Để trở thành Phật tử chân chính

Mục lục

TẬP 1

LỜI ĐẦU SÁCH

Đôi lời bộc bạch chân thành, chúng tôi viết quyển sách này cho những ai muốn trở thành người Phật tử chân chính. Bước đầu học Phật rất quan trọng, nếu đi sai lệch sẽ làm trở ngại trên bước đường tu học. Người mới bắt đầu học Phật không hiểu đúng tinh thần Phật giáo sẽ khó được thành tựu viên mãn. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng cho họ nền móng vững chắc để thực hiện đúng lời Phật dạy, biết cách phân biệt chánh tà, đúng sai, tốt xấu.

Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày mới mong trở thành người Phật tử chân chính. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh vật chất dưới sự tiếp cận của khoa học hiện đại, do đó cần phải truyền bá Phật giáo thích hợp với căn cơ, trình độ của mọi người mà vẫn giữ được bản chất giác ngộ, giải thoát.

Mục đích của đạo Phật là tìm ra lẽ thật của thân tâm và hoàn cảnh. Chúng ta phải nói ra những gì chân thật để mọi người hiểu đúng Phật giáo mà không còn nghi ngờ điều gì. Phá bỏ những tập tục mê tín của các truyền thuyết khác xen vào làm mờ tối đạo Phật là việc cần thiết tối quan trọng nhằm giúp mọi người tin sâu nhân quả theo nguyên lý duyên sinh, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.

Ai làm người cũng muốn mình là người tốt để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội; tiến xa hơn nữa là thành tựu công đức viên mãn bằng cách giữ ý nghĩ trong sạch, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành mà cùng nhau chia vui sớt khổ bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Một con người muốn quy hướng về Phật giáo trước hết phải tìm hiểu ý nghĩa và mục đích của đạo Phật. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu rõ những lời Phật dạy về đạo làm người, sống như thế nào cho đúng trong đối nhân xử thế mà không làm tổn hại người khác.

Chúng ta muốn làm việc gì phải hiểu rõ mục đích của việc ấy. Mục đích của đạo Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tức là phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi. Khi chúng ta đã thật hiểu rồi mới phát lòng tin sâu đối với Phật pháp và quyết tâm thực hành tránh dữ làm lành để đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình, gia đình, người thân và phục vụ tốt cho xã hội.

Phật pháp trước tiên dạy chúng ta không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, giữ ba nghiệp thân-miệng-ý được trong sạch. Như thế nào là ác? Là những ý nghĩ, lời nói và hành động làm tổn hại người khác trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là thiện? Là những ý nghĩ, lời nói và việc làm có lợi ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là ý nghĩ trong sạch? Là ý nghĩ hợp với lẽ phải, không tham lam ích kỷ, không sân giận si mê, không ganh ghét tật đố, không gây hậu quả khổ đau cho mình và người khác. Ý nghĩ trong sạch được biểu hiện qua lời nói thì lời nói hiền hòa, khi biểu hiện ra nơi hành động thì hành động chân chính làm cho mình và mọi người đều an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta muốn thực hiện ba nguyên tắc trên cho được trọn vẹn thì trong hiện tại phải bắt đầu từ đâu? Trước tiên, chúng ta sẽ phát khởi lòng tin chân chính đối với Tam Bảo. Như thế nào là lòng tin chân chính? Là tin những lời Phật dạy có lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người, như chúng ta tin gieo nhân tốt sẽ hưởng quả tốt, gieo nhân xấu sẽ lãnh quả xấu.

Nhân quả tốt xấu sẽ theo ta như bóng với hình dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi đủ duyên quả báo đến tức thì. Ngược lại, chúng ta không tin những điều mơ hồ, viễn vông có tính cách suy đoán, mơ tưởng không phù hợp đạo lý nhân quả. Như chúng ta không tin có một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa là đúng lời Phật dạy, vì nhân quả ai làm nấy chịu, không ai có thể thay thế cho ai được.

Khi một người biết đi chùa, thờ Phật, lễ Phật, tụng kinh, sám hối, làm phước, cúng dường, nghe Tăng Ni thuyết pháp hoặc tham dự các khóa lễ, khóa tu có nghĩa là người đó đã xác nhận mình là Phật tử. Nhưng để trở thành người Phật tử chân chính chúng ta cần phải biết rõ mục đích cốt lõi của đạo Phật là gì.

Đạo Phật không bắt buộc người Phật tử phải thực hành những điều họ chưa thể làm được, nhưng chúng ta phải cố gắng áp dụng những điều căn bản bằng cách tránh dữ làm lành để không làm tổn hại cho mình và người khác.

Có những người đi chùa nguyện cho tai qua nạn khỏi, cầu cho gia đình khỏe mạnh bình yên, cuộc sống ngày càng thêm tốt đẹp. Nguyện cầu như thế không có gì là sai nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Lại có nhiều người nữ nghĩ mình tội chướng ràng buộc, trong một kiếp này dễ gì giác ngộ giải thoát sinh tử nên đi chùa cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, xuất gia tu hành làm bậc đạo cao đức trọng. Họ không hiểu rằng muốn thân nữ chuyển thành thân nam thì phải từ bỏ nghiệp luyến ái chấp thân.

Có những người do hoàn cảnh đời sống gặp nhiều phiền muộn, khổ đau bởi chướng duyên nghịch cảnh nên đến chùa cầu mong hiện tại và mai sau không còn gặp cảnh bất như ý nữa. Cầu như vậy cố nhiên vẫn tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Có những người cảm thấy cuộc sống trần gian không có gì bền chắc, lâu dài, dù giàu có hay quyền cao chức trọng vẫn phải lo lắng và khổ cả thân tâm. Họ mong mỏi, hy vọng đến chùa để kiếp sau được sanh lên các cõi trời hưởng thú vui vật chất lâu dài. Cầu như thế cũng là điều tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Khi chúng ta đã tự vạch cho mình một lối đi đúng đắn thì ta cần phải tập làm quen dần với con đường mình đã vạch ra. Bất cứ người nào lần đầu tiên đến chùa cũng cảm thấy xa lạ và bỡ ngỡ. Từ cách xưng hô đến những hình thức, lễ nghi trong chùa đều làm chúng ta ngỡ ngàng, áy náy.

Có người từ nhỏ tới lớn chưa một lần bước chân đến chùa, nay bỗng dưng tới chùa quy hướng về Tam bảo rồi làm lễ quy y tự mình xác định làm đệ tử Phật. Người có chút hiểu biết khi muốn làm việc gì họ đều tìm hiểu và tham khảo trước rồi sau đó mới quyết định.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo của con người, là đạo của tình thương, vì con người mà đạo Phật đem lại niềm an vui, hạnh phúc cho những ai có đầy đủ nhân duyên. Muốn có được niềm an vui, hạnh phúc thật sự người Phật tử cần phải có chí hướng thượng và cầu tiến bộ trong sự quyết tâm cao độ.

“Để trở thành Phật tử chân chính” là quyển sách được chia ra làm nhiều tập với đầy đủ nội dung về đạo làm người, tuy xúc tích và ngắn ngọn, đơn giản và thiết thực nhưng có thể giúp cho tha nhân phân biệt được chánh tà, phải quấy, tốt xấu, đúng sai để từng bước hoàn thiện chính mình mà sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Kính ghi

Thích Đạt Ma Phổ Giác

BÀI 1- ĐẠO PHẬT

Thế giới loài người đang chìm đắm trong biển khổ sông mê nên bị luân hồi sinh tử trong 3 cõi 6 đường không có ngày thôi dứt, đạo Phật ra đời là để giúp cho mọi người thoát khổ được vui mà sống trong bình yên, hạnh phúc. Đạo Phật đến với chúng sinh bằng tình người trong cuộc sống, luôn giúp chúng ta vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Đạo Phật sẽ không giúp được người khác nếu họ không tin sâu nhân quả và không tin mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.

Đạo Phật đã có mặt trên thế gian này hơn 2600 năm mà còn vô số người nhìn nó với những cặp mắt đầy hoài nghi, song ai đã nếm trải được hương vị của Chánh pháp mới thấy công đức không thể nghĩ bàn của đạo Phật đối với mọi người là cần thiết, là đáng trân trọng và quý báu vô cùng.

Nếu nói về hành động, đạo Phật là con đường đưa chúng ta từng bước trở về quê hương của bình yên, hạnh phúc, hay đạo Phật là phương pháp giúp mọi người tiến tu cho đến khi nào giác ngộ giải thoát và thành Phật mới thôi. Đứng về thực chất của bản tâm thanh tịnh, đạo Phật là tính giác sẵn có của tất cả chúng sinh, đạo Phật là tấm bản đồ giúp cho mọi người định hướng được con đường trở về quê hương giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Tất cả những vọng tưởng điên đảo là hiện tướng của tham lam, sân giận và si mê, khi vọng tưởng lặng lẽ thì tính giác hiện tiền mà vẫn thường biết rõ ràng. Tính giác hay còn gọi là tâm Phật là cái thể chẳng sanh chẳng diệt của mỗi người chúng ta, nó ẩn náu ngay nơi thân vô thường sinh-già-bệnh-chết này. Bởi tất cả chúng sinh có sẵn tính giác sáng suốt vì đánh mất chính mình mà lãng quên nên đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời chỉ dạy cho chúng ta thức tỉnh trở lại để nhận ra hòn ngọc vô giá.

Mục đích của đạo Phật là sự giác ngộ viên mãn nên được ví như hạt châu Mani, ngọn đuốc, cây đèn. Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ, giải thoát nên mọi hình thức mê tín dị đoan hiện có trong đạo Phật là do bên ngoài xen vào, không phải của Phật giáo chân chính.

Chúng ta ứng dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày sẽ được kết quả tốt đẹp tùy theo sự lựa chọn của mình. Trong giáo lý của đạo Phật có chia nhiều thứ bậc để mọi người tùy theo tâm tư, nguyện vọng mà áp dụng hành trì gồm Năm thừa Phật giáo, Tam thừa Phật giáo và Nhất thừa Phật giáo. Chữ “thừa” ở đây được ví dụ như chiếc xe chở người đi.

Chúng ta sau này muốn được tái sinh trở lại làm người thì phải quy y Tam bảo và thực hành 5 Giới. Từ vị trí con người chúng ta muốn được tái sinh về các cõi trời thì phải tu 10 Điều Lành và các bậc Thiền Định. Từ vị trí con người chúng ta muốn được quả vị của Thanh Văn thì phải ứng dụng pháp Tứ Đế để tu hành. Từ vị trí con người chúng ta muốn được quả vị Duyên Giác hay còn gọi là Bích-chi Phật thì phải tu pháp Mười Hai Nhân Duyên. Từ vị trí con người đến quả vị Bồ-tát chúng ta phải tu pháp Lục Độ Vạn Hạnh. Từ vị trí con người muốn tiến thẳng đến quả vị Phật thì chúng ta phải áp dụng phương pháp "tức tâm là Phật", tin tâm mình là Phật để tu hành.

Đạo Phật ra đời là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo sở thích của mọi người mà lập ra nhiều pháp môn để chúng ta ưu tiên chọn lựa. Đó là phương tiện thiện xảo của đức Phật trên đường hoằng hóa độ sinh. Mục đích cuối cùng của đạo Phật là muốn mọi người đều được thành Phật viên mãn. Ở đây chúng tôi chỉ nói thẳng vào các phương pháp tu hành và những lời dạy của đức Phật được gọi là Kinh bởi hợp lý, hợp cơ và hợp thời.

Lời Phật dạy đúng chân lý nên gọi là hợp lý, song những lời dạy ấy cũng phải hợp với căn cơ, trình độ của người hiện tại thì họ mới ứng dụng và thực hành được. Hợp lý, hợp cơ là hai điều kiện cần thiết mà người hướng dẫn cần phải thông suốt chỗ này.

Nếu chúng ta chỉ hướng dẫn theo sự ham thích của mọi người thì sẽ đánh mất nền tảng nhân quả, vô tình chúng ta làm cho mọi người càng thêm mê tín và làm trở ngại trên đường tu. Người truyền bá đạo Phật phải có sự trải nghiệm trong lúc tu học, nhờ vậy thân tâm được thanh tịnh, sáng suốt thì mới có thể hướng dẫn mọi người thực hành đúng lời Phật dạy.

Bất cứ trong thời đại nào chúng ta cũng có thể vận dụng Phật pháp để giúp mọi người thoát khỏi biển khổ sông mê, đó là hợp thời. Lời Phật dạy là ngọn đuốc sáng đưa con người ra khỏi si mê, tối tăm, mờ mịt. Người Phật tử có sẵn trong tay ngọn đuốc sáng chắc chắn sẽ thoát khỏi rừng u mê, tối tăm.

Chúng ta phải làm sao cho ngọn đèn Chánh pháp được nối tiếp mãi trên cõi đời này. Ơn Phật tổ là ơn khó đền, muốn đền ơn chúng ta phải dấn thân vào đời để cứu độ chúng sinh. Sự cứu độ thiết thực nhất là cùng nhau chia vui sớt khổ với những người đang có mặt trong hiện tại để họ vươn lên vượt qua số phận tối tăm mà làm mới lại chính mình. Phật giáo chân chính rất thực tế sẽ cùng đồng hành với tất cả mọi người trong vạn nẻo đường bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

BÀI 2- TẠI SAO TA PHẢI TIN TAM BẢO?

Tam bảo là ba ngôi báu: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Phật là tiếng gọi tắt của chữ Phật-đà trong tiếng Phạn ý chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư vị đại Bồ-tát đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Phật là người đã hoàn thiện chính mình, không còn bị trói buộc bởi tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc đẹp và ngủ kỹ mà đa số người thế gian khó bề vượt qua nổi.

Pháp là những lời dạy chân chính, thiết thực của đức Phật giúp cho chúng ta tu tập, hành trì vượt qua nỗi khổ, niềm đau để được an vui, hạnh phúc. Pháp bảo là những lời Phật dạy trong suốt 49 năm hoằng pháp lợi sanh nhằm chỉ cho mọi người tin sâu nhân quả mà dứt ác làm lành, tu hạnh giác ngộ giải thoát và giúp đỡ mọi người không biết mệt mỏi, nhàm chán với tấm lòng vô ngã vị tha.

Tăng là những người tu hành theo đạo Phật có nhiệm vụ truyền bá những lời Phật dạy, gìn giữ chùa chiền, kinh tạng, tạo điều kiện cho mọi người thân cận Tam Bảo, học tập, hành trì những lời Phật dạy để có được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Tăng bảo là những người kế thừa và tiếp tục sự nghiệp của đức Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn lại cho tất cả mọi người.

Thế nào là Phật bảo?

Phật bảo là chỉ cho người đã tu hành tới mức từ bi, trí tuệ viên mãn. Bất cứ chúng sinh nào cũng đều có khả năng thành Phật, song trong lịch sử thế giới hiện nay bậc được thành Phật vẫn chỉ có một mình đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Từ một kẻ phàm phu như chúng ta mà tu hành thành Phật thì thật là chuyện hiếm thấy trên thế gian này, bởi ít có khó gặp nên mới nói là báu.

Thế nào là Pháp bảo?

Lời dạy chân chính do đức Phật truyền đạt rất đơn giản, thực tế giúp cho mọi người chuyển mê thành ngộ, chuyển xấu thành tốt, chuyển đời phàm phu trở thành thánh nhân và giác ngộ giải thoát. Pháp của Phật dạy đơn giản, thiết thực, chân lý, dù trải qua bao thời đại những lời dạy ấy vẫn rất quý báu vì giúp mọi người thoát khỏi khổ đau sinh tử.

Những kẻ đang lầm đường lạc lối gặp được ngọn đuốc soi đường, người học đạo gặp được Chánh pháp cũng lại như thế. Nhân loại đang bị chìm đắm trong biển khổ sông mê do không tin nhân quả, nay gặp được những lời dạy chân chính của đức Phật giúp cho chúng ta soi sáng lại chính mình mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Thế nào là Tăng bảo?

Tăng là chỉ cho một nhóm tu sĩ học theo Phật sống chung với nhau theo tinh thần Lục hòa, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người. Người thế gian thường sống trong tranh đua, giành giật, hơn thua nên không bao giờ họ sống vui vẻ, hòa hợp, thuận thảo với nhau được.

Lục hòa là: thân hòa cùng chung ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui vẻ, giới luật hòa cùng giữ, hiểu biết cùng chia sẻ, lợi hòa cùng chia đồng. Sáu điều này là tinh thần sống hòa hợp của chư Tăng. Chính vì thế, tu sĩ sống theo tinh thần Lục hòa thật là một điều quí báu trên thế gian này, bởi lẽ ấy nên gọi những người tu hành chân chính là Tăng bảo.

Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu?

Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?

Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

_ Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.

_ Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.

_ Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

_ Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.

_ Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

_ Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.

BÀI 3- QUY Y TAM BẢO ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH MÌNH

“Quy” nghĩa là quay về, “y” nghĩa là nương tựa. Chúng ta trở về nương tựa Phật-Pháp-Tăng gọi là quy y Tam bảo.

Từ lâu, chúng ta chìm đắm trong biển khổ sông mê, mãi chạy theo tiền bạc của cải, quyền cao chức trọng, sắp đẹp, ăn sung mặc sướng, ngủ nghỉ thoải mái mà tạo nghiệp đau khổ làm tổn hại đến người và vật. Nay chúng ta hồi tâm thức tỉnh, quyết định trở về nương tựa Tam Bảo để làm mới lại chính mình.

Chính vì vậy, trước khi muốn quy y Tam bảo để trở thành người Phật tử chính thức chúng ta cần phải tìm hiểu mục đích mình muốn theo đuổi và tôn thờ. Có tìm hiểu kỹ chúng ta mới có niềm tin vững chắc và lâu dài, việc làm của ta mới có ý nghĩa và sự chọn lựa của mình mới thật sự là của người có hiểu biết chân chính.

Nhờ nương tựa Tam bảo nên chúng ta lần hồi chuyển hóa được những nghiệp xấu ác có tính cách làm mình và người khổ đau mà hay giúp đỡ, sẻ chia, đem lại an vui, hạnh phúc cho mọi người. Đây chính là sự hồi tâm tỉnh giác, phát nguyện nương tựa Tam bảo để làm mới lại chính mình mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Chúng ta nguyện noi theo con đường đức Phật đã đi là quy y Phật, quyết tâm thực hành những lời chỉ dạy của Phật còn ghi lại trong kinh điển là quy y Pháp, tin tưởng và nghe theo sự hướng dẫn tu hành của chúng Tăng là quy y Tăng. Sau khi làm lễ quy y xong, chúng ta sẽ lấy Tam bảo làm hành trang trong cuộc sống để tiến tu cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.

Đối với Phật pháp, người Phật tử đã có niềm tin chân chính có nghĩa là không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tăng là đoàn thể sống an vui, hòa hợp đúng với tinh thần cùng chia vui sớt khổ không còn vì lợi ích cho riêng mình. Vị thầy nào đứng ra làm lễ quy y cho quý Phật tử thì chính vị ấy đại diện cho đoàn thể Tăng, đại diện cho Phật.

Chúng ta quy y Tăng là quy y với những vị thầy sống đúng theo tinh thần lục hòa, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Chúng ta tin chư Tăng nhưng không nên quá thần tượng. Phật tử có quyền học hỏi tất cả Tăng chúng, không nên hạn hẹp nơi vị thầy của mình, được vậy mới đúng tinh thần quy y Tam bảo hình thức bên ngoài.

Ngoài việc nương tựa Tam Bảo bên ngoài để học hỏi và tu sửa, chúng ta phải biết quay lại chính mình mà nương tựa Tam bảo tự tâm. Nếu chúng ta chỉ nương tựa suông Tam bảo bên ngoài để cầu khẩn, van xin mà không phát triển Tam bảo tự tâm thì chỉ uổng công vô ích giống như người nấu cát mà muốn thành cơm.

Như thế nào là Tam bảo tự tâm? Tánh giác sáng suốt sẵn có nơi chúng ta là Phật bảo, lòng từ bi thương xót hằng cứu giúp chúng sinh là Pháp bảo, tâm hòa hợp sống vui vẻ, thuận thảo với mọi người là Tăng bảo.

Nhờ Phật bảo bên ngoài chúng ta quay trở lại chính mình để nương tựa tánh giác thanh tịnh, sáng suốt là quy y Phật. Nhờ học Pháp bảo bên ngoài chúng ta mở lòng rộng lớn đối với chúng sinh để nương tựa lòng từ bi của chính mình là quy y Pháp. Do nương tựa, thân cận học hỏi chư Tăng bên ngoài chúng ta mới biết cách gạn lọc phiền não tham-sân-si mà quay trở lại điều phục tâm mình là quy y Tăng.

Phật-Pháp-Tăng bên ngoài là trợ duyên giúp chúng ta phát khởi Phật-Pháp-Tăng của tự tâm. Cũng lại như thế, có Tam bảo bên ngoài người Phật tử cố gắng quay lại Tam bảo tự tâm để chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ, từ bi mà sống an vui, hạnh phúc với tinh thần vô ngã vị tha.

Tam Bảo bên ngoài là điều kiện cần thiết đối với người Phật tử, nhưng để được giác ngộ giải thoát và thành Phật thì chúng ta phải quay lại Tam bảo tự tâm, tin chính mình là Phật để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau và sống lại với tính giác sáng suốt của mình.

Nếu chúng ta chỉ biết có Tam bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý, chỉ theo hình thức suông. Một bề tin vào Tam bảo của tự tâm mà không cần biết đến Tam bảo bên ngoài là chấp lý bỏ sự, vô tình rơi vào bệnh cống cao ngã mạn. Người Phật tử chân chính phải khéo léo vận dụng sự lý hài hòa mới có thể tiến tu mà thành tựu được kết quả tốt đẹp.

Nếu chúng ta tin hiểu Phật pháp mà không quy y Tam bảo thì như vậy có thiệt thòi gì không? Dĩ nhiên chúng ta sẽ thiệt thòi rất nhiều, trước tiên là không được dịp thân cận chư Tăng để được học hỏi và tu hành theo lời Phật dạy, sau hết là không kết duyên với Tam bảo nên chúng ta dễ lầm đường lạc lối, không biết đâu là chánh tà, đúng sai, phải quấy, tốt xấu…

Người đã quy y Tam bảo và người không quy y khi phạm tội sẽ bị tội bằng nhau. Nhiều người không hiểu sợ quy y rồi thì tội sẽ nặng hơn, hiểu như vậy còn quá thiển cận. Người không quy y khi phạm tội vì không có chỗ nương tựa nên quan niệm chết là hết, do đó họ có thể tiếp tục gây tạo tội lỗi mà không biết hồi đầu, ăn năn sám hối.

Người đã quy y sẽ ý thức rằng mình là đệ tử Phật thì phải là người tốt, vì tập khí thói quen nhiều đời nên họ mới phạm tội như vậy. Nghĩ như thế nên họ biết hổ thẹn, ăn năn sám hối hứa chừa bỏ và cố gắng không tái phạm nữa, nhờ vậy mà tội lỗi lần hồi được tiêu trừ.

Chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố, tranh giành, giết hại lẫn nhau. Nếu chúng ta không quy y Tam bảo, không bắt chước công hạnh độ sinh từ-bi-hỷ-xả của Phật thì sự tham lam, sân hận mỗi ngày lại tăng thêm. Sân hận lâu ngày thì sẽ mắng chửi rồi đánh đập và giết hại. Đó là nguyên nhân dẫn đến tù tội và sau này bị đọa địa ngục chịu khổ đau vô số kiếp.

Không quy y Pháp tức là không tìm hiểu lời dạy chân chính của đức phật để biết phân biệt chánh tà, đúng sai nên dấy khởi tâm tham muốn quá đáng làm cho ta trở thành kẻ ích kỷ, bỏn sẻn mà bị đọa vào chỗ thiếu thốn, đói khát là loài ngạ quỷ (quỷ đói).

Không quy y Tăng có nghĩa là chúng ta không biết nương tựa vào gương sáng của những người tu hành chân chính mà biết tin sâu nhân quả để tránh ác làm lành nên tâm si mê ngày càng thêm lớn, nhân ngu si sau này sẽ khiến ta bị đọa vào loài súc sinh để trả quả.

Vậy người muốn quy y Tam bảo phải làm sao? Trước nhất là tìm một vị tu hành có giới hạnh trang nghiêm, học thức uyên bác thay mặt chúng Tăng bạch Phật làm lễ truyền thọ ba pháp quy y trước điện Phật. Trong lúc nghe ba pháp quy y thì mình nhất tâm hướng về Tam Bảo và thiết tha phát nguyện giữ ba pháp ấy trọn đời dù gặp hoàn cảnh nào cũng không thay đổi, như thế lễ quy y mới được thành tựu viên mãn.

Khi chúng ta đã tin Phật mà chưa quy y thì có được gọi là Phật tử không? Chỉ bắt đầu từ giờ phút nhất tâm thọ trì ba pháp quy y trước điện Phật do các vị tu hành thanh tịnh truyền thọ giới pháp thì ta mới chính thức là một Phật tử, hay nói đúng hơn là một người cư sĩ tại gia.

BÀI 4- XÁC ĐỊNH LẬP TRƯỜNG KHI QUY Y

Trọng tâm chủ yếu trong buổi lễ Quy y cho người cư sĩ tại gia là quý Phật tử sẽ quỳ trước Tam Bảo phát nguyện ba lần: "Đệ tử tên là... xin suốt đời qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng".

Ba lần phát nguyện như vậy là chúng ta đã bắt đầu gieo hạt giống từ bi, trí tuệ vào sâu trong tàng thức khiến ta luôn ghi nhớ mãi đời đời không quên. Đây là tinh thần tự nguyện, tự giác của một người khi mới bước chân vào đạo sau khi đã nhận thức rằng một người Phật tử sẽ có cơ hội sống tốt hơn để ngày càng hoàn thiện chính mình.

Hình thức nghi lễ chỉ giúp cho ta có đủ niềm tin đối với Tam bảo trong giờ phút phát nguyện ấy thôi, còn thực hành được hay không là do ta phải cố gắng, quyết tâm, kiên trì bền bỉ làm chủ bản thân từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động không làm tổn hại mình và người khác.

Câu phát nguyện này phát xuất tự đáy lòng quý Phật tử, không do sự ép buộc, xúi giục nào từ bên ngoài. Đạo Phật không bắt buộc chúng ta thề thốt nặng nề để không bỏ đạo mà kêu gọi người Phật tử phải tự ý thức trách nhiệm của mình khi muốn làm một việc gì.

Trong đạo Phật hoàn toàn không có sự dụ dỗ, ép buộc để theo đạo mà chỉ khuyên nhủ mọi người trước khi tin một điều gì phải tìm hiểu cho kỹ. Khi chúng ta đã tự nhận thức rõ ràng về đạo Phật thì sẽ phát triển lòng tin với đạo không còn nghi ngờ điều gì vì đã tin sâu nhân quả, biết làm lành tránh dữ, tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Khi muốn làm một việc gì chúng ta trước tiên phải hiểu rõ rồi mới theo là hành động đúng đắn của người Phật tử chân chính. Sử dụng những chiêu thuật huyền bí hay phép lạ, hoặc dùng tiền bạc để dụ dỗ người vào đạo là sự lường gạt. Chư Tăng và Phật tử có bổn phận giải thích để người khác hiểu mà tự giác phát tâm quy y chớ không nên dùng phù phép tà ma ủy mị. Nghi thức trang nghiêm, trịnh trọng trong buổi lễ quy y chỉ là trợ duyên cho lời phát nguyện của chúng ta được thành tựu viên mãn.

Sau khi quy y Tam bảo rồi chúng ta xác định lập trường của mình một lần nữa bằng cách lặp lại câu:

"Quy y Phật, không quy y thiên, thần, quỉ, vật".

Chúng ta sau khi đã tìm hiểu và nhận định kỹ càng, quyết chí tu hành theo Phật vì Phật là bậc đã hoàn toàn giác ngộ, không còn bị phiền não tham-sân-si chi phối nữa. Các thiên, thần, quỉ, vật vẫn còn chịu luân hồi sinh tử khổ đau trong 3 cõi 6 đường, chính vì vậy khi quy y Phật rồi chúng ta không quy y theo thiên, thần, quỉ, vật. Tuy nhiên, vẫn có một số Phật tử đã qui y Phật rồi mà vẫn chạy theo sùng bái quỉ thần do họ chưa đủ niềm tin về Phật pháp bởi lòng tham muốn quá đáng sai sử hoặc thích sự mầu nhiệm, linh thiêng, huyền bí.

"Quy y Pháp, không quy y ngoại đạo tà giáo".

Lời Phật dạy là chân lý do sự tu chứng mà thấy chứ không phải do suy đoán vu vơ, huyền hoặc luôn cứu giúp chúng sinh chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ như ông thầy thuốc giỏi chữa lành cho bệnh nhân. Vì hiểu được lẽ chân thực do gieo nhân tốt mà gặt quả tốt nên chúng ta không quy y ngoại đạo tà giáo.

Lời dạy của Phật thiết thực và chân lý dựa trên nền tảng nhân quả theo nguyên lý duyên khởi “cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt”. Do đó, chúng ta sẽ không còn mê tín dị đoan mà tin theo ngoại đạo tà giáo như tin có ông trời ban phước giáng họa, hoặc nghe ai nói tu theo tôi từ 3 tháng đến 6 tháng là thành Phật thì ta biết những người này là tà đạo, không phải Phật pháp chân chính.

"Quy y Tăng, không quy y thầy tà bạn dữ nhóm ác".

Chúng ta đã chọn đoàn thể Tăng sống an vui, hạnh phúc theo tinh thần lục hòa. Nhờ vậy, chúng ta thường xuyên thân cận bậc có giới đức để được học hỏi và tu hành mà còn có cơ hội đóng góp những lợi ích thiết thực khác.

Thầy tà bạn dữ nhóm ác là những người có thể làm ảnh hưởng xấu đến sự tu học của chúng ta. Chính vì vậy, ta cần phải tránh xa vì "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Người Phật tử chân chính phải can đảm giữ vững lập trường về con đường mình đã chọn, cho dù có bị mọi người khinh rẽ, coi thường ta vẫn giữ trọn vẹn niềm tin vì khi muốn làm việc gì ta đã nghiệm xét rõ ràng, đâu phải kẻ si mê mù quáng không biết tốt xấu, đúng sai.

Quy y Tam bảo là nấc thang đầu tiên giúp ta từng bước tiến trên con đường giác ngộ, trở về quê hương cực lạc. Chính vì thế, Quy y Tam bảo có tầm quan trọng vô cùng giúp chúng ta ý thức rằng mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, do đó mà ta không ỷ lại nương tựa suông mà càng cố gắng nhiều hơn nữa.

Ai muốn đến với đạo Phật để được giác ngộ phải từ cửa quy y mà vào, nếu không như thế thì việc học Phật sẽ mất căn bản. Bởi nó đóng vai trò quan trọng như vậy nên người Phật tử phải thận trọng trong việc phát nguyện quy y với sự tự nguyện tha thiết của mình.

Nghe nói có vô lượng chư Phật trong 10 phương thế giới, vậy chúng ta nên thờ đức Phật nào là đúng nhất? Dĩ nhiên chúng ta phải thờ đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì ngài là người khai sáng ra đạo Phật, các vị Phật khác là do đức phật Thích-ca nói lại trong các bản kinh, tùy theo quan niệm của mọi người mà việc thờ Phật được trang nghiêm hơn.

Để việc thờ được trang nghiêm ta nên thờ Tam thế Phật, Phật Thích-ca ở giữa hai vị Phật khác, hoặc thờ Phật Thích-ca ở giữa hai vị Bồ tát. Nếu chúng ta không thờ Phật Thích-ca mà thờ các vị Phật khác là có lỗi, chúng ta phải tôn trọng đức Phật lịch sử vì nếu không có ngài làm sao chúng ta biết được đạo Phật. Đây là cách thờ Phật đúng nguồn gốc lịch sử và chúng ta là người biết cung kính, tôn trọng người sáng lập ra đạo Phật.

BÀI 5- GIỮ NĂM GIỚI LÀ NGUỒN AN VUI, HẠNH PHÚC

Thế giới loài người chúng ta từ ngàn xưa cho đến nay thường xảy ra chiến tranh binh đao, ganh ghét thù hận. Con người giết hại lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư của chính mình, gia đình mình, đất nước mình bởi do lòng tham muốn quá đáng, do sự chấp ngã là ta, là tôi, là mình…

Đức Phật đã thấy rõ thế giới này phải tương tàn tương sát lẫn nhau để bảo tồn mạng sống theo nguyên lý duyên sinh lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, ăn nuốt lẫn nhau không có ngày thôi dứt.

Một gia đình nếu có thương yêu và hiểu biết thì cha mẹ luôn khuyên răn và dạy dỗ con em không nên làm các việc xấu ác mà hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp.

Giới như ngọn đèn sáng hay phá tan tối tăm, mờ mịt. Giới như sức mạnh hay dựng đứng những gì đã ngã. Giới như ánh sáng trí tuệ hay chuyển hóa các phiền muộn, khổ đau.

Giới là phương thuốc nhiệm mầu,

Chữa lành các bệnh khổ đau ở đời.

1-Giới thứ nhất: Tôn trọng và bảo vệ sự sống

5 Giới là con đường sáng hay dập tắt tối tăm, si mê, mờ mịt, là thành trì vững chắc để chúng ta thăng tiến trên con đường giác ngộ và thành Phật. 5 Giới là nền tảng căn bản của thế giới loài người do Phật chế ra vì lòng từ bi thương xót chúng sinh giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời để được sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Nếu chúng ta là người sống có văn hóa, có đạo đức, có nhân cách, có hiểu biết, có kết nối, có yêu thương, có đức tính từ bi thì ta phải biết tôn trọng, bảo vệ sự sống chung của muôn loài. Người Phật tử chân chính phải phát nguyện không giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên, không khai thác phá hủy bừa bãi làm ảnh hưởng chung cho thế giới loài người.

Chúng ta không trực tiếp giết hại hay phá hủy môi trường, không xúi bảo người giết hại, không vui vẻ hay tán đồng khi thấy người giết hại dù chỉ là trong tâm tưởng. Cuộc sống này vô cùng quý giá, ai cũng tham sống sợ chết, cớ sao ta lại đành lòng nhẫn tâm giết hại kẻ khác. Giết hại là nhân gây thù chuốc oán làm khổ đau cho nhau không có ngày cùng.

Giới thứ nhất giúp ta thấy được những khổ đau do sự giết hại gây ra nên người Phật tử chân chính quyết tâm tôn trọng, bảo vệ sự sống cho tất cả muôn loài. Chúng ta không giết người, không trực tiếp giết hay xúi bảo người khác giết, hoặc vui vẻ khi thấy người khác giết.

Người Phật tử chân chính biết hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật cho đến khi nào không còn tâm niệm giết hại nữa. Muốn được như vậy chúng ta phải tự biết xấu hổ khi cố ý hoặc vô tình làm tổn hại các loài vật khác, phải cảm thấy thẹn thùng mắc cỡ vì mình không làm được như thế khi thấy người khác biết tôn trọng và bảo vệ sự sống.

Sự sống vô cùng quý giá, từ con người cho đến muôn vật ai cũng tham sống sợ chết, niềm vui căn bản của tất cả chúng sinh là được sống an vui, bình yên, hạnh phúc, mạng sống không bị đe dọa.

Khi thấy con người bị bất hạnh khổ đau đang sống trong phập phòng lo sợ, chúng ta tìm cách chia sẻ nhằm xoa dịu bớt nỗi khổ niềm đau giúp người qua cơn hoạn nạn. Chúng ta biết hiến tặng niềm vui cho kẻ khác để mọi người đều được sống an vui và hạnh phúc, biết san sẻ nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt sự lo lắng và sợ hãi cho mọi người. Nếu chúng ta làm được như vậy thì ta đã thực hiện được 4 tâm niệm lớn của một vị Bồ tát, mà Bồ tát là người giác ngộ từng phần cho đến khi nào viên mãn bằng Phật mới thôi.

Giết hại tức hủy diệt mạng sống của một chúng sinh, quả báo đền trả tương xứng trong hiện tại và mai sau là bệnh hoạn, chết yểu và bị giết hại trở lại bởi oán giận, thù hằn. Người Phật chân chính cần phải suy xét cho thấu đáo giới này vì nó là nhân của người không có lòng từ bi thương yêu bình đẳng muôn loài vật.

2-Giới thứ hai: Không được gian tham trộm cướp

Ý thức được những khổ đau do gian tham trộm cướp, lường gạt lấy của người dưới nhiều hình thức, người Phật tử chân chính nguyện mở rộng tấm lòng thương xót, không xâm hại tài sản vật chất của người khác để đem lại niềm vui sống đến với tất cả mọi người. Chúng ta phải ý thức dù là một cây kim cọng chỉ nếu không phải của mình hay người khác không cho thì không được tự ý lấy làm của riêng.

Trộm có nghĩa là canh me, rình rập lén lấy không để cho người khác thấy. Cướp có nghĩa là công khai, ngang nhiên cưỡng đoạt lấy trước mặt mọi người. Cân non bán thiếu, trốn thuế, lường gạt đều gọi là trộm. Lợi dụng quyền cao chức trọng tham ô, hối lộ, ăn chặn bắt chẹt người phải đưa tiền của đều gọi là cướp.

Tham lam muốn chiếm lấy của người làm của riêng mình là do thói quen lười biếng làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều, là nhân dẫn đến nghèo cùng khốn khổ trong hiện tại và mai sau. Có biết bao người đau khổ vì bị mất của, bị lừa đảo mà túng quẫn dẫn đến tự sát.

Lại nữa, tiền bạc là phương tiện để nuôi sống bản thân và gia đình, bao nhiêu năm tháng chắt chiu dành dụm giờ thì tiền mất tật mang. Sự mất mát tài sản làm cho gia đình trở nên thiếu thốn, khó khăn, nghi ngờ lẫn nhau, có thể dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Sự đền trả xứng đáng của quả báo này là nghèo cùng vô số kiếp và nếu có nhiều tiền của thì cũng không thể tự do sử dụng.

Chúng ta nên nhớ của phù vân khó bao giờ tồn tại bởi sống trên sự đau khổ của người khác. Nhan nhãn mỗi ngày có những vụ lừa đảo, lường gạt trong xã hội mà báo chí thường đăng tải là do lòng tham muốn quá đáng của con người. Con người vì lòng tham lam quá đáng nên mới dễ bị người khác lường gạt.

Quả báo của sự trộm cướp nặng thì nghèo cùng vô số kiếp hoặc làm thân súc vật để đền trả cho người, nhẹ thì ruộng vườn, nhà cửa, tài sản bị thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn, sóng thần, động đất phá hủy. Chúng ta hãy nên tin sâu nhân quả làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Nhân trộm cướp là việc làm xấu ác, cả thế giới loài người đều không chấp nhận nên có luật pháp chế tài, phạt tù, nặng thì tử hình, huống hồ là luật nhân quả luôn âm thầm chi phối.

3-Giới thứ ba: Bảo vệ hạnh phúc gia đình

Ý thức được những khổ đau do xâm phạm tiết hạnh của người khác, người Phật tử chân chính nguyện chỉ sống một vợ một chồng chung thủy có đôi, không dan díu ăn nằm với người khác nếu không phải là vợ hoặc chồng. Chúng ta phải ý thức rằng tà dâm là hành động sai lầm về tình dục nam nữ làm mất đi nhân cách của con người.

Người Phật tử chân chính khi lớn khôn có quyền cưới vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình. Song, ngoài vợ chồng chính thức ta không được quan hệ tình dục với người khác vì đó là ngoại tình, là phá hoại hạnh phúc gia đình người. Đi tìm thú vui trong chốn thanh lâu cho đến cưỡng bức xâm hại người khác, hoặc nam nữ đã có gia đình hay chưa có thường phóng tâm đam mê tửu sắc, chơi bời trác táng đều thuộc hạnh tà dâm.

Xưa nay, từ vua chúa quan quyền cho đến thứ dân bần cùng nghèo khổ bị tan nhà nát cửa, mất nước mất thành, gia đình đổ vỡ đều do hạnh tà dâm mà ra. Nhiều vụ án xảy ra do ghen tuông mà hủy hoại nhan sắc tình địch hoặc giết người dã man.

Bản chất của chúng sinh là ái dục, chính vì điều đó mà chúng ta có mặt trong cuộc đời này nhưng không vì thế mà chúng ta quá lạm dụng trong vấn đề tình dục. Ai ham hưởng thụ quá đáng vấn đề khoái lạc xác thịt và đi quá đà trong chừng mực cho phép thì dễ đánh mất nhân cách, phẩm chất đạo đức. Thường như thế sẽ kéo theo sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình là ghen tuông, giận dỗi, mắng nhiếc, đánh đập và chia lìa, quả báo hiện đời không bao giờ có được mái ấm gia đình hạnh phúc. Vì vậy, người Phật tử chân chính hãy sống chung thủy một chồng một vợ để không bị người khác phá hoại hạnh phúc gia đình.

Việc sinh hoạt tình dục với người cùng huyết thống, tức là người thân trong gia đình, hay còn gọi là loạn luân còn tệ hại hơn cả tà dâm. Quan hệ tình dục giữa người và thú gọi là cuồng dâm vì đánh mất hết tính người. Một vấn đề hết sức tréo ngoe khác là quan hệ tình dục giữa người nam với người nam gọi là pê đê, người nữ với người nữ gọi là đồng tính luyến ái đã phá bỏ tập tục truyền giống làm người. Còn một điều tệ hại hơn nữa là quan hệ tình dục giữa người trưởng thành và trẻ em thiếu niên nhi đồng. Trường hợp này gọi là bạo dâm và không còn từ ngữ nào diễn tả xác đáng hơn nữa.

Nói chung, do hưởng thụ khoái lạc xác thịt quá đáng và sai lầm trong quan hệ tình dục nên phát sinh ra những trường hợp lắc léo trên. Người Phật tử chân chính nếu muốn có một nhân cách, phẩm chất đạo đức tốt trong hiện tại và mai sau để không rơi vào trường hợp ngoại tình và các quan hệ tình dục bất chính khác thì phải phát nguyện làm đệ tử Phật, gìn giữ 5 Giới pháp trong sạch mới không bị rơi vào hố sâu của đam mê, tội lỗi.

4-Giới thứ tư: Không nói dối và biết lắng nghe

Bồ tát Quán Thế Âm là một người do tu hạnh nhĩ căn viên thông - phản văn văn tự tánh, trở về tánh nghe của mình mà thành tựu đạo quả, sau đó phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh bằng hạnh lắng nghe và dùng lời nói nhẹ nhàng, êm dịu để giúp mọi người vượt qua nỗi lo lắng, sợ hãi, bất hạnh, khổ đau.

Bồ tát là một con người mẫu mực đã mở ra cánh cửa “Phổ Môn” rộng khắp thế giới Ta bà để mang lại niềm an vui, hạnh phúc chân thật cho nhiều người và sẵn sàng san sẻ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của tất cả chúng sinh với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu tỉnh giác gây ra, người Phật tử chân chính xin học và làm theo hạnh lắng nghe cùng lời nói thương yêu, hòa nhã bằng trái tim hiểu biết.

Lời nói rất quan trọng, có thể tác động tới tâm tư mọi người khiến họ hạnh phúc hay đau khổ. Do đó, chúng ta nguyện sẽ nói lời chân thật và không nói dối để tránh làm tổn hại mọi người.

Lời nói có thể mang lại niềm an vui hạnh phúc cho nhiều người, giúp họ có niềm tin, ý chí và nghị lực trong cuộc sống để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Việc lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và nói lời từ ái, hòa nhã, dễ thương làm cho con người thích gần gũi nhau hơn.

Người Phật tử chân chính nguyện không nói dối, chuyện có nói không, chuyện không nói có, hoặc hứa với người mà không giữ lời, hay hứa rồi mà tráo trở, lật lọng. Chúng ta không nói lời ly gián làm hai bên hiểu lầm nhau mà sinh ra thù hận. Việc làm này còn độc hại hơn cả rắn độc vì làm cho người thân chia lìa, gia đình ly tán, bạn bè trở thành kẻ thù, xã hội trở nên loạn lạc, lầm than vì không còn tin tưởng lẫn nhau. Ta không dùng lời nói thêu dệt, nịnh hót làm xiêu lòng người, hoặc dùng lời nói thô ác như nói nặng, mắng nhiếc, chửi rủa, dùng lời lẽ thô tục để lăng nhục người. Người Phật tử hãy học theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm để lắng nghe, nói lời hòa nhã từ ái và luôn đem niềm vui đến với tất cả mọi người.

5-Giới thứ năm: Nguyện giữ thân tâm trong sáng, lành mạnh

Xã hội ngày nay đang trên đà tiến bộ của nhân loại làm con người ngày càng sa đọa bởi những thói quen hưởng thụ không lành mạnh như hút thuốc, uống rượu và dùng các chất kích thích độc hại như xì ke ma túy. Một khi đã nghiện rượu và ma túy con nghiện sẽ làm bất cứ điều gì khi cơn ghiền đến như nói dối, lường gạt, ăn trộm, ăn cướp, hiếp dâm và ngay cả giết người.

Rượu chè, ma túy, xì ke

Say sưa, nghiện ngập khiến người ngu si.

Túng cùng chẳng biết làm sao

Lường gạt, trộm cướp, giết người như chơi.

Rượu là chỉ chung cho những chất gây say, gây nghiện làm con người mất hết lý trí, mất bình tĩnh khi đã quá đà. Rượu làm thân tâm nóng nãy dẫn đến tranh chấp, cãi vã, nói nặng lời với nhau khiến tự ái phát sinh rồi giận dỗi đưa đến xô xát gây thương tích và có thể giết người. Tai nạn giao thông chiếm 60% bởi do uống rượu lái xe. Trộm cướp, hiếp dâm, giết người do uống rượu chiếm 10%. Bạo hành gia đình chiếm 20%, gây mất trật tự an toàn lối xóm chiếm 10% cũng do uống rượu.

Rượu còn là nguyên nhân gây bạo hành gia đình làm khổ lụy vợ con, là nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh nguy hiểm làm hao tài tốn của và mau chết sớm.

Ma túy làm hao tiền tốn của, hủy diệt con người không còn lý trí, lương tâm và là tệ nạn nguy hiểm số một của nhân loại, tác hại của nó còn gấp trăm ngàn lần rượu. Vì lòng tham của con người và vì lợi nhuận quá cao nên việc mua bán ma túy là một hiểm họa diệt vong của loài người trong tương lai nếu không có biện pháp ngăn chặn thích đáng.

Bản chất của chúng sinh là ái dục và đam mê hưởng thụ. Chỉ có các bậc hiền thánh và các vị Bồ tát mới biết ngăn ngừa từ nhân vì biết rõ sự tác hại của nó.

Ma túy hủy diệt mầm sống con người nhanh nhất trong hiện tại và mai sau, làm tổn thất tài sản lớn nhất hiện nay và làm cho con người mất hết phẩm chất đạo đức, nhân cách sống bình thường. Người mua bán ma túy vì lợi nhuận quá cao nên bất chấp luân thường đạo lý đem thứ chết người gieo giắc trong thiên hạ. Người đã nghiện ma túy sẽ trở thành tội phạm đến 95%, họ có thể trộm cướp, lường gạt và giết người một cách vô tội vạ. Đã dính vào vòng này muôn người chỉ có một hai người mới thoát ra được.

Rượu tác hại một, ma túy tác hại gấp trăm ngàn lần. Chính vì vậy, chúng ta hãy ý thức được những khổ đau do uống rượu say sưa, nghiện ngập và sử dụng các chất ma túy độc hại gây ra làm cho con người mất hết lý trí, lương tâm, tự hủy diệt chính mình và làm hại nhiều người khác. Người Phật tử chân chính nguyện sẽ không dùng những chất độc hại đó để tâm trí được sáng suốt, lắng trong mà có cơ hội hoàn thiện chính mình, giúp ích cho gia đình và xã hội.

BÀI 6- CHẮP TAY VÀ CÁCH XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

A- Chắp tay xá chào Tăng Ni

Khi Phật tử gặp quý Thầy Cô thì đứng ngay ngắn trang nghiêm, hai tay chắp lại theo hình búp sen trước ngực, đầu cuối xuống và miệng niệm câu Nam mô Phật-đà.

Chắp tay hình búp sen trước ngực đầu cuối xuống là tỏ lòng thành kính đối với Tăng, Ni. Chúng ta niệm nam mô Phật-đà là cung kính tưởng nhớ đức Phật Thích-ca là con người bằng xương bằng thịt được sinh ra từ bụng mẹ tại đất nước Ấn Độ.

Nam mô có nghĩa là cung kính. Phật-đà là dịch âm tiếng Phạn của chữ ”Buddha”, dịch nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức, là người có tấm lòng từ bi rộng lớn thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Nam mô Phật-đà nghĩa là chúng ta cung kính tôn trọng đức Phật, đức Phật ở đây là chỉ cho Phật Thích-ca Mâu-ni, là người đã khai sáng ra đạo Phật. Phật và chúng sinh đều có tính giác sáng suốt bình đẳng như nhau vì ngài là một con người giống như tất cả mọi người chúng ta.

Xá chào cung kính là sự khiêm cung tỏ lòng biết ơn với người đã dày công hướng dẫn Phật pháp cho chúng ta, nhờ vậy làm giảm đi sự cống cao ngã mạn của bản thân do ngu si, mê muội chấp thân tâm này làm ngã.

B- Tin tâm mình là Phật

Chúng ta tin tâm mình là Phật và tỏ lòng biết ơn, cung kính đức Phật để bắt chước công hạnh của Ngài, “trên nguyện cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh”. Chúng ta tin Phật có khả năng giác ngộ thì chúng ta cũng có khả năng giác ngộ nhờ tu hạnh Bồ tát đạo phước huệ song tu.

C- Chắp tay lễ Phật

Phật tử khi vào chánh điện lễ Phật phải đi đứng nghiêm trang, mắt nhìn thẳng, thân tâm hướng về điện Phật. Trước khi lễ Phật phải rửa mặt, tay, chân và súc miệng thật sạch. Khi lạy Phật hai tay chắp trước ngực từ từ đưa lên trước trán và từ từ hạ xuống theo năm vóc toàn thân, hai tay úp xuống khi cách đất khoảng 40 cm, đầu cúi sát đất khoảng giữa hai bàn tay và hai đầu gối phải sát đất.

Khi lạy xong chúng ta bật hai tay lên và toàn thân năm vóc theo thế đàn hồi giống như một lò xo tự động bật lên, úp xuống mà không cần phải dùng sức để trở về tư thế ban đầu hai tay chắp trước ngực.

Và cứ như thế chúng ta lễ lạy thật trang nghiêm làm cho thân tâm được an lạc, nhẹ nhàng mà không hao công tốn sức. Người bệnh cũng có thể lễ lạy thoải mái theo phương pháp này mà không bị chướng ngại nhờ thân tâm chuyên nhất theo nguyên tắc “miệng niệm, tai lắng nghe”. Đây là phương pháp lạy căn bản, toàn thân năm vóc sát đất, thân tâm cung kính lễ sẽ giúp ta tiêu trừ bệnh cống cao ngã mạn và chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Khi tụng kinh hai tay chắp trước ngực, ngón tay không được so le, bàn tay khít và thẳng, mắt nhìn phía trước, tâm chuyên nhất đọc theo vị chủ lễ, không được đọc trước hoặc sau, đọc kinh phải chậm rãi đều đặn, không đọc quá to cũng không đọc quá nhỏ.

Khi cầm kinh đọc thì mắt phải nhìn thẳng vào kinh y như thể chúng ta tôn trọng, cung kính Phật. Khi xá chào mọi người chúng ta tôn kính như một vị Phật. Chúng ta tuyệt đối không cầm kinh mà chào người, không được cặp kinh vào hai bên nách, khi đọc kinh xong chúng ta để lại trên bàn thờ Phật hay trong tủ thờ, không được để kinh bừa bãi sau khi đọc xong dù ở nhà hay ở trong chùa.

D- Cách xưng hô

Lời nói hay danh từ chỉ là phương tiện trong đối nhân xử thế để đảm bảo mối quan hệ mật thiết có tôn ty trật tự giữa con người với nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ danh xưng có thể thay đổi theo thời gian nên cách xưng hô trong đạo Phật cũng không có nguyên tắc cố định, tùy theo hoàn cảnh mà có sự đổi thay.

a- Khi nào quý Phật tử gọi các vị xuất gia bằng thầy, bằng cô, bằng đại đức, thượng tọa hay hòa thượng? Khi xuất gia từ 20 tuổi và bắt đầu thọ giới cụ túc thì gọi là đại đức. Thọ giới cụ túc 25 năm gọi là thượng tọa, thọ giới 40 năm trở lên gọi là hòa thượng.

b- Khi ông bà cha mẹ gọi một vị xuất gia là “thầy hay sư phụ”, người con hay cháu phải gọi là “sư ông” mới phù hợp đạo lý thầy trò.

c- Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể gọi một vị tại gia nhiều tuổi từ 60 tuổi trở lên bằng “con” được chăng dù người Phật tử tại gia cao niên đó xưng “con” với vị xuất gia?

d- Sau khi xuất gia, một vị Tăng hay Ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?

Trong đạo Phật có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là “tuổi đời và tuổi đạo”. Tuổi đời là tuổi tính theo ngày tháng năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia vào chùa tu học. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thọ cụ túc giới và hằng năm phải nhập hạ hay tùng hạ theo chúng tu học mùa an cư kiết hạ, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ hay tuổi đạo. Trong nhà Phật, tất cả mọi việc kể cả cách xưng hô chỉ tính theo tuổi đạo hoặc ngày xuất gia trước sau, không quan trọng tuổi đời.

Khi tiếp xúc với chư Tăng Ni, người Phật tử tại gia thường đơn giản gọi bằng “thầy hay cô” và thường xưng “con” để tỏ lòng tôn kính. Có những vị Phật tử lớn tuổi xưng “tôi hay chúng tôi” với những vị Tăng Ni trẻ để phù hợp với đạo lý làm người.

Khi đã qui y Tam bảo thọ 5 Giới tại chùa, mỗi vị Phật tử tại gia có một vị thầy cao cả, đó là Phật bảo và vị tăng truyền giới là Tăng bảo chân chính. Vị ấy được gọi là “thầy Bổn sư”. Cả gia đình có thể thọ giới cùng chung một vị thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng “thầy”.

Khi Tăng Ni tiếp xúc với quý Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia đình, chư Tăng Ni thường xưng là “tôi hay chúng tôi” (hay xưng pháp danh, pháp hiệu hoặc bần Tăng, bần Ni); cũng có khi chư Tăng Ni xưng là “thầy hay cô” và gọi quý Phật tử là “đạo hữu hay quý Phật tử”; cũng có khi chư Tăng Ni gọi quý Phật tử tại gia bằng pháp danh hay xưng hô theo địa vị xã hội, hoặc theo thứ bậc trong gia đình.

Sự việc chư Tăng Ni xuất gia ít tuổi gọi một Phật tử tại gia lớn tuổi là cha mẹ hoặc ông bàbằng “con” là không hợp với lý lẽ làm người. Chư Tăng Ni còn trẻ không nên gọi như vậy vì thiếu sự tôn trọng. Chúng ta biết mọi chuyện trên đời đều có thể thay đổi, ngôi thứ, cấp bậc cũng vậy. Nhưng giá trị tuổi đời lớn nhỏ không đổi, cứ theo thời gian mà càng tăng lên. Theo truyền thống lâu đời của người Việt Nam, tuổi đời rất được kính trọng trong xã hội dù là người Phật tử tại gia hay người xuất gia.

Tuy nhiên, trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo thế gian chư Tăng Ni có thể gọi các vị Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia đình một cách trân trọng, tôn kính tùy theo tuổi tác.

Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật giữa người xuất gia và Phật tử nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau để học đạo giác ngộ, giải thoát. Nhờ vậy, chúng ta có thể phá trừ tâm cống cao ngã mạn mà chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô ngã, vị tha.

Chư Tăng Ni phát tâm xuất gia tu hành, quý Phật tử phát tâm tu tập tại gia, như vậy làđã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ nếu có trong nhà chùa. Chúng ta xưng hô như thế nào để hợp với đạo lý mà không đánh mất giá trị làm người trong tu tâm sửa tánh để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể thay đổi theo hoàn cảnh mà vẫn giữ được phẩm chất cao quý của người học đạo giác ngộ, giải thoát đối với Phật tử tại gia cũng như người xuất gia.

Tăng Ni là những người vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho chúng ta biết được đạo lý làm người. Là những người tiếp tục kế thừa sự nghiệp của đức Phật để truyền dạy giới đức cho mọi người nên chúng ta phải gọi là “thầy, cô” hoặc gọi theo giới phẩm “đại đức, thượng tọa hay hòa thượng”.

Đối với thầy, cô chúng ta có thể xưng bằng “chúng con hay chúng tôi” là tùy theo tuổi tác của vị Tăng Ni đó cho phù hợp với đạo lý làm người mà vẫn một lòng tôn kính để học đạo giác ngộ, giải thoát.

BÀI 7- TINH THẦN CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

Cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của nhân loại, nó như một món ăn tinh thần của con người và là một nhu cầu chính đáng để giúp chúng ta luôn vững niềm tin và an tâm đối với dòng đời nghiệt ngã trong bầu vũ trụ bao la này.

Mục đích của sự cầu nguyện là nhằm giải toả các ức chế tâm lý do áp lực của công việc. Hoàn cảnh cuộc sống làm cho con người không được hài lòng, như ý mà sinh ra các phiền muộn, khổ đau qua các mối quan hệ giao tiếp trong xã hội.

Cầu nguyện không phải muốn gì được đó, không phải là chúng ta xin Phật- Bồ tát giúp cho mình được toại nguyện những mong muốn quá đáng. Cầu nguyện về mặt tâm lý nhằm giải toả các ức chế nội tại, hoặc tình trạng bức xúc cao độ, hay sự tuyệt vọng quá mức dẫn đến không còn lối thoát. Cầu nguyện có thể làm giảm bớt các áp lực căng thẳng, nặng nề ấy.

Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người Phật tử, nhờ cầu nguyện mà niềm tin tăng trưởng, nguyện lực của họ mạnh mẽ hơn, tuệ giác của Thế tôn được phát huy nên thiện nghiệp được duy trì, ác nghiệp mau sớm được tiêu trừ và từng bước tiến đến con đường giác ngộ, giải thoát mà cùng nhau chia vui sớt khổ trên tinh thần vô ngã vị tha.

Nếu chúng ta khẳng định mọi sự cầu nguyện đều được như ý thì sự cầu nguyện đó là mê tín, không đúng theo tinh thần Phật dạy. Chúng ta chỉ xem những lời cầu nguyện như lời chúc lành, mong muốn mọi người được an vui, hạnh phúc để có cơ hội sống tốt với nhau trên tinh thần yêu thương nhau bằng trái tim hiểu biết.

Cầu nguyện hoặc mong cầu một cái gì đó là trạng thái tâm lý mong muốn sẽ được thành tựu viên mãn điều mình đang mơ ước và mong đợi. Nó phản ánh một thái độ vị tha mong muốn cho tất cả mọi người đều đạt được những thành tựu như ý trong cuộc sống.

Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh có thể làm lắng dịu nỗi lo âu, sợ hãi, phiền muộn, thất vọng và khổ đau. Cầu nguyện là bày tỏ những hy vọng thay đổi nhằm có đời sống tốt hơn, tạo thêm sinh lực và niềm tin cho con người vốn gặp nhiều bất hạnh, khổ đau.

Chúng ta vì quí kính ông bà, cha mẹ, thầy tổ, bạn bè, người thân và nhân loại mà có lòng thành cầu nguyện, mong muốn mọi nguời đều được sống an vui, bình yên và hạnh phúc. Mặc dù sự cầu nguyện đó có việc được, có việc không nhưng đã nói lên tình thương yêu nhân loại qua sự an ủi, sẻ chia và nâng đỡ cho nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Trong cuộc sống của chúng ta, sự cầu nguyện là một biểu hiện của lòng biết ơn và đền ơn đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thầy tổ, bạn bè, người thân và cộng đồng xã hội. Cầu nguyện giúp cho mọi người nâng cao đời sống tinh thần nhằm củng cố thêm niềm tin và nghị lực để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời với muôn vàn sự khổ đau.

Chúng ta cầu nguyện nhằm mong muốn mọi người sống yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống. Một sự cầu nguyện như vậy là cầu nguyện chân chính vì đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng xã hội.

Chúng ta cầu cho mọi người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết để thế giới chấm dứt chiến tranh, không còn cảnh máu đổ thịt rơi, con người tàn sát giết hại lẫn nhau. Chúng ta cầu cho mọi người luôn sống hiếu thảo với mẹ cha trên tinh thần biết ơn và đền ơn thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Cầu dứt ác làm lành là cầu nguyện cho mình và người được phát khởi tín tâm thiện ích với tinh vô ngã, vị tha bằng trái tim yêu thương và hiểu biết để giúp ta vượt qua dòng đời nghiệt ngã với muôn vàn khổ đau mà thành tựu được mục tiêu giác ngộ giải thoát, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh.

Cầu nguyện là nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người. Kết quả thế nào chưa biết nhưng trước mắt chúng ta cảm thấy tinh thần an ổn, nhẹ nhàng đôi chút. Chúng ta vẫn biết lời cầu nguyện chỉ giúp tâm trí mình tạm yên lắng đôi phần, nhưng với một số người cầu nguyện cốt để tâm tư sáng suốt hầu tìm ra giải pháp tháo gỡ mọi vấn đề khó khăn.

Đối với sự cầu nguyện chân chính có lợi ích cho mọi người thì đạo Phật không phủ nhận. Bằng chứng là ngay trong nhà chùa vẫn hay dùng phương tiện cầu an hoặc cầu siêu để dẫn dắt những người sơ cơ quay về với đạo. Trong mỗi khóa lễ sau thời tụng kinh đều có phần phục nguyện và hồi hướng công đức để tất cả chúng sinh đều được an vui, giải thoát.

Trong đạo Phật, cầu nguyện không phải là một hình thức cầu khẩn, van xin vào một thế lực nào bên ngoài mình. Chúng ta phải lấy sự nỗ lực của bản thân để làm tăng thêm sức mạnh cầu nguyện chứ không phải ngồi ỳ ra đó mà cầu khẩn, van xin.

Chúng ta cố gắng siêng năng phấn đấu vượt khó là nhân, cầu nguyện là duyên giúp cho ta không lui sụt ý chí, kết quả là đạt mục đích đề ra. Nếu chúng ta muốn thân tâm được trong sạch, việc hóa giải phiền não tham-sân-si là nhân, rồi chúng ta nương vào sự gia hộ của Phật mà quyết tâm dứt trừ vọng niệm. Bản thân mình không chịu sửa đổi tâm tham lam, ích kỷ, giận hờn, cố chấp thì dù chúng ta có tha thiết cầu Phật cứu giúp cũng không thể nào dứt được quả khổ đau.

Cầu nguyện dứt ác làm lành là nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống nói lên tinh thần yêu thương bằng trái tim hiểu biết nhằm làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh bằng tình người trong cuộc sống.

Nói tóm lại, cầu nguyện chân chính là xuất phát từ tấm lòng vô ngã, vị tha vì tình thương yêu nhân loại không phân biệt người thân hay kẻ thù, chỉ một bề mong muốn mọi người sống an vui, hạnh phúc.

Bài 8- ĐI CHÙA LỄ PHẬT

Muốn trở thành một Phật tử chân chính chúng ta phải sắp xếp thời gian để đi chùa lễ Phật và làm nhiều công đức khác. Khi chúng ta muốn làm việc gì có kết quả tốt đẹp thì phải phát xuất từ tâm tỉnh ngộ, nếu làm việc vô nghĩa là do tâm si mê mà ra.

Chúng ta đến chùa để được nghe những lời chỉ dạy đạo lý của chư Tăng, Ni là bổn phận của người Phật tử. Phật dạy: “thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Chúng ta phải khôn ngoan, sáng suốt chọn lấy một hành động có nghĩa để làm theo thì mới là người có hiểu biết chân chính. Chạy theo những việc làm thấp hèn có tính cách làm tổn hại người vật thì quả thực là kẻ ngu si, khờ dại.

Nếu chúng ta không ý thức được trách nhiệm và bổn phận của một con người, cứ mãi đua đòi chạy theo sự hưởng thụ xa hoa thì đến ngày thân này sắp hoại, ta sẽ không biết mình đi về đâu. Chính vì vậy, việc đi chùa lễ Phật là một việc làm cần thiết do tâm khao khát muốn được làm người tốt để làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội.

Mục đích đi chùa không phải là để cúng lạy, van xin, cầu khẩn mong Phật-Bồ tát ban phước trừ họa cho chúng ta mà vì ta muốn học hỏi Chánh pháp, tập tu đức tính từ-bi-hỷ-xả để chuyển hóa phiền muộn, khổ đau thành an vui, bình yên và hạnh phúc.

Người Phật tử mới đến với đạo chưa thấm nhuần Phật pháp nếu không được sự chỉ dạy của chư Tăng, Ni thì làm sao biết cách để ứng dụng tu hành. Muốn hiểu Phật pháp và thấm nhuần đạo lý chúng ta hãy thường xuyên đến chùa để thưa hỏi, học tập những gì mình chưa biết hoặc có nghi ngờ gì chúng ta phải giải bày.

Trong cuộc sống với bộn bề công việc ngoài xã hội, người Phật tử đâu đủ thời gian để nghiên cứu, học hỏi Phật pháp. Nhờ gặp chư Tăng Ni thưa hỏi đạo lý, quý Phật tử có thể học được nhiều điều rất hay để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Chính vì vậy, đến chùa để gặp chư Tăng, Ni là điều cần thiết không thể thiếu đối với người Phật tử tại gia.

Đi chùa có hai trường hợp:

_ Đi chùa ngày thường: Bất cứ ngày nào chúng ta cảm thấy rãnh rỗi việc nhà, hoặc tranh thủ được chút thời gian thì người Phật tử có thể đi chùa. Khi đi chùa người Phật tử chân chính phải thưa hỏi đạo lý để tìm hiểu thêm những lời Phật dạy. Những gì còn nghi ngờ và chưa hiểu người Phật tử phải đem ra thưa hỏi. Mỗi lần đến chùa người Phật tử biết cách thưa hỏi như vậy thì sự học đạo rất mau tiến bộ. Đi chùa thưa hỏi Phật pháp là đúng tinh thần tu học của người Phật tử tại gia.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều người đi chùa mà không thưa hỏi Phật pháp. Đây là trường hợp ngoại lệ, họ đi chùa vì ham vui, vì thần kinh căng thẳng, hoặc quá đau khổ nên tìm đến chùa. Họ đến chùa để được ngồi yên dưới bóng mát tàn cây nghe tiếng mõ, tiếng chuông trong khung cảnh yên tĩnh giúp tâm hồn cảm thấy dễ chịu. Những người này họ không cần gặp ai để thưa hỏi Phật pháp, chính cảnh cô liêu tịch tĩnh của nhà chùa đã phần nào xoa dịu bớt những nỗi đau bất hạnh trong họ.

_ Đi chùa những ngày lễ vía và các khóa tu: Mỗi Phật tử ngày thường đều có hoàn cảnh cuộc sống gia đình riêng nên ít khi được gặp nhau để trao đổi việc tu hành, cùng nhau động viên, nhắc nhở về đức hạnh của Phật. Nhân ngày lễ vía ở chùa, toàn thể quý Phật tử tụ hội về cùng thăm hỏi nhau trong tình bạn đạo, cùng giãi bày và chia sẻ với nhau những kinh nghiệm tu hành để chính mình ngày càng hoàn thiện.

Người xưa nói: "ăn cơm có canh, tu hành có bạn." Chúng ta cùng nhau đoàn tụ dưới mái chùa để cùng mến thương nhau, đoàn kết gắn bó với nhau, cùng động viên an ủi khích lệ cho nhau, cùng siêng năng tinh tấn dìu dắt nhau vượt qua cạm bẫy cuộc đời bằng trái tim hiểu biết.

Càng cao quý hơn nữa, chúng ta tham gia vào các khóa tu một ngày an lạc cho đến bảy ngày để được thực tập hạnh giác ngộ, giải thoát. Thật là diễm phúc thay khi quý Phật tử có những cơ hội thấm nhuần Chánh pháp bằng sự thể nghiệm trực tiếp qua sự hướng dẫn của Tăng, Ni.

Nếu chúng ta vắng mặt trong những ngày lễ vía và các khóa tu thì quả thật là một thiệt thòi đáng kể của người Phật tử. Có nghe giáo lý và có thực hành những lời Phật dạy chúng ta mới biết phương pháp tu hành, biết cách buông xả phiền não tham-sân-si mà chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Quý Phật tử dù đã quy y mấy mươi năm mà không chịu học hỏi giáo lý, không siêng năng nghe quý thầy cô giảng dạy và không thắc mắc, nghi ngờ thì sẽ thiệt thòi cho chính mình. Phần đông các Phật tử chưa tin sâu lý nhân quả nên khi đến chùa hay cầu khẩn, van xin mà rơi vào mê tín dị đoan. Người Phật tử chân chính phải luôn học hỏi và thực hành theo lời Phật dạy. Chính vì vậy, đi chùa nghe pháp và thắc mắc những gì mình chưa biết là điều cần thiết của người Phật tử tại gia.

Chúng ta lễ Phật, lạy Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu khẩn van xin mong Phật-Bồ tát ban phước trừ họa mà ta lễ lạy để được học hỏi và bắt chước công hạnh cao cả của Ngài với tinh thần biết ơn và đền ơn.

Chúng ta lễ lạy Phật để thấy mình còn ngu si, mê muội quá nhiều vì sự tham lam và ích kỷ để xả bỏ hết những thói quen cống cao ngã mạn, khinh thường người khác. Thói quen và bản chất của mọi người là lúc nào cũng thấy mình hơn thiên hạ nên tự cao tự đại, chẳng coi ai ra gì. Đó là thói quen xấu nhiều đời nhiều kiếp đã ăn sâu vào tàng thức khiến chúng ta bị mọi người chán ghét, lánh xa.

Người Phật tử chân chính biết được khiếm khuyết này nên chúng ta lễ lạy Phật-Bồ-tát, các bậc đạo cao đức trọng để diệt trừ tâm cống cao ngã mạn. Khi lễ lạy Phật-Bồ tát hoặc người tu hành chân chính chúng ta không mong cầu điều gì mà chỉ mong học được đức hạnh cao quý của các ngài, như người xưa nói: "kính thầy mới được làm thầy". Chúng ta muốn dẹp bỏ những thói quen tật xấu, học theo đức hạnh từ-bi-hỷ-xả thì phải kính lễ những bậc đức hạnh để học hỏi những điều hay lẽ phải.

Chúng ta lễ lạy Phật vì noi theo gương sáng của Ngài với tấm lòng vô ngã, vị tha. Vì Phật đã giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán nên Ngài có đầy đủ mọi công đức từ-bi-hỷ-xả và trí tuệ viên mãn, do đó chúng ta phải lễ lạy Phật để bắt chước công hạnh của Ngài.

Như vậy, chúng ta sẽ lễ lạy Phật bao nhiêu mới xứng đáng trong việc noi theo gương sáng của Ngài? Chúng ta đời đời kính lễ Ngài cũng đâu có thiệt thòi gì, nhờ vậy ta mới lần hồi chuyển hóa được những phiền muộn, khổ đau. Đi chùa lễ lạy Phật và thưa hỏi đạo lý là điều cần thiết giúp cho chúng ta tiến bước mãi trên con đường giác ngộ cho đến khi nào thành tựu viên mãn mới thôi.

BÀI 9- NÓI NHIỀU LÀM PHIỀN LÒNG NGƯỜI KHÁC

Nói nhiều là diễn bày bằng lời nói mọi sự việc phát xuất từ những điều kiện khi thấy, khi nghe, khi ngửi, khi nếm, khi xúc chạm và suy nghĩ. Người nói nhiều đôi khi gây thiệt hại và làm phiền lòng nhiều người khác. Phụ nữ có thói quen nói nhiều nên được ví ba người phụ nữ xúm lại làm thành cái chợ chồm hổm. Đàn ông nói nhiều thì người ta thường gọi là bà tám và tất nhiên nhiều người không thích điều này.

Những người hay nói nhiều là những người thích nói chứ không thích lắng nghe, họ lúc nào cũng bảo vệ và cho suy nghĩ của mình là đúng nên nói năng huyên thuyên, chuyện làng trên xóm dưới gì cũng nói. Bởi do nói nhiều nên họ ít lắng nghe sự trao đổi, góp ý của người khác. Nói nhiều còn có cái bệnh là dễ làm mất lòng người khác, người xưa cũng bảo “tội từ miệng mà ra”.

Tại sao “nói nhiều” lại gây chướng ngại cho sự tu tập của chúng ta? Theo kinh nghiệm nhân gian, người nói nhiều thì dễ mắc nhiều sai lầm vì dễ mất tự chủ trong lời nói. Người Phật tử chân chính muốn đạt được sự giác ngộ, giải thoát viên mãn thì cần phải thận trọng trong trò chuyện, nói năng. Người Phật tử không nên ăn không ngồi rồi, tụ tập lại bàn tán, nói năng ồn náo mà chỉ toàn nói những chuyện tạp nhạp của thế gian.

Theo sự tìm hiểu của các nhà tâm lý, người nói nhiều chưa hẳn là nhiều chuyện vì đôi khi chỉ mỗi một chuyện mà họ có thể nói từ ngày này sang ngày khác, nhất là các vị có tài hùng biện. Còn người nhiều chuyện thì chắc chắn sẽ nói nhiều vì đó là thói quen thích chứng tỏ với mọi người là mình có hiểu biết.

Có hai vợ chồng nọ cứ mỗi lần trong nhà có đám giỗ hay tiệc tùng gì là ông chồng cứ “nhai đi, nhai lại” với bà xã chuyện nấu nướng món gì và phải mời ai. Bà vợ khổ tâm quá mới than thà bà bị điếc chắc còn khỏe hơn.

Chúng ta hãy học cách kiểm soát bản thân để không mắc bệnh nói nhiều, nó là một trong những biểu hiện của sự mất tự tin, đang lo lắng sợ hãi và mặc cảm tự ti. Để khỏa lấp cảm giác đó, người ta phải nói thật nhiều.

Với các bà vợ thiếu tự tin, nói nhiều không hẳn là mong muốn của họ. Họ thường biện hộ trời cho cái miệng, cái mồm để ăn, để nói thì đương nhiên họ phải nói. Đấy là lý lẽ căn bản của các bà vợ mỗi khi bị các ông chồng lên án, trách cứ sao nói nhiều quá. Nếu xét khách quan thì ai cũng thấy đại đa số phụ nữ là thích nói nhiều, điều này quả thật không sai chút nào.

Chúng ta thử xem lại coi trên cõi đời này có sinh vật nào có khả năng nói nhiều mà không biết chán như ở một số phụ nữ? Đó là do nghiệp báo nhiều đời khiến họ có một cái miệng dẻo dai hơn nam giới, miệng của họ có thể hoạt động liên tục đồng thời có thế phát âm cao thấp, nhỏ to một cách rất đúng cung đúng điệu.

Phụ nữ có khả năng nói liên tục bất tận gây sự chú ý cho nhiều người bởi những tin vịt, họ có thể nói nghĩa đen để buộc người nghe phải chú ý đến để hiểu nghĩa bóng hoặc ngược lại. Họ còn có thể một lúc nói về nhiều chủ đề, họ cũng thừa sức để nói các sự cố đã, đang và sẽ xảy ra ở hàng xóm láng giềng. Nhất là đối với những người họ không ưa thích, họ nói theo kiểu miệt thị, dèm pha và hơi chảnh một chút.

Phụ nữ khi gặp buồn, vui gì thì cũng nói hoạch tẹt ra hết. Họ dùng ngôn từ trầm bổng, cao thấp để bộc lộ cảm xúc. Họ có thể diễn tả tỉ mỉ các “sự cố” mà họ đang phải đương đầu hoặc thậm chí chưa từng bao giờ gặp. Chính nhờ nói nhiều mà bao nhiêu hỉ, nộ, ái, ố đều theo miệng người phụ nữ mà tuôn ra ngoài khiến họ có thể tự tin “khỏe re như con bò kéo xe.”

Chúng ta đôi khi hay ngồi lê đôi mách, nhất là những phụ nữ làm việc nội trợ ở nhà một mình dễ buồn chán nên hay tìm đối tác để nói chuyện. Có người thích nghe thì mới có kẻ muốn nói. Trong chuyện ngồi lê đôi mách có sự bàn tán hứng thú riêng vì đây là dịp để chia sẻ những uất ức trong lòng do không có ai để trút bầu tâm sự.

Tuy nhiên, nếu chúng ta đóng vai trò diễn nói bằng những ngôn từ chát chúa có tính cách phê bình, chỉ trích thì phần thiệt thòi sẽ thuộc về chúng ta. Mọi người có thể bị kích động theo khi nghe chúng ta nói xấu một người nào đó trong làng xóm, thành ra ta trở thành kẻ nhiều chuyện.

Người nhiều chuyện khác với kẻ nói nhiều, kẻ nhiều chuyện thì luôn bới tung lên chuyện thương ghét, phải quấy đầu trên xóm dưới, chuyện nhỏ xé ra to, chuyện có nói không và ngược lại. Không ai muốn đề bạt một kẻ nhiều chuyện lên làm quyền cao chức trọng, cũng không ai tin tưởng hay thích những người nhiều chuyện vì họ không bao giờ biết giữ kín một chuyện gì khi họ đã biết.

Như vậy, người nhiều chuyện dễ làm mất uy tín, mọi người sẽ bắt đầu nghi ngờ khi người đó nói ra điều gì. Đa số người thích nhiều chuyện là do họ không có công ăn chuyện làm chính thức, họ chỉ giữ vai trò nội trợ là chính nên thời gian rãnh rỗi nhiều. Thường những kẻ muốn đâm sau lưng người khác sẽ mượn người nhiều chuyện để làm công cụ thực hiện mục đích dối trá của mình. Khi mọi việc đã vỡ lỡ, kẻ nhiều chuyện sẽ hứng chịu sự trả đũa từ mọi phía, người núp phía sau sẽ cười vào mặt kẻ bị bêu xấu, cuối cùng họ chỉ trút giận vào bao cát mà thôi.

Và còn nhiều tác hại khác của việc bàn tán xì xầm, nhỏ to, đôi khi còn thêm chút mắm muối vào để câu chuyện không có gì mà thành ra to lớn. Nhưng nói thì dễ, làm thì khó, xì xầm to nhỏ là thói quen khó cưỡng của nhiều người, nhất là các chị em phụ nữ được cho là nhiều chuyện số một. Đôi khi chúng ta biết rõ rất nhiều chuyện đã xảy ra nhưng cũng không nên nói, vì có nói ra cũng không có lợi, đôi khi còn phiền phức cho chính mình và ảnh hưởng xấu đến người khác.

Có nhiều người nói, nhất là chị em phụ nữ thường hay tung tin vịt rồi buột miệng rằng chuyện này bí mật đừng nói cho ai biết. Thế là tin đồn cứ thế loan đi, chuyện nhỏ xé ra to, tất cả mọi người làng trên xóm dưới không ai không biết. Muốn từ bỏ thói quen xấu này không phải chuyện dễ trong một ngày, một bữa nên tốt nhất việc gì cần nói thì nói, không cần thì thôi, còn trường hợp nói ra làm ảnh hưởng xấu đến người khác thì tốt nhất chúng ta không nên nói.

Thói quen nói xấu có một sự quyến rũ và cám dỗ rất lớn, với một số người họ gần như bị nghiện. Nếu trong một ngày không nói cùng ai chuyện xóm trên xóm dưới thì họ cảm thấy như bị ức chế nên dễ sinh cau có, giận hờn. Phụ nữ nói nhiều có khi sống thọ hơn phụ nữ ít nói, và nhờ nói nhiều mà phụ nữ sống lâu hơn so với đàn ông. Quả thật đúng như vậy! Đàn ông họ tế nhị hơn nên vui cũng ít thổ lộ ra bên ngoài, khi buồn họ cũng nín thinh, im lặng, hoặc có nói cũng rất hà tiện lời nói, ít chịu chia sẻ điều đang ôm ấp trong lòng.

Theo các nhà tâm lý học, tất cả những cảm xúc, tư duy của con người luôn cần được bộc lộ ra bên ngoài; ngược lại, nếu bị đè nén trong lòng dễ sinh ra những hệ lụy tai hại như chứng căng thẳng, trầm cảm khiến chúng ta mau chết sớm hoặc cau có, khó chịu ra mặt. Vì thế, nụ cười là liều thuốc bổ để giảm bớt các ức chế trong lòng, đó chính là bài thuốc có thể làm cho chúng ta lạc quan và sống thọ.

Ca dao Việt Nam cho rằng: “đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà”. Đối lập lại, nhân tướng học của phương Tây cho rằng: “Đàn bà miệng rộng thì sang”. Vậy hai học thuyết Đông và Tây cái nào đúng, cái nào sai? Chẳng qua là do tín ngưỡng của mỗi nơi có khác nên đúng và sai cũng không nhất định, chỗ này cho như vậy là đúng, chỗ kia cho như vậy là sai. Chính vì vậy, mọi việc trên thế gian này đều tương đối cả. Lại có câu ca dao: “Đàn ông lắm miệng thì tài, đàn bà lắm miệng điếc tai láng giềng”. Lắm miệng lắm mồm tức là “nói nhiều”, miệng không kịp kéo da non.

Nói nhiều mà nói móc, nói méo, nói nặng, nói nhẹ, nói thêm, nói bớt, nói để vu khống thiên hạ bằng cách nói sai sự thật làm cho chúng ta thù hằn, ghét bỏ lẫn nhau. Nhất là những người làm chính trị, họ hay nhiều chuyện, tìm đủ mọi cách để đả phá kẻ đối lập. Họ dùng mọi thủ đoạn bằng miệng lưỡi thâm sâu để hạ bệ đối thủ.

Người Phật tử chân chính việc gì cần nói thì nói, không cần thì thôi. Nói nhiều là bệnh ba hoa, khoác lác dễ làm ảnh hưởng xấu đến người khác. Để đối trị được bệnh nói nhiều, chúng ta hãy nhiếp tâm niệm Phật, niệm Bồ tát, niệm hơi thở hoặc thường xuyên quán chiếu soi sáng lại chính mình, nhờ vậy biết cách làm chủ bản thân.

BÀI 10- SÁM HỐI ĐỂ TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG

Đã làm người ai cũng có thể phạm phải lỗi lầm, nếu chúng ta can đảm đến trước bàn Phật hay gặp người có đức hạnh thành tâm phát lồ sám hối thì tội lỗi sẽ nhanh chóng được tiêu trừ. Chúng ta là những phàm phu do vô minh si ám che lấp nhiều đời, là người đang thực tập hạnh buông xả theo lời Phật dạy nên không sao tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc. Chúng ta biết có lỗi nên thành tâm sám hối không dám tái phạm khiến tội lỗi được tiêu trừ cho đến khi không còn nữa. Sám hối là phương pháp sách tấn mạnh mẽ nhất đối với người Phật tử chân chính, nhờ vậy ta càng ngày càng ít vấp phải lỗi lầm hơn.

Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời hoặc chối bỏ sự thật của tội lỗi mà tìm cách sám hối để làm mới lại chính mình. Sám hối là sám lỗi trước, nguyện không cho tái phạm lỗi lầm xưa. Hối là ngăn ngừa lỗi sau, không cho phát sinh kể từ ngày hôm nay. Sám hối đúng nghĩa là phải có tâm hổ thẹn và cầu tiến.

Sám hối có nghĩa là ăn năn hối cải những tội lỗi đã làm, chúng ta biết hổ thẹn, ăn năn không dám tái phạm nữa. Nhờ sám hối chúng ta không phạm tội cũ, không gây lỗi mới là nhờ biết hổ thẹn và xấu hổ. Chúng ta biết hổ thẹn và cầu tiến nên ta mới sám hối, sau khi sám hối dứt khoát chừa bỏ không lập lại lỗi lầm xưa.

Sám hối có thể xem như sự mạnh dạn ăn năn nhận lỗi của người thế gian khi mình làm cho người nào đó buồn phiền, tức giận. Trong Phật giáo cũng thế, ý suy nghĩ điều xấu ác, lời nói không khéo dẫn đến thân hành động sai, nay nhận ra lỗi lầm của mình ta tha thiết hối lỗi, ăn năn sám hối quyết không tái phạm nữa.

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm chúng ta có thể đổ thừa cho người khác. Ai cũng cho rằng bản thân mình đúng, thật ra người không biết nhận lỗi chính là muốn qua mặt người khác. Chúng ta luôn đổ lỗi cho người khác để họ phải chịu mang tiếng xấu, đó là điều không nên làm của người Phật tử chân chính.

Bất kỳ một sai lầm nào cũng có trách nhiệm của chúng ta và không ai khác chính chúng ta biết rõ mình đang lừa dối mình và người khác, tại sao chúng ta không dám chịu trách nhiệm về những lỗi lầm đó. Đổ lỗi cho người khác là một thói quen xấu gây ra sự chia rẽ và hiểu lầm nhau mà dẫn đến oán giận, thù hằn không có ngày thôi dứt.

Chúng ta hãy học cách nhận lỗi về phía mình, hãy tự xấu hổ với chính mình và đừng bao giờ đổ lỗi cho những người xung quanh. Đó là hành động của kẻ tiểu nhân, người hèn nhát, không phải là người Phật tử chân chính.

Khi chúng ta biết nhìn nhận lỗi về phía mình, chúng ta sẽ nhìn thấy được những sai lầm của bản thân. Rất nhiều người có thói quen xấu, họ thà chết đem theo chứ không chịu nhận lỗi dù biết mình làm sai vì sĩ diện và vì lòng tự trọng quá cao.

Sám hối trong nhà Phật có ý nghĩa tương tợ như cách xin lỗi của người thế gian. Người thế gian lỡ phạm lầm lỗi với ai khiến họ phiền muộn thì biết mình có lỗi nên gan dạ đến xin lỗi. Nếu người rộng lượng họ sẽ tha thứ, người quá cố chấp thì cũng giảm bớt đôi chút buồn phiền. Biết ăn năn lỗi cũ, không gây tạo tội mới thì tội lỗi ngày càng được tiêu trừ theo thời gian.

Chúng ta khi làm điều gì sai quấy mà không chịu phát-lồ sám hối vì sợ người khác biết mà khinh thường, mất danh tiếng nên cố tình che giấu thì không ngờ tội lỗi ngày càng thêm chất chồng. Chúng ta hãy nhớ rằng, người có lỗi mà biết xin lỗi hoặc phát lồ sám hối là một điều tốt, cũng như chiếc áo dơ chúng ta giặt thì áo sẽ mới sạch trở lại. Khi chúng ta cố tình che giấu tội lỗi thì tội lỗi ngày càng thêm lớn và trong lòng thường ăn năn, ray rức, buồn bã không yên.

Chính vì thế, khi chúng ta có lỗi thì không được che giấu mà phải phát-lồ sám hối, phát nguyện chừa bỏ không tái phạm nữa thì tội ấy dần hồi mới được trong sạch.

Ai trong chúng ta không một lần vấp ngã dù ít hay nhiều, nhưng điều quan trọng hơn hết là khi bị vấp ngã ta có can đảm đứng lên hay không. Với lòng thành tha thiết chúng ta đảnh lễ Phật-Bồ-tát, quì gối chí tâm phát lồ sám hối và phát nguyện chừa bỏ, cầu chư Phật-Bồ-tát chứng minh để ta có đủ lòng tin vượt qua tội lỗi và không tái phạm nữa.

Tuy nhiên, khi đã thành tâm sám hối lẽ ra chúng ta không được tái phạm lỗi lầm cũ, song vì tập khí thói quen nhiều đời đã khiến cho ta phạm lại lỗi lầm xưa. Chúng ta biết mình đã dở lắm rồi, do đó phải kiên trì, bền chí thành tâm sám hối đừng nản lòng thì có ngày sẽ dứt trừ được tội lỗi.

Sám hối với tinh thần cầu tiến biết hổ thẹn và mạnh dạn vạch trần những lỗi lầm đã làm với lòng thành khẩn thiết tha sám hối, sau khi sám hối tuyệt đối không tái phạm nữa, người này chắc chắn sẽ là người tốt trong hiện tại và mai sau. Người biết hổ thẹn sẽ không dám để tội lỗi phát sinh hoài, nhờ vậy tội lỗi sẽ dần được tiêu trừ.

Chúng ta tu mà không gan dạ sám hối thì quả là người hèn nhát, luôn che dấu tội lỗi thì không thể nào chuyển hóa hết phiền muộn, khổ đau do tham lam, sân giận và si mê gây ra.

Người biết sám hối là biết tu, ngược lại có lỗi mà không biết sám hối thì dù chúng ta là người xuất gia đi nữa cũng chưa phải là người biết tu. Sám hối với tâm chí thành, một lòng tha thiết xấu hổ về những lỗi lầm đã phạm và dứt khoát không tái phạm nữa thì người này sẽ từ từ hết tội.

Nhờ sám hối mà tâm ta ngày càng trong sạch. Dám sám hối là một việc làm can đảm, khiến tâm cống cao ngã mạn, tự ti, mặc cảm, lần lần thuyên giảm, nhờ vậy ta càng ngày càng sống tốt hơn và ít phạm phải lỗi lầm.

Tu mà không gan dạ sám hối quả thật là người hèn nhát, không xứng danh là một con người. Sám hối là phương pháp sách tấn mạnh nhất, nhờ sám hối dù có tạo tội bao nhiêu chúng ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau.

Trong kinh đức Phật thường tán thán: "Ở đời có hai hạng người đáng được khen ngợi. Hạng thứ nhất là người không có gây tạo lỗi lầm, hạng thứ hai là người có lỗi mà biết ăn năn sám hối hứa chừa bỏ".

Tất cả mọi chúng sinh trong đời sống hằng ngày không ai là không có lỗi do vô tình hoặc cố ý tạo nên. Người Phật tử chân chính là người dám mạnh dạn nhận ra những lỗi lầm mình đã phạm phải. Trong Phật giáo sám hối không phải là "rửa tội" hay "xá tội" như một số quan niệm của các tôn giáo khác, đây là một hành động có ý thức khi mạnh dạn nhận ra lỗi lầm để rồi sau đó tự mình sửa đổi.

Tóm lại, sám hối là một phương pháp tu hành rất thiết thực, có lợi ích cho hiện tại và mai sau. Người đời vì không biết nên một khi có lỗi lầm thì ém nhẹm, giấu diếm, không cho ai biết và tìm cách che giấu tội lỗi. Vì thế, tội lỗi ngày càng thêm chồng chất, cuối cùng hết phước sẽ chịu họa khổ đau không có ngày thôi dứt.

Người xưa nói: "Dù người có gây tạo tội lỗi tới đâu mà biết ăn năn sám hối thì cũng có ngày hết tội". Ai làm người mà biết hồi đầu tỉnh thức thì khi lầm lỗi sẽ biết sám hối là điều cần thiết cho tất cả mọi người.

BÀI 11- THIỀN TRONG BỘN BỀ CÔNG VIỆC

Mỗi sáng thức dậy, chúng ta có thể hân hoan vui vẻ, trong lòng nở một nụ cười tươi tắn vì ta đã ý thức rằng một ngày mới được bắt đầu với 24 giờ sống trong tỉnh giác. Trước khi ngồi dậy sau giấc ngủ an lành, chúng ta có thể vẫn nằm yên trên giường, buông thẳng hai tay và hai chân một cách thoải mái để an hưởng một ngày mới tươi đẹp với hơi thở nhẹ nhàng. Thở vào ta cảm nhận giây phút bình yên trong lòng, thở ra ta bắt đầu cùng mọi người vui sống và làm việc.

Sau đó, chúng ta đi tiểu, đi đại để đưa hết cấu uế trong người ra và chỉ giữ lại những gì có lợi ích để nuôi dưỡng thân tâm được khỏe khoắn và trong sạch. Điều tối kỵ nhất là nín đi tiểu hoặc đi đại tiện quá lâu, sau này sẽ bị bệnh suy thận, bị trĩ, bị nóng gan. Khi đi tiểu, đi đại ta biết ta đang đưa ra những thứ cặn bã độc hại được tích tụ trong cơ thể, ngay khi đó ta cảm nhận được sự thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi chúng ta rửa mặt, súc miệng, tắm rửa, chải đầu, thay quần áo, chúng ta cảm nhận sự tươi mát qua xúc chạm những gì trong hiện tại bằng sự nhận biết. Chỉ khoảng thời gian ngắn trong vòng nửa tiếng đồng hồ, ta khéo an trú trong từng hành động có ý thức bằng sự tỉnh giác thì sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng và tự tại.

Cái thấy nghe hay biết đó là biết rõ mọi cử chỉ, hành động đem lại cho ta sự bình yên, hạnh phúc nhờ ta lúc nào cũng sống trong chánh niệm tỉnh giác. Sự tỉnh giác đó giúp ta làm chủ được những ý nghĩ, lời nói, hành động đang diễn ra ngay tại đây và bây giờ.

Tỉnh giác là như thế, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, ta thấy nghe hay biết trong sự định tĩnh sáng suốt, thường biết rõ ràng. Khi ta chánh niệm tỉnh giác là ta đã có mặt trong từng giây phút của sự sống, nhờ vậy mỗi giây phút của sự sống là sự bình yên, hạnh phúc. Cái hạnh phúc này là một tặng phẩm quý giá cho sự sống của chúng ta.

Đây là một việc làm rất đỗi bình thường, khi chúng ta biết tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta sẽ nhận diện và an trú những gì đang có trong hiện tại. Ta biết như vậy là ta đang hành thiền trong đi đứng nằm ngồi, đâu phải tìm cầu đâu xa. Tắm dưới vòi nước tươi mát, ta gội đầu, kỳ cọ, cảm nhận được dòng nước tươi mát trong sạch trong trạng thái an lạc, thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi làm việc gì ta biết việc đó, đừng để mọi suy tư nghĩ tưởng kéo ta về quá khứ hay mơ ước, mong mỏi đến tương lai làm cho ta dính mắc vào những lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, sầu khổ và giận hờn.

Rồi chúng ta đến trước bàn thờ Phật hay một thư phòng, đốt nén tâm hương hướng về mười phương Tam bảo, nguyện cầu Phật pháp luôn được trường tồn ở thế gian này, ai cũng đều được thấm nhuần Phật pháp để mọi người hết khổ, được vui.

Tùy theo khả năng và thời gian chúng ta có thể ngồi thiền 10 phút, 20 phút, 30 phút cho đến 1 giờ hoặc 2 giờ. Trong lúc ngồi thiền ai niệm Phật-Bồ tát thì cứ niệm Phật-Bồ tát. Ai quán sát hơi thở thì cứ quán sát hơi thở, thở vào ta chuyển hóa phiền não tham-sân-si, thở ra ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại.

Ai có chiều sâu trong tu tập thì tỉnh giác trong từng phút giây bằng cách nhận diện từng vọng niệm mà không cần phải xua đuổi hay bám víu vào nó, ngay khi đó thì tâm Phật hiện tiền mà vẫn thường biết rõ ràng trong định tĩnh và sáng suốt.

Kế đến, chúng ta thực tập thiền lạy Phật-Bồ tát. Hai tay chấp ngay trước ngực rồi từ từ đưa lên trước mặt, ngang trán, hai chân đứng với tư thế hình chữ Bát. Hai tay từ từ đưa xuống cùng năm vóc toàn thân, úp hai bàn tay xuống khi cách mặt đất khoảng 40 cm, đầu cúi theo úp xuống sát đất khoảng giữa hai bàn tay, hai đầu gối chấm sát đất.

Rồi hai tay bật lên theo sự đàn hồi của nó giống như một chiếc lò xo, trở lại tư thế ban đầu là chấp tay trước ngực. Và cứ như thế ta thoải mái, nhẹ nhàng lạy theo trình tự lúc ban đầu một cách đều đặn. Trong lúc lạy như vậy ai tu pháp niệm Phật-Bồ tát thì cứ niệm Phật-Bồ tát. Ai tu pháp hơi thở thì cứ quán sát hơi thở và ai có chiều sâu trong tu tập thì tự biết tỉnh giác nhận diện từng vọng niệm đưa chúng trở về bản tâm chân thật.

Phương pháp lạy Phật-Bồ tát này giúp cho ta tiết kiệm được năng lượng, sức khỏe, khỏi phải mất thời gian tập thể dục trong buổi sáng vì trong lúc lễ lạy ta đang thực tập phương pháp thể dục thẩm mỹ toàn diện. Cách lễ lạy này không làm cho ta mệt nhọc mà càng lạy ta càng thêm sức dẻo dai, tinh thần minh mẫn sáng suốt.

Khi lễ lạy như vậy ta chỉ một lòng hướng tâm vào thể tánh sáng suốt, dùng sự định tĩnh giống như chiếc lò xo đàn hồi bật lên, bật xuống đều đặn, nhẹ nhàng giúp cho máu huyết lưu thông toàn thân. Ta sẽ cảm nhận sự khỏe khoắn, sảng khoái, an nhiên trong khi đang lễ lạy.

Nếu có dư thời gian ta sẽ thực tập thiền đi, hành giả nào niệm Phật-Bồ tát thì chấp hai tay trước ngực vừa đi vừa niệm Phật-Bồ tát. Quý vị nên nhớ ta chỉ cần chú tâm vào câu niệm Phật-Bồ tát mà thôi, việc đi nhanh hay chậm không quan trọng. Chúng ta chỉ cần nhớ miệng niệm, tai lắng nghe từng tiếng niệm Phật-Bồ tát rõ ràng, chỉ chú tâm vào câu niệm Phật-Bồ tát và miệng niệm, tai lắng nghe.

Sau khi thực tập bước một đã hoàn chỉnh, đạt đến nhất niệm tương ưng trong lúc đi đứng nằm ngồi, kế đến chúng ta chuyển sang bước hai là miệng niệm tâm lắng nghe, và cuối cùng là tâm niệm tâm lắng nghe mà vẫn thường biết rõ ràng, nương nơi mắt thấy chỉ là thấy, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Hành giả quán sát hơi thở và tu pháp tỉnh giác thì không cần chấp hai tay trước ngực, chỉ vừa đi vừa quán sát hơi thở, thở vào ta xua tan bao phiền muộn khổ đau, thở ra ta an trú trong giờ phút hiện tại. Hành giả đã có chiều sâu thì nhìn vọng niệm giống như gió thoảng mây bay vì lúc nào cũng sống trong tỉnh giác, thường biết rõ ràng.

Chúng ta tập ngồi, tập lạy, tập đứng, tập đi, tập hoạt động trong vài ba ngày sẽ thấy tiến bộ liền tức khắc. Đây là một sự thật nhiệm mầu mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy tập sống sâu sắc và thảnh thơi như vậy trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày trong khi ăn uống, đi tiểu, đi đại và làm việc thì chỗ nào chẳng phải là thiền.

Chúng ta muốn được an nhiên, thảnh thơi như vậy thì tâm ý không được tiếc nuối quá khứ, không mơ ước viễn vông đến tương lai để chuyển hóa mọi phiền não, khổ đau mà an trú trong giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại chính là giây phút giúp cho ta bình yên, hạnh phúc ngay nơi cuộc sống này.

Nói tóm lại, trong nhà chúng ta có bàn thờ Phật thì chúng ta có thể ngồi thiền trước bàn thờ Phật, nếu không có bàn thờ Phật để lạy thì ta chọn chỗ nào trống tùy theo không gian của gia đình.

Việc làm thức ăn và ăn sáng cũng là một loại thiền tập quan trọng không thể thiếu trong đời sống vì những việc này ta phải tự giải quyết. Khi chúng ta nấu nước sôi, pha trà, pha cà phê, nấu cháo, nấu hủ tiếu, chiên cơm nguội…, chúng ta làm việc nào biết việc đó theo thứ tự. Chánh niệm tỉnh giác trong làm việc sẽ giúp cho ta biết cách chuyển hóa, soi sáng lại chính mình với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.

Tỉnh giác là cốt tủy của thiền tập làm cho trái tim ta hiểu biết và thương yêu hơn. Khi nấu nước sôi pha trà, chúng ta chỉ biết mình đang pha trà, không nhớ nghĩ quá khứ, không mơ tưởng tương lai, tâm ý thức việc ta đang pha trà là ta đang sống trong tỉnh giác. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây giúp ta sống hiểu biết hơn, yêu thương hơn và vui sống bình an, hạnh phúc với tất cả mọi người. Ai cũng có năng lực tỉnh giác, chỉ cần chúng ta kiên trì thực tập trong đều đặn thì kết quả sẽ đạt được ngoài sức tưởng tượng.

Thời gian làm thức ăn và ăn sáng có thể sẽ làm cho mọi thành viên trong gia đình đều vui vẻ vì đó là kết quả của thiền tập. Chúng ta sẽ có thể sắp xếp buổi ăn sáng cho gia đình trong vui vẻ và thuận thảo. Khi ăn sáng chúng ta đừng đọc báo, đừng nghe tin tức, đừng xem ti vi. Chúng ta cùng mọi thành viên ngồi thẳng lên, nhìn thức ăn trên bàn, mỉm cười và cùng mời nhau thưởng thức hương vị đậm chất ngọt ngào của buổi sáng.

Trước khi ăn chúng ta cần trao đổi, dặn dò điều cần làm trong ngày trước thì chúng ta sẽ ăn trong tỉnh giác. Khi ăn ta chỉ biết mình đang ăn, mặn lạt, chua cay, ngon dở ta đều biết hết. Ăn xong ta rửa bát, dọn bàn và sẽ cảm nhận được một ngày mới tươi đẹp bên mái ấm gia đình.

Sau khi ăn sáng xong, mọi người tiếp tục với nhiệm vụ của mình. Ta chỉ cần nhận diện mặt mũi xưa nay của chính mình, khi làm việc gì ta chỉ biết việc đó, cứ như thế ta suy nghĩ, nói năng, hành động trong tỉnh giác. Như vậy, mỗi ngày chúng ta có mặt là một ngày chúng ta có thiền, có tỉnh, có giác, có biết mà vẫn an nhiên, tự tại. Cuộc sống như thế có gì làm cho ta phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta đã biết rõ như vậy nhưng vẫn còn tập khí, tức là thói quen. Đây là những thói quen xấu được lặp đi, lặp lại nhiều lần nên nó sai sử ta chạy theo những vọng niệm nhớ nghĩ, tiếc nuối về quá khứ hay mơ tưởng viễn vông đến tương lai mà đánh mất chính mình trong hiện tại.

Chính ta mải dính mắc vào quá khứ hay lo lắng cho tương lai nên ta không đủ khả năng để nhận diện những sai lầm đã qua mà có thể sống an lạc, trong hiện tại. Chúng ta luôn nhớ về quá khứ mà tiếc nuối trong đau buồn rồi lại suy đoán, dự kiến, chuẩn bị, mơ ước về những hoài bão trong tương lai để đạt được hạnh phúc.

Khi mới bắt đầu thiền tập và đang đi vào thiền tập, chúng ta sẽ bị những thói quen lo lắng, sợ hãi về tương lai. Chính những lo lắng, bồn chồn ấy đã làm cho ta không an trú vững chải được trong hiện tại. Tuy nhiên, ta phải kiên trì và bền bỉ để đến một lúc nào đó làm chủ được những thói quen ấy mà không bị nó lôi đi như trước kia nữa.

Có rất nhiều người luôn bị quá khứ ám ảnh với sự tiếc thương, hờn oán, hối hận và khổ đau. Chính khi ấy họ không thể sống bình yên trong giây phút hiện tại. Nếu trong quá khứ chúng ta từng bị bạc đãi, từng bị khổ đau vì chuyện tình ái, ta phải biết cách thực tập thiền để quá khứ kia tự động chìm lắng.

Chúng ta biết cách thiền tập trong đi đứng nằm ngồi, trong lúc ăn uống, làm việc hoặc nghỉ ngơi là ta luôn luôn trở về với thực tại nhiệm mầu. Khi chúng ta không tiếc nuối hay nhớ nghĩ về quá khứ, không bị tương lai làm xáo động tâm tư là ta đang được tự do và an lạc trong giờ phút hiện tại.

Tóm lại, từ khi mở mắt thức dậy rồi đi tiểu, đi đại, chải răng, tắm gội, mặc quần áo, ăn uống, đi bộ, làm việc, lái xe…, chúng ta hãy để hết tâm ý vào việc chúng ta đang làm như là một thực tại trong cuộc sống. Ta chỉ tìm an lạc và hạnh phúc ngay trong những phút giây ấy chớ không phải mong mỏi, tìm cầu đâu xa. Đó là một thực tế ít ai ngờ đến.

Nhiều người cứ nghĩ rằng tu là phải vô chùa, ở hang sâu rừng thẳm, không ngờ tu chỉ là đơn giản như vậy. Sự đơn giản ấy là một phép nhiệm mầu và chính ta làm nên phép nhiệm mầu ấy, không ai có thể ban phước giáng họa cho ta.

TẬP 2

ĐỂ TRỞ THÀNH PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH

Thích Đạt Ma Phổ Giác

LỜI ĐẦU SÁCH

Đôi lời bộc bạch chân thành, chúng tôi viết quyển sách này cho những ai muốn trở thành người Phật tử chân chính. Bước đầu học Phật rất quan trọng, nếu đi sai lệch sẽ làm trở ngại trên bước đường tu học. Người mới bắt đầu học Phật không hiểu đúng tinh thần Phật giáo sẽ khó được thành tựu viên mãn. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng cho họ nền móng vững chắc để thực hiện đúng lời Phật dạy, biết cách phân biệt chánh tà, đúng sai, tốt xấu.

Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày mới mong trở thành người Phật tử chân chính. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh vật chất dưới sự tiếp cận của khoa học hiện đại, do đó cần phải truyền bá Phật giáo thích hợp với căn cơ, trình độ của mọi người mà vẫn giữ được bản chất giác ngộ, giải thoát.

Mục đích của đạo Phật là tìm ra lẽ thật của thân tâm và hoàn cảnh. Chúng ta phải nói ra những gì chân thật để mọi người hiểu đúng Phật giáo mà không còn nghi ngờ điều gì. Phá bỏ những tập tục mê tín của các truyền thuyết khác xen vào làm mờ tối đạo Phật là việc cần thiết tối quan trọng nhằm giúp mọi người tin sâu nhân quả theo nguyên lý duyên sinh, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.

Ai làm người cũng muốn mình là người tốt để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội; tiến xa hơn nữa là thành tựu công đức viên mãn bằng cách giữ ý nghĩ trong sạch, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành mà cùng nhau chia vui sớt khổ bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Một con người muốn quy hướng về Phật giáo trước hết phải tìm hiểu ý nghĩa và mục đích của đạo Phật. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu rõ những lời Phật dạy về đạo làm người, sống như thế nào cho đúng trong đối nhân xử thế mà không làm tổn hại người khác.

Chúng ta muốn làm việc gì phải hiểu rõ mục đích của việc ấy. Mục đích của đạo Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tức là phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi. Khi chúng ta đã thật hiểu rồi mới phát lòng tin sâu đối với Phật pháp và quyết tâm thực hành tránh dữ làm lành để đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình, gia đình, người thân và phục vụ tốt cho xã hội.

Phật pháp trước tiên dạy chúng ta không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, giữ ba nghiệp thân-miệng-ý được trong sạch. Như thế nào là ác? Là những ý nghĩ, lời nói và hành động làm tổn hại người khác trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là thiện? Là những ý nghĩ, lời nói và việc làm có lợi ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là ý nghĩ trong sạch? Là ý nghĩ hợp với lẽ phải, không tham lam ích kỷ, không sân giận si mê, không ganh ghét tật đố, không gây hậu quả khổ đau cho mình và người khác. Ý nghĩ trong sạch được biểu hiện qua lời nói thì lời nói hiền hòa, khi biểu hiện ra nơi hành động thì hành động chân chính làm cho mình và mọi người đều an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta muốn thực hiện ba nguyên tắc trên cho được trọn vẹn thì trong hiện tại phải bắt đầu từ đâu? Trước tiên, chúng ta sẽ phát khởi lòng tin chân chính đối với Tam Bảo. Như thế nào là lòng tin chân chính? Là tin những lời Phật dạy có lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người, như chúng ta tin gieo nhân tốt sẽ hưởng quả tốt, gieo nhân xấu sẽ lãnh quả xấu.

Nhân quả tốt xấu sẽ theo ta như bóng với hình dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi đủ duyên quả báo đến tức thì. Ngược lại, chúng ta không tin những điều mơ hồ, viễn vông có tính cách suy đoán, mơ tưởng không phù hợp đạo lý nhân quả. Như chúng ta không tin có một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa là đúng lời Phật dạy, vì nhân quả ai làm nấy chịu, không ai có thể thay thế cho ai được.

Khi một người biết đi chùa, thờ Phật, lễ Phật, tụng kinh, sám hối, làm phước, cúng dường, nghe Tăng Ni thuyết pháp hoặc tham dự các khóa lễ, khóa tu có nghĩa là người đó đã xác nhận mình là Phật tử. Nhưng để trở thành người Phật tử chân chính chúng ta cần phải biết rõ mục đích cốt lõi của đạo Phật là gì.

Đạo Phật không bắt buộc người Phật tử phải thực hành những điều họ chưa thể làm được, nhưng chúng ta phải cố gắng áp dụng những điều căn bản bằng cách tránh dữ làm lành để không làm tổn hại cho mình và người khác.

Có những người đi chùa nguyện cho tai qua nạn khỏi, cầu cho gia đình khỏe mạnh bình yên, cuộc sống ngày càng thêm tốt đẹp. Nguyện cầu như thế không có gì là sai nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Lại có nhiều người nữ nghĩ mình tội chướng ràng buộc, trong một kiếp này dễ gì giác ngộ, giải thoát sinh tử nên đi chùa cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, xuất gia tu hành làm bậc đạo cao đức trọng. Họ không hiểu rằng muốn thân nữ chuyển thành thân nam thì phải từ bỏ nghiệp luyến ái chấp thân.

Có những người do hoàn cảnh đời sống gặp nhiều phiền muộn, khổ đau bởi chướng duyên nghịch cảnh nên đến chùa cầu mong hiện tại và mai sau không còn gặp cảnh bất như ý nữa. Cầu như vậy cố nhiên vẫn tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Có những người cảm thấy cuộc sống trần gian không có gì bền chắc, lâu dài, dù giàu có hay quyền cao chức trọng vẫn phải lo lắng và khổ cả thân tâm. Họ mong mỏi, hy vọng đến chùa để kiếp sau được sanh lên các cõi trời hưởng thú vui vật chất lâu dài. Cầu như thế cũng là điều tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Khi chúng ta đã tự vạch cho mình một lối đi đúng đắn thì ta cần phải tập làm quen dần với con đường mình đã vạch ra. Bất cứ người nào lần đầu tiên đến chùa cũng cảm thấy xa lạ và bỡ ngỡ. Từ cách xưng hô đến những hình thức, lễ nghi trong chùa đều làm chúng ta ngỡ ngàng, áy náy.

Có người từ nhỏ tới lớn chưa một lần bước chân đến chùa, nay bỗng dưng tới chùa quy hướng về Tam bảo rồi làm lễ quy y tự mình xác định làm đệ tử Phật. Người có chút hiểu biết khi muốn làm việc gì họ đều tìm hiểu và tham khảo trước rồi sau đó mới quyết định.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo của con người, là đạo của tình thương, vì con người mà đạo Phật đem lại niềm an vui, hạnh phúc cho những ai có đầy đủ nhân duyên. Muốn có được niềm an vui, hạnh phúc thật sự người Phật tử cần phải có chí hướng thượng và cầu tiến bộ trong sự quyết tâm cao độ.

“Để trở thành Phật tử chân chính” là quyển sách được chia ra làm nhiều tập với đầy đủ nội dung về đạo làm người, tuy xúc tích và ngắn ngọn, đơn giản và thiết thực nhưng có thể giúp cho tha nhân phân biệt được chánh tà, phải quấy, tốt xấu, đúng sai để từng bước hoàn thiện chính mình mà sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Kính ghi

Thích Đạt Ma Phổ Giác

BÀI 12- CHÁNH TÍN NHÂN QUẢ PHÁ TRỪ MÊ TÍN

Đạo Phật chủ trương lấy nhân quả làm nền tảng của sự sống để phản ảnh mọi lẽ thật hư trong cuộc đời này bằng ánh sáng trí tuệ nhằm thấu suốt nguyên lý thế gian. Mọi lẽ thật giả đều hiện bày sau khi có sự chiêm nghiệm và suy xét bởi ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin là "chánh tín". Ngược lại, tin mà không hiểu rõ cội nguồn của mọi lý lẽ là tin càn tin bướng, người tin như thế là "mê tín". Chính vì thế, người học đạo cần phải có lòng tin, song lòng tin ấy đã trải nghiệm qua sự quán chiếu, suy xét và có chọn lọc kỹ càng.

Mê tín là lòng tin mù quáng không thấy đúng lẽ thật, không thấy đúng chân lý vì mê muội. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao giải hạn, tin có một người ban phước giáng họa… Những lối tin này không có logic, không đủ bằng chứng, không có lợi ích nên gọi là mê tín vì đi ngược lại với giáo lý nhân quả. Mê tín có hai loại:

Mê tín do tâm mong cầu quá đáng – Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng thì dễ sinh mê tín. Ví như một người muốn vay một số vốn lớn làm ăn nhưng không biết kết quả tốt hay xấu, lòng họ thấy băn khoăn, lo lắng mà không biết hỏi ai, tin ai. Họ nghe nói có một ông thầy biết được quá khứ vị lai, đoán trúng được vận mệnh của mọi người thì liền tìm đến cầu thầy chỉ dạy. Tiền quẻ chỉ tốn có năm bảy trăm hoặc vài ba triệu là biết việc làm thành công hay thất bại thì ai mà không ham, chính vì lòng tham và sự mong cầu quá đáng mà dẫn con người ta đến mê tín dị đoan.

Mê tín do tâm lo lắng sợ hãi – Con người ta hay lo lắng sợ hãi, suy nghĩ vu vơ là gốc sinh ra mọi điều mê tín. Có những người bị tai nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, con trai thi rớt, con gái bị bệnh… nên mất bình tĩnh, nghe đồn ông thầy đó coi tay xem tướng rất giỏi và có thể trừ được tà ma, yêu tinh quỷ mị thì liền tìm đến. Hoặc có người sợ vận sui hạn xấu nên đầu năm đến chùa cúng sao giải hạn cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình được an vui may mắn. Hoặc có người vì thương cha mẹ quá cố có thể đọa vào địa ngục chịu đói khổ nhọc nhằn nên bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho, xe cộ cùng giấy tiền vàng bạc đốt xuống để cha mẹ được an hưởng nơi âm ty. Mọi sợ hãi đều bắt đầu từ sự mê tín.

Đã làm người ai cũng có ước mơ hay mong cầu một điều gì đó, vì mong cầu rồi sợ bất như ý nên lo lắng, sợ hãi. Chính vì chưa thấu rõ hết nguyên lý nhân-duyên-quả trong bầu vũ trụ bao la với thiên nhiên huyền bí nên con người dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan. Dù là người học cao hiểu rộng mà trong tâm vẫn có niệm mong cầu và sợ hãi, hoặc quá tham lam cũng sẽ bị mê tín dị đoan chi phối.

Vì sao gọi là mê tín?

Mê tín là lối tin mù quáng khiến con người mất hết khả năng suy đoán và phán xét của mình. Một số người chủ trương mê tín làm mê hoặc thế gian để hưởng lợi cho riêng mình. Một cuộc sống ấm no và bền vững có được bởi con người văn minh, bởi một dân tộc có hiểu biểu chân chính khi đã thông suốt mọi lý lẽ, không cho phép sự mê tín len lỏi trong cộng đồng xã hội.

Tập tục cúng sao giải hạn

Ngày hôm nay, khoa học hiện đại trên đà tiến bộ giúp cho con người nhận ra lẽ chân thực của cuộc đời nên những tập tục cúng sao giải hạn trong các chùa chiền cần phải nên chấm dứt. Chúng ta quá lạc hậu và lỗi thời vì các ngôi sao là những hành tinh cách xa chúng ta tận bao nhiêu ngàn cây số.

Tập tục cúng sao giải hạn có nguồn gốc từ Lão giáo - Trung Hoa, không phải của đạo Phật. Có những tập tục đem lại lợi ích thiết thực giúp ích cho con người và cũng có những tập tục làm cho con người mất hết năng lực làm chủ bản thân. Tập tục cúng sao giải hạn vào những ngày đầu năm tuy có nguồn gốc từ Lão giáo nhưng ngày hôm nay hầu hết các chùa chiền đều lấy đó làm nghi lễ quan trọng đầu năm.

Mong muốn có một năm mới tốt đẹp, bình an, hạnh phúc là những ước nguyện thông thường của một con người đối với gia đình, người thân và xã hội. Tập tục cúng sao giải hạn đầu năm thực chất cũng như một phương tiện dẫn dụ con người đến với đạo Phật nhanh nhất. Tuy nhiên, khi họ đã đến với Chánh pháp rồi thì những người hướng dẫn phải chỉ dạy cho họ về Chánh tín nhân quả.

Có nhiều người đi cúng sao giải hạn đầu năm trên tay cầm theo hàng xấp giấy in ghi rõ tên tuổi để đến mỗi chùa tìm cách dán trên chiếc chuông, chiếc trống. Nhà chùa không cho dán bên ngoài chuông thì họ dán bên trong. Thử hỏi làm sao chiếc chuông có thể giải được cái hạn khi nó đã chín mùi và quả xấu đã trổ.

Mỗi năm vào ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch, hàng vạn người đội sớ trên đầu cầu xin được bình an, mong những điều xấu không đến với bản thân và gia đình. Có chùa chỉ việc ngồi đọc các tên và tuổi để cúng sao giải hạn mà cũng không hết, các thầy phải thay nhau đọc đến khản cả cổ mà danh sách vẫn còn hàng xấp.

Những người Phật tử chân chính đến chùa mong tụng một thời kinh cầu an đầu năm chờ mãi không được đành ngao ngán quay về. Có người lại lập luận rằng cúng sao giải hạn chẳng có gì xấu, cần phải cúng sao giải hạn mới thu hút được mọi người đến chùa, nếu không thì không ai tới. Ý kiến này chỉ đúng khi ngôi chùa đó chẳng bao giờ thuyết pháp, sống dựa vào những tập tục tín ngưỡng dân gian nên trong chùa thờ phượng đa sắc thái, không truyền tải được tinh thần đạo Phật chân chính với tất cả mọi người.

Như chúng ta đã biết, tất cả mọi người học Phật ai cũng hiểu giáo lý nhà Phật đều dựa trên nền tảng của nhân quả, nói cho đủ là nhân duyên quả.

Nhân là nguyên nhân, là hạt giống; quả là kết quả do gieo nhân mà được và nhờ duyênthời tiết, chăm sóc, kỹ thuật… , nên một đời sống cá nhân hay một cộng đồng đều do nhân quả mà ra. Chính vì vậy, khi một người gieo nhân dù tốt hay xấu thì nhất định người đó phải nhận lấy kết quả tốt hoặc xấu mà mình đã gieo chỉ sớm hay muộn mà thôi. Nếu muốn hóa giải nghiệp xấu ác thì chúng ta phải nỗ lực tu tập, trì chay, giữ giới, làm nhiều việc thiện ích.

Ví dụ, khi chúng ta lỡ gieo tạo nhân sát sinh hại vật thì ta biết chắc hậu quả của nó trong nay mai là bệnh tật triền miên hoặc chếu yểu, hay thường gặp những tai nạn bất ngờ. Khi biết được thế chúng ta quyết tâm nỗ lực sám hối, bố thí cúng dường, phóng sinh… thì quả có thể trổ theo hướng khác nhẹ hơn hoặc bị triệt tiêu. Trong đời sống hằng ngày chúng ta thọ nhận những việc tốt xấu đều do chính mình tạo nhân nên khi quả tốt đến thì vui vẻ, hạnh phúc, ngược lại đành phải chấp nhận và tìm cách hóa giải nó.  

Tập tục cúng sao giải hạn là đi ngược lại lời Phật dạy trong các kinh điển, nhưng tại sao nó vẫn còn tồn tại ở các chùa chiền? Một giả định khác, nhiều người cứ đinh ninh rằng nếu đem tiền vào chùa cúng sao giải hạn thì tật bệnh sẽ được tiêu trừ và tai qua nạn khỏi. Chính đức Phật cũng từng khẳng định: Ta không có khả năng ban phước hay giáng họa cho bất kỳ ai, ta chỉ là người thầy dẫn đường, còn làm được việc tốt hay xấu là do tất cả mọi người”.

Nếu ai cũng tin sâu nhân quả thì mọi việc nên hư, tốt xấu, thành công, thất bại đều do con người tạo ra. Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất định sẽ đến, không phải chúng ta cầu xin mà nó đến, cũng chẳng phải ta xua đuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành quả thì phải chịu.

Song, nhân quả không phải đơn thuần mà rất đa dạng và phức tạp, chẳng phải chỉ do nhân trực tiếp ở đời hiện tại mà còn do nhân gián tiếp của nhiều đời, chỉ khi nào chúng ta tạo nhiều nhân lành thì quả xấu đến sẽ nhẹ đi hay giảm bớt đôi phần.

Tập tục đốt giấy tiền vàng mã

Trong đạo Phật không có kinh điển nào dạy đốt giấy tiền vàng mã để cúng người quá cố hoặc rải giấy tiền vàng bạc khi đưa tiễn người mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng từ lâu, việc đốt vàng mã với Phật tử nói riêng và những người có tín ngưỡng dân gian sâu đậm nói chung vẫn tiếp tục duy trì tập tục này.

Chúng ta cần phải nói rõ, theo quan điểm của đạo Phật thì tập tục đốt giấy tiền vàng mã là một việc làm lãng phí, tốn kém, không có tác dụng lợi ích thiết thực. Thay vì bỏ tiền ra mua giấy tiền vàng mã thì tại sao chúng ta không làm những việc lợi ích khác cụ thể và thiết thực hơn như bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia cho những mảnh đời bất hạnh.

Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là một tập tục có từ lâu đời trong dân gian do ảnh hưởng văn hóa từ thời cổ đại trong xã hội Trung Hoa. Ngày xưa, người ta quan niệm cõi này là cõi tạm, cõi âm mới là cõi lâu dài nên khi chết phải chôn theo tài sản và của cải. Những nhu cầu tiêu xài khi còn sống như thế nào thì khi chết cũng sẽ như thế đó. Do tin tưởng một cách cuồng tín như vậy nên thân nhân của người chết sẽ chôn theo những vật dụng cần thiết, kể cả tiền bạc để người chết tiêu xài. Đây là sự biểu lộ mối thâm tình sâu đậm của con người đối với gia đình, người thân và người có công trạng giúp ích cho đất nước, nhưng về sau họ cân nhắc lại và thấy việc chôn theo các vật dụng và tiền bạc thật quá lãng phí. Tập tục làm đồ giả chôn theo người chết được hình thành từ đó bởi sự tính toán của những nhà kinh doanh sống trên sự mê tín của người khác. Họ triết lý rằng nếu không làm vậy thì sẽ bị thần linh quở phạt. 

Phật dạy con người sau khi chết tùy theo nghiệp tốt xấu đã gieo trong hiện tại mà được tái sinh vào những cảnh giới thiện-ác khác nhau trong 3 cõi 6 đường. Vì chúng sinh tạo nghiệp bất đồng nên tái sinh vào nhiều cảnh giới khác nhau nên đương nhiên việc thọ hưởng vật dụng của mỗi loài cũng khác nhau. Nếu chúng sinh đó hiện đời biết gìn giữ 5 Giới và biết quý kính Tam bảo thì đương nhiên sẽ được tái sinh trở lại làm người và có thể thần thức người đó đang nằm trong bào thai mẹ. Nếu trong hiện đời người đó tạo nghiệp ngu si, mê muội thì sẽ bị đọa vào loài súc sinh tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có quả báo tương xứng. 

Chính trên trần gian này đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận thì huống hồ tiền nhân gian in nhưng lại xài dưới âm phủ, chưa kể đến những vật dụng bằng giấy như quần áo, nhà lầu, xe hơi được đốt xuống âm ty cho người chết dùng thật lãng phí và tốn kém vô ích.

Những Phật tử vì chưa thông hiểu giáo lý Phật dạy và chưa có được niềm tin nhân quả thấu đáo nên đôi khi cũng đốt giấy tiền vàng mã cho người chết. Thay vì bỏ tiền ra mua giấy tiền vàng mã để đốt thì tại sao chúng ta không làm những việc lợi ích, thiết thực hơn như bố thí cúng dường, giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh bị bệnh hoạn, tàn tật, nghèo đói… rồi đem những công đức này hồi hướng cho hương linh người chết. Đây mới là việc làm Chánh tín nhân quả “âm dương lưỡng lợi” đúng theo quan điểm từ bi và trí tuệ của đạo Phật. Là người Phật tử chân chính chúng ta nên nghe theo lời Phật dạy mà tránh những việc làm mê tín vô ích có tính cách làm tổn hại cho mình và người.

Tập tục đồng cốt

Đồng cốt là hiện tượng mê hoặc khủng khiếp, hiện tượng ông lên bà xuống này đều là những người sống trong trạng thái bất bình thường, tâm hay mong cầu quá đáng. Những người này không làm chủ được bản thân, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi những ma lực ấy dựa vào họ thì liền lạm dụng các danh hiệu xưa người đời hay tôn sùng, gọi là bậc thánh để lừa bịp người nhẹ dạ cả tin.

Phật dạy không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục để giáo hóa chúng sinh, vì các ngài khi tu chứng đều có thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là do những loài yêu tinh ma mị của quỉ thần gá vào. Chúng vì sợ người đời không tin nên mạo xưng những danh hiệu như Tề Thiên Đại Thánh hoặc Thánh mẫu Quan Âm chẳng hạn để tạo uy tín. Chúng ta là người Phật tử chân chính biết rõ tính cách ma mị của đồng cốt nên cần phải tránh xa.

Tập tục coi tay xem tướng

Coi tay, xem tướng cũng có khi trúng, khi trật vì còn tùy thuộc nghiệp báo, phước đức của người đó. Chính vì vậy, ông thầy luôn nói câu thòng “tay hay tướng của ông có biểu hiện điều xấu, có thể đến tháng đó ông sẽ bị mắc nạn, nếu ông ngay bây giờ biết tu tâm sửa tánh, làm lành lánh dữ thì mọi tai nạn có thể qua khỏi”. Nếu đến tháng đó người ấy mắc nạn thì khen ông thầy xem trúng quá, bằng không mắc nạn thì ông thầy nói do mình biết tích phước làm lành. Như thế, đứng về mặt nhân quả tốt hay xấu ông thầy cũng đoán trúng hết. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ lại xem, coi tay xem đoán vận mạng tốn một số tiền nhưng khi mắc nạn chúng ta cũng phải tự chịu, lại còn mắc thêm bệnh lo vì nghĩ về chuyện chưa chắc sẽ xảy ra. Ngược lại, nếu mình tai qua nạn khỏi là do mình có phước nên chuyển hóa được nghiệp xấu thì hóa ra ông thầy đâu giúp gì cho mình. Như vậy, chúng ta đi coi bói làm chi cho uổng tiền mà mắc bệnh thêm lo nữa rồi bất an, sợ hãi vì cứ nhớ nghĩ đến nó hoài.

Nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả, tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc thì ta chỉ cần phát tâm làm việc tốt có lợi ích cho mình và người thì điều tốt sẽ đến. Người quá tham lam hay mong cầu những điều thiện lành đến với mình thì chỉ việc gieo nhân quả tốt, còn quả đến sớm hay muộn là do duyên phụ thuộc. Thế mà chúng ta không ứng dụng ngay cội gốc mà lại chạy theo ngọn ngành để hao phí tiền bạc một cách vô ích. Đó gọi là mê tín.

Xin xăm bói quẻ

Xin xăm bói quẻ là một việc làm cầu may do lòng tham lam của con người. Vận mạng chúng ta chỉ ứng quẻ trong 100 cây xăm do người đời đặt ra có tốt có xấu, có may có rủi. Chúng ta phó thác vận mạng của mình vào chỗ không có duyên cớ, không có lẽ thật rồi tin vào đó để tiền mất mà lại thêm lo. Thánh, Thần nào có rảnh đâu mà ngồi sẵn nơi đó để ứng hiện phán xét trong quẻ xăm cho quí vị. Con người gặp lúc phước đến thì lắc quẻ nào ra cũng đều tốt hết, nếu thật sự gặp họa thì lại rút nhằm lá xăm xấu. Chính chúng ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, mình làm lành được phước, mình làm ác gặp họa khổ đau. Thế là tốt xấu do mình, không phải tại xăm quẻ mà có tốt xấu. Chúng ta cứ tu tâm dưỡng tánh, thận trọng từng ý nghĩ cho đến lời nói để khi làm việc gì cũng không tổn hại cho ai. Như vậy chúng ta đi xin xăm bói quẻ để làm gì? Xin xăm bói quẻ khiến chúng ta thêm bất an, lo lắng, sợ hãi khi gặp quẻ xấu và sẽ ỷ lại khi gặp quẻ tốt. Chúng ta làm một việc không có lợi ích mà lại hao tốn tiền của, mang lo vào lòng thì như vậy không phải mê tín là gì?

Ứng dụng nhân quả để phá trừ mê tín

Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trong bầu vũ trụ bao la này được hình thành không một vật nào nằm ngoài nhân quả. Khi cái này có thì cái kia có, khi cái này không thì cái kia không. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Thấy rõ lý nhân quả chúng ta chuyển xấu thành tốt, chuyển dở thành hay, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thấu rõ lý nhân quả chúng ta sẽ biết cách làm chủ bản thân mà sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha. Chúng ta tin sâu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày thì việc gì cũng sẽ tốt đẹp.

Đứng về mặt không gian, vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. Không một vật nào do một đơn vị làm nên mà phải nhiều đơn vị hợp lại mới thành hình. Chính vì thế, lý nhân duyên quả thích ứng với tinh thần phân tích của khoa học hiện nay. Nếu sự vật do một đơn vị làm nên thì còn gì cần phân tích. Bởi nhiều đơn vị hợp thành một vật thể nên người ta mới phân tích chia ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử mà người ta phân tích trong đó vẫn có nhiều phần hợp thành, huống là những vật thể to tát.

Đạo Phật là đạo của giác ngộ, là đạo của từ bi và trí tuệ nên lấy nhân duyên, nhân quả làm nền tảng. Nếu chúng ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín thì đây chính là những oan tình của đạo Phật, chẳng qua một số người vì thiếu hiểu biết, vì chạy theo tín ngưỡng, tập tục của thế gian nên làm ảnh hưởng đến Phật pháp chân chính.

Lý nhân duyên quả nhà Phật nói là một lẽ thật đúng với tinh thần khoa học hiện thời, hiểu được lý nhân duyên quả chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Đây là lý do khiến dẹp được quan niệm cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân loại chứ không riêng của một cá nhân. Chúng ta tin lý nhân duyên quả là tin bằng trí tuệ, là thấy biết đúng như thật nên gọi là chánh tín.

Thế mà hiện nay có nhiều Tăng sĩ trụ trì khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút liền bảo đến chùa thầy cầu phúc cho; nghe con cháu Phật tử sắp thi cử thì bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tử than gia đình xảy ra tai nạn thì bảo đến chùa thầy cúng sao giải hạn cho… Đó là chúng ta đang truyền đèn nối đuốc Như Lai hay làm lu mờ Chánh pháp? Chúng ta là những người hướng dẫn, kế thừa sự nghiệp của Như Lai. Bước đầu vì phương tiện thiện xảo để giúp người đến với Phật pháp, sau đó chúng ta phải lấy lời Phật dạy chân chính là nền tảng nhân quả mà hướng dẫn cho quý Phật tử. Làm được như vậy chúng ta mới xứng đáng là con nhà Thích tử truyền trao mạng mạch của Như Lai để mọi người thấm nhuần Phập pháp.

Như chúng ta đã biết, nghề tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai về vận mạng của một con người qua tình duyên, học hành, thi cử, chọn hướng nhà cửa phong thủy thích hợp, chọn ngày giờ tốt khai trương, cưới hỏi, tang ma, giải hạn dựa theo ngày tháng, năm sinh, tuổi tác.

Có nhiều hình thức bói toán, nhưng có 4 loại phổ thông đối với người Việt Nam chúng ta. Đó là bói bài, xem lá số tử vi, bói ngày tháng năm sinh-tuổi tác, xem chỉ tay-coi tướng và lên đồng nhập cốt.

Bói bài là dựa vào việc giải đoán những dấu hiệu cũng do con người vẽ ra nơi những con bài nên chỉ phỏng đoán chung chung, không có cơ sở chính xác. Việc coi lá số tử vi là dựa trên sự tương tác của các ngôi sao vào lúc người đó chào đời, những ngôi sao này mang một số đặc tính nhất định được biểu trưng qua sự sắp xếp của thần linh, nhưng tất cả đều do con người đặt ra, do đó mức độ chính xác tối đa khoảng 70% là cùng. Còn việc xem chỉ tay coi tướng cũng do con người sắp đặt, chỉ tay có thể thay đổi trong thời gian từ 3 tháng đến 6 tháng, tướng trạng con người cũng thay đổi theo thời gian tùy theo việc làm tốt xấu. Việc bói qua hình thức lên đồng là có một vong linh người chết nào đó nhập vào rồi tự xưng mình là thánh này thần nọ khuyên người phải cúng bái quỷ thần để cầu khẩn, van xin điều gì đó. Việc làm này có khi linh hiển có khi không.

Ngay cả việc coi ngày tốt xấu cho việc khai trương, khánh thành, xây cất nhà cửa, coi ngày giờ tốt xấu cũng không rõ ràng và chính xác nên dễ dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho con người ta bất an và sợ hãi. Việc định ngày giờ tốt xấu ghi trên lịch sách hoàn toàn không có cơ sở chân chính mà chỉ dựa theo tín ngưỡng dân gian do kinh nghiệm của một số người. Vì mưu cầu lợi ích kinh doanh trong việc sinh sống mà các nhà làm lịch sách in thêm phần coi ngày giờ tốt xấu, họ tự đặt ra ngày này tốt ngày kia xấu để áp đặt cho một số người nhẹ dạ cả tin chấp nhận có một đấng thần linh ban phước giáng họa. Ai theo truyền thống này chỉ tin tưởng và làm theo chứ không có quyền suy xét, tìm tòi lẽ đúng sai. Thật ra, mọi việc tốt xấu là do con người làm ra theo nguyên lý duyên sinh, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau.

Trong cuộc sống, con người vì mưu cầu hạnh phúc và vì lòng tham muốn quá đáng nên luôn lo lắng cho vận mạng của mình trong tương lai tốt xấu như thế nào nên việc xem tử vi bói toán ngày càng phổ biến. Người giàu nhiều của cải, có địa vị, danh vọng nếu không hiểu biết Phật pháp, tin sâu nhân quả thì lại càng bói toán, xem phong thủy nhiều hơn, mục đích để làm sao không bị thất thoát. Kẻ nghèo vì muốn đổi đời nên hy vọng bói toán để xem vận mạng có được tốt hay không, nhất là những ngày đầu năm mới. Nhiều người từ việc mua nhà, đi xa, khai trương, dựng vợ gả chồng, cho đến việc tang ma… nhất nhất đều tìm đến những người coi bói toán để được sự hướng dẫn làm đúng theo ngày giờ tốt xấu. Tử vi, bói toán, coi tay xem tướng, hiện tượng đồng cốt đang lan rộng ra khắp cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Nhiều người, nhiều giới và nhiều nơi đang bị sự mê tín này chi phối quá lớn.

Người phương Tây không cần coi ngày giờ tốt xấu khai trương cửa hàng nhưng họ vẫn giàu có hơn các nước có nhiều người mê tín. Họ không có thờ thần tài, thờ ông địa nhưng vẫn làm ăn buôn bán, phát triển công nghệ khoa học kỹ thuật cao, mau chống làm giàu nhờ tích cực tự nguyện đóng góp lợi ích cho đất nước. Họ chỉ tính toán ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch làm việc. Họ siêng năng, cần mẫn làm theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp của mình một cách có ý thức.

Mê tín đem lại rất nhiều tai hại không thể lường trước được. Nó có thể làm tổn thương, thiệt hại nặng nề về sự văn minh tiến bộ của con người. Nó có thể làm tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, con cái chia lìa và có thể làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu: “Tay cầm tiền của bo bo. Đi coi thầy bói mang lo vào người.”

Người hay đi xem bói toán tử vi, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu là người không tự tin chính mình, không tin sâu nhân quả, không đủ khả năng làm chủ bản thân vì lòng tham muốn quá đáng và nỗi sợ hãi về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Tóm lại, mê tín là một tệ nạn xã hội, nó làm cho con người ngày càng trở nên yếu hèn, mất tự tin chính mình vì si mê, mờ mịt. Chúng ta là chủ của bao điều họa phúc, mình gieo nhân xấu sẽ kết thành quả xấu, mình gieo nhân tốt sẽ kết thành quả tốt. Con người ta thường hay mâu thuẫn, muốn cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi quả xấu mà không chịu dừng nghiệp xấu. Chúng ta muốn sống trong một xã hội văn minh, lành mạnh, bền vững và lâu dài thì mọi người cần phải tin sâu nhân quả, tin mình có đủ khả năng làm chủ bản thân, mọi việc tốt xấu, nên hư, thành bại đều do ta tạo lấy.

Song, nhân quả không phải đơn thuần mà đa dạng và phức tạp, có nhân mình vừa gieo liền thọ quả, có nhân phải chờ một thời gian, có nhân phải trải qua nhiều đời và có khi gieo nhân mà không có kết quả vì không đủ duyên. Biết rõ nhân quả tốt xấu do mình tạo ra nên chúng ta phải can đảm nhận chịu và tìm cách chuyển hóa không chút sợ hãi, buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân và chính mình làm chủ thọ quả thì còn cầu khẩn van xin làm gì. Chúng ta tin chắc lý nhân quả như thế thì mọi sự mê tín sẽ không có chỗ để xen vào làm phá hủy Chánh tín nhân quả.

BÀI 13- CÁCH THỨC THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT

Sau khi quý Phật tử đã quy y Tam bảo rồi thì cần biết cách thức thờ Phật như thế nào cho đúng. Tục ngữ có câu: “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Lòng biết ơn là một đức tính quí báu, người Phật tử chân chính lúc nào cũng khắc cốt ghi tâm để tìm cách trả ơn.

Một xã hội mà có nhiều phần tử xấu thường quên ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát thì không thể tồn tại lâu dài. Sự không biết ơn và đền ơn sẽ làm băng hoại đạo đức và làm ảnh hưởng xấu đến nhiều người khác. Chính vì vậy, để tôn vinh lòng biết ơn, để soi sáng lại chính mình chúng ta cần phải thờ Phật, lạy Phật và cúng Phật đúng cách thức như sau: 

1- Thờ Phật

Phật là bậc phước đức và trí tuệ vẹn toàn, có đầy đủ phẩm chất, đức hạnh cao quý. Chư Phật đã dùng đức từ-bi-hỷ-xả nhằm dẫn dắt chúng sinh ra ngoài biển khổ sông mê để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Phật có đủ 3 đức tính quý báu là Bi-Trí-Dũng, 3 đức tính căn bản mà một con người muốn được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn không thể thiếu được.

Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng biết ơn đối với Phật - bậc đã có đầy đủ đức tính từ bi và trí tuệ rộng lớn. Chúng ta thờ Phật để được học hạnh cao quý của Ngài và cố gắng bắt chước phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành tựu viên mãn.

Chúng ta phải thờ đức Phật nào mới đúng? Đức Phật nào cũng từ-bi-hỷ-xả và có vô lượng ánh sáng trí tuệ nên gọi là vô lượng quang, cùng với tuổi thọ không giới hạn nên gọi là vô lượng thọ.

Phật tử thờ Phật trong nhà nếu có đủ điều kiện và nhà cửa rộng rãi thì nên thờ Tam thế Phật chung một bàn, tượng đức Phật Thích-ca Mâu-ni đặt ở giữa, hoặc đặt tượng Phật ở giữa hai vị Bồ tát, nếu không đủ điều kiện thì thờ một tượng Phật Thích-ca Mâu-ni vì Ngài là người khai sáng ra đạo Phật, chúng ta phải nhớ rõ chỗ này.

Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc bên hông nếu có chỗ rộng rãi. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác ngoài bình bông, lư hương, chân đèn và dĩa trái cây. Mỗi ngày chúng ta đều chăm sóc, lau quét, dọn dẹp sạch sẽ.

Lần đầu tiên thỉnh tượng Phật người Phật tử phải làm lễ an vị Phật có thỉnh chư Tăng đến. Nếu không có điều kiện thì gia đình tự làm lễ thỉnh tượng cũng không sao. Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm và tinh khiết.

Khi thiết lễ an vị Phật người trong gia đình phải dọn mình sạch sẽ, ăn chay, giữ giới. Tất cả mọi người kể từ ngày làm lễ an vị Phật phải luôn nhớ nghĩ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà cố gắng bắt chước, học hỏi và tu sửa, nguyện dứt ác làm lành để thân tâm ngày càng được trong sạch.

2-Ý nghĩa lạy Phật 

Khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử từ vua quan cho đến dân chúng mỗi lần được gặp Phật đều cúi xuống ôm chân Ngài và đặt trán mình lên chân Phật để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính. Cử chỉ và thái độ ấy là sự khiêm tốn thấp mình, cung kính tôn trọng đối với một người thầy. Ngày hôm nay Phật không còn tại thế, chúng ta chỉ lễ lạy hình tượng Phật và người tu hành chân chính.

3- Lạy Phật như thế nào mới đúng nghĩa

Trước khi lạy Phật ta phải dọn mình sạch sẽ, rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng, sau đó mới đốt hương ra trước bàn Phật đứng ngay thẳng, hai tay chắp hình búp sen để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, miệng tỏ bày nguyện vọng chân chính của mình rồi sau đó mới lạy ba lạy.

Lạy thứ nhất chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Phật, lạy thứ hai chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Chánh pháp, lạy thứ ba chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Tăng đoàn để sống an vui. Lễ Phật như thế mới đúng pháp, trong kinh gọi là “thân tâm cung kính lễ”.

Trái lại, chúng ta lễ Phật với lòng không cung kính hay còn gọi là ngã mạng lễ là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc đầu-hai tay-hai chân không sát đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện.

Cầu danh lễ là khi thấy có đông người thì miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ý để cho mọi người khen ngợi. Trái lại, khi không có người thì ta lại biếng nhác, giải đãi, không muốn lễ lạy gì cả. Hai cách lễ bái trên rất giả dối, người Phật tử chân chính phải nhận thức rõ điều này để khi lễ lạy thân tâm được trong sạch.

Cách lạy thân tâm cung kính lễ là hai tay chắp trước ngực hình búp sen không so le rồi đưa lên trước trán và từ từ hạ xuống, đầu cúi xuống theo, hai tay úp xuống chạm đất cách đầu khoảng 35 đến 40 cm là vừa, đầu và hai đầu gối đều chạm đất. Và cứ như thế hai tay bật lên trước theo thế đàn hồi, năm vóc nhất như trở về tư thế ban đầu.

4- Cúng Phật 

Ý nghĩa về cúng Phật

Cúng Phật nói cho đủ nghĩa là cúng dường Phật. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, các đệ tử cùng đàn na thí chủ đã cúng dường Ngài đầy đủ tứ sự, nay chúng ta vẫn tiếp tục nối tiếp truyền thống như thế vì lòng biến ơn vô hạn. Sự cúng dường này làm cho chúng ta gieo được thiện duyên với Tam bảo về lâu về dài.

Do việc thờ phụng, đọc kinh, lễ bái, cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ cuộc đời của Ngài để quyết tâm noi theo công hạnh không thể nghĩ bàn bằng tất cả tấm lòng từ-bi-hỷ-xả với tinh thần vô ngã, vị tha.

Cúng Phật với những gì trong thực tế  

Chúng ta cúng dường Phật để tỏ lòng cung kính về sự biết ơn và đền ơn, nhưng nếu mỗi khi cúng Phật ta lại bày biện đủ thức ăn uống, yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật đúng ý nghĩa thì chúng ta chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong sạch là đủ.

Năm món diệu hương để cúng Phật

Cúng Phật có hai loại hình tướng, hình tướng bên ngoài gọi là “sự” và hình tướng bên trong gọi là “lý”. Hình tướng bên trong cúng Phật là dùng 5 món diệu hương để cúng Phật như sau:

Hương giới

“Hương giới” nghĩa là oai nghi, là hình tướng của người tu theo đạo Phật, từ cư sĩ cho đến người xuất gia tùy theo khả năng mà phát nguyện giữ gìn giới phẩm thanh tịnh.

Hương giới được thể hiện qua hình tướng từ cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn nói sao cho hợp với oai nghi, giới luật. Người muốn cho tâm an, tinh thần vững chải trước phải có hình tướng điềm đạm, trang nghiêm. Nếu hình tướng còn lăng xăng thì tâm rất khó bề yên định một chỗ nên được gọi là hương giới nhằm để kềm chế cho hình tướng được trang nghiêm, thanh tịnh.

Chính vì vậy, giới luật trong đạo Phật không cho Tỳ-kheo vừa đi vừa nhảy, không cho vừa đi vừa ngó bên này liếc bên kia. Đi đứng phải nghiêm trang, từng bước an lạc, thảnh thơi, vững chải, mắt lúc nào cùng hướng về phía trước nhìn ngay ngó thẳng. Nhờ giữ giới thanh tịnh nên tâm ta ít loạn động.

Hương định

“Định” nghĩa là chẳng loạn vì tâm đối cảnh mà không dính mắc ta-người-chúng sinh. Nghe nói “định” chúng ta cứ tưởng có cái gì lạ, nhưng thật ra khi tâm ta hòa nhập với câu niệm Phật-Bồ tát, hay hơi thở, hoặc là không dấy niệm, không khởi nghĩ thì đó là định. Chúng ta nên nhớ chừng nào tâm không loạn là được định, đó là lẽ thật.

Hương tuệ

Hương tuệ là do sự quán chiếu mà được nên chúng ta có nhận thức đúng đắn, thấy biết đúng như thật. Thấy biết đúng như thật gọi là hương tuệ phát sáng.

Nhờ giữ giới trọn vẹn thì các pháp ác không xâm nhập nỗi. Nhờ giữ giới nên chúng ta dần hồi giảm bớt tham lam, sân hận và si mê. Từ đó, chúng ta phát sinh định lực nên ta biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì sai trái và không ganh ghét, tật đố đối với mọi người. Ta biết mở lòng giúp đỡ người khác khi cần thiết.

Khi hương tuệ phát sinh ta sẽ thấy biết đúng như thật nên các kiến chấp về phiền não lần hồi rơi rụng hết, cho đến những kiến chấp về ta-người-chúng sinh-thọ giả cũng tan biến trong tâm ta. Nhờ vậy, tâm ta thanh tịnh, sáng suốt, tròn sáng mà không còn nghi ngờ gì nữa.

Hương tuệ cúng Phật là mỗi hành giả phải biết văn-tư-tu. “Văn huệ” là chúng ta biết lắng nghe lời chỉ giải quý báu của chư Phật và các bậc hiền Thánh Tăng. “Tư huệ” là đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm để biết thế nào là phải quấy, đúng sai, thật giả. “Tu huệ” là buông xả hết phiền não tham-sân-si và các kiến chấp.

Hương giải thoát

Cúng Phật là chúng ta phá trừ được ngã chấp nên giải thoát bao mê lầm của luân hồi sinh tử khổ đau. Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho thân xác này là thực, cái hay suy tư nghĩ tưởng này là ta, là của ta. Nhưng thực ra, thân xác tứ đại này do đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành, không có gì thật ngã bởi vì ai cũng phải sinh-già-bệnh-chết theo thời gian. Nếu ngày nào chúng ta không bồi dưỡng cho tấm thân những chất từ đất sinh ra như cơm gạo, những chất như nước sữa, những chất như không khí, những chất tạo hơi ấm thì thân này tan hoại. Còn cái hay suy tư nghĩ tưởng này của chúng ta thay đổi liên miên từ sáng sớm đến chiều tối, từ ngày này qua tháng nọ. Cái hay suy nghĩ này luôn thay đổi liên tục, mới vừa thương yêu đó nhưng bây giờ lại ghét bỏ. Trong đạo Phật, chấp thân tứ đại là mình, chấp tâm vô thường là mình gọi là "chấp thân tâm này làm ngã". Chính cái ảo tưởng này là nguyên nhân gây ra bao phiền não và khổ đau trong cuộc đời.

Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận thấy thân này là mình, là tôi, là ta, cũng không nhìn cái ý thức phân biệt là mình để chúng ta hoàn toàn giải thoát khỏi vòng luân hồi sống chết.

Hương giải thoát tri kiến

Con người thường cho rằng mọi việc trên đời đều tồn tại vĩnh viễn, chính vì vậy khi chúc tụng nhau ai cũng đều chúc hạnh phúc trăm năm, tình bạn muôn năm, tình yêu bất diệt. Tất cả chỉ là niềm mơ ước, mong muốn mà thôi, không phải là sự thực. Con người khi đạt được một địa vị nào đó trong xã hội, có được một sự nghiệp nào đó trên đời thì thường nghĩ rằng, mong rằng những thứ đó là thường còn, là lâu dài. Con người cứ nghĩ rằng cái gì của mình là vĩnh viễn giữ được lâu dài.

Sự thực, tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này từ vật chất cho đến tinh thần đều biến chuyển đổi thay, sinh diệt không bao giờ ngưng nghỉ. Nhất là những thứ có hình tướng đều trải qua 4 giai đoạn "sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi vật được sinh ra bằng cách nào đó, trụ thế được một thời gian nào đó rồi cũng đến lúc biến dị và cuối cùng là hoại diệt. Trong đạo Phật gọi đó là "vô thường biến đổi". 

Trong kinh Kim Cang Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là cái gì ở trên đời có hình thức, tướng mạo, có thể nhìn thấy bằng cặp mắt thường đều là hư vọng, là giả tạm, không tồn tại vĩnh viễn, kể cả thân xác của chúng ta hiện có. Đây là hiện tượng chấp pháp theo lối thông thường.

Còn vi tế hơn nữa, hành giả tuy đã phá được ngã chấp về thân nhưng vẫn còn dính mắc ở pháp tu mình là thật, sự thấy biết của mình là đúng. Người có công phu gần như viên mãn, tự tại trước sự sống chết nhưng vẫn còn dính mắc vào sự thấy biết của mình. Thế nên, người tu muốn viên tròn quả mãn thì phải vượt qua sự thấy biết của mình, ai làm được như vậy là giải thoát tri kiến.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành tựu viên mãn 5 phần pháp thân hương. Đó là hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến. Cho nên, quý Phật tử phải làm sao thể nhập được 5 phần pháp thân hương này thì sự cúng Phật của ta mới thành tựu viên mãn.

Cúng dường pháp bảo

Pháp bảo là lời của Phật đã giảng dạy để quý Phật tử y theo đó mà học hỏi và tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định thế nào là Pháp bảo chân chính. Nếu có thực học thì phải làm sao dịch thuật Tam Tạng kinh điển ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác, chú giải Kinh Luật, Luận để mỗi người thông suốt rõ ràng thêm nghĩa lý. Nếu chúng ta có khả năng về tài chánh thì nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ rộng ra khắp tất cả cho mọi người nghiên cứu đọc tụng và tu học.

Cúng dường Tăng bảo

Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật thì tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đoàn thể sống an vui, hòa hợp, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người để truyền bá giáo lý của Phật. Để tỏ lòng biết ơn và hỗ trợ cho việc tu học của chư Tăng, chúng ta nên tùy hỷ phát tâm cúng dường tùy theo khả năng của mình. Khi cúng dường chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay tôn phái nào. Vị Tăng nào có đầy đủ giới đức trang nghiêm thì chúng ta sẵn sàng phát tâm hoan hỷ cúng dường Tăng bảo.

Lợi ích của thờ, lạy và cúng Phật

Sự thờ, lạy và cúng Phật nếu chúng ta biết thực hành một cách thành tâm, có thiện chí và đúng ý nghĩa thì sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực là ngày càng giảm bớt phiền não tham-sân-si trong hiện tại và mai sau.

Trong hiện tại, mỗi một người Phật tử chân chính và gia đình, người thân luôn sống bằng tình yêu thương đoàn kết giúp đỡ san sẻ cho nhau, biết kính trên nhường dưới, sống vui vẻ thuận thảo với nhau. Trong một gia đình, nếu muốn có an vui hạnh phúc trong hiện tại, muốn có một đời sống tốt đẹp, muốn con em mình có hiểu biết chân chính, tin sâu nhân quả, biết làm lành tránh dữ thì mỗi nhà hãy nên thiết lập bàn thờ Phật để hằng ngày đọc kinh, lễ lạy, sám hối và cúng dường Phật.

Nói tóm lại, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do lòng biết ơn sâu xa đối với bậc đã thanh tịnh, sáng suốt, giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngài đã vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà vô số kiếp hành Bồ tát đạo để cứu mọi người còn chìm đắm trong biển khổ, sông mê mà vươn lên làm mới lại chính mình với tinh thần vô ngã, vị tha.

BÀI- 14 TỘI PHƯỚC THEO TA NHƯ BÓNG VỚI HÌNH

Người Phật tử chân chính cần phải biết rõ tội phước để tìm cách tránh dữ làm lành. Nếu tu hành mà không biết rõ tội phước thì chúng ta khó bề thăng tiến, có khi còn gây thêm nhiều tội lỗi. Mọi sự hạnh phúc hay khổ đau gốc từ tội phước sinh ra. Chính vì thế, người Phật tử chân chính trước tiên cần phải thấu hiểu rõ ràng về tội phước.

Chúng ta muốn sự tu tập được kết quả tốt đẹp thì cần phải biết về tội và phước. Chúng ta tu tập là để diệt trừ tội lỗi và tạo dựng phước đức trong hiện tại và mai sau. Tội và phước không phải là cái gì viễn vong, huyễn hóa mà là những kết quả đích thực do chính chúng ta tạo nên. Không có một vị thần linh hay một đấng sáng tạo nào ban phước hay giáng tội cho chúng ta cả. Chính chúng ta tạo ra tội hay phước, rồi tội hay phước đó trở lại quyết định số phận của chúng ta.

Người Phật tử chân chính phải biết làm phước, bố thí, cúng dường để buông xả tâm phiền não tham-sân-si làm hại đời chúng ta. Người cư sĩ tại gia ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân và xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên, trọng trách của người Phật Tử tại gia rất quan trọng và thật lớn lao bởi họ vừa phải lo làm lụng nuôi sống bản thân, gia đình, cha mẹ, anh em, vợ con vừa phải lo đóng góp cho xã hội, lại còn thêm trách nhiệm hộ trì Tam bảo, giúp đỡ chư Tăng Ni có điều kiện, thời gian học hỏi, tu hành.

Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật tử chân chính phải lo cơm áo gạo tiền, gánh vác việc gia đình, đóng góp cho xã hội với bổn phận người công dân, lại phải làm hậu cần cho Tam Bảo. Đây không phải là chuyện dễ làm mà ai cũng có thể làm được. Muốn làm được điều này đòi hỏi người Phật tử chân chính phải có Bồ-đề tâm kiên cố, có nguyện lực cao cả để dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán với tinh thần vô ngã, vị tha bằng trái tim hiểu biết.

Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bỗng dưng khi không mà có. Đó là kết quả việc tu nhân, tích đức của họ vì đã hành Bồ tát đạo vô số kiếp về trước. Trên đời này không thể có một người nào đủ khả năng ban phước giáng họa như các truyền thuyết xa xưa đã từng tuyên bố mà kết quả tốt hay xấu là do ta tạo ra.

Chúng ta muốn được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng, được mọi người yêu mến và kính nể thì ngay bây giờ ta phải biết làm phước, bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính phải ý thức được điều này, muốn được giàu sang sung sướng, có nhiều của cải thì hiện thời ta phải biết dấn thân đóng góp, giúp đỡ người khác để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Người Phật tử chân chính biết làm phước, bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia để đem đến an vui, hạnh phúc cho tất cả mọi người là đang từng bước hoàn thiện chính mình. Phật dạy người Phật tử chân chính phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi và sẵn sàng hy sinh bản thân mình để làm cho người khác được vui bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại với quan niệm ai cũng là người thân, người thương nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha bằng tình người trong cuộc sống và không thấy ai là kẻ thù.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào tách rời sự sống mà có thể tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy có người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ; người lại nghèo hèn, khốn khổ, thiếu thốn, đói rách, lang thang; kẻ sang người hèn, kẻ xấu người đẹp, kẻ ngu người trí, kẻ chết yểu người sống thọ, người an vui hạnh phúc, kẻ bất hạnh khổ đau… Do đó, làm phước là điều kiện cần thiết để ta có cơ hội dấn thân đóng góp mà vẫn biết cách buông xả để hoàn thiện chính mình. Cho nên,

Người đủ ăn đủ mặc

Là người có phước đức

Vì thế nên ít lo

Nhờ vậy mà dễ tu.

Vậy thế nào là người có phước đức?

Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon mặc ấm; lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính lễ phép với người trên, thương yêu đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải; biết tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành, sống trong tình thương yêu giúp đỡ đồng loại.

Nếu bây giờ chúng ta không làm phước mà muốn được phước trong tương lai thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước thì bây giờ làm gì có phước để mà hưởng và giúp đỡ người khác. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước tất được quả vật chất sung mãn trong hiện tại và mai sau. Biết rõ điều này nên người Phật tử chân chính phải cố gắng gieo trồng phước đức, người có tiền thì đóng góp vật chất, người không tiền thì xả thân giúp đỡ người khác khi có nhân duyên. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, chửi mắng làm khổ đau cho nhau là vì kém phước đức.

Phước là những hành động đem lại sự an vui, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước cũng gọi là người hiền, người tốt, người có tấm lòng nhân ái. Chính sự làm phước này mà chúng ta được nhiều người quí mến, tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống, khi gặp nhau vui vẻ và sẵn sàng san sẻ giúp đỡ nhau khi cần thiết. Nhờ làm phước chúng ta được mọi người quý mến, ưa thích gần gũi. Nhờ sự gần gũi đó mà mọi người dễ dàng thông cảm, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Thế nào là phước?

Đã làm người ai cũng ước mơ, mong muốn làm sao mình được an vui, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không mơ ước, mong mỏi suông mà phải thực tế gầy dựng hạnh phúc cho mình và gia đình, người thân. Hạnh phúc không thể tự nhiên đến với chúng ta mà do ta biết tích công bồi đức, một mặt biết vun trồng phước báo, một mặt biết buông xả phiền não khổ đau. Một ý nghĩ chân chính luôn muốn giúp người cứu vật mới phát sinh ra lời nói tốt đẹp để ta hành động đem lại an vui, hạnh phúc cho mình và người.

Trái với tội, phước là những hành động làm cho mình và người được an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Thông thường khi mình làm cho người khác được an vui, hạnh phúc thì họ sẽ quý mến mình, biết ơn mình và muốn đền đáp công ơn của mình. Tuy nhiên, không phải ai được mình giúp đỡ cũng đều trở lại đối xử tốt với mình mà có thể vô ơn bạc nghĩa với mình. Chính vì vậy, người đời thường than “làm ơn mắc oán”, nhưng với việc thiện mình đã gieo thì mình sẽ hưởng được phước quả chứ không bao giờ vô ích cả. Thường thì không phải người đã chịu ơn mình trực tiếp đền đáp lại mà mình sẽ nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ một người khác trong chuỗi nhân quả đan xen chằng chịt theo nguyên lý cái này có thì cái kia có.

Trong cuộc sống với muôn vàn sự khổ đau và hạnh phúc, người biết buông xả lại là người được nhiều nhất. Ngược lại, người cố giữ gìn, nắm níu lại là người mất mát, đau thương nhiều nhất. Chúng ta đang tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng cách biết chia sẻ, dấn thân đóng góp cho người khác khi cần thiết thì ngay lúc đó mình và người được an vui, hạnh phúc. Chúng ta làm phước không biết bao nhiêu cho đủ, làm mãi suốt cả cuộc đời cũng chưa xong vì thế gian này người hiểu biết chân chính thì ít mà người sống không có ý thức thì lại quá nhiều.

Thời Phật còn tại thế, người đệ tử A-na-luật là anh em chú bác ruột với Ngài. Do quyết chí tu hành nên A-na-luật bị mù cả hai mắt, bù lại, Ngài chứng được Thiên nhãn thông.

Một hôm, đức Phật thuyết giảng trong một pháp hội lớn, tất cả đại chúng đều say mê chăm chú lắng nghe, riêng Ngài A-na-luật thì ngủ gà ngủ gật. Thấy thế, đức Phật gọi dậy và phương tiện độ người đệ tử: “Này A-na-luật, có ai bắt buộc ông đi tu không? Hay vì ông thiếu nợ nhiều quá phải làm thuê, làm mướn vất vả nên trốn vào đây tu?”

A-na-luật thưa: “Bạch Thế Tôn, không phải như thế! Con là một hoàng tử nên đâu cần làm thuê, làm mướn và cũng không thiếu nợ ai. Con đi tu vì cảm kích công hạnh của Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Con tu là để cầu giác ngộ giải thoát, nhưng vì tập khí xa xưa của con còn quá nhiều, nó che chướng làm con mê mờ trong lúc nghe Thế Tôn chỉ dạy.”

Đức Phật bảo: “Ông tu vì muốn giác ngộ và giải thoát sinh tử cho chính mình và cứu giúp chúng sanh. Tại sao lại mê ngủ như vậy?”

Nghe những lời cảnh tỉnh của Thế Tôn, Ngài ăn năn hổ thẹn, xin sám hối chừa bỏ tật ngủ gật và phát nguyện lớn: “Nếu đời này không thành đạo thì tôi không nhắm mắt.” Do quyết chí tu hành, ban ngày Ngài học hỏi làm việc, ban đêm siêng năng hành trì đến nỗi đôi mắt bị đỏ lên và sưng vù. Các thầy thuốc bảo Ngài chỉ cần ngủ lại bình thường thì mắt sẽ hết bệnh, nhưng Ngài vẫn cương quyết một lòng tu tập không ngủ nghỉ.

Đức Phật nghe chuyện đã thân hành đến thăm và khuyên Ngài nên ngủ lại bình thường như trước nhưng Ngài vẫn không chịu ngủ, cuối cùng đôi mắt của Ngài bị mù hẳn khi chưa chứng đạo. Tuy vậy, Ngài vẫn quyết tâm tinh tấn tu hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài đã chứng đắc Thiên nhãn thông với lực dụng không thể nghĩ bàn. Ngài có thể thấy suốt vũ trụ bao la như nhìn một trái xoài trong lòng bàn tay không bị chướng ngại của vật cản nào.

Một hôm, chiếc y của Ngài bị rách và Ngài muốn tự tay khâu lại. Nhưng ngặt nỗi, Ngài không thấy đường xỏ chỉ vào kim, Ngài lên tiếng nói: “Có ai xỏ kim dùm tôi không?” Vừa lúc ấy, đức Phật đi ngang nghe được liền đến xỏ kim giúp Ngài. Chúng ta thấy, một việc làm lành dù nhỏ nhoi nhưng đức Phật cũng không từ nan, chúng ta học chuyện xưa để mỗi người bắt chước công hạnh của Ngài.

Việc làm của Đức Phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ.

Qua đó, chúng ta thấy người giác ngộ không từ chối bất cứ việc lành nào cho dù rất nhỏ khi đủ nhân duyên. Như vậy chứng tỏ rằng, sự có mặt của đạo Phật luôn đem đến lợi ích thiết thực cho con người vì không gây tổn hại cho ai dù là rất nhỏ.

Chúng ta phải biết làm việc thiện dù lớn hay nhỏ, phải cố gắng vun trồng, cóp nhặt để như giọt nước lâu ngày đầy lu. Ngược lại, việc ác dù nhỏ mấy ta cũng phải tránh không làm. Muốn gieo trồng phước đức ta phải xa rời nghiệp ác và phát triển nghiệp lành.

Học hạnh xưa của Thế Tôn để ngày nay chúng ta cố gắng bắt chước gieo trồng phước đức. Một ngày làm việc thiện thì bao việc ác không thể có mặt. Như vậy, gieo trồng phước đức có lợi cho ta rất nhiều, còn tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ, tâm địa nhỏ nhoi thì lúc nào cũng chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi.

Ta làm việc ác nhỏ lâu ngày sẽ tạo nên nghiệp ác lớn, ví như lỗ thủng nhỏ rỉ nước vào thuyền, nếu không chặn lại ngay từ đầu thì đến một lúc nào đó nó sẽ nhấn chìm cả chiếc thuyền.

Bởi chưng kiếp trước khéo tu,

Kiếp này con cháu võng dù xênh xang.

Dân gian có câu: “Có phước làm quan.” Làm quan thì có điều kiện giúp đỡ gia đình, người thân, đó là lẽ đương nhiên trong cuộc đời. Theo quan niệm dân gian Việt Nam, “một người làm quan cả họ được nhờ” là thế. Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Người giàu sang, kẻ nghèo khổ, người sống thọ, kẻ chết yểu, người thông minh, kẻ ngu dốt cũng từ đó mà ra.

Trên thế gian này người được giàu sang, phú quý, hiển vinh, công thành danh toại là nhờ biết tu nhân tích phước từ nhiều đời trước. Trên đời này không có việc gì ngẫu nhiên, đương nhiên, tự nhiên mà thành. Muốn được như vậy ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình.

Công hạnh cao cả không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn như nói ở trên thật đáng để loài người và chư thiên tôn kính, Ngài xứng đáng là bậc thầy trong ba cõi vì không từ bỏ bất cứ một việc thiện nào dù lớn hay nhỏ khi đủ nhân duyên.

Phước có hai loại: phước hữu lậu và phước vô lậu.

Phước hữu lậu hay con gọi là phước vật chất

Phước hữu lậu là niềm an vui, hạnh phúc mà người tạo phước hưởng được nhưng chỉ là an vui, hạnh phúc tạm thời, không bền vững vì phước đó chưa đưa người tạo phước thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Sở dĩ như thế là vì khi tạo phước người làm phước còn có tâm niệm đối đãi, còn có phân biệt ta là người ban ơn, người khác là người thọ ơn; ta là người hướng dẫn, san sẻ, còn họ là người được hướng dẫn, được san sẻ và còn thấy vật thí cho kẻ khác.

Phật giáo hiện nay vẫn còn quan niệm độ người có duyên, ai cần đến đạo thì đến chùa hoặc tự tìm hiểu, như vậy là thụ động trong việc truyền bá đạo pháp rộng rãi đến với mọi người. Nói như vậy chúng ta có thể hiểu lầm lời Phật dạy và cách thức hoằng hóa độ sinh.

Đức Phật ngày xưa mỗi ngày đi khất thực là để tạo thiện duyên trực tiếp cho tất cả mọi người. Ai đến cúng dường và thưa hỏi đạo lý thì Phật tùy theo căn cơ, trình độ mà nói Pháp độ sinh thích hợp. Ngày nay, do chính sách và luật pháp không cho phép tu sĩ đi khất thực để hóa duyên nhưng giáo hội, chùa chiền các nơi vẫn phát triển đội ngũ hoằng pháp, từ thiện bằng nhiều hình thức để độ sinh.

Chúng ta nên nhớ rằng, không phải khi có tiền mới làm phước được, quan niệm như vậy là chúng ta tự phủ nhận khả năng làm phước của mình. Người có tiền thì bố thí vật chất giúp đỡ người khác, kẻ không tiền thì bố thí bằng tấm lòng, bằng lời nói và bằng hành động thiết thực.

Tạo phước vật chất là chúng ta biết bố thí cúng dường cho các bậc Sa môn, Bà la môn và biết hiếu dưỡng đối với ông bà cha mẹ, biết bố thí giúp đỡ, sẻ chia vật chất cho người bất hạnh hoặc nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn. Phật dạy: “Này tất cả thiện nam tín nữ,  trong đời này ai có tâm vui vẻ, hoan hỷ xả tài sản, của cải vật chất để cúng dường người tu hành chân chính thì sau khi qua đời sẽ được sinh về các cõi trời. Nếu người đó được sinh trở lại cõi người thì người đó sẽ có nhiều tài sản, của cải, vật chất.”

Chúng ta có một thân tướng xinh đẹp, một thân thể khoẻ mạnh không bị bệnh tật, được nhiều người thương mến kính trọng, sống bình yên hạnh phúc là nhờ có phước đức. Do đó, có phước đức là điều rất cần thiết đối với người Phật tử chân chính.

Chúng ta có thể gieo trồng phước đức bằng cách an trú trong chánh niệm tỉnh giác như có lòng tin đối với Tam bảo, giữ tròn 5 giới cấm, phát nguyện tu hành dứt ác làm lành, giữ tâm ý thanh tịnh, sẵn sàng hết lòng cứu giúp khi thấy người gặp tai nạn tùy theo khả năng của mình. Mạng sống đối với con người là tối thượng, việc giải cứu người thoát chết làm cho người mừng rỡ và biết ơn vô kể.

Kế đến, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia khi gặp người thiếu thốn, khó khăn. Chúng ta đừng quá tham lam, bỏn sẻn mà cứ mãi ôm giữ lấy tài sản, cần phải ban bố cho những người đang thiết tha cần nó. Hạnh phúc không phải đến riêng với ta mà hạnh phúc là sự thù đáp từ hạnh phúc của mọi người. Những cái vô thường mà ta cứ giữ lấy thì có ngày gánh lấy khổ đau khi nó không còn trong tầm tay mình nữa.

Phước vô lậu

Tu phước vô lậu là chúng ta nhắm đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sinh tử. Chúng ta giúp đỡ người mà không thấy mình giúp, không thấy vật bố thí và kẻ được thí. Cứ thế, chúng ta dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán cho đến bao giờ viên mãn mới thôi. Chúng ta làm như vậy và chỉ dạy người làm như vậy là tu phước vô lậu.

Phước vô lậu là loại phước báo khiến cho người tạo phước được tự tại, giải thoát, không còn bị trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Người tạo phước vô lậu cũng làm các việc lành như trên nhưng với tâm niệm không chấp thủ, không phân biệt và đều hồi hướng về sự giải thoát, giác ngộ. Dù chỉ là việc lành nhỏ họ đều hồi hướng phước đức ấy cho tất cả chúng sinh chứ không phải chỉ dành riêng cho họ hay quyến thuộc của họ. Chính vì vậy mà phước đó đã trợ duyên cho người làm phước được dễ dàng đạt đến quả vị giác ngộ, giải thoát khỏi tất cả mọi hệ lụy, triền phược trong cuộc đời.

Khi chúng ta có đầy đủ phước vô lậu thì đời sống tuy hơi thiếu thốn một chút, hơi nghèo một chút nhưng chúng ta vẫn có được tình cảm gia đình yên ấm, hạnh phúc. Tuy cuộc sống vật chất không được sung túc, đủ đầy như nhiều người khác nhưng bù lại chúng ta có được thân tướng dễ nhìn, khoẻ mạnh, không bị bệnh hoạn ốm đau, như vậy chúng ta quá ư là hạnh phúc.

Đức Phật nhờ phát tâm hành Bồ-tát đạo từ vô số kiếp nên Ngài đã làm được những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, giúp vô số chúng sinh được an lạc-giác ngộ-giải thoát, tùy theo tâm nguyện chúng sanh mà bố thí, nhờ vậy Ngài mới thành Phật.

Tạo phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật, là đem cho vật chất hay tinh thần, hoặc ngay thân này phải chết để giúp đỡ cho người thoát khổ mà tâm vẫn hoan hỷ, không dính mắc, không hối hận, không tiếc nuối hay mong cầu một điều gì khác.

Muốn vậy, khi thực hành bố thí ta không phân biệt thân hay thù mà chỉ tùy duyên, tùy thời cho phù hợp. Muốn đạt đến sự trọn vẹn của Bố thí Ba-la-mật chúng ta phải bố thí với lòng thành kính và biết ơn mọi người.

Người Phật tử chân chính bố thí Ba-la-mật luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cần thiết của chúng sanh, không phân biệt thân hay thù bằng nhiều cách như tài thí (thí các loại tiền bạc, của cải vật chất), nội thí (cho những gì đang có trong thân thể này), Pháp thí (dùng lời nói chỉ cho chúng sanh hiểu thấu được lý nhân quả, nghiệp báo để tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc mà tránh xa những điều xấu ác, lại hay làm các việc thiện lành tốt đẹp).

Người Phật tử chân chính sẵn sàng bố thí tất cả, không bao giờ có sự hối tiếc hay phiền muộn dù phải chịu khổ, chịu chết thay cho chúng sanh. Bố thí như thế mới gọi là bố thí Ba-la-mật.

Tại sao chúng ta phải thực hành bố thí Ba-la-mật?

Bồ-tát là người đang trên đường tiến tới giác ngộ Phật quả nên mỗi khi làm việc gì có lợi cho chúng sanh Bồ-tát đều phát nguyện và hồi hướng, nhờ thế tâm từ bi của Bồ-tát càng thêm tăng trưởng. Trong hạnh bố thí chỉ có bố thí Ba-la-mật là phước quả cao hơn tất cả.

Bồ-tát là người phát tâm cầu thành Phật quả để hóa độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau, sanh tử luân hồi. Vì vậy, trong suốt quá trình dấn thân, tu học, hành đạo, Bồ-tát luôn phát Bồ-đề tâm cho đến lúc thành Phật.

Phát nguyện là để giữ vững ý chí, lập trường của mình khi gặp trở ngại, khó khăn. Phát là phát cái tâm làm các việc thiện lành tốt đẹp, còn nguyện giống như một lời thề nguyền để ta ghi nhớ mà quyết tâm phấn đấu khi gặp chướng duyên hay trở ngại. Mỗi khi làm được việc lợi ích gì ta đều hồi hướng hết cho tất cả mọi loài chung hưởng thì phước báu của ta ngày càng được tăng trưởng.

Chính vì vậy, phát nguyện và hồi hướng công đức là việc làm rất quan trọng của người Phật tử chân chính để hướng đến bố thí Ba-la-mật và thành tựu Phật quả.

Tóm lại, tạo phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật là bố thí bình đẳng, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, không bao giờ hối tiếc hay phiền muộn trong cả 3 điều kiện tài thí, nội thí và Pháp thí.

Như thế nào là tội?

Tội là hành động làm cho mình và người đau khổ trong hiện tại và mai sau. Người làm tội cũng gọi là người dữ, người xấu, người ác. Xét về tội ta có tội ngoài đời và tội trong đạo.

Tội ngoài đời là những kẻ vi phạm luật pháp nhà nước, bị tù đày và hành hạ khổ đau. Ở đời, người ta cho rằng những người vi phạm pháp luật của nhà nước, vi phạm quy tắc, điều lệ của cộng đồng là người gây nên tội và phải bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ. Nói chung, chuẩn tắc để đánh giá một người có tội hay không là dựa vào những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ bên ngoài của người đó chứ ít xem xét đến tâm ý bên trong. Người nào gây tội mà bị phát hiện thì sẽ bị luật pháp trừng phạt.

Tội trong đạo có hai loại: tội do hứa nguyện gìn giữ mà không giữ được và tội làm đau khổ người và vật. Như trước đây chúng ta phát nguyện giữ 5 giới hoặc 10 giới để thúc liễm thân tâm, dứt ác làm lành. Đối trước Tam Bảo chúng ta nguyện trọn đời giữ Giới nhưng sau này do lơ là việc tu học nên bị tập khí chi phối khiến ta không giữ được trọn vẹn, đây gọi là tội phạm giới.

Tại sao người Phật tử khi phạm giới gọi là tội? Ví dụ như người Phật tử phát nguyện hứa giữ gìn giới luật của Phật dạy nhưng lại không giữ, hứa giữ gìn 5 giới cấm mà lại phạm vào giới trộm cắp. Khi trộm cắp như thế thì chính mình cũng phập phòng lo sợ, người bị mất của thì chắc chắn buồn khổ lắm. Như thế, khi ta vừa trộm cắp là mình đã lo âu, khổ sở rồi chứ chưa kể đến bị pháp luật trừng trị và theo nhân quả thì trong tương lai mình sẽ bị người khác lấy cắp hoặc bị hao tổn của cải một cách đột nhiên, không đáng. Hay khi chúng ta phát nguyện giữ giới không sát sinh nhưng lại phạm tội sát sinh mà đánh mất lòng từ bi của mình. Bất cứ một hành động nào chúng ta làm khổ cho người trong hiện tại và mai sau đều là tội, tội thì có tội nặng và tội nhẹ.

Tội nhẹ

Những điều chúng ta làm đau khổ cho người và vật mà không có sự tác ý, ta chỉ vô tình mà không có ý chủ động. Chúng ta phạm tội không phải do cố ý nên họ sẽ bớt thù hận và có thể thông cảm, tha thứ cho ta. Như chúng ta đang đi đường mà lỡ ai đó cầm hòn đất ném chơi lại vô tình trúng vào ta, chúng ta biết người đó không có ý ném mình thì tuy hơi đau một chút nhưng ta không đến nỗi giận người đó. Thế cho nên, từ lời nói cho đến hành động làm đau khổ người khác mà không có cố ý là tội nhẹ, chúng ta có thể xin lỗi hoặc sám hối sẽ hết tội. Những việc làm đau khổ người khác chút ít cũng là tội nhẹ.

Tội nặng

Tội nặng là những điều làm đau khổ người khác do thân-miệng-ý cố tình gây ra. Vì việc làm ấy có ý thức bằng sự cố tâm làm khiến cho người oán giận, thù hằn nên tìm cách trả đũa. Như có ai đó cố tình chửi mắng rồi kiếm chuyện đánh chúng ta, tuy nhiên việc đánh ấy bị nhiều người cản trở nên người đó không thực hiện được. Song, ta biết kẻ ấy cố tình đánh mình nên cũng sẽ oán giận người đó và tìm cách trả thù. Chính vì thế, hành động có cố tâm, cố ý là hành vi quan trọng để tạo thành tội nặng.

Như chúng ta đã biết, tội phát xuất từ ba nghiệp thân-miệng-ý; nơi ý nghĩ có tâm tham lam, sân hận, si mê và tà kiến; nơi miệng phát ra lời nói dối để hại người hoặc che dấu lỗi mình, nói lời mắng chửi hằn học khó nghe, nói lời mê hoặc để dụ dỗ người, nói lời đòn xóc hai đầu làm cho hai người hiểu lầm nhau hoặc thù ghét nhau; nơi thân thì có thể giết người, trộm cướp, tà dâm. Chúng ta làm việc gì mà có sự hợp tác chặt chẽ của ba nghiệp thân-miệng-ý là tội nặng.

Người đã quy y Tam bảo và người chưa quy y Tam bảo khi lỡ tạo tội thì tội cũng như nhau, đều bị căn cứ theo luật pháp để xử lý. Tuy nhiên, người Phật tử khi lỡ làm tội thì ý thức rằng mình là đệ tử Phật nhưng do tập khí, thói quen nhiều đời sai sử khiến mình phạm tội nên cố gắng ăn năn sám hối, hứa nguyện chừa bỏ, do đó tội lỗi dần hồi được chuyển hóa và được tiêu trừ. Điểm đặc biệt là người Phật tử chân chính không bao giờ phạm tội nặng mà chỉ phạm tội nhẹ vì đã có ý thức đúng đắn về tội và phước.

Người Phật tử chân chính cần tránh tội và biết làm phước

Ý thức được sự khổ đau của người khác khi bị mất mát đau thương, chúng ta cố gắng tránh đừng gây nên tội lỗi. Vì cuộc đời đã quá nhiều khổ đau do con người gây ra, chúng ta là những người Phật tử chân chính phải quyết dứt ác làm lành để ngày càng hoàn thiện chính mình.

Dù là một tội nhỏ nhưng nếu chúng ta tránh được thì cũng phải cố gắng đừng để vi phạm. Người biết sợ tội mà hay làm phước để giúp người cứu vật là người Phật tử chân chính. Chỉ có những ai thiếu hiểu biết mới bất chấp luân thường đạo lý mà xem thường tội lỗi, do đó tội ngày càng nặng thêm.

Cho nên, tránh tội làm phước là điều mỗi con người chúng ta phải ứng dụng. Người Phật tử chân chính cần phải biết rõ tội phước để thăng tiến trên con đường tu học. Trong cuộc sống, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc chứ không ai muốn mình bị khổ đau, dằn vặt. Cũng lại như thế, nếu chúng ta muốn không bị khổ đau thì đừng gieo mầm đau khổ cho ai, tức là phải tránh xa những điều tội lỗi.

Đức Phật ví người làm tội thì dễ dàng giống như trái banh lăn trên sườn núi xuống vì nó đã trở thành thói quen nhiều đời của con người. Việc làm phước giống như trái banh lăn lên núi, nếu sơ ý hoặc lơ là một chút thì trái banh sẽ lăn xuống trở lại. Phật vô số kiếp đã từng làm phước, bố thí không biết mệt mỏi, nhàm chán từ vật chất cho đến tinh thần nên khi phước huệ tròn đủ Ngài được thành Phật.

Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng phải học theo gương sáng của Ngài là phước huệ song tu, làm phước mà không thấy mình làm, không thấy vật để cho và người được cho.

BÀI 15- ỨNG DỤNG NHÂN QUẢ ĐỂ CHUYỂN HÓA SỐ PHẬN

Ai tin theo số phận sẽ đánh mất chính mình

Theo quan niệm của một số người thời xa xưa, họ cho rằng đời sống con người là do đấng tạo hóa hay thần linh thượng đế, hoặc do ông trời tạo ra và sắp đặt. Ai tin theo truyền thống này thì được hưởng ân sủng tối cao. Ngược lại, ai không tin, không làm theo thì sẽ bị đọa vào chỗ khốn cùng. Họ cho rằng con người sinh ra đều có số mệnh định sẵn hay đã được an bài, con người khó có khả năng vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình.

Nếu ai cũng nghĩ sống trên đời này giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu, nên hư, thành bại đều do số mệnh đã định sẵn thì con người đành bất lực, xuôi tay và phải chấp nhận sống theo mệnh lệnh của đấng tối cao. Thực tế có phải vậy không?

Trong khi đó, thế giới hỗn loạn với chiến tranh binh đao, con người đối xử độc ác với nhau, lại thêm nạn thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, nghèo đói, dịch bệnh, chết chóc đau thương hàng loạt. Chẳng lẽ đấng tối cao cũng tạo ra những điều đau khổ ấy hay sao?

Nếu con người và muôn loài đều do một đấng thần linh thượng đế quyền năng tạo ra, tại sao lại có sự sai biệt quá lớn trong thế gian nhiều đến như vậy? Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ trắng người đen, kẻ cao người thấp, kẻ sống lâu người chết yểu, kẻ thông minh người dốt nát… Chẳng lẽ đấng tối cao muốn tạo ra nhiều nỗi bất công lớn lao và sai biệt như thế ?

Ngày xưa có ông thầy tướng số rất giỏi bói đâu trúng đó, gần nhà ông có người nông dân nghèo nhưng chất phát, thật thà, hiền hậu. Một hôm, trên đường đi làm ruộng về thì trời đổ mưa, anh vô tình đi ngang qua nhà ông nên ghé vào trú mưa. Ông nhìn anh kỹ càng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng, tướng đi rồi lắc đầu nói: “Số chú nghèo ba đời”.

Rồi thời gian trôi qua, anh nông dân mỗi ngày vẫn đi làm ruộng siêng năng cần mẫn nhưng đời sống chẳng có gì khấm khá hơn trước.

Một hôm, trên đường đi về nhà, anh thấy sợi dây chuyền vàng của ai đánh rơi bên vệ đường. Anh nhặt lên rồi suy nghĩ, “người bị mất chắc sẽ phải khổ đau vì mất của.” Do suy nghĩ như vậy và tội nghiệp cho người bị mất nên thay vì đi về nhà dùng cơm trưa anh ngồi lại ngay chỗ đó để chờ người mất của đến tìm mà trả lại.

Anh ngồi suốt từ trưa tới chiều quên cả đói bụng chỉ vì hy vọng gặp được người đánh mất. Đến lúc trời chập choạng tối, anh thấy một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như tìm kiếm vật gì, lại vừa đi vừa khóc sướt mướt. Anh bèn kêu lại hỏi thăm xem cớ sự ra sao. Cô nói trong nức nở: “Dạ thưa chú, con vừa được chồng sắp cưới tặng cho đôi bông tai và một sợi dây chuyền vàng, chẳng may trên đường đi về nhà sợi dây chuyền bị đứt rơi mất lúc nào con không hay. Nếu không tìm lại được nó chắc con phải tự tử chết quá chú ơi để khỏi bị bên chồng nghi ngờ con đem tặng cho người khác.”

Nghe xong, anh nông dân mới hỏi cô gái về hình dáng của sợi dây chuyền, cô gái mô tả đúng như sợi dây mà anh đã nhặt được. Anh liền trao lại sợi dây cho cô và vui vẻ đi về nhà, nhờ tấm lòng tốt của anh cướu cô gái thoát chết và sống hạnh phúc bên chồng.

Anh nông dân tuy là người nghèo khổ, thiếu thốn nhưng khi lượm được của rơi anh không sanh lòng tham đắm vì anh nghĩ người mất của sẽ rất đau khổ. Vì anh là một Phật tử thuần thành luôn sống theo lời Phật dạy nhờ hiểu thấu được lý nhân quả nên anh không quản ngại hay tiếc công chờ đợi mặc dù bụng đã đói meo.

Đây cũng là một nghĩa cử cao thượng với những ai đã có lòng tin nhân quả sâu sắc, hành động tốt đẹp đó nói lên tinh thần cứu khổ ban vui của người tu theo đạo Phật không bao giờ làm tổn hại đến người khác dù chỉ trong tâm tưởng.

Thời gian thấm thoát trôi qua, anh nông dân vẫn miệt mài với công việc đồng áng với thân phận nghèo thiếu. Một hôm, anh ghé qua nhà thăm ông thầy tướng số. Vừa trông thấy anh, ông ngạc nhiên nói: “Tướng chú sắp làm quan rồi.” Anh nông dân nói:” Thưa bác, con là một nông dân thuần túy, đâu có tri thức, chữ nghĩa gì nhiều mà làm quan. Người làm quan thì phải học cao hiểu rộng, có năng lực lãnh đạo giúp dân giúp nước. Con thì chỉ biết cày sâu cuốc bẩm, ruộng đồng thiếu trước hụt sau thì giúp gì được cho ai.”

Nhưng ông thầy tướng số khẳng định: “Tôi từ xưa đến nay xem tướng số cho ai chưa trật bao giờ. Bây giờ tôi hỏi thiệt chú, từ ngày chú ghé nhà tôi cho đến nay chú có làm điều phước thiện nào không? Anh nông dân trả lời: “Dạ, con đâu có làm việc gì lợi ích cho ai.” Song, anh chợt nhớ lại việc lượm được sợi dây chuyền vàng và kể cho ông nghe. Ông thầy tướng cười nói: “Đó là phước của chú đấy! Chú đã thay đổi và chuyển hoá được nghiệp nhân nghèo khổ của mình rồi. Chú sắp làm quan rồi, chú hãy nhớ lời tôi nói nhé!”

Anh nông dân nghe ông thầy tướng nói sao hay vậy, anh chẳng quan tâm gì nhiều mà vẫn tiếp tục công việc ruộng nương từ bấy lâu nay. Một thời gian sau, người trong làng cần chọn người hiền đức để bầu làm xã trưởng và anh là người được chọn. Anh bây giờ mới thấy lời ông thầy tướng nói quả không sai.

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rõ ràng tướng số cũng không cố định mà có thể thay đổi được nếu ta biết tu nhân tích đức. Ai nói rằng cuộc sống con người là do trời định đoạt, sắp đặt và con người sẽ phải sống phụ thuộc vào đấng tối cao ấy thì người nghèo sẽ phải nghèo vĩnh viễn nhưng thực tế lại không phải như vậy. Có người thuở nhỏ sống hàn vi nghèo khổ nhưng khi lớn lên biết siêng năng chăm chỉ làm việc đã trở nên giàu có. Đó là một sự thật mà ai cũng có thể nhận thấy.

Anh nông dân kia do nhiều đời trước không biết giúp đỡ, sẻ chia nên đời này phải chịu nghèo khổ. Nhờ gặp được Phập pháp và một lòng tin sâu nhân quả nên anh sống hiền hậu, chất phát, thật thà. Phật pháp rất sâu kín và nhiệm mầu, ai có duyên lành nhiều đời mới gặp được Tam bảo sáng soi. Là một Phật tử sống tốt theo lời Phật dạy, anh nông dân dù nghèo nhưng trong sạch, nhờ tâm niệm tốt đẹp lượm được của rơi mà biết nghĩ đến người đánh mất mà anh đã thay đổi được cuộc đời.

Khi xưa Phật chưa ra đời, nhiều người không biết nên tin vào học thuyết số phận đã an bài hay tất cả do một đấng tối cao, quyền năng đã tạo ra. Ai như thế nào phải chịu như thế ấy, suốt đời không thể nào thay đổi được. Đó là cách nhìn của người thường kiến, họ lợi dụng quyền cao chức trọng để bắt buộc kẻ dưới phải phục tùng người trên và đó là cách thức bảo vệ địa vị cho họ.

Nhờ tu chứng dưới cội Bồ-đề, đức Phật đã thấy rõ mọi sự sai biệt trong cuộc đời này đều do nhiều nhân duyên hòa hợp lại mà hình thành. Trong vũ trụ bao la này không có cái gì do một nhân mà hình thành. Nếu ai nói có một chủ thể tạo ra tất cả thì ta biết họ chưa hiểu về sự vận hành của nhân quả-nghiệp báo trong bầu vũ trụ bao la với thiên hình vạn trạng vì không thể có cái gì chỉ có một nhân mà hình thành.

Nếu nói cái gì cũng do trời quyết định thì tại sao có sự bất đồng và sai biệt trên thế gian này, không ai giống ai. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành đến cho tất cả chúng sanh? Còn nếu nói số phận đã định sẵn từ trước thì tại sao có người thay đổi được vận mệnh như anh nông dân lượm được của rơi.

Nếu thượng đế tạo tác ra tất cả thì chính sự tạo tác của thượng đế mà con người trở nên sát hại, trộm cướp, loạn luân, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc và hiểu biết sai lầm. Nếu số mệnh đã sắp đặt sẵn thì thật là tai hại vô cùng, ai lỡ làm những việc xấu ác sẽ đổ thừa số phận họ như thế mà không cố gắng phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình.

Đạo Phật quan niệm rất thiết thực, không chấp nhận hay đổ thừa cho số phận, làm cái gì được thì nói nhờ trời, còn không được thì đổ thừa tại trời, nói như vậy thì oan cho trời quá. Người nào quan niệm như thế thì vô tình hại mình, hại gia đình và xã hội. Bởi vì người ấy sẽ không cố gắng phấn đấu để vươn lên sống có ích cho cuộc đời mà rơi vào mê tín dị đoan. Trong khi đó, mỗi con người chúng ta đều có khả năng suy luận, nhận xét, tư duy, quán chiếu, có thể vận dụng sự hiểu biết của mình mà thay đổi, chuyển hóa từ con người cho đến muôn loài vật.

Theo quan điểm của đạo Phật, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, tất cả đều nương tựa mật thiết vào nhau, tùy theo hoàn cảnh mà có đổi thay, thay đổi vô cùng tận.”

Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, giàu lòng từ bi, đầy đủ trí tuệ, Ngài luôn thương tưởng đến tất cả chúng sinh, mong làm sao giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, tự tin chính mình, làm lành lánh dữ, sống có ích cho tha nhân. Ai tin sâu nhân quả và luôn hướng đến chân-thiện-mỹ thì lúc nào cũng sống được bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sự ra đời của đạo Phật đã giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị hạnh phúc thật sự cho tất cả chúng sinh. Mọi sự tốt đẹp, phải quấy, nên hư, thành bại đều do chính mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay sắp đặt số phận con người.

Từ xa xưa, một số người lợi dụng quyền thế của mình đã tuyên truyền con người và vạn vật sinh ra trong cõi đời này đều do một đấng thần linh thượng đế tạo ra. Ai không chấp nhận tu tập theo sự hướng dẫn của họ sẽ bị đọa lạc vào chốn khốn cùng, khổ đau. Ai chịu nghe lời thần linh thượng đế thì sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp.

Đức Phật dạy rằng, trong mỗi người chúng ta ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát, chỉ vì chúng ta không chịu thừa nhận, không chịu suy xét thấu đáo nên đã tạo ra những nỗi khổ, niềm đau mà làm tổn hại cho nhau. Chính vì thế mà khi sinh ra đời ta phải chiêu cảm những quả báo xấu xa, đau đớn và khổ não.

Tuy sinh ra cùng là thân phận con người nhưng do nhân đời trước gieo tạo khác nhau mà trong đời hiện tại phải chịu quả khác nhau nên mỗi người mỗi hoàn cảnh, đời sống. Còn người mê muội, tà kiến, chấp trước, không hiểu biết đúng sự thật của cuộc đời sẽ bị rơi vào các loại súc sanh sống theo quán tính, nghiệp tập, tùy theo sự chiêu cảm mà rơi vào quả báo loài nào và phải chịu trả quả suốt đời, suốt kiếp không cưỡng lại được.

Chúng ta ai được sanh ra làm người là một diễm phúc rất lớn vì có đầy đủ phương tiện, có tư tưởng, có tư duy, có hiểu biết, có nhận định đúng sai, có tìm hiểu, học hỏi giáo lý nhân quả một cách chân chính. Ta tin tưởng rằng mình có khả năng giác ngộ, giải thoát thật sự nên cố gắng không làm các điều ác mà hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp nhờ tin sâu nhân quả. Khi chúng ta đã biết cách làm chủ bản thân thì lúc nào cũng kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động trong sáng suốt. Nhờ vậy, ta luôn sống trong bình an, hạnh phúc.

Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Tuy nhiên, nhân quả rất đa dạng và phức tạp.

Có loại nhân quả gần, tức là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ăn cơm vào thì ta no liền, hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc.

Có những nhân ta gieo trong hiện tại sau một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả. Có những nhân ta gieo tạo nhưng trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả là do thiếu những duyên phụ hoặc vì ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống là cây lúa, cây chuối, cây mít và chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ 3 tháng cho đến 6 tháng có kết quả, cây chuối phải từ 9 tháng đến một năm, còn cây mít ít nhất phải từ 2 năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả như nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt nên không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả nghiệp báo. Là người Phật tử chân chính chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giờ. Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm.

Nhân quả có thể thay đổi được 

Nói đến nhân quả là nói đến sự tương quan, tương duyên mật thiết với nhau bằng những hành động do chúng ta làm ra. Làm lành được hưởng phước an vui hạnh phúc, làm ác phải chịu quả khổ đau vô cùng tận, đó là một sự thật công bằng. Chúng ta có thể qua mặt được pháp luật nhưng không thể chạy trốn toà án nhân quả khi hội đủ nhân duyên.

Trong Kinh A-hàm đức Phật đưa ra ví dụ rất hay. Nếu ta bỏ vào ly nước một nắm muối nhỏ thì ly nước sẽ bị mặn và ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó nếu ta bỏ vào một lu nước lớn thì nước sẽ chỉ măn mẳn, ta có thể dùng xài hoặc giải khát tạm thời. Nhưng cùng một nắm muối đó nếu đem bỏ vào một hồ lớn thì do nước quá nhiều nên nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.

Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng gieo nhân nào thì gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân-miệng-ý nên chính mình có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ chúng ta chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… Đến khi lớn lên hòa vào đời sống cộng đồng ta thấy người ta làm điều đó rồi bắt chước một vài lần, nếu ai tiếp tục huân tập một thời gian thì cũng biết hút thuốc, biết uống rượu, biết cờ bạc như ai vậy.

Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, chúng ta có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp và biết tu tập. Ta thấy rằng đây là những nghiệp tập không tốt đẹp, hao tiền tốn của và dẫn đến bệnh tật, đau yếu làm cho vợ con, người thân trong gia đình lo âu, sợ hãi mà giảm đi niềm an vui, hạnh phúc. Khi đã biết rõ đây là những tập nghiệp xấu thì từ đó chúng ta ý thức được sự tác hại của nó mà tự từ bỏ chứ không ai ép ta bỏ được. Nếu như chúng ta không tự ý thức, không chịu từ bỏ thì dù cho đức Phật hiện tiền cũng không thể nào giúp ta bỏ được.

Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhận sống trong đau khổ lầm mê.

Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi nhưng không bỏ được hoàn toàn, dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.

Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.

Chúng ta hãy thường xuyên suy xét và kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động nếu có hại cho mình và người thì nhất quyết không làm. Những gì ta thấy có lợi cho mình và người thì cố gắng không bỏ qua dù cho đó là một việc rất nhỏ. Nhờ tâm phát nguyện rộng lớn như thế ta sẽ vượt qua được những chướng duyên nghịch cảnh trong cuộc đời. Vì sao? Vì theo đạo lý nhà Phật, ai sinh ra trong cõi đời này không ít thì nhiều từ lớn đến nhỏ dù không làm ác nhiều thì cũng làm ác ít. Bởi vì chúng ta chưa có sự hiểu biết chân chính, chưa có lòng tin nhân quả vững chắc nên chắc chắn ai cũng có sai lầm.

Ngày nay, chúng ta may mắn gặp được thầy lành bạn tốt, có đầy đủ phúc duyên, tuy điều kiện của chúng ta không được tốt đẹp, trọn vẹn như người khác nhưng ta không có gì phải buồn phiền, khổ đau, trách móc, đổ thừa tại bị thì là… Bởi vì chúng ta biết Phật pháp, biết thực hành những lời Phật dạy, biết rõ nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc.

Khi đau ta biết thân này đau vì nghiệp tập nhiều đời nhiều kiếp mình đã gieo tạo, nay ta biết được hậu quả của nó làm cho mình và người khổ đau nên ta nhất quyết không để tái phạm, đến khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp xấu sẽ hết. Nhờ vào sự tinh cần tu tập mà ta chuyển hóa được nỗi khổ, niềm đau mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Theo định luật nhân quả có vay ắt phải có trả, hay đã gieo gió ắt sẽ gặp bão. Nếu nói một cách cứng ngắt như vậy thì vô tình chúng ta cho rằng luật nhân quả là cố định, là bất biến. Điều đó chỉ đúng một phần mà chưa hoàn toàn đúng hẳn. Vì sao? Nó chỉ đúng đối với những hạng người bèo dạt mây trôi, không đủ ý chí và nghị lực để buông xả thói quen xấu của mình. Cho nên, lý nhân quả rất tế nhị và sâu kín, nhiệm mầu.

Chúng ta thường nghe nói “nhân nào quả nấy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, ai nói như vậy là chưa hiểu thấu lý nhân quả. Đạo Phật nói lý nhân quả là một chuỗi dài thời gian mang tính cách ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Khi ta gieo nhân phải trải qua một thời gian nhất định nào đó nhanh hay chậm là tùy theo những duyên phụ thuộc mới cho ra kết quả.

Nhân nào quả nấy hay còn gọi là hiện báo, gieo nhân liền gặt quả như người đói bụng ăn cơm liền no. Đó là nhân quả hiện tiền, vừa gieo nhân là có kết quả liền. Vì vậy mà người ta dễ hiểu lầm vấn đề nhân quả với số phận, nó chỉ đúng và phù hợp với hạng người bèo dạt mây trôi, không chịu cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời. Hạng người này không cần tìm hiểu, suy xét, quán chiếu mà chỉ sống theo phong tục tập quán, ai như thế nào thì mình như thế đó.

Khi gieo nhân ta có thể phải chờ một thời gian mới cho ra kết quả. Thí dụ muốn có trái mít ăn ta phải có một hột mít trồng xuống đất rồi phải chờ đến ba bốn năm sau mới có trái, nhưng nếu thiếu sự chăm sóc hay thời tiết không phù hợp thì chưa chắc ta đã có trái mít. Do đó, chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh mà tạo ra kết quả sai biệt, không nhất thiết phải nhân nào quả nấy.

Như vậy, nói nhân nào quả nấy thì không đúng hẳn, tùy theo điều kiện, nhân duyên mà cho ra kết quả. Chúng ta không thể nói một chiều nhân nào quả nấy một cách cứng ngắt, nếu nói như vậy thì những người tu hành như chúng tôi có lợi ích chi đâu? Xưa kia lỡ tạo nhân ác thì ngày nay dù có tu hành vẫn chịu quả ác, vậy tu hành để làm gì?

Khi hiểu như vậy rồi chúng ta sẽ cố gắng làm mới lại chính mình bằng những việc làm thiết thực có lợi ích cho người và vật. Khi xưa ta chưa biết tu thì ta gieo nghiệp lường gạt, trộm cướp làm khổ đau cho mọi người. Nay ta biết tu rồi thì nhờ quán chiếu, xem xét ta thấy đó là nhân dẫn đến đau khổ, mê lầm, làm tổn hại cho nhau nên dứt khoát không làm nữa, do đó ngay nơi đây nhân xấu bắt đầu chấm dứt.

Như khi chúng ta đang chạy xe với tốc độ nhanh, nếu thắng gấp lại thì cái chớn của nó cũng xa hơn nếu xe chạy tốc độ chậm. Cũng vậy, ai tạo thói xấu nhiều cũng thay đổi chậm hơn người bình thường.

Người xuất gia tu hành như chúng tôi thọ dụng vật thực của đàn-na tín thí, nhờ sự giúp đỡ của Phật tử về phương tiện vật chất, tiền bạc của cải thì có phải trả món nợ nhân quả này hay không? Nếu cứ khẳng định nhân nào quả nấy, vay tiền trả tiền, vay bạc trả bạc thì chắc chắn người xuất gia không thể trả nợ được.

Người xuất gia tu hành thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí sẽ phải trả món nợ ấy bằng sự tu hành chân chánh và việc hóa độ chúng sanh, truyền bá lời dạy của đức Phật, chỉ cho mọi người biết được nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đoạ khổ đau. Chúng tôi hướng dẫn, chỉ dạy cách sống làm người tốt và không làm tổn hại cho ai nên coi như chúng tôi đã trả được món nợ cơm áo gạo tiền, chỉ sợ những ai không chịu tu hành đàng hoàng rồi giáo hoá chúng sinh thì mới phải chịu mang lông đội sừng mà thôi.

Tiền bạc quý Phật tử giúp ăn năm ba tháng thì hết hoặc nhiều lắm được vài ba năm là cùng. Chánh pháp của Phật đà trao lại thì quý Phật tử có thể ứng dụng cả đời cũng chưa hết mà vẫn còn thừa làm hành trang mang đến sử dụng ở kiếp sau. Vì vậy, trong các bản kinh đức Phật thường hay nói: “Trong các hạnh bố thí, bố thí Chánh pháp là thù thắng hơn tất cả vì giúp cho mọi người được an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.”

Thí dụ, như người mới sanh ra bị bệnh hoạn, tàn tật suốt đời là do kiếp trước gieo nhân đánh đập hành hạ chúng sinh, cho nên ngày hôm nay phải chịu nhận hậu quả bệnh tật khổ đau như thế.

Nhân quả theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không bao giờ mất. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp của thế gian nhưng không thể nào trốn tránh quá trình diễn biến của nhân quả khi đủ nhân duyên. Người biết tu khi gặp quả xấu sẽ không đổ thừa tại, bị, thì, là… mà luôn biết rằng tất cả đều do nhân xấu mình tạo từ trước, nhờ vậy họ cố gắng tu hành để từ từ chuyển hóa nên quả xấu được giảm nhẹ và có thể hết sạch.

Thời xa xưa, con người cho rằng những hiện tượng như mưa gió, bão bùng, sấm sét long trời lở đất chính là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm điều xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc bất thiện, từ đó lâu dần thành ra phong tục, tập quán rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người. Họ quên đi những điều rất thực tiễn là gieo nhân nào thì gặt quả nấy.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học nên con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ. Tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Sự hình thành của muôn loài vật đều theo nguyên lý duyên khởi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”.

Đây là nguyên lý sống do đức Phật chứng ngộ mà nói ra, không phải do suy luận vu vơ huyền hoặc. Ngài chỉ cho con người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị bình đẳng cho con người bằng việc làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Con người có quyền làm chủ chính mình, do đó nên hư, thành bại, phải quấy, tốt xấu đều do con người tạo lấy, không một đấng tối cao nào có quyền ban phước giáng họa. Đó là chân lý nhiệm mầu của đời sống con người.

Hoặc giả lúc ta chưa biết tu thì miệng hay nói lời hung dữ, ác độc, cay nghiệt làm cho người oán giận, thù hằn, phiền não, khổ đau. Nay biết tu rồi ta ý thức được đó là lời nói làm tổn hại đến người nên thường nói lời hòa nhã, chân thật, dịu dàng, dễ nghe. Đó là ta biết chuyển nhân xấu từ miệng thành nhân quả tốt.

Như vậy, nhân quả khác với số phận là ta có thể thay đổi được. Nhờ đó, con người có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thực hành được những điều đó chính là người khéo biết tu vậy.

Còn nói số phận con người là cố định, không thể thay đổi được thì người giàu sẽ ỷ lại. Họ sẽ hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, đến khi phước hết họa đến thì họ làm sao trở tay cho kịp nên đành bó tay ngồi than thân trách phận, oán trời trách đất, đổ thừa tại bị thì là. Người nghèo thì lại nghĩ rằng dù có siêng năng, tinh cần cũng mất công vô ích nên chẳng cần phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình, cuối cùng đã nghèo lại càng nghèo thêm.

Chính vì vậy, hiểu và ứng dụng lý nhân quả trong đời sống hằng ngày giúp con người có thêm ý chí nghị lực, giàu lòng can đảm, không bi quan yếm thế, không oán than hay đổ thừa số phận khi gặp bế tắc. Dù gặp nhiều khó khăn, chướng ngại nhưng ta vẫn vui vẻ vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối, thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác nên dễ dẫn đến mê tín dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật và luôn sống trong đau khổ lầm mê.

Ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân-miệng-ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm, dám chịu, không đổ thừa cho ai.

Đạo Phật là một tôn giáo có chất liệu rất thực tế trong đời sống con người. Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là để phục vụ cho lợi ích nhân loại và muôn loài. Đạo Phật luôn nêu cao tinh thần nhân quả và khả năng giác ngộ của con người. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này nếu đem ra khảo sát thật kỹ chúng ta sẽ thấy không một sự vật nào thoát ra ngoài lý nhân quả. “Thấy quả biết nhân, thấy nhân biết quả” là tinh thần thực tiễn rất khoa học, không mơ hồ, không ảo tưởng. Một số khảo cứu của các nhà khoa học đã chứng minh lời Phật dạy là chân lý.

Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào đời sống hằng ngày chúng ta sẽ tự tin nơi chính mình, không ỷ lại vào một đấng quyền năng nào có thể ban phước giáng họa cho con người. Trong đời sống này khổ hay vui là do mình tạo lấy mà thôi, chính con người là thượng đế tối cao của con người. Con người có quyền quyết định mọi vấn đề trong cuộc sống và có quyền làm chủ mọi hành động từ thân-miệng-ý. Trong khuôn khổ nhất định, người làm lành được hưởng phước, người làm ác phải chịu khổ đau, ta không thể đổ thừa cho ai cả.

Giáo lý nhà Phật từ thấp tới cao, từ đạo làm người cho đến đạo hiền Thánh đều dựa trên nền tảng lý nhân quả. Vì vậy, trong cuộc sống ai không thấu hiểu lý nhân quả thì sự tu hành khó mà đạt được kết quả tốt đẹp.

Người Phật tử chân chính phải tin sâu nhân quả nghiệp báo, nó là một nguyên lý giúp con người ý thức và chịu trách nhiệm về những hành vi tạo tác của mình trong đời sống hiện tại. Người tu theo đạo Phật cần phải hiểu thấu lý nhân quả một cách tường tận, lấy đó làm kim chỉ nam, làm phương châm tu hành ngay tại đây và bây giờ để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

BÀI 16 - ĐẠO PHẬT TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI

Trong cuộc đời này có hai thứ tự do mà ai cũng có thể mong muốn: Đó là tự do thỏa mãn hưởng thụ về vật chất như tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, ăn ngon mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái và tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tự do theo đúng nghĩa của nó là thật sự giải thoát khỏi các sự tham muốn hưởng thụ chứ không phải là tự do thỏa mãn dục vọng.

Các nước tân tiến văn minh, hiện đại chỉ công nhận loại tự do đầu tiên là tự do thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người và mọi người tôn thờ loại tự do ấy bằng tuyên ngôn dân chủ nhân quyền được luật pháp chấp nhận. Chính loại tự do hưởng thụ vật chất này mà thế giới con người lúc nào cũng tranh giành và tìm cách chiếm đoạt, giết hại lẫn nhau.

Loại tự do thứ hai là tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc về hưởng thụ vật chất nhờ biết cách làm chủ bản thân mà điều phục được thân-miệng-ý nên an nhiên, tự tại giải thoát trong mọi hoàn cảnh. Chỉ có đạo Phật là biết tôn trọng quyền tự do con người khi không ép buộc và áp đặt một ai.

Có hai vị thầy nọ được mời dự lễ cúng dường trai Tăng tại nhà một Phật tử, họ được thân chủ tiếp đãi nồng hậu trong phòng khách. Tuy nhiên, có một điều làm cho vị thầy nhỏ tuổi hơn chú ý là trong nhà có một cái bể nuôi nhiều loại cá.

Vị thầy này cảm thấy không bằng lòng với việc nuôi cá trong bể vì không hợp với giáo lý từ bi của đạo Phật. Lũ cá kia thật là tội nghiệp vì không được tự do thoải mái bơi lội trong vùng sông nước mênh mông hay ao hồ rộng lớn.

Vị thầy lớn tuổi mới giải thích cho vị thầy trẻ nghe rằng: “Quả thực là những con cá ấy không được tự do bơi lội tung tăng theo sở thích riêng của chúng, nhưng chúng sống trong bể kính thì sẽ thoát khỏi nhiều mối nguy hiểm do các loài khác xâm hại.” Rồi vị thầy lớn lại tiếp tục liệt kê những lợi ích cá trong bể có được như sau:

Chúng ta có bao giờ thấy ai đi câu cá trong một bể cá trong nhà chưa? Chắc chắn là chưa! Vậy sự tự do đầu tiên mà những con cá kia có được là không bị những người đi câu đe dọa mạng sống. Chúng ta hãy thử tưởng tượng hoàn cảnh của những con cá trong ao hồ sông suối thiên nhiên xem mạng sống của chúng thường xuyên bị đe dọa như thế nào.

Khi chúng thấy những con mồi ngon béo bở do loài người giăng bẫy, chúng có biết chắc là khi xơi tái con mồi thì tính mạng vẫn an toàn hay không? Đối với những con cá được sống trong môi trường tự nhiên, mạng sống của chúng luôn bị đe dọa theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu và việc ăn của cá chất chứa nhiều nỗi hiểm nguy trong lo sợ. Bữa ăn ngon của chúng thường dẫn đến nhiều tai họa vì những miếng mồi béo bở.

Cá trong thiên nhiên ao hồ, sông suối thường sống trong khủng hoảng bởi nỗi lo sợ chết chóc bất đắc kỳ tử. Chưa kể đến trong thời buổi hiện nay nhiều sông hồ, ao suối bị ô nhiễm nặng bởi những con người không có lương tâm đạo đức. Những con cá trong bể kính sẽ thoát khỏi mối hiểm nguy bị cá lớn ăn thịt và bị những hiểm họa khác đe dọa mạng sống.

Trong tự nhiên có những con cá không thể tìm được thức ăn, hoặc ăn nhằm con mồi do loài người giăng bẫy. Cá trong bể kính thì cứ ngày hai lần được ăn bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Cho nên, những con cá trong bể kính không bị cái đói đe dọa.

Trong tự nhiên khi cá bị bệnh chẳng có ai săn sóc, điều trị nên đành chịu chết dần chết mòn trong đau đớn. Cá trong bể kính thì được chăm sóc thuốc men đầy đủ nên mối nguy cơ bị bệnh hoạn xâm nhập không quá đe đọa đến tánh mạng.

Nói xong, vị thầy lớn tóm tắt lại: “Làm thân cá trong bể kính được hưởng nhiều thuận lợi trong cuộc sống. Tuy chúng bị hạn chế đôi chút về không gian nên không được tự do bơi đi đây đi đó nhưng có thể thoát khỏi những mối đe dọa hiểm nguy bên ngoài.”

Cũng vậy, những người tu hành phải gìn giữ giới luật và sống trong khuôn khổ nhất định nên không được tự do theo đuổi những dục vọng thấp hèn và thỏa mãn những mong muốn này nọ. Nhưng họ sẽ từng bước thoát khỏi nhiều sự dính mắc, ràng buộc bởi tham lam, sân giận và si mê nên dễ dàng tiếp nhận được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Đã làm người thì tất nhiên chúng ta phải có nhiều mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, cộng đồng xã hội… không một ai có thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Khi mối tương quan này được hình thành thì con người sẽ bị ràng buộc trong luyến ái bởi sự thương ghét vì muốn chiếm hữu. Cha mẹ luôn bênh vực con cái, anh chị em bênh vực lẫn nhau, vợ phải bênh vực cho chồng… vì những người này là gia đình, người thân “của tôi”. Còn những người không nằm trong dòng máu huyết thống là kẻ xa lạ nên khi người thân sai phạm thì ta vẫn cố tình bao che, bênh vực, thậm chí còn tìm cách hại người kia để bảo vệ quyền lợi cho thân nhân mình.

Cá trong tự nhiên được ví như tất cả mọi người thích hưởng thụ vật chất đầy đủ mà không quan tâm đến phần tinh thần nên suốt cuộc đời sống trong đau khổ, lầm mê.

Cá trong bể kính được ví như những người tu theo đạo Phật nhờ có giới luật bảo hộ cùng với cung thiền định và kiếm trí tuệ nên luôn sống trong bình yên, hạnh phúc, thoát khỏi mọi sự cám dỗ bên ngoài.

Chính vì vậy, để được tự do tự tại trong cuộc sống mà vẫn góp phần làm lợi ích cho xã hội đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên quán niệm, giám sát chặt chẽ thân-miệng-ý của mình.

Đây chính là kinh nghiệm mà đức Thế Tôn đã thực chứng và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử: “Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục. Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận. Mỗi khi tâm thức bị si mê, vị ấy ý thức là tâm thức bị si mê. Mỗi khi tâm thức không si mê, vị ấy ý thức là tâm thức không si mê.”

Để ta được tự do tự tại trong cuộc sống, không bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp, ngủ nghỉ thoải mái, ta chỉ cần nhận biết rõ tâm ý mình mà không cần phải chống đối, trừ khử thì tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt hiện tiền.

Chính vì lẽ đó nên đức Thế Tôn dạy rằng: “Này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.” – “Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu?” – “Này hiền giả, khi ta đứng lại, thời ta chìm xuống; khi ta bước tới, thời ta trôi giạt. Do vậy, này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.”

Bước tới là chạy theo sự tham muốn hưởng thụ dục lạc, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt hoặc bị mất mát thì tâm sân hận phát khởi nên lúc nào cũng oán giận, ghét bỏ mà tìm cách trả thù.

Đức Phật là người duy nhất trên thế gian này đem lại cho nhân loại quyền bình đẳng và tự do của con người. Ngài không nhân danh thần linh thượng đế hay đấng tối cao ban phước giáng họa như các truyền thống xa xưa, Ngài chỉ nhân danh con người vì con người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Con người là động vật tối thượng có suy nghĩ và nhận thức sáng suốt bởi biết tư duy, nghiệm xét, tìm tòi. Con người ai cũng thích được thong thả, tự do, nếu có sự ép buộc kiềm chế từ bên ngoài là đánh mất quyền tự do của con người. Chính vì thế, chúng ta đến với đạo Phật không có điều kiện bắt buộc gì cả, chỉ cần ta có ý thức mến đạo, thích tu vì tình người trong cuộc sống là đủ rồi.

Chúng ta sau khi trở thành người Phật tử cũng không có sự bắt buộc nào. Khi phát tâm quy y Tam bảo, nhà Phật có khuyến khích mọi người nên giữ gìn 5 giới cấm. Trước tiên là không được giết người, sau đó hạn chế tối đa giết hại các loài vật, không gian tham trộm cướp, không tà dâm mà hay sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người hoặc lường gạt, không dùng và tiêu thụ các chất độc hại như uống rượu say xỉn hoặc dùng xì ke ma túy. Đó là phương tiện nhằm đem lại sự bình an, hạnh phúc cho quý Phật tử đó thôi.

Cho đến khổ đau và an vui của con người đạo Phật có nói rõ đều do con người tự do tạo lấy theo nguyên lý nhân quả mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Đức Phật nói: “Ta không có quyền ban phước giáng họa cho con người.” Ngài chỉ là vị thầy dẫn đường hướng dẫn cho mọi người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết định. Ta hành động tốt, hay giúp đỡ mọi người sẽ mang niềm vui đến cho mình, nếu hành động xấu sẽ tự chuốc quả khổ đau.

Tự do trong nhà Phật là kêu gọi mọi người ý thức tự giác để biết cách làm chủ bản thân qua thân-miệng-ý và thắng được mọi cám dỗ bên ngoài. Tất cả mọi thứ tiền tài, sắc đẹp, danh lợi và quyền lực không lôi cuốn được ta là ta đã tự do. Người đời miệng luôn nói tự do, đòi tự do, kêu gọi tự do mà đam mê tửu sắc, vui chơi hưởng thụ quá đáng nên dẫn đến tan nhà nát cửa thì bao giờ mới được tự do?

Tự do là chân giá trị sống của con người. Song, muốn tự do ta phải có đầy đủ giới-định-tuệ và sức mạnh nghị lực mới mong chiến thắng bọn ma mị tài, sắc, danh lợi… Không dính mắc mọi sự cám dỗ bên ngoài là ta đang được tự do và cuối cùng là dẫn đến quả giác ngộ, giải thoát.

Chúng ta giải thoát bằng cách nào? Thật sự, chúng ta không cần tìm giải thoát ở đâu xa, ngay nơi thân tâm này mình đã có đủ khả năng làm chủ bản thân qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bằng sự bảo hộ của giới luật cùng với cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Giới luật, thiền định và trí tuệ như cái đỉnh ba chân. Khi chúng ta phát huy và gìn giữ được ba yếu tố trên thì việc tu của chúng ta rất đơn giản, nhẹ nhàng. Giữ giới rất quan trọng vì nó là nhân dẫn đến khả năng định tâm trong thiền định, người phạm giới thì tâm niệm luôn toan tính lăng xăng.

Đối với tất cả vọng niệm ta không cần xua đuổi, khử trừ mà chỉ cần nhận diện và nhìn chúng như gió thoảng mây bay thì tất cả niệm sẽ tan hòa vào hư không. Khi đó ta thấy chỉ là thấy mọi hình ảnh sự vật mà không dính mắc vào đó nên vọng niệm không có cơ hội phát sinh, nhờ vậy ta an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chỗ này các Tổ thường dạy rằng niệm cho đến vô niệm vì vẫn thấy nghe mà thường

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Bài viết khác