiễu quanh một vòng hoặc là đảnh lễ... Một tu sĩ đảnh lễ đức

Dalai Lama thì ngài cũng đảnh lễ đáp lại. Khi vị Tăng sĩ trẻ ngồi né một bên để thưa chuyện thì ngài đề nghị ngồi ngang hàng. Đó là sự  thật mà tôi đã từng “bị” ngài đối xử. Đó là cách ứng xử bình đẳng Phật tính, tạo cho mọi người có tư cách ngang hàng nhau để ý thức rằng, trong ta sẵn có chất liệu cao cấp nhất. Ứng xử bình đẳng dựa trên Phật tính, nhưng nếu không khéo thì dễ dàng tạo cho người khác cống cao ngã mạn.

Thật vậy, quan niệm bình đẳng là nhịp cầu để người tự ti mặc cảm trở thành người dấn thân. Ngược lại, sẽ làm họ rớt xuống vực sâu. Cho nên, khi có sự bình đẳng để nói, tham gia vào việc tháo gỡ những nội kết giữa ta và người đang vấp phải thì không được quên mình là thành viên nhỏ trong gia đình. Nếu không sẽ trở thành những  đứa trẻ ngạo mạn, ỷ vào tiềm năng, sức khỏe, kiến thức, văn bằng đang có để xem thường ông bà, cha mẹ. Tưởng sự xuống nước của người khác có nghĩa mình là “ngon”. Quan niệm như vậy thì ngày càng dẫn đến nội kết sâu hơn. Cho nên, cần ý thức về sự bình đẳng của ông bà, tổ tiên, người lớn như đặc ân để phát triển tài năng. Và phải biết ơn những người đã cho cơ  hội đó!

Bậc cha mẹ thường có quan niệm xuất phát từ tình thương đối  với con nên đôi khi họ áp đặt người con ngồi đâu thì phải ngồi  đó, “Áo mặc không qua khỏi đầu”. Ở Ấn Độ, hiện nay có nơi tất  cả nam nữ lập gia đình đều do cha mẹ sắp đặt. Mỗi nhật báo hàng  tuần dành khoảng bốn mươi trang quảng cáo cho hôn nhân và  gia đình. Trong đó nêu  tiêu chí  rất  rõ  ràng như: “Tôi có con  trai,  cân nặng,  chiều  cao, đẹp  trai,  thuộc giai  cấp...  cần một  cô gái có tiêu chuẩn tương đương, ai có nhu cầu xin gửi lý lịch  trích ngang với hai tấm ảnh đính kèm”. Khi có phản hồi, các  hồ sơ gởi về được đối chiếu so sánh rồi mới quyết định và tạo cơ  hội gặp nhau, sau đó đi đến hôn nhân. Trừ trường hợp theo Hồi  giáo và Thiên Chúa giáo, còn đa số vẫn đi theo lối mòn cũ.  

Thỉnh thoảng đọc báo vẫn thấy có vụ tự tử vì những người làm cha mẹ luôn luôn áp đặt, chỉ muốn con lấy những người do mình chọn chứ không  chấp nhận sự tự lựa chọn hôn nhân của con cái. Có trường hợp người con phản ứng, không chấp nhận hôn nhân đó. Do không thương lượng được với cha mẹ, họ lâm vào những việc làm sai lầm trong đời sống gia đình sau đó.

Do vậy, tạo cơ hội đồng đẳng để người khác ứng xử, hành trì thì nội kết trong gia đình sẽ được tháo gỡ. Người lớn có kinh nghiệm, kiến thức nhiều hơn thì cần tạo điều kiện và là người cố vấn, hướng dẫn đồng thời đóng vai người đồng hành để điều chỉnh những gì con em chưa được hoàn thiện. Như vậy là đang tạo cơ hội để đối tượng tự hoàn thiện bản thân. Từ đó, các mối quan hệ sẽ giảm  đến mức tối đa về sự lận đận.

ĐÁNH GIÁ TÍCH CỰC

Ta nên giảm tối đa cách đánh giá chủ quan về  sự tiêu cực của người khác. Hãy tập nhìn với phương diện tích cực để hỗ trợ sự nỗ lực, phấn đấu của người khác dù đang có nội kết với họ. Đôi khi tình cảm đối xử được sánh như thủy triều, lúc lên, lúc xuống. Đôi lúc giống như dòng thác chảy cuồn cuộn, khi lại giống mặt nước hồ thu. Do vậy, trong quan hệ con người cần lưu ý đặc điểm trong giao tiếp. Có người nói rất nhiều, thậm chí không để người khác nói nhưng có người không hề nói lời nào ngay cả khi cạy miệng.

Cuộc sống đôi khi có những xúc cảm quá đáng  làm con người không cân bằng được tâm lý. Do đó, đối với người kém hiểu biết và không thích sự im lặng đáng sợ, mối quan hệ biến thành sấm sét trong lòng. Có thể tìm đủ mọi cách kích thích người ta nói, nhưng nếu họ không chịu đựng được thì lập tức phản ứng và thậm chí phản ứng gay gắt, nội kết từ đó cứ tiếp tục diễn ra.

Cần điều chỉnh hành động, lời nói sao cho phù hợp, tránh gây tác động mạnh đối với người khác để nội kết  không bị vỡ tung. Tránh không để cảm giác và âm thanh bị biến dạng trong mối quan hệ tình người. Đây là một trong những cách thức giảm thiểu nội kết chứ chưa phải là giải pháp tốt. Nhà Phật dạy, cần tìm những tính tích cực ở đối tượng mà đôi khi cho rằng không có gì cả, không còn quan hệ ở bất cứ nơi nào hết.

Trong đời sống, đức Phật chỉ ra rằng, con người thường thể hiện những cái mình thích và không thích trên ba phương diện là lời nói, việc làm, cách ứng xử. Có những người khi tiếp xúc thì thấy khẩu hành, thân hành của họ không dễ thương, nhưng nếu chịu tìm hiểu vẫn thấy được những mặt tích cực dễ thương của họ. Do vậy, khi xuất hiện nội kết, cần lưu ý đến những chất liệu dễ thương của người đối diện, để có sự cảm thông trong lúc tiếp cận, nhằm tìm ra chất tích cực.

Đức Phật đưa ra dụ ngôn, có một người  lữ hành mỏi mệt và  khát nước. Khi đến được cánh đồng, anh ta rất mừng vì trong cánh  đồng thường có nước. Nhưng tại đó chỉ toàn là dấu chân của trâu  mà không hề có giọt nước nào. Anh thấy được dấu chân trâu to  hơn, trong đó có nước nhưng rất nhiều cặn. Không có phương tiện  múc nước, anh dùng tay thì cặn của lớp nước nổi lên nên không  thể uống được. Anh nghĩ, nếu dùng nước đó  thì sẽ nguy hiểm.  Nhưng trong tình huống không còn sự lựa chọn khác, anh nằm  xuống để uống là cách duy nhất để cứu cơn khát.

Đức Phật dạy, trong bất kỳ tình huống nào cũng vẫn có giải pháp, vấn đề là vận dụng tuệ giác để tìm ra đáp số thay vì cho rằng nan giải. Do vậy, đôi khi trong giao tiếp có những cách ứng xử giống như người tìm nước trên cánh đồng khô cạn, nghĩ rằng sẽ không thể tìm được giọt nước nào. Nhưng đối với đức Phật, Ngài khuyên cứ tìm thì thế nào cũng thấy được nguồn nước từ chính cánh đồng đó.

Thậm chí, nếu quyết tâm tìm sẽ khám phá ra cánh đồng đó có rất nhiều dòng nước khác để dùng. Đức Phật dạy, một người có tính xấu nhất vẫn  có thể tìm được những điểm rất dễ thương. Nếu từng xem phim Con Bạch Tuộc của Ý, hẳn sẽ thấy những con bạch tuộc rất độc ác. Thậm chí, nếu phải giết người thân để bảo vệ bọn Mafia thì vẫn phải hành động. Trong khi đối với những con chó, mèo, chúng lại có những tình cảm rất là đặc biệt.

Dù trong con người tiêu cực nhưng họ vẫn có những mặt tích cực, những hạt giống của sự thương yêu, hiểu biết và cần khai thác để những hạt giống đó được tươi sống. Nên thấy con người như những file chứa nhiều tập tin và dữ liệu. Có những dữ liệu đã hư, song vẫn có thể kích hoạt lại để sử dụng nếu cần.

Mối quan hệ của con người cũng giống như những tập tin kia.  Nếu thấy được giá trị từ những điều phân tích trên thì tin tưởng  rằng, không có bất cứ nội kết nào không thể tháo gỡ. Khi thấy được  những chất liệu của người khác thì sẽ vô hiệu hoá những nội kết  nhỏ nhất. Từ đó, có thể cùng sống với nhau bằng những hình ảnh rất  đẹp! Cũng giống như hình ảnh của hoa hồng, bề ngoài rất nhiều  gai, nếu bất cẩn chạm  tay phải  thì chảy máu, nên nhiều người  không thích tiếp cận với hoa hồng. Nếu tìm cách hỗ trợ bằng cách  đeo găng tay sẽ tránh bị tổn thương.

Lại có những người chuyên trồng hoa hồng nên biết bí quyết để không bị gai đâm, họ có thể thưởng thức được nét đẹp của các loài hoa. Tương tự, trong tất cả các mối nội kết, nếu biết cách cũng sẽ giải quyết được. Vấn đề ở đây là nhìn như thế nào? Vận dụng và tìm cách tiếp cận an toàn ra sao? Nếu chấp nhận giá trị của sự thách thức thì sẽ có những giá trị rất thích đáng trong cuộc đời.

Cho nên, khó khăn nhất là nhân tố giúp thành công nhất. Dân gian Việt Nam có câu: “Không vào hang cọp thì làm sao

bắt được cọp con”. Trong các mối quan hệ tình người, sau khi đã tìm ra nguyên nhân, khắc phục, hóa giải được nội kết đó thì người ta sẽ thương, gần gũi, tôn trọng nhau. Dĩ nhiên, tình cảm được phát triển và gắn kết tốt đẹp lâu dài hơn!

ĐÁNH GIÁ KHÁCH QUAN

Khi xem vở kịch do hai người diễn xuất thì nên vừa là khán giả vừa là đối tác, đôi khi lại là diễn viên để có thể quan sát cả bên trong lẫn bên ngoài. Quan sát như vậy sẽ hiểu được tại sao lại có những lời phát biểu nặng nề giữa người này với người kia (chỉ khi đứng từ góc độ khách quan mới thấy được).

Cũng như Tô Đông Pha là nhà văn lỗi lạc của Trung Hoa từng nói, Lô Sơn là một ngọn núi mà nhìn từ góc độ khác nhau sẽ có nhiều bức tranh khác nhau về nó. Nguyên văn là:

Hoành khan thành lãnh trắc thành phong.

Viễn cận cao đê các bất đồng.

Bất thức Lô sơn chân diện mục.

Chỉ duyên thân tại thử sơn trung”.

Nghĩa là, Lô Sơn như một bức tranh, nếu  nhìn ngang sẽ thấy như một dãy trường sơn. Nếu ngước nhìn với độ cao từ dưới lên sẽ thấy nó là ngọn núi cao chót vót. Ở bất cứ vị trí nào gần, xa, cao, thấp cũng có một cái nhìn tương ứng về ngọn núi đó. Sở dĩ không thể nhìn thấy được toàn cảnh của Lô Sơn vì đang bị vướng víu vào một góc độ nào đó. “Bất thức Lô Sơn chân diện mục”. Khi đang đứng nhìn thân của núi thì không thấy toàn cảnh của quả hay dãy núi... Trong quan hệ nội kết của con người cũng vậy, người ta chỉ biết lấy khổ đau, hạnh phúc của mình làm chuẩn. Do vậy, khi nỗi đau bản ngã xuất hiện thì không bao giờ chấp nhận, tha thứ người khác mà cứ muốn nhân rộng sự khác biệt lên. Bởi vì, đang vướng vào “sườn núi” của mối quan hệ thay vì phải đứng trên nó để thấy toàn cục.

Giải pháp này giúp ta nhìn đối tượng khách quan hơn. Dĩ nhiên, đòi hỏi phải sáng suốt, không khéo thì nhìn xấu hơn mà lại cho rằng hiểu được đối phương nhưng họ không hiểu được mình. Vậy mới có sự thông cảm và bỏ qua. Trường hợp bỏ qua mà không tìm được giải pháp là chưa tìm được gốc rễ nội kết để tháo gỡ một cách trọn vẹn.

Cho nên, nhìn sự việc khách quan để thấy được nguyên nhân của nó. Thấy được rồi thì nên ngồi lại với nhau thảo luận để tháo gỡ. Vậy mới giải quyết nội kết một cách rốt ráo. Do đó, đừng để nội kết có thời gian trưởng thành, càng để lâu chừng nào thì càng khó tháo gỡ chừng đó. Khi có dịp nói chuyện, mới thấy khập khiễng, khó chịu và tự ái, mặc cảm ngày càng lớn. Do vậy, cần quan tâm đến tính thời gian của nội kết. Nếu đã có nội kết thì dứt khoát dùng thời gian ngắn nhất để tháo gỡ có phương pháp và khôn ngoan.

Mặt khác, cần tháo gỡ nội kết một cách an toàn. Thí dụ, người ta đang gặp nhiều sự căng thẳng, thì cố gắng tìm cách tháo gỡ nội kết nhưng khó thành vì đầu óc họ đang tập trung giải quyết những vấn đề mà họ vướng mắc.

Thứ hai, có thể họ bị mất ngủ trong thời gian dài hay bị căng thẳng với những công việc khác, họ sẽ không cảm thấy thoải mái dù có thiện chí giải quyết vấn đề. Dù mình là người rộng lượng, khoan dung nhưng họ vẫn đặt dấu hỏi rằng, tại sao lại có một thái độ tốt với tôi như vậy? Thực tế, vẫn có một tính xấu trong lòng người kia. Thay vì chấp nhận để mình và họ tháo gỡ những khúc mắc thì họ lại đóng khung trong mai rùa. Mai rùa có thể làm người  ta cảm thấy an ổn, nhưng nếu cứ để tứ chi và cái đầu trong mai thì con rùa sẽ không bao giờ đi xa hay đến đích mà nó muốn.

Con người cũng có những chương trình, kế hoạch, con đường và cách sống riêng. Và cần phải có đôi chân để đi, đôi tay để lao động, nhận thức để đánh giá mọi sự việc và cần phối hợp với con mắt tuệ giác.

Các phương pháp vừa nêu trên có khả năng giúp chúng ta tháo  gỡ nội kết một cách an toàn. Cần tìm hiểu tình huống nào nên áp  dụng phương pháp một, hai, ba hay bốn. Có những trường hợp  phải kết hợp cả bốn phương pháp, mới có kết quả và mang  lại  giá trị an lạc lâu dài. Hiệu quả nhanh là dấu hiệu cho biết ta sử  dụng đúng phương pháp. Cần chia sẻ kinh nghiệm của mình  với những người đang gặp phải các  tình huống  tương  tự, để  cùng dìu dắt nhau trên con đường an vui.

Chương 5: Tâm bình thế giới bình

NỖ LỰC CHO HÒA BÌNH

Hội thảo Phật giáo Quốc tế lần thứ V được tổ chức tại Việt Nam, nhiều diễn đàn Phật giáo thế giới đã chú trọng và nhấn mạnh đến ý nghĩa hòa bình thông qua lời dạy của đức Phật. Vào ngày 11 đến 18-4-2006, Diễn đàn Phật giáo thế giới đã diễn ra tại tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Chủ đề của diễn đàn này là “Thế giới hòa bình bắt đầu từ tâm”. Vào ngày 19 đến 22-4 tại Đài Loan, đặc biệt là trụ sở Phật Quang Sơn thế giới ở Cao Hùng, Hội nghị lần thứ 23 của Hội Liên hữu Phật tử Thế giới diễn ra với chủ đề: “Phật giáo và sự khoan dung cho hòa bình thế giới”.

Từ ngày 7 đến 10-5, tại thủ đô Bangkok – Thái Lan, Hội nghị Phật giáo Quốc tế lần thứ III đã diễn ra nhân Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc, cũng xoay quanh chủ đề Phật giáo đóng góp cho hòa bình thế giới và sự phát triển bền vững.

Ban Điều phối hội thảo quốc tế của Phật giáo khắp thế giới đều  đặt trọng tâm vào nền tảng lời dạy hòa bình của đức Phật, không  phải không có  lý do. Nhớ  lại năm 1981,  lần đầu  tiên Liên Hiệp  Quốc đề nghị có Ngày hòa bình thế giới trong phiên họp 67 của  Đại hội đồng lần thứ 36. Đến 20 năm sau, năm 2001, Liên Hiệp  Quốc lại một lần nữa trong Đại hội lần thứ 55, phiên họp 282  đã  thảo  luận  rất kỹ  và đi đến kết  luận bằng một nghị quyết  chọn ngày 21 tháng 9 dương lịch làm Ngày hòa bình thế giới.

Trong nghị quyết, Liên Hiệp Quốc giải thích và yêu cầu tất cả  các chính quyền, đảng phái, dân tộc, tôn giáo và mọi thường dân  đến ngày 21 tháng 9 phải ngưng hết tất cả mọi hoạt động chiến  tranh, không gieo  rắc hận  thù. Bên cạnh đó, những hoạt động  biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, cầu nguyện hòa bình ở các cơ sở tín  ngưỡng tôn giáo được diễn ra. Ai theo tôn giáo nào thì cầu nguyện  theo nghi thức của tôn giáo đó. Liên Hiệp Quốc đã có Ngày hòa  bình thế giới là nỗ lực đáng trân trọng.

Các tổ chức Phật giáo trên khắp thế giới đã vận động Liên Hiệp Quốc thừa nhận ngày Đại lễ Phật đản làm Lễ hội văn hoá tôn giáo thế giới. Đồng thời  vận động các quốc gia thừa nhận ngày Phật đản là ngày Quốc lễ, chào mừng ngày ra đời của đức Thế Tôn, mang lại an lạc hạnh phúc cho số đông, chư Thiên và loài người. Dĩ nhiên, nỗ lực đó gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù được Liên Hiệp Quốc chính thức công bố từ năm 1999 và kể từ đó đến nay Phật giáo thế giới đã tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc vài lần, với mong mỏi rằng ngày Đại lễ Phật đản được công nhận là Ngày hòa bình thế giới.

Mặc dù nỗ lực đó đi hơi chậm nhưng cũng góp phần giúp thế giới thấy được rằng, những lời dạy của Thế Tôn mang yếu tố hòa bình, không hận thù, không giết chóc, thể hiện từ bi, hỷ xả, khoan dung, độ lượng, tha thứ, bỏ qua quá khứ, thiết lập tình nhân loại và yêu sự sống của con người đối với các loài động vật và môi trường thiên nhiên.

Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc chỉ đề cập đơn thuần là ngừng  bắn để bảo hộ sự sống của con người. Trong đó không hề có  một từ nào đề nghị ngừng sát sanh, giết chóc, bạo động, vì sự  sát sanh các  loài động vật đối với Liên Hiệp Quốc và các tôn  giáo khác trên thế giới là không quan trọng. Mỗi khi tâm con  người với những hạt giống và thói quen của sự giết hại vẫn còn,  thì hòa bình có giá trị rất ít, nếu không nói là không đáng kể.

Dù không giết người, không bắn, không bạo động với con người, nhưng ta có thể gây tổn hại đến loài động vật và thiên nhiên theo cách “Giận cá chém thớt”. Hạt giống bạo động đó đã được chuyển tải và dùng vào phần thế giới  còn lại của sự sống. Hòa bình đó chỉ có ý nghĩa phân nửa cho thế giới loài người mà thôi.

Ý nghĩa của hòa bình thế giới theo đạo Phật phải được mở rộng,  bởi vì thế giới không chỉ bao gồm có con người, mà có tất cả các loài động vật, nói chung tất cả chúng sinh. Chính vì thế, thế giới  hòa bình phải bắt đầu  từ  tâm với nhau  trong mối quan hệ con  người, các loài động vật và thiên nhiên. Đặt bối cảnh của nội dung  đó vào Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc ta thấy ý nghĩa của hòa bình  thế giới trở thành vấn đề trọng tâm, nhất là liên hệ đến bối cảnh  chiến tranh dây dưa trên thế giới như hiện nay. 

Liên Hiệp Quốc được thành lập sau Thế chiến thứ II, với mục  đích tạo ra an ninh cho toàn cầu. Nỗ lực của Liên Hiệp Quốc là hạn  chế chiến tranh một cách tối đa, tiêu hủy tất cả các loại vũ khí có  thể dẫn đến hủy diệt loài người, hoặc giết người hàng loạt. Nhưng  giới hạn của Liên Hiệp Quốc là không thể ngăn cản được khuynh  hướng chiến tranh và ngừng vũ khí một cách trọn vẹn, nhất là từ  tâm con người. Lòng tham và quyền lực của con người, các đảng  phái, quốc gia, liên minh khó có thể chấp nhận tuyệt đối từ góc độ  hòa bình, như lòng từ bi của đức Phật đã dạy.

Một trong những phương hướng mà Liên Hiệp Quốc dạy và yêu cầu mọi người tôn thờ Ngày Quốc tế hòa bình, là thực tập một phút mặc niệm vào giữa trưa. Trước và sau đó là các hoạt động rất ấn tượng, chẳng hạn, treo cây cột cao 2.5m tượng trưng cho hòa bình và sự yêu chuộng hòa bình. Trên thân cột có ghi: “Nguyện cầu hòa bình có mặt trên  thế giới”. Dân tộc nào ghi ngôn ngữ của dân tộc đó. Cây cột hòa bình này tượng trưng cho ý thức về giá trị của đời sống an vui, hạnh phúc khi các loại hình sự sống được tôn trọng.

Sự bình quyền  về mạng sống giữa con người và các loài động vật được Phật giáo đề cao, đến độ các tôn giáo khác cảm thấy rất khó chịu vì họ nghĩ rằng: Thượng đế và các thần linh đã tạo ra các loài động vật để phục vụ, chu cấp cho đời sống của con người. Lý luận của tôn giáo nhất thần làm ta nhận ra ân sủng lớn từ Thượng đế. Nếu phân tích một cách cùng tột, thì sự thương xót giả định của Chúa là tình thương có phân biệt.

Đạo lý “Vật dưỡng nhơn” được cả thế giới ca ngợi, lại có nhiều  giới hạn, bởi chủ yếu là phục vụ cho con người, còn các loài chúng  sanh khác không được quan tâm. Trong khi đó, sự tương tác về quy  luật của đời sống cho thấy rằng không chỉ có con người mới tồn tại,  các sinh vật khác cũng đồng tồn tại trên hành tinh này. 

Từ bi của đạo Phật vượt lên trên bác ái và các học thuyết nhân  bản thông thường. Người ta ca ngợi nhân bản như là đạo lý quan  trọng, nhưng chỉ phục vụ cho con người, trong khi đó hòa bình  thế giới là cho tất cả mọi loài chúng sinh. Chính vì thế, ta có thể  nạp thêm những nội dung từ bi của đạo Phật cho đạo lý hòa bình  thế giới của Liên Hiệp Quốc, để giá trị hoà bình được cao đẹp hơn.

Tổ chức triển lãm về tình thương, an vui hạnh phúc sau chiến tranh vốn  có quá nhiều tan nát, chết chóc, khổ đau, là các hoạt động chào mừng hoà bình có ý nghĩa thiết thực. Các hoạt động vì hoà bình đòi hỏi sự hiểu biết, tha thứ, hỷ xả, bao dung... Từ đó chất liệu của lòng từ bi và an lạc mới có thể được thiết lập và thay thế những cảm xúc khổ đau trong quá khứ, do chiến tranh gây ra trên khắp hành tinh.

Nếu chiến tranh được quan niệm là một trong những nỗ lực giành quyền lợi cho cộng đồng, dân tộc, quốc gia hay liên minh thì ngược lại hòa bình là nỗ lực mang an lạc hạnh phúc đến cho toàn thể nhân loại. Sự giành giật quyền khống chế giữa chiến tranh và hòa bình, mở chiều sâu tâm thức và thái độ tâm lý của người tham chiến.

Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và giá trị của sự hy sinh đã được các quốc gia trên thế giới đề cao, để các chiến sĩ lao vào trận chiến và họ chỉ  có một sự lựa chọn: chết hoặc sống. Cái chết của bản  thân họ có thể dẫn  đến sự tang tóc và khổ đau cho dân tộc. Cho nên phần tìm đến sự sống trở thành nhu cầu rất lớn, họ cần phải tham chiến với tất cả lòng yêu nước sẵn có, nhằm mang lại hòa bình cho dân tộc. Dĩ nhiên giữa hòa bình và chiến tranh, sự chiến thắng chỉ nằm ở tuệ giác của con người được thiết lập trên nền tảng từ bi.

Trong chiến tranh không có hòa bình đích thực, mà chỉ  có hòa bình và an lạc tạm thời. Dù có hòa bình thật sự đi nữa thì sự thái bình chưa chắc đã có. Vẫn còn đó các hình thái bất công xã hội bao gồm giới tính, sắc tộc, màu da, chính trị, văn hóa. Dường như tất cả những bất công về xã hội vẫn còn đầy rẫy ở nhiều quốc gia, mặc dù chiến tranh chưa từng có mặt trên đất nước họ. Chính vì thế ý nghĩa hòa bình trên nền tảng của chính trị học và xã hội học, chỉ tương đối.

Đề cập đến cấp độ xã hội học của hòa bình là nhắc đến góc độ không có chiến tranh, ngừng tất cả hoạt động của bạo động, giết chóc, tàn phá. Như vậy nó được đánh dấu như chiến thắng lớn của các chủ nghĩa. Trong  khi đó ý nghĩa nội tại của hòa bình liên hệ đến tâm và nhận thức của con người, bởi chiều sâu của nó đặt trên nền tảng tất  cả ý nghĩ của sự sát sanh, ý niệm về bạo động, và cả những khuynh hướng về giành giật, đấu đá, phân chia, bất công đều đã được chuyển hóa một cách rõ rệt.

Do đó, đạo Phật dạy hòa bình phải khởi đi từ tâm thức đã được chuyển hóa trọn vẹn, để lòng tham đắm dẫn đến sự tranh chấp không còn nữa. Ở   đó lòng sân hận, kiêu hãnh, trả đũa niềm đau do người khác tạo ra cho bản thân, gia đình, dân tộc, quốc gia mình không còn nữa. Từ đó lòng si mê đấu tranh, giết chóc được lắng dịu. Đó là hòa bình của đời sống nội tại.

Dĩ nhiên, các ý thức hệ chính trị trên khắp thế giới khó có thể chấp nhận được đạo lý hòa bình từ nội tâm của đạo Phật. Vì nó đòi hỏi đến sự chuyển hóa tâm thức, sự hy sinh của thắng và bại, chỉ còn lại sự an lạc hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi loài.  Chỉ có vượt lên trên mọi ý thức hệ chiến tranh vì quyền thắng của một bộ phận hay một phe đối chiến nào đó thì mới có thể tiếp cận được ý nghĩa hòa bình như đức Phật đã dạy.

NGUỒN CỘI CỦA CHIẾN TRANH

Khoảng bốn năm sau khi Thế Tôn thành đạo, Ngài đã được các vị đệ tử kể lại sự kiện tranh chấp căng thẳng diễn ra từ nhiều năm  giữa hai bang Calavaskun và Kylavaskun. Chỉ vì tranh chấp quyền sử dụng nước, hai tiểu bang này trở thành kẻ thù trong giết   chóc và loại trừ.

Nghe được tin đó, Thế Tôn đến đứng ngay biên giới giữa hai  tiểu bang. Cuộc chiến đã sắp bắt đầu, và dường như nó sẽ diễn  ra trong tích tắc. Tất cả đồ đệ cảm thấy rất lo cho Thế Tôn. Nếu  không may cuộc chiến diễn ra thì mạng sống của Thế Tôn chưa  chắc được đảm bảo. Phật vẫn an nhiên, tĩnh tại ngồi thiền trước  hai đội quân rất hùng hậu. Một vị đại tướng đã cất lời yêu cầu:

- Thưa tất cả các binh sĩ hai bên, chúng ta chứng kiến Bậc Giác ngộ thuộc dòng tộc Sakya đang có mặt giữa hai đội binh chúng ta. Ngài là biểu tượng của tình thương và hòa bình. Tôi đề nghị chúng ta hãy hoãn cuộc chiến, vì như vậy chúng ta đang xúc phạm đến Thế Tôn.

Sau lời yêu cầu của vị đại tướng, tất cả các binh sĩ hai bên đã bỏ hết cung tên, giáo mác xuống. Thế Tôn nhân cơ hội đó hỏi vị đại tướng:

- Vì lý do gì mà ngày hôm nay binh và tướng của hai thành phố đã có mặt tại đây với thái độ rất căng thẳng?

Tất cả binh sĩ đều trả lời:

- Chúng tôi có mặt tại đây là để chiến tranh. Thế Tôn hỏi tiếp:

- Các vị chiến tranh vì động cơ gì? Mục đích gì? Không ai bảo ai, họ trả lời:

- Chúng tôi chiến tranh vì nguồn nước ngọt, không có nước ngọt chúng tôi sẽ chết.

Thế Tôn hỏi tiếp:

- Xin các vị hãy làm một so sánh  nhỏ, giá trị của nước so với giá trị mạng sống của con người như thế nào?

Mọi người im lặng. Một binh sĩ đứng lên thưa:

- Bạch Thế Tôn, sông hồ, biển cả chỉ có giá trị giải khát, tắm giặt, nên không là gì so với mạng sống vô giá của con người.

Thế Tôn kết luận:

- Nếu tất cả binh sĩ, nhất là lãnh tụ của hai quốc gia nhìn thấy  được giá trị của con người là vô giá thì tôi khuyên các vị hãy đến  với nhau bằng tình thương, đối thoại trong hoà bình. Thay vì  để có được quyền sử dụng nguồn nước ngọt, phải  thông qua  chiến tranh thắng bại, thì sao ta không phân chia hợp lệ để hai  bên cùng có nước, không bên nào đổ máu và chết chóc.

Điều đó mặc dầu lãnh tụ hai quốc gia, tướng sĩ đã biết, nhưng vì không chịu tương nhượng và chia sẻ, chiến tranh suýt diễn ra. Thái độ độc quyền sử dụng nguồn nước ngọt thường dẫn đến sự tranh đấu và loại trừ.

Bản chất và nguồn gốc của mọi cuộc chiến đều nằm trên nền tảng phục vụ cho quyền lợi của bản ngã, bao gồm bản ngã cá thể, tập thể, quốc gia và liên minh. Một khi con người đặt nặng vấn đề bản ngã vì quyền lợi riêng thì không ai chịu nhường bước cho ai; lúc đó lòng sân hận bắt đầu trỗi dậy, để phục vụ cho lòng tham lam, độc đoán. Lòng tham bảo hộ cho lòng sân hận và sân hận diễn ra một cách khốc liệt để chiến thắng   của lòng tham về mình.

Sự si mê có mặt và châm ngòi cho cuộc chiến diễn ra từ ngày  này qua tháng nọ. Cái chết đã trở thành trò cười đắc thắng, trên  khổ đau và bất hạnh của nhân loại. Kiến thức về hòa bình ai cũng có , nhưng làm thế nào để kiến thức hòa bình đó trở thành thực tại,  hẳn đòi hỏi đến chiều sâu của nhận thức và hiểu biết.

Chất liệu và từ trường của lòng từ bi Thế Tôn rất sâu rộng. Lời Ngài nói tỏa ra hấp lực lớn, tác động đến  độ một vị tướng cầm đầu đã yêu cầu kẻ thù tạm hoãn binh. Lời nhắn nhủ  của Phật đâu dừng lại ở chỗ nói cho hai bên dừng cuộc chiến. Bằng từ trường ngôn ngữ, bằng hình ảnh và tất cả những giáo huấn của lòng từ bi, Phật đã giúp hai bên chuyển hoá được thù hận và chiến tranh. Giao thoa tâm linh được diễn ra khi hai bên tiếp xúc  với nhau trong tinh thần hiểu biết và tôn trọng. Nguyên tắc giao thoa diễn ra theo cách thức cái lớn khống chế, cái nhỏ thường bị bao bọc hoặc được tác động để tranh giành và thay thế lẫn nhau.

Từ trường từ bi của Thế Tôn quá lớn, tỏa trùm ra khắp chiến trường và thẩm thấu vào dòng cảm xúc sân hận của những kẻ thù có mặt trên trận chiến ngày hôm đó. Lời nói của Phật đơn giản nhưng lại có tác động sâu sắc, làm cho hai bên đã ngừng chiến. Như vậy, thay vì thôn tính một quốc gia, biến đất nước khác trở thành thuộc địa, phục vụ cho quyền lợi kinh tế thì Thế Tôn dạy tất cả các quân tham chiến hãy nghĩ đến sự tương nhượng lẫn nhau vì lợi ích của hai phía.

Một hệ thức tương nhượng xã hội đặt ra, có biên cương bờ cõi để hai bên cùng chấp nhận, không đi vượt qua những gì cần được hai bên tôn trọng. Hiệp ước hoà bình trở thành bờ cõi chung, là nguồn thiên nhiên chung mà hai bên có thể chia sẻ. Khế ước xã hội đó là một trong những nỗ lực quan trọng để hai bên tham chiến cảm thấy mình không bị mất mát.

Sự hòa đàm có lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa. Nếu bên nào cũng cảm thấy rằng, thông qua cuộc hòa đàm và tương nhượng đó, phần  lợi lạc không mất ở phía mình thì khế ước hòa bình có thể được ký kết.

Thế Tôn không đứng về một phía nào. Dù Ngài sinh ra tại Ca- tỳ-la-vệ, nhưng những lời dạy của Ngài về hòa bình không phục  vụ riêng cho dân tộc Sakya. Mỗi khi chiến tranh diễn ra, giết chóc  bắt đầu có mặt, tàn phá gieo rắc khắp mọi nơi thì khổ đau có thể  năm mươi năm sau chưa chắc đã phục hồi được. Cho nên lòng từ  bi phải được xem như yếu tố quan trọng, và sự sống con người phải  được đặt trên nền tảng của mọi cuộc hòa đàm.

Các khế ước về hòa bình thế giới thường đặt trên quyền lợi của đôi bên. Nếu  một bên có tham vọng, giành quyền lợi về phía mình quá nhiều thì hòa đàm đó khó có thể dẫn đến sự tương nhượng để hai bên được lợi lạc.

Câu chuyện tranh giành nước còn cho thấy rằng bản chất của cuộc chiến nằm ở sự tranh chấp về quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, và nhiều phương diện khác. Nó có thể núp bóng và thay hình đổi dạng, dưới nhiều chủ nghĩa, và học thuyết. Phải thận trọng để thấy rõ được mặt mũi của các hạt giống chiến tranh đang nằm dưới hình thức giành quyền lợi dân tộc, về quyền cai trị hoặc các phương diện.

Cái gì có quyền lợi là nơi đó có chiến tranh. Cái gì có tranh chấp là nơi đó có hận thù, tổn thương tình hữu nghị và tình huynh đệ.

Chiến tranh là kẻ thù của hòa bình, cũng là kẻ thù của hạnh phúc. Trong kinh Trung Bộ, đặc biệt bài kinh thứ 13, đức Phật xác định chỉ vì quyền lợi và tranh chấp về quyền lợi, vua trở thành kẻ thù của vua, Bà-la-môn trở thành kẻ thù của Bà-la- môn, các thương gia trở thành đối thủ của thương gia, những người làm công trở thành kẻ thù của nhau.

Trong bối cảnh giai cấp của Ấn Độ thời cổ đại, nếu ứng dụng cho bối cảnh văn hóa xã hội của thế giới hiện nay, thì các cuộc chiến (dù là chiến tranh cá nhân, cộng đồng, quốc gia, hay chiến tranh liên hành tinh) cũng đều đặt trên nền tảng của tranh chấp quyền lợi mà thôi.

Cái gì đã tạo ra thái độ tranh chấp quyền lợi? Câu trả lời không đơn giản. Quyền lợi đó là sự sống, là bản ngã, là hạnh phúc vật chất, là sĩ diện, nói chung muôn hình vạn trạng. Nó gắn liền với thù hận trong quá khứ, từ dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quốc gia, những mối hiềm hận cá nhân, còn nhiều gốc  rễ sâu xa khác.

Cho đến lúc nào các gốc rễ này không được  tưới tẩm bằng hạt giống và năng lượng của lòng từ bi, thì hận thù có thể biến dạng.   Nếu không còn là chiến tranh của vũ khí hạt nhân, giết người hàng loạt, thì cũng thể hiện dưới chiến tranh ý thức  hệ, du kích, bạo động, tự sát, biểu tình, nhiều hình thái khác nhau. Lúc nào những chiến tranh vẫn còn có mặt thì hòa bình chỉ là trò đùa của nhân quyền.

Các nhà hoạt động vì hòa bình thế giới luôn thừa nhận rằng những lời Phật dạy có chiều sâu, có khả năng giúp ta nhận diện được gốc rễ và giải quyết chiến tranh một cách an toàn. Khi lòng từ bi chưa được gieo rắc thì hận thù vẫn đang còn có mặt và lúc đó chiến tranh vẫn tiếp tục được diễn ra.

TỪ BI CHUYỂN HÓA KHỔ ĐAU

Trong kinh tạng Pali, Thế Tôn đã tuyên bố rằng, Ngài chưa từng và không bao giờ tranh chấp với đời, chỉ có thế gian tranh chấp với Ngài mà thôi.

Các giáo sĩ Bà-la-môn vì sợ mất quyền lợi, bị thay thế bởi đạo  Phật, nên đã xem Phật là đối thủ nguy hại, vì Ngài dạy xóa bỏ giai  cấp, gieo rắc lòng từ bi. Giai cấp không có trong giáo lý của Ngài. Khi  học thuyết lan toả, thiết chế xã hội Ấn Độ cổ đại bị lung lay. Nhiều  người xem Phật là đối thủ, vì lời dạy của Phật đã làm cho quyền lợi  và học thuyết sai lầm, nhân danh Thượng đế, bị thách thức.  

Khi tuyên bố chân lý, Phật không có dụng ý thay thế vai  trò tâm linh của các tôn giáo Ấn Độ thời đó. Những gì có giá trị thiết thực cho đời, mang lại hạnh phúc cho nhiều người, thì Phật tuyên bố vì chân lý.

Lời tuyên bố của Phật không có bất kỳ vóc dáng của chiến tranh, tranh chấp quyền lực về tôn giáo. Để thiết lập sự truyền thông hòa bình, tất cả lòng tham, lòng  sân phải được chuyển hóa đến tận gốc rễ. Bằng không nhân danh hòa bình, ta có thể dấy khởi chiến tranh.

Có khuynh hướng cho rằng chuẩn bị chiến tranh là để duy trì hòa bình. Các quốc gia thuộc địa vì năng lực và tiềm năng về quân   sự quá kém, khi cuộc chiến xâm lăng diễn ra, họ trở thành kẻ bị đánh bại. Muốn có hòa bình bền vững, quốc gia đó phải là cường quốc về quân sự và kinh tế.

Trong gia đình, khi con em la lối lớn tiếng, là cha mẹ, chúng ta  khuyên lơn con cháu yên lặng. Lời khuyên đó chưa chắc có tác dụng.  Lấy quyền lực của một người lớn trong gia đình, ta hét một tiếng và  buộc tất cả phải im lặng. Im lặng có mặt tạm thời. Sự ồn ào vẫn còn âm  ĩ trong lòng, khi có điều kiện như vắng chủ nhà thì đâu vào đấy.

Qua đó ta thấy cưỡng lực của bạo động lớn có thể khống chế cưỡng lực của bạo động nhỏ. Sức mạnh quân sự lớn có thể tạo ra hòa bình ở một mức độ nhất định nào đó, không làm cho những đối thủ cất quân đánh ta. Hòa bình tương đối này có giá trị trấn an, chứ không phải là giải pháp lâu dài.

Khi vẫn còn đó tranh chấp và bạo lực, thế giới ta đang sống là một sự khủng bố ngấm ngầm. Khi thổi hơi vào bong bóng hận thù, chiến tranh bắt đầu bùng phát. Đó là lý do đạo Phật luôn nhắc nhở ta phải tiêu diệt hận thù từ ngay gốc rễ.

Hãy từ bỏ  và chuyển hóa cảm xúc hiềm hận có gốc rễ từ chiến tranh trong quá khứ, diễn ra giữa ta và người, giữa cộng đồng này và cộng đồng nọ và giữa các quốc gia. Thế Tôn dạy: “Nếu ai quan niệm rằng, nó giết tôi, nó đánh tôi, nó mang lại khổ đau cho tôi, thì hận thù không bao giờ nguôi được”. Dòng cảm xúc hận thù có chất sơn, keo và là nam châm dính mắc, làm ta khó buông khổ đau.

Trong lúc quan niệm rằng ta trả đũa để giảm nỗi khổ đau trong quá khứ,  là ta đang đày đọa cảm xúc khổ đau của chính mình đến tột độ. Mỗi lần hồi tưởng về nỗi khổ và niềm đau do người khác tạo ra, dòng cảm xúc này được kích hoạt; nỗi khổ niềm đau bắt đầu sống lại lần thứ hai. Khổ đau theo đó được diễn ra theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Ký ức về khổ đau trong quá khứ làm ta trở thành nạn nhân của chính mình.

Trong lúc sự trả thù chưa chắc thành công, người ấp ủ hận thù đang tự hành hạ. Trong cuộc chiến tự biến mình thành nạn nhân, ta vừa là đạo diễn, vừa viết kịch bản, kiêm diễn viên chính ngay cả vai đối lập. Đây là cách nhiều người tự giết mình trong từng phút, từng giây.

Thế Tôn dạy từ bỏ dòng cảm xúc và những hạt giống hiềm hận, bám sâu sắc trong tâm khảm và ý thức hệ của con người, được nuôi lớn bằng chủ nghĩa yêu nước. Chuyển hóa tâm hiềm hận là nhu cầu.

Dĩ nhiên, có nhiều người là nghĩa sĩ, yêu nước thật sự. Họ không thể nào không cầm súng đeo gươm ra chiến trường, khi quốc gia lâm nguy. Họ không thể nào không giết kẻ thù để giữ biên cương bờ cõi. Trong lúc làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước, các nghĩa sĩ phải trang bị bằng tâm từ bi; đừng để lòng sân hận tạo ra phản ứng trả đũa thì nghiệp chướng sẽ nhẹ nhàng hơn.

Với tâm từ bi dẫn đầu, hành động giết hại vẫn có, nhân quả của  sự giết hại vẫn phải trả. Nhưng vì lòng từ bi là hạt giống tốt, lại phát  xuất từ động cơ tốt, hành động giết kẻ thù của các nghĩa sĩ làm cho quả tốt và quả xấu trổ cùng một lúc. Các tướng yêu nước thương  dân vẫn có tuổi thọ lâu dài bởi hành động của họ phát xuất từ trái  tim yêu nước, chứ không từ thù hận nhiều đời. 

Ai là chiến sĩ khi phải bóp cò và làm cho kẻ thù nằm xuống hãy  mong rằng kẻ thù sớm phóng thích những nỗi khổ niềm đau và  hận thù. Ta làm là vì trách nhiệm của một chiến sĩ yêu nước chứ  không phải vì hận thù. Đừng nối kết hận thù. Khi đối phương nằm xuống, ta nên cầu nguyện cho họ sớm được siêu sinh thoát hóa.  Được vậy, hận thù trong cuộc chiến chỉ còn một chiều. Hãy làm  hết năng lực của mình, phải hiểu được rằng bất cứ một hành động  giết chóc nào đều có nhân quả báo ứng của nó. 

Ôn lại một vài lời dạy của Phật, để nhắc nhở nhau về cách tháo gỡ mọi tranh chấp, bất hạnh, xung đột, nhằm chuyển hoá các mâu thuẫn và khổ đau giữa những người thân, cộng đồng, dân tộc trên thế giới. Làm được như thế thì hòa bình sẽ nở trong tâm mọi người và ở mọi nơi, nhờ đó, hạt giống của thù hận và giết chóc được chuyển hóa đến tận gốc rễ.

Hết