Mục lục
- Lời nói đầu cho lần tái bản năm 2015
- Lời nói đầu
- QUYỂN 1 - Phẩm THỌ MẠNG - Thứ nhất – Phần một
- QUYỂN 2 - Phẩm THỌ MẠNG - Phẩm thứ nhất – Phần hai
- QUYỂN 3 - Phẩm THỌ MẠNG - Phẩm thứ nhất – Phần ba
- QUYỂN 4 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần một
- QUYỂN 5 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần hai
- QUYỂN 6 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần ba
- QUYỂN 7 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần bốn
- QUYỂN 8 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần năm
- QUYỂN 9 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần sáu
- QUYỂN 10 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần bảy
- QUYỂN 11 - Phẩm THỊ HIỆN BỆNH - Phẩm thứ sáu
- QUYỂN 12 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần hai
- QUYỂN 13 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần ba
- QUYỂN 14 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần bốn
- QUYỂN 15 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám - Phần một
- QUYỂN 16 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám – Phần hai
- QUYỂN 17 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám – Phần ba
- QUYỂN 18 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám – Phần bốn
- QUYỂN 19 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám – Phần năm
- QUYỂN 20 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám – Phần sáu
- QUYỂN 21 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười - Phần một
- QUYỂN 22 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười – Phần hai
- QUYỂN 23 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười – Phần ba
- QUYỂN 24 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười – Phần bốn
- QUYỂN 25 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười – Phần năm
- QUYỂN 26 - Phẩm BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG - Phẩm thứ mười – Phần sáu
- QUYỂN 27 - Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một - Phần một
- QUYỂN 28 - Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một – Phần hai
- QUYỂN 29 - Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một – Phần ba
- QUYỂN 30 - Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một – Phần bốn
- QUYỂN 31- Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một – Phần năm
- QUYỂN 32 - Phẩm BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG - Phẩm thứ mười một – Phần sáu
- QUYỂN 33 - Phẩm BỒ TÁT CA DIẾP - Phẩm thứ mười hai - Phần một
- QUYỂN 34 - Phẩm BỒ TÁT CA DIẾP - Phẩm thứ mười hai - Phần hai
- QUYỂN 35 - Phẩm BỒ TÁT CA DIẾP - Phẩm thứ mười hai – Phần ba
- QUYỂN 36 - Phẩm BỒ TÁT CA-DIẾP - Phẩm thứ mười hai – Phần bốn
- QUYỂN 37 - Phẩm BỒ TÁT CA-DIẾP - Phẩm thứ mười hai – Phần năm
- QUYỂN 38 - Phẩm BỒ TÁT CA-DIẾP - Phẩm thứ mười hai – Phần sáu
- QUYỂN 39 - Phẩm KIỀU-TRẦN-NHƯ - Phẩm thứ mười ba - Phần một
- QUYỂN 40 - Phẩm KIỀU-TRẦN-NHƯ - Phẩm thứ mười ba - Phần hai
- Phần cuối - Các vị sa-môn Nhã-na-bạt-đà-la, Hội Ninh... cùng dịch - QUYỂN 41 - Phẩm KIỀU-TRẦN-NHƯ - Phẩm thứ mười ba - Phần ba
- QUYỂN 42 - LINH ỨNG KHI TRÀ-TỲ - Phẩm thứ ba
Lời nói đầu cho lần tái bản năm 2015
Bản dịch và chú
giải hoàn chỉnh của bộ kinh này được xuất bản lần đầu tiên năm 2009. Từ đó đến
nay chúng tôi đã nhận được rất nhiều phản hồi từ độc giả khắp nơi, trong nước
cũng như ngoài nước. Từ những thông tin phản hồi này, chúng tôi đã nghiêm túc
tiếp nhận, nghiên cứu từng vấn đề được độc giả góp ý, cũng như tiếp tục khảo
cứu sâu hơn nhiều vấn đề khác liên quan đến ý nghĩa kinh văn, nhằm giúp cho bản
dịch càng thêm hoàn thiện, sáng tỏ hơn. Duyên lành đã đủ, nay kinh này được tái
bản, quả là một tin vui cho người Phật tử.
Bản in năm 2009 đã được độc giả khắp nơi nồng nhiệt đón nhận. Hơn 300 bộ kinh
đã được gửi sang Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Đức, Australia... theo yêu cầu qua điện
thư của Phật tử tại các nước này. Ngoài ra, hàng trăm bộ kinh cũng được thỉnh
về các ngôi chùa lớn trong khắp nước. Dịch giả đã nhận được nhiều thư viết tay
cũng như điện thoại, email... từ độc giả bày tỏ sự vui mừng về việc in ấn hoàn
thành bộ kinh. Đầu năm 2013, Đài Truyền hình An Viên (AVG) thực hiện bộ phim
phóng sự chuyên đề “Người dịch Kinh Phật”, giới thiệu với khán thính giả trên
cả nước về công trình chuyển dịch kinh này, phát sóng lần đầu tiên vào ngày 23
tháng 2 năm 2013 và phát lại nhiều lần sau đó. Tháng 9 năm 2013, Trung tâm Sách
Kỷ lục Việt Nam (Vietnam Records Book Center) chính thức công bố bản Việt dịch
này xác lập Kỷ lục Quốc gia. Hầu hết các website Phật giáo trên toàn thế giới
cũng nhanh chóng phổ biến bản dịch này đến với Phật tử khắp nơi. Có thể nói,
những tín hiệu tích cực từ người đọc cũng như giới truyền thông trong và ngoài
nước đối với việc lưu hành bản kinh này là hết sức khả quan.
Trước sự quan tâm ưu ái của đông đảo Phật tử các giới, chúng tôi tự nhận thấy
trách nhiệm của mình là phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa bản dịch kinh này để
đáp ứng sự mong đợi cũng như nhu cầu tu học của người Phật tử. Vì thế, trong
suốt thời gian qua, chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để không ngừng rà
soát và chỉnh sửa kỹ lưỡng từng phần trong bản dịch, cố gắng làm cho bản dịch
càng thêm rõ ràng và trong sáng, mong có thể chuyển tải được ý nghĩa thâm sâu
trong từng câu kinh đến với người đọc.
Ngoài những chỉnh sửa hoàn thiện về nội dung, trong lần tái bản này chúng tôi
cũng phân chia lại toàn bộ các phẩm kinh theo sát với cấu trúc Hán văn trong
Đại Chánh tân tu Đại Tạng Kinh. Hiện nay Đại Chánh tạng đã trở thành tạng kinh
được sử dụng rộng rãi nhất, và chúng tôi cũng đã xây dựng thành công một phiên
bản điện tử trực tuyến của tạng kinh này, cho phép người dùng sử dụng hoàn toàn
miễn phí tại địa chỉ http://rongmotamhon.net. Vì thế, việc trình bày theo Đại
Chánh tạng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người đọc trong việc tham khảo, đối
chiếu kinh văn.
Cuối cùng, việc tái bản kinh này là một thuận duyên lớn lao cho người học Phật.
Chúng tôi xin tri ân tất cả những sự giúp đỡ, khuyến khích, trực tiếp cũng như
gián tiếp cho Phật sự này. Đặc biệt, chúng tôi chân thành ghi nhận nơi đây lòng
nhiệt thành hộ trì Chánh pháp của vợ chồng anh Nguyễn Hữu Cứ và chị Nguyễn
Phước Lan Hương, đã hoan hỷ gánh vác mọi chi phí cần thiết trong công việc. Nếu
không có sự hằng tâm hằng sản của vợ chồng anh chị, chắc chắn việc in ấn cũng
như tái bản bộ kinh này đã không thể nào thực hiện được.
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia trì cho tất cả những ai có duyên may gặp được
Pháp bảo này đều sẽ phát tâm Bồ-đề kiên cố, tinh tấn tu tập để tiến đến tự giác
giác tha, giác hạnh viên mãn.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật
Trân trọng,
Nguyễn Minh Tiến
Lời nói đầu
Kinh Đại Bát Niết-bàn là một bộ kinh đồ sộ trong kho tàng
kinh điển Phật giáo, được một cao tăng miền Trung Ấn Độ là ngài Đàm-vô sấm mang
đến Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ 5, và cũng được chính vị này khởi công dịch
sang chữ Hán. Trong Đại tạng kinh (bản Đại Chánh tân tu), kinh này được xếp vào
quyển 12, kinh số 374 (40 quyển) và kinh số 377 (2 quyển Hậu phần).
Việc chuyển dịch kinh này sang tiếng Việt đã được rất nhiều bậc tiền bối nghĩ đến
từ lâu. Công trình muộn màng này của chúng tôi chỉ hy vọng góp thêm được phần
nào dù nhỏ nhoi trong việc giúp người đọc có sự tiếp nhận dễ dàng hơn đối với bộ
kinh này. Ngoài ra, việc khảo đính và giới thiệu trọn vẹn nguyên bản Hán văn sẽ
rất có ý nghĩa trong việc giữ gìn và lưu truyền kinh điển Đại thừa một cách chuẩn
xác hơn, vì ngoài việc tạo điều kiện lưu giữ bản Hán văn, hình thức in ấn này sẽ
giúp người đọc có thể đối chiếu, tham khảo khi có sự nghi ngại hay không rõ
trong bản dịch. Điều này cũng sẽ giúp các bậc cao minh dễ dàng nhận ra và chỉ dạy
cho những chỗ sai sót, để bản dịch nhờ đó càng được hoàn thiện hơn. Và dĩ
nhiên, mục đích cuối cùng của tất cả những điều trên chính là để giúp cho sự học
hỏi và tu tập theo lời Phật dạy được đúng hướng hơn. Bởi vì hơn ai hết, người
Phật tử luôn hiểu rằng chính những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh
điển là chỗ y cứ quan trọng và chắc chắn nhất cho con đường tu tập của mỗi người.
Mặc dù công trình đã được tiến hành với sự cẩn trọng tối đa trong phạm vi khả
năng của những người thực hiện, từ việc khảo đính văn bản Hán văn cho đến việc
tham khảo, chuyển dịch, chú giải... nhưng e rằng cũng không thể tránh được ít
nhiều sai sót. Vì thế, dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng trình bày đôi nét về quá
trình thực hiện công việc để quý độc giả có thể có một cái nhìn tổng quát về những
gì chúng tôi đã thực hiện cũng như phương cách mà chúng tôi đã vận dụng, qua đó
sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra những lời chỉ dạy giúp chúng tôi hoàn thiện
hơn nữa công việc đã làm. Chúng tôi xin chân thành đón nhận và biết ơn mọi sự
góp ý từ quý độc giả gần xa cả về nội dung lẫn hình thức của lần xuất bản này.
Toàn bộ bản kinh Đại Bát Niết-bàn trong lần xuất bản này gồm 8 tập, 7 tập chánh kinh và 1 tập phụ lục, được in cả 4 phần: Hán văn, chú âm, dịch nghĩa và chú giải.
Kinh in trên giấy trắng tốt, bìa cứng với chất liệu simili (giả da),
tên kinh mạ nhủ vàng; bên ngoài có một lớp áo kinh in offset 4 màu.
Trọn bộ 8 tập được đựng trong 2 hộp bìa cứng, cho vào 1 thùng các-tông. Giá
phát hành hiện nay là 2.000.000$ VN.
Về mặt văn bản, chúng tôi chọn sử dụng bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm (40
quyển) vừa được đề cập ở trên. Riêng 2 quyển cuối cùng (Hậu phần) là bản dịch
của hai ngài Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh. Tuy nhiên, kinh Đại Bát Niết-bàn còn
có rất nhiều bản dịch khác.
Trong kinh tạng Nguyên thủy được dịch từ tiếng Pāli (Nam Phạn) cũng có kinh
này, nhưng ngắn hơn nhiều so với bản dịch trong Hán tạng được chúng tôi sử
dụng. Tuy nhiên, về các chi tiết, sự kiện được đề cập đến trong kinh thì hai
bản dịch này có rất nhiều điểm tương đồng. Vì thế, chúng tôi đã sử dụng bản
Việt dịch kinh này của Hòa thượng Thích Minh Châu (Trường bộ kinh, kinh số 16,
Mahāparinibbāna sutta) để tham khảo đối chiếu ở những chỗ có liên quan.
Trong Hán tạng còn có một số bản dịch khác. Bản dịch đời Đông Tấn (317-420) của
ngài Pháp Hiển cũng có tên là Đại Bát Niết-bàn kinh, gồm 3 quyển, được xếp vào
Đại Chánh tạng thuộc quyển 1, kinh số 7; bản dịch đời Tây Tấn của ngài Bạch
Pháp Tổ là Phật Bát Nê-hoàn kinh (2 quyển), được xếp vào Đại Chánh tạng quyển
1, kinh số 5. Ngoài ra còn có một bản dịch tên Bát Nê-hoàn kinh (2 quyển) đã
mất tên người dịch, được xếp vào Đại Chánh tạng quyển 1, kinh số 6. Những bản
này có lẽ đều dịch từ Phạn văn Nam truyền thuộc kinh tạng Nguyên thủy nên nội
dung tương tự với bản trong Trường bộ kinh do Hòa thượng Thích Minh Châu Việt
dịch vừa nói ở trên. Nội dụng của các bản này chỉ được tham khảo ở một số chi
tiết tương đồng khi kể lại sự kiện đức Phật nhập Niết-bàn, còn nói chung không
có sự ghi chép đầy đủ những lời dạy của Phật như trong bản dịch của ngài
Đàm-vô-sấm.
Một bản dịch khác đặc biệt đáng chú ý là Phật thuyết Đại Bát Nê-hoàn kinh, cũng
do ngài Pháp Hiển đời Đông Tấn dịch, 6 quyển, được xếp vào Đại Chánh tạng ở
quyển 12, kinh số 376. Dựa vào nội dung thì bản dịch này cũng chính là bản kinh
mà ngài Đàm-vô-sấm đã dịch.
Từ điển Phật Quang cho biết ngài Pháp Hiển sinh năm 340 và mất trong khoảng năm
418 đến 423. Như vậy, cũng có thể xem như đồng thời với ngài Đàm-vô-sấm
(385-433). Ngài được cha mẹ cho vào chùa từ năm 3 tuổi, làm sa-di đến năm 20
tuổi thì thọ giới Cụ túc. Với sức học uyên thâm, ngài thường than tiếc với mọi
người rằng kinh luật lưu hành thời ấy ở Trung Hoa có quá nhiều khiếm khuyết. Vì
thế, ngài quyết tâm sang tận Ấn Độ để học hỏi và thỉnh kinh điển về. Năm 399,
ngài chính thức rời Trường An để thực hiện ý định này. Tuy ngài hướng về Trung
Ấn Độ, nhưng trong suốt cuộc hành trình kéo dài nhiều năm ngài đã ghé qua rất
nhiều nơi khác nhau trên đường đi như Đôn Hoàng, Vu Điền... thậm chí có đến ở
đảo Tích Lan (Sri Lanka) trong 2 năm. Đến năm 413 ngài mới về lại Trung Hoa,
rồi cùng với ngài Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) (359-429) bắt đầu chuyển
dịch kinh luật sang Hán ngữ. Ngài đã dịch những kinh luật như Ma-ha Tăng-kỳ
luật, Phật thuyết Đại Bát Nê-hoàn kinh, Tạp A-tì-đàm tâm luận, Tạp tạng
kinh... Cứ theo những chi tiết còn được biết thì rất có thể thời điểm
ngài dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn cũng gần với thời điểm ngài Đàm-vô-sấm dịch kinh
Đại Bát Niết-bàn.
Chúng tôi tin rằng hai vị này có thể đã không biết đến công trình của nhau, và
Phạn bản mà ngài Pháp Hiển sử dụng có thể là do chính ngài đã mang về trong
chuyến đi Ấn Độ. Vì thế, việc tham khảo thêm bản dịch này của ngài Pháp Hiển
được chúng tôi cho là cực kỳ quan trọng trong việc giúp làm rõ những chỗ còn
khó hiểu trong kinh văn. Trong khi ngài Đàm-vô-sấm là một cao tăng Ấn Độ học
tiếng Trung Hoa để dịch kinh, thì ngược lại ngài Pháp Hiển lại là một cao tăng
Trung Hoa sang Ấn Độ học Phạn ngữ. Chỉ riêng điều này cũng đủ để chúng ta có
thể tin chắc rằng hai bản dịch này sẽ có rất nhiều yếu tố bổ sung cho
nhau.
Và sự thật đúng là như thế. Chúng tôi xin nêu một vài ví dụ cụ thể để quý vị có
thể thấy rõ việc này. Khi dịch đến một câu nói của vị Bồ Tát Ca-diếp là: “如來常身猶如畫石。- Như Lai thường thân do như
họa thạch.” (Thân Như Lai thường còn như hình khắc trên đá.) Chúng tôi xét thấy
dựa theo ý kinh trong toàn đoạn thì nghĩa câu này có phần khiên cưỡng, thậm chí
là mâu thuẫn. Khi tham khảo bản dịch của ngài Pháp Hiển thì thấy câu này được
dịch là: “如來法身真實常住,非磨滅法,我意諦信猶如畫石。” (Như Lai pháp thân chân thật thường trụ, phi ma diệt
pháp, ngã ý đế tín do như hoạch thạch.) Nghĩa là: “Pháp thân Như Lai chân
thật thường trụ, không phải pháp hoại diệt, lòng con đã tin chắc điều đó như
khắc sâu vào đá.” Theo đây mà suy đoán thì có lẽ bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm
vì một lý do nào đó đã mất đi mấy chữ, ít nhất cũng là phần tương đương với 8
chữ Hán được chúng tôi in đậm trong câu trên. Đây là sự bổ sung về mặt văn bản,
vì như đã nói, rất có thể hai vị đã dùng 2 Phạn bản khác nhau.
Trong một trường hợp khác, bản dịch ngài Đàm-vô-sấm chép là: “譬如陶師作已還破。- Thí như đào sư tác dĩ hoàn
phá.” (Ví như người thợ làm đồ gốm, làm ra rồi phá bỏ.) Tất cả các bản Việt
dịch đã có và cả các bản Anh ngữ đều dịch với ý tương tự như vậy, cho dù một
câu như thế thật hết sức khó hiểu!
Bản dịch của ngài Pháp Hiển đã giúp chúng tôi giải tỏa khó khăn này. Trong vị
trí tương đương của câu này, ngài dịch là: 譬如陶家埏埴作器有作有壞
- Thí như đào gia duyên thực tác khí, hữu tác hữu hoại.” Như vậy là quá rõ
ràng! Không phải “làm ra rồi phá bỏ (!)”, mà phải hiểu là “có làm ra ắt có ngày
hư hoại”. Đây được dùng để ví với các pháp thế gian được tạo tác nên không
thường tồn; khác với sự giải thoát của Như Lai là không do tạo tác mà thành nên
không có sự hư hoại, thay đổi.
Tuy nhiên, điều vô cùng đáng tiếc là bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp
Hiển (6 quyển) ngắn hơn nhiều so với bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm, chỉ tương
đương đến hết phẩm thứ 5 của bản Đại Bát Niết-bàn, nghĩa là vừa hết quyển 10 và
bước sang quyển 11 một phần ngắn, còn lại gần 30 quyển sau là không có trong
bản Đại Bát Nê-hoàn. Chúng ta có thể tạm suy đoán là phần Phạn bản này tương
đương với phần đầu mà ngài Đàm-vô-sấm đã mang sang Trung Hoa lần đầu tiên, và
phần được thỉnh lần thứ hai có lẽ ngài Pháp Hiển không có.
Vì nhiều lý do nên sau khi so sánh cân nhắc chúng tôi vẫn quyết định chọn bản
dịch của ngài Đàm-vô-sấm làm văn bản chính, và những sự tham khảo đối chiếu như
trên chỉ được đưa vào phần chú giải để người đọc hiểu rõ vấn đề hơn, hoàn toàn
không dám tùy tiện sửa đổi trong chính văn.
Như trên đã nói qua về các bản văn được sử dụng để tham khảo.
Bây giờ xin lược nói đôi nét về văn bản chính. Bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm được
gọi là Bắc bản, thực hiện vào triều đại Bắc Lương (397-439). Ngoài ra còn có
Nam bản là bản Đại Bát Niết-bàn kinh (36 quyển) đời Tống, do nhóm của ngài Huệ
Nghiêm thực hiện vào triều Tống (960-1279), được xếp vào Đại Chánh tạng quyển
12, kinh số 375. Ở đầu bản kinh văn này cho biết nhóm của ngài Huệ Nghiêm đã
căn cứ vào bản Nê-hoàn kinh để bổ sung vào. (Tống đại sa-môn Huệ Nghiêm đẳng y
Nê-hoàn kinh gia chi - 宋代沙門慧嚴等依泥洹經加之).
(Nê-hoàn kinh ở đây có lẽ chỉ bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển.)
Nam bản thật ra cũng không khác biệt nhiều với Bắc bản, vì nhóm của ngài Huệ
Nghiêm đã sử dụng chính bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm để khắc in lại, với một số
thay đổi chính như đổi tựa đề một số phẩm và phân chia các quyển khác hơn. Vì
thế Nam bản chỉ có 36 quyển so với Bắc bản có đến 40 quyển. Trong suốt quá
trình chuyển dịch, chúng tôi sẽ cố gắng lưu ý độc giả những chỗ khác biệt này.
Ngoài ra, vì đây là một bộ kinh quan trọng nên có rất nhiều bản sớ giải đã được
thực hiện qua các triều đại. Chẳng hạn như Đại Bát Niết-bàn Kinh tập giải (71
quyển, Đại Chánh tạng quyển 37, kinh số 1763) của ngài Bảo Lượng (444 – 509)
vào đời Lương (502 – 557); Đại Bát Niết-bàn Kinh nghĩa ký (10 quyển, Đại Chánh
tạng quyển 37, kinh số 1764) của ngài Huệ Viễn vào đời Tùy (581-618); Đại Bát
Niết-bàn kinh huyền nghĩa (2 quyển, Đại Chánh tạng quyển 38, kinh số 1765) cũng
vào đời Tùy... Trong quá trình chuyển dịch, chúng tôi có tham khảo các bản sớ
giải này để tìm hiểu ý kinh rõ hơn.
Riêng về bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, có lẽ chúng ta cần tìm hiểu đôi
nét về cuộc đời vị cao tăng này nói chung, và về công trình Hán dịch kinh này
nói riêng.
Ngài là cao tăng người miền Trung Ấn Độ, xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn,
tên Phạn ngữ là Dharmaraka, Hán dịch âm là Đàm-vô-sấm, cũng còn đọc là Đàm-ma-sấm
hay Đàm-ma-la-sám, dịch nghĩa là Pháp Phong. Trước ngài học giáo lý Tiểu thừa,
tinh thông kinh luận, biện tài ứng đáp không ai bằng. Sau gặp được thiền sư Bạch
Đầu, được nghe kinh Đại Bát Niết-bàn này liền tự sanh lòng hổ thẹn, chuyển sang
tu học giáo pháp Đại thừa.
Năm 20 tuổi ngài đã có thể tụng đọc thông suốt kinh điển cả Đại thừa lẫn Tiểu
thừa. Ngài lại còn giỏi về chú thuật, được vua kính trọng và người đương thời
tôn xưng là Đại Chú Sư. Sau ngài đến xứ Kế Tân, mang theo 5 phẩm đầu của kinh Đại
Bát Niết-bàn, cùng với kinh Bồ Tát Giới và kinh Bồ Tát Giới Bản. Tiếp đó, ngài
sang xứ Quy Tư. Nhưng cả hai xứ này người dân đa phần chuộng theo Tiểu thừa,
nên sau ngài lại sang đến Đôn Hoàng là kinh đô nhà Tây Lương thời bấy giờ.
Niên hiệu Huyền Thủy thứ nhất đời Bắc Lương, tức năm 412, Hà Tây Vương là Thư Cừ
Mông Tốn thỉnh ngài đến thành Cô Tàng và lưu lại đó, tiếp đãi rất trọng hậu.
Ngài nhân dịp này liền dành trọn 3 năm để học chữ Hán. Sau đó, ngài khởi sự
phiên dịch phần đầu kinh Đại Bát Niết-bàn sang Hán ngữ. Như vậy, sớm nhất thì bản
dịch kinh này cũng phải khởi đầu từ khoảng năm 416. Chúng ta nhớ lại, ngài Pháp
Hiển trở về Trung Hoa năm 413 và bắt đầu dịch kinh, rồi viên tịch trong khoảng
năm 418-423, vậy bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn chắc chắn phải được thực hiện
trong khoảng cùng thời gian này.
Vì bản kinh Đại Bát Niết-bàn ngài mang theo chưa đủ trọn bộ, ngài liền đến xứ
Vu Điền,[1]
tìm thỉnh được phần tiếp theo, nhưng vẫn chưa trọn bộ. Ngài lại trở về Cô Tàng
tiếp tục công việc phiên dịch. Khi ấy, Thái Vũ Đế của Bắc Ngụy nghe danh ngài
là người tài giỏi liền sai sứ đến đón về. Mông Tốn trong lòng lo lắng, sợ e
ngài về với Bắc Ngụy tất Ngụy sẽ có nhiều chỗ dùng đến, đối nghịch với mình. Vì
vậy, nhân khi ngài lên đường trở về Ấn Độ để thỉnh phần cuối kinh Đại Bát Niết-bàn
sang dịch, Mông Tốn liền sai người chặn giữa đường mà hại chết. Phần cuối của
kinh, được gọi là Hậu phần Đại Bát-Niết-bàn kinh, gồm 2 quyển, vì thế phải đợi
đến về sau mới được hai vị sa-môn là Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh dịch vào khoảng
đời Đường (618 – 907).
Ngài Đàm-vô-sấm sinh năm 385 và mất vào năm ấy là năm 433. Kinh điển do ngài dịch,
người sau ghi lại số lượng không giống nhau. Theo Xuất Tam Tạng Ký Tập thì ngài
dịch được 11 bộ kinh, gồm 117 quyển, nhưng theo Đại Đường Nội Điển Lục thì số
kinh ngài dịch là 24 bộ, gồm 151 quyển. Số lượng thật sự còn giữ lại được đến
nay trong Đại Chánh tạng là 23 bộ. Phần lớn những kinh do ngài chuyển dịch đều
là kinh điển Đại thừa như kinh Bi Hoa, kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, kinh Kim
Quang Minh... và một số bản văn trong Luật tạng. Trong số này, kinh Bi Hoa (10
quyển) đã được chúng tôi Việt dịch và xuất bản.[2]
Qua những chi tiết còn được biết về cuộc đời ngài Đàm-vô-sấm và công trình Hán
dịch kinh này, chúng ta có thể thấy rõ mối quan tâm đặc biệt của ngài cũng như
những gian nan vất vả mà ngài đã trải qua để có thể hoàn tất bản dịch kinh này.
Thậm chí vì muốn hoàn tất bộ kinh với 2 quyển cuối, ngài đã không ngại đường xa
nguy hiểm, quyết lòng lặn lội trở về Ấn Độ thỉnh kinh, để rồi cuối cùng phải bỏ
mạng giữa đường đi. Cứ nghĩ đến việc này thì sẽ thấy mỗi câu mỗi chữ trong bản
Hán văn mà ngày nay chúng ta còn có duyên may được đọc thật là quý giá biết bao
nhiêu!
Mặc dù không tránh khỏi một vài khiếm khuyết, rất có thể xuất phát từ sự sai lệch
ngay trong Phạn bản, hoặc do quá trình khắc bản qua nhiều lần đã làm thay đổi,
nhưng chúng tôi vẫn cho rằng bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm là bản đầy đủ
và ưu việt nhất trong tất cả các bản đã được nhắc đến. Có rất nhiều đoạn kinh
văn hết sức súc tích và không kém phần diễn cảm, dù chưa đủ gọi là văn chương
trác tuyệt nhưng cũng đủ để thể hiện được học vấn uyên thâm của người viết. Thật
khó có thể tin rằng người viết ra những đoạn văn hay như thế lại là một người Ấn
Độ chỉ mới học chữ Hán trong khoảng 3 năm!
Trở lại với vấn đề Việt dịch kinh này, như đã nói từ đầu, có rất nhiều vị tiền
bối trước chúng tôi đã quan tâm đến việc chuyển dịch kinh này. Vì thế, trong suốt
quá trình thực hiện công việc, chúng tôi đã may mắn có cơ hội tham khảo một số
những công trình đã thực hiện trước, xin nêu cụ thể dưới đây.
Trước hết là bản Việt dịch của Cố học giả Đoàn Trung Còn. Bản
dịch này được dịch giả tự xuất bản trước năm 1975 từ quyển 1 đến quyển 11, chia
làm 2 tập. Phần còn lại, từ quyển 12 đến quyển 42 là bản thảo viết tay, trước
đây lưu giữ tại Viện Chuyên tu (Làng Vạn Hạnh, BRVT), sau đó được chuyển cho cư
sĩ Chân Nguyên.[3]
Khi biết chúng tôi có sự quan tâm đến các công trình Phật học, cư sĩ Chân
Nguyên đã giao lại bản thảo viết tay này cho chúng tôi để xem xét việc xuất bản.
Mặc dù bản dịch này có giá trị tham khảo rất cao, vì Học giả Đoàn Trung Còn
không chỉ thực hiện bản Việt dịch mà còn tra khảo nhiều tư liệu để thêm vào các
chú giải cho bản dịch của mình, nhưng chúng tôi nhận thấy là không thể xuất bản
vào thời điểm hiện nay vì cách dùng từ ngữ cũng như văn phong diễn đạt nói
chung đều đã quá xưa cũ, không còn phù hợp và rất khó hiểu đối với độc giả ngày
nay. Hơn nữa, những chú giải của ông cũng cần phải biên soạn lại, do điều kiện
thiếu tư liệu trước đây, cũng như những hạn chế nhất định trong sự tham khảo đối
chiếu.
Kèm theo bản Việt dịch này còn có phần viết tay toàn bộ bản Hán văn, mà theo
suy đoán của chúng tôi là dựa vào bản khắc gỗ cũng được lưu giữ tại Viện Chuyên
tu. Bản khắc gỗ Hán văn này thuộc Càn Long tạng, thường gọi là bản chữ Vạn; khi
biết chúng tôi đang thực hiện công trình này, Đại đức Thích Thiện Thuận ở Viện
Chuyên tu đã hoan hỷ cho chúng tôi mượn dùng.
Tiếp đến là bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh.
Chúng tôi hiện có bản dịch này do Thành hội Phật giáo TP. HCM ấn hành năm 1991.
Ngoài ra, nó cũng được lưu hành trên mạng Internet tại Thư viện Hoa sen (http://thuvienhoasen.org), được ghi là do Tịnh xá Minh Đăng
Quang xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 1990. Bản này không in kèm Hán văn và cũng
không thấy ghi rõ là dịch từ bản Hán văn nào, nhưng căn cứ vào những ghi chú
phân đoạn của Hòa thượng thì biết là đã dịch từ Bắc bản chứ không phải Nam bản
(40 quyển chứ không phải 36 quyển). Tuy vậy, tựa đề các phẩm có sửa lại theo
Nam bản, chẳng hạn như phẩm đầu tiên là phẩm Tựa (Tự phẩm) thay vì là phẩm Thọ
mạng, phần thứ nhất (Thọ mạng phẩm – đệ nhất) như trong Bắc bản. Hòa thượng
cũng dịch cả 2 quyển Hậu phần của các ngài Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh. Mặt
khác, khi trình bày bản Việt dịch, Hòa thượng đã căn cứ vào các phẩm kinh để
phân chia, không dựa theo sự phân chia các quyển như trong bản Hán văn. Trong
quá trình chuyển dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch này của Hòa thượng ở những
nơi cần thiết.
Ngoài ra còn có bản Việt dịch của cư sĩ Tuệ Khai (Phan Rang), được thực hiện với
sự chứng nghĩa của Hòa thượng Thích Đỗng Minh. Chúng tôi không biết bản dịch
này đã xuất bản hay chưa, chỉ sử dụng bản lưu hành trên mạng Internet tại địa
chỉ: http://www.quangduc.com/kinhdien/81daibatnietban.html. Bản dịch
này ghi rõ là dịch từ Nam bản đời Tống và không dịch 2 quyển Hậu phần.
Ngoài các bản Việt dịch kể trên, chúng tôi còn sử dụng 2 bản dịch Anh ngữ của
kinh này. Bản thứ nhất được lưu hành trên mạng Internet tại địa chỉ: http://www.nirvanasutra.org.uk
có tên là The Mahayana Mahaparinirvana Sutra, được Kosho Yamamoto dịch sang Anh
ngữ từ bản Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, với sự hiệu đính của Tiến sĩ Tony Page
(Nirvana Publications, London, 1999-2000). Bản này không dịch 2 quyển Hậu phần.
Theo sự phân đoạn thì bản dịch này được dịch từ Nam bản.
Bản dịch Anh ngữ thứ hai mà chúng tôi sử dụng có thể tìm thấy trên mạng
Internet tại địa chỉ http://www.zhaxizhuoma.net/DHARMA/Tripitaka/MahaparinirvanaMahayana.htm,
do Charles Patton dịch sang Anh ngữ từ bản Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, nhưng
chỉ gồm một số phẩm, không trọn bộ. Cụ thể là chúng tôi đã đọc được các phẩm thứ
1, 2, 3, 6, 10, 11 và 15. Các phẩm khác chưa thấy công bố. Bản này được dịch giả
ghi rõ là dịch từ Nam bản.
Việc sử dụng các bản dịch Anh ngữ đặc biệt hữu ích khi chuyển dịch những đoạn
văn mô tả mà cách dùng chữ của bản Hán văn trở nên khó hiểu vì từ ngữ với ý
nghĩa được dùng hiện nay không còn thông dụng nữa. Chẳng hạn, khi bản Hán văn
dùng “chân kim vi hướng - 眞金爲向”
thì chúng tôi đã không khỏi có phần lúng túng. Ông Đoàn Trung Còn dịch là “vàng
ròng làm hướng”, xem như không dịch chữ hướng, và mô tả như vậy thì không ai có
thể hiểu được gì cả! Hòa thượng Trí Tịnh bỏ hẳn chi tiết này (và nhiều chi tiết
khác) không dịch! Khi tham khảo cả 2 bản Anh ngữ đều thấy dịch chữ “hướng 向” là “windows”. Sau đó, chúng tôi liền
tra khảo lại các tự điển Hán ngữ thì thấy quả thật chữ này có một nghĩa là “cửa
sổ”, nhưng ngày nay chẳng mấy ai dùng đến nghĩa này. Vì thế, câu trên phải được
hiểu là “các cửa sổ đều bằng vàng ròng”...
Tất cả các bản dịch kể trên đều chỉ được chúng tôi sử dụng với mục đích tham khảo
thuần túy, hoàn toàn không có sự trích dẫn hay sử dụng lại bất cứ phần nào
trong đó. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đặt tên Cố học giả Đoàn Trung Còn như người
đồng thực hiện công trình này vì lòng tôn kính chân thành đối với những nỗ lực
tiên phong trong công việc mà ông đã thực hiện trước đây một cách không mệt mỏi
cho đến tận cuối đời.
Mặc dù vậy, sự tham khảo cùng lúc nhiều bản dịch đòi hỏi chúng tôi phải luôn tỉnh
táo trong công việc, không để bị cuốn hút hoàn toàn theo cách hiểu của những
người đi trước, vì trong một số trường hợp thì điều đó có thể dẫn đến sự hiểu
sai văn kinh. Chẳng hạn, trong một đoạn kinh văn dùng cụm từ “ngũ thập thất phiền
não” (五十七煩惱), các bản trước đây đều
dịch là “57 loại phiền não”. Hòa thượng Trí Tịnh bỏ không dịch cụm từ này, cư
sĩ Tuệ Khai và Cố học giả Đoàn Trung Còn đều dịch là 57 phiền não. Tham khảo cả
2 bản Anh ngữ cũng đều dịch là “57 illusions”... Như vậy, trong số năm vị đi
trước thì đã có bốn vị cùng một ý, một vị không dịch. Nhưng chúng tôi không dám
chấp nhận ngay cách dịch này, vì phân vân với con số 57 chưa từng gặp trong các
kinh văn khác. Vì thế đã cố gắng thận trọng đọc qua các bản sớ giải và cuối
cùng tìm được một cách giải thích hợp lý hơn. Theo đó, cụm từ này phải được hiểu
là “ngũ, thập, thất phiền não”, hay nói theo văn sớ giải là: “Ngũ thập thất giả,
tam chủng phiền não dã.” Như vậy thì ý nghĩa đã trở nên rõ ràng. Ba loại phiền
não được tuần tự kể ra, bao gồm ngũ cái (1. Tham dục (貪欲), hay tham ái, tham đắm năm món dục lạc;
2. Sân khuể (瞋恚), hay sân hận, không
chịu được những ngoại cảnh trái ý, sinh tâm giận tức; 3. Hôn trầm (惛沈), hay hôn miên, cũng gọi là thụy
miên, mê ngủ nghỉ, tâm ý chìm đắm trong mê muội; 4. Điệu hối (掉悔), cũng gọi là trạo cử, là tâm thường
xao động như lo lắng bất an, ân hận hối tiếc...; 5. Nghi (疑), chỉ lòng nghi ngờ, do dự, thiếu niềm
tin đối với Giáo pháp, do không đủ trí tuệ phán xét chân chính. Năm loại phiên
não này che lấp tâm ý sáng suốt, làm cho mê muội nên gọi là cái (蓋), nghĩa là che lấp.), thập triền
(1. Vô tàm: Không quí chuộng các công đức và đối với những người có đạo đức chẳng
những không kính trọng, lại sinh tâm ghen ghét, không biết tự thẹn. 2. Vô quí:
Không biết xấu hổ đối với tội lỗi của mình khi bị người khác phát giác. 3. Tật:
Ganh tị. Nghĩa là thấy việc hưng thịnh của người khác, tâm mình không vui. 4.
Xan (khan): Bỏn sẻn không chịu bố thí tài vật, tiền của hoặc nói pháp cho người
khác nghe. 5. Hối: Hối hận về những lỗi xấu mình đã làm khiến tâm bất an. 6.
Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối, không có năng lực tỉnh xét. 7. Trạo cử: Thân thô
động khiến tâm không tĩnh lặng, không cách nào thành tựu được các thiền quán.
8. Hôn trầm: Thần thức tối tăm, thân tâm không có năng lực an trụ trong các thiện
pháp. 9. Phẫn: Trước cảnh trái với ý mình thì sinh tâm tức giận mà quên mất chính
niệm. 10. Phú: Che giấu tội lỗi của mình.) và thất sử (1. Tham dục (tham
ở Dục giới), 2. Sân khuể, 3. Hữu ái (tham ở Sắc giới và Vô sắc giới), 4. Kiêu mạn,
5. Si hoặc, 6. Tà kiến, 7. Nghi pháp (không tin Tứ đế))”. Để chỉ ba loại phiền
não này, văn kinh đã nói quá ngắn gọn, và cách viết xưa kia không có dấu chấm
câu nên người đọc rất dễ nhầm lẫn.
Ngoài ra, những khác biệt giữa Bắc bản
và Nam bản cũng được chúng tôi đặc biệt chú ý, vì Nam bản được thực hiện dựa
trên Bắc bản với những chỉnh sửa của người đi sau, nên rất có thể sẽ có những
chỉnh sửa hợp lý, giúp kinh văn được rõ ràng và chuẩn xác hơn. Tuy nhiên, cũng
có một số trường hợp mà sự chỉnh sửa tỏ ra không hợp lý, và như thế cần phải
tôn trọng Bắc bản, vốn là bản được ra đời trước. Chẳng hạn, trong một đoạn kinh
văn Bắc bản dùng “chư vương chúng trung” được Nam bản sửa lại thành “chư tứ
chúng trung”. Căn cứ vào ý kinh đang đề cập đến một đối tượng rộng hơn là “tứ
chúng”, chúng tôi tin rằng Bắc bản không có sai lầm ở đây. Nhưng các bản trước
đây dịch là “ở giữa các vị vua” là không chuẩn xác, cần phải hiểu là “ở giữa
các vị vua và dân chúng”, nghĩa là “chư vương, chúng trung” chứ không phải “chư
vương chúng trung”.
Một số độc giả vẫn có thể sẽ đặt câu hỏi: “Vì sao phải thực hiện một bản dịch
mới, trong khi đã có một số bản dịch hiện đang lưu hành?” Để trả lời câu hỏi
này, về phần mình chúng tôi chỉ có thể nói là đã thực hiện công việc vì một sự
thôi thúc không thể cưỡng lại khi may mắn được đọc hiểu bản kinh này từ Hán
tạng. Có rất nhiều cảm xúc chân thành và mạnh mẽ mà chúng tôi tự thấy không thể
không cố gắng chia sẻ cùng mọi người, và chính từ đó mà bản dịch này ra đời.
Tâm nguyện chia sẻ đó của chúng tôi có đạt được hay không, điều đó xin tùy nơi
sự đánh giá khách quan của độc giả. Về phần mình, chúng tôi chỉ biết cố hết sức
mình trong việc này mà thôi.
Mỗi người có thể tiếp cận bản kinh này theo một cách khác nhau. Về mặt lịch sử,
kinh này thuật lại suốt thời gian đức Phật chuẩn bị nhập Niết-bàn cho đến sau
khi ngài nhập Niết-bàn và đại chúng phân chia xá-lợi Phật để xây tháp thờ kính.
Vì thế, không ít người có thể sẽ cố gắng tìm kiếm trong kinh này những chi tiết
liên quan đến sự kiện đức Phật nhập Niết-bàn, vì đây là một sự kiện cực kỳ quan
trọng trong cuộc đời ngài, liên quan đến sự truyền thừa tiếp nối của Tăng đoàn
Phật giáo thời bấy giờ tại Ấn Độ, và do đó cũng liên quan cả đến sự truyền bá
Phật giáo về sau ra khắp nơi trên thế giới.
Về mặt học thuật, chỉ riêng độ dài của một văn bản Hán văn đã ra đời và tồn tại
từ hơn 15 thế kỷ qua cũng đã đủ là một đề tài hấp dẫn các nhà nghiên cứu, vì tự
nó đã là một tài liệu bảo lưu rất nhiều yếu tố cổ xưa mà ngày nay khó lòng tìm
lại được.
Về mặt tư tưởng, kinh này hàm chứa hầu hết những tư tưởng quan trọng trong Phật
giáo, từ những vấn đề đơn giản và gần gũi như quan điểm và lời dạy của đức Phật
về việc ăn chay, cho đến những vấn đề phức tạp và trừu tượng như tánh Phật,
thường và vô thường, ngã và vô ngã...
Về mặt giáo lý, kinh này ghi lại những lời dạy của đức Phật trước lúc nhập
Niết-bàn, nên có giá trị như một sự đúc kết cuối cùng tất cả những gì ngài đã
giảng dạy trong suốt cuộc đời. Trước một thính chúng có thể nói là đông đảo
nhất, không chỉ bao gồm hầu như tất cả các đệ tử xuất gia và tại gia của Phật
mà còn có rất đông đồ chúng của các giáo phái ngoại đạo đương thời, đức Phật đã
tuần tự giải tỏa tất cả những nghi vấn được đặt ra vào thời điểm then chốt cuối
cùng này. Nhiều vị thầy ngoại đạo đã quy phục, và tất cả bốn chúng đệ tử Phật
đều không còn ai nghi ngại điều gì. Đức Phật cũng đã ân cần dặn dò về tương lai
đạo pháp, về những nguyên tắc mà người đệ tử Phật cần phải tuân theo trên con
đường tu tập... Tất cả những điều đó đã làm cho kinh này trở thành một trong
những bộ kinh hết sức thiết yếu đối với những người học Phật.
Tuy vậy, thực tế là cho đến nay vẫn còn khá ít người biết đến kinh này. Một số
người tuy cũng đã từng có cơ hội đọc qua nhưng dường như không mấy lưu tâm tìm
hiểu kỹ. Và số người thực sự chuyên tâm nghiền ngẫm trọn bộ kinh này dường như
rất hiếm gặp. Điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân trước tiên là kinh này
có số trang khá nhiều đối với phần lớn những người đọc thông thường. So với
những kinh thông dụng như kinh A-di-đà, kinh Kim cang, kinh Địa tạng... thì
kinh này dày hơn rất nhiều lần! Mặt khác, những vấn đề đề cập đến trong kinh
đòi hỏi người đọc phải có một nền tảng khá vững vàng về Phật học mới có thể
tiếp nhận được. Chính vì thế, rất nhiều người tuy đã thỉnh được kinh này nhưng
chỉ là để đặt vào một nơi tôn nghiêm, trang trọng nhất và cất giữ như một báu
vật, thay vì là thường xuyên mang ra nghiền ngẫm để tu tập theo những lời dạy
trong kinh.
Rào chắn ngôn ngữ cũng là một trở ngại quan trọng. Có thể nói số người thông
thạo Hán văn để đọc được kinh này trong Hán tạng ngày nay không còn bao nhiêu.
Nhưng ngay cả đối với những vị này thì việc đọc trọn bộ kinh cũng không phải dễ
dàng, vì chỉ riêng việc văn bản Hán văn này đã được viết ra từ cách đây hơn 15
thế kỷ cũng đã đủ để chúng ta hình dung được sự khó khăn để nhận hiểu nó một
cách trọn vẹn. Vì thế, phần lớn người đọc phải dựa hoàn toàn vào bản Việt dịch,
và nếu người dịch không luôn luôn tâm niệm điều này thì việc đọc hiểu bản dịch
cũng không thể là dễ dàng và trọn vẹn đối với đa số độc giả. Chẳng hạn, có rất
nhiều thuật ngữ là rất quen thuộc đối với người dịch, nhưng chúng lại vô cùng
khó hiểu đối với những ai hoàn toàn không biết Hán văn. Do đó, nếu trong bản
Việt dịch không có sự chú giải một cách toàn diện và hệ thống thì người đọc
cũng khó lòng nhận hiểu.
Để giảm nhẹ khó khăn này, ngoài việc cố gắng diễn đạt kinh văn theo cách rõ
ràng và dễ hiểu nhất, chúng tôi đồng thời cũng chú giải cho rất nhiều từ ngữ,
thuật ngữ khó hiểu. Sau đó, tất cả các từ ngữ đã được chú giải – thường là khi
chúng xuất hiện lần đầu tiên trong kinh văn – sẽ được tập hợp lại và sắp xếp theo
vần ABC trong một Bảng tra cứu đặt ở phần sau cùng của bộ kinh. Như vậy, trong
suốt quá trình đọc kinh, nếu gặp phải một từ ngữ khó mà không có chú giải tại
chỗ, người đọc có thể sử dụng ngay bảng tra cứu này và dễ dàng tìm được sự giải
thích cần thiết. Mặc dù vậy, vì số trang in quá lớn phải phân chia thành nhiều
tập nên đôi khi chúng tôi cũng đặt các chú giải lặp lại ở một số nơi khác nhau.
Điều này là để tạo sự thuận lợi hơn cho người đọc.
Mặt khác, bất cứ ai đã từng học qua chữ Hán đều biết được tính chất cô đọng,
súc tích nhiều khi đến mức rất khó diễn đạt hết ý nghĩa của những câu văn Hán
cổ. Để giúp người đọc dễ nhận hiểu hơn, trong một số trường hợp chúng tôi đã
thêm vào một số từ hoặc cụm từ không trực tiếp xuất hiện trong nguyên bản,
nhưng có thể được hiểu do hàm ý của câu văn hoặc đoạn văn đó.
Chẳng hạn như trong câu sau đây:
“Vì là có nên trừ bỏ [quan niệm cho rằng tánh Phật như] sừng thỏ; vì là không
nên trừ bỏ [quan niệm cho rằng tánh Phật như] hư không.”
Những chữ trong ngoặc vuông là không trực tiếp xuất hiện trong nguyên bản. Nếu
y theo từ ngữ mà dịch thì câu văn trên không có những phần trong ngoặc vuông
này. Tuy nhiên, theo sự nhận hiểu của chúng tôi từ toàn cảnh văn kinh thì việc
thêm vào các phần này vào sẽ làm rõ ý nên có thể giúp người đọc dễ hiểu hơn.
Như vậy, các phần trong ngoặc vuông là do chúng tôi căn cứ vào sự nhận hiểu của
mình khi dịch để thêm vào, và được trình bày như vậy để phân biệt rõ với phần
kinh văn dịch sát theo nguyên bản. Bằng cách này, người đọc có thể chấp nhận
hoặc không chấp nhận cách hiểu tạm xem là chủ quan của chúng tôi, để suy xét và
nhận hiểu theo cách riêng của mình. Tuy vậy, chúng tôi cũng vẫn hết sức thận
trọng suy xét trước khi thực hiện bất cứ sự bổ sung nào theo cách này.
Ngoài ra, phạm vi đề cập quá rộng của kinh này cũng là một khó khăn lớn đối với
người đọc. Không giống như phần lớn các bộ kinh khác, thường chỉ xoay quanh một
số chủ đề chính yếu, kinh này đề cập đến rất nhiều vấn đề, và mỗi một vấn đề
đều có tầm vóc lớn lao, quan trọng, không thể xem nhẹ. Vì thế, việc theo dõi
nắm bắt tất cả những vấn đề được trình bày trong kinh quả thật không phải
chuyện dễ dàng. Do đó, để giảm bớt khó khăn này cho người đọc, sau khi đã trình
bày trọn vẹn bản Việt dịch chúng tôi sẽ có một phần Tổng quan về tất cả các
phần đã nêu trong kinh, tương tự như một bảng lược đồ để người đọc có thể căn
cứ vào đó mà nắm bắt hoặc quay lại nghiên cứu từng vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, người đọc cần lưu ý rằng đây hoàn toàn không phải là sự tóm tắt ý
nghĩa của từng phẩm kinh hay toàn bộ kinh, vì đó là điều gần như không thể thực
hiện! Phần Tổng quan này chỉ phục vụ như một bản đồ chỉ dẫn để người đọc có thể
dễ dàng nhận ra vấn đề mình quan tâm hoặc còn đang vướng mắc nằm ở phần nào
trong toàn bộ kinh, và như thế sẽ có thể tìm đến đó để đọc lại hoặc nghiền ngẫm
kỹ hơn.
Tất cả những điểm khó khăn hoặc trở ngại trong quá trình đọc kinh như vừa nêu
trên đều có thể vượt qua nếu người đọc có được một sự say mê và những xúc cảm
chân thành khi đọc kinh này. Mặc dù vậy, điều đó thật không dễ có được, và
không chỉ tùy thuộc hoàn toàn vào người dịch. Một bản dịch dù đã nỗ lực hoàn
thiện và cung cấp mọi điều kiện thuận lợi cho người đọc, nhưng nếu chính bản
thân người đọc không có sự nỗ lực và chú tâm khi đọc thì hầu như cũng không thể
gặt hái được kết quả gì. Vì thế, theo thiển ý của chúng tôi thì quý vị cần phải
có sự chuẩn bị chu đáo trước khi bắt đầu đọc kinh này, sao cho có thể toàn tâm
toàn ý với việc đọc kinh mà không bị phân tán tư tưởng bởi bất cứ ngoại duyên
nào. Nếu thực hiện được điều này, có thể nói là quý vị đã nắm chắc được đến một
nửa khả năng sẽ được lợi lạc trong việc đọc kinh. Một nửa khả năng còn lại phụ
thuộc vào các yếu tố mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp theo sau đây.
Nếu quý vị đã từng nghe giới thiệu về bộ kinh này và đã hết sức mong muốn được
đọc nó, thì khi quý vị đang đọc những dòng này, rất có thể quý vị đã hết sức
nôn nóng muốn lướt thật nhanh qua những trang đầu để đi thẳng vào nội dung
kinh. Hơn thế nữa, rất có thể trong lòng quý vị còn hình thành một ý định là sẽ
đọc ngay một lần trọn bộ kinh này, để xem trong đó có hàm chứa những gì đã từng
được nghe người khác xưng tán, ca ngợi hay không. Tuy nhiên, nếu điều đó là sự
thật, chúng tôi xin quý vị hãy dừng ngay lại và kiên nhẫn đọc tiếp những dòng dưới
đây.
Việc đọc kinh với một tâm niệm hối hả, nôn nóng chắc chắn sẽ không bao giờ mang
đến cho quý vị những kết quả tích cực. Cuộc sống của chúng ta vốn đã có quá
nhiều thời gian phải chạy đua, phải bôn ba hối hả và nôn nóng... Nhưng tất cả
những quãng thời gian đó đều không để lại được gì làm thỏa mãn nhu cầu nuôi
dưỡng đời sống tâm linh vốn luôn tồn tại trong mỗi chúng ta. Chính vì thế mà
chúng ta mới phải tìm đến với đạo Phật, với kinh điển... Do đó, thật vô lý nếu
ta vẫn tiếp tục hối hả và nôn nóng ngay cả khi đọc kinh!
Nếu quý vị là người bận rộn – mà trong thời đại ngày nay thì có đến 99% khả
năng điều đó là đúng – và không có nhiều thời gian dành cho việc đọc kinh, quý
vị vẫn nên sử dụng bất cứ quãng thời gian ít ỏi nào có được để đọc kinh một
cách thật thư thả, chậm rãi. Ý tôi muốn nói là, thay vì đọc mỗi lần được 10
trang kinh với tốc độ “thông thường” của mình chẳng hạn, quý vị vẫn có thể dừng
lại thật chậm rãi để chỉ đọc một vài trang thôi! Nhưng một vài trang kinh đó sẽ
thực sự có đủ điều kiện để thấm sâu vào lòng và giúp khai mở kho tàng trí tuệ
sẵn có trong quý
vị.
Có thể quý vị sẽ đặt câu hỏi: Đọc như thế thì đến bao giờ mới xong bộ kinh đồ
sộ này? Nhưng điều đó thật ra hoàn toàn không quan trọng! Cho dù quý vị thực sự
không đọc được hết trọn bộ kinh, thì mỗi một dòng kinh mà quý vị đọc qua cũng
đã kịp ươm mầm trí tuệ trong tâm thức quý vị. Còn nếu hối hả cố đọc cho xong
trọn bộ kinh mà không gặt hái được gì thì có khác nào chưa từng đọc kinh?
Chúng tôi khởi sự công trình này từ khoảng trước năm 2000, và cho đến khi quý
vị bắt đầu đọc được những dòng này thì gần 10 năm đã trôi qua. Trong suốt thời
gian đó, sự thật là chúng tôi không có đủ may mắn để được dành trọn thời gian
cho việc dịch kinh, vì là người cư sĩ nên chúng tôi không tránh khỏi việc bận
rộn lo toan cho cuộc sống của bản thân và gia đình. Tuy vậy, chúng tôi đã luôn
cố gắng để không bao giờ cảm thấy hối hả, nôn nóng mỗi khi tiếp cận với kinh
văn, cho dù đây là một công trình tưởng chừng như vượt quá những nỗ lực của chúng
tôi và sự kéo dài thời gian trong công việc thậm chí đã có những lúc làm chúng
tôi phải băn khoăn tự hỏi về khả năng hoàn tất.
Vì thế, nếu quý vị cảm thấy việc đọc hết trọn bộ kinh này là một mục tiêu không
dễ thực hiện, thì điều đó là hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng chúng tôi mong
rằng quý vị sẽ không vì lý do đó mà cố đọc lướt nhanh qua những trang kinh, vì
chắc chắn điều đó sẽ không mang lại bất cứ kết quả tốt đẹp nào. Xin hãy tin
chúng tôi, chỉ cần quý vị tiếp cận kinh văn với sự chân thành và an tĩnh, thì
mỗi một trang kinh quý vị đọc qua đều có thể trở thành một bài thuyết pháp hoàn
chỉnh, có khả năng khai mở trí tuệ Bát-nhã sẵn có nơi quý vị. Và nếu có thể đọc
kinh theo cách như thế thì việc đọc qua trọn bộ kinh này cũng sẽ không còn là
vấn đề khó khăn nữa.
Tất cả kinh điển Phật giáo đều hàm chứa ít nhất hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ
nhất được diễn đạt bởi ngôn ngữ quy ước, giúp chúng ta nắm hiểu được những sự
kiện, chi tiết được mô tả trong kinh văn. Nhưng tầng nghĩa này chỉ là một phần
rất nhỏ so với những gì kinh văn muốn chuyển tải. Ví như một núi băng trôi trên
mặt đại dương, cái mà chúng ta nhìn thấy được chỉ là phần chóp nhọn rất nhỏ,
trong khi phần chìm sâu bên dưới mặt nước là cả một khối lượng khổng lồ. Cũng
vậy, tầng nghĩa thứ nhất vừa nói trên chỉ là phần rất nhỏ so với tầng nghĩa thứ
hai là những gì hàm chứa phía sau lớp vỏ ngôn ngữ.
Tuy nhiên, để tiếp cận được với tầng nghĩa thứ hai này, quý vị không thể sử
dụng sự phán đoán, suy luận của trí óc, mà phải nhờ đến năng lực trực giác, tức
là sự rung động hay cảm nhận trực tiếp của tâm thức, không thông qua bất cứ quá
trình suy diễn nào, vì mọi quá trình suy diễn tất yếu đều bị giới hạn bởi những
khái niệm mà chúng ta ai ai cũng sẵn có.
Nói cách khác, để có thể tiếp nhận được tầng nghĩa thứ hai này, ta không thể
chỉ đọc kinh đơn thuần bằng trí óc, mà nhất thiết phải cần đến một tâm thức
thật an tĩnh, sáng suốt. Đây chính là lý do vì sao ta không thể đọc kinh với sự
hối hả và nôn nóng.
Tất nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận mối tương quan giữa hai tầng nghĩa
của kinh văn. Để có thể cảm nhận nghĩa kinh bằng trực giác thì trước hết chúng
ta phải nắm hiểu được một cách trọn vẹn phần ý nghĩa được diễn đạt qua ngôn
ngữ. Cũng như để khám phá được núi băng khổng lồ đang trôi trên đại dương kia,
chúng ta trước hết phải nhìn thấy được phần chóp nhỏ nổi lên bên trên mặt nước
của nó. Tương tự như thế, chính nhờ nắm hiểu trọn vẹn những ý nghĩa trên bề mặt
ngôn ngữ của kinh văn mà chúng ta mới có thể làm sinh khởi trong tâm thức những
hình tượng, cảm xúc tương quan, và từ đó mới có khả năng đạt đến sự trực nhận
những gì kinh văn muốn nói. Quá trình này là cả một sự nỗ lực toàn tâm toàn ý
và có thể sẽ diễn ra không hoàn toàn giống nhau tùy theo từng trường hợp của
mỗi người.
Trong quá trình thực hiện công trình, chúng tôi luôn dành thời gian để đọc kỹ
lại từng phẩm kinh sau khi chuyển dịch xong, vừa để rà soát lại những lỗi do sơ
sót, vừa là để nắm hiểu ý kinh trước khi tiếp tục chuyển dịch phần tiếp theo.
Mỗi lần đọc lại kinh văn như thế, chúng tôi đều có được những cảm nhận mới mẻ
hơn, sâu sắc hơn đối với từng đoạn kinh văn.
Lấy ví dụ như ngay từ phẩm đầu tiên trong kinh này, mặc dù đã nghiền ngẫm cân
nhắc từng câu chữ trong suốt quá trình chuyển dịch, nhưng đến khi đọc lại toàn
bộ phẩm kinh chúng tôi vẫn có được nhiều sự cảm nhận mới, và phải đến lần đọc
lại thứ ba chúng tôi mới có được những cảm xúc cuốn hút, say mê thực sự đối với
từng câu chữ, từng chi tiết được tuần tự diễn đạt trong kinh văn.
Khi bắt đầu chuyển dịch phẩm kinh đầu tiên, chúng tôi có cảm tưởng đây chỉ là
phần kinh văn mang tính “thủ tục”, vì không diễn đạt gì nhiều ngoài việc mô tả
và liệt kê những đối tượng chúng sinh lần lượt kéo nhau đến xin cúng dường Phật
sau khi biết tin Phật sắp nhập Niết-bàn. Thậm chí có nhiều chi tiết mô tả được
lặp đi lặp lại đôi khi làm chúng tôi cảm thấy như có phần nào tẻ nhạt, vô vị.
Tuy nhiên, đến khi đọc kỹ lại toàn văn kinh chúng tôi mới nhận ra được dụng ý
của từng chi tiết mô tả, và trình tự xuất hiện một cách hợp lý của chúng trong
kinh không chỉ đơn giản là để kể lại sự việc, mà còn có tác dụng như những nét
cọ dần dần vẽ lên trong tâm thức người đọc những hình ảnh tương quan nhất định,
gần như tái hiện toàn bộ khung cảnh và mọi sự kiện đã diễn ra trước lúc đức
Phật nhập Niết-bàn.
Và đến lần đọc lại thứ ba thì chúng tôi bất chợt dâng tràn một nguồn cảm xúc
hầu như không thể mô tả! Bức tranh hoành tráng của rừng Sa-la nơi Phật nhập
Niết-bàn như hiện ra rõ rệt trong tâm thức chúng tôi, với tầng tầng lớp lớp các
loài chúng sinh từ khắp mười phương vũ trụ cùng quy tụ về, từ những loài súc
sinh hạ đẳng cho đến chư thiên các cõi trời, rồi đến cả chư Bồ Tát ở các cõi
Phật phương xa... cho đến trong thế giới loài người là nhân dân, vua chúa, quan
binh, tăng ni, cư sĩ... Tất cả đều tìm về vây quanh đấng Đại Giác Thế Tôn trùng
trùng bất tận, nhưng không có bất cứ một sự chen chúc, hỗn độn nào... Ngược
lại, không khí trang nghiêm và hùng tráng bao trùm cả Pháp hội, khiến cho mỗi
một cá thể xuất hiện trong đó đều như tan hòa với toàn thể đại chúng, và cảm
xúc chung của toàn đại chúng chính là sự bi thương và tôn kính đối với đấng Như
Lai đang sắp thị hiện Niết-bàn...
Sự cảm nhận được những hình ảnh như thế khiến chúng tôi như nhất thời vượt qua
mọi giới hạn của các nguyên lý vật lý thông thường, không còn chịu bất cứ một
sự hạn cuộc nào trong các khái niệm như nhiều và ít, lớn và nhỏ, gần và xa...
Hơn thế nữa, mọi ý niệm về thời gian và không gian cũng hầu như bị xóa sạch,
với vô số hình ảnh trang nghiêm diễm lệ như đồng thời hiện ra xen lẫn nhau
trong sự hóa hiện vô biên của chư vị Bồ Tát, không thể và cũng không cần thiết
phải phân biệt giữa trên và dưới, trong và ngoài, trước và sau, đã qua và sắp
đến...
Chính từ nơi nguồn cảm xúc này mà chúng tôi luôn có thể thực hiện công việc một
cách không mệt mỏi, luôn say mê và cuốn hút vào công việc với một sự hứng khởi
gần như bất tận. Và cũng chính từ kinh nghiệm tự thân này mà trong suốt quá
trình chuyển dịch chúng tôi luôn trân trọng từng câu chữ, từng chi tiết nhỏ
trong kinh văn, không dám tùy tiện bỏ qua hoặc để sót bất cứ điều gì. Hơn nữa,
chúng tôi thiết nghĩ, có thể có những chi tiết nào đó mà khi đọc thoáng qua ta
không cảm nhận được gì, nhưng lại có thể là nguồn khơi dậy cảm xúc cho chính ta
trong những lần đọc lại sau này, với một tâm thức thanh tịnh và sáng suốt hơn;
hoặc cũng có thể là nguồn khơi dậy cảm xúc đối với những người đọc
khác...
Tất cả những ai chỉ dừng lại trong thế giới duy lý sẽ không thể nào hình dung
được những gì mà người đọc kinh này có thể cảm nhận được. Và cũng chính vì thế
mà sự chú tâm đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đọc kinh. Khi tâm thức
không bị cuốn hút và phân tán bởi những yếu tố trần cảnh từ bên ngoài, chúng ta
mới có thể có được sự sáng suốt cần thiết để trực nhận được những ý nghĩa sâu
xa hàm chứa trong từng câu kinh. Hầu hết các kinh điển Đại thừa đều mượn việc
mô tả các hình tượng, sự kiện như một phương tiện khơi dậy trực giác, và chính
từ sự phát khởi được trí tuệ trực giác mà người đọc kinh mới có thể tiếp nhận
được những lời dạy thuộc về Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế. Đó là những ý nghĩa
hoàn toàn không thể đạt đến thông qua sự suy diễn.
Điều tiếp theo mà chúng tôi muốn đề cập đến nơi đây chính là đức tin. Theo suy
nghĩ của riêng chúng tôi, nếu quý vị chưa có được một lòng tin sâu vững vào Tam
bảo thì quý vị chưa nên vội đọc kinh này. Một số học giả có thể sẽ phản đối
điều này, vì đối với họ thì việc đọc kinh chỉ là để tìm kiếm trong đó những tư
tưởng triết lý, những lập luận biện minh cho điều này hay điều khác, hoặc quá
lắm cũng chỉ là những chuẩn mực đạo đức nào đó... giống như vô số những sách vở
thế tục khác. Mặc dù những điều này quả thật cũng có thể tìm thấy trong kinh
văn, nhưng đó hoàn toàn không phải là những giá trị chân thật và rốt ráo mà
người đọc kinh cần đạt đến. Và vì thế, khi đến với kinh điển Đại thừa thì các
vị học giả này chắc chắn sẽ không đạt được gì khác hơn là sự hoang mang nghi
ngại, hoặc chí ít cũng là một nỗi thất vọng tràn trề. Là những người Phật tử,
chúng tôi hoàn toàn không mong muốn quý vị sẽ vấp phải sự hoang mang nghi ngại hay
thất vọng tràn trề tương tự như thế.
Trong rất nhiều kinh điển, đức Phật đã từng khuyến cáo rằng giáo pháp Đại thừa
ví như cơn mưa lớn, chỉ có lợi cho những loài cây lớn có gốc rễ vững chắc; còn
đối với những cây cỏ nhỏ yếu, chắc chắn sẽ phải bị vùi dập, nghiêng ngả, thậm
chí còn có thể bị bật gốc cuốn trôi đi... Gốc rễ vững chắc ở đây chính là đức
tin sâu vững nơi Tam bảo, vào đức Phật và giáo pháp do ngài truyền dạy, được
ghi chép thành kinh điển. Đức tin đó hoàn toàn không phải một bản năng tự nhiên
sẵn có nơi mỗi người hay một số người, mà là một thành quả tất yếu của quá
trình tu tập, hành trì theo đúng lời Phật dạy. Đây chính là lý do vì sao trong
lần Chuyển Pháp luân đầu tiên tại vườn Lộc Uyển đức Phật đã không hề đề cập đến
tánh Phật của chúng sinh hay bất cứ một phần giáo pháp nào khác thuộc phạm vi
Đại thừa.
Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là một sự loại trừ bất cứ đối tượng nào
ra khỏi phạm vi giáo hóa của kinh này, vì sự thật là mỗi chúng ta đều có thể tự
nuôi dưỡng cho mình một đức tin sâu vững bằng cách khởi sự thực hành từ những
điều căn bản nhất trong Phật pháp. Nếu quý vị có thể kiên trì giữ gìn Năm giới,
tiến đến việc nỗ lực thực hành Mười điều thiện và thành tâm lễ bái hình tượng
chư Phật bất cứ khi nào có thể, chắc chắn quý vị sẽ sớm đạt được một lòng tin
sâu vững. Lòng tin này không phải được ban cho quý vị bởi một phép lạ nhiệm mầu
nào, mà sự thật là nó xuất phát từ sự an vui lợi ích tất yếu có được từ sự thực
hành như trên. Và một khi đã có được lòng tin sâu vững nhờ thực hành giáo pháp,
quý vị sẽ có thể tiếp nhận được những ý nghĩa sâu xa trong giáo pháp. Quý vị sẽ
có thể bắt đầu nhận hiểu được từ những ý nghĩa cơ bản nhất về Tứ diệu đế, cho
đến Thập nhị nhân duyên... và sau đó dần dần tiến đến việc đọc hiểu được kinh
này.
Mặc dù có những khó khăn được nêu ra như trên, tâm nguyện của chúng tôi khi
chuyển dịch kinh này vẫn là mong sao nó có thể đến được với tất cả mọi người,
để bản hoài của chư Phật mười phương được gửi gắm nơi đây không phải chịu sự
mai một bởi thời gian. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện
cho tất cả chúng sinh đều có được cơ hội tiếp xúc và lãnh thọ kinh này.
Trong quá trình thực hiện công trình, chúng tôi đã tham khảo nhiều tư liệu,
công trình hiện có, kể cả những thông tin liên quan trong các từ điển Phật học
Hán ngữ, Anh ngữ cũng như Việt ngữ. Chúng tôi xin ghi nhận nơi đây những đóng
góp quý báu của tất cả các tác giả, soạn giả của những công trình đã được sử
dụng và xin gửi lời tri ân chân thành đến tất cả quý vị.
Cuối cùng, mặc dù bản Việt dịch trọn bộ kinh này đã đến tay quý vị, nhưng chúng
tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng công việc chuyển dịch kinh này đã được hoàn tất.
Mọi sai sót sẽ tiếp tục được loại bỏ hoặc sửa chữa, hoàn thiện ngay khi phát
hiện. Vì thế, xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi luôn mong mỏi nhận được
những ý kiến đóng góp, chỉ dạy từ tất cả quý vị. Mọi thư từ góp ý xin gửi về
địa chỉ:
Nguyễn Minh Tiến
ấp 3, xã Sông Xoài,
huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Hoặc gửi điện thư (email) về:
nguyenminh@rongmotamhon.net
Ngoài ra, toàn bộ nội dung kinh này cũng sẽ được giới thiệu trên website Rộng
mở tâm hồn (http://rongmotamhon.net)
trong phần Kinh điển. Quý vị có thể vào xem và góp ý thông qua kênh giao tiếp
của website này. Chúng tôi luôn sẵn lòng đón nhận và chân thành cảm ơn quý vị.
Những gì cần làm và có thể làm chúng tôi đều đã cố gắng hết sức mình. Tuy vậy,
chúng tôi vẫn luôn tự biết rằng mỗi một điểm hạn chế trong năng lực và trình độ
của chúng tôi đều tất yếu sẽ dẫn đến một khó khăn tương ứng cho quý vị trong
quá trình đọc hiểu kinh văn. Vì vậy, chúng tôi xin chân thành nhận lỗi và mong
rằng quý vị có thể niệm tình tâm nguyện vị tha của chúng tôi mà bỏ qua cho
những sự yếu kém đó. Chúng tôi cũng xin thành tâm sám hối trước mười phương chư
Phật vì tự bản thân mình đã không có đủ trí huệ và biện tài vô ngại để có thể
diễn giảng giáo pháp Đại thừa của chư Phật theo một cách hoàn hảo nhất. Nguyện
cho trong đời này và vô số đời sau nữa vẫn sẽ không ngừng tu tập theo Chánh
pháp để có được năng lực hộ trì và rộng truyền giáo pháp Đại thừa ra khắp mọi
nơi, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Cuối cùng, cho dù chúng tôi đã hết sức nỗ lực trong công việc, nhưng nếu không
có sự đảm đương về mặt tài chánh của vợ chồng anh Nguyễn Hữu Cứ (Công ty Văn
hóa Hương Trang, Nhà sách Quang Bình - http://huongtrang.net) thì có lẽ quý vị đã không thể có
trong tay bộ kinh Đại thừa vô giá này. Vì thế, nhân đây chúng tôi xin có lời
chân thành tri ân và tán thán công đức hỗ trợ việc lưu hành kinh điển của vợ
chồng anh Nguyễn Hữu Cứ.
Nguyện đem mọi công đức có được trong việc làm này hồi hướng về tất cả chúng
sinh trong pháp giới. Nguyện cho tất cả đều sớm khai mở tuệ giác vô thượng,
đồng thành Phật đạo.
Những gì cần nói đã nói xong. Xin cảm ơn quý vị đã dành thời gian đọc qua hết
những lời dông dài này. Bây giờ, xin mời quý vị lắng lòng thanh tịnh để bắt đầu
tiếp nhận kinh văn.
Trân trọng,
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
QUYỂN 1 - Phẩm THỌ MẠNG - Thứ nhất – Phần một
Chúng tôi được nghe đúng như thế này: Vào lúc đức Phật đang ở
tại thành Câu-thi-na, quê hương của tộc họ Lực-sĩ, bên bờ sông A-lỵ-la-bạt-đề,
trong rừng cây Sa-la Song thọ.
Bấy giờ, chung quanh đức Thế Tôn có tám mươi ức trăm ngàn vị đại tỳ-kheo cùng tụ
hội theo hầu. Vào ngày rằm tháng hai, lúc Phật sắp vào Niết-bàn, liền dùng thần
lực phát ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy vang dội khắp nơi, lên đến tận cõi trời
Hữu đỉnh. Mỗi loài chúng sanh đều nghe hiểu được âm thanh của Phật bằng ngôn ngữ
của mình, cùng hiểu như nhau rằng:
“Hôm nay đức Như Lai, bậc xứng đáng nhận sự cúng dường của muôn loài, bậc luôn
thương xót, che chở cho chúng sanh như con một của ngài là La-hầu-la, bậc làm
chỗ nương nhờ, trú ẩn cho tất cả chúng sanh, bậc Đại Giác Thế Tôn sắp vào Niết-bàn.
Tất cả chúng sanh, ai còn có điều nghi hoặc, hôm nay nên đến thưa hỏi Ngài, là
lần thưa hỏi cuối cùng.”
Lúc ấy vừa rạng sáng, đức Thế Tôn từ nơi khoảng giữa hai lông mày phóng ra nhiều
loại hào quang, có đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, mã não. Hào quang ấy
chiếu sáng khắp cõi thế giới tam thiên đại thiên của đức Phật Thích-ca, cho đến
khắp cả mười phương cũng đều được chiếu sáng như vậy.
Khắp các cõi thế giới, những chúng sanh trong sáu đường khi được hào quang ấy
chiếu lên thân thể thì tất cả phiền não, tội lỗi đều được tiêu trừ. Hết thảy
chúng sanh nhìn thấy hào quang và nghe âm thanh của Phật, lòng rất đau buồn,
cùng nhau cất tiếng bi ai than khóc:
“Than ôi! Đấng cha lành của chúng ta! Đau đớn thay! Khổ não thay!”
Hết thảy đều vò đầu đấm ngực mà khóc la; lại có những kẻ run rẩy cả thân hình,
nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Lúc ấy, khắp mặt đất, núi non, biển cả thảy
đều chấn động.
Bấy giờ, tất cả chúng sanh bảo nhau rằng: “Chúng ta nên cố dằn lòng, đừng quá
buồn khổ. Hãy mau đến chỗ đức Như Lai ở thành Câu-thi-na, quê hương của tộc họ
Lực-sĩ, đảnh lễ ngài và kính bạch rằng: Chúng con xin khuyến thỉnh Như Lai đừng
nhập Niết-bàn, ngài nên trụ thế cho trọn một kiếp hoặc một kiếp giảm.”
Rồi mọi người lại nắm tay nhau, cùng nói rằng: “Thế gian sắp trống rỗng! Phước
của chúng sanh hết rồi! Các nghiệp bất thiện sẽ ngày càng nhiều hơn ở thế gian!
Mọi người hãy nhanh chân lên, nhanh lên! Chẳng bao lâu nữa đức Như Lai sẽ nhập
Niết-bàn.”
Mọi người lại than vãn rằng: “Thế gian sắp trống rỗng! Thế gian sắp trống rỗng!
Từ nay chúng ta không còn ai là người cứu hộ, không còn ai để kính ngưỡng,
chúng ta sẽ trở nên bần cùng, côi cút, trong chốc lát đã phải xa lìa đấng Vô
thượng Thế Tôn! Như có điều chi nghi hoặc, chúng ta còn biết thưa hỏi với ai?”
Lúc ấy, có vô số các vị đệ tử lớn như: Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, Tôn giả Bạc-câu-la,
Tôn giả Ưu-ba-nan-đà... Các vị đại tỳ-kheo như vậy, khi gặp hào quang của Phật
chiếu đến thì run rẩy cả thân hình, xúc động mạnh mẽ không sao tự kiềm chế được,
tinh thần bấn loạn, sầu muộn mê muội, lớn tiếng khóc than, sanh ra khổ não muôn
phần!
Lại có tám trăm vạn tỳ-kheo, thảy đều là bậc A-la-hán, tâm đã được tự tại, đã
làm xong việc cần làm, lìa khỏi các phiền não, điều phục các căn, như loài rồng
lớn có oai đức lớn, thành tựu trí tuệ Không, được sự lợi ích cho bản thân. Như
rừng chiên-đàn có nhiều cây chiên-đàn vây quanh, như chúa sư tử có nhiều sư tử
vây quanh, những vị thành tựu được vô lượng công đức như vậy đều là những đệ tử
chân chánh luôn theo hầu quanh Phật.
Vừa lúc tảng sáng, mặt trời vừa mọc, các vị tỳ-kheo ấy rời khỏi chỗ ở của mình.
Đang khi súc miệng, chải răng bằng nhành dương, các vị gặp hào quang của Phật
chiếu đến liền bảo nhau rằng: “Mọi người nên súc miệng, rửa tay nhanh nhanh
lên!” Vừa nói xong thì khắp thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng
ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau sầu
khổ vô cùng. Nhưng vì muốn lợi ích và an lạc cho chúng sanh, vì muốn thành tựu
hạnh Không bậc nhất của Đại thừa, làm rõ bày giáo pháp phương tiện sâu kín của
Như Lai, vì muốn các môn thuyết pháp không bị dứt mất, vì muốn điều phục hết thảy
chúng sanh, nên các vị ấy liền nhanh chóng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật,
đi quanh Phật trăm ngàn vòng, chắp tay cung kính rồi lui xuống ngồi sang một
bên.
Lúc ấy, lại có bà Câu-đà-la, tỳ-kheo ni Thiện Hiền, tỳ-kheo ni Ưu-ba-nan-đà, tỳ-kheo
ni Hải Ý, cùng với sáu mươi ức các vị tỳ-kheo ni, tất cả đều là các bậc Đại
A-la-hán, các lậu đã dứt, tâm được tự tại, đã làm xong việc cần làm, lìa khỏi
các phiền não, điều phục các căn, như những vị đại long vương có oai đức lớn,
thành tựu trí tuệ Không. Cũng vào lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, khắp
thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ
như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau sầu khổ vô cùng. Nhưng cũng vì
muốn lợi ích và an lạc cho chúng sanh, vì muốn thành tựu hạnh Không bậc nhất của
Đại thừa, làm rõ bày giáo pháp phương tiện sâu kín của Như Lai, vì muốn các môn
thuyết pháp không bị dứt mất, vì muốn điều phục hết thảy chúng sanh, nên các vị
ấy liền nhanh chóng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, đi quanh Phật trăm
ngàn vòng, chắp tay cung kính, rồi lui xuống ngồi sang một bên.
Trong chúng tỳ-kheo ni, lại có những vị tỳ-kheo ni đều là bậc Bồ Tát, như rồng
giữa loài người, đều đạt tới địa vị thứ mười là địa vị rốt ráo của Bồ Tát, trụ
yên ở cảnh giới bất động, các vị vì muốn giáo hóa chúng sanh nên thị hiện thân
nữ, thường tu tập Bốn tâm vô lượng, đạt được sức tự tại, có thể hóa hiện làm Phật.
Lúc ấy, lại có chư Đại Bồ Tát nhiều như số cát một sông Hằng, như rồng giữa
loài người, đều đạt tới địa vị thứ mười là địa vị rốt ráo của Bồ Tát, trụ yên ở
cảnh trí bất động, tùy phương tiện mà hiện thân, trong số đó các ngài Bồ Tát Hải
Đức, Bồ Tát Vô Tận Ý... là những bậc đứng đầu. Các ngài thảy đều đem lòng kính
trọng Đại thừa, trụ yên nơi Đại thừa, hiểu sâu Đại thừa, ưa thích Đại thừa, bảo
vệ gìn giữ Đại thừa. Các ngài khéo tùy thuận tất cả thế gian, có phát nguyện rằng:
“Đối với những chúng sanh chưa được cứu độ, sẽ khiến cho được cứu độ.”
Trong vô số kiếp đã qua, các ngài từng tu trì giới hạnh trong sạch, khéo giữ việc
hành trì, giải thoát cho những người chưa được giải thoát, nối tiếp hạt giống
Tam bảo không để dứt tuyệt. Trong đời vị lai, các ngài sẽ quay bánh xe Pháp,
dùng sự trang nghiêm tốt đẹp để tự trang nghiêm mình. Các ngài đều thành tựu vô
lượng công đức như vậy, yêu thương tất cả chúng sanh như con một của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, khắp thân thể các ngài đều sởn ốc,
lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm
tròng, buồn đau sầu khổ vô cùng. Nhưng cũng vì muốn lợi ích và an lạc cho chúng
sanh, vì muốn thành tựu hạnh Không bậc nhất của Đại thừa, làm rõ bày giáo pháp
phương tiện sâu kín của Như Lai, vì muốn các môn thuyết pháp không bị dứt mất,
vì muốn điều phục hết thảy chúng sanh, nên các ngài liền nhanh chóng đến chỗ Phật,
cúi đầu lễ sát chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng, chắp tay cung kính, rồi
lui xuống ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có những ưu-bà-tắc, nhiều như số cát hai sông Hằng, là những người
thọ trì Năm giới, trọn vẹn oai nghi của người tu tại gia. Trong số ấy, có
ưu-bà-tắc Oai Đức Vô Cấu Xưng Vương, ưu-bà-tắc Thiện Đức là những vị đứng đầu.
Các vị ưu-bà-tắc này thích quán sát sâu xa các pháp môn đối trị như là: khổ đối
với vui, thường đối với vô thường, tịnh đối với bất tịnh, ngã đối với vô ngã,
thật đối với không thật, quy y đối với không quy y, chúng sanh đối với phi
chúng sanh, thường còn đối với không thường còn, an ổn đối với không an ổn, hữu
vi đối với vô vi, đoạn đối với bất đoạn, Niết-bàn đối với không phải Niết-bàn,
tăng thượng đối với không tăng thượng...
Các vị ấy thường ưa thích quán sát các pháp môn đối trị như vậy, lại cũng thích
nghe pháp Đại thừa cao trổi nhất. Được nghe rồi liền có thể giảng thuyết cho kẻ
khác nghe. Các vị ấy khéo giữ giới hạnh trong sạch, khao khát ngưỡng mộ Đại thừa.
Khi đã được đầy đủ, lại có thể làm cho những người đang khao khát ngưỡng mộ
cũng được đầy đủ như mình. Những vị ấy khéo thâu nhiếp và giữ lấy trí tuệ cao
trổi nhất, ưa thích Đại thừa, bảo vệ gìn giữ Đại thừa, khéo tùy thuận tất cả thế
gian. Những vị ưu-bà-tắc ấy hóa độ những những người chưa được hóa độ, giải
thoát những người chưa được giải thoát, nối tiếp hạt giống Tam bảo chẳng để cho
dứt tuyệt. Ở đời vị lai, các vị sẽ quay bánh xe Pháp, sẽ dùng sự trang nghiêm tốt
đẹp mà tự trang nghiêm mình, lòng thường vui thích sâu xa nơi giới hạnh thanh tịnh.
Tất cả đều có thể thành tựu những công đức như vậy. Đối với chúng sanh đều sanh
lòng đại bi, yêu thương tất cả như con một của mình, không có sự phân biệt.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, vì muốn dự lễ trà tỳ đức Như Lai,
ai nấy đều mang theo cả muôn bó củi thơm như chiên-đàn, trầm thủy, ngưu đầu
chiên-đàn, thiên mộc hương... Từ nơi mỗi cây gỗ thơm ấy đều tỏa chiếu ánh sáng
thất bảo vi diệu, như những bức họa tô điểm nhiều màu. Nhờ sức thần của Phật
nên có đủ những màu đẹp như xanh, vàng, đỏ, trắng... chúng sanh đều ưa nhìn. Những
cây gỗ ấy lại được tẩm vào nhiều loại hương thơm nữa như hương cỏ uất kim,
hương trầm thủy, hương keo...
Người ta lại rảy nhiều thứ hoa để thêm trang nghiêm, như hoa ưu-bát-la, hoa
câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ. Ở trên đầu những cây gỗ thơm lại
treo những lá phan ngũ sắc mềm mại, mịn màng và tốt đẹp, dường như vải lụa cõi
trời, như vải kiêu-xa-da, vải sô-ma, lụa nhiều màu.
Người ta lại dùng xe báu mà chở những cây gỗ thơm ấy. Từ những chiếc xe báu tỏa
chiếu rất nhiều ánh hào quang màu xanh, vàng, đỏ, trắng... Gọng xe, trục xe đều
là bảy báu làm thành. Mỗi xe đều thắng bốn ngựa, mỗi ngựa đều có sức chạy nhanh
như gió. Trước mỗi đầu xe có treo 50 bức màn thật đẹp bằng bảy báu, có lưới bằng
vàng che phủ phía trên. Mỗi xe báu lại có 50 cái lọng quý tuyệt đẹp.
Trên mỗi xe còn treo những dây hoa như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma,
hoa phân-đà-lỵ. Những hoa ấy có cánh hoa bằng vàng ròng, đài hoa bằng kim
cương. Giữa đài hoa có nhiều con ong màu đen bay đến tụ tập vui thích, phát ra
những âm thanh vi diệu, diễn giải những lý vô thường, khổ, không, vô ngã. Trong
âm thanh ấy cũng kể lại sự hành đạo của Phật trước kia, khi còn là Bồ Tát. Lại
có rất nhiều các thứ ca múa kỹ nhạc, đàn tranh, sáo địch, không hầu, ống tiêu,
đàn sắt, trống phách... Trong tiếng nhạc lại phát ra những lời này: “Khổ thay!
Khổ thay! Thế gian sắp trống rỗng!”
Phía trước mỗi chiếc xe có những vị ưu-bà-tắc nâng hương án bằng bốn thứ báu.
Trên những hương án ấy có nhiều thứ hoa như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa
ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ, lại có hương uất-kim và các thứ hương xông khác có
mùi thơm vi diệu nhất.
Vì muốn cúng dường Phật và chư tăng, các vị ưu-bà-tắc cũng bày biện đầy đủ các
món ăn, tất cả đều được nấu bằng củi thơm chiên-đàn, trầm thủy, và bằng nước
tám công đức. Các món ăn ấy đều thơm ngon, đủ sáu mùi vị: đắng, chua, ngọt,
cay, mặn và lạt. Lại có ba đặc tính là nhẹ mềm, tinh khiết và đúng theo pháp.
Sắp đặt mọi thứ trang nghiêm như vậy rồi, những vị ưu-bà-tắc ấy liền đi đến quê
hương của tộc họ Lực-sĩ, nơi rừng cây Sa-la Song thọ. Những vị ấy lại dùng cát
vàng mà rải khắp trên mặt đất, dùng vải ca-lăng-già, vải khâm-bà-la và vải lụa
nhiều màu mà phủ trên cát, bao trùm một vùng rộng 12 do-tuần, và cũng vì Phật
và chư tăng mà chuẩn bị các tòa sư tử bằng bảy thứ báu. Tòa ấy cao lớn như núi
Tu-di, trên các chỗ ngồi đều có giăng che trướng báu, có treo những xâu chuỗi
ngọc rủ xuống. Trên những cây sa-la đều có treo nhiều lá phướn và lọng che cực
kỳ đẹp đẽ. Lại đem hương tốt bôi lên thân cây và đem nhiều thứ hoa quý mà rải
trong khoảng giữa các cây sa-la.
Những vị ưu-bà-tắc ấy, thảy đều phát nguyện rằng: “Trong tất cả chúng sanh, như
có điều gì thiếu thốn: cần ăn ta sẽ cho ăn, cần uống ta sẽ cho uống, cho đến cần
đầu, mắt ta sẽ bố thí cho đầu, mắt... Tùy ý cần vật chi, ta đều cung cấp đủ cả.
Trong khi làm việc bố thí như vậy, ta lìa khỏi lòng tham dục, giận hờn, lòng độc
địa nhơ bẩn, không còn ý nghĩ cầu sự phước lạc ở đời, chỉ mong được quả bồ-đề
trong sạch và cao trổi nhất mà thôi.”
Những vị ưu-bà-tắc ấy đã trụ yên nơi đạo bồ-đề rồi, lại phát khởi ý niệm rằng:
“Hôm nay Như Lai thọ nhận bữa cơm của chúng ta rồi sẽ nhập Niết-bàn.” Niệm tưởng
như vậy rồi, khắp thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu
hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau sầu khổ vô
cùng!
Các vị ấy đem theo đủ các món cúng dường, dùng xe quý mà chở gỗ thơm, cờ phướn,
lọng quý, đồ ăn thức uống, nhanh chóng đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân
Phật. Rồi đem các món ấy mà cúng dường đức Như Lai, đi quanh cung kính cả trăm
ngàn vòng, cất tiếng kêu khóc, đau xót cảm động cả trời đất! Thảy đều đấm ngực
mà khóc than, lệ tuôn như mưa! Họ lại bảo nhau rằng: “Khổ thay! Này các vị! Thế
gian sẽ trống rỗng! Thế gian sẽ trống rỗng!” Liền đó, các vị ấy đến phủ phục
trước đức Như Lai và bạch rằng: “Xin Như Lai rủ lòng thương xót nhận cho sự
cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Thế Tôn biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Các vị thỉnh cầu
như vậy đến ba lần, nhưng Phật vẫn không nhận. Sở nguyện không thành, các vị
ưu-bà-tắc lấy làm bi ai áo não, lẳng lặng đứng yên một chỗ. Ví như người cha
lành chỉ có một đứa con, bỗng mang bệnh mất đi, khi đem thi hài đứa con an táng
rồi trở về nhà, trong lòng bần thần dã dượi, ưu sầu khổ não. Các vị ưu-bà-tắc ấy
cũng ưu sầu khổ não như vậy. Các vị ấy bèn đem những món cúng dường đặt tại một
chỗ, rồi lui xuống lẳng lặng ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có các vị ưu-bà-di nhiều như số cát ba sông Hằng. Đó là những người
thọ trì năm giới, trọn vẹn oai nghi của hàng phụ nữ tu tại gia. Có những vị như
ưu-bà-di Thọ Đức, ưu-bà-di Đức Man, ưu-bà-di Tỳ-xá-khư... tám vạn bốn ngàn vị đứng
đầu như vậy. Tất cả đều đủ sức gánh vác, ủng hộ, giữ gìn Chánh pháp. Vì cứu độ
vô lượng trăm ngàn chúng sanh nên các vị thị hiện thân nữ. Các vị thường chê bỏ
cuộc sống gia đình, tự quán tưởng thân thể như loài rắn có bốn thứ độc. Thân
này thường bị vô số côn trùng đục khoét. Thân này hôi thối, nhơ nhớp, lòng tham
dục là nhà lao giam hãm, trói buộc nó. Thân này đáng chán ghét, khác nào như
con chó chết. Thân này chẳng trong sạch, từ nơi chín lỗ thường chảy ra những chất
dơ nhớp. Thân này như một thành ấp, phía ngoài là lớp da, che phủ những thứ
máu, thịt, gân, xương bên trong; tay và chân ví như lầu canh, vọng gác để ngăn
ngừa quân địch; mắt như cửa thông ra ngoài; đầu như cung điện, tâm như vua ngự
trong đó. Cái thân như thành ấp ấy, chư Phật Thế Tôn đều dứt bỏ.
Kẻ phàm ngu thường mê đắm cái thân này. Tham dâm, nóng giận, ngu si là bọn
la-sát ngừng nghỉ và trú ngụ trong đó. Thân này không bền chắc, chỉ như lau sậy,
như hoa y-lan, như bọt nước, như thân cây chuối. Thân này là vô thường, chẳng
lúc nào ngưng biến đổi, như tia chớp, như thác nước, như ngọn lửa ma trơi. Thân
này lại như lằn vạch xuống nước, vừa vạch xong thì mặt nước đã liền như cũ.
Thân này rất dễ hư hoại, như cây cao lớn mọc sát ven sông. Thân này chẳng lâu
dài, như miếng mồi ngon của loài chồn, sói, chim chí, chim kiêu, diều hâu, ó,
quạ, chim khách, chó đói... Ai là người có trí mà lại ưa thích thân này chăng?
Ví như có thể đem hết nước biển cả mà chứa vào dấu chân con bò, nhưng cũng
không thể nào nói ra hết được những nỗi vô thường, nhơ nhớp, xấu xa, hôi hám của
thân này! Ví như có thể vò nát trái đất này và bóp nhỏ lại bằng trái táo, rồi dần
dần thu nhỏ như hạt đình lịch, cho đến như một hạt bụi cực nhỏ, nhưng cũng
không thể nói hết những lỗi lầm, tai hại của thân này! Bởi vậy, nên xả bỏ nó đi
như khạc bỏ đờm dãi.
Bởi nhân duyên ấy, các vị ưu-bà-di thường tu tâm mình bằng các pháp: Không, Vô
tướng, Vô nguyện. Các vị rất thích thưa hỏi và vâng lãnh kinh điển Đại thừa. Được
nghe rồi, các vị cũng có thể giảng thuyết cho kẻ khác nghe. Các vị giữ gìn bổn
nguyện, chê trách thân nữ rất đáng lo sợ và chán ngán, vốn tánh không bền chắc.
Lòng thường tu tập phép quán tưởng chánh đáng như vậy, phá dứt được vòng sanh tử
không bờ bến. Các vị khao khát, ngưỡng mộ Đại thừa, khi đã được đầy đủ, các vị
lại có thể làm cho những người đang khao khát ngưỡng mộ cũng được đầy đủ như
mình. Các vị rất ưa thích Đại thừa, bảo vệ, giữ gìn Đại thừa. Tuy thị hiện thân
nữ nhưng thật ra các vị đều là Bồ Tát. Các vị khéo tùy thuận tất cả thế gian, cứu
độ những người chưa được cứu độ, giải thoát những người chưa được giải thoát, nối
tiếp hạt giống Tam bảo chẳng để cho dứt tuyệt. Ở đời vị lai, các vị sẽ quay
bánh xe Pháp, dùng sự trang nghiêm rất tốt đẹp mà tự trang nghiêm mình, giữ gìn
giới cấm một cách kiên cố. Các vị thành tựu được những công đức như vậy. Đối với
chúng sanh, các vị sanh lòng đại bi, bình đẳng yêu thương tất cả đồng như con một
của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, các vị ưu-bà-di ấy bảo nhau rằng:
“Hôm nay chúng ta phải đến rừng cây Song thọ.” Các vị đem theo những thức cúng
dường nhiều hơn cả các vị ưu-bà-tắc như đã kể trên. Đi đến chỗ Phật, các vị đảnh
lễ sát chân Phật, đi quanh cung kính cả trăm ngàn vòng rồi bạch rằng: “Thế Tôn!
Nay vì Phật và chư tăng, chúng con đã sắm sửa các món cúng dường. Xin Như Lai
thương xót, nhận cho sự cúng dường của chúng con.”
Đức Như Lai lặng thinh chẳng nhận. Sở nguyện không thành, các vị ưu-bà-di lấy
làm buồn bã, bèn lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, lại có những người thuộc tộc họ Ly-xa ở thành Tỳ-da-li, kẻ nam người nữ,
kẻ lớn người nhỏ, cùng với vợ con, quyến thuộc, cùng quyến thuộc của các vua
trong cõi Diêm-phù-đề, tất cả nhiều như số cát bốn sông Hằng. Vì cầu pháp, họ
khéo tu giới hạnh, đầy đủ các oai nghi, thắng phục được những kẻ theo tà phái hủy
hoại Chánh pháp. Họ thường bảo nhau rằng: “Chúng ta nên đem vàng bạc, tài sản
thế gian mà làm cho cam lộ, kho báu sâu kín của Chánh pháp vô tận được tồn tại
lâu dài ở đời. Nguyện cho chúng ta thường được tu học. Nếu có kẻ phỉ báng Chánh
pháp của Phật, ta nên chặn dứt ngay những lời lẽ của họ.” Họ lại có nguyện rằng:
“Nếu có những người xuất gia hủy phá giới cấm, chúng tôi sẽ buộc họ phải trở lại
thế tục mà làm hạng tôi tớ. Còn như những vị có thể gắng sức hộ trì Chánh pháp,
chúng tôi sẽ kính trọng, hầu hạ như cha mẹ. Nếu có chúng tăng thường tu theo
Chánh pháp, chúng tôi sẽ vui vẻ tán trợ, giúp cho chư tăng ấy được thêm sức mạnh.”
Các vị ấy thường thích nghe kinh điển Đại thừa. Được nghe rồi, cũng có thể nói
rộng ra cho người khác nghe. Các vị đều thành tựu công đức như vậy. Tên của các
vị là: Ly-xa Tịnh Vô Cấu Tạng, Ly-xa Tịnh Bất Phóng Dật, Ly-xa Hằng Thủy Vô Cấu
Tịnh Đức... Các vị ấy bảo nhau rằng: “Hôm nay, chúng ta nên nhanh chân đến chỗ
đức Phật.” Rồi các vị liền chuẩn bị đầy đủ các thứ cúng dường. Mỗi người trong
họ Ly-xa đều chuẩn bị tám mươi bốn ngàn thớt voi lớn, tám mươi bốn ngàn cỗ xe
báu thắng bằng bốn ngựa, tám mươi bốn ngàn hạt bảo châu minh nguyệt. Còn có những
bó củi bằng cây thiên mộc, chiên-đàn, trầm thủy, mỗi thứ cũng đủ số tám mươi bốn
ngàn. Phía trước mỗi thớt voi đều có cờ báu, phướn, lọng. Những cái lọng nhỏ nhất
chu vi ngang dọc cũng choán trọn một do-tuần. Những lá phướn ngắn nhất, bề dài
cũng đến ba mươi hai do-tuần. Những cây cờ thấp nhất cũng cao đến trăm do-tuần.
Mang theo những thức cúng dường như vậy, các vị ấy đến chỗ Phật, đảnh lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng cung kính rồi bạch rằng: “Thế Tôn!
Hôm nay, vì Phật và chư tăng, chúng con chuẩn bị các món cúng dường. Xin Như
Lai đem lòng thương xót, thọ nhận sự cúng dường của chúng con.”
Như Lai lặng thinh không nhận. Sở nguyện không thành, những người họ Ly-xa lấy
làm sầu não. Nhờ sức thần của Phật, họ rời khỏi mặt đất, bay lên cao đến bảy
cây đa-la và đứng lặng giữa hư không.
Lúc ấy, lại có những vị đại thần, trưởng giả, nhiều như số cát năm sông Hằng, đều
là những người kính trọng Đại thừa. Nếu có những kẻ học theo thuyết khác phỉ
báng Chánh pháp, những vị ấy đều đủ sức thắng phục như mưa đá làm hư gãy cây cỏ.
Trong số các vị ấy có trưởng giả Nhật Quang, trưởng giả Hộ Thế, trưởng giả Hộ
Pháp là những vị đứng đầu. Các vị ấy chuẩn bị những thức cúng dường nhiều gấp
năm lần so với những thứ vừa nói trên, cùng nhau đi đến rừng Sa-la Song thọ,
cúi đầu lạy sát chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng cung kính, rồi bạch
rằng: “Thế Tôn! Hôm nay vì Phật và chư tăng, chúng con đã sửa soạn các món cúng
dường. Xin Như Lai thương xót, thọ nhận sự cúng dường của chúng con.”
Như Lai lặng thinh chẳng nhận. Sở nguyện không thành, các vị trưởng giả lấy làm
sầu não. Nhờ sức thần của Phật, họ đều rời khỏi mặt đất, bay lên cao đến bảy
cây đa-la và đứng lặng giữa hư không.
Lúc ấy lại có vua thành Tỳ-xá-ly cùng phu nhân, hậu cung và quyến thuộc, cùng với
các vua trong cõi Diêm-phù-đề như vua Nguyệt Vô Cấu... và nhân dân các thành ấp,
làng mạc, nhiều như số cát sáu sông Hằng, trừ ra vua A-xà-thế là vắng mặt. Mỗi
vị vua đều có quân đội uy nghiêm đủ bốn hạng quân, sắp đến chỗ Phật. Mỗi vua có
một trăm tám mươi muôn ức nhân dân và quyến thuộc. Các chiến xa đều thắng bằng
voi hoặc ngựa. Voi có sáu ngà, ngựa có thể chạy nhanh như gió. Những thức cúng
dường bày ra nhiều gấp sáu lần so với những thứ vừa nói trên. Trong số lọng
quý, những cái nhỏ nhất chu vi ngang dọc cũng chiếm trọn 8 do-tuần. Những lá
phướn ngắn nhất cũng dài đến 16 do-tuần. Những cờ quý, nhỏ thấp nhất cũng đến
36 do-tuần.
Các vua ấy đều đã vững vàng trong Chánh pháp. Các vị khinh ghét tà pháp, kính
trọng Đại thừa, hết sức ưa thích Đại thừa. Các vị thương yêu chúng sanh đồng
như con một của mình. Những thức ăn uống mà các vị đem theo tỏa hương thơm ra
quanh đó đến 4 do-tuần. Cũng vừa lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, các vua ấy
mang theo rất nhiều thức ăn ngon ngọt bậc nhất, đến chỗ Phật nơi rừng Sa-la
Song thọ, bạch rằng: “Thế Tôn! Nay vì Phật và chư tỳ-kheo tăng, chúng con đã
chuẩn bị mọi thức cúng dường. Xin Như Lai rủ lòng thương xót, nhận cho sự cúng
dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên cũng không nhận. Sở nguyện không thành,
các vua ấy lấy làm sầu não, bèn lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy lại có những vị phu nhân của các vua, nhiều như số cát bảy sông Hằng, chỉ
trừ phu nhân của vua A-xà-thế. Vì độ chúng sanh, các vị ấy thị hiện mang thân nữ,
nhưng thường quán xét các hạnh của thân. Các vị tu tâm bằng những pháp: Không,
Vô tướng, Vô nguyện. Trong số các vị ấy, phu nhân Tam Giới Diệu, phu nhân Ái Đức
là những vị đứng đầu. Các vị phu nhân ấy, thảy đều đã vững vàng trong Chánh
pháp, thọ trì giới cấm, đầy đủ oai nghi, thương yêu chúng sanh đồng như con một
của mình. Các vị nói với nhau rằng: “Hôm nay chúng ta phải nhanh chóng đến chỗ
đức Thế Tôn.”
Các vị phu nhân ấy chuẩn bị những thức cúng dường nhiều gấp bảy lần so với những
thứ vừa nói trên, như: hương, hoa, cờ báu, vải lụa, lọng, phướn, những thức ăn
uống ngon bậc nhất. Những lọng báu nhỏ nhất, chu vi ngang dọc cũng đến 16 do-tuần.
Những lá phướn ngắn nhất cũng đến 36 do-tuần. Những cây cờ báu nhỏ, thấp nhất
cũng đến 68 do-tuần. Hương thơm từ thức ăn thức uống tỏa ra quanh đó đến 8
do-tuần. Các vị đem theo mọi thức cúng dường như vậy, đến chỗ Như Lai, cúi lạy
sát chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng cung kính, rồi bạch rằng: “Thế
Tôn! Chúng con chuẩn bị mọi thức cúng dường này để dâng lên Phật và chư tỳ-kheo
tăng. Xin Như Lai rủ lòng thương xót, nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng này
của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Bấy giờ, sở nguyện
không thành nên các vị phu nhân trong lòng sầu não, vò đầu bứt tóc, đấm ngực
kêu khóc lớn tiếng như có đứa con yêu vừa chết. Rồi các vị lui xuống đứng yên một
bên.
Lúc ấy lại có các vị thiên nữ, nhiều như số cát tám sông Hằng. Trong số ấy,
thiên nữ Quảng Mục là bậc đứng đầu, lên tiếng nói rằng: “Này các chị! Hãy nhìn
cho kỹ! Hãy nhìn cho kỹ! Các hàng đại chúng kia đã chuẩn bị đủ mọi thức cúng dường
tốt đẹp để cúng dường đức Như Lai và chư tỳ-kheo tăng. Chúng ta cũng nên làm
như vậy, chuẩn bị nghiêm trang những thức cúng dường thật tốt đẹp để cúng dường
Như Lai. Đức Như Lai sau khi thọ nhận sẽ nhập Niết-bàn. Thưa các chị! Rất khó
mà gặp Phật ra đời. Được cúng dường đức Phật lần cuối cùng lại càng khó hơn! Nếu
Phật nhập Niết-bàn, thế gian này sẽ trống rỗng!”
Các vị thiên nữ ấy ưa thích Đại thừa, muốn nghe pháp Đại thừa. Được nghe rồi,
các vị cũng có thể giảng thuyết rộng cho người khác nghe. Các vị khao khát ngưỡng
mộ Đại thừa. Khi đã được đầy đủ lại có thể làm cho những người đang khao khát
ngưỡng mộ cũng được đầy đủ như mình. Các vị bảo vệ, gìn giữ Đại thừa. Nếu có kẻ
học theo các pháp khác rồi đem lòng ganh ghét Đại thừa, các vị đủ sức đả phá và
tiêu diệt tà kiến của họ, như mưa đá làm hư hoại cây cỏ. Các vị hộ trì giới hạnh,
đầy đủ oai nghi. Các vị khéo tùy thuận tất cả thế gian, cứu độ những kẻ chưa được
cứu độ, giải thoát những kẻ chưa được giải thoát. Ở đời vị lai, các vị sẽ quay
bánh xe Pháp, nối tiếp hạt giống Tam bảo chẳng để cho dứt tuyệt. Các vị tu học
Đại thừa, dùng sự trang nghiêm tốt đẹp mà tự trang nghiêm mình. Các vị thành tựu
vô lượng công đức như vậy, có lòng từ bình đẳng, đối với tất cả chúng sanh đều
xem như con một của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng, mặt trời vừa mọc, các vị thiên nữ ấy đem theo nhiều thứ
gỗ thơm cõi trời, vượt xa các loại gỗ thơm có ở cõi người. Hương thơm từ những
gỗ thơm ấy bay ra có thể làm mất đi mọi thứ xấu xa, hôi hám ở cõi người. Các vị
cũng đem theo những cỗ xe trắng có che lọng trắng, kéo bằng bốn con ngựa bạch,
trên xe có giăng màn trướng màu trắng, bốn bên mỗi bức trướng đều có treo những
chuông vàng. Lại có đủ các loại hương, hoa, cờ báu, lọng, phướn, những thức ăn ngon
bậc nhất, các thứ kỹ nhạc, đều bày giăng nơi tòa sư tử. Bốn chân của tòa sư tử
toàn bằng ngọc lưu ly xanh. Phía sau mỗi tòa đều có giường nằm bằng bảy món
báu, phía trước lại có một án nhỏ bằng vàng. Lại dùng bảy món báu mà làm thành
những cây đèn, và dùng mọi thứ châu báu mà làm ánh sáng đèn. Những đóa hoa trời
vi diệu rải khắp trên mặt đất nơi ấy.
Các vị thiên nữ chuẩn bị mọi thức cúng dường rồi, trong lòng xúc cảm đau đớn,
nước mắt chan hòa, khổ não vô cùng. Nhưng vì muốn lợi ích và an lạc cho chúng
sanh, vì muốn thành tựu hạnh Không bậc nhất của Đại thừa, làm rõ bày giáo pháp
phương tiện sâu kín của Như Lai, vì muốn các môn thuyết pháp không bị dứt mất,
nên các vị ấy liền đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, đi quanh Phật
trăm ngàn vòng cung kính, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, các vị thiên nữ trong lòng sầu não, lui xuống đứng yên một bên.
Lúc ấy, lại có các vị long vương ở bốn phương, nhiều như số cát chín sông Hằng.
Trong hàng long vương ấy, long vương Hòa-tu-kiết, long Vương Nan-đà, long Vương
Bà-nan-đà là những vị đứng đầu. Cũng vào lúc tảng sáng, khi mặt trời vừa mọc, các
vị long vương chuẩn bị những món cúng dường gấp bội phần so với của loài người
và chư thiên. Các vị ấy đem đến chỗ Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật, đi quanh
Phật cả trăm ngàn vòng, rồi bạch rằng: “Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương xót
nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, các vị long vương trong lòng sầu não, ngồi sang một bên.
Lúc ấy lại có các vua quỷ thần, nhiều như số cát mười sông Hằng. Trong các vua ấy,
vua Tỳ-sa-môn là vị đứng đầu. Họ bảo nhau rằng: “Các vị! Hôm nay nên nhanh
chóng đến chỗ Phật ngự.” Rồi họ chuẩn bị các thức cúng dường nhiều gấp bội phần
so với của các vị long vương vừa nói trên, mang đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ
sát chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng cung kính, rồi bạch rằng: “Nguyện đức
Như Lai rủ lòng thương xót nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Sở nguyện không
thành, các vị vua quỷ thần trong lòng sầu não, lui lại ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có các vị vua của loài chim cánh vàng, nhiều như số cát 20 sông Hằng.
Trong đó, chim chúa Hàng Oán là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài càn-thát-bà, nhiều như số cát 30 sông Hằng. Trong
đó, vua Na-la-đạt là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài khẩn-na-la, nhiều như số cát 40 sông Hằng. Trong đó,
vua Thiện Kiến là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài ma-hầu-la-già, nhiều như số cát 50 sông Hằng. Trong
đó, vua Đại Thiện Kiến là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài a-tu-la, nhiều như số cát 60 sông Hằng. Trong đó,
vua Siểm-bà-lỵ là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài đà-na-bà, nhiều như số cát 70 sông Hằng. Trong đó,
vua Vô Cấu Hà Thủy và vua Bạc-đề-đạt-đa là những vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài la-sát, nhiều như số cát 80 sông Hằng. Trong đó, vua
Khả Úy là vị đứng đầu. Các vị này đã lìa bỏ tâm ác độc, mãi mãi chẳng còn ăn thịt
người. Đối với sự oán ghét, các vị sanh lòng từ bi. Hình tướng của họ vốn xấu
xí, nhưng nhờ sức thần của Phật, thảy đều trở nên đoan chính.
Lại có các vị vua của loài thần cây trong rừng, nhiều như số cát 90 sông Hằng.
Trong đó, vua Nhạo Hương là vị đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài trì-chú, nhiều như số cát một ngàn sông Hằng. Trong
đó, vua Trì-chú Đại Huyễn là bậc đứng đầu.
Lại có loài quỷ mỵ tham sắc, nhiều như số cát một ức sông Hằng. Trong đó, vua
Thiện Kiến là vị đứng đầu.
Lại có các vị thể nữ trên cõi trời, nhiều như số cát một trăm ức sông Hằng.
Trong hàng thể nữ ấy, các cô Lam-bà, Uất-bà-thi, Đế-lộ-triêm, Tỳ-xá-khư là những
vị đứng đầu.
Lại có các vị quỷ vương dưới mặt đất, nhiều như số cát ngàn ức sông Hằng. Trong
đó, Bạch Thấp vương là vị đứng đầu.
Lại có các vị thiên tử trên các cõi trời, nhiều như số cát ngàn muôn ức sông Hằng,
cùng các vị Thiên vương và bốn Thiên vương [ở bốn phương]...
Lại có các vị thần gió ở bốn phương, nhiều như số cát mười vạn ức sông Hằng.
Các vị ấy thổi trên các cây, làm cho những hoa nở đúng mùa và không đúng mùa đều
rơi rải khắp rừng cây Sa-la Song thọ.
Lại có các vị thần lo việc mây mưa, nhiều như số cát mười muôn ức sông Hằng. Thảy
đều phát sanh ý nghĩ này: “Như Lai sắp nhập Niết-bàn. Đến lúc thiêu nhục thân
ngài, chúng ta sẽ làm mưa để rưới tắt lửa. Khi ấy, đại chúng đang lúc phiền muộn
nóng nảy, chúng ta sẽ làm cho tất cả đều được mát mẻ.”
Lại có các vị voi chúa lớn, nhiều như số cát 20 sông Hằng. Trong số ấy, voi
chúa La-hầu, voi chúa Kim Sắc, voi chúa Cam Vị, voi chúa Hám Nhãn, voi chúa Dục
Hương là những vị đứng đầu. Các vị kính trọng Đại thừa, ưa thích Đại thừa, biết
rằng còn chẳng bao lâu Phật sẽ buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn, nên các vị
mang theo vô số những hoa sen thơm đẹp đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui
xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị sư tử chúa, nhiều như số cát 20 sông Hằng. Trong đó, chúa Sư Tử Hống
là bậc đứng đầu. Các sư tử ấy ban phát cho tất cả chúng sanh đức không sợ sệt,
đều mang theo nhiều hoa quả đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, rồi lui
xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị vua của loài chim và các loài chim như: chim phù, chim nhạn,
uyên, ương, se sẻ, càn-thát-bà, ca-lan-đà, sáo, két, câu-si-la, bà-hi-già,
ca-lăng-tần-già, kỳ-bà-kỳ-bà... nhiều như số cát 20 sông Hằng. Các loài chim ấy
đều mang theo hoa quả đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, rồi lui xuống
đứng sang một bên.
Lại có những trâu, bò, dê... nhiều như số cát 20 sông Hằng, cùng đến chỗ Phật,
tuôn ra những loại sữa ngon ngọt thơm tho. Sữa ấy chảy đầy khắp các mương rãnh,
hầm hố trong thành Câu-thi-na, có đủ các màu sắc, hương thơm và vị ngọt. Sau
khi hiến sữa, tất cả đều lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị thần tiên trong khắp bốn cõi thiên hạ, nhiều như số cát 20 sông Hằng,
do vị tiên Nhẫn Nhục đứng đầu. Các vị ấy mang theo hoa thơm và trái ngọt đến chỗ
Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng cung kính rồi bạch rằng:
“Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương xót nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng của
chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, các vị thần tiên ấy trong lòng sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lại có tất cả những con ong chúa trong cõi Diêm-phù-đề, trong đó có ong chúa Diệu
Âm dẫn đầu, mang theo đủ các loại hoa đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật,
bay quanh Phật một vòng cung kính rồi lui xuống tránh sang một bên.
Lúc ấy, tất cả tỳ-kheo và tỳ-kheo ni trong cõi Diêm-phù-đề đều tụ hội lại, chỉ
trừ hai chúng của Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và của ngài A-nan.
Lại có các quả núi ở khoảng giữa thế giới và trong cõi Diêm-phù-đề, nhiều như số
cát vô số sông Hằng. Trong các núi ấy, núi chúa Tu-di là đứng đầu. Những núi ấy
trang nghiêm, rừng rú sum suê, cây cối tươi tốt, cành nhánh san sát che bóng mặt
trời. Các thứ hoa thơm lạ nở đầy khắp núi. Suối chảy như rồng uốn khúc, nước
trong sạch, thơm tho. Chư thiên, loài rồng, thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la,
khẩn-na-la, ma-hầu-la-già và các vị thần tiên chú thuật, thảy đều xướng họa đàn
ca khắp nơi trong núi. Các thần núi ấy cũng đi đến chỗ Phật ngự, cúi đầu làm lễ
sát chân Phật, rồi lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các thần bốn biển cả và các thần sông nhiều như số cát vô số sông Hằng.
Các vị ấy có oai đức lớn, đủ phép thần túc lớn. Các vị chuẩn bị những thức cúng
dường nhiều gấp bội so với những thứ vừa nói trên. Hào quang nơi thân các vị thần
ấy và ánh đèn sáng soi khi các vị múa hát làm cho không còn ai có thể nhìn thấy
mặt trời, mặt trăng. Các vị dùng hoa chiêm-bà rảy trên sông Hy-liên, cùng đi đến
chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật rồi lui xuống đứng sang một bên.
Bấy giờ, toàn cảnh rừng cây sa-la ở thành Câu-thi-na đều đổi sang màu trắng như
bạch hạc. Trên hư không tự nhiên có những nhà cửa, lầu gác bằng bảy báu, chạm
hình khắc chữ và thêu dệt đường nét rõ ràng, có các món báu bao quanh theo những
lan can. Phía dưới các nhà cửa, lầu gác ấy lại có suối nước, ao tắm. Trong ấy
có những hoa sen đẹp và thơm tho nhất nở rộ khắp nơi, giống như cõi Uất-đan-việt
ở phương bắc, lại cũng giống như vườn Hoan Hỷ ở cung trời Đao-lợi.
Lúc ấy, ở khoảng giữa rừng cây sa-la cũng có đủ mọi sự trang nghiêm vui thích
như vậy. Các hàng chư thiên, người và a-tu-la đều thấy rõ tướng Niết-bàn của
Như Lai, thảy đều cảm động, đau xót, ưu sầu chẳng vui.
Lúc ấy, bốn vị thiên vương và Đế-thích bảo nhau rằng: “Các ngài hãy xem kìa!
Chư thiên, loài người và a-tu-la đều thiết lễ cúng dường rất lớn, đều muốn cúng
dường đức Như Lai lần cuối cùng. Chúng ta cũng nên cúng dường như vậy. Nếu
chúng ta được cúng dường Phật lần cuối cùng, chúng ta sẽ thành tựu hạnh bố thí
một cách trọn vẹn và dễ dàng.”
Lúc ấy, bốn vị thiên vương chuẩn bị các thức cúng dường nhiều gấp bội so với những
thứ vừa nói trên. Các vị đem theo những hoa mạn-đà-la, hoa ca-chỉ-lâu-già, hoa
mạn-thù-sa, hoa tán-đa-ni-ca, hoa ái lạc, hoa phổ hiền, hoa thời, hoa hương
thành, hoa hoan hỷ, hoa phát dục, hoa hương túy, hoa phổ hương, mỗi thứ đều có
đủ hai loại cỡ nhỏ và cỡ lớn; cùng với các hoa thiên kim diệp, hoa long, hoa
ba-lị-chất-đa, hoa câu-tỳ-đà-la... Các vị lại mang theo đủ các thức ăn ngon bậc
nhất đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật. Hào quang của các vị ấy chiếu
ra làm cho không còn ai có thể nhìn thấy mặt trời, mặt trăng. Các vị mang đến
những lễ vật ấy, đều muốn cúng dường Phật.
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, Đế-thích và chư thiên buồn đau khổ não, lui xuống đứng sang một bên.
Cho đến chư thiên ở cõi trời thứ sáu trong Dục giới cũng chuẩn bị các thức cúng
dường. Những thức cúng dường đem đến sau lại dần dần tăng nhiều hơn những thứ
đã đem đến trước, như: cờ báu, lọng, phướn... Lọng báu nhỏ nhất cũng che trùm Bốn
cõi thiên hạ. Lá phướn ngắn nhất cũng bao quanh được bốn biển. Cờ nhỏ thấp hơn
hết cũng từ mặt đất lên tới cõi trời Tự tại. Gió nhẹ thổi động những lá phướn,
phát ra âm thanh vi diệu. Chư thiên mang theo những thức ăn ngon nhất đến chỗ
Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật rồi bạch rằng: “Nguyện đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, chư thiên ấy trong lòng sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Các vị chư thiên từ cõi trời Phạm thiên trở lên cho đến cõi trời Hữu đỉnh đều đến
tụ họp. Lúc ấy, vua Đại Phạm thiên và chư thiên ở cõi trời ấy phóng hào quang từ
nơi thân thể mình ra, chiếu khắp Bốn cõi thiên hạ và Dục giới của loài người với
chư thiên. Do ánh sáng ấy, không còn ai trông thấy được mặt trời, mặt trăng.
Các ngài đem theo cờ báu, lọng và phướn bằng lụa. Lá phướn ngắn nhất cũng treo
từ trời Phạm thiên xuống tới giữa những cây sa-la. Các vị đến chỗ Phật, cúi đầu
làm lễ sát chân Phật, rồi bạch rằng: “Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương xót nhận
cho sự cúng dường lần cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, chư thiên ở cõi Phạm thiên trong lòng sầu não, lui xuống đứng sang một
bên.
Lúc ấy, vua Tỳ-ma-chất-đa của loài a-tu-la cùng với vô số a-tu-la và tất cả quyến
thuộc thảy đều hội họp. Hào quang nơi thân các vị ấy trội hơn cả hào quang của
chư thiên ở cảnh trời Phạm thiên. Các vị ấy đem theo cờ báu, lọng và phướn bằng
lụa. Những chiếc lọng nhỏ nhất cũng che trùm cả ngàn thế giới. Các vị ấy đem
theo thức ăn ngon ngọt bậc nhất đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, rồi
bạch rằng: “Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương xót nhận cho sự cúng dường lần cuối
cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận. Sở nguyện chẳng
thành, các vị a-tu-la trong lòng sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, Ma vương Ba-tuần ở Dục giới cùng với quyến thuộc, các thể nữ cõi trời
và vô số chúng ma đến mở cửa địa ngục, bố thí nước thanh tịnh, nhân đó bảo rằng:
“Nay các người không thể làm được điều gì cả, chỉ nên chuyên tâm niệm tưởng đức
Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri... tùy tâm hoan hỷ chuẩn bị các thức cúng dường
lần cuối cùng. Nhờ đó, các người sẽ được sự an vui lâu dài.”
Lúc ấy, ma Ba-tuần dẹp bỏ hết đao kiếm và vô số các món khổ độc ở địa ngục; lửa
đang cháy bùng rất mạnh bỗng bị mưa lớn làm cho tắt hẳn. Nhờ oai thần của Phật,
Ma vương lại phát tâm rằng: “Xin cho quyến thuộc của ta đều bỏ hết đao kiếm,
cung nỏ, áo giáp, trượng, xà mâu, giáo sóc, câu móc dài, chùy sắt, rìu, búa,
vòng đánh, dây trói...” Rồi Ma vương và quyến thuộc đem theo những thức cúng dường
trội hơn tất cả những thứ mà loài người và chư thiên đã mang đến. Lọng nhỏ nhất
cũng che trùm cả một trung thiên thế giới. Tất cả đều đi đến chỗ Phật, cúi đầu
làm lễ sát chân Phật rồi bạch rằng: “Nay chúng con ưa thích Đại thừa, muốn gìn
giữ bảo vệ Đại thừa. Bạch Thế Tôn! Như có kẻ nam người nữ lòng lành vì muốn
cúng dường, hoặc vì sợ sệt, hoặc vì dối gạt kẻ khác, hoặc vì của cải lợi lộc,
hoặc vì nương theo người khác mà nhận lãnh pháp Đại thừa này, dù là chân thật
hay dối trá, lúc đó chúng con cũng vì người ấy mà dứt trừ sự sợ sệt, thuyết ra
câu chú này:
“Trác chỉ, trá sá la trác chỉ, lô ha lệ, ma ha lô ha lệ, a la già la, đa la tá
ha!
“Chú này có thể làm cho những kẻ mất hồn, những kẻ sợ sệt, những người thuyết
pháp đều chẳng gián đoạn Chánh pháp. Chúng con vì muốn hàng phục ngoại đạo, gìn
giữ tự thân, bảo vệ Chánh pháp, bảo vệ Đại thừa nên thuyết ra chú này. Những ai
có thể trì chú này, hình tượng hung dữ không làm cho họ sợ. Nếu đến nơi đồng
không, đầm vắng, chỗ nguy hiểm, cũng chẳng sanh tâm sợ sệt. Cũng khỏi bị những
nạn như nước, lửa, sư tử, cọp, chó sói, trộm cướp, phép vua luật nước...
“Bạch Thế Tôn! Nếu ai trì được chú này thì dứt hết mọi nỗi lo sợ kể trên. Thế
Tôn! Chúng con sẽ bảo hộ người trì chú ấy như cái mu rùa bảo hộ toàn thân con
rùa.
“Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con không đem lòng nịnh hót mà nói ra việc ấy. Đối
với người trì chú này, chúng con sẽ đem hết lòng thành mà giúp thêm sức mạnh
cho người ấy. Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương xót nhận cho sự cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Lúc ấy, đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần rằng: “Ta không thọ nhận những thức ăn uống
do ông cúng dường. Nhưng vì muốn làm an lạc cho tất cả chúng sanh, cho Bốn bộ
chúng nên ta chấp nhận thần chú mà ông vừa thuyết đó.”
Nói rồi, đức Phật lặng thinh không nhận cúng dường. Ma vương thỉnh cầu đến ba lần,
Phật vẫn không nhận. Lúc ấy, sở nguyện chẳng thành, Ma vương Ba-tuần trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, vua trời Đại Tự tại cùng với vô số quyến thuộc và chư thiên ở cõi trời
của ngài cũng chuẩn bị những thức cúng dường bao trùm hơn tất cả những thức
cúng dường của vua Phạm thiên, Đế-thích, bốn Thiên vương Hộ thế và của tám bộ
trời người với hàng phi nhân. So với những thức cúng dường này, những thức cúng
dường của Phạm thiên và Đế-thích chỉ như chấm mực đen đặt cạnh các loại ngọc
quý, không thể tỏa sáng được. Những lọng báu nhỏ nhất của các vị cũng có thể
che trùm trọn cõi tam thiên đại thiên thế giới.
Các vị mang theo mọi thức cúng dường như vậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ
sát chân Phật, đi quanh Phật vô số vòng cung kính rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Những
lễ vật mà chúng con muốn cúng dường đây thật là nhỏ nhen, chỉ giống như lễ vật
của con muỗi mang đến cúng dường chúng con; lại cũng giống như người đem một bụm
nước giữa hai bàn tay mà đổ xuống biển cả; như ánh sáng một ngọn đèn nhỏ mà góp
vào ánh sáng của trăm ngàn mặt trời; như trong mùa xuân, mùa hạ, các loài hoa đều
tươi tốt, lại có người cầm một đóa hoa để làm tăng thêm số hoa; như lấy hạt
đình lịch để làm cho núi Tu-di to lớn thêm! Những việc làm như vậy há có ích gì
cho biển cả, cho ánh sáng mặt trời, cho đám hoa và cho núi Tu-di kia đâu?
“Bạch Thế Tôn! Lễ vật mà chúng con phụng hiến hôm nay cũng ít oi, nhỏ bé như vậy.
Dầu cho đem tất cả hương, hoa, kỹ nhạc, phướn, lọng trong toàn cõi tam thiên đại
thiên thế giới mà cúng dường Như Lai, cũng chẳng gọi là đủ. Vì sao vậy? Vì Như
Lai đã thường vì chúng sanh mà chịu mọi khổ não trong các đường ác: địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh. Vậy xin Như Lai rủ lòng thương xót, nhận cho sự cúng dường của
chúng con.”
Lúc ấy, về phương đông cách cõi Ta-bà này vô số thế giới nhiều như số cát của
vô số con sông Hằng, nhiều như số hạt bụi cực nhỏ, có một cõi Phật tên là Ý Lạc
Mỹ Âm. Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Hư Không Đẳng, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến
tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Bấy giờ, đức Phật Hư Không Đẳng bảo vị đại đệ tử lớn nhất của ngài rằng: “Thiện
nam tử! Hôm nay ông nên sang thế giới Ta-bà ở phương tây. Ở cõi ấy có Phật hiệu
là Thích-ca Mâu-ni, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ,
Thế gian giải, Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Còn không bao lâu nữa đức Phật ấy sẽ nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Ông nên mang theo cơm gạo thơm của thế giới này. Cơm ấy thơm tho
ngon ngọt, ăn vào sẽ được an ổn. Có thể dùng món cơm này phụng hiến đức Phật ấy,
ngài dùng xong sẽ nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Các ông đều nên kính lễ đức Phật ấy và thỉnh cầu ngài giảng rõ
cho những chỗ còn chưa rõ [trong Chánh pháp].”
Lúc ấy, Đại Bồ Tát Vô Biên Thân vâng lời dạy của Phật Hư Không Đẳng, bèn đứng dậy
khỏi chỗ ngồi, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng cung kính
theo tay mặt, rồi dẫn theo vô số các vị Bồ Tát từ cõi thế giới ấy cùng đến thế
giới Ta-bà. Đúng lúc ấy, trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, khắp mặt đất
chấn động theo sáu cách. Bấy giờ, đại chúng gồm tất cả những vị đi theo Phạm
Vương, Đế-thích, Tứ Thiên vương, Ma vương Ba-tuần, Ma-hê-thủ-la bỗng thấy mặt đất
chấn động như vậy thì lông trên mình đều dựng ngược, cổ họng và lưỡi khô khan,
sanh lòng sợ sệt, run rẩy... Tất cả đều muốn phân tán đi bốn phương. Khi nhìn lại
thân mình, các vị thấy chẳng còn hào quang và oai nghi phước đức đều đã mất hết.
Lúc ấy Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, bảo đại chúng
rằng: “Chư thiện nam tử! Các vị đừng hoảng sợ. Vì sao vậy? Về phương đông cách
cõi Ta-bà này vô số thế giới nhiều như số cát của vô số sông Hằng, nhiều như số
hạt bụi cực nhỏ, có một cõi Phật tên là Ý Lạc Mỹ Âm. Đức Phật ở cõi ấy hiệu là
Hư Không Đẳng, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri... đủ mười danh hiệu. Ở cõi ấy
có một vị Bồ Tát tên là Vô Biên Thân, cùng với vô số Bồ Tát muốn đến cõi này
cúng dường đức Như Lai của chúng ta. Do oai đức của các vị Bồ Tát ấy nên đã làm
cho hào quang nơi thân các vị không hiện ra được nữa. Vậy các vị nên sanh lòng
hoan hỷ, chớ nên sợ sệt.”
Bấy giờ, đại chúng của đức Phật Thích-ca nhìn xa về phương đông đều thấy được đức
Phật Hư Không Đẳng và đại chúng của ngài, ví như nhìn vào tấm gương mà thấy rõ
chính mình.
Liền đó, ngài Văn-thù-sư-lợi lại bảo đại chúng: “Nay các vị đã thấy rõ đức Phật
kia [ở phương đông] và đại chúng của ngài, cũng như thấy đức Phật Thích-ca nơi
đây. Nhờ oai thần của Phật, các vị sẽ được nhìn thấy cả vô số chư Phật ở chín
phương khác.”
Bấy giờ, đại chúng đều bảo nhau rằng: “Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sắp trống rỗng!
Thế gian sắp trống rỗng! Còn không bao lâu Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Ngay lúc ấy, ai nấy trong đại chúng đều nhìn thấy Bồ Tát Vô Biên Thân và quyến
thuộc của ngài. Nơi thân Bồ Tát ấy, mỗi lỗ chân lông đều xuất hiện một đóa hoa
sen lớn. Mỗi hoa sen chứa bảy muôn tám ngàn thành ấp. Mỗi thành ấp đều rộng lớn
vuông vức bằng đô thành Tỳ-da-ly; tường trong, tường ngoài và những hào sâu đều
xây đắp bằng bảy báu xen lẫn nhau, những cây quý đa-la mọc lên có thứ tự, gồm bảy
lớp. Trong thành ấy nhân dân phồn thạnh, an ổn, phong phú, vui vẻ. Những lầu
canh đều được làm bằng vàng ròng. Ở mỗi lầu canh có những cây bằng bảy báu mọc
thành rừng, hoa trái tươi tốt, gió nhẹ thổi lay động, phát ra âm thanh vi diệu.
Âm thanh ấy hòa nhã như nhạc trời. Nhân dân trong thành nghe được âm thanh ấy lấy
làm khoái lạc, sung sướng vô cùng. Trong những hào vây quanh thành chứa đầy nước
ngọt, thơm tho và trong vắt như lưu ly. Trên mặt nước có những chiếc thuyền bằng
bảy báu. Những người ngồi thuyền, hoặc đi du ngoạn hay tắm rửa, cùng nhau vui
hưởng sự khoái lạc vô cùng.
Lại có vô số những hoa sen đủ màu, như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma,
hoa phân-đà-lỵ. Những hoa ấy đều lớn như bánh xe. Dọc theo bờ hào có nhiều vườn
tược. Mỗi cảnh vườn có ao năm suối. Trong ao ấy lại cũng có các loại hoa sen:
hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ. Những hoa ấy
cũng lớn như bánh xe, hương thơm lan tỏa rất đáng ưa thích. Nước dưới ao trong
sạch, chạm vào có cảm giác hết sức mềm mại. Những loài chim phù, chim nhạn,
uyên ương đều bay đến dạo chơi nơi ấy. Trong mỗi cảnh vườn tược có nhiều cung
điện nhà cửa. Mỗi cung điện nhà cửa ngang dọc vuông vức choán trọn bốn do-tuần.
Những tường trong và tường ngoài đều xây bằng bốn món báu là vàng, bạc, lưu ly
và pha lê. Các cửa sổ trên tường đều bằng vàng ròng, có lan can bao quanh. Mặt
đất toàn là các thứ ngọc và đá quý, có trải cát bằng vàng. Trong nhiều cung điện
nhà cửa lại có suối nước và ao tắm bằng bảy báu. Bên ao có thang mười tám bậc để
lên xuống, toàn bằng vàng ròng. Có những cây chuối bằng vàng diêm-phù-đàn, giống
như vườn Hoan Hỷ ở cung trời Đao-lợi.
Mỗi thành ấy đều có tám mươi bốn ngàn vị vua. Mỗi vị đều có vô số phu nhân và
thể nữ, cùng nhau vui hưởng mọi sự thích thú, vui sướng. Ngoài ra, nhân dân ở
đó cũng vậy, mỗi người đều ở tại chỗ của mình mà tận hưởng cuộc sống sung sướng.
Chúng sanh trong những thành ấy chẳng nghe tiếng gì khác ngoài những âm thanh
diễn giảng pháp Đại thừa cao trổi nhất.
Trong mỗi hoa sen đều có tòa sư tử. Các tòa sư tử ấy có bốn chân bằng ngọc lưu
ly xanh, trên tòa có trải vải lụa mịn màng, rất đẹp, là loại tốt nhất trong Ba
cõi. Trên mỗi tòa đều có một vị vua ngự và giáo hóa chúng sanh bằng pháp Đại thừa,
hoặc có những chúng sanh đang sao chép, thọ trì, đọc tụng kinh điển Đại thừa,
tu hành theo đúng như kinh dạy và lưu truyền rộng rãi như vậy.
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Biên Thân làm cho vô số chúng sanh được nghỉ ngơi an ổn rồi,
sau đó mỗi người đều tự dứt bỏ cuộc vui thế sự, than thở rằng: “Khổ thay! Khổ
thay! Thế gian sắp trống rỗng! Còn không bao lâu đức Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Biên Thân cùng vô số các Bồ Tát vây quanh đã thị hiện sức thần
thông như vậy rồi, liền mang đến đủ các thức cúng dường nhiều vô số, cùng với
những thức ăn uống thơm tho, ngon ngọt bậc nhất. Nếu ai ngửi được hương thơm của
những thức ăn ấy thì mọi sự ô nhiễm phiền não đều dứt sạch. Nhờ sức thần thông
của Bồ Tát ấy, tất cả đại chúng đều được nhìn thấy sự biến hóa: Bồ Tát Vô Biên
Thân hiện thân lớn vô biên, đồng như hư không, ngoài chư Phật ra thì không ai
có thể thấy được thân của Bồ Tát cao lớn đến mức nào.
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Biên Thân cùng quyến thuộc chuẩn bị những thức cúng dường trội
hơn tất cả những thứ đã nói trước, rồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân
Phật, chắp tay cung kính bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện đức Như Lai rủ lòng thương
xót nhận cho bữa cơm cúng dường của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Ba lần thưa thỉnh
như vậy, Phật vẫn không nhận. Sở nguyện chẳng thành, Bồ Tát Vô Biên Thân cùng
quyến thuộc liền lui xuống đứng sang một bên.
Lại ở các cõi Phật về phương nam, phương tây, phương bắc cũng có vô số vị Bồ
Tát Vô Biên Thân mang theo những thức cúng dường trội hơn những thức cúng dường
đã nói trước, cùng đi đến chỗ Phật, cuối cùng cũng đều lui xuống đứng sang một
bên như vậy.
Bấy giờ, tại vùng đất an lành ở rừng Sa-la Song thọ, trong khoảng chu vi hai
mươi hai do-tuần, đại chúng tụ họp đầy kín không còn chỗ trống. Lúc ấy, những tòa
ngồi của các vị Bồ Tát Vô Biên Thân và quyến thuộc từ bốn phương đến chỉ nhỏ bé
như mũi dùi, mũi kim, như những hạt bụi cực nhỏ. Chư Đại Bồ Tát từ các cõi Phật
mười phương nhiều như số hạt bụi cực nhỏ cũng đều đến nhóm họp, và tất cả đại
chúng ở khắp cõi Diêm-phù-đề cũng đến nhóm họp. Chỉ còn thiếu hai chúng của Tôn
giả Ma-ha Ca-diếp và của ngài A-nan, với vua A-xà-thế và quyến thuộc. Ngoài ra,
cho đến những loài rắn độc mà mắt nhìn cũng đủ làm chết người, những loài bọ
hung, rắn đất, bò cạp và 16 loại chuyên làm ác nghiệp, tất cả cũng đều tụ hội.
Các vị thần đà-na-bà, a-tu-la đều bỏ những tư tưởng xấu, khởi sanh lòng từ, đối
với nhau như cha, mẹ, chị em. Các chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên thế
giới cũng đều sanh lòng từ đối với nhau như thế, chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề.
Lúc ấy, nhờ oai thần của Phật, trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới mặt
đất bỗng trở nên mềm mại, không có những gò nổng, đất cát, sỏi đá, gai góc, cỏ
độc... các món báu đơm kết làm cho xinh đẹp, dường như thế giới Cực Lạc ở
phương tây của đức Phật A-di-đà. Đại chúng thảy đều thấy rõ các thế giới của
chư Phật trong mười phương, nhiều như những hạt bụi cực nhỏ, ví như người ta
nhìn vào tấm gương thấy được chính mình, ai nấy đều thấy các cõi Phật một cách
rõ ràng như vậy.
Lúc ấy, từ nơi khoảng giữa hai chân mày đức Như Lai phóng ra hào quang năm sắc.
Hào quang ấy sáng rực rỡ, bao trùm cả đại hội, khiến cho hào quang nơi thân của
mỗi vị trong đại hội đều chẳng hiện ra được. Hào quang của Phật sau khi đã
phóng ra rồi, liền theo nơi miệng của ngài mà quay trở vào.
Bấy giờ, chư thiên, loài người, a-tu-la và hết thảy chúng hội nhìn thấy hào
quang của Phật quay trở vào trong miệng ngài, thảy đều lấy làm sợ hãi, rùng
mình rởn ốc, nói rằng: “Hào quang của Như Lai phóng ra rồi lại quay trở vào,
không thể không có nhân duyên, ắt là việc cần làm của Phật trong mười phương đã
xong, đây là tướng trạng cuối cùng ngài sắp nhập Niết-bàn. Khổ thay! Khổ thay!
Tại sao chỉ trong chốc lát đức Thế Tôn đã buông bỏ bốn tâm vô lượng, chẳng nhận
sự cúng dường của loài người và chư thiên? Ánh sáng của mặt trời trí tuệ từ nay
dứt mất! Con thuyền Chánh pháp vô thượng hôm nay sắp chìm mất! Ôi! Đau đớn
thay! Khổ não thay cho thế gian!”
Ai nấy đều đứng dậy, đấm ngực kêu la, khóc lóc bi ai, tay chân run rẩy, không tự
kiềm chế được, máu tươi ứa ra từ các lỗ chân lông trên người họ, rơi vấy đầy
trên mặt đất.
QUYỂN 2 - Phẩm THỌ MẠNG - Phẩm thứ nhất – Phần hai
Bấy giờ, trong chúng hội có một vị ưu-bà-tắc ở thành
Câu-thi-na tên là Thuần-đà, con nhà thợ thuyền, dẫn theo 15 người cũng thuộc
trong giới mình. Vì muốn cho thế gian được quả lành, ông dẹp bỏ oai nghi của
thân, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, hai tay
chắp lại hướng về phía Phật, đau xót rơi lệ, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi bạch
Phật rằng: “Nguyện đức Thế Tôn và chư tỳ-kheo rủ lòng thương xót nhận cho sự
cúng dường lần cuối cùng của chúng con, để cứu độ vô số chúng sanh.
“Bạch Thế Tôn! Từ nay chúng con không còn người làm chủ, không còn người thân
thích, không còn người cứu vớt, bảo hộ, không còn nơi quy hướng, bần cùng, đói
khổ, muốn nương đức Như Lai cầu lấy món ăn cho thuở tương lai. Xin ngài thương
xót thọ nhận lễ cúng hèn mọn của chúng con rồi hãy nhập Niết-bàn.
“Thế Tôn! Ví như có một người thuộc giai cấp sát-lỵ hoặc giai cấp bà-la-môn, tỳ-xá,
thủ-đà, vì bần cùng nên đi tới một nước khác xa xôi. Người ấy ra sức làm ruộng
nương, sắm được con trâu khỏe, dễ điều khiển, được ruộng tốt, bằng phẳng, đã dọn
sạch không còn những cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây. Người ấy chỉ còn
mong được trời mưa xuống mà thôi.
“Trâu khỏe và dễ điều khiển, ví như bảy nghiệp lành của thân và khẩu. Ruộng tốt
và bằng phẳng, ví như trí tuệ. Những món cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây
đã bị dẹp trừ, ví như các phiền não đã trừ dứt.
“Thế Tôn! Nay thân chúng con có đủ trâu khỏe, dễ điều khiển; ruộng tốt và bằng
thẳng; đã dọn sạch những món, cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây. Chúng con
chỉ còn mong chờ đức Như Lai ban cho cơn mưa pháp cam lộ mà thôi.
“Người bần cùng nói trên chính là thân chúng con đây, thiếu thốn món của cải là
Chánh pháp vô thượng. Xin Phật thương xót, dứt trừ sự bần cùng khốn khổ ấy cho
chúng con và cứu giúp vô lượng chúng sanh khổ não.
“Mặc dầu lễ cúng của chúng con hôm nay là hèn mọn, nhưng cũng mong rằng được
làm no lòng Như Lai và đại chúng. Từ nay chúng con không còn người làm chủ,
không còn người thân thiết, không còn nơi quy hướng. Xin Như Lai rủ lòng thương
xót chúng con như La-hầu-la.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn, bậc Nhất thiết chủng trí, bậc Vô thượng Điều ngự, bảo Thuần-đà
rằng: “Lành thay, lành thay! Hôm nay ta sẽ vì ông mà dứt trừ sự bần cùng. Ta sẽ
đem mưa Pháp vô thượng mà rưới xuống đám ruộng tốt ở thân ông để làm cho mầm
pháp mọc lên. Nay ông muốn cầu ở ta thọ mạng, sắc tướng, sức lực, an lạc, biện
tài vô ngại. Ta sẽ ban cho ông được đời sống trường tồn, sắc tướng, sức lực, an
lạc và tài biện thuyết vô ngại.
“Vì sao vậy? Thuần-đà! Có hai lần thí thực mà quả báo như nhau. Sao gọi là hai?
Thứ nhất là, ta thọ thực rồi sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thứ hai
là, ta thọ thực xong sẽ nhập Niết-bàn. Nay ta thọ nhận sự cúng dường lần cuối
cùng này của ông, sẽ khiến cho ông được đầy đủ hạnh Bố thí.”
Bấy giờ, Thuần-đà liền bạch Phật rằng: “Như Phật nói rằng quả báo hai lần thí
thực ấy là như nhau, nghĩa ấy chẳng đúng!
“Vì sao vậy? Người thọ thí lần trước, chưa dứt phiền não, chưa thành tựu Nhất
thiết chủng trí, cũng chưa thể khiến cho chúng sanh được đầy đủ hạnh Bố thí.
“Người thọ thí lần sau, phiền não đã dứt, đã thành tựu Nhất thiết chủng trí, lại
có thể khiến cho chúng sanh thảy đều được đầy đủ hạnh Bố thí.
“Người thọ thí lần trước, thật là chúng sanh. Người thọ thí lần sau, là bậc
Thiên Trung Thiên.
“Người thọ thí lần trước, đó là cái thân sống nhờ ăn uống, cái thân phiền não,
cái thân còn phải trở lại cõi này, cái thân vô thường. Người thọ thí lần sau,
đó là thân không phiền não, thân kim cang, là Pháp thân, là thân thường còn chẳng
mất, là thân không giới hạn.
“Như vậy, vì sao lại nói rằng hai lần thí thực ấy quả báo chẳng khác gì nhau?
“Người thọ thí lần trước chưa có đầy đủ từ hạnh Bố thí cho tới hạnh Trí tuệ; chỉ
có nhục nhãn mà thôi, chưa được Phật nhãn, thậm chí chưa được Huệ nhãn.
“Người thọ thí lần sau, đã có đầy đủ từ hạnh Bố thí cho tới hạnh Trí tuệ, lại
được đầy đủ từ Huệ nhãn cho chí Phật nhãn.
“Như vậy, vì sao nói rằng hai lần thí thực ấy quả báo chẳng khác gì nhau?
“Bạch Thế Tôn! Người thọ thí lần đầu, thọ nhận rồi thì cho vào miệng mà ăn, thức
ăn vào bụng thì tiêu hóa, nhờ đó mới được thọ mạng, sắc tướng, sức lực, an lạc,
biện tài vô ngại.
“Người thọ thí lần sau, chẳng ăn, chẳng tiêu, cũng chẳng nhân đó mà được năm kết
quả trên.
“Như vậy, vì sao nói rằng hai lần thí thực ấy quả báo chẳng khác gì nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Từ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, Như Lai không hề
có cái thân nuôi sống bằng thức ăn, cái thân phiền não; không có thân phải trở
lại cõi này. [Như Lai thật chỉ có] thân thường tồn, thân Pháp, thân kim cang.
“Thiện nam tử! Người chưa thấy tánh Phật nên thân ấy gọi là thân phiền não, là
thân sống nhờ ăn uống, là thân phải trở lại cõi này. Bấy giờ, khi Bồ Tát [sắp
thành đạo], ăn uống xong bèn nhập Tam-muội Kim cang. Thức ăn ấy tiêu hóa rồi, Bồ
Tát liền thấy tánh Phật, chứng quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Vì vậy, ta nói rằng quả báo của hai lần thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát phá bốn thứ ma, nay vào Niết-bàn cũng phá bốn thứ ma. Vì vậy
cho nên ta nói rằng quả báo của hai lần thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát tuy chưa thuyết rộng mười hai bộ kinh, nhưng trước đó đã
thông đạt rồi; nay sắp vào Niết-bàn, sẽ rộng vì tất cả chúng sanh mà phân biệt
diễn thuyết mười hai bộ kinh. Vì vậy cho nên ta nói rằng quả báo của hai lần
thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Thiện nam tử! Từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thân Như Lai đã chẳng hề dùng các
món ăn thức uống. Vì hàng Thanh văn nên mới nói rằng: Trước kia ta có thọ món
cháo sữa của hai cô chăn bò là Nan-đà và Nan-đà-ba-la cúng dường, sau đó chứng
quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thật ra, ta chẳng hề ăn. Hôm nay, ta lại vì
đại chúng trong hội này mà thọ nhận sự cúng dường lần cuối cùng của ông, thật
ra cũng chẳng hề ăn.”
Lúc ấy, đại chúng nghe đức Phật dạy rằng ngài vì khắp cả đại hội nên thọ nhận bữa
cúng dường cuối cùng của Thuần-đà, đều lấy làm vui mừng, phấn chấn, cùng cất tiếng
khen rằng:
“Lành thay, lành thay! Ít có ai được như ông Thuần-đà! Tên ông đặt như vậy, thật
là xứng đáng. Hai chữ “thuần-đà” có nghĩa là “hiểu được nghĩa lý vi diệu”. Nay
ông đã kiến lập được nghĩa lớn như vậy, cho nên y theo chỗ thật, tùy nghĩa mà đặt
tên, gọi là Thuần-đà.
“Ông nay ở đời hiện tại được danh lợi lớn, đức nguyện đều đầy đủ. Lạ thay Thuần-đà!
Ông sanh ra ở cõi người, lại được điều lợi ích cao quý nhất, khó được nhất!
“Lành thay Thuần-đà! Như hoa ưu-đàm ít có ở thế gian. Phật xuất hiện ở thế
gian, lại càng khó gặp hơn. Gặp Phật rồi đem lòng tin và nghe Pháp, lại càng
khó hơn nữa. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn, lại được bày biện lễ vật cúng dường lần
cuối cùng như thế này, việc ấy lại là khó hơn cả.
“Đáng kính thay Thuần-đà! Đáng kính thay Thuần-đà! Nay hạnh bố thí của ông đã
được đầy đủ như trăng thu đêm rằm, đã trong sáng tròn đầy lại không bị mây che,
mọi người đều chiêm ngưỡng. Ông cũng như thế, tất cả chúng tôi đều chiêm ngưỡng
ông. Phật thọ nhận lễ cúng dường cuối cùng của ông rồi, sẽ làm cho hạnh bố thí
của ông được đầy đủ. Đáng kính thay Thuần-đà! Vì vậy nên chúng tôi nói rằng ông
như vầng trăng tròn đầy, mọi người đều chiêm ngưỡng. Đáng kính thay Thuần-đà.
Tuy ông thọ thân người, nhưng tâm ông như tâm Phật. Thuần-đà! Hôm nay ông thật
là con Phật, như La-hầu-la chẳng khác.
Lúc ấy, đại chúng liền đọc kệ rằng:
Ông tuy sanh cõi người,
Đã vượt trời Tha hóa.
Chúng tôi toàn đại chúng,
Cùng cúi đầu cầu thỉnh.
Bậc Nhân trung Tối thắng,
Nay sắp nhập Niết-bàn.
Ông nên thương chúng tôi,
Mau mau cầu thỉnh Phật:
Trụ lâu chốn thế gian,
Lợi ích vô lượng chúng.
Thuyết giảng pháp vô thượng,
Pháp bậc trí ngợi khen.
Nếu ông không thỉnh Phật,
Mạng chúng tôi chẳng còn!
Nên mong ông tức thời:
Đảnh lễ bậc Điều ngự.
Lúc ấy, Thuần-đà hết sức vui mừng phấn chấn. Ví như có một người kia, cha mẹ đã
chết rồi bỗng nhiên sống lại, lấy làm vui sướng. Sự vui sướng của Thuần-đà cũng
giống như vậy. Ông liền đứng dậy lễ Phật và tụng kệ rằng:
Khoái thay được lợi mình,
Khéo sanh ra làm người,
Dẹp trừ tham, sân, si,
Rời cả ba nẻo dữ!
Khoái thay được lợi mình,
Gặp được kho vàng ngọc,
Gặp được đấng Điều ngự,
Chẳng sợ đọa súc sanh!
Phật như hoa ưu-đàm,
Khó gặp; gặp khó tin.
Gặp rồi, trồng thiện căn,
Dứt tuyệt khổ ngạ quỷ.
Lại trừ được mối lo,
Sanh loài A-tu-la.
Phật muôn đời khó gặp,
Như hạt cải đầu kim.
Con được tròn hạnh thí,
Thoát sanh tử, trời người.
Phật chẳng nhiễm việc đời,
Như hoa sen ở nước.
Dứt luôn cảnh Hữu đỉnh,
Vĩnh viễn vượt sanh tử.
Sanh làm người là khó,
Gặp Phật lại càng khó,
Dường như giữa biển cả,
Rùa mù gặp bộng nổi!
Con nay hiến cơm này,
Nguyện được quả cao nhất.
Hết thảy dây phiền não,
Chặt đứt chẳng khó khăn.
Nay con ở chốn này,
Chẳng cầu thân trời, người.
Ví dầu sanh cảnh ấy,
Lòng chẳng lấy làm vui.
Phật nhận lễ con dâng,
Vui sướng không kể xiết!
Con như hoa y-lan,
Được cúng dường Như Lai,
Như tỏa hương chiên-đàn,
Nên con rất vui mừng.
Nay con được hiện báo,
Đến nơi cao đẹp nhất.
Chư thiên trời Thích, Phạm,
Sẽ đến cúng dường con.
Hết thảy khắp thế gian,
Ắt sanh khổ não lớn,
Vì biết Phật Thế Tôn,
Đang muốn nhập Niết-bàn.
Cùng lớn tiếng thưa rằng:
“Thế gian không Điều ngự!
Xin đừng bỏ chúng sanh,
Xin thương như con một.”
Như Lai giữa chúng tăng,
Diễn thuyết Pháp vô thượng,
Như núi báu Tu-di,
Vững vàng nơi biển cả.
Trí tuệ Phật khéo trừ,
Lòng tăm tối chúng con,
Ví như giữa hư không,
Vén mây, trời trong sáng.
Như Lai khéo dẹp trừ,
Hết thảy mọi phiền não,
Ví như mặt trời hiện,
Mây tan, ánh sáng chiếu.
Hết thảy mọi chúng sanh,
Nghẹn ngào, khóc sưng mặt.
Thảy bị khổ luân hồi,
Làm trôi dạt khắp nơi.
Vì vậy, nguyện Thế Tôn,
Tăng lòng tin của chúng,
Vì cứu khổ sanh tử,
Trụ lâu nơi thế gian.
Phật bảo Thuần-đà: “Đúng vậy, đúng vậy! Như ông đã nói, khó gặp Phật ra đời,
cũng như hoa ưu-đàm. Gặp Phật rồi phát sanh lòng tin, lại càng khó hơn. Đến khi
Phật sắp nhập Niết-bàn, được cúng dường Phật bữa cơm cuối cùng, nhân đó đầy đủ
hạnh bố thí, việc ấy lại càng rất khó.
“Thuần-đà! Nay ông chớ nên sầu khổ thái quá. Nên sanh lòng phấn chấn, mừng vui
vì được sự may mắn, hạnh phúc lớn, được cúng dường Như Lai lần cuối cùng, thành
tựu trọn vẹn hạnh bố thí. Không nên thỉnh Phật trụ thế lâu dài. Nay ông nên
quán xét các cảnh giới của Phật đều là vô thường, tánh và tướng của các hành lại
cũng vô thường như vậy.”
Phật vì Thuần-đà thuyết kệ:
Hết thảy khắp thế gian,
Có sanh đều có tử.
Mạng sống dù kéo dài,
Cũng có ngày phải dứt.
Có thạnh ắt có suy,
Hợp nhau rồi phải lìa.
Tuổi thanh xuân rất ngắn,
Khỏe mạnh rồi ốm đau.
Mạng sống rồi phải hết,
Không có pháp nào thường.
Các vua được tự tại,
Thế lực chẳng ai bằng,
Hết thảy đều dời đổi,
Mạng sống cũng chẳng khác.
Vòng khổ não khôn cùng,
Lưu chuyển không ngừng nghỉ.
Ba cõi đều vô thường,
Các cảnh chẳng gì vui.
Thấy rõ tánh thật tướng:
Hết thảy đều rỗng không.
Pháp hư hoại lưu chuyển,
Thường lo âu, hoạn nạn,
Sợ hãi và tội lỗi,
Khổ già, suy, bệnh, chết.
Hết thảy đều không cùng.
Hư hoại, kẻ oán hại,
Phiền não buộc trói chặt,
Như tằm kia trong kén.
Những người có trí tuệ,
Ai ưa thích chốn này?
Thân này, muôn khổ họp,
Hết thảy đều nhớp nhơ,
Ung nhọt, trói, chèn ép,
Xét cùng, không ích lợi.
Cho đến thân chư thiên,
Cũng đều như vậy cả.
Tham dục đều vô thường,
Nên ta chẳng tham chấp.
Lìa dục, khéo suy xét,
Rõ được lý chân thật,
Đoạn dứt cả Ba cõi.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Sang đến tận bờ kia,
Đã vượt hết các khổ.
Nay chỉ thuần an vui,
Nhiệm mầu hơn tất cả.
Vì nhân duyên như vậy,
Vượt ngoài mọi hí luận.
Vĩnh viễn dứt trói buộc.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Không còn: già, bệnh, chết,
Đời sống không thể dứt.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Như lửa lớn vụt tắt.
Thuần-đà, ông chẳng nên,
Suy lường nghĩa Như Lai.
Nên quán tánh Như Lai,
Như núi lớn Tu-di.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Thọ niềm vui bậc nhất.
Chư Phật đều như vậy,
Chẳng nên than khóc nữa.
Lúc ấy, Thuần-đà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Phải vậy, phải vậy. Đúng như lời Phật
dạy. Trí tuệ của con nay rất nông cạn, dường như loài muỗi mòng, làm sao bàn
xét nổi ý nghĩa sâu kín Niết-bàn của Như Lai?
“Thế Tôn! Nay con được đứng cùng với các vị Đại Bồ Tát, là hàng đại long tượng
trong chúng tăng, đã dứt sạch mọi phiền não, là những vị như ngài Văn-thù-sư-lợi
Pháp vương tử đây.
“Thế Tôn! Ví như người còn trẻ, vừa mới xuất gia, tuy chưa thọ đủ giới nhưng
cũng được dự vào hàng Tăng chúng. Con nay cũng vậy, nhờ sức thần của Phật và Bồ
Tát mới được đứng vào hàng Đại Bồ Tát. Vì vậy mà nay con muốn thỉnh cầu Như Lai
trụ lâu ở thế gian, đừng nhập Niết-bàn. Ví như người quá đói, hoàn toàn không
có gì để nôn ra. Nguyện cho đức Thế Tôn cũng vậy, thường trụ thế gian, không [xả
bỏ mà] nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương tử bảo Thuần-đà rằng: “Thuần-đà! Nay ông chẳng
nên nói ra lời như thế, muốn cho đức Như Lai thường trụ ở thế gian không nhập
Niết-bàn, giống như người đói không có gì để nôn ra. Nay ông nên quán tánh và
tướng của các hành. Quán các hành như vậy sẽ được đầy đủ phép Tam-muội Không.
Muốn cầu Chánh pháp, phải học như thế.”
Thuần-đà hỏi: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như Lai là bậc cao quý hơn hết trong
khắp cõi trời người. Bậc Như Lai như thế, há có thể là các hành hay sao? Nếu là
các hành, tức là pháp sanh diệt. Ví như bọt nước hiện đó, tan đó, những sự đến
đi, dời chuyển, khác nào như bánh xe quay. Tất cả các hành lại cũng như vậy.
Con nghe nói rằng đời sống của chư thiên rất lâu dài. Tại sao đời sống của đức
Thế Tôn, vị cao quý nhất trong chư thiên lại ngắn ngủi chẳng đầy trăm năm?
“Ví như người đứng đầu một thành ấp, do thế lực nên muốn làm gì tùy ý. Người ấy
nhờ thế lực mà có thể chế ngự người khác. Về sau, đến khi hết phước người ấy
thành kẻ nghèo hèn, bị người khinh miệt và bị kẻ khác sai khiến. Vì sao vậy? Vì
đã mất hết thế lực. Đức Thế Tôn cũng vậy, như ngài nói là [Như Lai] đồng với
các hành, tức chẳng thể xưng là bậc cao quý nhất trong chư thiên. Vì sao vậy?
Các hành là pháp sanh tử. Thưa ngài Văn-thù! Vì vậy không nên quán xét đức Như
Lai đồng với các hành.
“Lại nữa, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài bảo rằng Như Lai đồng với các hành, đó
là rõ biết mà nói hay không rõ biết mà nói? Nếu Như Lai đồng với các hành, tất
không thể nói là bậc Tự tại Pháp vương cao quý nhất trong chư thiên, trong Ba
cõi.
“Ví như một vị vua kia có một người đại lực sĩ, sức địch với ngàn người, rốt
cùng chẳng ai có thể thắng được người ấy. Vì vậy nên xưng lực sĩ ấy là người địch
nổi ngàn người. Người lực sĩ như thế được vua yêu mến, tự nhiên ban cho tước lộc,
phong thưởng. Vì vậy được xưng là địch nổi ngàn người. [Thật ra] sức của người
lực sĩ ấy chưa chắc địch nổi [sức của] ngàn người, chỉ vì biết dùng đủ các kỹ
thuật, thế võ hay nên thắng được ngàn người. Vì vậy được xưng là địch nổi ngàn
người.
Như Lai cũng thế, hàng phục được ma phiền não, ma ấm, ma trời và ma chết, cho
nên Như Lai mới được xưng là bậc đáng tôn kính nhất trong Ba cõi, như người lực
sĩ kia, một người địch nổi ngàn người. Vì nhân duyên ấy, ngài thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức chân thật, cho nên được xưng là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến
tri.
“Văn-thù-sư-lợi! Nay ngài không nên nghĩ tưởng phân biệt, cho rằng pháp Như Lai
đồng với các hành.
“Ví như người trưởng giả rất giàu có, sanh ra đứa con. Thầy tướng đến xem trẻ ấy,
nói rằng nó có tướng chết yểu. Cha mẹ nghe vậy, biết rằng nó không thể đảm nhiệm
việc nối dõi tông môn, cho nên chẳng yêu trọng, coi như rơm cỏ. Nếu là kẻ yểu mạng
thì chẳng được các vị sa-môn, bà-la-môn, hết thảy mọi người kính trọng. Nếu cho
rằng Như Lai đồng với các hành thì tất cả chúng sanh trong thế gian, khắp cõi
trời người đều chẳng phụng kính Ngài. Và pháp chân thật chẳng biến đổi mà Như
Lai thuyết ra cũng chẳng ai thọ trì.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Bởi vậy, không nên nói rằng Như Lai đồng với tất cả
các hành.
“Lại nữa, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví như một cô gái nghèo kia, không có nhà cửa,
không ai cứu giúp, lại thêm bị bức bách vì bệnh khổ, đói khát. Cô lang thang khắp
nơi xin ăn, dừng chân tại một quán trọ, ngụ ở đó và sanh được một đứa con. Chủ
quán trọ bèn đuổi cô đi. Vừa sanh con chưa được bao lâu, cô phải ôm con, muốn đi
sang nước khác. Trong khi đi đường, cô gặp phải gió mưa dữ dội, chịu lạnh, chịu
khổ, lại bị nhiều muỗi mòng, ong độc, trùng độc cắn chích... Khi qua sông Hằng,
cô vừa lội vừa ôm con. Sức nước chảy mạnh cuốn trôi, nhưng cô cũng chẳng bỏ
con. Thế rồi mẹ con đều chết chìm. Cô gái ấy, nhờ công đức của niệm lành [hết
lòng thương con] nên sau khi mạng chung được sanh lên cõi Phạm thiên.
“Văn-thù-sư-lợi! Nếu có vị thiện nam nào muốn ủng hộ Chánh pháp, chẳng nên nói
rằng Như Lai đồng với các hành hoặc chẳng đồng với các hành. Chỉ nên tự trách rằng:
Hiện nay mình ngu si, chẳng có con mắt trí tuệ. Chánh pháp của Như Lai chẳng thể
nghĩ bàn, vì vậy chẳng nên tuyên thuyết rằng Như Lai nhất định là hữu vi hoặc
nhất định là vô vi.
Như người có chánh kiến nên nói rằng Như Lai nhất định là vô vi. Vì sao vậy?
Ngài vì chúng sanh, sanh ra các pháp lành, sanh lòng thương xót. Cũng như cô
gái nghèo kia, ở dưới sông Hằng, vì lòng thương con nên liều bỏ cả thân mạng
mình.
“Thiện nam tử! Bậc Bồ Tát hộ pháp cũng nên làm như vậy. Thà bỏ thân mạng mình,
chứ đừng nói rằng Như Lai đồng với hữu vi. Nên nói rằng Như Lai đồng với vô vi.
Nhờ nói rằng Như Lai đồng với vô vi nên đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
cũng như cô gái kia được sanh lên cõi Phạm thiên. Vì sao vậy? Vì là hộ trì
Chánh pháp. Thế nào là hộ trì Chánh pháp? Là nói rằng: Như Lai đồng với vô vi.
“Thiện nam tử! Người như vậy dù chẳng cầu giải thoát cũng tự nhiên được giải
thoát. Như cô gái nghèo kia chẳng cầu mà tự nhiên cũng được lên cõi Phạm thiên.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví như có người đi xa, giữa đường mỏi mệt, bèn vào
nghỉ nhờ nơi nhà người khác. Đang khi ngủ, nhà ấy bỗng nhiên phát hỏa dữ dội.
Người ấy bừng tỉnh lấy làm kinh sợ, nghĩ rằng: Hôm nay chắc chắn mình phải chết.
Người ấy vì lòng hổ thẹn nên mặc quần áo che kín thân [trước lúc chết]. Sau đó
mạng chung liền sanh lên cõi trời Đao-lợi. Từ đó về sau, sau 80 lần tái sanh liền
được sanh làm vua trời Đại phạm. Trải qua trăm ngàn đời lại được sanh làm Chuyển
luân vương trong loài người, không hề sanh trở lại trong ba đường dữ, cứ thường
xoay chuyển sanh về những nơi an lạc. Văn-thù-sư-lợi! Vì lẽ ấy nên những vị thiện
nam có lòng hổ thẹn, chẳng nên quán xét rằng Như Lai đồng với các hành.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Những kẻ ngoại đạo tà kiến có thể nói rằng Như Lai đồng
với hữu vi, còn những tỳ-kheo trì giới không nên nói như vậy. Chẳng nên ở chỗ
Như Lai, phát sanh tư tưởng hữu vi. Như nói rằng: ‘Như Lai là hữu vi’, đó tức
là nói điều sai trái. Nên biết rằng kẻ ấy khi chết sẽ vào địa ngục, xem địa ngục
như nhà ở của mình.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai chân thật là pháp vô vi, chẳng nên nói
đó là pháp hữu vi. Từ nay về sau, trong cõi sanh tử, ngài nên bỏ sự vô trí, cầu
lấy chánh trí, nên biết rằng Như Lai tức là vô vi. Như ai thường quán xét Như Lai
như vậy, ắt sẽ được đầy đủ 32 tướng tốt, nhanh chóng thành tựu A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Lúc ấy, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi ngợi khen Thuần-đà: “Lành thay, lành thay!
Thiện nam tử! Nay ông đã tạo được nhân duyên trường thọ, có thể biết được rằng
Như Lai là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi, là pháp vô vi. Như vậy, nay
ông đã khéo che khuất tướng hữu vi của Như Lai. Ví như người bị nạn lửa kia, vì
lòng hổ thẹn nên lấy áo che thân [trước khi chết]. Nhờ lòng lành ấy được sanh
lên cõi trời Đao-lợi, rồi sanh làm Phạm vương, Chuyển luân Thánh vương, chẳng đọa
các đường dữ, thường được an lạc. Nay ông cũng vậy, khéo che khuất tướng hữu vi
của Như Lai. Trong đời vị lai, ông chắc chắn sẽ được ba mươi hai tướng tốt, tám
mươi vẻ đẹp, mười tám pháp không cùng chung với hai thừa, đời sống dài vô hạn,
chẳng ở nơi sanh tử, thường thọ hưởng an lạc, chẳng bao lâu nữa, ông sẽ thành bậc
Ứng cúng, Chánh biến tri.
“Thuần-đà! Để sau rồi Như Lai sẽ tự ngài thuyết rộng. Nay ông với tôi, chúng ta
đều nên che khuất tướng hữu vi của Như Lai. Thôi hãy gác chuyện hữu vi, vô vi lại,
nay ông hãy tùy thời, mau cúng dường cơm nước. Bữa cúng dường hôm nay, công đức
cao trổi nhất. Như có những tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, từ xa đến
đây cực nhọc, ông nên đem những món thanh tịnh mà cung cấp cho phải lúc. Hãy
mau cúng dường như vậy đi, rồi ông sẽ được đầy đủ hạnh bố thí, là hạt giống căn
bản.
“Thuần-đà! Nếu cúng dường Phật cùng chư tăng lần cuối, dù nhiều dù ít, dù đủ
hay chẳng đủ, phải mau mau cho kịp giờ, chính là lúc Như Lai sắp nhập Niết-bàn.”
Thuần-đà đáp: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Sao nay ngài lại tham vì bữa ăn này mà
nói rằng dù nhiều dù ít, dù đủ hay chẳng đủ, giục con phải cúng dường ngay bây
giờ?
“Văn-thù-sư-lợi! Ngày xưa, sáu năm khổ hạnh Như Lai còn chịu đựng nổi, huống
chi ngày nay chỉ chờ trong khoảnh khắc?
“Văn-thù-sư-lợi! Nay ngài thật cho rằng đức Như Lai Chánh giác có thọ dụng bữa
cơm này hay sao? Nhưng con biết chắc rằng thân Như Lai là thân Pháp, chẳng phải
là thân sống nhờ ăn uống.”
Lúc ấy, Phật bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời Thuần-đà.
Lành thay, Thuần-đà! Ông đã thành tựu đại trí vi diệu, khéo thâm nhập kinh điển
Đại thừa rất sâu xa.”
Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà: “Ông nói rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai tức
là trường thọ. Nếu ông rõ biết được vậy, chính là chỗ Phật rất hài lòng.”
Thuần-đà đáp: “Chẳng những Như Lai hài lòng với riêng con, ngài cũng hài lòng với
tất cả chúng sanh.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Vậy đối với ông cũng như tôi và tất cả chúng sanh, Như Lai
đều hài lòng.”
Thuần-đà đáp: “Xin ngài chớ nên nói rằng ‘Như Lai hài lòng’. Sự hài lòng chính
là tư tưởng điên đảo. Nếu có tư tưởng điên đảo tức là có sanh tử. Có sanh tử tức
là pháp hữu vi. Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Vì vậy không nên nói rằng Như Lai là
hữu vi. Nếu nói Như Lai là hữu vi thì cả con và ngài đều thực hành theo pháp
điên đảo!
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như Lai không hề có tư tưởng ái luyến. Sự ái luyến
cũng giống như con bò mẹ nhớ nghĩ ái luyến với con bò con. Trong khi đói khát
đi tìm nước uống và cỏ ăn, nhưng dù đủ hay chưa đủ, bỗng nhớ tới con liền chạy
về. Chư Phật Thế Tôn không hề có sự nhớ nghĩ ái luyến như vậy, luôn xem tất cả
chúng sanh bình đẳng như nhau, cũng như La-hầu-la là con một của ngài. Niệm tưởng
[từ bi bình đẳng] như vậy chính là cảnh giới trí tuệ của chư Phật.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví như một vị vua, được người đánh xe đưa đi bằng xe
bốn ngựa. Như muốn dùng xe lừa để chạy theo cho kịp, thật không thể được. Nay
ngài với con cũng vậy. Như muốn thấu hết lẽ sâu kín và ẩn mật của Như Lai, thật
không thể được!
“Văn-thù-sư-lợi! Ví như loài chim cánh vàng bay lên hư không, cao đến vô số
do-tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài sống dưới nước như cá, ba ba, trạnh,
đà, rùa, rồng..., lại cũng thấy cả hình chiếu của mình, như người ta nhìn vào tấm
gương sáng mà thấy được các màu sắc, hình ảnh. Kẻ phàm phu trí tuệ nhỏ hẹp
không thể đo lường chỗ thấy như thế. Ngài và tôi cũng vậy, chúng ta không thể
đo lường trí tuệ Như Lai.”
Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà rằng: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông
nói. Chẳng phải ta không thấu đạt việc ấy, nhưng vì ta muốn đem việc của hàng Bồ
Tát mà thử ông đó thôi.”
Lúc ấy, từ nơi khoảng giữa hai lông mày, Thế Tôn phóng ra đủ mọi loại hào
quang. Những hào quang ấy sáng rực, chiếu lên thân ngài Văn-thù. Thấy hào quang
rồi, ngài Văn-thù-sư-lợi biết rõ duyên cớ việc ấy liền bảo Thuần-đà: “Nay Như
Lai hiện ra tướng lành này tức là còn chẳng bao lâu sẽ nhập Niết-bàn. Vậy trước
hết, ông hãy chuẩn bị lễ cúng dường lần cuối cùng đi, để kịp giờ phụng hiến Phật
và đại chúng.
“Thuần-đà! Ông nên biết rằng Như Lai phóng ra đủ mọi loại hào quang, chẳng phải
là không có duyên cớ.”
Thuần-đà nghe xong, lặng thinh chẳng tỏ ý gì cả.
Phật dạy Thuần-đà rằng: “Việc ông cúng dường Phật và đại chúng, nay đã đúng lúc
rồi. Ngay bây giờ đây, Như Lai sắp nhập Niết-bàn.”
Phật lại dạy như vậy lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Lúc ấy, nghe Phật dạy như vậy rồi, Thuần-đà cất tiếng kêu khóc nghẹn ngào rằng:
“Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sắp trống rỗng!”
Rồi ông bạch với đại chúng: “Tất cả chúng ta hôm nay hãy gieo mình phủ phục xuống
đất, đồng thanh khuyến thỉnh đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Thuần-đà [và đại chúng: “Các ông] chớ nên kêu khóc lớn
tiếng chỉ khiến lòng buồn khổ yếu ớt. [Các ông] nên quán thân này [không rắn chắc],
chỉ như thân cây chuối; [không thật có], chỉ như [ảo ảnh] khi trời nắng nóng,
[không bền lâu], chỉ như bọt nước hiện; lại chỉ như trò ảo thuật, như thành
càn-thát-bà, như món đồ gốm chưa nung, như lằn điện chớp, như hình vẽ lên mặt
nước, như kẻ tử tù sắp chết, như trái cây chín muồi [sắp rụng], như miếng thịt
cắt ra [sắp hư thối], như sợi chỉ dệt đã đến cuối khổ vải [không còn kéo dài được
nữa]; [không có bản ngã,] chỉ như cái chày giở lên, giã xuống.
“[Các ông] nên quán các hành như thức ăn có độc [và quán] các pháp hữu vi đều
có nhiều lỗi lầm, tai hại.”
Liền đó, Thuần-đà lại bạch Phật: “Như Lai không muốn trụ lâu ở thế gian, con
làm sao có thể không than khóc? Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sắp trống rỗng!
Nguyện đức Thế Tôn vì lòng thương xót chúng con và hết thảy chúng sanh nên trụ
lâu ở thế gian, đừng nhập Niết-bàn.”
Phật dạy Thuần-đà: “Nay ông không nên nói rằng: ‘Vì lòng thương xót chúng con
nên trụ lâu ở thế.’ Ta chính vì thương xót ông và tất cả chúng sanh nên nay mới
nhập Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì pháp của chư Phật là như thế; các pháp hữu vi
cũng vậy. Vì thế chư Phật từng thuyết kệ rằng:
Các pháp hữu vi,
Vốn tánh vô thường,
Sanh rồi chẳng trụ.
Tịch diệt là vui.
“Thuần-đà! Ông nên quán xét rằng: Tất cả các hành cùng với các pháp đều là vô
ngã, vô thường, chẳng trụ. Thân này thường có vô số lỗi lầm tai hại, mong manh
như bọt nước. Vì vậy, nay ông chẳng nên than khóc.”
Lúc ấy, Thuần-đà bạch Phật: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời Phật dạy. Tuy biết
rằng Như Lai phương tiện thị hiện Niết-bàn, nhưng con chẳng thể ngăn lòng sầu
não. Nay con suy xét kỹ, lại sanh lòng vui mừng.”
Phật khen Thuần-đà: “Lành thay, lành thay! Ông đã biết được Như Lai thị hiện
[hình tướng] giống như chúng sanh, phương tiện nhập Niết-bàn.
“Thuần-đà! Ông hãy nghe đây. Như chim ta-la-ta, trong mấy tháng mùa xuân đều tụ
họp tại ao A-nậu-đạt. Chư Phật cũng thế, đều đến chỗ [Niết-bàn] này.
“Thuần-đà! Nay ông không nên nghĩ rằng đời sống chư Phật là dài lâu hay ngắn ngủi.
Tất cả các pháp đều như tướng ảo hóa. Khi ở trong [sự ảo hóa] đó, Như Lai dùng
sức phương tiện nên không bị vướng nhiễm. Vì sao vậy? Vì Pháp của chư Phật là
như thế.
“Thuần-đà! Nay ta thọ nhận sự dâng hiến cúng dường của ông là muốn giúp ông vượt
thoát mọi cảnh giới hiện hữu, ra khỏi dòng sanh tử. Trong hàng trời, người, những
ai có mặt tại lần cúng dường cuối cùng này đều sẽ được quả báo không lay chuyển,
thường hưởng sự an vui. Vì sao vậy? Vì Như Lai là ruộng phước của chúng sanh. Nếu
ông cũng muốn vì chúng sanh mà làm ruộng phước thì hãy mau chuẩn bị các thức
cúng dường, đừng chần chờ nữa.”
Lúc ấy, Thuần-đà vì [nghĩ đến] sự độ thoát cho các chúng sanh nên cúi đầu gạt lệ
bạch Phật: “Lành thay, bạch Thế Tôn! Như con có thể trở thành ruộng phước của
chúng sanh, ắt con có thể biết được Như Lai có vào Niết-bàn hay không vào Niết-bàn.
Hiện nay, chúng con và hàng Thanh văn, Duyên giác đều chỉ có trí tuệ nhỏ nhoi
như loài muỗi, loài kiến... thật chẳng thể lượng xét nổi Như Lai có vào Niết-bàn
hay không vào Niết-bàn.”
Lúc ấy, Thuần-đà cùng với quyến thuộc của ông, thảy đều ưu sầu, khóc lóc, đi
quanh Như Lai, đốt hương, rảy hoa, hết lòng kính phụng; rồi cùng với Bồ Tát
Văn-thù từ tòa ngồi đứng dậy, đi lo chuẩn bị các thức cúng dường.
Các vị đi chưa bao lâu thì mặt đất nơi ấy bỗng xảy ra sáu cách chấn động. Lên đến
cõi Phạm thiên cũng chấn động như vậy.
Nói về mặt đất chấn động, có hai trường hợp. Một là địa động, hai là đại địa động.
Chấn động nhỏ gọi là địa động, chấn động lớn gọi là đại địa động. Chấn động
phát ra tiếng nhỏ gọi là địa động, chấn động phát ra tiếng lớn gọi là đại địa động.
Chỉ có đất động mà thôi gọi là địa động. Núi, sông, cây cối, nước ở biển cả, tất
cả đều động, gọi là đại địa động. Chấn động một hướng gọi là địa động, chấn động
xoay quanh và lần ra khắp các nơi đều động gọi là đại địa động. Chỉ chấn động mặt
đất gọi là địa động, cơn chấn động làm cho trong lòng chúng sanh đều xúc động gọi
là đại địa động.
Lúc ban sơ, Bồ Tát từ cung trời Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề [xảy ra chấn động
lớn] gọi là đại địa động. Khi đản sanh, lúc xuất gia, khi thành Phật, lúc chuyển
pháp luân và khi nhập Niết-bàn [đều có chấn động lớn], gọi là đại địa động. Hôm
nay Như Lai sắp nhập Niết-bàn, cho nên ở cõi đất này có sự chấn động lớn như vậy.
Khi ấy, các hàng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-già, loài người và loài phi nhân nghe biết việc ấy rồi đều thấy rùng
mình rởn ốc, cùng khóc kể bi ai và đọc kệ rằng:
Cúi lạy bậc Điều ngự!
Nay chúng con khuyến thỉnh.
Rời xa đấng Pháp vương,
Chẳng còn ai cứu hộ.
Nay thấy Phật Niết-bàn,
Chúng con chìm biển khổ,
Buồn lo và đau đớn,
Như bò con mất mẹ.
Bần cùng, không ai cứu,
Như người bệnh khốn nguy,
Không thầy thuốc chỉ dẫn,
Ăn đồ chẳng nên ăn.
Bệnh phiền não chúng sanh,
Thường bị tà kiến hại,
Rời xa đấng Y vương,
Dùng ngay loại thuốc độc.
Vì vậy Phật Thế Tôn,
Chẳng nên bỏ chúng con.
Như nước không vua trị,
Nhân dân đều nghèo đói.
Chúng con mất phúc lành,
Mất vị pháp, cũng vậy.
Nay nghe Phật Niết-bàn,
Chúng con lòng rối loạn.
Như đất đai chấn động,
Làm tán loạn các phương.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Mặt trời Phật sa xuống,
Nước Pháp ắt cạn khô,
Chúng con chắc sẽ chết.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Chúng sanh rất khổ não.
Như con vị trưởng giả,
Mới mất mẹ và cha.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Như cha mẹ chẳng về.
Chúng con và chúng sanh,
Đều không người cứu hộ.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Cho đến loài súc sanh,
Hết thảy đều sầu khổ,
Khổ não đốt tâm can.
Chúng con hôm nay đây,
Làm sao không sầu não?
Như Lai xả bỏ hết,
Như khạc bỏ đàm dãi.
Như mặt trời mới mọc,
Ánh sáng rất huy hoàng,
Tự chiếu sáng trên không,
Lại trừ hết tăm tối.
Hào quang thần thông Phật,
Trừ được khổ chúng con.
Phật ở trong đại chúng,
Như núi lớn Tu-di.
“Thế Tôn! Ví như có vị quốc vương sanh được nhiều con, thảy đều có tướng mạo
đoan chánh. Vua thường thương yêu con, trước dạy các nghề tinh xảo cho được
thông thạo, rồi sau lại giao cho bọn đao phủ giết đi.
“Bạch Thế Tôn! Nay chúng con là con của đấng Pháp vương, nhờ ơn Phật dạy dỗ, đã
có đủ Chánh kiến, xin Phật đừng bỏ chúng con. Nếu ngài buông bỏ, thì chúng con
có khác nào những đứa con [bị đưa đi giết bỏ] của vị vua kia! Nguyện Phật trụ
thế lâu dài, đừng vào Niết-bàn.
“Thế Tôn! Ví như có người học thông thạo các bộ luận, nhưng đối với các bộ luận
ấy lại sanh tâm sợ sệt, [thật không có lý]. Như Lai cũng thế, ngài đã thông đạt
các pháp [có lẽ nào] đối với các pháp lại sanh tâm sợ sệt? Nếu đức Như Lai trụ
thế dài lâu, thuyết dạy Chánh pháp cam lộ khiến cho ai nấy đều được đầy đủ thì
chúng sanh chẳng còn phải lo sợ đọa vào địa ngục.
“Bạch Thế Tôn! Ví như có người mới tập sự [do sai sót nên] bị quan bắt giam vào
ngục. Có người hỏi: “Ông thấy thế nào?” Đáp rằng: “Nay tôi thấy hết sức lo lắng
khổ sở.” Nếu người ấy được ra [khỏi cảnh giam cầm] ắt sẽ rất an vui. Như Lai
cũng thế, ngài vì chúng con tu hành mọi hạnh khổ, nay chúng con chưa được ra khỏi
khổ não sanh tử, làm sao Như Lai có thể được hưởng an vui?
“Thế Tôn! Ví như người thầy thuốc rất giỏi, thông thạo các phương thuốc, chỉ
truyền riêng những phương thuốc bí truyền cho con mà thôi, không truyền cho những
người ngoài đến học. Như Lai cũng thế, ngài chỉ đem giáo pháp uyên áo sâu kín
nhất dạy riêng cho ngài Văn-thù, đành bỏ rơi không đoái hoài thương xót đến tất
cả chúng con.
“Như Lai đối với Chánh pháp lẽ ra không có lòng tham tiếc che giấu như người thầy
thuốc kia, chỉ dạy riêng con mình, chẳng dạy cho người ngoài đến học. Sở dĩ thầy
thuốc kia không thể truyền rộng nghề thuốc cho đời là vì còn có lòng so đo hơn
kém, nên mới tham tiếc che giấu. Trong lòng Như Lai không hề có sự so đo hơn
kém, vì sao không dạy dỗ chúng con? Nguyện Như Lai trụ thế dài lâu [giáo hóa
chúng con], đừng nhập Niết-bàn.
“Bạch Thế Tôn! Ví như có những người già, trẻ con, người bệnh cùng rời khỏi con
đường bằng phẳng thẳng tắp để đi theo con đường hiểm trở. Đường ấy thật gian
nan khó đi, họ phải chịu nhiều khổ não. Có một người lạ thấy vậy thương xót, liền
chỉ cho con đường thẳng bằng phẳng.
“Thế Tôn! Chúng con cũng giống như những người ấy. Người trẻ ví như chưa tăng
trưởng pháp thân, người già ví như phiền não nặng nề, người bệnh ví như chưa
thoát khỏi sanh tử, đường hiểm trở ví như 25 cảnh giới hiện hữu trong Ba cõi.
Nguyện đức Như Lai chỉ cho chúng con đường Chánh đạo cam lộ. Xin Như Lai trụ thế
dài lâu, đừng nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo chư tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ sầu than khóc lóc
như hạng phàm phu trong cõi trời, người. Phải chuyên cần tinh tấn, giữ tâm
chánh niệm.”
Lúc ấy, nghe lời Phật khuyên dạy, các hàng trời, người, a-tu-la đều ngưng khóc
kể, giống như người chôn cất đứa con yêu, việc mai táng đã xong liền thôi khóc
kể.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền vì đại chúng mà thuyết kệ rằng:
Các ông phải hiểu ra,
Chớ nên sầu khổ lắm.
Pháp chư Phật đều thế,
Nên chấp nhận an nhiên.
Vui hạnh không biếng nhác,
Giữ tâm thường chánh niệm.
Lìa xa điều phi pháp,
Tâm an, lòng được vui.
“Lại nữa, chư tỳ-kheo! Như có điều chi nghi hoặc, nay nên thưa hỏi. Chẳng hạn
như hỏi về những lẽ không và chẳng không; thường và vô thường; khổ và không khổ;
y theo và chẳng y theo; đi và chẳng đi; về và chẳng về; thường hằng và không
thường hằng; đoạn diệt và không đoạn diệt; chúng sanh và chẳng phải chúng sanh;
có và không; thật và chẳng thật; chân thật và không chân thật; diệt và chẳng diệt;
bí mật và chẳng bí mật; phân hai và chẳng phân hai...
“Trong tất cả các pháp như vậy, ai còn có chỗ nghi, hôm nay nên thưa hỏi. Ta sẽ
tùy thuận dứt nghi cho, lại cũng vì các ông mà giảng thuyết Chánh pháp cam lộ,
rồi sau đó mới nhập Niết-bàn.
“Này chư tỳ-kheo! Phật ra đời hiếm có, thân người là khó được. Được gặp Phật,
tin Phật lại càng rất khó. Có thể nhẫn chịu được điều khó nhẫn, lại cũng rất
khó. Thành tựu giới cấm, chẳng có chi lầm lỗi, đắc quả A-la-hán, việc ấy cũng rất
khó, như tìm vàng trong cát hay cầu được hoa ưu-đàm. Này chư tỳ-kheo! Lìa khỏi
tám nạn và được thân người là khó lắm. Các ông nay được gặp Phật, đừng để luống
qua!
“Từ thuở xa xưa Phật đã tu biết bao hạnh khổ, nay mới được phép phương tiện cao
trổi nhất như thế này. Vì các ông mà trong vô lượng kiếp xưa ta đã từng xả bỏ
thân thể, tay chân, đầu mắt, tủy não... Vậy các ông chớ nên lơ là, biếng nhác.
“Này chư tỳ-kheo! Thế nào gọi là trang nghiêm thành báu Chánh pháp? Đầy đủ hết
thảy mọi công đức, đó là trân bảo. Giới, định, huệ, đó là những tường cao, hào
sâu. Nay các ông gặp được thành quách quý báu là Phật pháp, chẳng nên nhận lấy
những vật hư giả. Ví như người chủ đoàn buôn kia, gặp được cảnh thành đầy trân
bảo, lại nhặt lấy những gạch ngói để mang về nhà! Các ông cũng thế, đã gặp được
cảnh thành quý báu, lại nhặt lấy những vật hư giả!
“Này chư tỳ-kheo! Đừng lấy tâm nhỏ nhoi mà tự cho là đầy đủ. Các ông nay tuy đã
được xuất gia, nhưng chẳng có lòng hâm mộ đối với Đại thừa! Này chư tỳ-kheo!
Các ông thân dù được mặc áo cà-sa nhuộm màu, nhưng tâm còn chưa được nhuộm pháp
Đại thừa trong sạch. Các ông tuy thực hành pháp khất thực, xin ăn trải qua nhiều
xứ, nhưng chưa từng xin món ăn Chánh pháp Đại thừa. Các ông tuy cạo bỏ râu tóc,
nhưng chưa vì Chánh pháp mà trừ bỏ mọi sự trói buộc và sai khiến.
“Này chư tỳ-kheo! Hôm nay ta sẽ đem pháp chân thật mà dạy các ông. Hiện tại Như
Lai đang ở giữa đại chúng hòa hợp này. Pháp tánh của Như Lai là chân thật,
không điên đảo. Vì vậy, các ông nên tinh tấn, duy trì tâm dũng mãnh phá trừ, dứt
sạch mọi sự trói buộc và sai khiến. Nếu đợi khi mặt trời trí tuệ có đủ mười sức
đã lặn khuất, các ông sẽ bị vô minh che lấp.
“Này chư tỳ-kheo! Ví như các loại cỏ thuốc trên khắp mặt đất, núi non đều là để
cho chúng sanh dùng. Pháp Phật cũng thế, sanh ra vị pháp cam lộ linh diệu, là
liều thuốc hay để trị mọi thứ bệnh phiền não cho chúng sanh. Nay ta sẽ làm cho
tất cả chúng sanh và Bốn chúng đệ tử của ta đều trụ yên trong tạng bí mật. Ta
cũng sẽ trụ yên trong đó mà vào Niết-bàn.
“Sao gọi là tạng bí mật? Ví như chữ Y (乊),
nếu viết ba chấm theo hàng ngang hay theo hàng dọc thì đều chẳng thành chữ Y.
Phải như ba con mắt nơi gương mặt của thần Ma-hê-thủ-la mới thành hình dạng chữ
Y. Nếu tách riêng biệt ba chấm cũng chẳng thành chữ Y.
“Như Lai cũng thế. Pháp giải thoát chẳng phải Niết-bàn. Thân Như Lai cũng chẳng
phải Niết-bàn. Đại trí tuệ Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Ba pháp ấy riêng
biệt cũng chẳng phải Niết-bàn. Nay ta vì chúng sanh, trụ yên [đầy đủ] trong ba
pháp ấy, gọi là nhập Niết-bàn, cũng như [hình dạng] chữ Y của thế gian.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo nghe Phật quyết định nhập Niết-bàn, thảy đều ưu sầu, rùng
mình rởn ốc, nước mắt đượm tròng, cúi đầu lạy sát chân Phật, đi quanh Phật vô số
vòng cung kính, rồi bạch Phật rằng:
“Thế Tôn thuyết dạy [cho chúng con] những lý vô thường, khổ, không, vô ngã thật
đáng mừng thay!
“Bạch Thế Tôn! Ví như trong dấu chân của muôn loài thì dấu chân voi là to nhất.
Phép quán tưởng vô thường cũng thế, là bậc nhất trong các phép quán tưởng. Như
ai tinh cần tu tập phép quán tưởng ấy, có thể trừ diệt tất cả tâm tham dục và
ái luyến trong Dục giới, tâm ái luyến trong cõi Sắc giới và Vô sắc giới, cũng
như trừ được vô minh, kiêu mạn cùng với những tư tưởng vô thường.
“Bạch Thế Tôn! Nếu đức Như Lai lìa bỏ những tư tưởng vô thường thì hôm nay chẳng
nên nhập Niết-bàn. Nếu chẳng lìa bỏ những tư tưởng vô thường, sao lại dạy rằng:
tu phép quán tưởng vô thường sẽ trừ dứt được sự ái luyến trong Ba cõi, trừ được
vô minh, kiêu mạn và những tư tưởng vô thường?
“Bạch Thế Tôn! Ví như người làm ruộng kia, trong mùa thu có cày sâu đất ruộng mới
trừ được cỏ dại. Phép quán tưởng vô thường này cũng vậy, trừ được tất cả tâm
tham dục và ái luyến trong Dục giới, tâm ái luyến trong cõi Sắc giới và Vô sắc
giới, cũng như trừ được vô minh, kiêu mạn cùng với những tư tưởng vô thường.
“Thế Tôn! Ví như việc cày ruộng vào mùa thu là tốt nhất, trong các dấu chân thì
dấu chân voi là lớn nhất, trong các phép quán tưởng thì phép quán tưởng vô thường
là bậc nhất.
“Bạch Thế Tôn! Ví như vị đế vương kia, biết mình sắp mạng chung bèn đại xá cho
khắp thiên hạ, thả hết những kẻ bị giam cầm trong tù ngục, rồi sau đó mới băng
hà. Hiện nay, Như Lai cũng nên như thế, độ thoát cho hết thảy chúng sanh trong
chốn tù ngục vô minh, ngu si tăm tối, rồi sau đó mới nhập Niết-bàn. Nay chúng
con đều chưa được độ thoát, sao đức Như Lai lại định bỏ rơi mà nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn! Ví như có người kia bị quỷ nhập, may gặp ông thầy giỏi về chú thuật,
dùng sức thần chú trừ dứt nạn cho người kia. Như Lai cũng thế, vì hàng Thanh
văn mà trừ con quỷ vô minh, khiến họ được trụ yên nơi Đại trí tuệ Bát-nhã và
các pháp giải thoát, cũng như chữ Y của thế gian.
“Thế Tôn! Ví như con voi kia bị người ta trói. Dù cho có thầy giỏi cũng không
thể ngăn giữ được, liền phá mở xiềng khóa, tự mình thoát đi. Chúng con chưa được
như vậy, chưa thoát ra khỏi sự trói buộc của các phiền não là Năm sự ngăn che,
Mười triền phược và Bảy lậu hoặc, sao đức Như Lai lại định bỏ rơi [chúng con]
mà vào Niết-bàn?
“Bạch Thế Tôn! Ví như người mắc bệnh sốt rét, gặp được lương y nên dứt được bệnh
khổ. Chúng con cũng như người bệnh ấy, chịu nhiều nạn khổ, tà mạng nóng nảy. Mặc
dù được gặp Như Lai, nhưng bệnh còn chưa dứt, chưa được sự an vui mãi mãi cao
trổi nhất. Sao đức Như Lai lại định bỏ rơi [chúng con] mà nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn! Ví như người say rượu chẳng còn biết gì, chẳng còn nhận ra kẻ thân
người sơ, chẳng phân biệt được mẹ, con gái, chị, em gái... Người ấy mê muội,
hoang dâm, hỗn loạn, nói năng bậy bạ, nằm trong đống phân nhơ nhớp. Lúc đó, có
một vị lương y đem thuốc cho uống. Người ấy uống xong liền nôn hết rượu ra, tỉnh
táo trở lại, lấy làm hổ thẹn, tự trách mình: ‘Rượu là thứ không tốt, là gốc rễ
của mọi điều ác. Nếu ta trừ được nó, ắt sẽ tránh xa được mọi tội lỗi.’
“Thế Tôn! Chúng con cũng vậy. Từ xưa tới nay trôi lăn trong vòng sanh tử, mê
say vì tình sắc, tham đắm năm dục. Chẳng phải mẹ mà tưởng là mẹ, chẳng phải chị
mà tưởng là chị, chẳng phải con gái mà tưởng là con gái, chẳng phải chúng sanh
mà tưởng là chúng sanh... Vì vậy mà phải trôi lăn chịu khổ sanh tử, như người
say rượu kia nằm trong đống phân nhơ nhớp. Nay đức Như Lai ban cho chúng con
thuốc pháp, giúp chúng con nôn ra hết rượu độc phiền não. Nhưng chúng con vẫn
chưa được hoàn toàn tỉnh táo. Sao đức Như Lai lại định bỏ rơi [chúng con] mà nhập
Niết-bàn?
“Thế Tôn! Ví như có người khen rằng thân cây chuối là cứng chắc, thật là vô lý.
Thế Tôn! Chúng sanh cũng thế, nếu có ai khen các pháp ngã, nhân, chúng sanh, thọ
mạng, sự nuôi dưỡng, sự thấy biết, kẻ tạo tác, người nhận chịu mà cho là chân
thật, cũng thật vô lý như vậy. Chúng con theo đó mà tu phép quán tưởng vô ngã.
“Thế Tôn! Ví như cặn bẩn của nước không dùng làm gì được. Thân này cũng vậy, vốn
là vô ngã, không có [một thực thể nào là] chủ tể.
“Bạch Thế Tôn! Ví như hoa thất diệp không có mùi thơm. Thân này cũng vậy, vốn
là vô ngã, thật không có chủ tể. Chúng con theo đó thường tu tập trong tâm phép
quán tưởng vô ngã. Như Phật có dạy: ‘Hết thảy các pháp vốn không có cái ta,
không có vật của ta, các tỳ-kheo nên tu tập theo lẽ ấy. Tu tập như vậy rồi có
thể trừ được tâm ngã mạn, lìa được tâm ngã mạn liền nhập Niết-bàn.’
“Thế Tôn! Ví như chim bay trên không trung mà để lại dấu chân, thật không có lý
như vậy. Người thường tu tập phép quán tưởng vô ngã mà có các kiến chấp, cũng
không có lý như vậy.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn ngợi khen chư tỳ-kheo rằng: “Lành thay, lành thay! Các ông
thật khéo tu tập phép quán tưởng vô ngã.”
Liền đó, chư tỳ-kheo bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng con không chỉ tu phép quán tưởng
vô ngã mà còn tu tập các phép quán tưởng khác nữa. Kể đủ ra là các phép quán tưởng:
khổ, vô thường và vô ngã.”
“Thế Tôn! Ví như người say rượu, tâm trí mờ ám, thấy các cảnh núi sông, vách
đá, cỏ cây, cung điện, nhà cửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều quay cuồng.
“Thế Tôn! Những ai không tu tập các phép quán tưởng: khổ, vô thường, vô ngã thì
chẳng đáng gọi là bậc thánh. Những người ấy thường buông thả, biếng nhác, trôi
lăn trong sanh tử. Thế Tôn! Bởi nhân duyên ấy, chúng con phải khéo tu tập những
phép quán tưởng như vậy.”
Lúc ấy, Phật dạy chư tỳ-kheo rằng: “Các ông hãy nghe cho kỹ! Các ông vừa đưa ra
thí dụ về người say rượu, ấy cũng là chỉ hiểu được văn tự mà chưa thấu đạt
nghĩa lý. Thế nào là nghĩa lý? Như người say kia nhìn lên thấy mặt trời, mặt
trăng, thật không quay cuồng mà tưởng như quay cuồng. Chúng sanh cũng thế, do
các phiền não, vô minh che lấp, nên sanh tâm điên đảo: ngã cho là vô ngã; thường
cho là vô thường; tịnh cho là bất tịnh; lạc cho là khổ.
“Đó là do phiền não che lấp, tuy sanh ra những tư tưởng ấy, nhưng chẳng thấu đạt
nghĩa lý của chúng. Cũng như người say rượu kia, đối với vật không quay cuồng
mà tưởng là quay cuồng. Ngã là nghĩa Phật; thường là nghĩa Pháp thân, lạc là
nghĩa Niết-bàn, tịnh là nghĩa pháp.
“Này chư tỳ-kheo! Sao lại nói rằng người có ngã tưởng là kiêu mạn cống cao,
trôi lăn mãi trong sanh tử? Như các ông nói rằng: ‘Chúng con cũng tu tập các
phép quán tưởng vô thường, khổ, vô ngã.’ Ba phép tu ấy chẳng có nghĩa thật. Nay
ta sẽ thuyết dạy ba phép vượt trội thù thắng hơn.
“Khổ cho là vui, vui cho là khổ, đó là pháp điên đảo.
“Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, đó là pháp điên đảo.
“Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, đó là pháp điên đảo.
“Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, đó là pháp điên đảo.
“Người nào có bốn pháp điên đảo như vậy là không biết tu tập các pháp một cách
chân chánh.
“Này chư tỳ-kheo! Ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong vô thường mà tưởng
là thường, ở trong vô ngã mà tưởng là hữu ngã, ở trong bất tịnh mà tưởng là tịnh.
Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế gian cũng có thường, lạc,
ngã, tịnh.
“Pháp thế gian chỉ là văn tự mà không có nghĩa chân thật. Pháp xuất thế gian có
cả văn tự và nghĩa chân thật. Vì sao vậy? Vì thế gian có bốn điên đảo, cho nên
chẳng biết được nghĩa chân thật. Vì sao như thế? Vì có tư tưởng điên đảo, tâm ý
điên đảo, thấy biết điên đảo. Bởi có ba sự điên đảo này nên người thế gian ở chỗ
vui mà cho là khổ, ở chỗ thường mà cho là vô thường, ở chỗ hữu ngã mà cho là vô
ngã, ở chỗ tịnh mà cho là bất tịnh. Đó gọi là điên đảo.
“Vì điên đảo nên người thế gian biết văn tự mà không biết nghĩa chân thật. Thế
nào là nghĩa chân thật? Vô ngã là sanh tử, ngã tức là Như Lai; vô thường là
hàng Thanh văn và Duyên giác, thường tức là pháp thân Như Lai; khổ là tất cả
ngoại đạo, lạc tức là Niết-bàn; bất tịnh là pháp hữu vi, tịnh tức là Chánh pháp
của chư Phật, Bồ Tát. Đó gọi là không điên đảo.
“Vì không điên đảo nên biết được cả văn tự và nghĩa chân thật. Nếu muốn lìa xa
bốn pháp điên đảo, cần phải biết rõ nghĩa chân thật thường, lạc, ngã, tịnh như
vậy.”
Bấy giờ, các vị tỳ-kheo bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Theo như Phật vừa dạy, lìa khỏi
bốn pháp điên đảo thì biết rõ nghĩa chân thật thường, lạc, ngã, tịnh. Nay Như
Lai vĩnh viễn dứt trừ bốn pháp điên đảo, ắt đã biết rõ thường, lạc, ngã, tịnh,
vậy tại sao không trụ thế trọn một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dỗ, dắt dẫn chúng
con, khiến chúng con lìa khỏi bốn pháp điên đảo, lại đành bỏ rơi chúng con mà
nhập Niết-bàn?
“Ví như đức Như Lai thương tưởng ở lại mà dạy dỗ, chúng con sẽ hết lòng lãnh thọ
và tu tập. Bằng như đức Như Lai nhập Niết-bàn, chúng con làm sao có thể cùng tồn
tại với cái thân độc hại này mà tu hạnh trong sạch? Chúng con cũng sẽ theo Phật
Thế Tôn mà vào Niết-bàn.”
Lúc ấy, Phật dạy chư tỳ-kheo rằng: “Các ông chẳng nên nói như vậy. Chánh pháp
vô thượng của ta đã phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp sẽ làm bậc Đại Y chỉ
cho các ông. Cũng như đức Như Lai là chỗ nương theo của tất cả chúng sanh,
Ma-ha Ca-diếp cũng vậy, sẽ là chỗ nương theo cho tất cả các ông.
“Ví như vị đại vương kia, thống lãnh nhiều xứ. Mỗi khi đi tuần du bên ngoài, liền
đem việc nước mà giao phó cho vị đại thần. Như Lai cũng thế, đem Chánh pháp mà
phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.
“Các ông nên biết rằng, trước đây [các ông] tu tập những phép quán tưởng vô thường
và khổ là những pháp không chân thật.
“Ví như vào mùa xuân, có nhiều người đến một cái ao lớn thả thuyền rong chơi,
làm rớt một hạt bảo châu lưu ly chìm xuống nước sâu. Liền đó, mọi người đều lặn
xuống đáy nước để tìm bảo châu. Họ đua nhau hốt lấy những gạch, đá, cỏ, cây,
cát, sỏi... Ai nấy đều cho rằng mình đã được hạt châu lưu ly, mừng rỡ mà nổi
lên khỏi mặt nước, mới biết là không phải.
“Lúc đó, hạt châu vẫn còn ở dưới nước. Do tính chất của hạt châu, nên nước cả
vùng ấy được lắng trong. Bấy giờ, mọi người nhìn xuống đáy nước đều thấy hạt bảo
châu, cũng như người ta ngẩng lên hư không nhìn thấy mặt trăng vậy. Ngay lúc
đó, trong đám đông ấy có một người có trí, dùng sức phương tiện, từ từ lặn xuống
nước và nhặt được hạt châu.
“Này chư tỳ-kheo! Chớ nên tu tập những phép quán tưởng vô thường, khổ, vô ngã,
bất tịnh theo cách như vậy mà cho là nghĩa chân thật, khác nào những người kia
hốt lấy gạch, đá, cỏ, cây, cát, sỏi... mà cho là bảo châu!
“Các ông nên khéo học phương tiện. Bất kỳ lúc nào và ở đâu cũng thường tu những
pháp quán tưởng thường, lạc, ngã, tịnh. Lại nên biết rằng, bốn phép quán tưởng
vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà các ông đã tu tập trước kia đều là điên đảo
cả. Muốn tu các pháp quán tưởng cho đúng lẽ chân thật, phải như người có trí
kia, biết dùng phép khéo léo để lấy hạt bảo châu ra khỏi nước. Ấy là các pháp
quán tưởng thường, lạc, ngã, tịnh.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo bạch Phật: “Thế Tôn! Trước đây, Phật có dạy: ‘Các pháp đều
là vô ngã, các ông nên tu học lẽ ấy. Tu học như vậy rồi thì lìa được tư tưởng
chấp ngã. Khi lìa khỏi tư tưởng chấp ngã, ắt lìa khỏi kiêu mạn. Lìa khỏi kiêu mạn
liền được nhập Niết-bàn.’ Vậy nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Nay các ông khéo hỏi nghĩa ấy, đó là tự mình dứt
nghi. Ví như một vị vua kia ngu si, kém trí. Vua có một người thầy thuốc tánh
tình ngoan cố, ngu dại. Nhưng vua chẳng biết phân biệt, ban cấp bổng lộc [cho
ông ta] một cách rộng rãi. Thầy thuốc ấy liệu trị các bệnh chỉ dùng duy nhất một
món sữa làm thuốc mà thôi, lại chẳng biết nguyên nhân gây bệnh. Tuy biết dùng sữa
làm thuốc, nhưng lại chẳng biết cách dùng, nên cho dù là trúng gió, cảm lạnh
hay nóng sốt... đối với hết thảy các bệnh đều bảo uống sữa. Nhưng ông vua ấy
không phân biệt được là người thầy thuốc kia có hiểu được chỗ lành dữ, tốt xấu
của sữa hay không.
“Lại có một thầy thuốc sáng suốt từ phương xa đến. Vị này hiểu rành tám môn y
thuật, khéo liệu trị các bệnh, thông thạo các phương thuốc. Bấy giờ, người thầy
thuốc của vua chẳng những không chịu học hỏi, lại sanh lòng cao ngạo, khinh dễ.
Người thầy thuốc sáng suốt kia liền mặc y phục chỉnh tề đến xin thỉnh ông ấy
làm thầy để học những phương pháp sâu kín trong nghề thuốc, thưa rằng: ‘Nay tôi
nhận ông làm thầy, xin vì tôi mà giảng dạy.’
“Người thầy thuốc của vua đáp rằng: ‘Như ông chịu hầu hạ ta trong 48 năm, ta sẽ
dạy nghề thuốc cho ông.’
“Liền đó, người thầy thuốc kia nhận lời và thưa rằng: ‘Tôi sẽ làm như vậy. Tùy
theo sức mình, tôi sẽ làm người hầu hạ để thầy sai khiến.’
“Thế rồi, người thầy thuốc của vua liền đưa người thầy thuốc mới này vào bái kiến
đức vua. Lúc ấy, vị thầy thuốc giỏi liền đem mọi phương pháp trị bệnh và đủ các
tài nghề khéo léo mà giảng giải cho vua nghe. Ông nói: ‘Đại vương nên biết, phải
khéo phân biệt. Những phương pháp như thế này nên dùng để trị nước... Những
phương pháp như thế này nên dùng để trị bệnh...’
“Bấy giờ, vua nghe qua rồi mới biết rằng người thầy thuốc của mình là một kẻ khờ
khạo, vô trí, liền đuổi ông ta ra khỏi nước. Sau đó, vua lại càng thêm cung
kính vị thầy thuốc giỏi. Nhân khi ấy, vị này nghĩ rằng: ‘Đây chính là lúc có thể
bảo vua nghe theo.’ Bèn tâu vua rằng: ‘Như đại vương thật có lòng thương tưởng,
xin cho tôi cầu xin một điều.’
“Vua đáp: ‘Từ cánh tay mặt của trẫm đây cho đến các bộ phận khác trong thân thể,
tùy ý khanh muốn những gì, trẫm đều thuận cho.’
“Vị thầy thuốc giỏi liền tâu rằng: ‘Tuy đại vương hứa cho tôi mọi bộ phận trong
thân thể, nhưng tôi đâu dám cầu xin thái quá như vậy. Nay chỉ xin vua ra lệnh
này: Từ nay về sau, khắp trong nước chẳng ai được dùng sữa làm thuốc theo như lời
dạy của người thầy thuốc cũ. Vì sao vậy? Món thuốc ấy độc hại, gây nhiều thương
tổn. Nếu ai còn dùng sẽ bị chém đầu. Trừ bỏ được món thuốc sữa ấy thì chẳng còn
ai phải chết oan uổng, mọi người thường được an vui. Vì vậy nên tôi thỉnh cầu
điều ấy.’
“Vua liền đáp rằng: ‘Việc khanh thỉnh cầu đó [ta chấp thuận ngay] chẳng cần phải
bàn nữa!’ Vua bèn truyền lệnh đi khắp nơi rằng: ‘Khắp trong nước, những ai có bệnh
đều không được dùng sữa làm thuốc. Nếu ai dùng sẽ bị chém đầu.’
“Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi dùng đủ các vị như: cay, đắng, mặn, ngọt, chua...
mà bào chế thành nhiều loại thuốc, dùng trị các chứng bệnh, bệnh nào cũng được
khỏi cả.
“Chẳng bao lâu sau, nhà vua lại mắc bệnh, liền triệu ông vào hỏi rằng: ‘Nay trẫm
có bệnh nặng, khốn khổ muốn chết. Vậy nên trị cách nào?’
“Vị thầy thuốc giỏi xem bệnh cho vua xong, thấy nên dùng sữa làm thuốc, bèn tâu
rằng: ‘Như bệnh của vua đây cần phải uống sữa. Trước đây tôi bảo dứt hẳn món sữa
làm thuốc, thật là lời nói dối. Nay nếu vua uống sữa vào, có thể trừ được bệnh.
Vua đang bị nóng nhiệt, đúng là phải uống sữa vậy.’
“Lúc ấy, vua nói rằng: ‘Nay khanh điên rồi hay sao lại cho là uống sữa có thể
trừ được bệnh nóng? Trước kia khanh nói là [sữa] độc, nay sao lại bảo [ta] uống?
Khanh muốn khinh thường trẫm đó sao? Món thuốc mà thầy thuốc trước đây khen,
khanh bảo là độc, bảo ta ra lệnh cấm. Nay khanh lại nói rằng tốt, có thể trừ bệnh.
Như lời khanh nói, thì thầy thuốc trước đây của ta ắt là giỏi hơn khanh vậy.’
“Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi tâu vua rằng: ‘Nay đại vương không nên nói vậy. Ví
như loài mối ăn cây, có khi thành hình chữ viết. Nhưng những con mối ấy chẳng
biết đó là chữ hay không phải là chữ. Người có trí thấy vậy, chẳng hề nói rằng
con mối biết chữ, và cũng chẳng lấy làm lạ lùng, kinh sợ. Đại vương nên biết,
người thầy thuốc trước cũng như vậy đó, chẳng biết phân biệt các bệnh, tất cả đều
cho uống sữa làm thuốc, cũng như những con mối ăn cây, ngẫu nhiên mà thành hình
chữ viết. Ông ấy thật ra chẳng hiểu được những chỗ tốt xấu, lành dữ của món sữa
làm thuốc.’
“Lúc ấy, vua liền hỏi: ‘Thế nào là chẳng hiểu?’
“Vị thầy thuốc giỏi đáp: ‘Món sữa thuốc ấy là thứ độc hại, mà cũng là chất cam
lộ. Sữa như thế nào gọi là cam lộ? Như con bò cái chẳng ăn hèm rượu, các loại cỏ
trơn nhớt, cám, và con bò con thì hiền hòa. Khi người chăn bò dắt đi ăn, không
chọn những vùng cao, cũng không đưa xuống những nơi ẩm thấp; khi cho bò uống nước,
liền dắt đến dòng nước trong; chẳng cho bò chạy nhanh, chẳng cho ở chung bầy với
bò đực; giữ cho bò con bú sữa mẹ điều độ, đi đứng đều đúng chỗ, đúng nơi. Được
như vậy thì sữa bò ấy có thể trừ các bệnh. Đó gọi là món thuốc cam lộ linh diệu.
Ngoài thứ sữa ấy ra, các thứ sữa khác đều là độc hại.’
“Lúc ấy, vua nghe xong mấy lời ấy liền khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Từ nay
trẫm mới biết được những lẽ tốt xấu, lành dữ của món sữa thuốc.’ Vua liền uống
sữa và được khỏi bệnh.
“Sau đó, vua truyền lệnh rằng: ‘Từ nay trở đi, khắp trong nước đều phải dùng
món sữa làm thuốc.’
“Nghe lệnh truyền ấy, người trong nước đều lấy làm tức giận, bảo nhau rằng: ‘Đại
vương nay hẳn đã bị quỷ ám hay điên cuồng rồi nên mới dối gạt chúng ta, bảo
chúng ta phải uống sữa trở lại?’
“Tất cả nhân dân đều ôm lòng giận tức, kéo nhau đến chỗ cung vua. Vua liền bảo
rằng: ‘Các người chẳng nên sanh lòng tức giận với ta. Đối với loại sữa dùng làm
thuốc, dù uống hay không uống đều theo lời thầy thuốc, chẳng phải lỗi nơi ta.’
[Rồi vua đem lời thầy thuốc đã nói trước đây mà giải thích với tất cả mọi người.]
“Lúc ấy, vua và nhân dân đều lấy làm vui mừng phấn chấn, càng thêm cung kính
cúng dường vị thầy thuốc ấy. Tất cả những người bệnh được uống món sữa thuốc đều
khỏi bệnh.
“Này chư tỳ-kheo! Nên biết rằng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh
túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư,
Phật, Thế Tôn cũng như vậy đó. Ngài là bậc Đại y vương xuất hiện ở thế gian,
hàng phục tất cả những tà y ngoại đạo, ở giữa các vị vua và dân chúng tự xưng rằng:
‘Ta là bậc y vương.’ Vì muốn hàng phục ngoại đạo, nên ta lại nói rằng: ‘Không
có ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, sự nuôi dưỡng, sự thấy biết, kẻ tạo tác,
người nhận chịu.’
“Này chư tỳ-kheo! Nên biết rằng kẻ ngoại đạo nói có ngã cũng chỉ giống như con
mối ăn cây, ngẫu nhiên mà thành hình chữ viết. Vì vậy, đức Như Lai ở trong pháp
Phật mà thuyết dạy là vô ngã. Vì điều phục chúng sanh, vì biết lúc thích hợp,
nên nói pháp vô ngã như vậy.
“Khi đủ nhân duyên lại thuyết pháp hữu ngã. Như vị lương y kia, biết rành tính
chất của sữa, cũng là thuốc mà cũng không phải là thuốc, không giống như chỗ những
kẻ phàm phu suy lường cái ngã mà ta thuyết dạy.
“Kẻ phàm phu ngu si chấp lấy cái ngã [của riêng mình], hoặc nói là nó lớn như
ngón tay cái, hoặc nhỏ bằng hạt cải, hoặc như hạt bụi rất nhỏ. Đức Như Lai thuyết
cái ngã [chân thật] chẳng phải như vậy.
“Cho nên Phật dạy rằng: ‘Các pháp là vô ngã, nhưng thật chẳng phải vô ngã.’ Thế
nào là thật? Nếu như có pháp là chân thật, là thường tồn, là chủ tể, là chỗ
nương theo, bản tánh không thay đổi, đó gọi là ngã.
“Ví như vị lương y đại tài kia hiểu rành về món thuốc sữa; Như Lai cũng thế, vì
chúng sanh mà thuyết dạy rằng: ở trong các pháp đúng thật là có ngã.
“Nay bốn chúng các ông nên tu tập pháp này theo đúng như vậy.”
QUYỂN 3 - Phẩm THỌ MẠNG - Phẩm thứ nhất – Phần ba
Phật dạy các tỳ-kheo: “Đối với giới luật, nếu còn có chỗ
nghi, nay các ông cứ hỏi. Ta sẽ giảng giải khiến các ông được vui lòng. Ta đã
tu học tất cả [các pháp môn] nên thông đạt sáng suốt bản tánh rỗng không vắng lặng
của các pháp. Nhưng này các tỳ-kheo! Các ông chớ tưởng rằng Như Lai chỉ tu học
riêng về bản tánh rỗng không vắng lặng của các pháp mà thôi.”
Phật lại dạy các vị tỳ-kheo lần nữa: “Đối với giới luật, như có chỗ nghi, nay
các ông nên hỏi cho cặn kẽ.”
Lúc ấy, các vị tỳ-kheo liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chúng con không có đủ trí
tuệ để thưa hỏi đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Vì sao vậy? Vì cảnh giới
của Như Lai không thể nghĩ bàn, các phép thiền định của Như Lai không thể nghĩ
bàn, những điều khuyên dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn. Nên chúng con không
đủ trí tuệ để thưa hỏi Như Lai.
“Bạch Thế Tôn! Ví như có người già đến một trăm hai mươi tuổi, thân thường mang
bệnh, nằm mãi trên giường, không thể ngồi dậy, khí lực hư yếu, mạng sống chẳng
còn bao lâu. Có một người nhà giàu gặp việc phải ra đi đến xứ khác, liền đem một
trăm cân vàng đến gửi cho ông lão ấy và nói rằng: ‘Nay con đi xứ khác, đem tài
sản quý báu này đến gửi nơi cụ. Hoặc mười năm, hoặc hai mươi năm nữa con sẽ trở
về. Khi ấy, cụ sẽ trả lại cho con.’ Ông lão liền nhận lãnh số vàng. Nhưng ông lại
chẳng có con cháu nối dòng. Chẳng bao lâu sau, ông bệnh nặng phải bỏ mình. Những
vật gửi cho ông đều phải mất hết. Khi người chủ vàng trở về, chẳng biết đâu mà
đòi. Như người ấy thật ngu si, chẳng biết suy tính chỗ đáng gửi hoặc không đáng
gửi. Vì vậy nên khi trở về chẳng biết đâu mà đòi. Bởi duyên cớ ấy mà mất hết
tài sản quý giá.
“Thế Tôn! Hàng Thanh văn chúng con lại cũng như thế. Tuy nghe Như Lai ân cần
truyền dạy giới luật, nhưng chúng con chẳng đủ sức thọ trì để làm cho Phật pháp
trụ thế lâu dài, cũng như ông lão kia nhận vàng người ta trao gửi. Nay chúng
con không có trí tuệ, đối với giới luật biết thưa hỏi gì đây?”
Phật dạy các tỳ-kheo: “Nay nếu các ông hỏi ta, ắt có lợi ích cho tất cả chúng
sanh. Vậy nên ta bảo các ông: tùy theo chỗ nghi của mình, cứ tùy ý mà thưa hỏi.”
Lúc ấy, các tỳ-kheo bạch Phật: “Thế Tôn! Ví như người kia, tuổi vừa hai mươi
lăm, khỏe mạnh, tráng kiện và là người ngay thẳng, chính trực. Người ấy có nhiều
của báu, như: vàng, bạc, lưu ly... Cha mẹ vợ con, quyến thuộc, dòng họ thảy đều
còn đủ. Lại có kẻ đem vật báu đến gửi cho người ấy, nói rằng: ‘Nay tôi có việc
phải đi đến xứ khác, khi nào xong việc tôi sẽ trở về. Khi ấy, ông sẽ trả lại cho
tôi.’
“Rồi người ấy giữ gìn của cải quý giá đó cũng như của mình. Khi có bệnh, người ấy
bèn dặn người nhà rằng: ‘Số vàng này của người ta gửi. Khi nào chủ vàng đến nhận,
hãy trả đủ cho người ta.’
“Người có trí là như vậy, khéo biết suy lường. Khi trở về nhận vàng được đầy đủ,
không mất mát chi cả.
“Đức Thế Tôn cũng vậy. Nếu đem Pháp bảo mà phó chúc cho A-nan cùng các tỳ-kheo
thì chẳng thể giữ được lâu dài. Vì sao vậy? Tất cả các vị Thanh văn và Đại
Ca-diếp đều là vô thường, như ông lão kia nhận vật do người khác gửi [mà không
có khả năng giữ gìn].
“Vì vậy, Thế Tôn nên đem Phật pháp vô thượng mà giao phó cho các vị Bồ Tát. Bởi
các vị Bồ Tát có thể khéo hỏi, khéo đáp, nên Pháp bảo sẽ được trụ lâu ngàn đời,
tăng triển lớn lao và hưng thạnh, mang lại lợi ích, an lạc cho chúng sanh, như
người trẻ tuổi tráng kiện kia nhận vật do người khác gửi [rồi đủ sức giữ gìn cẩn
thận không để mất].
“Vì lẽ đó, các vị Đại Bồ Tát mới có thể thưa hỏi Như Lai. Trí tuệ của chúng con
nhỏ nhoi như muỗi mòng, làm sao đủ sức thưa thỉnh pháp sâu xa của Như Lai?”
Bạch Phật rồi, các vị Thanh văn lặng thinh đứng yên.
Lúc ấy, đức Phật khen các tỳ-kheo rằng: “Lành thay, lành thay! Các ông khéo được
tâm vô lậu, tâm A-la-hán. Ta đã từng nghĩ, vì phải có hai duyên như trên, nên
đem Đại thừa mà phó chúc cho các Bồ Tát, khiến cho diệu pháp này được trụ lâu
dài ở thế gian.”
Bấy giờ, Phật bảo tất cả đại chúng rằng: “Thiện nam tử! Thiện nữ nhân! Thọ mạng
của Như Lai không thể đo lường cho xiết, tài biện thuyết của Như Lai cũng không
thể cùng tận. Các ông nên tùy ý hỏi ta, hoặc hỏi giới luật, hoặc hỏi chỗ nương
dựa y theo.”
Phật dạy như vậy đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Lúc ấy, trong đại chúng có một vị đại Bồ Tát tuổi còn rất trẻ, gốc người bộ tộc
Đa-la, họ Đại Ca-diếp, thuộc dòng bà-la-môn. Nương sức thần của Phật, vị này đứng
dậy khỏi chỗ ngồi, vén trần vai áo bên tay mặt, nhiễu quanh Phật cả trăm ngàn
vòng cung kính rồi quỳ gối bên mặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng:
“Thế Tôn! Con nay có chút việc muốn thưa hỏi. Nếu Phật cho phép, con mới dám
nói.”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri cho phép ông tùy
ý hỏi. Ta sẽ vì ông giảng thuyết, dứt chỗ nghi cho ông, làm cho ông được vui vẻ.”
Liền đó, Đại Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Lai thương xót, đã hứa
với con, nay con sắp hỏi. Tuy nhiên, trí tuệ của con nhỏ hẹp như muỗi mòng, đạo
đức của Như Lai Thế Tôn thì cao vòi vọi, vây quanh ngài là đại chúng thảy đều
như hương thơm chiên-đàn, như sư tử dũng mãnh khó mà chế phục, không thể hoại
diệt. Thân Như Lai bền chắc như kim cang, màu sắc như ngọc lưu ly chân thật khó
hoại diệt, lại có các vị đây hợp thành biển đại trí tuệ vây quanh. Trong hội
chúng này, các vị Đại Bồ Tát đều thành tựu những công đức sâu xa vi diệu vô lượng
vô biên, như những con voi đang sức tráng kiện. Ở trước đại chúng như vậy, con
lại dám thưa hỏi sao? Nhưng nay nhờ sức thần thông của Phật và oai đức căn lành
của đại chúng, con sẽ đem một ít việc mà thưa hỏi Phật.”
Liền đó, Bồ Tát Ca-diếp đối trước Phật đọc kệ thưa hỏi rằng:
Làm sao được trường thọ,
Thân kim cang chẳng hoại?
Lại do nhân duyên nào,
Được sức kiên cố lớn?
Làm sao nhờ kinh này,
Cứu cánh được giải thoát?
Nguyện đem pháp sâu kín,
Thuyết rộng với chúng sanh.
Làm sao được rộng lớn,
Làm y chỉ chúng sanh,
Thật chẳng phải La-hán,
Nhưng dự hàng La-hán?
Làm sao biết thiên ma,
Làm trở ngại chúng tu?
Phật thuyết, Ba-tuần thuyết,
Làm sao phân biệt rõ?
Làm sao bậc Điều ngự,
Vui lòng thuyết chân đế,
Thành tựu đủ chánh thiện,
Diễn thuyết bốn điên đảo.
Làm sao tạo nghiệp lành?
Nay Như Lai nên thuyết.
Làm sao các Bồ Tát,
Thấy tánh rất khó thấy
Làm sao hiểu trọn chữ,
Hoặc nghĩa lý nửa chữ?
Làm sao chung Thánh hạnh,
Như chim ta-la-ta,
Ca-lân-đề, nhật nguyệt,
Thái bạch với tuế tinh?
Làm sao chưa phát tâm,
Cũng được xưng Bồ Tát?
Làm sao giữa Đại chúng,
Được đức chẳng run sợ,
Ví như vàng diêm-phù,
Không ai chỉ được lỗi?
Làm sao giữa bùn nhơ,
Không nhiễm, như hoa sen?
Làm sao giữa phiền não,
Phiền não chẳng nhiễm ô,
Như lương y trị bệnh,
Chẳng bị bệnh lây truyền?
Làm sao như thuyền trưởng,
Vượt biển lớn sanh tử?
Làm sao lìa sanh tử,
Như rắn lột bỏ da?
Làm sao quán Tam bảo,
Giống như cây thiên ý?
Ba thừa nếu không tánh,
Làm sao thuyết diễn ra?
Như niềm vui chưa sanh,
Sao gọi là thọ lạc?
Làm sao chư Bồ Tát,
Được chúng chẳng hư hoại?
Làm sao vì người mù,
Dẫn đường làm mắt sáng?
Làm sao hiện nhiều đầu?
Xin Như Lai giảng thuyết.
Làm sao người thuyết pháp,
Tăng trưởng như trăng non?
Vì sao lại thị hiện,
Rốt cuộc vào Niết-bàn?
Làm sao bậc dũng kiện,
Dẫn lối trời, người, ma?
Làm sao hiểu tánh pháp,
Mà thường hưởng pháp lạc?
Làm sao chư Bồ Tát
Lìa xa tất cả bệnh?
Làm sao vì chúng sanh,
Diễn thuyết pháp bí mật?
Làm sao giảng rốt ráo,
Cùng pháp chẳng rốt ráo?
Như vì dứt lưới nghi,
Sao không thuyết xác định?
Làm sao được đến gần,
Đạo cao trổi hơn hết?
Con nay thỉnh Như Lai,
Vì thương chư Bồ Tát,
Xin thuyết lẽ thâm sâu,
Của các hạnh vi diệu.
Trong tất cả các pháp,
Ắt có tánh an vui.
Nguyện Như Lai Thế Tôn,
Vì chúng con giảng rõ.
Đại y chỉ chúng sanh!
Bậc đầy đủ phước trí!
Nay muốn hỏi các ấm,
Nhưng con không trí tuệ.
Chư Bồ Tát tinh tấn,
Cũng không thể biết rõ,
Cảnh giới rất sâu xa,
Của chư Phật Như Lai.
Lúc ấy, Phật khen Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Nay
ông chưa được trí tuệ rõ biết tất cả, còn ta đã được rồi, nhưng chỗ thưa hỏi của
ông về tạng bí mật sâu xa đó cũng giống như chỗ thưa hỏi của bậc có trí tuệ rõ
biết tất cả, chẳng khác gì nhau.
“Thiện nam tử! Khi ta mới thành Chánh giác, còn ngồi tại đạo tràng nơi gốc cây
bồ-đề, bấy giờ có vô số chư Bồ Tát từ các cõi Phật nhiều như số cát của vô số
con sông Hằng, cũng từng đến hỏi ta về nghĩa sâu xa ấy. Những chỗ thưa hỏi ấy,
từ câu văn, nghĩa lý và công đức cũng giống như những chỗ hỏi của ông, chẳng
khác chi cả. Thưa hỏi được như vậy có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng có đủ sức trí tuệ để
hỏi Như Lai về nghĩa rất sâu xa ấy. Thế Tôn! Ví như con muỗi, con mòng chẳng thể
bay qua tới bờ bên kia biển cả, hoặc bay khắp hư không. Con đây cũng vậy, chẳng
thể hỏi đức Như Lai về nghĩa lý thăm thẳm của biển cả trí tuệ, của hư không
pháp tánh như vậy.
“Thế Tôn! Ví như một vị vua, gỡ ra hạt minh châu từ nơi búi tóc của mình, giao
cho quan giữ kho. Quan giữ kho nhận rồi, cung kính đội đầu, gắng sức gìn giữ.
Con đây cũng thế, cung kính đội đầu, gắng sức gìn giữ nghĩa sâu các kinh Phương
đẳng mà Như Lai giảng thuyết. Vì sao vậy? Vì có thể giúp cho con mở rộng trí tuệ
sâu thẳm.”
Lúc ấy, Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Hãy lắng nghe kỹ! Ta sẽ vì
ông mà giảng thuyết về nghiệp trường thọ mà Như Lai đã được. Bồ Tát nhờ nhân
duyên nghiệp này mà được thọ mạng lâu dài. Vậy ông nên hết lòng nghe và thọ
lãnh. Như nghiệp này có thể là nhân của bồ-đề, ông nên thành tâm lắng nghe và
nhận lấy nghĩa lý. Đã nghe nhận rồi, lại nên vì người khác mà giảng thuyết
nghĩa ấy.
“Thiện nam tử! Nhờ tu tập nghiệp ấy nên ta đã được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Nay ta lại vì chúng sanh mà thuyết rộng nghĩa ấy.
“Thiện nam tử! Ví như một người con của vua, phạm tội nên bị giam trong ngục.
Vua rất xót xa, thương nhớ con, bèn tự mình ngồi xe đến tận nơi giam giữ. Bồ
Tát cũng như thế, muốn được trường thọ nên hộ niệm tất cả chúng sanh, giống như
người đời thương yêu đứa con duy nhất của mình. Bồ Tát sanh lòng đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, truyền thọ giới không giết hại, dạy tu pháp lành, lại nên
làm cho tất cả chúng sanh được vững vàng trong Năm giới, Mười điều lành.
“Bồ Tát lại vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la... hết thảy
các cảnh giới, cứu vớt những chúng sanh khổ não đang ở trong ấy. Bồ Tát giải
thoát cho những chúng sanh chưa được giải thoát, hóa độ cho những chúng sanh
chưa được hóa độ. Những chúng sanh chưa được Niết-bàn, Bồ Tát đều khiến cho đạt
được Niết-bàn. Người an ủi tất cả những kẻ đang sợ sệt. Nhờ các nhân duyên của
nghiệp như vậy, Bồ Tát được thọ mạng lâu dài, đối với các phép trí tuệ đều được
tự tại; đến lúc mạng chung liền sanh về cõi trời.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Đại Bồ Tát đối với chúng sanh
bình đẳng như nhau, đều giống như người đời thương yêu đứa con duy nhất của
mình, nghĩa ấy sâu kín quá, con chưa hiểu nổi. Bạch Thế Tôn! Như Lai chẳng nên
nói rằng: ‘Bồ Tát tu lòng bình đẳng đối với các chúng sanh, đều giống như người
đời thương yêu đứa con duy nhất của mình.’ Vì sao vậy? Vì trong Phật pháp cũng
có những kẻ phá giới, những kẻ phạm tội nghịch, những kẻ hủy báng Chánh pháp. Đối
với những kẻ ấy, lẽ nào có thể yêu thương như con một của mình hay sao?”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy! Đối với chúng sanh ta quả thật đều xem đồng
như con một của ta là La-hầu-la.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Lúc trước, nhằm ngày rằm, đang khi chư
tăng tụng bố-tát, chúng hội đều là những vị thanh tịnh, đã từng thọ giới cụ túc
của bậc tỳ-kheo. Lúc ấy, có một đồng tử chẳng khéo tu tập ba nghiệp thân, khẩu
và ý, núp sau góc một tấm bình phong để lén nghe tụng giới. Vị lực sĩ Mật Tích
liền nương sức thần của Phật, dùng chày kim cang đập đồng tử ấy nát ra như bụi.
“Bạch Thế Tôn! Thần Kim cang ấy phải rất là bạo ác mới có thể lấy mạng của đồng
tử kia như vậy. Làm sao Như Lai bảo là đối với các chúng sanh đều xem như nhau,
đồng như con một của ngài là La-hầu-la?”
Phật bảo Ca-diếp: “Nay ông chớ nên nói như vậy. Đồng tử kia chỉ là người hóa hiện,
chẳng phải thật có, vì muốn xua đuổi những kẻ phá giới hủy pháp, khiến họ ra khỏi
chúng tăng. Vị Kim cang Mật Tích ấy cũng là hóa hiện.
“Ca-diếp! Những kẻ hủy báng Chánh pháp, cùng những kẻ nhất-xiển-đề, những kẻ
sát sanh, cho đến bọn tà kiến cùng những kẻ cố phạm giới cấm, ta đều thương xót
họ tất cả, đều xem như con ta là La-hầu-la.
“Thiện nam tử! Ví như vị vua, nếu trong các quan có người phạm luật nước thì
vua chiếu theo tội mà giết phạt chẳng tha. Như Lai Thế Tôn chẳng làm như vậy. Đối
với kẻ hủy báng Chánh pháp, ngài dạy các phép yết-ma, như yết-ma quở trách, yết-ma
trục xuất, yết-ma khu biệt, yết-ma trách tội, yết-ma không ai được gặp, yết-ma
dứt tuyệt, yết-ma chưa bỏ tà kiến xấu ác.
“Thiện nam tử! Đối với kẻ hủy báng Chánh pháp, sở dĩ Như Lai dùng nhiều phép yết-ma
hàng phục như vậy là muốn chỉ rõ cho những kẻ làm việc ác biết rằng thật có quả
báo.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết: đối với những chúng sanh làm điều xấu ác, Như
Lai là bậc bố thí cho họ sự an ổn chẳng sợ. Trong khi ngài phóng ra một luồng
hào quang, hai luồng, hoặc năm luồng, nếu có những ai gặp được hào quang ấy sẽ
lìa khỏi các điều xấu ác. Hiện nay, Như Lai có đủ vô lượng thế lực như vậy.
“Thiện nam tử! Với pháp chưa thể thấy, nếu ông muốn thấy thì nay ta sẽ vì ông
giảng thuyết tướng mạo của pháp ấy. Sau khi ta nhập Niết-bàn, bất cứ nơi nào có
tỳ-kheo trì giới, đầy đủ oai nghi, hộ trì Chánh pháp, nếu thấy kẻ phá hoại
Chánh pháp thì có thể xua đuổi, quở trách, trừng trị. Nên biết rằng vị ấy sẽ được
phước đức vô lượng, không thể kể xiết.
“Thiện nam tử! Ví như một vị vua chuyên làm việc bạo ác, rồi bị bệnh nặng. Có một
vị vua nước láng giềng, nghe tiếng ác của vua ấy, bèn kéo binh đến định tiêu diệt.
Lúc ấy, vị vua đang bệnh vì không có sức lực nên trong lòng kinh sợ, liền thay
đổi tâm tánh mà tu tập việc lành. Vị vua láng giềng như vậy sẽ được phước đức
vô lượng. Vị tỳ-kheo bảo vệ Chánh pháp cũng giống như thế, dùng việc xua đuổi,
quở trách, trừng trị những kẻ phá hoại Chánh pháp, khiến cho họ tu các pháp
lành, sẽ được phước đức vô lượng.
“Thiện nam tử! Ví như một vị trưởng giả, ở nơi xứ sở mình, vườn ruộng, nhà cửa,
phòng xá bỗng sanh ra những cây độc. Trưởng giả biết vậy rồi liền đốn sạch, khiến
những cây ấy đều dứt tuyệt.
“Lại cũng như một người tráng kiện mà trên đầu sanh tóc bạc, lấy làm hổ thẹn,
bèn dùng cái nhiếp mà nhổ hết, chẳng để cho sanh trưởng.
“Vị tỳ-kheo bảo vệ Chánh pháp lại cũng như vậy, thấy có những kẻ phá giới luật,
phá hoại Chánh pháp, liền nên xua đuổi, quở trách, nêu lỗi của họ ra mà phán xử.
“Như vị tỳ-kheo làm điều lành nhưng thấy kẻ phá hoại Chánh pháp mà vẫn để yên,
chẳng xua đuổi, quở trách, chẳng nêu lỗi của họ ra mà phán xử, nên biết rằng
người như vậy là kẻ oán tặc trong Phật pháp.
“Như có thể xua đuổi, quở trách, nêu lỗi của kẻ phá hoại Chánh pháp ra mà phán
xử thì người ấy là đệ tử của ta, là bậc Thanh văn chân chính.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Theo như lời Phật vừa dạy thì chẳng phải
đối với tất cả chúng sanh bình đẳng như nhau, đều như con một của ngài là La-hầu-la!
“Thế Tôn! Như có một người dùng dao hại Phật, lại có người khác dùng hương thơm
chiên-đàn mà tô điểm thân Phật. Nếu Phật có lòng bình đẳng đối với hai người ấy,
sao lại dạy rằng nên trừng trị kẻ phá hủy giới cấm? Nếu trị kẻ hủy cấm, thì lời
nói xem chúng sanh bình đẳng như con một của mình là chẳng đúng.”
Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ví như một vị quốc vương, đại thần hay
tể tướng, sanh dưỡng được nhiều đứa con, tướng mạo đoan chánh, thông minh trí
tuệ. Những trẻ ấy, hoặc hai đứa, ba đứa hay bốn đứa đều được người cha giao phó
cho một vị thầy rất nghiêm khắc và dặn rằng: ‘Thầy nên vì ta dạy bảo chúng nó
cho thông thuộc các môn phong hóa, lễ nghi, kỹ nghệ, văn thơ, toán số... Bốn đứa
con ta đây, từ nay theo thầy học tập. Giả như có ba đứa bị thầy đánh bằng gậy,
mang bệnh mà chết. Chỉ còn một đứa, phải dạy răn nó một cách khổ nhọc lắm mới
được thành tựu. Dẫu cho mất ba đứa con, ta cũng chẳng hề oán hận thầy.’
“Ca-diếp! Như vậy, người cha và người thầy có mắc tội giết hại chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không. Tại sao vậy? Chỉ vì thương con, muốn cho chúng được thành
người chứ không có lòng ác. Dạy dỗ như vậy thì được phước vô lượng.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như Lai cũng thế. Ngài coi những kẻ phá hoại Chánh
pháp cũng đồng như con một của ngài. Nay Như Lai đem Chánh pháp vô thượng mà
phó chúc cho các quốc vương, đại thần, tể tướng, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di. Các vua, quan và Bốn bộ chúng ấy nên khuyến khích những ai tu học,
khiến họ được tiến bộ và tăng trưởng giới, định, tuệ. Nhưng có ai chẳng tu học
ba pháp ấy, biếng nhác, phá giới, hủy hoại Chánh pháp, thì các vị quốc vương, đại
thần và Bốn bộ chúng nên trừng trị họ một cách nghiêm khắc.
“Thiện nam tử! Như vậy các quốc vương và Bốn bộ chúng ấy có phạm tội chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không.”
“Thiện nam tử! Các quốc vương và Bốn bộ chúng ấy còn chẳng có tội, huống chi
Như Lai?
“Thiện nam tử! Như Lai khéo tu phép bình đẳng ấy, đối với chúng sanh đều xem đồng
như con một của mình.
“Tu tập như vậy, gọi là Bồ Tát tu tâm bình đẳng, đối với chúng sanh đều xem đồng
như con một của mình.
“Thiện nam tử! Bồ Tát nhờ tu tập nghiệp ấy, được thọ mạng lâu dài, lại có thể
biết được mọi việc trong những đời trước của mình và của người.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Phật vừa dạy, nếu Bồ Tát tu
tâm bình đẳng, đối với chúng sanh đều xem đồng như con mình thì được thọ mạng
lâu dài.
“Như Lai chẳng nên thuyết dạy như thế. Tại sao vậy? Như một người hiểu biết đạo
lý, hay thuyết dạy mọi điều hiếu thuận. Khi về nhà, người ấy lấy những gạch đá
mà đánh ném cha mẹ. Nhưng cha mẹ vốn là ruộng phước, có nhiều lợi ích, khó được
gần gũi, đáng lẽ người con phải cúng dường món ngon vật lạ, lại gây ra những việc
sầu não tai hại. Như người hiểu biết đạo lý ấy, lời nói và việc làm trái nghịch
với nhau.
“Lời nói của Như Lai cũng vậy. Bồ Tát đã tu tập tâm bình đẳng, đối với chúng
sanh đều xem đồng như con mình, đáng lẽ phải được trường thọ, biết rành chuyện
đã qua, thường trụ ở thế, không hề có chuyện biến đổi. Nay vì nhân duyên gì mà
đời sống của Thế Tôn rất ngắn, chẳng khác chi thọ mạng của người thế gian? Như
vậy lẽ nào đức Như Lai không có đem lòng oán ghét chúng sanh? Ngày xưa, Thế Tôn
đã làm các nghiệp ác gì, giết chết bao nhiêu sanh mạng, mà nay ngài phải chịu
đoản thọ, sống chẳng được trăm năm?”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Nay có duyên cớ gì mà đối trước Như Lai
ông nói ra lời vụng về như thế? Sự trường thọ của Như Lai vẫn cao hơn, trội hơn
tất cả mọi sự trường thọ. Pháp thường tồn mà Như Lai đã được là bậc nhất trong
các pháp thường tồn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Như Lai được thọ mạng lâu dài như thế
nào?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Như có tám con sông lớn là Hằng hà,
Diêm-ma-la, Tát-la, A-lỵ-la-bạt-đề, Ma-ha, Tân-đầu, Bác-xoa và Tất-đà. Tám con
sông lớn ấy với các sông con, thảy đều chảy vào biển cả.
“Ca-diếp! Những sông lớn là thọ mạng của tất cả chúng sanh trong khắp cõi trời,
người, trên mặt đất, giữa hư không, thảy đều nhập vào biển cả là thọ mạng của
Như Lai. Vì vậy, thọ mạng của Như Lai là vô lượng.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như từ ao A-nậu-đạt có bốn con sông lớn chảy ra. Như Lai
cũng thế, từ nơi Như Lai mà xuất hiện tất cả các sanh mạng.
“Ca-diếp! Ví như trong tất cả mọi pháp thường tồn, hư không là hơn hết. Như Lai
cũng thế, là hơn hết trong mọi pháp thường tồn.
“Ca-diếp, như trong các loại thuốc, món đề-hồ là hơn hết. Như Lai cũng thế, đối
với tất cả chúng sanh, thọ mạng của Như Lai là hơn hết.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu thọ mạng Như Lai là như vậy, ngài
nên trụ thế cho trọn một kiếp hoặc một kiếp giảm, thường tuyên thuyết pháp nhiệm
mầu như trời đổ mưa to.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ở chỗ Như Lai ông không nên phát sanh tư tưởng [cho rằng
Như Lai là] diệt tận.
“Ca-diếp! Như có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến những người
tu hành ngoại đạo, thần tiên ngũ thông đạt đến mức tự tại, nếu muốn trụ ở thế
gian trọn một kiếp hay một kiếp giảm, đi lại trên hư không, ngồi và nằm trên ấy
một cách tự tại, cho lửa phóng ra từ nơi hông trái, cho nước tuôn ra từ nơi
hông mặt, từ nơi thân xuất hiện khói lửa, dường như có một đám lửa, hoặc muốn sống
lâu, cũng đều được như ý. Các vị ấy muốn cho đời sống của mình dài hay ngắn
cũng đều được cả. Những vị ngũ thông ấy còn được sức thần tùy ý như vậy, huống
chi Như Lai đối với tất cả pháp, đã được sức tự tại, lại chẳng trụ được ở thế
trong nửa kiếp, một kiếp, trăm kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp hay vô lượng kiếp hay
sao?
“Bởi nghĩa ấy nên phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ, pháp không biến đổi.
Thân này của Như Lai là thân biến hóa, chẳng phải thân do sự ăn uống mà thành,
chẳng qua vì hóa độ chúng sanh nên thị hiện giống như loài cây độc. Vì vậy ta mới
hiện cách bỏ thân là nhập Niết-bàn.
“Ca-diếp! Nên biết rằng Phật là pháp thường tồn, pháp không biến đổi. Các ông
nên ra sức tinh tấn, một lòng tu tập nghĩa đệ nhất ấy. Tu tập rồi, sẽ rộng vì
người khác mà giảng thuyết.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Pháp xuất thế và pháp thế gian khác
nhau như thế nào? Như Phật nói rằng: Phật là pháp thường tồn, pháp không biến đổi;
thế gian cũng nói rằng: Phạm thiên là thường tồn, Tự tại thiên là thường tồn,
không có biến đổi, ngã là thường tồn, tánh là thường tồn, vi trần cũng là thường
tồn. Nếu nói Như Lai là pháp thường tồn, tại sao Như Lai chẳng thường hiện? Nếu
chẳng thường hiện, thì có khác gì với [các pháp] thế gian? Vì sao vậy? Vì Phạm
thiên... cho đến vi trần ở thế gian, vốn cũng chẳng thường hiện.”
Phật bảo Ca-diếp: “Ví như một trưởng giả có nhiều bò, màu sắc tuy khác nhau
nhưng hợp thành một bầy. Ông giao bầy bò ấy cho một người chăn, dắt đi ăn cỏ, uống
nước. Ông chỉ cần món đề-hồ mà thôi, chẳng cần món bơ sữa. Người chăn dắt bò
đi, để cho chúng tự do ăn cỏ. Đến khi trưởng giả ấy qua đời, tất cả những con
bò của ông đều bị bọn cướp thâu đoạt. Bọn cướp ấy được bò rồi, không có phụ nữ
để trông nom, chăn dắt, thả bầy bò tự kéo nhau đi, gặp gì ăn nấy.
“Lúc ấy, bọn cướp nói với nhau rằng: ‘Ông đại trưởng giả kia nuôi bò, chẳng cần
món bơ sữa, chỉ cần món đề-hồ mà thôi. Bây giờ chúng ta nên làm thế nào để có
món đề-hồ ấy? Vì trong thế gian, đề-hồ là món ăn ngon nhất. Chúng ta không có bồn
chậu, như có được sữa cũng chẳng có chi mà đựng.’ Rồi họ lại bảo nhau: ‘Chúng
ta chỉ có bao bằng da mà thôi, bao ấy đựng sữa cũng được. Nhưng dù có đồ đựng,
chúng ta cũng không biết phải để yên hay khuấy cho đúng cách. Sữa đặc còn khó
được, huống chi là bơ tươi!’ Lúc ấy, những tên cướp vì muốn có đề-hồ, bèn đổ
thêm nước vào. Vì thêm nước nhiều nên sữa, bơ, đề-hồ... chẳng có được món nào cả.
“Những kẻ phàm phu cũng vậy đó. Tuy họ có pháp lành, nhưng pháp lành ấy chẳng
qua là món đồ thừa của Chánh pháp Như Lai. Vì sao vậy? Sau khi Như Lai Thế Tôn
vào Niết-bàn, những kẻ trộm cắp pháp lành thừa thãi của Như Lai như: giới, định,
tuệ, cũng giống như những kẻ cướp đoạt lấy đàn bò kia vậy. Những kẻ phàm phu
tuy họ cũng được giới, định và trí tuệ này, nhưng họ không biết phương tiện,
không thể hiểu biết, giảng rõ. Vì lẽ ấy, họ không thể đạt được thường giới, thường
định, thường huệ, giải thoát. Cũng như bọn cướp kia, chẳng biết phương cách nên
làm hư hỏng món đề-hồ. Lại cũng như bọn cướp kia, vì muốn có đề-hồ bèn đổ thêm
nước vào. Những kẻ phàm phu cũng vậy. Vì muốn giải thoát, bèn nói những pháp:
ngã, chúng sanh, thọ mạng, linh hồn, Phạm thiên, Tự tại thiên, vi trần, thế
tánh, giới, định, trí tuệ, với giải thoát, [tin rằng] cõi trời Phi tưởng phi
phi tưởng tức là Niết-bàn. Thật ra họ chẳng được giải thoát, Niết-bàn, cũng như
bọn cướp kia chẳng được đề-hồ.
“Những kẻ phàm phu ấy có chút ít Phạm hạnh, phụng dưỡng cha mẹ. Nhờ nhân duyên ấy,
họ sanh lên các cõi trời, hưởng thọ chút ít an lạc. Cũng như bọn cướp kia thêm
nước vào sữa. Những phàm phu ấy thật chẳng biết rằng nhân họ có tu chút ít Phạm
hạnh và nhờ phụng dưỡng cha mẹ, nên được sanh lên các cõi trời. Họ lại cũng chẳng
biết giới, định, trí tuệ, quy y Tam bảo. Vì họ chẳng biết, nên họ thuyết thường,
lạc, ngã, tịnh. Tuy họ thuyết những lẽ ấy nhưng thật không hiểu. Vậy nên sau
khi Như Lai xuất hiện ở đời, ngài mới diễn thuyết thường, lạc, ngã, tịnh.
“Ví như khi có Chuyển luân vương ra đời, nhờ sức phước đức của người, bọn cướp
liền rút lui và tan rã, những con bò khỏi mất mạng. Rồi đó, vị Chuyển luân
vương đem bò mà giao phó cho một người chăn, người này có nhiều phương tiện
hay, khéo léo, liền tạo ra được món đề-hồ. Nhờ đề-hồ ấy, tất cả chúng sanh
không có bệnh khổ. Cũng như thế, khi đức Pháp Luân Thánh vương ra đời, những kẻ
phàm phu không diễn thuyết được giới, định, tuệ. Họ rút lui và tan rã như bọn
cướp đã rút lui và tan rã do sức phước đức của vị Chuyển luân Thánh vương.
“Lúc ấy, Như Lai khéo thuyết những pháp thế gian và xuất thế gian. Ngài vì
chúng sanh, khiến chư Bồ Tát diễn thuyết thích hợp. Hàng Đại Bồ Tát đã được món
đề-hồ, lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sanh cũng được món pháp cam lộ cao
trổi hơn hết, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai.
“Thiện nam tử! Bởi nghĩa ấy, Như Lai là pháp thường, chẳng biến đổi, chẳng phải
như những kẻ phàm phu ngu si trong thế gian gọi Phạm thiên v.v... là pháp thường.
Chỉ có Như Lai mới đáng xưng là pháp thường tồn mà thôi, ngoài ra không còn
pháp [thường tồn] nào khác nữa.
“Ca-diếp! Nên biết thân Như Lai là như vậy. Ca-diếp! Các thiện nam tử, thiện nữ
nhân thường nên lưu tâm tu tập những chữ: ‘Phật là thường trụ’. Ca-diếp! Như có
thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tu tập hai chữ [thường trụ], nên biết rằng người
ấy đã đi theo đường của ta đi và sẽ đến chỗ mà ta đã đến. Thiện nam tử! Như có
ai tu tập hai chữ ấy để dứt tướng, nên biết rằng Như Lai ắt sẽ ở trước mặt người
ấy thị hiện nhập Niết-bàn. Thiện nam tử! Nghĩa của Niết-bàn, tức là tánh pháp của
chư Phật vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Tánh pháp của Phật ý nghĩa như thế nào? Thế
Tôn! Nay con muốn biết nghĩa của tánh pháp, xin Như Lai đem lòng thương xót,
thuyết rộng cho nghe.
“Bạch Thế Tôn! Nói tánh pháp tức là buông xả thân. Xả thân, tức không có món gì
của mình. Nếu không có món gì của mình, làm sao còn có cái thân? Nếu thân vẫn
còn, làm sao nói rằng: thân có tánh pháp? Thân có tánh pháp thì làm sao còn tồn
tại được? Nay con nên hiểu nghĩa ấy như thế nào?”
Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông không nên nói rằng diệt mất là
tánh pháp. Nói tánh pháp là không có sự diệt mất.
“Thiện nam tử! Ví như chư thiên ở cõi trời Vô tưởng, có đủ hình sắc nhưng không
có tư tưởng về hình sắc. Chớ nên hỏi rằng: ‘Chư thiên ấy hưởng sự vui vẻ khoái
lạc như thế nào? Các Ngài nghĩ tưởng như thế nào? Thấy, nghe như thế nào?’
“Thiện nam tử! Cảnh giới của Như Lai, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể hiểu
nổi. Thiện nam tử! Không nên nói rằng thân Như Lai là pháp diệt mất.
“Thiện nam tử! Pháp diệt mất của Như Lai là cảnh giới Phật, hàng Thanh văn,
Duyên giác không thể hiểu thấu. Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên xét nghĩ rằng:
‘Như Lai trụ ở đâu? Như Lai đi về đâu? Ở đâu thấy được Như Lai? Như Lai vui
thích ở chốn nào?’
“Thiện nam tử! Những nghĩa như thế cũng là ngoài sự hiểu biết của các ông. Cũng
như Pháp thân của chư Phật cùng đủ mọi phương tiện [của các ngài] đều không thể
nghĩ bàn!
“Lại nữa, thiện nam tử! Đối với Phật, Pháp,Tăng đều nên khởi tư tưởng là thường
tồn. Đối với ba pháp ấy, không nên khởi tư tưởng cho là khác nhau, là vô thường,
là biến đổi. Như ai thường giữ tư tưởng cho rằng ba pháp ấy là khác biệt nhau,
nên biết rằng những người ấy không thể nương theo Ba chỗ quy y trong sạch. Giới
cấm mà họ thọ trì chẳng được đầy đủ. Rốt cuộc, họ không thể chứng các quả Thanh
văn, Duyên giác, Bồ-đề. Nếu có thể đối với ba pháp không thể nghĩ bàn ấy tu tập
tư tưởng là thường tồn, ắt sẽ có chỗ quay về nương tựa và noi theo.
“Thiện nam tử! Ví như nhân có cây mới có bóng cây. Như Lai cũng thế, bởi ngài
có thường pháp nên mới có chỗ [để chúng sanh] quay về nương tựa và noi theo,
không phải là vô thường. Nếu nói Như Lai là vô thường, ắt Như Lai không phải là
chỗ quay về nương tựa và noi theo của chư thiên, loài người.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như trong bóng tối thì có cây mà chẳng có
bóng.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Ông không nên nói: ‘Có cây mà chẳng có bóng.’ Chẳng qua mắt
thường chẳng thấy được bóng đó thôi. Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, tánh vốn
thường trụ, không biến đổi. Những con mắt không có trí tuệ chẳng thấy được tánh
thường trụ ấy, cũng như trong bóng tối, người ta chẳng thấy được bóng cây. Cũng
vậy, khi Phật nhập diệt rồi, những kẻ phàm phu sẽ nói rằng: Như Lai là pháp vô
thường.
“Nếu nói Như Lai khác với Pháp, khác với Tăng, tức không thành Ba chỗ quy y,
cũng như cha mẹ các ông vốn là khác nhau, nên là vô thường!”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Từ nay con sẽ đem việc Phật, Pháp, Tăng là
thường trụ giảng giải rõ cho cha mẹ đời này cho đến bảy đời trước, khiến tất cả
đều kính vâng giữ theo lẽ ấy. Hay thay! Thế Tôn! Từ nay con phải học theo chỗ
không thể nghĩ bàn của Như Lai, Pháp, Tăng. Đã tự mình học rồi, lại còn sẽ vì
người khác mà giảng rộng nghĩa ấy. Như ai không thể tin nhận, nên biết rằng hạng
người ấy theo pháp vô thường đã quá lâu. Đối với những người như thế, con sẽ vì
họ [mà phá tan mọi kiến chấp sai lầm, như] sương và mưa đá [làm dập nát mọi thứ
cây cỏ].”
Lúc ấy, Phật ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Nay ông có thể
khéo hộ trì Chánh pháp. Hộ trì Chánh pháp như vậy là không lừa dối người khác.
Nhờ nghiệp duyên lành không lừa dối như thế, ông sẽ được trường thọ, khéo rõ biết
được những việc từ đời trước.”
PHẨM THÂN KIM CANG
Phẩm thứ nhì
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Thân Như Lai là thân
thường trụ, thân không thể hư hoại, thân kim cang, chẳng phải thân do sự ăn uống
mà thành, chính là Pháp thân.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng thấy được những thân mà Phật vừa
nói đó. Con chỉ thấy duy có cái thân vô thường, cái thân hư hoại thành cát bụi,
cái thân do ăn uống các thứ vào mà có đó thôi. Vì sao vậy? Vì Như Lai sắp nhập
Niết-bàn.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ông không nên gọi thân Như Lai là không bền bỉ, phải chịu
hư hoại như thân phàm phu.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết: thân Như Lai trải qua vô lượng ức kiếp vững bền,
khó hoại, chẳng phải như thân của hàng trời người, chẳng phải là thân [chất chứa
sự] sợ sệt, chẳng phải là thân do sự ăn uống các thứ vào mà tạo thành.
“Thân Như Lai thật chẳng phải thân mà là thân, chẳng sanh chẳng diệt, không có
sự tu tập. Thân Như Lai là vô lượng vô biên, không có dấu vết, không thể nhận
biết, nhìn thấy; rốt ráo trong sạch, không có sự dao động, không thọ nhận cũng
không hành động; không chỗ trụ, không tạo tác, không có mùi vị, không hỗn tạp;
chẳng phải hữu vi, chẳng phải nghiệp quả; chẳng phải hành, chẳng phải [hành] diệt;
chẳng phải tâm, chẳng phải [tâm] sở; không thể nghĩ bàn. Sự thường tồn [của
thân ấy] không thể nghĩ bàn, không [thuộc về ý] thức, vốn lìa khỏi tâm cũng chẳng
lìa khỏi tâm.
“Tâm ấy bình đẳng, không có mà cũng có, không đến đi mà cũng đến đi, chẳng phá,
chẳng hoại, chẳng đoạn, chẳng dứt, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải chủ mà
cũng là chủ, chẳng có chẳng không, dứt bặt mọi niệm tưởng thô tháo hay tinh tế,
chẳng thuộc văn tự cũng chẳng phải không thuộc văn tự; chẳng phải định cũng chẳng
phải không định; không thể thấy mà thấy rất rõ ràng minh bạch; không có nơi chốn
mà cũng có nơi chốn, không có nhà mà cũng là có nhà, không tối tăm, không sáng
suốt, không tịch tĩnh mà cũng là tịch tĩnh.
“Đó là không sở hữu, không thọ nhận, không bố thí, trong sạch chẳng nhiễm ô,
không tranh giành, dứt bỏ sự tranh giành, trụ yên nơi không chỗ trụ, không nắm
giữ, không buông rơi, không phải pháp, không phải phi pháp, chẳng phải ruộng
phước cũng là ruộng phước; không cùng tận hay bất tận, lìa cả mọi sự cùng tận.
“Đó là sự trống không lìa khỏi trống không; tuy chẳng thường trụ cũng là thường
trụ, chẳng phải diệt mất trong từng niệm, không có bụi dơ, không thuộc văn tự,
lìa cả văn tự, chẳng phải âm thanh, chẳng phải thuyết dạy, cũng chẳng phải sự
tu tập; không thể cân nhắc đo lường, không duy nhất cũng không khác biệt; chẳng
phải hình tượng, chẳng phải tướng trạng [mà đầy đủ] các tướng trang nghiêm; chẳng
phải dũng cảm, chẳng phải sợ sệt; chẳng phải vắng lặng hay không vắng lặng;
không có sự nóng nảy hay không nóng nảy; không thể nhìn thấy, không có tướng mạo!
“Như Lai không [khởi ý niệm đang] cứu độ bất cứ ai nên cứu độ được tất cả chúng
sanh; không [khởi ý niệm đang] giải thoát bất cứ ai nên có thể giải thoát chúng
sanh; không [khởi ý niệm đang] giúp cho bất cứ ai được tỉnh giác liễu ngộ, nên
có thể khai ngộ cho chúng sanh. Vì không phân biệt, chia chẻ nên thuyết pháp
đúng lý chân thật duy nhất. Vì là bậc Vô thượng nên không thể xét lường; đồng
như hư không chẳng có hình mạo; đồng với tánh vô sanh, không [nằm trong ý
nghĩa] đoạn dứt hay thường còn; thường làm theo một thừa duy nhất, [chỉ do]
chúng sanh thấy có Ba thừa; không có sự thối chuyển, dứt sạch mọi sự trói buộc;
không đối nghịch, không xúc chạm; chẳng phải tánh trụ nơi tánh; không có những
sự hợp tan, dài ngắn, vuông tròn... không phải các ấm, nhập, giới mà [thị hiện]
là các ấm, nhập, giới; không tăng thêm, không giảm bớt; không có sự hơn kém.
“Thân Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy, không ai biết được mà không
ai là không biết; không ai thấy được mà không ai là không thấy; chẳng phải hữu
vi, chẳng phải vô vi; chẳng phải thế gian, chẳng phải ngoài thế gian; chẳng phải
tạo tác, chẳng phải không tạo tác; chẳng phải chỗ nương theo hay không nương
theo; chẳng phải bốn đại, chẳng ngoài bốn đại; chẳng phải [do] nhân [tạo
thành], cũng chẳng phải không [do] nhân [tạo thành]; chẳng phải chúng sanh, chẳng
ngoài chúng sanh; chẳng phải sa-môn, chẳng phải bà-la-môn.
“[Thân] ấy là sư tử, đại sư tử; là chẳng phải thân, chẳng phải không thân; là
không thể tuyên thuyết, trừ ra một tướng của pháp; là không thể tính đếm, khi
nhập Niết-bàn cũng chẳng phải nhập Niết-bàn.
“Pháp thân Như Lai thành tựu vô lượng công đức vi diệu như vậy!
“Ca-diếp! Chỉ có Như Lai mới biết được tướng ấy, hàng Thanh văn, Duyên giác
không thể biết được.
“Ca-diếp! Công đức như vậy tạo thành thân Như Lai, chẳng phải là cái thân nuôi
lớn bởi sự ăn uống các thứ.
“Ca-diếp! Thân chân thật của Như Lai có những công đức như vậy, làm sao có thể
có những sự bệnh khổ, suy yếu, mong manh không bền chắc như món đồ gốm chưa
nung?
“Này Ca-diếp! Sở dĩ Như Lai thị hiện có bệnh khổ, chỉ là vì muốn điều phục
chúng sanh.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết, thân Như Lai chính là thân kim cang. Từ nay
ông nên thường chuyên tâm suy xét nghĩa ấy, đừng nghĩ đến cái thân do sự ăn uống
[tạo thành]. Ông cũng phải vì người khác mà giảng thuyết rằng thân Như Lai
chính là Pháp thân.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Lai thành tựu công đức như vậy, làm sao
thân ngài có thể bị những sự bệnh khổ, vô thường phá hoại? Từ nay con sẽ thường
suy xét rằng thân Như Lai là pháp thân thường tồn, là thân an lạc. Con cũng sẽ
vì người khác mà giảng rộng nghĩa này.
“Kính bạch Thế Tôn! Pháp thân Như Lai như kim cang chẳng hề hư hoại, nhưng con
chưa biết nhờ nhân duyên gì có được thân ấy?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Do nhân duyên hộ trì Chánh pháp mới được thành tựu thân kim
cang như vậy!
“Ca-diếp! Thuở xưa, ta nhờ nhân duyên hộ trì Chánh pháp mà nay thành tựu thân
kim cang này, thường trụ chẳng hề hư hoại.
“Thiện nam tử! Người hộ trì Chánh pháp chẳng thọ trì Năm giới, chẳng tu chỉnh
oai nghi, [?] cầm đao kiếm, cung tên, mâu sóc... mà đi theo che chở, bảo vệ cho
vị tỳ-kheo trong sạch giữ gìn giới hạnh.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như có vị tỳ-kheo lìa khỏi những người che
chở bảo vệ, riêng ở chỗ vắng vẻ, nơi cội cây trong vùng tha ma hoang địa, nên
xưng rằng đó là tỳ-kheo chân chính. Còn như người tu hành mà có người khác luôn
đi theo để che chở bảo vệ thì nên biết rằng đó chỉ là hạng cư sĩ trọc đầu mà
thôi!”
Phật bảo Ca-diếp: “Không được nói rằng đó là hạng cư sĩ trọc đầu! Như có vị tỳ-kheo
dù đến ở nơi đâu cũng chỉ nuôi thân vừa đủ, rồi lo đọc tụng kinh điển, suy gẫm,
ngồi thiền. Như có ai đến hỏi pháp, liền giảng thuyết cho nghe, như giảng về
phước đức của việc bố thí và việc trì giới, biết đủ, ít ham muốn... Tuy có thể
giảng thuyết đủ các pháp như vậy, nhưng không đủ sức làm hạnh sư tử hống, không
được các sư tử hầu quanh, không đủ sức hàng phục những kẻ ác phi pháp. Vị tỳ-kheo
như vậy không thể làm lợi ích cho mình và lợi ích cho chúng sanh. Nên biết rằng
đó là hạng người nhát gan, lười biếng. Tuy có thể trì giới, giữ hạnh trong sạch,
nhưng nên biết rằng người ấy không làm nên việc gì.
“Như có vị tỳ-kheo, nuôi thân đầy đủ hoặc thường được sung túc, lại có thể hộ
trì những giới cấm mà mình đã thọ, đủ sức làm hạnh sư tử hống, thuyết rộng diệu
pháp, như chín bộ kinh điển là: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Thọ ký, Già-đà, Ưu-đà-na, Y-đế-mục-đa-già,
Xà-đà-già, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma. Vị ấy vì người khác mà giảng rộng những
kinh điển như vậy để làm lợi ích, an lạc cho chúng sanh. Vị ấy lại lớn tiếng
tuyên thuyết rằng: ‘Trong kinh Niết-bàn ngăn cấm các tỳ-kheo không được nuôi dưỡng
tôi tớ, bò, dê... cùng chứa trữ những vật không đúng Chánh pháp. Như tỳ-kheo
nào chứa trữ những vật bất tịnh như vậy thì phải nghiêm trị.’
“Trước đó, trong các bộ kinh khác Như Lai cũng có dạy rằng: Như có tỳ-kheo nào
chứa trữ những vật phi pháp như vậy thì quốc vương nên y theo pháp mà nghiêm trị,
buộc phải hoàn tục.’
“Như vị tỳ-kheo trong khi dũng mãnh tuyên thuyết Chánh pháp như vậy, lại có những
kẻ phá giới nghe được, cùng nhau oán hận, hãm hại pháp sư ấy. Vị pháp sư thuyết
pháp ấy ví như có bị hại chết, cũng được xưng là bậc trì giới, làm lợi mình lợi
người. Vì nhân duyên ấy, ta cho phép các vị quốc chủ, quần thần, tể tướng, các
vị cư sĩ Theo bảo vệ người thuyết pháp. Như ai muốn hộ trì Chánh pháp, nên học
theo cách đó.
“Này Ca-diếp! Những kẻ [làm tỳ-kheo mà] phá giới, không hộ trì Chánh pháp mới
đáng gọi là cư sĩ trọc đầu. Không được dùng cách ấy mà gọi người trì giới.
“Thiện nam tử! Trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ở tại
thành Câu-thi-na này, có Phật ra đời hiệu là Hoan Hỷ Tăng Ích, Như Lai, Ứng
cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ điều
ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
“Thuở ấy, cảnh giới của đức Phật này rộng lớn, trang nghiêm, thanh tịnh, dồi
dào, an lạc. Nhân dân phồn thạnh, không hề bị nạn đói khát, đều giống như các vị
Bồ Tát ở cõi nước An Lạc. Đức Phật ấy trụ thế giáo hóa chúng sanh đến vô lượng
kiếp. Sau cùng, ngài đến rừng cây sa-la có hai cây sa-la mọc sóng đôi mà nhập
Niết-bàn.
“Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Chánh pháp trụ ở thế gian vô lượng ức năm. Rồi đến
khoảng hơn bốn mươi năm trước khi Chánh pháp diệt, có một vị tỳ-kheo trì giới
tên là Giác Đức. Vị này có nhiều đồ đệ theo hầu chung quanh, có khả năng tuyên
dương Chánh pháp, giảng rộng được 9 bộ kinh điển, nghiêm cấm các tỳ-kheo không
được nuôi dưỡng tôi tớ, bò, dê... cùng chứa trữ tài vật không đúng theo giới luật.
“Khi ấy, có nhiều tỳ-kheo phá giới nghe ngài tuyên thuyết như vậy, thảy đều
sanh lòng ác. Họ cầm dao, xách gậy, kéo nhau đến bức bách vị pháp sư chân chính
ấy.
“Bấy giờ, vị vua trong nước tên là Hữu Đức nghe biết việc ấy, vì lòng ủng hộ
Chánh pháp liền ngự đến chỗ pháp sư, chiến đấu mãnh liệt chống lại những tỳ-kheo
độc ác phá giới kia để bảo vệ pháp sư khỏi sự nguy hại.
“Khi ấy, thân vua phải chịu nhiều thương tích, khắp người không còn một chỗ nào
lành lặn, dù là nhỏ như hạt cải.
“Tỳ-kheo Giác Đức khi ấy khen ngợi đức vua rằng: ‘Lành thay! Lành thay! Vua quả
thật là người hộ trì Chánh pháp. Đời sau thân vua ắt sẽ trở thành vô lượng pháp
khí.’
“Bấy giờ, vua được nghe thuyết pháp xong, lòng rất hoan hỷ, trút hơi từ bỏ cõi
trần, liền sanh về nước Phật A-súc, làm đệ tử bậc nhất của đức Phật ấy. Những
nhân dân và quyến thuộc theo vua, hoặc có công chiến đấu hay có lòng tùy hỷ, tất
cả đều được tâm Bồ-đề không thối chuyển, khi mạng chung đều được sanh về nuớc
Phật A-súc.
“Tỳ-kheo Giác Đức sau khi mạng chung cũng được sanh về nước Phật A-súc, làm đệ
tử thứ nhì trong chúng Thanh văn của đức Phật ấy.
“Như vào lúc Chánh pháp sắp diệt tận, nên thọ trì và ủng hộ như vậy đó.
“Ca-diếp! Vị vua thuở ấy, tức là ta đây. Vị tỳ-kheo thuyết pháp chính là Phật
Ca-diếp.
“Ca-diếp! Người ủng hộ Chánh pháp được vô lượng quả báo như vậy đó. Nhờ nhân
duyên ấy, nay ta được đủ các tướng tốt trang nghiêm, thành tựu Pháp thân, được
thân không hư hoại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Thân Như Lai [chân thật] thường trụ,
[không phải pháp hoại diệt, lòng con đã tin chắc điều đó] như khắc sâu vào đá.”
Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Bởi nhân duyên ấy, các hàng tỳ-kheo, tỳ-kheo
ni, nam nữ cư sĩ đều nên gắng sức hộ trì Chánh pháp. Quả báo của việc hộ trì
Chánh pháp là rộng lớn khôn lường!
“Thiện nam tử! Vì vậy nên những người cư sĩ nam hộ pháp nên cầm dao, gậy mà bảo
vệ, che chở vị tỳ-kheo giữ Chánh pháp. Như có những ai thọ trì Năm giới, cũng
chưa được gọi là người Đại thừa. Dù chẳng thọ Năm giới, nhưng có công hộ trì
Chánh pháp, có thể gọi là Đại thừa. Người hộ trì Chánh pháp nên cầm đao kiếm, gậy
gộc, khí giới mà hầu bên người thuyết pháp.”
Ca-diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như những tỳ-kheo làm bạn với những nam cư sĩ
cầm dao gậy ấy, đó là có thầy dạy hay không có thầy dạy? Đó là trì giới hay phá
giới?”
Phật dạy Ca-diếp: “Chớ nên bảo họ là những người phá giới.
“Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn, đến đời trược ác, đất nước loạn lạc,
người ta sẽ cướp giật lẫn nhau, nhân dân phải đói khổ. Khi ấy, sẽ có nhiều người
vì đói khổ mà phát tâm xuất gia. Những người như vậy gọi là người [thế tục] trọc
đầu, [chẳng phải tỳ-kheo]. Bọn trọc đầu ấy, nếu thấy các bậc tỳ-kheo trong sạch,
giữ gìn giới luật, đầy đủ oai nghi, hộ trì Chánh pháp, họ liền xua đuổi hoặc giết
hại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Người trì giới, hộ trì Chánh pháp,
làm sao có thể đi vào những nơi làng xóm, thành ấp để giáo hóa?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì vậy nên nay ta cho phép người trì giới [trong thời
loạn lạc nhiễu nhương ấy] được nương cậy vào hàng cư sĩ cầm dao gậy, làm bạn với
họ. Như có những quốc vương, đại thần, trưởng giả, nam cư sĩ lo việc hộ trì
Chánh pháp, tuy cầm dao gậy nhưng ta cũng nói rằng những người ấy là bậc trì giới.
Tuy cầm dao gậy nhưng chẳng [có tâm] giết hại. Nếu ai có thể làm như vậy thì được
gọi là người trì giới bậc nhất.
“Ca-diếp! Người hộ pháp, nghĩa là người có đủ chánh kiến, đủ sức giảng rộng
kinh điển Đại thừa, rốt cùng cũng chẳng cầm nắm lọng báu của vua, bình dầu, gạo
thóc, các loại trái cây... chẳng vì chỗ lợi dưỡng mà gần gũi, thân mật với quốc
vương, đại thần, trưởng giả; đối với những kẻ tín thí, giữ lòng ngay thẳng
không dua nịnh; đầy đủ oai nghi, khuất phục những kẻ phá giới và những kẻ xấu
ác. Đó gọi là bậc thầy trì giới và hộ pháp, có thể làm thiện tri thức chân thật
của chúng sanh. Người như vậy có tấm lòng sâu rộng như biển cả.
“Ca-diếp! Như có tỳ-kheo nào vì lợi dưỡng mà thuyết pháp với người khác, lại có
đồ chúng quyến thuộc cũng xưng là thầy, tham cầu lợi dưỡng, người như vậy tự
làm hư hoại chúng tăng.
“Ca-diếp! Chúng tăng có ba hạng: một là hạng tăng tạp nhạp phá giới, hai là hạng
tăng ngu si và ba là hàng tăng thanh tịnh.
“Hạng tăng tạp nhạp phá giới dễ bị hư hoại. Hàng tăng thanh tịnh trì giới không
thể do nhân duyên lợi dưỡng mà bị phá hoại được.
“Thế nào là hạng tăng tạp nhạp phá giới? Như có những tỳ-kheo tuy giữ giới cấm,
nhưng vì cầu lợi dưỡng nên quan hệ đi lại, nằm ngồi thân cận với kẻ phá giới, gần
gũi và nhờ cậy họ, chung cùng việc làm với họ. Đó gọi là phá giới, cũng gọi là
tăng tạp nhạp.
“Thế nào là tăng ngu si? Như có những tỳ-kheo ở nơi chỗ tu hành vắng lặng, căn
tánh không lanh lợi, u ám, mờ mịt, sống bằng phép khất thực ít ham muốn. Trong
những ngày tụng giới và trong khi tự tứ thì dạy đệ tử phải sám hối cho trong sạch,
còn khi thấy những kẻ chẳng phải đệ tử mình phạm nhiều giới cấm thì chẳng thể dạy
họ sám hối cho trong sạch, lại chung cùng với họ mà tụng giới và tự tứ. Đó gọi
là tăng ngu si.
“Thế nào là hàng tăng thanh tịnh? Như có những tỳ-kheo không bị chúng ma ngăn
trở làm cho hư hoại. Đó là hàng chúng tăng Bồ Tát, bản tánh thanh tịnh, có thể
điều phục hai hạng tăng nói trên, khiến họ được trụ yên trong chúng tăng thanh
tịnh. Đó gọi là các bậc đại sư cao trổi hơn hết ủng hộ Phật pháp. Khéo giữ theo
giới luật, vì muốn điều phục chúng sanh, làm lợi ích chúng sanh nên biết rõ các
tướng của giới có quan trọng hoặc ít quan trọng. Nếu không thuộc về giới luật
thì các vị ấy không cần chứng biết, còn như đúng là giới luật thì các vị liền
chứng biết [phân biệt rõ ràng].
“Thế nào là điều phục chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh? Nếu như các vị Bồ
Tát vì giáo hóa chúng sanh, thường vào những nơi làng xóm thôn ấp, bất chấp thời
tiết [tốt xấu], hoặc đến nhà đàn bà góa, nhà của dâm nữ, ở chung với họ trong
nhiều năm. Nếu là hàng Thanh văn thì không nên làm như vậy. Đó gọi là điều phục,
làm lợi ích chúng sanh.
“Thế nào là rõ biết phần quan trọng của giới? Như thấy Như Lai nhân việc mà chế
giới, dạy rằng: ‘Từ nay các ông đừng tái phạm.’ Như Bốn trọng cấm thì người xuất
gia không được phạm vào. Nếu cố phạm vào thì chẳng phải là sa-môn, chẳng phải
là dòng Thích tử. Đó gọi là phần quan trọng.
“Thế nào là ít quan trọng? Nếu lỡ phạm vào các điều luật nhỏ nhặt, nghe người
khác can gián [từ một] đến ba lần bèn từ bỏ việc đã phạm. Đó gọi là ít quan trọng.
Việc không đúng giới luật thì không chấp nhận. Ví như có người nói rằng những vật
chẳng thanh tịnh là đáng thọ dụng thì không gần gũi chung cùng với người ấy. Việc
đúng giới luật thì nên chấp nhận, thuận theo. Người khéo học giới luật chẳng gần
với kẻ phá giới; thấy ai làm theo đúng với giới luật, liền sanh lòng vui vẻ.
Như vậy có thể biết được chỗ làm theo Phật pháp, có thể giảng thuyết. Đó gọi là
luật sư. Như có thể giải rộng nghĩa chân thật của Đại thừa, có thể khéo gìn giữ
Khế kinh, cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Phật pháp vô lượng, không thể nghĩ bàn như vậy. Như Lai cũng thế,
không thể nghĩ bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thật vậy, thật vậy! Đúng như lời Phật
dạy. Phật pháp vô lượng, không thể nghĩ bàn. Như Lai cũng thế, không thể nghĩ
bàn! Vậy nên biết rằng Như Lai là thường trụ, chẳng hư hoại, chẳng biến đổi.
Nay con đã học hiểu được, rồi cũng sẽ vì người khác mà giảng rộng nghĩa ấy.”
Lúc ấy, Phật ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thân Như Lai tức
là thân kim cang chẳng hoại. Bồ Tát nên học thông suốt lẽ ấy, thấy biết chân
chánh. Nếu có thể thấy biết rành rẽ như vậy, tức là thấy được thân kim cang của
Phật, thân không thể hư hoại, cũng như nhìn vào tấm gương mà thấy được các màu
sắc hình ảnh vậy.”
PHẨM CÔNG ĐỨC DANH TỰ
Phẩm thứ ba
Lúc ấy, đức Như Lai bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông nên khéo giữ
lấy kinh này, công đức sẵn có trong từng câu chữ. Người thiện nam, tín nữ nào
nghe được tên kinh này, không thể sanh vào trong bốn cảnh giới xấu. Tại sao vậy?
Vì kinh điển này là chỗ tu tập của vô lượng vô biên chư Phật. Nay ta sắp nói ra
chỗ được công đức.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nên đặt tên kinh là gì? Chư Đại Bồ Tát nên
cung kính giữ gìn như thế nào?”
Phật dạy Ca-diếp: “Kinh này tên là Đại Bát Niết-bàn. Đầu kinh, giữa kinh cho đến
cuối kinh đều là những lời lành cả. Nghĩa lý sâu xa, văn chương hay khéo, tinh
túy thuần khiết, đầy đủ Phạm hạnh thanh tịnh, là kho tàng kim cương quý báu trọn
đủ không thiếu. Nay ông hãy nghe cho kỹ, ta sẽ giảng thuyết.
“Thiện nam tử! Nói là đại, nghĩa là thường, như tám con sông lớn đều đổ về nơi
biển cả. Kinh này cũng vậy, hàng phục tất cả phiền não trói buộc cùng các tánh
ma. Sau đó mới nhập Đại Niết-bàn, buông bỏ thân mạng. Vì vậy nên gọi kinh này
là Đại Bát Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Lại như vị thầy thuốc kia, có một phương thuốc bí truyền, có thể
thâu nhiếp tất cả các phương thuốc khác. Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, tất cả
các pháp môn bí mật, sâu kín của diệu pháp mà Như Lai đã thuyết đều có đủ trong
Đại Bát Niết-bàn. Vì vậy nên gọi kinh này là Đại Bát Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Ví như người làm ruộng, gieo giống vào mùa xuân rồi thì bắt đầu
trông đợi. Đến khi thu hoạch rồi, liền dứt hết mọi sự trông mong. Thiện nam tử!
Tất cả chúng sanh cũng thế, trong khi tu học các kinh, thường trông mong được sự
lợi ích. Nếu như nghe được kinh Đại Bát Niết-bàn này rồi, thì lòng trông mong sự
lợi ích ở các kinh khác ắt sẽ không còn. Kinh Đại Bát Niết-bàn này có thể đưa
chúng sanh thoát ra khỏi dòng sanh tử lưu chuyển.
“Thiện nam tử! Ví như trong các dấu chân, dấu chân voi là lớn nhất. Kinh này
cũng thế, là cao trổi nhất trong những phép tam-muội của các kinh.
“Thiện nam tử! Ví như cày ruộng, cày lúc mùa thu là tốt nhất. Kinh này cũng thế,
là hơn hết trong các kinh.
“Thiện nam tử! Ví như trong các món thuốc, món đề-hồ là bậc nhất. Vì khéo trị
được lòng nóng nảy và não loạn của chúng sanh, nên pháp Đại Niết-bàn này cũng
là bậc nhất.
“Thiện nam tử! Ví như món sữa ngọt có đủ tám vị, kinh Đại Bát Niết-bàn cũng có đủ
tám vị. Thế nào là tám? Một là thường tồn, hai là không biến đổi, ba là yên ổn,
bốn là trong sạch mát mẻ, năm là chẳng già suy, sáu là chẳng diệt mất, bảy là
không nhiễm ô, tám là vui thích. Đó là tám vị. Bởi có đủ tám vị, nên gọi kinh
này là Đại Bát Niết-bàn.
“Chư Đại Bồ Tát nếu trụ yên nơi kinh này thì có thể thị hiện Niết-bàn ở khắp mọi
nơi, cho nên gọi kinh này là Đại Bát Niết-bàn.
“Ca-diếp! Như có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn do nơi kinh Đại Bát Niết-bàn
này mà đạt được Niết-bàn, thì nên học lẽ này: ‘Như Lai là thường trụ, Pháp và
Tăng cũng là thường trụ.’”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Hay lạ thay đức Thế Tôn! Công đức của Như Lai thật
không thể nghĩ bàn! Pháp và Tăng cũng vậy, không thể nghĩ bàn! Kinh Đại Bát Niết-bàn
này cũng không thể nghĩ bàn!
“Nếu ai tu học kinh điển này, người ấy được pháp môn cao trổi nhất, có thể làm
bậc lương y. Nếu ai chưa tu học kinh này, nên biết rằng đó là người tối tăm,
không có mắt huệ, bị vô minh che khuất.”
QUYỂN 4 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần một
Phật lại bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Khi Đại Bồ Tát
phân biệt và khai thị kinh Đại Bát Niết-bàn, có bốn ý nghĩa được biểu lộ. Thế
nào là bốn? Một là tự sửa mình chân chánh, hai là làm cho kẻ khác trở nên chân
chánh, ba là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp, bốn là khéo giảng rõ nghĩa nhân duyên.
“Thế nào là tự sửa mình chân chánh? Như Phật Như Lai nhìn thấy các nhân duyên
liền có chỗ thuyết dạy.
“Ví như có tỳ-kheo thấy đám lửa lớn, bèn nói rằng: ‘Thà tôi phải ôm đám lửa
nóng ấy, chứ chẳng dám đối với tạng bí mật và Mười hai bộ kinh do Như Lai thuyết
mà phỉ báng rằng: ‘Kinh ấy do Ma Ba-tuần thuyết.’
“Như người nói rằng: ‘Như Lai, Pháp, Tăng là vô thường.’ Người nói như vậy là tự
dối gạt mình mà cũng dối gạt kẻ khác. Thà lấy dao bén tự cắt lưỡi mình, chứ
không bao giờ nên nói rằng: ‘Như Lai, Pháp, Tăng là vô thường.’ Như nghe người
khác nói ra lời ấy, cũng chớ nên tin nhận. Đối với kẻ nói ra lời ấy, nên đem
lòng thương xót.
“Như Lai, Pháp, Tăng thật là không thể nghĩ bàn. Nên tin giữ lẽ ấy. Tự quán thân
mình dường như đám lửa.
“Đó gọi là tự sửa mình chân chánh.
“Thế nào là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh?
“Một lúc nọ, khi Phật đang thuyết pháp, có một phụ nữ còn đang cho con bú đến
chỗ Phật ngự, cúi đầu lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên, nhưng trong lòng
vẫn có điều nghĩ tưởng.
“Lúc ấy, đức Thế Tôn biết ý nghĩ của cô ta nên dạy rằng: ‘Vì lòng thương con,
cô đã cho con bú rất nhiều, chẳng biết số lượng, chẳng rõ là có tiêu hóa được
hay không.’
“Liền đó, người phụ nữ bạch Phật rằng: ‘Lạ thay, Thế Tôn! Ngài biết được ý nghĩ
trong lòng con. Xin Như Lai dạy con cách cho bú nhiều ít thế nào. Thế Tôn! Sáng
nay con đã cho trẻ bú rất nhiều sữa, e rằng không tiêu hóa nổi, chẳng biết có hại
mạng nó chăng? Xin đức Như Lai vì con giảng rõ.’
“Phật dạy: ‘Lượng sữa mà đứa con của cô đã bú, rồi sẽ tiêu hóa hết, giúp tăng
thêm tuổi thọ.’
“Người phụ nữ nghe xong, trong lòng phấn chấn, lại bạch Phật: ‘Lời chân thật của
Như Lai làm cho con vui mừng lắm.’ Như vậy, vì điều phục các chúng sanh, Thế
Tôn đã khéo phân biệt nói các lẽ tiêu hoặc chẳng tiêu, lại cũng nói những lẽ vô
ngã, vô thường của các pháp. Nếu trước hết, Phật Thế Tôn thuyết lẽ thường, những
người theo học ngài tất sẽ nói rằng: ‘Pháp ấy cũng như pháp của ngoại đạo.’ Rồi
họ sẽ bỏ ngài mà đi.
“Phật lại dạy người phụ nữ ấy rằng: ‘Nếu đứa con đã lớn, biết đi biết chạy, thì
khi ăn vào có thể tiêu hóa được những món khó tiêu. Lúc đó, sữa của cô sẽ không
đủ cung cấp cho nó. Các đệ tử Thanh văn của ta cũng thế, họ như đứa con còn bú
của cô, không tiêu hóa nổi pháp thường trụ này. Vì vậy nên trước hết, ta thuyết
dạy họ những lẽ: khổ, vô thường. Đến khi nào các Thanh văn, đệ tử của ta có đủ
công đức rồi, đủ sức tu tập kinh điển Đại thừa, ta mới thuyết với họ sáu vị ở
kinh này. Thế nào là sáu vị? Ta thuyết dạy rằng: khổ, đó là vị chua; vô thường,
đó là vị mặn; vô ngã, đó là vị đắng; lạc, đó là vị ngọt; ngã đó là vị cay; thường,
đó là vị nhạt. Trong thế gian có ba vị, đó là: vô thường, vô ngã, vô lạc. Phiền
não là củi, trí tuệ là lửa, với nhân duyên ấy được cơm Niết-bàn. Ta dạy các
pháp thường, lạc, ngã, khiến cho các đệ tử đều được món ngon ưa thích.’
“Phật lại bảo người phụ nữ ấy rằng: ‘Như cô có việc phải đi đến xứ khác, nên
xua đuổi những đứa con ngỗ nghịch ra khỏi nhà, rồi mới đem kho quý trong nhà mà
giao cho những đứa con ngoan.’ Người phụ nữ bạch Phật rằng: ‘Đúng như lời Phật
dạy, nên giao kho trân bảo cho những đứa con ngoan, không nên giao cho những đứa
ngỗ nghịch.’
“Phật dạy: ‘Này cô! Ta đây cũng thế, khi nhập Niết-bàn ta chẳng đem kho pháp vi
diệu sâu kín và vô thượng của Như Lai mà trao cho các đệ tử Thanh văn; cũng như
kho báu của cô không giao cho những đứa con ngỗ nghịch. Ta cần phó chúc cho
hàng Bồ Tát, cũng như cô đem kho báu mà giao cho những đứa con ngoan. Vì sao vậy?
Vì các đệ tử Thanh văn có tư tưởng biến đổi, cho rằng Phật Như Lai thật đã diệt
độ. Nhưng ta thật ra chẳng có diệt độ. Ví như khi cô đi xa chưa về thì những đứa
con ngỗ nghịch sẽ nói rằng cô đã chết. Mà thật ra cô không hề chết. Chư Bồ Tát
đều nói rằng: Như Lai là thường, chẳng biến đổi. Các vị ấy giống như những đứa
con ngoan của cô, chẳng nói rằng cô đã chết. Vì nghĩa ấy, ta đem kho pháp bí mật
vô thượng mà phó chúc cho chư Bồ Tát.’
“Thiện nam tử! Như có chúng sanh nào bảo rằng Phật là thường trụ, chẳng biến đổi,
nên biết rằng có Phật ở tại nhà người ấy.
“Đó gọi là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh.
“Thế nào là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp?
“Như có người đến hỏi đức Thế Tôn rằng: ‘Tôi nên làm thế nào để không bỏ tiền của
ra mà vẫn đáng gọi là bậc đại thí chủ?’
“Phật dạy: ‘Nếu có các vị sa-môn, bà-la-môn ít ham muốn, biết đủ, chẳng thọ nhận,
chẳng chứa trữ những vật bất tịnh, nên thí cho các vị ấy những tôi trai tớ gái
để làm kẻ hầu hạ sai khiến. Đối với những vị tu trì phạm hạnh, nên thí cho những
nữ nhân. Đối với những người đã dứt bỏ rượu thịt, nên thí cho rượu thịt. Đối với
những vị không ăn quá ngọ, nên thí cho những bữa cơm quá ngọ. Đối với những vị
chẳng trang sức bằng hoa hương, nên thí cho hoa hương. Những người thí như vậy
thì danh tiếng bố thí lan rộng ra khắp mọi nơi mà không phải mất mát tiền của
chi cả.’ Đó gọi là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Đối với người ăn thịt chẳng nên cho
thịt. Vì sao vậy? Con thấy rằng người không ăn thịt được công đức lớn.”
Phật khen ngợi Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Nay ông biết rõ ý ta. Bồ
Tát hộ pháp nên làm như vậy.
“Thiện nam tử! Từ nay về sau ta không cho phép các đệ tử Thanh văn ăn thịt. Khi
nhận ở người đàn-việt món thịt hiến cúng, nên quán tưởng đó như thịt con mình.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Tại sao Như Lai không cho phép ăn thịt?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Kẻ ăn thịt làm dứt mất hạt giống đại từ.”
Ca-diếp lại bạch Phật: “Vậy tại sao lúc trước Như Lai cho phép tỳ-kheo ăn ba loại
tịnh nhục?”
Phật dạy: “Ca-diếp! [Việc cho phép ăn] ba loại tịnh nhục, đó là tùy theo sự việc
mà hạn chế dần dần.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà từ mười loại thịt bất
tịnh cho đến chín loại tịnh nhục, Phật đều không cho phép dùng nữa?”
Phật dạy Ca-diếp: “Đó cũng là nhân nơi sự việc mà ta dần dần hạn chế. Nên biết
rằng đó là ý nghĩa vì sao nay ta cấm hẳn việc ăn thịt.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Tại sao Như Lai khen rằng cá là món ăn ngon?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta không hề nói rằng cá là món ăn ngon. Ta nói rằng:
mía, cơm gạo, đường phèn, tất cả những thứ ngũ cốc cùng đường đen, sữa, bơ sữa,
dầu... là những món ăn ngon. Tuy ta nói rằng có thể cất giữ các loại vải, nhưng
phải làm cho mất vẻ đẹp đi, huống chi lại còn ham thích ăn món cá hay sao?”
Ca-diếp lại bạch Phật: “Nếu Như Lai đã chế định không được ăn thịt, vậy sữa và
các món được chế ra từ sữa, cùng với các loại dầu mè, cho đến các loại vải vóc,
như hàng lụa kiêu-sa-da, những loại ngọc thạch, da thú, vàng bạc, chén bát...
các thứ ấy cũng chẳng nên dùng sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông không nên hiểu giống như bọn ngoại đạo Ni-kiền.
Như Lai chế định mỗi một giới cấm đều có dụng ý riêng. Vì có dụng ý riêng, nên
ta cho phép ăn ba thứ tịnh nhục. Vì có dụng ý riêng, nên ta cấm dùng mười loại
thịt bất tịnh. Và cũng vì có dụng ý riêng, nên nay ta cấm hẳn tất cả các loại
thịt, kể cả thịt của những con thú tự nhiên chết, không bị giết hại.
“Ca-diếp! Kể từ hôm nay ta cấm tất cả các đệ tử không được ăn bất cứ loại thịt
nào cả.
“Ca-diếp! Những người ăn thịt, trong khi đi, đứng, ngồi nằm đều xông ra hơi thịt,
tất cả chúng sanh nghe hơi ấy, đều lấy làm sợ sệt. Ví như một người kia, đã gần
gũi với sư tử, những kẻ khác khi gặp người ấy, nghe mùi hôi của sư tử cũng sanh
lòng sợ sệt!
“Thiện nam tử! Ví như người ăn tỏi, xông ra mùi hôi khó chịu. Những ai gặp người
ấy, ngửi thấy mùi hôi liền bỏ đi. Dù là nhìn thấy từ xa còn chẳng muốn, huống
chi lại muốn đến gần hay sao?
“Những người ăn thịt cũng như vậy. Tất cả chúng sanh khi ngửi thấy mùi thịt thảy
đều kinh sợ, phát sanh tư tưởng sợ chết. Những loài có mạng sống, hoặc lội dưới
nước, hoặc đi trên đất, hoặc bay trên không trung, thảy đều xa lánh, đều cho rằng:
‘Người ấy là kẻ thù của chúng ta.’
“Bởi vậy, Bồ Tát không có thói quen ăn thịt. Vì độ chúng sanh nên các ngài thị
hiện việc ăn thịt. Tuy thị hiện ăn thịt nhưng thật ra là chẳng ăn.
“Thiện nam tử! Hàng Bồ Tát như vậy, cả những món thanh tịnh còn chẳng ăn, huống
chi lại ăn thịt hay sao?
“Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn, trải qua vô số năm, các vị thánh tu tập
Tứ đạo cũng đều nhập Niết-bàn. Chánh pháp diệt rồi, trong thời kỳ Tượng pháp sẽ
có những tỳ-kheo, có vẻ như là giữ luật, nhưng ít đọc tụng kinh điển, tham muốn
việc ăn uống, nuôi dưỡng xác thân. Họ mặc quần áo thô sơ xấu xí, hình dung tiều
tụy, chẳng có oai đức chi cả. Họ chăn bò, nuôi dê, gánh củi, đội cỏ, râu tóc để
dài, móng tay ra nhọn...
“Tuy mặc áo cà-sa, nhưng bọn họ giống như thợ săn; mắt nhìn lấm lét, chân bước
từ từ dường như mèo rình chuột. Họ thường nói rằng: ‘Ta đắc quả A-la-hán.’
“Họ có nhiều bệnh khổ, ngủ nằm nơi phẩn uế. Bề ngoài họ ra vẻ hiền lành mà
trong lòng ôm giữ sự tham lam, đố kỵ, như người thọ phép câm không nói của
bà-la-môn.
“Họ đội lốt sa-môn nhưng thật chẳng phải sa-môn, trong lòng đầy tà kiến, phỉ
báng Chánh pháp.
“Những người như vậy phá hoại các giới luật mà Như Lai đã chế định, phá hoại
oai nghi của hạnh chân chánh và quả giải thoát mà Phật đã thuyết. Họ lìa bỏ
pháp thanh tịnh và phá hoại giáo pháp sâu xa bí mật của chư Phật.
“Mỗi người trong bọn họ đều theo ý mình mà nói ngược lại với kinh luật. Họ nói
rằng: ‘Như Lai cho phép chúng tôi ăn thịt.’ Họ tự biện luận như thế, nhưng lại
nói đó là lời Phật dạy. Họ cãi lẫy và kiện cáo nhau, người nào cũng tự xưng
mình là sa-môn Thích tử.
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ lại có những sa-môn chứa trữ lúa thóc, nhận các món
thịt cá rồi tự tay làm lấy món ăn; cầm nắm bình dầu, lọng báu, giày da, thân cận
với quốc vương, đại thần, trưởng giả; xem thiên văn đoán vận mệnh, học nghề làm
thuốc; nuôi dưỡng nô tỳ, chất chứa vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, pha lê,
trân châu, san hô, hổ phách, ngọc bích, ngọc thạch, các thứ dưa quả... Họ học
các nghề tinh xảo, vẽ hình, nắn tượng, viết sách, dạy học, gieo giống, trồng
cây, làm thuốc độc, bùa chú, pha chế thuốc, đàn ca hát xướng, cài hoa xức
hương, đánh bạc đánh cờ, học các nghề nghiệp...
“Nếu có những tỳ-kheo nào có thể rời bỏ các việc xấu ác ấy, nên nói rằng những
vị ấy là đệ tử chân thật của ta.”
Lúc ấy, Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
sống nhờ vào người khác. Trong khi khất thực, như gặp những món ăn có xen lẫn
thịt thì nên ăn thế nào cho đúng phép thanh tịnh?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nên dùng nước mà rửa, loại bỏ thịt ra khỏi thức ăn rồi mới
ăn. Như bát đựng cơm bị thịt làm ô uế, hãy rửa cho hết mùi vị đi rồi dùng thì
không có tội. Như thấy trong thức ăn có nhiều thịt, chớ nên nhận lấy. Bất cứ
món ăn nào nhìn thấy có thịt đều không nên ăn, nếu ăn thì có tội.
“Nay ta nói phép cấm ăn thịt là như vậy, nếu nói rộng ra thì không thể hết. Sắp
đến lúc nhập Niết-bàn nên ta chỉ dạy chỗ đại lược như thế. Đó gọi là có thể tùy
chỗ hỏi mà đáp.
“Ca-diếp! Thế nào là khéo giảng rõ nghĩa nhân duyên? Như có tỳ-kheo, tỳ-kheo
ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đến hỏi ta rằng: ‘Thế Tôn! Nghĩa lý như vậy, tại sao
lúc ban đầu Như Lai chẳng thuyết với vua Ba-tư-nặc ý nghĩa sâu xa vi diệu của
pháp môn ấy? Hoặc khi thì thuyết lẽ sâu xa, khi thì thuyết lẽ nông cạn, hoặc
khi gọi là phạm giới, khi gọi là chẳng phạm giới? Thế nào gọi là sa đọa? Thế
nào gọi là giới luật? Thế nào là ý nghĩa của Ba-la-đề-mộc-xoa?’
“Phật dạy: ‘Ba-la-đề-mộc-xoa gọi là biết đủ, thành tựu các oai nghi, không nhận
lãnh và chứa trữ gì cả, cũng gọi là đời sống trong sạch.
“Sa đọa tức là bốn nẻo ác.
“Sa đọa lại cũng có nghĩa là sa đọa vào địa ngục, cho tới rơi vào địa ngục Vô
gián. Luận về chỗ mau chậm thì sự sa đọa ấy còn nhanh hơn cả cơn mưa to trút xuống.
Người nghe biết như vậy phải sanh lòng kinh sợ, giữ bền giới cấm, chẳng phạm
oai nghi, tu tập hạnh biết đủ, đối với tất cả những vật bất tịnh đều không nhận
lãnh.
“Sa đọa cũng có nghĩa là nuôi lớn thêm những cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ.
“Vì những nghĩa trên, nên gọi là sa đọa.
“Ba-la-đề-mộc-xoa nghĩa là lìa bỏ những nghiệp bất thiện, tà vạy của thân, miệng,
ý. Giới luật nghĩa là oai nghi của tám giới, những nghĩa lành trong kinh sâu
xa, ngăn chặn việc nhận lãnh hết thảy những vật bất tịnh cùng những nhân duyên
bất tịnh, cũng ngăn dứt Bốn tội trọng, Mười ba tội tăng tàn, Hai tội không xác
định, Ba mươi tội xả đọa, Chín mươi tội đơn đọa, Bốn tội cần sám hối, Một trăm
hành vi không tốt cần phải học biết để tránh, Bảy phép dứt tranh cãi.
“Hoặc cũng có kẻ phạm vào tất cả các giới. Thế nào là tất cả? Đó là từ Bốn tội
trọng cho tới Bảy phép dứt tranh cãi.
“Lại như có người phỉ báng Chánh pháp của kinh điển rất sâu xa, cho đến những kẻ
nhất-xiển-đề, hoặc kẻ cho là mình được thành tựu đầy đủ, dứt hết tất cả tướng,
không còn nhân duyên. Những người như vậy đều tự nói rằng: ‘Ta là người thông
minh, có trí tuệ sắc bén.’ Các tội nặng hay nhẹ họ đều che giấu cả; họ che giấu
các điều ác như con rùa giấu cả đầu đuôi và bốn chân vào dưới mu. Những tội như
vậy, kéo dài mãi chẳng hề hối hận. Bởi không hối hận, nên tội lỗi ngày càng nhiều
hơn. Những tỳ-kheo ấy đã phạm tội nhưng rốt cùng vẫn luôn giấu kín. Điều đó làm
cho tội lỗi ngày càng lớn thêm, lan rộng. Như Lai đã biết việc ấy, nên lần lượt
chế các giới cấm chứ không nói ra một lúc.
“Bấy giờ, có những thiện nam tử, thiện nữ nhân bạch Phật rằng: ‘Thế Tôn! Như
Lai biết việc như vậy đã lâu rồi, tại sao trước đó không ngăn cấm? Lẽ nào Thế
Tôn muốn cho chúng sanh phải vào địa ngục Vô gián hay sao? Ví như có nhiều người
muốn đi đến phương khác, nhưng lạc mất con đường chính, đi theo đường lạc hướng.
Những người ấy chẳng biết rằng họ đang đi lạc, thảy đều cho rằng mình đi đúng
đường. Họ lại chẳng gặp ai để có thể hỏi xem đường đi đúng hay chẳng đúng.
“Chúng sanh cũng như thế, mê lạc mất Phật pháp, chẳng thấy được chỗ chân chánh.
Như Lai trước nên vì họ chỉ dạy con đường chân chánh, dạy các tỳ-kheo rằng: Thế
này là phạm giới. Thế này là trì giới. Ngài nên ngăn cấm như vậy. Vì sao vậy?
Vì Như Lai Chánh giác là bậc chân thật, thấy biết con đường chân chánh. Chỉ có
Như Lai, vị cao trổi nhất trong các cõi trời, mới có thể thuyết dạy chỗ tăng
thêm công đức và ý nghĩa của Mười điều lành. Vì vậy chúng con khải thỉnh Như
Lai nên chế giới cấm từ trước khi xảy việc.’
“Phật dạy: ‘Thiện nam tử! Nếu nói rằng Như Lai có thể vì chúng sanh giảng dạy
chỗ tăng thêm công đức của Mười điều lành, vậy tức là Như Lai coi chúng sanh đồng
như La-hầu-la. Sao lại vặn hỏi rằng: ‘Lẽ nào Thế Tôn muốn cho chúng sanh phải
vào địa ngục?’ Khi ta thấy một người có nghiệp duyên phải đọa vào địa ngục Vô
gián, ta còn vì người ấy mà trụ thế một kiếp hoặc một kiếp giảm. Ta có lòng đại
từ bi đối với chúng sanh, đã thương như con một của mình thì duyên cớ chi lại dối
gạt để cho chúng sanh phải vào địa ngục?
“Thiện nam tử! Ví như trong nước của vua có người mặc áo nạp y, trước nhìn thấy
áo có lỗ rách, rồi sau mới vá kín lại. Như Lai cũng thế, thấy chúng sanh có
nhân duyên vào địa ngục Vô gián, mới dùng những giới lành mà vá kín những chỗ
chẳng lành cho họ.
“Thiện nam tử! Ví như vị Chuyển luân Thánh vương, trước vì chúng sanh thuyết dạy
Mười điều lành. Rồi về sau, nếu có những người làm ác, vua ấy sẽ tùy việc mà dần
dần dứt bỏ những việc ác. Những việc ác đã dứt rồi thì phép tắc của Thánh vương
tự nhiên lưu hành.
“Thiện nam tử! Ta đây cũng thế. Tuy có thuyết dạy, nhưng không thể chế các giới
cấm từ trước. Cần phải dần dần do nơi những tỳ-kheo có việc làm phi pháp, mới
theo từng việc mà chế các giới cấm. Có những chúng sanh hâm mộ Phật pháp, theo
đúng lời dạy mà tu hành. Những chúng như vậy mới có thể thấy được Pháp thân Như
Lai.
“Ví như bánh xe báu của vị Chuyển luân vương là không thể nghĩ bàn. Như Lai
cũng như thế, không thể nghĩ bàn. Hai ngôi báu Pháp và Tăng cũng không thể nghĩ
bàn. Người có thể thuyết pháp và người nghe pháp cũng đều là không thể nghĩ
bàn.
“Đó gọi là khéo giảng rõ nghĩa nhân duyên.
“Bồ Tát phân biệt và khai thị bốn ý nghĩa biểu lộ ra như vậy, đó gọi là nghĩa
nhân duyên trong Đại Niết-bàn của Đại thừa.
“Lại nữa, tự sửa mình chân chánh, ấy là đạt được Đại Bát Niết-bàn này. Làm cho
kẻ khác trở nên chân chánh, là như ta vì các tỳ-kheo mà thuyết rằng: ‘Như Lai
thường tồn, chẳng biến đổi.’ Ca-diếp! Tùy chỗ hỏi mà đáp, là như nhân nơi chỗ hỏi
của ông mà ta thuyết rộng nghĩa lý rất thâm sâu vi diệu này với các vị Đại Bồ
Tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Về nghĩa nhân duyên, hàng Thanh
văn, Duyên giác chẳng thể hiểu rõ nghĩa rất sâu xa như vậy, chẳng nghe biết rằng
chữ Y (乊) do
ba chấm hợp thành, cũng như tạng bí mật do Giải thoát, Niết-bàn và Đại trí tuệ
Bát-nhã hợp thành.
“Nay ta xiển dương phân biệt nghĩa này, vì hàng Thanh văn mà khai mở con mắt
trí tuệ. Ví như có người nói rằng: ‘Trong bốn việc kể trên, sao gọi là một, chẳng
phải là hư dối đó sao?’ Nên hỏi ngược lại rằng: ‘Như hư không đây vốn không có
gì cả, chẳng động, chẳng ngại. Bốn việc ấy có gì khác nhau? Vậy có thể nói là
hư dối chăng?’”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn, không phải. Những lời như vậy đều là một
nghĩa, ấy là nghĩa không. Các việc như tự sửa mình chân chánh, làm cho kẻ khác
trở nên chân chánh, tùy chỗ hỏi mà đáp, giảng rõ nghĩa nhân duyên, cũng đều là
như vậy, tức là Đại Niết-bàn, chẳng có gì khác nhau.”
Phật bảo Ca-diếp: “Như có kẻ nói rằng: Như Lai là vô thường. Làm sao biết là vô
thường? Như Phật có nói: Dứt các phiền não gọi là Niết-bàn, cũng như lửa tắt chẳng
còn gì cả. Dứt các phiền não lại cũng như vậy, cho nên gọi là Niết-bàn. Vậy làm
sao Như Lai lại là pháp thường trụ, không biến đổi?
“Như Phật có nói: Lìa khỏi các cảnh giới hiện hữu mới gọi là Niết-bàn. Vậy
trong Niết-bàn không có các cảnh giới hiện hữu, làm sao Như Lai lại là pháp thường
trụ, không biến đổi?
“Như cái áo đã hư rách hết thì chẳng còn giống vật gì. Niết-bàn cũng thế, diệt
hết các phiền não thì chẳng còn gì cả. Vậy làm sao Như Lai lại là pháp thường
trụ, không biến đổi?
“Như Phật có nói: Lìa dục tịch diệt, gọi là Niết-bàn. Như người kia bị chém đầu,
tức không có đầu. Lìa dục tịch diệt lại cũng như vậy, không có chi cả nên gọi
là Niết-bàn. Vậy làm sao Như Lai lại là pháp thường trụ, không biến đổi? Như Phật
có nói:
Ví như sắt nung đỏ,
Búa nện, nháng lửa văng.
Văng ra liền diệt mất,
Chẳng biết ở nơi nào!
Được giải thoát chân chánh,
Lại cũng như vậy đó.
Đã vượt khỏi: dâm dục,
Các cảnh giới, bùn lầy,
Được chỗ không lay động,
Chẳng biết tới nơi nào!
“Vậy làm sao Như Lai lại là pháp thường trụ, không biến đổi?
“Ca-diếp! Như có người vặn hỏi [những điều] như vậy, thì đó là sự vặn hỏi sai
trái. Ca-diếp! Ông cũng chẳng nên nghĩ tưởng như thế, cho rằng tánh của Như Lai
là dứt mất.
“Ca-diếp! Việc dứt các phiền não không thuộc về sự vật. Vì sao vậy? Vì dứt sạch
mãi mãi nên gọi là thường. Nói như vậy nghĩa là vắng lặng hoàn toàn, không còn
chi hơn nữa. Dứt sạch hết các tướng, chẳng còn chút dấu vết. Nói như vậy nghĩa
là sáng rõ, thường trụ, chẳng thối lui. Vậy nên Niết-bàn gọi là thường trụ.
“Như Lai cũng thế, thường trụ, chẳng biến đổi. Khi búa nện xuống sắt đỏ, nháng
lửa liền văng ra, đó là ví như phiền não. Văng ra liền diệt mất, chẳng biết ở
nơi nào, đó là ví như các đức Như Lai đã dứt sạch phiền não, chẳng lưu chuyển
trong Năm đường. Cho nên Như Lai là pháp thường trụ, chẳng biến đổi.
“Lại nữa, Ca-diếp! Pháp là thầy của chư Phật, cho nên Như Lai cung kính cúng dường.
Vì pháp là thường, nên chư Phật cũng là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Như lửa phiền não dứt thì Như Lai cũng dứt.
Như vậy tức là Như Lai không có chỗ thường trụ. Ví như những nháng lửa kia, khi
màu đỏ tắt mất thì chẳng biết đi đến chỗ nào. Phiền não của Như Lai cũng vậy,
chẳng biết đi đến chỗ nào. Lại như khối sắt kia, nung nóng có màu đỏ, khi nguội
rồi thì hơi nóng và màu đỏ đều không còn nữa. Như Lai cũng thế, diệt rồi là vô
thường, lửa phiền não đã dứt, liền nhập Niết-bàn. Nên biết rằng Như Lai là vô
thường.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Khối sắt mà ông ví dụ đó, ấy là hạng phàm phu. Phàm
phu tuy dứt phiền não, nhưng dứt rồi lại sanh ra, cho nên gọi là vô thường. Như
Lai chẳng phải vậy, đã dứt rồi chẳng sanh ra nữa, cho nên gọi là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp lại nói: “Như khối sắt kia đã mất màu đỏ, nếu đặt trở vào trong
lửa thì màu đỏ lại sanh ra. Như Lai cũng thế, lẽ ra lại sanh các mối trói buộc.
Nếu trói buộc lại sanh ra, tức là vô thường.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ông không nên nói Như Lai là vô thường. Tại sao vậy? Vì
Như Lai là thường.
“Thiện nam tử! Như người đốt cây, lửa tắt rồi thì có tro. Phiền não dứt rồi, liền
có Niết-bàn. Những ví dụ khác như cái áo rách nát, cái đầu bị chém, cái bình hư
bể... cũng đều như vậy. Những vật ấy đều có tên gọi, như là cái áo rách nát,
cái đầu bị chém, cái bình hư bể...
“Ca-diếp! Như sắt nguội rồi, có thể làm nóng lại. Như Lai chẳng phải thế, dứt sạch
phiền não, rốt ráo trở nên trong sạch mát mẻ, lửa nóng phiền não không thể sanh
trở lại.
“Ca-diếp! Nên biết rằng vô lượng chúng sanh cũng giống như sắt kia, ta dùng lửa
nóng của trí tuệ vô lậu mà đốt cháy những phiền não trói buộc họ.”
Ca-diếp bạch rằng: “Lành thay, lành thay! Nay con đã rõ chỗ Như Lai thuyết dạy:
‘Chư Phật là thường tồn.’”
Phật dạy: “Ca-diếp! Ví như vị thánh vương, thường ngự nơi hậu cung, hoặc có khi
ra sau vườn ngoạn cảnh. Dù vua chẳng ở giữa các cung nữ, nhưng không thể nói là
thánh vương đã chết.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, dù nhập Niết-bàn, chẳng hiện ra ở cõi
Diêm-phù-đề, nhưng không thể nói là vô thường.
“Như Lai đã ra khỏi vô lượng phiền não, vào cảnh an vui Niết-bàn, dạo chơi
thanh thoát trong vườn hoa trí tuệ giác ngộ.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Như Phật có nói: ‘Từ lâu ta đã vượt qua biển cả
phiền não.’ Nếu như Phật đã vượt qua biển phiền não từ lâu, vậy duyên cớ gì lại
cùng bà Da-du-đà-la sanh ra La-hầu-la? Cứ theo như việc này thì thấy rằng Như
Lai chưa vượt qua biển cả phiền não trói buộc. Vậy xin Như Lai giảng rõ nhân
duyên này.”
Phật bảo Ca-diếp: “Ông chẳng nên nói rằng: ‘Như Lai từ lâu đã vượt qua biển cả
phiền não, vậy duyên cớ gì lại cùng bà Du-da-đà-la sanh ra La-hầu-la? Cứ theo
như việc này thì thấy rằng Như Lai chưa vượt qua biển cả phiền não trói buộc.’
“Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn này có thể kiến lập nghĩa lớn. Nay các ông nên
hết lòng lắng nghe, ta sẽ vì mọi người mà thuyết rộng, chớ nên sanh tâm sợ sệt,
nghi ngờ.
“Như có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, vị ấy có thể đem núi chúa Tu-di cao rộng
như thế kia mà đưa vào trong vỏ hạt đình lịch. Trong khi đó, những chúng sanh sống
ở núi Tu-di ấy cũng chẳng có cảm giác bị dồn ép và mang đi, vẫn thấy như thường,
không có chi lạ. Chỉ có người cần được hóa độ mới thấy vị Bồ Tát ấy đem núi
Tu-di đặt vào vỏ hạt đình lịch, rồi đặt núi ấy trở lại chỗ cũ một cách yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại như có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, vị ấy có thể đem
cõi thế giới tam thiên đại thiên mà đặt vào trong vỏ hạt đình lịch. Trong khi ấy,
chúng sanh ở toàn cõi thế giới chẳng có cảm tưởng là bị dồn ép và bị mang đi,
thảy đều như thường, không có chi khác lạ. Chỉ có người cần được hóa độ mới thấy
vị Bồ Tát ấy đem cõi thế giới tam thiên đại thiên mà đặt vào vỏ hạt đình lịch,
rồi đặt cõi ấy trở lại chỗ cũ một cách yên ổn.
“Thiện nam tử! Cũng giống như vậy, vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn có thể đem
cõi thế giới tam thiên đại thiên đặt vào một chỗ chân lông, rồi lại đem cõi ấy
đặt về chỗ cũ.
“Thiện nam tử! Lại có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, nắm lấy nhiều cõi thế
giới tam thiên đại thiên của chư Phật ở mười phương, đặt nơi đầu một cây kim,
như xâu những lá táo lại, rồi ném những cõi ấy đến các cõi Phật ở phương khác.
Trong khi ấy, tất cả chúng sanh ở những cõi ấy chẳng hay biết rằng mình bị mang
đi hay đang ở chỗ nào. Chỉ có người cần được hóa độ mới thấy được việc ấy. Cho
đến khi Bồ Tát đặt những cõi ấy trở lại chỗ cũ một cách yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, nắm lấy các cõi thế giới
tam thiên đại thiên của chư Phật ở mười phương, đặt nơi lòng bàn tay phải của
mình, như cái bàn xoay của người thợ lò gốm, rồi ném những cõi ấy đến các cõi
thế giới nhiều như những hạt bụi nhỏ ở các phương khác, mà chẳng có một chúng
sanh nào ở các cõi ấy có cảm giác là bị mang đi. Chỉ có người cần được hóa độ mới
thấy được việc ấy. Cho đến khi Bồ Tát đặt những cõi ấy trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, bứt lấy tất cả những
cõi thế giới của vô lượng chư Phật trong mười phương, dồn nạp hết vào thân
mình. Chúng sanh trong các cõi ấy cũng chẳng có những cảm giác như là bị dồn
ép, bị mang đi hay bị đặt ở chỗ nào. Chỉ có người cần được hóa độ mới thấy được
việc ấy. Cho đến khi Bồ Tát đặt những cõi ấy trở lại chỗ cũ một cách yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, đem tất cả các cõi thế
giới trong mười phương mà dồn nạp vào trong một hạt bụi nhỏ. Các chúng sanh ở
trong các cõi ấy cũng chẳng có cảm giác là bị dồn ép và bị mang đi. Chỉ có người
cần được hóa độ mới thấy được việc ấy. Cho đến khi Bồ Tát đặt những cõi ấy trở
lại chỗ cũ một cách yên ổn.
“Thiện nam tử! Vị Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn như vậy, có thể thị hiện vô số
các loại thần thông biến hóa. Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn. Vô số các loại
thần thông biến hóa mà vị Đại Bồ Tát ấy có thể thị hiện như vậy, tất cả chúng
sanh đều không thể tính lường được.
“Nay ông làm sao có thể hiểu nổi chỗ Như Lai gần gũi ái dục, sanh ra La-hầu-la?
“Thiện nam tử! Từ lâu ta đã trụ ở Đại Niết-bàn này, thị hiện đủ các loại thần
thông biến hóa. Ở thế giới tam thiên đại thiên này, trăm ngàn mặt trời mặt
trăng, trăm ngàn cõi Diêm-phù-đề, đủ mọi cách thị hiện, như trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm đã có giảng rộng.
“Ta ở trong cõi thế giới tam thiên đại thiên, hoặc trong cõi Diêm-phù-đề thị hiện
nhập Niết-bàn, nhưng rốt ráo không chấp giữ Niết-bàn. Hoặc ta ở cõi Diêm-phù-đề
thị hiện vào thai mẹ, khiến cha mẹ tưởng rằng ta là con. Nhưng thân này của ta
hoàn toàn chẳng do ái dục hòa hiệp mà có thể sanh ra được. Từ vô lượng kiếp đến
nay ta đã lìa bỏ ái dục. Thân này của ta tức là Pháp thân, vì tùy thuận thế
gian nên thị hiện vào trong bào thai.
“Thiện nam tử! Tại cõi Diêm-phù-đề, trong vườn Lam-tì-ni, ta thị hiện sanh ra bởi
mẹ là bà Ma-da. Sanh ra rồi, ta liền đi bảy bước về phương đông, nói lên lời
này: ‘Trong cõi trời, người, a-tu-la, ta là bậc cao quý hơn hết.’ Cha mẹ, mọi
người, chư thiên thấy vậy đều lấy làm kinh dị và vui mừng, cho là việc chưa từng
có.
“Nhưng ai nấy đều bảo rằng ta vẫn là một hài nhi. Tuy vậy, thân này của ta từ
vô lượng kiếp đến nay đã lìa khỏi mọi cách nuôi dưỡng thông thường. Thân Như
Lai tức là Pháp thân, chẳng phải do máu thịt, gân, mạch, cốt tủy mà thành. Vì
tùy thuận theo pháp thế gian của chúng sanh nên thị hiện làm một hài nhi.
“Ta đi bảy bước về phương nam, thị hiện muốn làm chỗ ruộng phước cao trổi nhất
cho vô lượng chúng sanh.
“Ta đi bảy bước về phương tây, thị hiện không còn sanh ra nữa, mãi mãi chấm dứt
sự già, chết, hiện thân cuối cùng.
“Ta đi bảy bước về phương bắc, thị hiện đã vượt khỏi mọi cảnh giới hiện hữu
trong sanh tử.
“Ta đi bảy bước về phương đông, thị hiện làm bậc đi đầu dẫn đường cho tất cả
chúng sanh.
“Ta đi bảy bước về bốn phương phụ, thị hiện dứt sạch mọi phiền não và bốn thứ
ma, thành bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri.
“Ta đi bảy bước về phương trên, thị hiện chẳng bị nhiễm ô bởi những vật bất tịnh,
dường như hư không.
“Ta đi bảy bước về phương dưới, thị hiện mưa pháp rưới tắt lửa địa ngục, khiến
các chúng sanh ở đó được niềm vui an ổn, thị hiện [phá tan mọi tà kiến như] mù
sương và mưa đá [làm dập nát mọi thứ cây cỏ] đối với những kẻ phạm vào giới cấm.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, khi sanh ra được bảy ngày ta lại thị hiện việc cạo tóc. Ai
nấy đều gọi ta là một hài nhi. Lúc mới cạo tóc, hết thảy hàng trời, người, Ma
vương Ba-tuần, sa-môn, bà-la-môn, không ai có thể thấy được tướng trên đỉnh đầu
của ta, huống chi là có việc cầm dao cạo tóc? Không một người nào có thể cầm
dao chạm được đến đỉnh đầu ta cả. Vì trong vô lượng kiếp ta vốn đã dứt trừ râu
tóc, chỉ vì muốn tùy thuận pháp thế gian nên mới thị hiện việc cạo tóc đó thôi.
“Ta sanh ra rồi, cha mẹ bèn đưa ta vào đền thờ thiên thần để ta ra mắt vị Đại tự
tại Thiên vương. Vừa trông thấy ta, Đại tự tại Thiên vương liền chắp tay cung
kính đứng sang một bên. Trong vô lượng kiếp qua ta đã lìa bỏ không vào những
nơi thờ thiên thần như thế, chẳng qua vì muốn tùy thuận thế gian nên mới thị hiện
như vậy.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, ta thị hiện việc xỏ lỗ tai. Thật ra, trong tất cả chúng
sanh không ai có thể xỏ lỗ tai ta được. Chẳng qua vì tùy thuận chúng sanh ở thế
gian nên ta thị hiện như vậy. Người ta lại dùng các vật báu làm ra hoa tai sư tử
để làm đẹp hai lỗ tai của ta. Tuy nhiên, trong vô lượng kiếp qua ta đã lìa bỏ
những món trang sức như vậy. Chẳng qua vì muốn tùy thuận thế gian nên ta mới thị
hiện như vậy.
“Ta thị hiện vào học đường, học tập sách vở. Tuy nhiên, trong vô lượng kiếp ta
đã thành tựu đầy đủ, nhìn khắp chúng sanh trong Ba cõi không ai đủ sức làm thầy
ta, cho nên danh hiệu của ta là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Chẳng qua vì
muốn tùy thuận thế gian mà ta thị hiện vào học đường. Ta học các phép cưỡi voi,
phi ngựa, đấu sức và đủ các nghề khéo léo cũng chỉ là sự thị hiện tùy thuận
chúng sanh giống như vậy.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, ta thị hiện làm thái tử con vua. Chúng sanh đều thấy ta làm
thái tử, vui hưởng năm món dục lạc. Tuy nhiên, trong vô lượng kiếp ta đã lìa bỏ
sự vui thích năm món dục lạc ấy. Chẳng qua vì muốn tùy thuận phép thế gian, cho
nên ta thị hiện tướng trạng như vậy.
“Vị thầy xem tướng cho ta đoán rằng: ‘Nếu không xuất gia sẽ làm Chuyển luân
Thánh vương, thống trị cõi Diêm-phù-đề.’ Tất cả chúng sanh đều tin lời ấy. Tuy
nhiên, trong vô lượng kiếp ta đã lìa bỏ ngôi Chuyển luân mà làm vị Pháp luân
vương.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, ta thị hiện lìa bỏ sự vui hưởng năm món dục với các cung nữ.
Lại thị hiện gặp người già, người bệnh và thầy sa-môn, rồi xuất gia tu học đạo
lý. Chúng sanh đều nói rằng: ‘Thái tử Tất-đạt mới vừa xuất gia.’ Tuy nhiên, ta
vốn đã xuất gia học đạo từ vô lượng kiếp. Chẳng qua tùy thuận phép thế gian nên
thị hiện như vậy.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, ta thị hiện xuất gia, thọ giới cụ túc, tinh cần tu đạo, đắc
quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Chúng sanh đều bảo rằng
ta thành tựu quả A-la-hán rất dễ dàng. Tuy nhiên, ta đã thành tựu quả A-la-hán
từ vô lượng kiếp. Chẳng qua vì muốn độ thoát chúng sanh nên ta trải cỏ làm tòa
ngồi ở đạo tràng nơi cội cây bồ-đề mà hàng phục chúng ma. Mọi người đều bảo rằng
ta mới vừa hàng phục binh ma ở đạo tràng nơi cội cây bồ-đề. Tuy nhiên, ta đã
hàng phục chúng ma từ vô lượng kiếp rồi. Chẳng qua vì muốn độ những chúng sanh
ngang bướng nên ta thị hiện cách hóa độ ấy mà thôi.
“Ta lại thị hiện các việc đại, tiểu tiện, thở ra, thở vào... Ai nấy đều bảo ta
có đại, tiểu tiện, thở ra, thở vào... Tuy nhiên, phước báo mà thân ta đây có được
thật không có những việc đại, tiểu tiện, thở ra, thở vào ấy. Chẳng qua ta tùy
thuận thế gian nên thị hiện như vậy.
“Ta lại thị hiện nhận sự bố thí của người có lòng tin. Tuy nhiên, thân ta vốn
không có sự đói khát. Chẳng qua tùy thuận pháp thế gian nên ta thị hiện như vậy.
“Ta lại thị hiện đồng như chúng sanh, có sự ngủ nghỉ. Tuy nhiên, trong vô lượng
kiếp rồi, ta đã có đầy đủ trí tuệ sâu xa mầu nhiệm hơn hết, lìa xa Ba cõi.
“Ta cũng thị hiện những oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi, nhức đầu, đau bụng,
đau lưng, khảy đàn, rửa chân, rửa tay, rửa mặt, súc miệng, xỉa răng... Mọi người
đều bảo rằng ta có những việc ấy. Tuy nhiên, thân này của ta vốn không có những
việc ấy. Tay chân ta vốn sạch sẽ như hoa sen, hơi miệng ta thơm tho như hương
hoa ưu-bát-la. Tất cả chúng sanh đều bảo rằng ta là người, nhưng thật ra ta vốn
chẳng thuộc về loài người.
“Ta lại thị hiện thọ nhận y phấn tảo rồi giặt giũ, vá may. Tuy nhiên, từ lâu ta
vốn chẳng cần đến thứ áo như vậy.
“Mọi người đều nói rằng La-hầu-la là con ta, vua Tịnh-phạn là cha ta, phu nhân
Ma-da là mẹ ta. Ta ở tại thế gian, thọ hưởng các sự khoái lạc, rồi lìa bỏ tất cả
để xuất gia học đạo. Mọi người lại nói rằng: ‘Vị thái tử họ Cồ-đàm ấy lìa xa mọi
sự vui sướng của thế gian, tìm cầu pháp xuất thế gian.’ Tuy nhiên, từ lâu ta đã
lìa xa mọi ái dục thế gian. Những việc như vậy chỉ là sự thị hiện. Tất cả chúng
sanh đều bảo rằng ta là người, nhưng thật ra ta vốn chẳng thuộc về loài người.
“Thiện nam tử! Tuy rằng ta ở tại cõi Diêm-phù-đề này đã biết bao lần thị hiện
nhập Niết-bàn, nhưng thật rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn. Chúng sanh đều bảo rằng
Như Lai đã diệt mất, nhưng tánh Như Lai thật vĩnh viễn không diệt mất. Vì vậy,
nên biết rằng đó là pháp thường trụ, pháp chẳng biến đổi.
“Thiện nam tử! Đại Niết-bàn là cõi pháp của chư Phật Như Lai. Ta lại thị hiện
ra đời trong cõi Diêm-phù-đề. Chúng sanh đều bảo rằng ta mới thành Phật. Tuy
nhiên, từ vô lượng kiếp ta đã làm xong những việc phải làm. Chẳng qua tùy thuận
thế gian nên ta lại thị hiện ra đời rồi thành Phật ở cõi Diêm-phù-đề.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, không giữ giới cấm, phạm Bốn tội trọng.
Mọi người đều thấy, bảo rằng ta thật có phạm giới. Tuy nhiên, trong vô lượng kiếp
rồi ta đã giữ giới cấm một cách kiên cố, chẳng hề có sự thiếu sót lỗi lầm.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm kẻ nhất-xiển-đề. Mọi người đều thấy
đó là kẻ nhất-xiển-đề. Tuy nhiên, ta thật chẳng phải là kẻ nhất-xiển-đề. Nếu ta
là kẻ nhất-xiển-đề, làm sao có thể thành quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, phá hòa hiệp Tăng. Chúng sanh đều bảo rằng
ta là kẻ phá Tăng. Thật ra, ta quán xét khắp cõi trời người vốn chẳng ai có thể
phá được Chúng tăng hòa hiệp!
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, hộ trì Chánh pháp. Ai nấy đều bảo rằng
ta là người hộ pháp, thảy đều lấy làm kinh quái. Nhưng pháp của chư Phật là như
thế, chẳng nên lấy làm kinh quái.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm ma Ba-tuần. Ai nấy đều bảo rằng ta
là Ba-tuần. Tuy nhiên, từ vô lượng kiếp tới nay, ta đã lìa khỏi những việc của
ma, thanh tịnh không nhiễm ô như hoa sen.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm thân nữ thành Phật. Mọi người đều
nói: ‘Kỳ lạ thay! Người nữ mà có thể thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề!’
Thật ra, Như Lai rốt cùng chẳng thọ thân nữ. Chẳng qua vì muốn điều phục vô lượng
chúng sanh nên hiện ra hình tượng người nữ. Vì thương xót tất cả chúng sanh,
cho nên ta cũng thị hiện ra đủ mọi thứ hình sắc, cảnh tượng.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, sanh vào bốn nẻo ác. Tuy nhiên, từ lâu
ta đã dứt hết các nhân sanh vào đó. Chúng sanh vì nghiệp nhân mới sanh vào bốn
nẻo ác, còn ta vì cứu độ chúng sanh nên sanh vào đó.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề làm Phạm thiên vương, khiến những ai thờ
Phạm thiên đều được trụ yên nơi Chánh pháp. Tuy nhiên, ta thật chẳng phải Phạm
thiên. Chúng sanh đều bảo rằng ta thật là Phạm thiên. Cũng như thế, ta thị hiện
làm hình tượng chư thiên ở khắp các miếu thờ thiên thần.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào nhà dâm nữ. Tuy nhiên, ta thật chẳng
có tư tưởng tham dục, thanh tịnh chẳng nhiễm ô như hoa sen. Ta vì những chúng
sanh tham dâm đắm sắc nên ở nơi ngã tư đường mà tuyên thuyết pháp mầu. Tuy
nhiên, ta thật chẳng có lòng dâm dục ô uế. Mọi người đều nói rằng ta che chở bảo
vệ cho người nữ.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào chốn lầu xanh để giáo hóa các kỹ nữ,
khiến họ trụ nơi Chánh pháp. Tuy nhiên, ta thật không có các nghiệp ác để phải
đọa vào chốn ấy.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm người học rộng biết nhiều để dạy dỗ
trẻ con, khiến cho trụ nơi Chánh pháp.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào những nơi quán rượu, những nơi cờ bạc,
thị hiện nhận lấy mọi cách tranh đấu hơn thua, vì ta muốn cứu giúp những chúng
sanh ở đó. Thật ra ta không có các nghiệp ác, nhưng chúng sanh đều thấy rằng ta
tạo các nghiệp như vậy.
“Ta lại thị hiện ở lâu nơi vùng mồ mả, làm loài chim kên kên lớn để hóa độ các
loài chim. Chúng sanh đều bảo rằng ta thật là thân kên kên. Tuy nhiên, từ lâu
ta đã lìa khỏi các nghiệp như thế, chỉ vì muốn độ những loài chim kia nên thị
hiện thân ấy.
“Ta lại thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm vị đại trưởng giả, vì ta muốn làm
cho vô lượng chúng sanh trụ yên nơi Chánh pháp. Ta cũng thị hiện làm vua, quan
đại thần, con vua, tể tướng... Ở trong mỗi hạng ấy, ta đều làm bậc cao trổi nhất.
Vì tu tập Chánh pháp ta mới ở ngôi vua.
“Ta lại thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề phát khởi bệnh dịch lớn nhất
trong kiếp. Nhiều chúng sanh khổ não vì bệnh, trước ta cho họ thuốc men, sau mới
thuyết Chánh pháp vi diệu, khiến họ được trụ yên nơi đạo bồ-đề vô thượng. Mọi
người đều bảo rằng đó bệnh tật trong kiếp tự sanh khởi.
“Ta lại thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề có nạn đói lớn nhất trong kiếp.
Rồi tùy chỗ chúng sanh cần đến, ta cung cấp đủ món ăn thức uống cho họ, sau đó
mới thuyết Chánh pháp vi diệu, khiến họ trụ yên nơi đạo bồ-đề vô thượng.
“Ta lại thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề có nạn đao binh lớn nhất trong
kiếp. Ta vì chúng sanh mà thuyết pháp, khiến họ lìa khỏi sự oán hại, được trụ
yên nơi đạo bồ-đề vô thượng.
“Ta lại thị hiện vì những kẻ chấp thường mà giảng thuyết phép quán tưởng vô thường;
vì những kẻ chấp lấy sự vui mà giảng thuyết phép quán tưởng lẽ khổ; vì những kẻ
chấp ngã mà giảng thuyết phép quán vô ngã; vì những kẻ chấp lấy sự trong sạch
mà giảng thuyết về sự bất tịnh.
“Như có những chúng sanh tham đắm Ba cõi, ta liền thuyết pháp khiến cho họ lìa
khỏi Ba cõi. Vì độ chúng sanh, ta mới dùng đến món thuốc là Pháp vi diệu cao trổi
nhất. Vì trừ tuyệt tất cả những cây phiền não, ta mới trồng cây thuốc Pháp cao
trổi nhất. Vì muốn cứu vớt những kẻ ngoại đạo, ta mới diễn thuyết Chánh pháp.
Tuy ta thị hiện làm thầy của chúng sanh, nhưng chẳng hề có tư tưởng là thầy của
chúng sanh. Vì muốn cứu vớt những kẻ hạ tiện, ta mới thị hiện vào trong cảnh ngộ
của họ mà thuyết pháp, chứ không phải vì nghiệp ác mà phải chịu thân hạ tiện.
“Như Lai Chánh giác trụ yên nơi Đại Bát Niết-bàn như vậy đó. Cho nên gọi là thường
trụ, chẳng biến đổi. Lại giống như ở cõi Diêm-phù-đề, các cõi Phất-vu-đãi
phương đông, cõi Cồ-da-ni phương tây, cõi Uất-đan-việt phương bắc cũng đều như
vậy. Lại giống như bốn cõi thiên hạ, cõi thế giới tam thiên đại thiên cũng đều
như vậy. Cho đến khắp 25 cảnh giới hiện hữu như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã
có giảng rộng. Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn. Như có vị Bồ Tát nào trụ yên
nơi Đại Bát Niết-bàn ấy, có thể thị hiện biến hóa thần thông như vậy mà không
có sự sợ sệt gì cả.
“Ca-diếp! Vì nhân duyên như thế, ông chớ nên nói rằng: ‘La-hầu-la là con của Phật.’
Vì sao vậy? Từ vô lượng kiếp đến nay ta đã lìa bỏ lòng tham dục. Vì vậy nên Như
Lai gọi là thường trụ, không có biến đổi.”
Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Sao gọi Như Lai là thường trụ? Như Phật có dạy:
‘Như ngọn đèn tắt rồi, [ngọn lửa] chẳng đi về đâu cả; Như Lai cũng thế, khi diệt
độ rồi cũng chẳng đi về đâu.’”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông không nên nói rằng: ‘Như ngọn đèn tắt
rồi, [ngọn lửa] chẳng đi về đâu cả; Như Lai cũng thế, khi diệt độ rồi cũng chẳng
đi về đâu.’
“Thiện nam tử! Ví như người đốt đèn, châm dầu đầy vào đèn. Khi dầu còn thì đèn
sáng, dầu hết thì đèn cũng hết sáng. Ánh sáng không còn là ví như phiền não đã
dứt. Mặc dầu ánh sáng không còn nhưng cái đèn vẫn còn đó. Như Lai cũng vậy, phiền
não tuy đã dứt, nhưng pháp thân vẫn thường còn.
“Thiện nam tử! Ông nghĩ sao, ánh sáng với cái đèn có phải cả hai đều mất đi
chăng?”
Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Nhưng tuy cả hai không cùng mất
đi, vẫn là vô thường. Nếu đem pháp thân mà ví như cái đèn, thì cái đèn là vô
thường, pháp thân cũng vậy, hẳn là vô thường.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên cật vấn như thế. Như thế gian nói đến
các món chứa đựng, thì Như Lai Thế Tôn là món chứa đựng pháp vô thượng. Món đồ
chứa đựng của thế gian là vô thường, nhưng Như Lai chẳng phải là vô thường.
Trong tất cả các pháp, Niết-bàn là thường. Như Lai là thể của Niết-bàn, cho nên
gọi là thường.
“Lại nữa, Thiện nam tử! Nói là đèn tắt, đó là chỗ chứng Niết-bàn của A-la-hán.
Bởi dứt các phiền não tham ái, cho nên so sánh với đèn tắt vì hết dầu. Quả
A-na-hàm gọi là còn có tham dục. Bởi còn có tham dục nên không được so sánh với
cây đèn tắt. Vậy nên trước kia ta lấy nghĩa này mà ví dụ như cây đèn tắt, thật
ra không phải Đại Niết-bàn là cây đèn tắt.
“A-na-hàm nghĩa là không còn phải sanh lại chốn nhân gian nhiều lần nữa, cũng
chẳng trở lại trong 25 cảnh giới hiện hữu, mãi mãi chẳng còn thọ lấy cái thân
hôi hám, cái thân [là nơi tụ họp của các loài] trùng, cái thân nuôi sống bằng
ăn uống, cái thân độc hại. Như vậy gọi là A-na-hàm.
“Như còn phải thọ thân sau thì gọi là Na-hàm, không còn phải thọ thân sau thì gọi
là A-na-hàm. Còn đến và đi ở chốn này gọi là Na-hàm, chẳng còn đến và đi nữa gọi
là A-na-hàm.”
QUYỂN 5 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần hai
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy
rằng: Chư Phật Thế Tôn có tạng bí mật. Nghĩa ấy chẳng đúng. Tại sao vậy? Chư Phật
Thế Tôn chỉ có mật ngữ mà thôi chứ không có mật tạng. Ví như một hình nhân điều
khiển bằng máy móc, tuy người ta thấy được hình nhân ấy co lại, duỗi ra, cúi xuống,
ngẩng lên... nhưng chẳng ai biết được bên trong có những gì làm ra như vậy. Phật
pháp không phải như thế, hết thảy chúng sanh đều được thấy biết. Như vậy, sao lại
nói rằng chư Phật Thế Tôn có tạng bí mật?”
Phật khen Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Đúng như lời
ông nói, Như Lai thật chẳng có tạng bí mật. Tại sao vậy? Ví như vầng trăng thu
tròn sáng, hiện rõ giữa không trung, trong trẻo không bị che lấp, ai nấy đều
trông thấy. Lời dạy của đức Như Lai cũng vậy, hiển nhiên rõ rệt, trong sáng
không che lấp. Kẻ ngu si không hiểu cho rằng đó là bí mật, che giấu. Người trí
thông suốt không gọi đó là che giấu.
“Thiện nam tử! Ví như có người kia, chứa trữ vàng bạc, nhiều đến vô số. Người ấy
có lòng keo lận, không chịu bố thí và giúp đỡ kẻ bần cùng. Của cải tích tụ như
vậy mới gọi là bí mật, che giấu. Như Lai chẳng phải như thế, trong vô số kiếp
đã tích tụ vô số trân bảo là diệu pháp, nhưng lòng không hề keo lận, thường bố
thí cho tất cả chúng sanh. Sao có thể gọi là tạng bí mật của Như Lai?
“Thiện nam tử! Ví như có người kia, thân thể và các giác quan chẳng đầy đủ, hoặc
thiếu một mắt, một tay, một chân... Vì xấu hổ, người ấy không để cho người khác
thấy được chỗ thiếu sót của mình. Vì không để người khác thấy nên gọi là che giấu.
Như Lai chẳng phải như thế, Chánh pháp của ngài vốn đầy đủ không thiếu sót, đều
khiến cho mọi người thấy được. Sao có thể gọi là tạng bí mật của Như Lai?
“Thiện nam tử! Ví như kẻ nghèo kia, thiếu nợ người ta rất nhiều. Người ấy sợ chủ
nợ, trốn lánh không muốn lộ hình, cho nên gọi là che giấu. Như Lai chẳng phải
như thế, chẳng hề thiếu nợ pháp thế gian của hết thảy chúng sanh. Dù có nợ pháp
xuất thế của chúng sanh, nhưng không hề giấu giếm. Tại sao vậy? Đối với chúng
sanh, ngài thường bình đẳng thương yêu như con một của ngài, nên vì chúng sanh
mà giảng thuyết pháp vô thượng.
“Thiện nam tử! Ví như một trưởng giả, có nhiều của cải và trân bảo nhưng chỉ có
một đứa con. Ông ta rất thương con, chẳng muốn xa rời, bao nhiêu trân bảo đều
chỉ cho con biết hết. Như Lai cũng thế, xem chúng sanh đều như con một của
ngài, [nên không có sự che giấu].
“Thiện nam tử! Ví như người đời cho rằng nam căn và nữ căn là đáng xấu hổ, là
thô tục, dùng y phục mà phủ kín nên gọi là che giấu. Như Lai chẳng phải như thế,
đã dứt hẳn những căn ấy. Vì không có những căn ấy nên không có gì phải che giấu.
“Thiện nam tử! Ví như hàng bà-la-môn, trong khi nói năng, đàm luận, chẳng hề muốn
cho hàng sát-lỵ, tỳ-xá, thủ-đà được nghe. Vì sao vậy? Vì trong việc đàm luận của
họ có chỗ tội lỗi, xấu xa. Chánh pháp của Như Lai chẳng phải như vậy, từ đầu đến
cuối chỉ toàn là những điều lành. Vì vậy nên không thể gọi là tạng bí mật.
“Thiện nam tử! Ví như người trưởng giả chỉ có một đứa con, lòng thường nghĩ nhớ
đến và rất thương yêu, ông mang con đến trường, nhờ thầy dạy học. Rồi ông sợ
con chậm thành tài, liền mang trở về nhà. Vì lòng thương con, ngày đêm ông ân cần
dạy cho những điều sơ học, nhưng không dạy luận Tỳ-già-la. Tại sao vậy? Vì nó
còn non nớt, chưa đủ sức học luận ấy.
“Thiện nam tử! Như khi vị trưởng giả dạy con những điều sơ học rồi, đứa con ấy
liền có thể hiểu rành luận Tỳ-già-la hay chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn, không hiểu!”
Phật hỏi: “Như vậy, vị trưởng giả ấy có chỗ che giấu với con chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp đáp: “Bạch Thế Tôn, không có! Vì sao vậy? Vì đứa con còn nhỏ tuổi,
cho nên ông ấy không thuyết dạy, chứ không phải vì muốn che giấu, tiếc giữ mà
chẳng dạy. Như có lòng ganh ghét, keo lận, mới gọi là che giấu. Như Lai không
phải như thế, sao có thể gọi là tạng bí mật của Như Lai?”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, đúng như lời ông nói, nếu có
lòng giận hờn, ganh ghét, keo lận mới gọi là giấu giếm. Như Lai không có lòng
giận hờn, ganh ghét, sao có thể gọi là che giấu?
“Thiện nam tử! Vị trưởng giả ấy ví với Như Lai. Đứa con một ấy ví như tất cả
chúng sanh. Như Lai xem tất cả chúng sanh đồng như con một của ngài. Dạy dỗ đứa
con một ấy, tức là Như Lai khuyên dạy hàng đệ tử Thanh văn. Những điều sơ học
ví như chín bộ kinh điển. Tỳ-già-la luận ví như kinh điển Phương đẳng Đại thừa.
Vì hàng Thanh văn chưa đủ trí tuệ nên Như Lai chỉ dạy những điều sơ học, tức là
chín bộ kinh điển, nhưng không thuyết dạy luận Tỳ-già-la, là những kinh phương
đẳng Đại thừa.
“Thiện nam tử! Như vị trưởng giả ấy, đến khi người con đã lớn khôn đủ sức đọc
hiểu, nếu chẳng thuyết dạy luận Tỳ-già-la mới gọi là che giấu. Cũng vậy, nếu
hàng Thanh văn đủ sức nhận lãnh kinh điển Đại thừa mà Như Lai tiếc giấu không
thuyết dạy, như vậy mới có thể nói rằng Như Lai có tạng bí mật.
“Như Lai chẳng phải vậy, cho nên chẳng có tạng bí mật. Như Trưởng giả ấy đã dạy
cho con những điều sơ học rồi, kế đó mới vì con mà giảng giải luận Tỳ-già-la.
Nay ta cũng thế, ta dạy cho các đệ tử những điều sơ học rồi, tức là chín bộ
kinh điển, kế đó mới vì các đệ tử mà diễn thuyết luận Tỳ-già-la, tức là nghĩa
Như Lai thường tồn, không biến đổi.
“Lại nữa, Thiện nam tử! Ví như trong những tháng mùa hạ, trời kéo mây đen và sấm
sét, rồi đổ mưa lớn, khiến người làm ruộng gieo giống gặt hái được nhiều. Như
người không gieo giống thì không có gì để gặt hái. Họ không có gì để gặt hái,
đó chẳng phải lỗi ở thời tiết, mà thời tiết không có gì gọi là che giấu. Nay
Như Lai cũng vậy, đổ cơn mưa pháp lớn là kinh Đại Niết-bàn. Những chúng sanh
nào gieo giống lành sẽ gặt hái được mầm trí tuệ, quả trí tuệ. Những ai không
gieo giống lành, ắt không thu hoạch được gì cả! Họ không thâu hoạch được gì, đó
không phải lỗi của Như Lai. Như vậy, Như Lai thật không có gì gọi là che giấu.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Nay con biết chắc rằng Như Lai Thế Tôn không có gì là
bí mật, che giấu. Nhưng như Phật vừa dạy, luận Tỳ-già-la đó là ví với nghĩa Phật
Như Lai thường tồn, không biến đổi, thì nghĩa ấy không đúng! Vì sao vậy? Vì trước
kia Phật có thuyết kệ rằng:
Chư Phật và Duyên giác,
Với hết thảy đệ tử,
Còn bỏ thân vô thường,
Huống chi kẻ phàm phu?
“Nay Phật lại dạy là thường tồn, không biến đổi, nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta vì tất cả đệ tử Thanh văn mà dạy những điều sơ học,
nên mới thuyết kệ ấy.
“Thiện nam tử! Khi mẹ vua Ba-tư-nặc mạng chung, vua khóc kể luyến mến, không tự
kiềm chế được, tìm đến chỗ ta. Ta hỏi vua rằng: ‘Đại vương! Tại sao lại buồn khổ
áo não đến thế?’
“Vua đáp: ‘Thế Tôn! Hôm nay mẹ tôi vừa mất. Giá như có ai làm cho mẹ tôi sống lại
được, tôi sẽ đem cả đất nước này, cùng với voi, ngựa, bảy món báu và cả thân mạng
tôi mà đền đáp.’
“Ta liền bảo vua rằng: ‘Đại vương! Chớ nên sầu não, buồn đau khóc kể. Tất cả
chúng sanh, khi thọ mạng đã hết thì gọi là chết. Chư Phật, Duyên giác và hàng đệ
tử Thanh văn còn bỏ thân này, huống chi kẻ phàm phu?’
“Thiện nam tử! Vì ta dạy những điều sơ học cho vua Ba-tư-nặc nên mới thuyết bài
kệ ấy. Nay ta lại vì hàng đệ tử Thanh văn mà thuyết dạy [nghĩa chân thật như]
luận Tỳ-già-la, tức là nghĩa Như Lai thường còn, không biến đổi. Nếu ai nói rằng
Như Lai là vô thường, làm sao người ấy lại chẳng bị thụt lưỡi?”
Ca-diếp lại thưa: “Như Phật có thuyết kệ rằng :
Không chứa giữ chi cả,
Biết đủ trong ăn uống,
Như chim giữa không trung,
Dấu chân chẳng thể tìm.
“Nghĩa ấy là thế nào? Bạch Thế Tôn! Ở trong chúng này, ai có thể gọi là người
không chứa giữ chi cả? Ai có thể gọi là người biết đủ trong việc ăn uống? Ai có
thể đi giữa không trung chẳng để lại dấu vết? Và đi như thế sẽ đến nơi nào?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nói chứa giữ đó, là nói vật quí báu. Thiện nam tử! Có hai
loại chứa giữ: một là hữu vi, hai là vô vi. Chứa giữ hữu vi, tức là hạnh Thanh
văn. Chứa giữ vô vi, tức là hạnh Như Lai.
“Thiện nam tử! Tăng cũng có hai hạng: hữu vi và vô vi. Tăng hữu vi tức là hàng
Thanh văn. Tăng Thanh văn không chứa giữ nô tỳ, những vật phi pháp, kho lẫm,
lúa thóc, muối, tương, mè, đậu... Nếu ai nói rằng Như Lai cho phép hàng Thanh
văn nuôi chứa tôi trai, tớ gái, những kẻ hầu hạ, những vật như vậy, người ấy ắt
phải bị thụt lưỡi. Những đệ tử Thanh văn của ta đều là người không chứa giữ chi
cả, và cũng là người biết đủ trong việc ăn uống. Nếu ai tham ăn thì gọi là chẳng
biết đủ. Ai không tham ăn mới được gọi là biết đủ. Người khó tìm thấy dấu chân,
ắt là đã đến gần đạo Bồ-đề Vô thượng. Ta nói rằng người ấy dù có đi mà chẳng có
đến.”
Ca-diếp lại thưa rằng: “Như hạng tăng hữu vi còn chẳng có chứa giữ, huống chi
là hạng tăng vô vi? Tăng vô vi tức là Như Lai. Làm sao Như Lai lại có chỗ chứa
giữ? Nếu là chứa giữ, gọi là che giấu. Cho nên sự thuyết giảng của Như Lai
không hề có sự keo lận, sao lại gọi là che giấu? Dấu chân không thể tìm thấy,
đó là Niết-bàn. Ở trong Niết-bàn chẳng có mặt trời, mặt trăng, các tinh tú,
nóng, lạnh, gió, mưa, sanh, già, bệnh, chết, 25 cảnh giới hiện hữu, lìa các ưu
khổ và phiền não. Niết-bàn như vậy, chỗ trụ của Như Lai là thường tồn, chẳng biến
đổi. Vì nhân duyên ấy, đức Như Lai đến nơi rừng cây sa-la, do nơi Đại Niết-bàn
mà nhập Niết-bàn.”
Phật bảo Ca-diếp: “Dùng chữ đại đó là nói tánh rộng khắp. Ví như có người sống
lâu vô cùng, gọi là đại trượng phu. Nếu người ấy trụ yên nơi Chánh pháp thì gọi
là Bậc cao trổi nhất trong nhân loại. Như ta có thuyết về tám điều giác ngộ của
bậc đại nhân, một người có đủ, hoặc nhiều người có đủ. Nếu một người có đủ tám
điều ấy là cao trổi hơn hết.
“Nói Niết-bàn nghĩa là không có những đau đớn, thương tổn. Thiện nam tử! Ví như
người kia bị trúng tên độc, chịu nhiều đau đớn khổ sở. May gặp vị lương y lấy
mũi tên độc ra, cho uống vị thuốc hay, giúp người ấy dứt khổ, được sự an vui.
Sau đó, vị lương y ấy lại đi đến các thành ấp, xóm làng. Nơi nào có người bị
đau đớn, thương tổn, ông liền đến đó để điều trị cho mọi người dứt sự đau đớn
khổ sở.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, ngài thành bậc Đẳng chánh giác, làm vị Đại y
vương, thấy chúng sanh khổ não ở Diêm-phù-đề, trong vô lượng kiếp bị trúng tên
độc là phiền não, tham dâm, sân hận, si mê; chịu sự khổ não cấp thiết. Ngài vì
những chúng sanh ấy, diễn thuyết kinh Đại thừa là vị thuốc pháp cam lộ. Trị bệnh
xong rồi, ngài lại đi đến phương khác. Nơi nào có chúng sanh bị tên độc phiền
não, ngài liền thị hiện làm Phật để liệu trị cho họ. Vì vậy nên gọi là Đại Bát
Niết-bàn.
“Đại Bát Niết-bàn gọi là chỗ giải thoát. Nơi nào có chúng sanh cần điều phục,
Như Lai liền thị hịên ở đó. Vì nghĩa chân thật rất sâu xa như vậy, nên gọi là Đại
Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Một vị thầy thuốc thế gian có thể trị
lành hết thảy những đau đớn, thương tổn của chúng sanh hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đau đớn, thương tổn ở thế gian có hai loại: một là có
thể trị, hai là không thể trị. Với loại có thể trị thì thầy thuốc có thể trị
lành, với loại không thể trị thì thầy thuốc không thể trị lành.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Như Phật nói rằng: Như Lai đã trị dứt bệnh cho chúng
sanh ở cõi Diêm-phù-đề. Nếu nói đã trị dứt, sao trong chúng sanh ấy vẫn còn những
kẻ chưa được Niết-bàn? Nếu họ chưa được Niết-bàn, sao Như Lai nói rằng ngài đã
trị dứt bệnh của họ nên muốn đến phương khác?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong cõi Diêm-phù-đề có hai hạng chúng sanh: một là hạng
có đức tin, hai là hạng không có đức tin. Hạng có đức tin là có thể trị. Vì sao
vậy? Vì những người ấy chắc chắn sẽ được Niết-bàn, không còn đau đớn, thương tổn.
Cho nên ta nói là đã trị dứt cho chúng sanh ở cõi Diêm-phù-đề. Còn hạng người
không có đức tin, gọi là nhất-xiển-đề. Như kẻ nhất-xiển-đề là không thể trị. Trừ
hạng nhất-xiển-đề, còn ngoài ra ta đã trị dứt bệnh cho hết thảy chúng sanh. Vì
vậy, Niết-bàn gọi là không có đau đớn, thương tổn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là Niết-bàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Giải thoát gọi là Niết-bàn.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Giải thoát mà Phật nói đó là hình sắc hay không thuộc về
hình sắc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! [Giải thoát] cũng là hình sắc, cũng không phải hình sắc.
Nói không phải hình sắc, đó là giải thoát của hàng Thanh văn, Duyên giác; nói
phải là hình sắc, đó là giải thoát của chư Phật Như Lai.
“Thiện nam tử! Vì vậy cho nên giải thoát cũng là hình sắc, mà cũng không phải
hình sắc. Như Lai vì hàng đệ tử Thanh văn mà dạy là không phải hình sắc.”
“Bạch Thế Tôn! Hàng Thanh văn, Duyên giác, nếu không phải hình sắc thì làm sao
có thể trụ?”
“Thiện nam tử! Như cảnh trời Phi tưởng phi phi tưởng là sắc mà cũng không phải
sắc, nhưng ta nói là không phải sắc. Như có người vặn hỏi rằng: ‘Nếu cảnh trời
Phi tưởng phi phi tưởng không phải sắc, vậy chư thiên ở cảnh ấy làm sao đứng vững,
làm sao đi lại, tới lui?’ Ý nghĩa như vậy là thuộc cảnh giới của chư Phật,
không phải hàng Thanh văn, Duyên giác có thể biết được.
“Giải thoát cũng như thế, là sắc mà cũng không phải sắc, nhưng ta nói là không
phải sắc; là tưởng mà cũng không phải tưởng, nhưng ta nói là không phải tưởng.
Ý nghĩa như vậy là thuộc cảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Xin thương xót mà giảng rộng một
lần nữa về ý nghĩa giải thoát của hạnh Đại Bát Niết-bàn.”
Phật ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Giải thoát
chân thật là lìa xa hết thảy mọi sự trói buộc. Lìa hết thảy trói buộc, tức là
không có sanh ra, cũng không có sự hòa hợp. Ví như cha mẹ có sự hòa hợp mới
sanh ra con. Giải thoát chân thật không phải như vậy, cho nên giải thoát gọi là
không sanh ra.
“Ca-diếp! Ví như đề-hồ tự có bản tính thanh tịnh. Như Lai cũng thế, không do
cha mẹ hòa hợp sanh ra nên bản tính thanh tịnh. Sở dĩ thị hiện có cha mẹ là vì
muốn hóa độ chúng sanh. Giải thoát chân thật chính là Như Lai. Như Lai và giải
thoát chẳng phải là hai, chẳng phải là khác.
“Ví như trong mùa xuân gieo các loại giống, nhờ khí trời ấm áp mà dần dần mọc
lên. Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy!
“Lại nữa, giải thoát gọi là rỗng không; rỗng không tức là giải thoát. Giải
thoát tức là Như Lai; Như Lai là rỗng không, vốn không tạo tác, không có chỗ được
tạo tác. Nếu là tạo tác thì cũng giống như những cảnh thành quách, lầu đài...
Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy, cho nên giải thoát tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như người thợ lò gốm làm ra các món
đồ, [về sau ắt] phải vỡ nát, hư hoại. Giải thoát không phải như thế. Giải thoát
chân thật là không sanh, không diệt. Cho nên giải thoát tức là Như Lai. Như Lai
cũng vậy, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng già, chẳng chết, chẳng bị phá hoại, chẳng
phải pháp hữu vi. Vì nghĩa ấy cho nên nói là Như Lai nhập Đại Niết-bàn.
“Chẳng già, chẳng chết có những ý nghĩa gì? Già tức là thay đổi, tóc bạc, da
nhăn... Chết tức là thân thể hư hoại, mạng sống chấm dứt. Giải thoát không có
những việc như vậy. Vì không có những việc ấy nên mới gọi là giải thoát. Như
Lai cũng không có tóc bạc, da nhăn, không có những pháp hữu vi, cho nên Như Lai
không có già; vì không có già nên không có chết.
“Lại nữa, giải thoát là không có bệnh. Nói về bệnh, có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh
cùng mọi việc từ ngoài xâm nhập làm tổn hại thân thể. Đại Niết-bàn không có như
vậy nên gọi là giải thoát. Không có tật bệnh, tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai. Vì Như Lai không bệnh, cho nên pháp thân cũng
không bệnh. Không bệnh như vậy tức là Như Lai.
“Chết tức là thân thể hư hoại, mạng sống dứt. Đại Niết-bàn không có sự chết, tức
là thuốc cam lộ trường sanh. Cam lộ ấy là giải thoát chân thật. Giải thoát chân
thật tức là Như Lai.
“Như Lai thành tựu công đức như vậy, sao có thể nói Như Lai là vô thường? Nếu
nói là vô thường, thật không có lý! Thân kim cang này sao lại là vô thường? Vậy
nên Như Lai không thể nói là mạng chung. Như Lai là thanh tịnh, không có nhơ nhớp.
Thân của Như Lai chẳng bị thai bào làm cho nhơ nhớp, như hoa [sen trắng]
phân-đà-lỵ vốn tánh thanh tịnh. Như Lai, giải thoát lại cũng như vậy. Giải
thoát như vậy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai vốn là thanh tịnh, không có sự
nhơ nhớp.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không còn các lậu hoặc, những sự đau đớn, thương tổn
đều dứt sạch chẳng còn dấu vết. Như Lai cũng thế, không có tất cả các lậu hoặc,
đau đớn, thương tổn.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không tranh giành. Ví như người đói, thấy kẻ khác
ăn uống thì có ý muốn giành giật lấy; giải thoát chẳng phải như thế!
“Lại nữa, giải thoát gọi là yên tĩnh. Kẻ phàm phu nói rằng: ‘Yên tĩnh tức là cảnh
trời Đại tự tại thiên.’ Nói như vậy tức là sai trái, không thật. Sự yên tĩnh
chân thật là giải thoát rốt ráo. Giải thoát rốt ráo, tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là an ổn. Như trong vùng có nhiều giặc cướp không thể
gọi là an ổn. Chốn thanh bình, vui vẻ mới gọi là an ổn. Trong sự giải thoát
không có sợ sệt nên gọi là an ổn. Cho nên an ổn tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai. Như Lai tức là Pháp vậy.
“Lại nữa, giải thoát nghĩa là không có kẻ ngang hàng. Có kẻ ngang hàng là ví như
một vị vua có những vua ngang hàng ở các nước láng giềng. Giải thoát thì không
phải như thế. Không có kẻ ngang hàng, ví như vị Chuyển luân thánh vương không
ai có thể sánh bằng. Giải thoát cũng vậy, không có ngang hàng. Không có ngang
hàng tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai Chuyển
pháp luân vương. Cho nên Như Lai là không ai sánh bằng. Nếu nói có người sánh bằng
Như Lai thì thật là vô lý.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không lo buồn. Sự lo buồn đó, ví như một vị quốc
vương vì sợ nạn xâm lăng của những nước mạnh ở gần bèn sanh ra lo buồn. Giải
thoát thì không có như vậy. Ví như những kẻ oán thù bị phá tan rồi thì không
còn lo nghĩ. Giải thoát cũng thế, chẳng có lo sợ; không lo sợ tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không buồn vui. Ví như bà mẹ chỉ có một đứa con phải
tòng quân chiến đấu nơi xa. Bỗng có tin dữ về, bà nghe được lấy làm buồn khổ.
Sau đó, lại nghe rằng con bà vẫn còn sống, bà lấy làm vui mừng. Giải thoát thì
không có những việc như thế. Không buồn, không vui tức là giải thoát chân thật;
giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có bụi nhơ. Ví như vào mùa xuân, sau khi mặt
trời lặn thì gió thổi tung bụi mù mịt. Trong giải thoát không có việc như vậy.
Không có bụi mù là ví với giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Ví như hạt minh châu trong búi tóc của vị thánh vương, không có bợn nhơ. Tánh
của giải thoát cũng như vậy, không có bợn nhơ. Không có bợn nhơ là ví như giải
thoát chân thật; giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Ví như tánh chất của vàng thật là không thể hòa chung với cát đá, nên mới thật
là vật quý. Người có được vàng liền nghĩ rằng mình có được vật quý. Tánh của giải
thoát cũng vậy, như vàng thật quý ấy. Vàng quý là ví như giải thoát chân thật;
giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Ví như cái bình sành, khi vỡ phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Bình kim cang thì
không [bể vỡ] như thế. Giải thoát không có bể vỡ. Bình quý kim cang là ví như
giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai. Vì thế nên thân Như
Lai không thể hư hoại.
“Phát ra tiếng kêu loảng xoảng, ấy cũng như hạt tỳ-ma đang khi trời nóng mà để
ngoài nắng thì phát ra tiếng nổ. Giải thoát không có những chuyện như vậy. Như
bình kim cang quý báu kia chẳng thể bể vỡ mà phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Dẫu
cho có vô số trăm ngàn người cùng đập phá cũng không thể làm cho bể vỡ được.
Không phát ra tiếng vỡ loảng xoảng là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Như người bần cùng, thiếu nợ những kẻ khác cho nên bị họ buộc trói, gông cùm,
đánh đập, chịu nhiều khổ não. Giải thoát thì không có chuyện như vậy. Không có
nợ nần, ví như vị trưởng giả có nhiều của báu, số nhiều vô lượng, thế lực tự tại,
không hề thiếu nợ người khác. Giải thoát cũng như thế, có vô lượng của báu là
pháp, thế lực tự tại, không thiếu nợ ai cả. Không thiếu nợ ai là ví như giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không bị bức thiết. Như mùa xuân gặp nóng, mùa hạ
ăn món ngọt, mùa đông chịu lạnh. Trong giải thoát chân thật không có những việc
trái ý như vậy. Không bị bức thiết là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, không bị bức thiết đó, ví như có người ăn cá đến no bụng rồi lại uống
sữa vào, ắt không bao lâu sẽ chết. Trong giải thoát chân thật không có việc như
thế. Như người ấy được món thuốc cam lộ thần diệu mới có thể thoát cơn nguy ngập.
Giải thoát chân thật lại cũng như vậy. Món thuốc cam lộ là ví như giải thoát
chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Thế nào là bị bức thiết và không bị bức thiết? Ví như có kẻ phàm phu cao ngạo,
tự nghĩ rằng: “Hết thảy mọi loài đều chẳng thể hại được ta.” Liền gần gũi tiếp
xúc với những loài rắn, cọp, trùng độc... Nên biết rằng người như vậy, dù mạng
số chưa hết cũng phải chết đột ngột. Giải thoát chân thật không có việc như vậy.
Không bị bức thiết là ví như vị Chuyển luân vương có một hạt châu thần diệu. Hạt
châu ấy có thể hàng phục loài bọ hung và chín mươi sáu thứ trùng độc. Nếu ai
nghe được mùi thơm của hạt thần châu ấy thì các chất độc đều tiêu diệt. Giải
thoát chân thật cũng như thế, lìa xa tất cả 25 cảnh giới hiện hữu. Các chất độc
đều tiêu diệt là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, không bị bức thiết là ví như hư không. Giải thoát cũng thế. Hư không ấy
là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, chịu sự bức thiết là ví như ở gần cỏ khô mà đốt đèn lửa, tất phải
cháy bùng. Trong giải thoát chân thật chẳng có việc như vậy.
“Lại nữa, không bị bức thiết là ví như mặt trời và mặt trăng chẳng bức bách
chúng sanh. Giải thoát cũng thế, đối với chúng sanh không có bức thiết. Không
có bức thiết là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là pháp không xao động. Ví như có [sự phân biệt] kẻ
oán và người thân. Trong sự giải thoát chân thật không có việc như vậy.
“Lại nữa, không xao động là ví như vị Chuyển luân vương, không có Thánh vương
nào để làm bạn hữu. Nếu vị ấy có bạn hữu, đó là chuyện vô lý. Giải thoát cũng
thế, không có chỗ thân cận. Nếu giải thoát lại có chỗ thân cận, cũng là chuyện
vô lý. Vị vua kia không có bạn hữu là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật, tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy.
“Lại nữa, không xao động đó, ví như cái áo trắng tinh thì dễ nhuộm các màu
khác. Giải thoát chẳng phải như thế.
“Lại nữa, không xao động đó, ví như hoa bà-sư, nếu muốn cho có mùi hôi và màu
xanh, thật là chuyện vô lý. Giải thoát cũng như thế, nếu muốn cho có mùi hôi và
các màu sắc thì thật vô lý. Vì vậy nên giải thoát tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là ít có. Ví như ở trong nước sanh ra hoa sen, đó là
việc bình thường. Như ở trong lửa sanh ra [hoa sen] mới thật là ít có, ai thấy
được việc ấy đều lấy làm vui sướng. Giải thoát chân thật cũng như thế, như có
người thấy được ắt lấy làm vui sướng. Việc ít có là ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là Như Lai. Như Lai tức là Pháp thân.
“Lại nữa, việc ít có đó, ví như đứa trẻ sơ sanh răng còn chưa mọc, dần dần lớn
lên rồi răng mới mọc. Giải thoát chẳng phải như thế, không có việc sanh cùng chẳng
sanh.
“Lại nữa, giải thoát gọi là rỗng không vắng lặng, không có gì là không xác định.
Không xác định là như [nói rằng] hạng nhất-xiển-đề rốt cùng không thay đổi, kẻ
phạm trọng cấm không thể thành Phật là vô lý. Vì sao vậy? Nếu những người này ở
trong Chánh pháp của Phật có được lòng tin trong sạch, lập tức sẽ không còn là
nhất-xiển-đề. Nếu được làm người cư sĩ nam, cũng sẽ không còn là nhất-xiển-đề.
Như kẻ phạm trọng cấm, nếu trừ xong tội ấy ắt được thành Phật. Cho nên, nếu nói
chắc chắn là không thay đổi, không thành Phật đạo thì thật là vô lý. Trong sự
giải thoát chân thật không có những chuyện diệt mất như vậy.
“Lại nữa, rỗng không vắng lặng là dự vào pháp giới. Như tánh của pháp giới tức
là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, nếu nhất-xiển-đề là dứt mất thì không thể gọi là nhất-xiển-đề. Sao gọi
là nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng
không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành.
Trong giải thoát chân thật không có việc như vậy. Không có việc như vậy tức là
giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chẳng thể đo lường. Ví như một đống lúa, có thể biết
được số lượng. Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy. Ví như biển cả không thể
đo lường. Giải thoát cũng thế, không thể đo lường. Không thể đo lường tức là giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là pháp vô lượng. Như mỗi chúng sanh có nhiều nghiệp
báo. Giải thoát cũng thế, có vô lượng báo. Vô lượng báo tức là giải thoát chân
thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là rộng lớn. Ví như biển cả rộng lớn không gì sánh bằng.
Giải thoát cũng thế, rộng lớn không gì sánh bằng. Không gì sánh bằng tức là giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là cao trổi hơn hết. Ví như hư không là cao nhất không
gì sánh bằng. Giải thoát cũng thế, cao trổi hơn hết, không gì sánh bằng. Cao trổi
hơn hết, không gì sánh bằng tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể vượt qua. Ví như nơi ở của sư tử thì hết
thảy các loài thú không con nào có thể vượt qua. Giải thoát cũng thế, không ai
có thể vượt qua. Không thể vượt qua tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không còn gì trên nữa. Ví như trong các phương,
phương bắc là trên hết. Giải thoát cũng thế, không còn gì trên nữa. Không còn
gì trên nữa tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là trên cả bậc cao nhất. Ví như phương bắc đối với
phương đông là trên cả bậc cao nhất. Giải thoát cũng thế, không còn có bậc nào
trên nữa. Không còn có bậc nào cao hơn nữa tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là pháp thường còn. Ví như loài người và chư thiên,
khi thân thể đã hư hoại và mạng sống dứt rồi thì gọi là thường còn, chẳng phải
không thường còn. Giải thoát cũng thế, chẳng phải không thường còn. Chẳng phải
không thường còn tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chắc thật. Ví như những cây khư-đà-la, chiên-đàn trầm
thủy, tánh vốn chắc thật. Giải thoát cũng thế, tánh vốn chắc thật. Tánh chắc thật
tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chẳng trống không. Ví như các loài tre, sậy, trong
ruột trống rỗng. Giải thoát chẳng phải như thế. Vậy nên biết rằng giải thoát tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể bám víu. Ví như vách tường chưa quét vôi
thì muỗi mòng bu đậu, bám vào trên đó. Nếu quét vôi và sơn vẽ lên rồi, chúng
nghe mùi vôi và sơn thì không thể bám vào. Không thể bám víu là ví như giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có giới hạn. Ví như làng xóm mỗi nơi đều có
ranh giới bao quanh. Giải thoát chẳng phải như thế. Ví như hư không chẳng có
ranh giới. Giải thoát cũng thế, không có giới hạn. Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể thấy. Ví như giữa hư không, dấu chân chim
khó thấy. Việc khó thấy như vậy ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là rất sâu xa. Vì sao vậy? Đó là chỗ mà hàng Thanh
văn, Duyên giác không thể vào được. Không thể vào được tức là giải thoát chân
thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, rất sâu xa tức là chỗ mà chư Phật Bồ Tát đều cung kính. Ví như một
người con hiếu, nhờ cung kính phụng dưỡng cha mẹ nên được công đức rất sâu xa.
Công đức rất sâu xa là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể thấy. Ví như người ta không thể thấy đỉnh
đầu của mình. Giải thoát cũng thế, đó là chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên giác
không thể thấy được. Không thể thấy được tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có nhà cửa. Ví như giữa hư không chẳng có nhà
cửa. Giải thoát cũng thế. Nói nhà cửa là ví như 25 cảnh giới hiện hữu. Không có
nhà cửa là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể nắm bắt. Ví như trái a-ma-lặc, người ta
có thể nắm lấy được. Giải thoát không như thế, không ai nắm bắt được. Không thể
nắm bắt tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không thể cầm giữ. Ví như vật ảo hóa không thể cầm
giữ được. Giải thoát cũng thế, không thể cầm giữ được. Không thể cầm giữ tức là
giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có thân thể. Ví như có người, từ nơi thân thể
sanh ra các thứ ghẻ chốc, phung cùi, ung thư, điên cuồng, khô héo. Trong giải
thoát chân thật không có những bệnh như vậy. Không có những bệnh như vậy là ví
như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chỉ có một vị. Ví như sữa chỉ có một vị. Giải thoát
cũng thế, chỉ có một vị. Chỉ có một vị tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là trong sạch. Ví như nước không có bùn dơ, lắng yên
trong sạch. Giải thoát cũng thế, lắng yên trong sạch. Lắng yên trong sạch tức
là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chỉ có một vị. Ví như mưa giữa không trung, chỉ có
một vị trong sạch. Một vị trong sạch là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là trừ bỏ hết. Ví như đêm trăng tròn không có mây che
khuất. Giải thoát cũng thế, không có mây che khuất. Không có mây che khuất tức
là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là vắng lặng yên tĩnh. Ví như có người trừ dứt bệnh
nóng, thân thể được vắng lặng yên tĩnh. Giải thoát cũng thế, thân được vắng lặng
yên tĩnh. Thân được vắng lặng yên tĩnh tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát tức là bình đẳng. Ví như ở nơi đồng hoang, những loài rắn
độc, chuột, chó sói đều có tâm giết hại. Giải thoát chẳng phải như thế, không hề
có tâm giết hại. Không có tâm giết hại tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, bình đẳng là ví như cha mẹ lòng luôn bình đẳng đối với các con. Giải
thoát cũng thế, lòng luôn bình đẳng. Lòng bình đẳng tức là giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có nơi nào khác. Ví như có người chỉ ở nơi
nhà cửa cao đẹp, sạch sẽ, không còn có nơi nào khác. Giải thoát cũng thế, không
có nơi nào khác. Không có nơi nào khác tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là biết đủ. Ví như người đói gặp bữa cơm ngon thì ăn
chẳng muốn thôi. Giải thoát chẳng phải thế, như ăn cháo sữa rồi thì chẳng cần
ăn thêm gì nữa. Chẳng cần thêm gì nữa là ví như giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là dứt hẳn. Ví như người bị trói, cắt đứt dây trói thì
được thoát ra. Giải thoát cũng thế, dứt hẳn tất cả sự trói buộc của lòng nghi
ngờ. Dứt hẳn lòng nghi như vậy tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là đến bờ bên kia. Ví như một con sông lớn có bờ bên
này và bờ bên kia. Giải thoát chẳng phải như thế, tuy không có bờ bên này nhưng
có bờ bên kia. Có bờ bên kia tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là vắng lặng tự nhiên. Ví như biển cả, nước lớn mênh
mông có nhiều loại tiếng ồn. Giải thoát chẳng phải như thế. Giải thoát như vậy
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là vị ngon lạ. Ví như trong các món thuốc, có lẫn vị
ha-lê-lặc thì phải bị đắng. Giải thoát chẳng phải như thế, có vị như chất cam lộ.
Vị như cam lộ là ví như giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát là dứt trừ phiền não. Ví như một vị lương y pha trộn các vị
thuốc, khéo trị các chứng bệnh. Giải thoát cũng thế, có thể dứt trừ phiền não.
Dứt trừ phiền não tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không chật hẹp. Ví như nhà nhỏ không chứa được nhiều
người. Giải thoát chẳng phải như thế, dung chứa được rất nhiều. Dung chứa rất
nhiều tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là dứt trừ ái luyến, không còn lẫn sự dâm dục. Ví như
người nữ có nhiều ái dục. Giải thoát chẳng phải như thế. Giải thoát như vậy tức
là Như Lai. Như Lai chẳng hề có những sự trói buộc bởi tham dục, sân khuể, ngu
si, kiêu mạn.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có lòng ái luyến. Ái luyến có hai loại: một
là lòng ái luyến của loài ngạ quỷ, hai là lòng ái luyến đối với pháp. Bậc giải
thoát chân thật lìa xa lòng ái luyến của loài ngạ quỷ, vì thương xót chúng sanh
nên có lòng ái luyến đối với pháp. Có lòng ái luyến đối với pháp tức là giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát là lìa bỏ cái ta và vật của ta. Giải thoát như vậy tức là
Như Lai. Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa, giải thoát tức là dứt hết, lìa bỏ sự tham lam. Giải thoát như vậy tức
là Như Lai. Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa, giải thoát tức là che chở cứu giúp, có thể cứu giúp tất cả những kẻ sợ
sệt. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa, giải thoát tức là chỗ quay về. Như đã quay về nương tựa bậc giải
thoát như vậy thì chẳng cần nương tựa nơi nào khác nữa. Ví như có người nương tựa
với vua thì chẳng cần nương tựa ai khác. Tuy vậy, nương tựa với vua còn có sự
biến động thay đổi, còn nương tựa bậc giải thoát thì không có sự biến động thay
đổi. Không có sự biến động thay đổi tức là giải thoát chân thật. Giải thoát
chân thật tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa, giải thoát gọi là nhà cửa. Ví như có người đi vào chốn đồng hoang ắt
gặp nạn hiểm. Giải thoát chẳng phải như thế, không có nạn hiểm. Không có nạn hiểm
tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát là không có sự sợ sệt. Ví như chúa sư tử đối với cả trăm
loài thú cũng không hề sợ sệt. Giải thoát cũng thế, đối với chúng ma không hề sợ
sệt. Không sợ sệt tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát tức là không chật hẹp. Ví như có con đường nhỏ hẹp, thậm
chí không đủ chỗ để hai người cùng đi ngang nhau. Giải thoát chẳng phải như thế.
Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
“Lại nói không chật hẹp, ví như có người vì sợ cọp lại rơi xuống giếng. Giải
thoát chẳng như thế. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
“Lại nữa, không chật hẹp là ví như giữa biển cả mà bỏ thuyền nhỏ, được thuyền lớn
vững chắc, dùng để vượt biển đến xứ an ổn, lòng được vui thích. Giải thoát cũng
thế, trong lòng được vui thích. Được vui thích tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát nghĩa là dẹp bỏ các nhân duyên. Ví như có người nhờ có sữa
mà làm được kem sữa, nhờ có kem sữa mà làm được bơ, nhờ có bơ lại làm được món
đề-hồ. Trong sự giải thoát không có những nhân tiếp nối như vậy. Không có nhân
như vậy tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát có thể khuất phục được sự kiêu căng ngạo mạn. Ví như vị
vua lớn kiêu căng ngạo mạn với các vua nhỏ. Giải thoát không phải như thế. Giải
thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa, giải thoát là khuất phục sự buông thả, lười nhác. Buông thả, lười
nhác ắt có nhiều ham muốn. Trong giải thoát chân thật chẳng có những tên gọi ấy.
Chẳng có những tên gọi ấy tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát có thể trừ dứt vô minh. Ví như dùng loại bơ sữa tốt nhất
loại bỏ hết những cặn cáu mới được đề-hồ. Giải thoát cũng thế, trừ được cặn cáu
là vô minh, hiện ra sự sáng suốt chân thật. Sự sáng suốt chân thật đó tức là giải
thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là vắng lặng yên tĩnh, thuần nhất chẳng phân chia. Ví
như con voi giữa đồng hoang, chỉ sống một mình không có bạn. Giải thoát cũng thế,
duy nhất chẳng phân chia. Duy nhất chẳng phân chia tức là giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chắc thật. Ví như thân cây tre, sậy, tỳ-ma đều rỗng
ruột, nhưng măng non lại chắc đặc, không rỗng. Trừ ra Phật Như Lai, các hàng trời,
người đều không chắc thật. Giải thoát chân thật lìa xa tất cả những cảnh hiện hữu
lưu chuyển không bền. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là có thể hiểu rõ, thêm phần lợi ích cho mình. Giải
thoát chân thật là như vậy. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là buông bỏ những cảnh giới hiện hữu. Ví như có người
ăn xong rồi nôn ra. Giải thoát cũng như thế, buông bỏ những cảnh giới hiện hữu.
Buông bỏ những cảnh giới hiện hữu tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân
thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là quyết định. Ví như hương hoa bà-sư [nhất định là]
không có trong hoa thất diệp. Giải thoát cũng như thế. Giải thoát như vậy tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chất nước. Ví như chất nước hơn hẳn trong bốn đại,
có thể làm tươi nhuận hạt giống hết thảy các loại cây cỏ. Giải thoát cũng thế,
có thể làm tươi nhuận hết thảy những loài có mạng sống. Giải thoát như vậy tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là nhập vào. Ví như nhà có cửa ngõ, ắt thông với đường
đi. Lại như xứ có vàng, ắt có thể lấy được vàng. Giải thoát cũng thế. Cũng như
cửa ngõ kia, người tu pháp vô ngã ắt là vào được lẽ ấy. Giải thoát như vậy, tức
là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là tốt lành. Ví như người đệ tử theo thầy hầu hạ, khéo
vâng theo lời dạy, đó gọi là tốt lành. Giải thoát cũng thế. Giải thoát như vậy
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là pháp xuất thế. Đối với tất cả pháp, pháp ấy là cao
trổi hơn hết. Như trong các mùi vị, mùi vị của bơ sữa là hơn hết. Giải thoát
cũng thế. Giải thoát như vậy tức là Như lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chẳng lay động. Ví như ở cửa buồng trong không có
gió lay động. Giải thoát chân thật cũng thế. Giải thoát như vậy, tức là Như
Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không có sóng nước. Ví như nơi biển cả nước dậy
thành sóng. Giải thoát chẳng phải như thế. Giải thoát như vậy, tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát ví như cung điện. Giải thoát cũng như thế. Nên biết rằng
giải thoát tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chỗ dùng. Ví như vàng Diêm-phù-đàn có thể dùng vào
nhiều việc, không ai có thể nói được chỗ xấu dở của loại vàng này. Giải thoát
cũng thế, không có chỗ xấu ác. Không có chỗ xấu ác tức là giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát là buông bỏ hết những hành vi trẻ con. Ví như người trưởng
thành thì bỏ hết những nết trẻ con. Giải thoát cũng thế, trừ bỏ năm ấm. Trừ bỏ
năm ấm tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chỗ rốt ráo sau cùng. Ví như người bị trói, khi được
mở trói liền tắm rửa sạch sẽ rồi mới về nhà. Giải thoát cũng thế, rốt ráo trở
nên thanh tịnh. Rốt ráo thanh tịnh tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân
thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là niềm vui không tạo tác. Vui không tạo tác, là vì đã
nôn ra hết những tham dục, sân khuể, ngu si. Ví như có người uống phải nọc độc
của rắn. Muốn trừ chất độc ấy, phải dùng thuốc gây nôn. Khi nôn rồi, nọc đã ra
hết thì thân thể được an vui. Giải thoát cũng thế, nôn ra nọc độc là các phiền
não trói buộc, thân được an vui, đó gọi là niềm vui không tạo tác. Vui không tạo
tác tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là trừ dứt bốn loại rắn độc phiền não. Dứt trừ phiền
não tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là lìa bỏ các cảnh giới hiện hữu, diệt hết thảy sự khổ,
được hết thảy sự vui, dứt trừ vĩnh viễn những tham dục, sân khuể, ngu si, nhổ bỏ
hết thảy mọi gốc rễ của phiền não. Nhổ bỏ gốc rễ đó tức là giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là dứt trừ hết thảy các pháp hữu vi, sanh ra hết thảy
các pháp lành vô lậu, dứt hẳn các khuynh hướng như chấp ngã, vô ngã, chẳng phải
ngã chẳng phải vô ngã. Chỉ dứt bỏ sự vướng chấp mà thôi, không dứt bỏ sự thấy
biết về cái ngã. Sự thấy biết về cái ngã đó gọi là tánh Phật. Tánh Phật tức là
giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là chẳng phải không không. Không không đó gọi là không
có gì hết. Không có gì hết, tức là cách hiểu giải thoát của bọn ngoại đạo Ni-kiền.
Nhưng bọn Ni-kiền ấy thật chẳng có giải thoát, nên gọi là không không. Giải
thoát chân thật chẳng phải như vậy, cho nên chẳng phải không không. Chẳng phải
không không, tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là không chẳng phải không. Ví như những cái bình đựng
nước, rượu, kem sữa, bơ sữa, đường. Mặc dầu trong những bình ấy không có nước,
rượu, kem sữa, bơ sữa, đường, nhưng vẫn gọi là bình nước, bình rượu.v.v... Những
cái bình như vậy, không thể nói là không, cũng không thể nói là chẳng phải
không. Nếu nói là không thì chẳng thể có những hình sắc, mùi vị, xúc chạm... Nếu
nói là chẳng phải không thì những cái bình ấy thật là không có nước, rượu.v.v...
Giải thoát cũng thế, không thể nói là hình sắc hay chẳng phải hình sắc, không
thể nói là không hay chẳng phải không. Nếu nói là không thì chẳng thể có thường,
lạc, ngã, tịnh. Nếu nói là chẳng phải không thì ai thọ nhận những thường, lạc,
ngã, tịnh ấy?
“Vì nghĩa ấy nên chẳng thể nói là không hay là chẳng phải không. Không, đó là
không 25 cảnh giới hiện hữu cùng với các phiền não, tất cả các khổ, tất cả các
tướng, tất cả hạnh hữu vi. Ví như cái bình không có đựng sữa thì gọi là không.
Còn chẳng phải không là nói đến những hình sắc chân thật tốt đẹp như thường, lạc,
ngã, tịnh, bất động, bất biến. Như cái bình kia, có hình sắc, hương vị, xúc chạm,
nên gọi là chẳng phải không. Vì vậy nên giải thoát ví như cái bình kia. Nhưng
cái bình ấy nếu gặp duyên xấu thì hư nát. Giải thoát chẳng phải như vậy, không
thể hư nát. Không thể hư nát tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật
tức là Như Lai.
“Lại nữa, giải thoát gọi là lìa bỏ luyến ái. Ví như người có lòng luyến ái,
mong cầu được cảnh Đế-thích, cảnh Đại Phạm thiên vương, cảnh Tự tại thiên
vương. Giải thoát chẳng như thế. Nếu thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi
thì không có luyến ái, không có nghi ngại. Không luyến ái, không nghi ngại tức
là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật tức là Như Lai. Nếu nói rằng giải
thoát có luyến ái, có nghi ngại thì thật là vô lý.
“Lại nữa, giải thoát là dứt hết các mối tham, dứt hết tất cả tướng, hết thảy mọi
sự trói buộc, hết thảy phiền não, hết thảy sanh tử, hết thảy nhân duyên, hết thảy
quả báo. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là Niết-bàn.
“Tất cả chúng sanh vì sợ sanh tử và các phiền não nên mới quy y nơi Tam bảo. Ví
như bầy nai, vì sợ người thợ săn mà được thoát ly. Như thoát được một lần là ví
như một sự quy y, thoát được ba lần là ví như quy y Tam bảo. Thoát được ba lần
nên được yên vui.
“Chúng sanh cũng thế, vì sợ thợ săn dữ là bốn loại ma nên mới quy y Tam bảo. Nhờ
quy y Tam bảo nên được yên vui. Được yên vui tức là giải thoát chân thật. Giải
thoát chân thật tức là Như Lai. Như Lai tức là Niết-bàn. Niết-bàn tức là không
cùng tận. Không cùng tận tức là tánh Phật. Tánh Phật tức là quyết định. Quyết định
tức là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Niết-bàn, tánh Phật, sự quyết định và
Như Lai là cùng một nghĩa, vì sao nói rằng có Ba quy y?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh vì sợ sanh tử nên cầu quy y
Tam bảo. Nhờ quy y Tam bảo nên biết được tánh Phật, quyết định, Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Có những pháp cùng tên mà khác nghĩa. Lại có những pháp tên và
nghĩa đều khác nhau. Cùng tên mà khác nghĩa là như Phật thường, Pháp thường, Tỳ-kheo
tăng thường; Niết-bàn, hư không cũng là thường. Đó là cùng một tên mà khác
nghĩa.
“Tên và nghĩa đều khác nhau, như Phật gọi là giác, Pháp gọi là bất giác, Tăng gọi
là hòa hiệp, Niết-bàn gọi là giải thoát, hư không gọi là chẳng lành, cũng gọi
là không ngăn ngại. Đó là tên và nghĩa đều khác nhau.
“Thiện nam tử! Ba quy y cũng vậy, tên và nghĩa đều khác nhau, sao lại gọi là một?
Cho nên ta có dạy bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di rằng: ‘Đừng cúng dường ta,
nên cúng dường chư tăng. Như cúng dường chư tăng tức là cúng dường đủ cả ba chỗ
quy y.’ Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề liền hỏi lại rằng: ‘Trong chúng tăng không có Phật,
không có Pháp, sao nói rằng cúng dường chúng tăng là cúng dường đủ cả ba chỗ
quy y?’ Ta lại dạy rằng: ‘Nếu bà vâng theo lời ta, đó là cúng dường Phật; vì cầu
sự giải thoát, đó là cúng dường Pháp; chúng tăng thọ dụng, đó là cúng dường Tăng.’
“Thiện nam tử! Vậy nên Ba quy y không thể là một.
“Thiện nam tử! Ba quy y đó, có khi Như Lai nói một là ba, có khi nói ba là một.
Những nghĩa như vậy thuộc về cảnh giới của chư Phật, chẳng phải chỗ hàng Thanh
văn, Duyên giác có thể rõ biết được.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa rằng: “Như Phật có dạy: ‘Rốt ráo được yên vui gọi là Niết-bàn.’
Nghĩa ấy là thế nào? Niết-bàn tức là xả thân, bỏ trí. Như đã xả thân bỏ trí thì
còn ai là người thọ nhận cái vui ấy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ví như có người vừa ăn xong thấy trong bụng khó chịu,
muốn ra ngoài nôn. Nôn xong, người ấy trở vào. Các bạn hỏi rằng: ‘Anh đã hết
khó chịu chưa mà vào đây?’ Người ấy đáp: “Đã hết khó chịu rồi, bây giờ thân được
yên vui.’
“Như Lai cũng thế, rốt ráo xa lìa 25 cảnh giới hiện hữu, mãi mãi được Niết-bàn,
cảnh yên vui, không thể lay động, chuyển đổi, không có sự diệt mất, dứt hết mọi
cảm thọ, gọi là chỗ vui không cảm thọ. Chỗ không cảm thọ như vậy gọi là thường
lạc. Nếu nói rằng Như Lai có thọ nhận cái vui, thật là vô lý. Cho nên cái vui rốt
ráo tức là Niết-bàn. Niết-bàn tức là giải thoát chân thật. Giải thoát chân thật
tức là Như Lai.”
Ca-diếp lại hỏi: “Có phải chẳng sanh chẳng diệt là giải thoát chăng?”
Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy! Thiện nam tử! Chẳng sanh chẳng diệt tức là giải
thoát. Giải thoát như vậy, tức là Như Lai.”
Ca-diếp lại nói: “Nếu chẳng sanh chẳng diệt là giải thoát, thì tánh của hư
không vốn không sanh diệt, ắt cũng là Như Lai. Như tánh Như Lai, tức là giải
thoát.”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Chẳng phải như vậy!”
“Bạch Thế Tôn! Tại sao chẳng phải như vậy?”
“Thiện nam tử! Như chim ca-lan-già và chim mạng-mạng, tiếng kêu trong trẻo rất
hay, có giống với tiếng quạ kêu chăng?”
“Bạch Thế Tôn, không giống! Như tiếng chim ca-lan-già và chim mạng-mạng mà so với
tiếng quạ kêu thì vượt trội hơn đến trăm ngàn vạn lần, không thể so sánh được!”
Bồ Tát Ca-diếp lại nói: “Những loài chim như ca-lan-già tiếng kêu rất hay, thân
hình lại chẳng giống quạ, vì sao Như Lai lại so sánh với chim quạ? Như vậy chẳng
khác nào đem hạt đình lịch mà so với núi Tu-di. Phật so với hư không lại cũng
như thế. Tiếng chim ca-lan-già có thể so sánh với âm thanh của Phật, chứ không
thể so với tiếng kêu của quạ.”
Lúc ấy, Phật khen Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Nay ông đã hiểu
rõ việc rất khó hiểu. Có khi vì nhân duyên nên Như Lai lấy hư không mà ví như
giải thoát. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
“Giải thoát chân thật đó, hết thảy loài người và chư thiên không ai có thể sánh
được. Như hư không kia thật ra cũng chẳng thể dùng làm thí dụ so sánh được.
Nhưng Phật vì hóa độ chúng sanh nên lấy hư không mà tạm so sánh với giải thoát.
Vậy nên biết rằng giải thoát tức là Như Lai. Tánh của Như Lai tức là giải
thoát. Giải thoát và Như Lai vốn chẳng phân chia, chẳng khác biệt nhau.
“Thiện nam tử! Không tỷ dụ được, là ví như có một vật không chi sánh được, thì
không thể lấy vật gì khác mà làm thí dụ so sánh. Nhưng vì nhân duyên nên có thể
[tạm] dẫn làm thí dụ so sánh. Như trong kinh nói ‘vẻ mặt đoan chánh dường như
trăng tròn, voi trắng tinh sạch dường như núi tuyết.’ Thật ra, mặt trăng tròn
không thể đồng với khuôn mặt, núi tuyết cũng chẳng thể là voi trắng.
“Thiện nam tử! Không tỷ dụ được, là ví như giải thoát chân thật. Ta vì hóa độ
chúng sanh nên đặt ra các thí dụ. Nhờ có các thí dụ mà biết được tánh của các
pháp, thảy đều là như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Vì sao Như Lai thuyết dạy hai nghĩa khác nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ví như có người tay cầm đao kiếm, vì giận tức nên muốn
làm hại Như Lai. Nhưng đức Như Lai vẫn hiền hòa vui vẻ, không có vẻ giận. Vậy
người ấy có phá hoại được thân Như Lai mà thành tội nghịch hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì sao vậy? Thân Như Lai không ai có thể phá hoại
được. Vì sao vậy? Vì không có cái thân kết tụ, chỉ có pháp tánh. Tánh của pháp
tánh, tất nhiên là không thể phá hoại. Vậy người ấy làm sao có thể phá hoại
thân Phật? Chỉ vì người ấy đem lòng ác muốn làm hại Phật, cho nên thành tội vô
gián. Vì nhân duyên ấy, các thí dụ đưa ra có thể giúp người ta hiểu được pháp
chân thật.”
Lúc ấy, Phật khen Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Việc
ta muốn nói, nay ông đã nói.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có kẻ ác muốn hại mẹ mình, bèn núp dưới đống rơm
ngoài đồng ruộng. Bà mẹ đem cơm ra đồng cho con. Thấy mẹ từ xa, người ấy sanh
lòng muốn hại mẹ, liền lấy dao ra mài. Bà mẹ đã biết, bèn trốn vào trong đống
rơm. Người ấy cầm dao, vừa đi quanh đống rơm vừa chém. Chém xong, lấy làm thỏa
dạ, tưởng rằng đã giết được mẹ rồi. Sau đó, bà mẹ từ trong đống rơm bước ra, trở
về nhà. Ý ông thế nào? Người ấy có tạo thành tội vô gián chăng?”
“Thế Tôn! Không thể nói chắc được. Vì sao vậy? Nếu nói rằng người ấy có tội,
thì thân thể bà mẹ phải bị chém. Nhưng thân thể của bà không bị tổn hại, sao có
thể nói rằng người ấy có tội? Nhưng nếu nói là không có tội, thì lúc tưởng là
đã giết mẹ rồi, lấy làm thỏa dạ, sao có thể nói là không tội? Tuy người ấy chưa
tạo ra đầy đủ tội nghịch, nhưng cũng là nghịch. Vì nhân duyên ấy, các thí dụ
đưa ra có thể giúp người ta hiểu được pháp chân thật.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Vì nhân duyên ấy,
ta nói ra rất nhiều thí dụ phương tiện để so sánh với giải thoát. Tuy dùng vô số
thí dụ, nhưng thật ra chẳng thể lấy thí dụ mà so sánh được. Tùy theo nhân
duyên, có khi ta có thể nói ra thí dụ, cũng có khi không thể nói ra bằng thí dụ.
“Cho nên giải thoát thành tựu vô lượng công đức như vậy, hướng về Niết-bàn. Niết-bàn
và Như Lai cũng có vô lượng công đức như vậy. Vì có đầy đủ vô lượng công đức
như vậy nên gọi là Đại Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con mới biết chỗ đến của Như Lai
là không cùng tận. Nếu chỗ ấy là không cùng tận, thì nên biết rằng thọ mạng của
Như Lai cũng là không cùng tận.”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Nay ông có thể khéo hộ trì Chánh
pháp. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn dứt hết các phiền não trói buộc
thì nên hộ trì Chánh pháp giống như vậy.”
QUYỂN 6 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần ba
Phật dạy: “Thiện nam tử! Theo kinh Đại Niết-bàn vi diệu này,
có bốn hạng người có thể ủng hộ Chánh pháp, kiến lập Chánh pháp, nghĩ tưởng đến
Chánh pháp, có thể thương xót và làm lợi ích nhiều cho thế gian, là chỗ nương
theo cho thế gian, làm cho loài người và chư thiên đều được yên vui.
“Bốn hạng người ấy là những ai? Thứ nhất là những người ra đời có đủ tánh phiền
não. Thứ nhì là các vị Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm. Thứ ba là các vị A-na-hàm. Thứ
tư là các vị A-la-hán. Bốn hạng người này xuất hiện ở đời có thể thương xót và
làm lợi ích nhiều cho thế gian, là chỗ nương theo cho thế gian, làm cho loài
người và chư thiên đều được yên vui.
“Sao gọi là có đủ tánh phiền não? Như người có thể vâng giữ giới cấm, đầy đủ
các oai nghi, kiến lập Chánh pháp, theo Phật nghe pháp, hiểu được nghĩa lý rồi
phân biệt giảng rộng với người khác. Chẳng hạn như nói rằng: ít ham muốn là hợp
đạo, nhiều ham muốn là trái đạo... giảng rộng tám điều giác ngộ của bậc đại
nhân như vậy, đối với kẻ phạm tội liền dạy họ phát lộ sám hối để diệt trừ tội lỗi,
hiểu rành những phép phương tiện và sở hành bí mật của Bồ Tát. Gọi là phàm phu
thì chẳng phải là người có đủ tám điều giác ngộ. Người có đủ tám điều giác ngộ
thì chẳng gọi là phàm phu, gọi là Bồ Tát, chẳng gọi là Phật.
“Hạng người thứ nhì là các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm. Các vị này nếu được Chánh
pháp, thọ trì Chánh pháp, theo Phật nghe pháp, liền y như chỗ đã nghe mà ghi
chép, thọ trì, đọc tụng, đem giảng giải với người khác. Như với các vị này mà bảo
rằng nghe pháp rồi chẳng ghi chép, chẳng thọ trì, chẳng đem giảng giải cho người
khác, lại nói rằng Phật cho phép chứa trữ nô tỳ, những vật bất tịnh, đều là
chuyện vô lý. Như vậy là hạng người thứ nhì. Các vị này chưa được như hạng người
thứ ba. Được như hạng người thứ ba gọi là Bồ Tát đã được thọ ký.
“Hạng người thứ ba là các vị A-na-hàm. Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm phỉ báng
Chánh pháp, như nói: Như Lai cho phép chứa trữ nô tỳ, tôi tớ, những vật bất tịnh;
hoặc nói các vị thọ trì kinh sách, luận thuyết của ngoại đạo; hoặc nói các vị bị
phiền não khách trần ngăn trở, bị các phiền não từ trước che lấp; hoặc nói các
vị giấu giếm xá-lỵ chân thật của Như Lai; hoặc nói các vị bị các bệnh ở ngoài
gây não hại, hoặc bị rắn độc bốn đại xâm tổn; hoặc nói các vị theo luận thuyết
chấp ngã, đều là những việc vô lý.
“Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm giảng thuyết pháp vô ngã, đó là việc có lý. Nếu bảo
rằng các vị giảng lẽ chấp trước theo pháp thế gian, đó là việc vô lý. Nếu bảo
các vị giảng pháp Đại thừa tiếp nối chẳng dứt, đó là việc có lý.
“Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm có cái thân chứa tám vạn loại trùng, đó cũng là
việc vô lý. Nếu bảo rằng các vị đã vĩnh viễn xa lìa sự dâm dục, cho đến trong
giấc mộng cũng không phạm việc bất tịnh, đó là việc có lý. Nếu bảo rằng các vị
A-na-hàm đến ngày lâm chung sanh lòng sợ sệt, đó cũng là việc vô lý.
“Vậy A-na-hàm có nghĩa là gì? Như trước đây ta có nói, bậc A-na-hàm chẳng còn
phải trở lại thế gian này; những lỗi lầm tai hại từ trước chẳng còn có thể nhiễm
ô. Nếu vị ấy còn tới lui ở cõi thế gian này, đó gọi là Bồ Tát đã được thọ ký,
chẳng bao lâu sẽ được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó là hạng người thứ
ba.
“Hạng người thứ tư gọi là A-la-hán. Vị A-la-hán là người đã dứt hết phiền não,
đã trút bỏ gánh nặng, đã được sự lợi ích cho mình, đã làm xong việc phải làm,
trụ ở địa vị thứ mười. Bậc ấy được trí tự tại, tùy theo sự ưa thích của chúng
sanh có thể thị hiện ra mọi thứ hình sắc, ảnh tượng. Như chỗ trang nghiêm của vị
này, nếu muốn thành Phật đạo liền có đủ khả năng để thành. Có thể thành tựu vô
lượng công đức như vậy nên gọi là A-la-hán.
“Đó gọi là bốn hạng người xuất hiện ở đời có thể thương xót và làm lợi ích nhiều
cho thế gian, là chỗ nương cậy cho thế gian, làm cho loài người và chư thiên đều
được yên vui. Các vị này đều là bậc tối tôn, tối thắng trong cõi trời người,
không khác gì đức Như Lai. Gọi là bậc cao trổi trong loài người, tức là chỗ
quay về nương theo của cả nhân loại và chư thiên.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con chẳng nương theo bốn hạng người ấy.
Vì sao vậy? Như trong kinh Cồ-sư-la, Phật dạy ông Cồ-sư-la rằng: ‘Như có thiên
ma hay Phạm thiên, vì muốn phá hoại nên biến ra hình Phật có đủ 32 tướng tốt
trang nghiêm, 80 vẻ đẹp, hào quang chiếu quanh một tầm, khuôn mặt tròn đầy như
trăng rằm sáng rỡ, có lông trắng ở khoảng giữa hai chân mày màu trắng như ngọc,
như tuyết. Nếu có người hình thể trang nghiêm như vậy đi đến chỗ ông, thì ông
nên xét kỹ xem là thật hay là giả. Khi biết rõ [là ma giả dạng] rồi thì nên
hàng phục nó.’
“Thế Tôn! Bọn ma ấy có thể hóa làm thân Phật được, huống chi là các thân như
A-la-hán, A-na-hàm... của bốn hạng người trên, hoặc những việc như nằm ngồi giữa
không trung, hông trái phun nước, hông phải phun lửa, thân thể tuôn ra khói lửa
như một đám lửa. Vì nhân duyên ấy, với những hạng người này con chẳng sanh lòng
tin, hoặc như có thuyết giảng điều chi, con cũng không thể nhìn nhận, cũng
không sanh tâm cung kính mà nương theo họ.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đối với những điều chính ta giảng thuyết, nếu có lòng
nghi còn chẳng nên nhận, huống chi là với những hạng người ấy. Cho nên phải
khéo phân biệt biết rõ là điều lành hay dữ, nên làm hay chẳng nên làm. Nếu được
như vậy thì sẽ thọ hưởng sự yên vui lâu dài.
“Thiện nam tử! Ví như con chó hoang ban đêm vào nhà người ta. Kẻ tôi tớ nhà ấy
nếu hay biết được, liền đuổi mắng rằng: ‘Mày mau đi khỏi đây. Nếu mày chẳng đi
ngay tao sẽ giết mày.’ Chó hoang nghe vậy liền bỏ đi không dám trở lại. Từ nay
trở đi các ông cũng nên làm như vậy để hàng phục ma Ba-tuần. Nên nói như thế
này: ‘Ba-tuần! Nay ông không nên biến ra hình tượng như vậy. Nếu ông còn cố ý
hóa hiện như vậy nữa, ta sẽ dùng năm sợi dây mà trói buộc ông.’ Ma nghe lời ấy ắt
sẽ ra đi, cũng như con chó hoang kia không còn dám trở lại.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy trưởng giả Cồ-sư-la rằng:
‘Nếu ông có thể dùng cách ấy mà hàng phục ma thì cũng có thể đến gần Đại Niết-bàn.’
Như Lai cần chi phải nói rằng bốn hạng người ấy là chỗ quay về nương theo? Bốn
hạng người như vậy có giảng thuyết điều chi, chưa chắc đã là đáng tin.”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ngay như những điều ta thuyết dạy, cũng là như
vậy, chẳng ra ngoài lẽ ấy.
“Thiện nam tử! Ta vì hàng Thanh văn mắt thịt mà nói việc hàng phục chúng ma,
không phải vì những người tu học Đại thừa mà nói. Hàng Thanh văn dẫu có thiên
nhãn cũng gọi là mắt thịt. Người tu học Đại thừa tuy mang mắt thịt nhưng gọi là
Phật nhãn. Vì sao vậy? Kinh Đại thừa này gọi là Phật thừa, cao quý hơn hết, vượt
trội hơn hết.
“Thiện nam tử! Ví như có người mạnh mẽ, oai dũng. Những kẻ yếu đuối nhút nhát
thường đến nương tựa người ấy. Người mạnh mẽ ấy thường dạy những kẻ yếu đuối
nhút nhát rằng: ‘Các ông nên cầm cung tên như thế này, luyện tập múa giáo, móc
câu, quăng dây trói như thế này...’ Rồi lại dạy rằng: ‘Trong việc chiến đấu,
tuy như đi trên mũi nhọn cũng không được sợ sệt. Hãy nhìn người khác với ý tưởng
coi khinh là yếu ớt. Tự mình nên có tư tưởng là người mạnh mẽ. Như gặp người vốn
không can đảm dũng mãnh nhưng giả làm bộ dạng mạnh mẽ, cầm cung xách đao cùng mọi
thứ khí giới bước ra giữa trận lớn tiếng quát thét; đối với người ấy đừng sanh
lòng sợ sệt. Hạng người như vậy, nếu thấy ông chẳng khiếp sợ, nên biết rằng chẳng
bao lâu họ sẽ tự tan rã, bại hoại, cũng như con chó hoang kia vậy.’
“Thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, thường dạy các vị Thanh văn rằng: ‘Các ông chớ
nên sợ ma Ba-tuần. Nếu ma Ba-tuần hóa làm thân Phật và đi đến chỗ các ông, các
ông nên tinh cần giữ tâm vững chãi, hàng phục ma ấy. Khi ấy ma sẽ phải lo sầu
chẳng vui, theo đường cũ mà rút lui.
“Thiện nam tử! Như người dũng mãnh kia, không chịu bắt chước theo kẻ khác. Người
tu học Đại thừa cũng thế, khi nghe được đủ các kinh điển sâu xa bí mật, trong
lòng lấy làm vui sướng, chẳng hề kinh sợ. Vì sao vậy? Vì người tu học Đại thừa
như vậy vốn đã từng cúng dường, cung kính, lễ bái vô số đức Phật trong quá khứ,
dẫu có vô số ma muốn đến quấy rối, phá hoại thì đối với việc ấy người cũng chẳng
hề kinh sợ.
“Thiện nam tử! Ví như có người được món thuốc a-kiệt-đà, chẳng còn sợ bất cứ
loài rắn độc nào. Loại thuốc này có thể giải trừ tất cả các loại chất độc. Kinh
Đại thừa này cũng như vậy, có công năng như loại thuốc kia, không sợ tất cả các
thứ độc hại của chúng ma, lại còn có thể hàng phục khiến cho không còn dấy lên
được nữa.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có một con rồng tánh hay ganh ghét, xấu xa. Khi
muốn hại người thì lấy mắt mà nhìn hoặc dùng miệng mà phun, cho nên tất cả những
giống sư tử, cọp, beo, sói, chó đều sợ sệt. Các loài thú dữ ấy, hoặc nghe tiếng
nó, hoặc nhìn thấy nó, hoặc đụng chạm với nó đều phải mất mạng.
“Nhưng có một người giỏi về chú thuật, có thể dùng sức của thần chú mà làm cho
các loài rồng độc, chim kim sí cùng với voi dữ, sư tử, cọp, beo, sói thảy đều
trở nên hiền hòa, dùng để cưỡi hoặc kéo xe. Những loài thú ấy thấy người giỏi về
chú thuật kia liền chịu khuất phục.
“Hàng Thanh văn, Duyên giác cũng thế, nhìn thấy ma Ba-tuần thì thảy đều khiếp sợ.
Còn ma Ba-tuần lại chẳng hề sợ sệt, cứ làm việc của ma.
“Người tu học Đại thừa lại cũng như người giỏi chú thuật kia, thấy hàng Thanh
văn khiếp sợ những việc của ma, đối với Đại thừa chẳng đem lòng tin tưởng, ưa
thích, nên trước dùng phương tiện hàng phục chúng ma, khiến cho trở nên hiền
hòa, có thể điều khiển được, rồi nhân đó mới giảng rộng đủ các môn diệu pháp.
Hàng Thanh văn, Duyên giác thấy người điều phục chúng ma rồi, không còn sợ sệt,
đối với Chánh pháp Vô thượng Đại thừa mới sanh lòng tin tưởng, ưa thích mà nói
rằng: ‘Chúng ta từ nay đối với Chánh pháp này không nên ngăn trở nữa.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác đối với phiền não sanh lòng
sợ sệt. Những người tu học Đại thừa thảy đều không khiếp sợ. Người tu học Đại
thừa có sức mạnh như vậy. Vì nhân duyên này, nên những điều ta thuyết dạy trước
đây là vì muốn cho hàng Thanh văn, Duyên giác điều phục các ma, chẳng phải vì
hàng Đại thừa mà nói.
“Kinh điển Đại Niết-bàn vi diệu này không thể tiêu mất, không thể thua kém, rất
kỳ diệu và đặc biệt! Nếu có người nghe được kinh điển này rồi sanh lòng tin tưởng,
thọ trì, có thể tin rằng Như Lai là pháp thường trụ, đó là người rất ít có, ví
như hoa ưu-đàm.
“Sau khi ta nhập Niết-bàn, nếu như có người được nghe kinh điển Đại thừa vi diệu
như thế này rồi đem lòng tin tưởng, kính trọng, nên biết rằng những người ấy
trong đời vị lai, cho đến trăm nghìn ức kiếp không còn rơi vào các nẻo dữ.”
Bấy giờ, Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn,
sẽ có trăm ngàn vô lượng chúng sanh phỉ báng và không tin vào kinh điển Đại Niết-bàn
vi diệu này.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, sau khi Phật nhập Niết-bàn bao lâu
thì những chúng sanh ấy sẽ phỉ báng kinh này? Lại có những chúng sanh thuần thiện
nào có thể cứu vớt những kẻ phỉ báng giáo pháp?”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ta nhập Niết-bàn rồi, trong 40 năm kinh Đại thừa
này sẽ được truyền bá rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề. Nhưng sau đó lại đành mai
một.
“Thiện nam tử! Ví như các loại mía đường, nếp hương, đường phèn, sữa, bơ sữa, đề-hồ,
tùy theo mỗi xứ mà người dân đều chọn một món trong đó cho là ngon nhất. Lại có
những người chỉ ăn toàn cháo kê. Những người ấy cũng nói rằng: ‘Món mà chúng
tôi ăn là ngon nhất.’ Ấy là những người ít phước nên phải chịu nghiệp báo. Nếu
là người có phước thì tai chẳng hề nghe đến cháo kê, chỉ ăn toàn các loại gạo
ngon, mía ngọt, đường phèn, đề-hồ.
“Kinh điển Đại Niết-bàn vi diệu này cũng thế. Những kẻ căn cơ đần độn, ít phước
chẳng hề thích nghe. Cũng như những kẻ ít phước kia không ưa các loại gạo ngon,
đường phèn... Hàng Nhị thừa cũng thế, không ưa kinh Đại Niết-bàn cao trổi nhất
này. Như có những chúng sanh sẵn lòng ưa thích nghe và thọ trì kinh này, nghe rồi
vui vẻ, không sanh lòng phỉ báng, cũng như những người có phước kia, được ăn
toàn các loại gạo ngon.
“Thiện nam tử! Ví như có một vị vua ở giữa vùng núi non hiểm trở. Tuy vua ấy có
các món mía đường, gạo ngon, đường phèn... nhưng cho là khó kiếm nên tham tiếc
mà tích trữ, chẳng dám ăn vì sợ hết đi, chỉ ăn toàn món cháo kê mà thôi. Có một
vị vua nước khác nghe được chuyện ấy, lấy làm thương xót và buồn cười, liền cho
xe chở gạo ngon, mía đường đến biếu tặng. Vua kia nhận được rồi, liền phân phát
rộng ra khắp nước để cùng ăn. Dân chúng ăn xong, lấy làm vui sướng, nói rằng:
‘Nhờ có vị vua kia nên chúng ta mới được ăn những món ít có này.’
“Thiện nam tử! Bốn hạng người kia lại cũng như vậy. Họ là những tướng soái của
Đại pháp Vô thượng này. Trong bốn hạng người ấy, như có một người nhìn thấy ở
phương khác có vô số Bồ Tát, dẫu tu học kinh điển Đại thừa này, tự mình sao
chép hay khiến người khác sao chép, vì lợi dưỡng hay vì danh dự, hoặc vì muốn
hiểu rõ pháp, hoặc vì muốn làm người cho kẻ khác nương theo, hoặc vì muốn trao
đổi rộng rãi với các kinh khác, nhưng lại chẳng đủ sức vì người khác mà giảng
thuyết. Nhìn thấy như vậy rồi, vị ấy liền mang kinh điển vi diệu này đến phương
ấy mà tặng cho các Bồ Tát kia, khiến cho các vị ấy phát tâm bồ-đề vô thượng, trụ
yên nơi bồ-đề. Các Bồ Tát ấy được kinh này rồi, liền vì người khác mà giảng rộng,
khiến vô lượng chúng sanh được hưởng thọ vị pháp của Đại thừa như thế này. Đó đều
là nhờ sức của một vị Bồ Tát mà những ai chưa nghe kinh này thảy đều được nghe,
cũng như nhờ sức của vị vua kia mà ai nấy đều được món ăn ngon ít có.
“Lại nữa, thiện nam tử! Kinh điển Đại Niết-bàn vi diệu này lưu hành ở xứ nào,
nên biết rằng vùng đất đó hẳn là kim cang, người ở đó cũng như kim cang. Nếu ai
có thể nghe được kinh này liền không còn thối chuyển đối với quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, có cầu nguyện việc chi ắt đều được thành tựu. Như hôm nay
ta tuyên thuyết ra đây, tỳ-kheo các ông nên khéo thọ trì. Nếu những chúng sanh
nào chẳng thể nghe được kinh điển như thế này, nên biết là những người ấy rất
đáng thương xót. Vì sao vậy? Vì những người ấy chẳng đủ sức thọ trì kinh điển Đại
thừa nghĩa lý rất sâu xa này.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Lai nhập Niết-bàn rồi, trong 40 năm
kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này sẽ được lưu hành rộng rãi trong cõi
Diêm-phù-đề, sau đó thì đành mai một. Nhưng rồi bao lâu sau nữa sẽ được xuất hiện
trở lại?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Cho đến khi Chánh pháp của ta còn ở cõi thế được 80
năm, thì trong 40 năm đầu kinh này sẽ đổ cơn mưa pháp lớn ở cõi Diêm-phù-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Vào lúc Chánh pháp đã diệt, Chánh giới
bị tiêu hủy, phi pháp tăng trưởng, không có chúng sanh nào làm theo đúng pháp,
liệu còn ai có thể nghe nhận, phụng trì, đọc tụng kinh này cho thông thuộc,
cùng là cúng dường, cung kính, sao chép, giảng thuyết kinh này? Xin Như Lai
thương xót chúng sanh, phân biệt thuyết rộng, khiến chư Bồ Tát nghe rồi thọ
trì; thọ trì rồi liền không còn thối chuyển đối với tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.”
Lúc ấy, Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Nay ông
khéo có thể hỏi ta về nghĩa như vậy.
“Thiện nam tử! Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông
Hy-liên mà phát tâm bồ-đề, thì mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà thọ trì kinh
điển như thế này, chẳng sanh lòng phỉ báng.
“Thiện nam tử! Như người có thể ở nơi chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát một con
sông Hằng mà phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ
báng pháp này, lại ưa thích kinh điển này, nhưng không thể vì người khác mà
phân biệt giảng rộng.
“Thiện nam tử! Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát hai sông Hằng
mà phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp
này, lại hiểu đúng và tin tưởng, ưa thích, thọ trì, đọc tụng, nhưng cũng không
thể vì người khác mà phân biệt giảng rộng.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát ba sông Hằng mà phát tâm
bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại thọ
trì, đọc tụng, sao chép kinh. Tuy có thể vì người khác giảng thuyết nhưng chưa
giảng được nghĩa sâu.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát bốn sông Hằng mà phát
tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại
thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được một phần
trong mười sáu phần nghĩa lý của kinh này. Tuy là giảng thuyết nhưng cũng chưa
được đầy đủ.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát năm sông Hằng mà phát
tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại
thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được tám phần
trong mười sáu phần nghĩa lý của kinh này.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát sáu sông Hằng mà phát
tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại
thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được mười hai phần
trong mười sáu phần nghĩa lý của kinh này.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát bảy sông Hằng mà phát
tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại
thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được mười bốn phần
trong mười sáu phần nghĩa lý của kinh này.
“Như có chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát tám sông Hằng mà phát
tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà không phỉ báng pháp này, lại
thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, khuyến khích và làm cho người khác sao chép.
Tự mình có thể nghe và thọ nhận, lại khuyến khích và làm cho người khác nghe và
thọ nhận, đọc tụng thông thuộc, kiên trì ủng hộ; vì lòng thương xót chúng sanh
trong thế gian mà cúng dường kinh này, lại khuyến khích và làm cho người khác
cúng dường. Đối với các việc như cung kính, tôn trọng, đọc tụng, lễ bái kinh
này, lại cũng thực hiện đầy đủ như vậy. Người ấy có thể giảng trọn ý nghĩa kinh
này, như là: Như Lai là thường trụ, không biến đổi, rốt ráo yên vui; giảng rộng
nghĩa tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; hiểu rõ được chỗ pháp tạng của Như
Lai. Người ấy đã cúng dường chư Phật như vậy rồi, kiến lập Chánh pháp vô thượng
như thế này và thọ trì, ủng hộ.
“Như có người vừa mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nên biết rằng
trong đời vị lai người ấy sẽ có khả năng kiến lập được Chánh pháp như thế này
và thọ trì, ủng hộ. Cho nên hiện nay các ông có thể biết được những người hộ
pháp trong đời vị lai. Vì sao vậy? Vì người vừa mới phát tâm ấy trong đời vị
lai ắt sẽ đủ sức hộ trì Chánh pháp vô thượng.
“Thiện nam tử! Có những tỳ-kheo xấu, nghe ta vào Niết-bàn chẳng sanh lo buồn, lại
nói rằng: ‘Hôm nay Như Lai nhập Niết-bàn, thật vui thích biết bao! Như Lai ở đời
này luôn ngăn trở sự lợi dưỡng của chúng ta. Nay Như Lai đã nhập Niết-bàn, còn
ai ngăn trở làm mất sự lợi dưỡng của chúng ta nữa? Nếu chẳng có ai ngăn trở thì
chúng ta lại sẽ được sự lợi dưỡng như cũ. Như Lai ở đời này đưa ra những giới cấm
rất nghiêm khắc. Nay Như Lai nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ buông bỏ hết. Áo cà-sa
vốn là pháp thức chúng ta đã thọ lãnh, từ nay chúng ta sẽ bỏ đi như tháo bỏ lá
phướn trên ngọn cây.’ Những kẻ như vậy sẽ phỉ báng, chống lại kinh Đại thừa
này.
“Thiện nam tử! Nay ông nên ghi nhớ lấy điều này: ‘Chỉ có chúng sanh nào thành tựu
đầy đủ vô lượng công đức mới có thể tin được kinh điển Đại thừa này, tin rồi thọ
trì. Ngoài ra, trong các chúng sanh khác còn có những người ưa thích pháp. Nếu
có thể rộng vì những người ấy mà giảng thuyết kinh này, họ được nghe rồi thì những
ác nghiệp đã tạo ra trong vô lượng vô số kiếp đã qua thảy đều tiêu diệt.
“Những ai không tin kinh điển này, ở đời hiện tại sẽ chịu vô số bệnh khổ não hại,
nhiều người trong số ấy thường bị người mắng nhiếc, làm nhục. Sau khi qua đời sẽ
bị người ta khinh chê, lại sanh làm người mặt mũi hình tướng xấu xí, việc mưu
sinh vất vả khó khăn, thường không được đầy đủ, tuy có kiếm được đôi chút cũng
chỉ là những món thô xấu, tồi tệ. Rồi đời này qua đời khác họ luôn sanh ra
trong những cảnh bần cùng, hạ tiện, sanh vào những nhà tà kiến phỉ báng Chánh
pháp. Cho đến lúc lâm chung, hoặc gặp buổi loạn lạc đao binh, vua chúa bạo ngược,
hoặc là bị việc xâm hại bức bách bởi những kẻ oán thù hiềm khích. Dẫu họ có bạn
lành nhưng phải xa cách không được gặp gỡ. Những thứ cần dùng trong cuộc sống,
mong cầu đều chẳng được. Dẫu có được đôi chút lợi lạc nhưng thường phải đói
khát. Chỉ những kẻ tầm thường, hạ tiện mới giao du với họ; hàng quốc vương, đại
thần đều khinh rẻ không biết đến tên tuổi họ. Như họ có nói ra điều gì rất hợp
lý cũng chẳng ai tin nhận. Người như vậy không thể sanh về những nơi tốt đẹp,
cũng như con chim bị chặt cánh không thể bay đi. Người này cũng thế, trong đời
vị lai không thể được sanh về những nơi tốt đẹp trong cõi trời người.
“Nếu ai có thể tin vào kinh điển Đại thừa này, tuy đáng phải thọ hình tướng thô
xấu nhưng nhờ công đức của kinh nên sẽ được hình dung đoan chánh, oai nghiêm, sức
mạnh ngày càng tăng. Người và chư thiên đều muốn được gặp gỡ, cung kính, yêu mến,
chẳng muốn rời xa người ấy. Các bậc quốc vương, đại thần cùng với thân thuộc của
họ, nếu nghe người ấy nói ra điều gì đều kính trọng tin theo.
“Trong hàng đệ tử Thanh văn của ta, như ai muốn làm nên việc ít có hơn hết, thì
nên vì thế gian mà giảng rộng kinh điển Đại thừa như thế này.
“Thiện nam tử! Ví như sương mù, dù tồn tại cũng khg qua khỏi lúc mặt trời mọc.
Khi mặt trời hiện ra liền tan biến chẳng còn gì. Thiện nam tử! Nghiệp ác của
chúng sanh lại cũng như vậy, tồn tại ở đời cũng khg qua khỏi lúc chúng sanh được
thấy mặt trời Đại Niết-bàn. Khi mặt trời Đại Niết-bàn xuất hiện liền có thể
tiêu trừ hết thảy các nghiệp ác.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có người cạo tóc xuất gia, tuy mặc áo cà-sa
nhưng chưa được thọ mười giới sa-di. Nếu có người trưởng giả đến thỉnh chúng
tăng thì người chưa thọ giới ấy cũng được đi cùng đại chúng. Tuy chưa thọ giới
cũng đã được dự vào hàng tăng chúng. Thiện nam tử! Nếu có những chúng sanh phát
tâm bắt đầu tu học kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn, sao chép và thọ trì, đọc tụng
kinh thì cũng giống như vậy, tuy chưa được đầy đủ các địa vị trong Thập địa
nhưng cũng đã dự vào trong hàng Bồ Tát Thập trụ.
“Như có những chúng sanh là đệ tử Phật, hoặc chẳng phải đệ tử Phật, hoặc vì
tham lam, hoặc vì sợ sệt, hoặc vì lợi dưỡng mà nghe và thọ trì kinh này, nghe rồi
không chê bai, thậm chí chỉ là một bài kệ trong kinh, nên biết rằng những người
ấy đã được đến gần quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Vì nhân duyên ấy, ta dạy rằng có bốn hạng người là chỗ nương
theo của thế gian. Thiện nam tử! Không có lý nào bốn hạng người ấy đối với những
điều Phật đã thuyết dạy lại nói rằng không phải Phật thuyết. Vì vậy mà ta nói rằng
bốn hạng người ấy là chỗ nương theo của thế gian. Thiện nam tử! Các ông nên
cúng dường bốn hạng người ấy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Làm sao chúng con nhận biết được bốn
hạng người ấy để cúng dường?”
Phật dạy Ca-diếp: “Nếu như có người kiến lập, hộ trì Chánh pháp thì những hạng
người này sẽ đi theo thưa thỉnh, nên bỏ cả thân mạng mà cúng dường. Như ta thuyết
dạy trong kinh Đại thừa này:
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên thành tâm cúng dường,
Cung kính và lễ bái,
Như người bà-la-môn,
Thờ phụng vị thần lửa.
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên thành tâm cúng dường,
Cung kính và lễ bái,
Cũng như hàng chư thiên,
Hầu hạ vị Đế-thích.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy, cúng dường bậc sư trưởng
nên làm như vậy. Nay con có chỗ nghi, xin Phật giảng rộng. Như có bậc trưởng lão
nghiêm trì giới luật, theo người trẻ tuổi để học hỏi và thọ nhận những điều
chưa biết, làm sao vị trưởng lão ấy lại nên lễ kính [người trẻ tuổi]? Nếu như
[vị ấy] lễ kính [người trẻ tuổi] thì không thể gọi là bậc trì giới.
“Lại như người trẻ tuổi nghiêm trì giới luật, theo người cao niên không giữ giới
để học hỏi và thọ nhận những điều chưa biết, vậy có nên lễ kính [kẻ phá giới
kia] chăng?
“Như có người xuất gia theo người tại gia để học hỏi và thọ nhận những điều
chưa được nghe, có nên lễ kính [người tại gia ấy] hay không?
“Theo lý thì người xuất gia không nên lễ kính người tại gia; trong Phật pháp
thì người nhỏ tuổi phải cung kính bậc cao niên, vì bậc cao niên đã thọ giới cụ
túc trước và thành tựu các oai nghi, cho nên phải cung kính cúng dường. [Nhưng]
Phật có dạy: ‘Phật pháp không chấp nhận những kẻ phá giới, họ như cỏ dại trong
đám ruộng tốt.’
“Lại như Phật vừa dạy: ‘Nếu có người biết pháp, dù người già, người trẻ, nên
thành tâm cúng dường...’ cho đến ‘như hàng chư thiên hầu hạ vị Đế-thích.’ Hai bài
kệ ấy là nghĩa thế nào? Lẽ nào Phật lại nói ra điều sai trái hay sao? Như Phật
có nói: ‘Tỳ-kheo trì giới cũng có chỗ sai phạm.’ Vì sao Như Lai nói ra lời ấy?
Lại trong các kinh khác Thế Tôn có nói: ‘Ta cho phép trừng trị những kẻ phá giới.’
Những lời dạy như thế ắt là không rõ nghĩa.”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ta vì các vị Bồ Tát tu học Đại thừa trong đời
vị lai mà dạy hai bài kệ trên, chẳng phải vì hàng đệ tử Thanh văn.
“Thiện nam tử! Như ta đã nói, vào lúc Chánh pháp đã diệt, Chánh giới bị tiêu hủy,
những kẻ phá giới tăng trưởng, những sự phi pháp phát triển rất mạnh, hết thảy
các bậc thánh đều ẩn dật không xuất hiện, những tôi trai, tớ gái và những vật bất
tịnh đều được thọ nhận và chứa trữ. Vào lúc ấy, ắt sẽ có một trong bốn hạng người
trên xuất hiện ở thế gian, cạo bỏ râu tóc xuất gia tu đạo. Vị ấy nhìn thấy các
tỳ-kheo thọ nhận và chứa trữ tôi trai, tớ gái và những vật bất tịnh, lại không
biết thế nào là thanh tịnh hay không thanh tịnh, cũng không biết thế nào là
đúng luật hay không đúng luật. Vị ấy vì muốn điều phục các tỳ-kheo như vậy nên
cùng họ giao tiếp gần gũi, nhưng không nhiễm lấy những thói xấu của họ. Từ chỗ
sở hành của bản thân cho đến chỗ sở hành của chư Phật, vị ấy đều khéo phân biệt
rõ. Tuy thấy những người phạm các giới ba-la-di nhưng vị ấy lặng thinh chẳng
nêu tội ấy ra. Vì sao vậy? Vị ấy nghĩ rằng: ‘Ta ra đời là để kiến lập và hộ trì
Chánh pháp.’ Cho nên vị ấy lặng thinh chẳng nêu tội ấy ra.
“Thiện nam tử! Người như vậy là vì sự hộ pháp, nên dù có chỗ phạm giới cũng chẳng
gọi là phá giới.
“Thiện nam tử! Ví như có vị quốc vương mang bệnh băng hà. Vị trừ quân còn non nớt
chưa đủ sức nối ngôi cai trị. Bấy giờ, có một người chiên-đà-la giàu có vô
cùng, lại có nhiều quyến thuộc, bèn dùng sức mạnh của mình, nhân lúc đất nước
suy yếu mà cướp ngôi vua. Người này làm vua chẳng bao lâu thì những người trong
nước, cư sĩ, bà-la-môn... thảy đều chẳng phục, bỏ trốn sang nước khác. Tuy có
những người ở lại, họ cũng chẳng muốn nhìn thấy vua ấy. Nếu có những người trưởng
giả, bà-la-môn... không rời xứ ấy, chỉ như cây cối sanh trưởng ở nơi nào rồi
cũng chết tại nơi ấy.
“Vị vua chiên-đà-la biết rằng người trong nước trốn đi rất nhiều, bèn sai những
người chiên-đà-la đi tuần trên các nẻo đường trọn bảy ngày, đánh trống truyền lệnh
của vua rằng: ‘Trong hàng bà-la-môn, nếu có ai chịu làm vị thầy ban lễ quán đảnh
cho ta, ta sẽ đem phân nửa đất nước mà phong thưởng.’
“Nghe được lời ấy, trong hàng bà-la-môn chẳng có ai tìm đến. Thảy đều nói rằng:
‘Không khi nào có một người dòng bà-la-môn lại chịu làm việc ấy!’
“Vua chiên-đà-la lại nói rằng: ‘Nếu trong hàng bà-la-môn chẳng có ai chịu làm
thầy ta, ta sẽ buộc những người bà-la-môn và chiên-đà-la ăn ở chung cùng với
nhau, cùng làm việc với nhau. Còn nếu có ai đến làm phép quán đảnh cho ta, ta sẽ
đem phân nửa đất nước mà phong thưởng. Lời nói ấy chẳng phải là giả dối. Thuốc
trường sanh thượng diệu cam lộ của cõi trời Tam thập tam thiên do chú thuật mà
có được, ta cũng sẽ chia đều cho người ấy cùng hưởng với ta.’
“Lúc ấy có một thầy bà-la-môn tuổi vừa được hai mươi, vâng giữ hạnh thanh tịnh,
để tóc dài, thông thạo chú thuật, tìm đến chỗ vua tâu rằng: ‘Đại vương! Tôi chịu
làm theo lệnh của ngài.’
“Lúc ấy, vị đại vương lấy làm vui sướng, liền nhận người thanh niên bà-la-môn ấy
làm thầy ban phép quán đảnh. Nghe được việc ấy, các vị bà-la-môn đều nổi giận,
chê trách người trẻ tuổi ấy rằng: ‘Ông là dòng bà-la-môn, sao lại làm thầy truyền
pháp cho người dòng chiên-đà-la?’
“Bấy giờ, vua liền chia phân nửa nước cho thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy, cả hai
cùng trị nước qua một thời gian dài. Rồi thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy mới bảo vua
rằng: ‘Tôi đã bỏ cả phép nhà đến đây làm thầy của vua, đã đem chú thuật vi mật
truyền dạy cho vua, nhưng nay vua chưa xem tôi là người thân.’ Vua hỏi: ‘Như hiện
nay chẳng phải tôi đã thân với thầy rồi sao?’ Thầy bà-la-môn nói: ‘Đến nay
chúng ta vẫn chưa cùng hưởng vị thuốc trường sanh của vua trước để lại.’ Vua
nói: ‘Lành thay, lành thay! Đại sư! Thật tôi chẳng biết điều ấy, nếu thầy cần
xin cứ lấy đi.’
“Thầy bà-la-môn trẻ tuổi nghe vua nói lời ấy rồi liền lấy thuốc mang về nhà, mời
các đại thần cùng đến dùng với mình. Các quan dùng xong, đồng tâu với vua rằng:
‘Vui thay! Đại sư có thuốc cam lộ bất tử.’ Vua biết điều đó, liền trách thầy:
‘Tại sao đại sư chỉ cùng các quan dùng thuốc cam lộ ấy mà không thấy chia cho
trẫm?’
“Lúc ấy thầy bà-la-môn trẻ tuổi liền lấy loại thuốc trộn lẫn rất nhiều chất độc
đưa cho vua uống. Vua uống xong, chỉ trong giây lát thì hơi thở rối loạn, mê
man té nhào xuống đất, chẳng còn biết gì cả, dường như người đã chết.
“Thầy bà-la-môn trẻ tuổi khi ấy liền tôn vị trừ quân của vua trước lên ngôi, bảo
vị ấy rằng: “Nơi tòa sư tử không nên để cho chiên-đà-la lên ngồi. Xưa nay, ta
chưa từng nghe thấy người chiên-đà-la làm vua bao giờ. Nếu người chiên-đà-la trị
nước, chăn dân, đó là việc vô lý! Nay ngài nên kế vị tiên vương, lấy Chánh pháp
mà trị nước.”
“Bấy giờ, thầy bà-la-môn trẻ tuổi sắp đặt mọi việc xong rồi, liền lấy thuốc giải
độc cho người chiên-đà-la, khiến cho được tỉnh lại, rồi đuổi ra khỏi nước. Lúc ấy,
thầy bà-la-môn trẻ tuổi tuy làm mọi việc như vậy nhưng chẳng để mất khuôn phép
dòng bà-la-môn. Những vị cư sĩ, bà-la-môn khác, khi nghe biết được việc người ấy
làm đều khen là việc chưa từng có, ca ngợi rằng: ‘Lành thay, lành thay! Nhân giả
có tài khéo léo đuổi được vua chiên-đà-la.’
“Thiện nam tử! Sau khi ta vào Niết-bàn, các vị Bồ Tát hộ trì Chánh pháp cũng
làm như thế, dùng sức phương tiện ở chung với những kẻ phá giới, giả làm vị
tăng thâu nhận và chứa trữ tất cả những vật bất tịnh, cùng làm công việc giống
như họ. Lúc bấy giờ, nếu Bồ Tát thấy có người phạm nhiều cấm giới nhưng lại có
thể trừng trị những tỳ-kheo xấu ác phá hủy giới cấm, liền đến chỗ người ấy,
cung kính lễ bái, cúng dường đủ bốn việc, dâng lên cho họ đủ thứ kinh sách và mọi
vật. Như tự mình chẳng có của cải, liền dùng phương tiện đến tìm cầu ở người
đàn-việt để có mà dâng cho họ. Vì làm việc như vậy, cho nên phải chứa trữ tám
thứ vật bất tịnh. Vì sao vậy? Vì người ấy muốn sửa trị những tỳ-kheo xấu ác,
cũng như thầy bà-la-môn trẻ tuổi kia đuổi người chiên-đà-la vậy. Lúc bấy giờ, vị
Bồ Tát tuy cung kính lễ bái người ấy, chứa trữ tám thứ đồ vật bất tịnh, nhưng
không có tội. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát ấy muốn xua đuổi, trừng trị những tỳ-kheo xấu,
làm cho những vị tăng thanh tịnh được sống yên ổn, rộng truyền kinh điển phương
đẳng Đại thừa, làm lợi ích cho tất cả chư thiên và loài người.
“Thiện nam tử! Bởi nhân duyên ấy, nên trong kinh ta thuyết hai bài kệ trên, khiến
chư Bồ Tát đều khen ngợi người hộ pháp, cũng như các hàng cư sĩ, bà-la-môn kia
khen ngợi thầy bà-la-môn trẻ tuổi kia, nói rằng: ‘Lành thay, lành thay! Bồ Tát
hộ pháp phải là như vậy!’
“Nếu ai thấy người hộ pháp cùng làm công việc với kẻ phá giới mà cho là có tội,
nên biết rằng kẻ ấy tự chịu lấy tai ương. Người hộ pháp ấy thật không có tội.
“Thiện nam tử! Như có thầy tỳ-kheo đã phạm giới cấm, nhưng vì lòng kiêu mạn bèn
che giấu tội lỗi, chẳng chịu sám hối, nên biết rằng người như vậy mới thật là kẻ
phá giới. Còn vị Đại Bồ Tát, vì việc hộ pháp, dù có chỗ phạm giới cũng chẳng gọi
là phá giới. Tại sao vậy? Vì không có lòng kiêu mạn, biết bày tỏ và sám hối.
“Thiện nam tử! Cho nên trong kinh ta che lấp chỗ hình tướng mà nói kệ rằng:
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên thành tâm cúng dường,
Cung kính và lễ bái,
Như người bà-la-môn,
Thờ phụng vị thần lửa.
Lại như đệ nhị thiên,
Hầu hạ vị Đế-thích.”
“Vì nhân duyên ấy, ta không phải vì người tu học trong hàng Thanh văn mà chỉ vì
hàng Bồ Tát nói ra kệ ấy.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát như vậy đối với giới
luật có phần chểnh mảng. Vậy giới luật mà họ đã thọ từ trước có còn được nguyên
vẹn hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nói ra lời ấy. Vì sao vậy? Giới luật
mà các vị Bồ Tát ấy đã thọ vẫn còn nguyên vẹn chẳng mất. Ví như có phạm điều
chi, vị ấy liền tức thời sám hối. Sám hối rồi liền trở nên thanh tịnh.
“Thiện nam tử! Ví như cái bờ đê cũ, có lỗ thủng bên này xuyên qua bên kia, tất
nhiên nước phải rỉ chảy. Vì sao vậy? Vì không có ai sửa chữa. Nếu có người sửa
chữa, ắt nước không còn chảy ra. Bồ Tát cũng thế, tuy cùng với những người phá
giới mà bố-tát, thọ giới, tự tứ, làm các việc tăng với họ, nhưng về giới luật của
mình thì không để cho như bờ đê bị thủng lỗ. Vì sao vậy? Nếu không có những người
giữ giới thanh tịnh thì chúng tăng phải tổn giảm, những kẻ kiêu mạn, chểnh mảng,
biếng nhác ngày càng nhiều hơn. Nếu có những người giữ giới thanh tịnh thì có
thể làm cho đầy đủ, không mất đi giới luật căn bản.
“Thiện nam tử! Đối với [việc tu tập] giáo pháp mà trì trệ mới gọi là chểnh mảng;
đối với giới luật nếu có chỗ chậm trễ không gọi là chểnh mảng. Vị Đại Bồ Tát đối
với giáo pháp Đại thừa này không có tâm biếng nhác, ngạo mạn, đó gọi là giới
căn bản. Vì bảo vệ Chánh pháp nên vị ấy dùng nước Đại thừa để tự tắm rửa. Vì vậy
nên Bồ Tát tuy thị hiện phá giới cũng không gọi là chểnh mảng.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Trong chúng tăng có bốn hạng người mà Phật đã dạy.
Nhưng ví như trái am-la, rất khó phân biệt trái sống với trái chín. Làm sao nhận
biết được là người trì giới hay phá giới?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nhờ kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này, có thể dễ dàng
biết được. Vì sao mà nhờ kinh Đại Niết-bàn này có thể biết được? Ví như người
làm ruộng gieo trồng lúa nếp, nhổ bỏ cỏ dại. Lấy mắt thường mà xem thì ai cũng
gọi là đám ruộng sạch cỏ, nhưng đến khi có hạt thì cỏ và lúa ắt phải khác nhau.
“Cũng vậy, tám việc bất tịnh có thể ô nhiễm chúng tăng. Như vị nào có thể trừ bỏ
được tám việc ấy thì dùng mắt thường mà xem cũng biết được đó là vị tăng thanh
tịnh.
“Như có những người trì giới và phá giới, trong khi không làm việc ác thì khó
dùng mắt thường mà phân biệt. Nếu như việc ác đã biểu hiện ra, liền có thể biết
được một cách dễ dàng. Cũng như cỏ dại kia đến lúc có hạt thì dễ phân biệt.
Trong chúng tăng cũng thế. Nếu như ai có thể lìa xa tám việc bất tịnh, các pháp
độc hại, thì những người ấy gọi là thánh chúng phước điền, xứng đáng cho loài
người và chư thiên cúng dường. Chỗ quả báo thanh tịnh không thể lấy mắt thường
mà phân biệt được.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như trong rừng ca-la-ca, thứ cây ấy chiếm đa phần,
chỉ xen có một cây trấn-đầu-ca. Hai loại trái cây ấy tương tợ như nhau, không
thể phân biệt. Vào mùa trái chín, có một cô gái đến hái. Cô hái được chỉ một phần
là trái trấn-đầu-ca mà đến mười phần là trái ca-la-ca. Cô chẳng biết việc ấy,
liền mang hết ra chợ bán. Có những đứa nhỏ ngu dại chẳng biết phân biệt, mua lấy
những trái ca-la-ca, ăn xong thì chết.
“Những người có trí nghe được chuyện ấy, bèn hỏi cô gái ấy rằng: ‘Chị hái những
trái cây ấy ở đâu mang lại đây?’ Lúc ấy, cô gái liền nói ra chỗ hái trái cây.
Những người ấy liền nói rằng: ‘Chỗ ấy có rất nhiều cây ca-la-ca, nhưng chỉ có một
cây trấn-đầu-ca mà thôi.’ Biết như vậy rồi liền cười chê mà bỏ đi.
“Thiện nam tử! Tám pháp bất tịnh ở trong đại chúng lại cũng như vậy. Trong
chúng này có rất nhiều người thọ dụng tám phép ấy, chỉ có một người thanh tịnh
trì giới, chẳng thọ nhận tám phép bất tịnh. Mặc dầu biết rằng những người khác
thâu nhận và chứa trữ vật phi pháp, nhưng người ấy cũng làm việc với họ, chẳng
rời bỏ họ, như cây trấn-đầu-ca duy nhất đứng giữa rừng kia.
“Có người ưu-bà-tắc thấy trong chúng tăng có nhiều người không theo đúng pháp,
cho nên đối với tất cả đều chẳng cung kính cúng dường. Người ấy nếu muốn cúng
dường, trước hết nên hỏi rằng: ‘Đại đức! Tám việc như vậy có nên thâu nhận và
chứa trữ hay chăng? Phật có cho phép hay chăng? Nếu nói rằng Phật cho phép, thì
những người như vậy có được chung cùng với người thanh tịnh mà thi hành các
pháp bố-tát, yết-ma và tự tứ chăng?’
“Người ưu-bà-tắc ấy hỏi như vậy rồi, chúng tăng đều đáp rằng: ‘Đức Phật vì lòng
thương xót, có cho phép chứa trữ tám việc như vậy.’ Người ưu-bà-tắc ấy nói rằng:
‘Ở Kỳ-hoàn tinh xá có những tỳ-kheo nói rằng: Phật cho phép chứa trữ vàng, bạc.
Lại có những tỳ-kheo khác nói rằng: Phật không cho phép chứa trữ. Những tỳ-kheo
nói rằng ‘cho phép’ và những tỳ-kheo nói rằng ‘không cho phép’, hai nhóm tỳ-kheo
ấy chẳng ở chung, chẳng thuyết giới chung và chẳng tự tứ với nhau, cho đến chẳng
uống nước chung một dòng sông. Và đồ vật lợi dưỡng họ cũng chẳng hưởng chung.
Như vậy, vì sao các vị lại nói rằng Phật có cho phép? Đức Phật là bậc cao quý
nhất trong tất cả các cõi trời, dẫu có thâu nhận đi nữa thì chúng tăng cũng chẳng
nên chứa trữ. Nếu có vị nào thâu nhận tám món bất tịnh, thì chớ nên thuyết giới,
tự tứ, yết-ma, làm tăng sự chung với vị ấy. Nếu chung cùng với vị ấy mà thuyết
giới, tự tứ, yết-ma, làm tăng sự, thì khi thác sẽ đọa nơi địa ngục, cũng như những
người kia ăn nhằm trái ca-la-ca mà chết vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như ở thành thị có người bán thuốc. Người ấy có món
thuốc rất hay, có vị ngọt, lấy ở Tuyết sơn. Người ấy còn bán nhiều món thuốc tạp
nhạp khác, cũng có vị ngọt tương tự.
“Lúc ấy, có những người muốn mua thuốc nhưng chẳng biết phân biệt. Họ đến chỗ
bán thuốc, hỏi rằng: ‘Ông có món thuốc ở Tuyết sơn chăng?’ Người bán thuốc đáp
là có. Người này dối trá, lấy những món thuốc tạp nhạp mà nói với người mua rằng:
‘Đây là món thuốc rất hay ở Tuyết sơn, có vị ngọt.’ Bấy giờ, những người mua
thuốc lấy mắt thường mà nhìn nên không thể phân biệt được, liền mua lấy mang về,
lại nghĩ rằng: ‘Nay ta đã có được món thuốc Tuyết sơn rất hay và có vị ngọt.’
“Ca-diếp! Như trong số tăng ở hàng Thanh văn, có kẻ giả danh là tăng, cũng có
những vị tăng chân thật, có chư tăng hòa hiệp, hoặc trì giới, hoặc phá giới. Ở
trong chúng đây thì hết thảy đều nên cúng dường, cung kính, lễ bái. Người
ưu-bà-tắc kia với mắt thường không thể phân biệt, cũng như người mua thuốc chẳng
phân biệt được món thuốc ở Tuyết sơn. Ai là người trì giới? Ai là kẻ phá giới?
Ai là tăng chân chính? Ai là tăng giả danh? Chỉ người có thiên nhãn mới phân biệt
được.
“Ca-diếp! Như người ưu-bà-tắc biết rằng tỳ-kheo nào đó là người phá giới, thì
chẳng nên cung cấp đồ thí, chẳng nên lễ bái cúng dường. Nếu biết rằng người ấy
thâu nạp và chứa trữ tám vật phi pháp, thì cũng chẳng nên cấp thí những đồ cần
dùng, chẳng nên lễ bái, cúng dường. Nếu trong chúng tăng có người phá giới, chẳng
nên vì lẽ người ấy mặc áo cà-sa mà cung kính lễ bái.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Lành thay, lành thay! Việc Như Lai
nói đó là chân thật, chẳng có giả dối. Con sẽ cúi đầu thọ lãnh, dường như kim
cang, vật lạ trân bảo.
Như Phật có dạy, các tỳ-kheo nên y theo bốn pháp. Bốn pháp đó là gì? Đó là: (1)
Y theo pháp chẳng y theo người, (2) y theo ý nghĩa chẳng y theo văn tự, lời
nói; (3) y theo trí tuệ, chẳng y theo [nhận] thức, (4) y theo kinh thật nghĩa rốt
ráo, chẳng y theo kinh [quyền thừa] không rốt ráo trọn nghĩa. Bốn pháp như vậy
cần phải rõ biết [để nương theo], không [nương theo] bốn hạng người [như Phật
đã nói].”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Y theo pháp ấy, tức là Đại Bát Niết-bàn của Như Lai. Hết
thảy pháp Phật đều là tánh pháp. Tánh pháp ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai
là thường trụ, không biến đổi. Như có ai nói rằng: ‘Như Lai là vô thường’, người
ấy không biết, không thấy tánh pháp. Nếu người đã không biết, không thấy tánh
pháp thì chẳng nên nương theo.
“Như trên ta đã nói về bốn hạng người ra đời để bảo vệ giữ gìn Chánh pháp, cần
nên rõ biết để nương theo họ. Vì sao vậy? Vì những người ấy hiểu rõ tạng bí mật,
sâu kín của Như Lai, nên có thể biết Như Lai là thường trụ, chẳng biến đổi. Như
nói rằng Như Lai là vô thường, biến đổi, thật không có lý như vậy.
“Bốn hạng người như vậy tức là Như Lai. Vì sao vậy? Vì những người ấy có thể hiểu
rõ những mật ngữ của Như Lai và có thể giảng thuyết. Như ai có thể hiểu rõ tạng
bí mật sâu thẳm của Như Lai và biết Như Lai là thường trụ không biến đổi, nếu
nói rằng người như thế mà vì lợi dưỡng mới nói rằng: ‘Như Lai là vô thường’ thì
thật vô lý. Những người như vậy còn có thể nương theo, huống chi lại chẳng
nương theo bốn hạng người mà ta đã nói?
“Y theo pháp, tức là tánh pháp; chẳng y theo người, tức là hàng Thanh văn. Tánh
Pháp là Như Lai, hàng Thanh văn là hữu vi. Như Lai là thường trụ, hữu vi là vô
thường.
“Thiện nam tử! Nếu như người phá giới, vì lợi dưỡng mà nói rằng: ‘Như Lai vô
thường, biến đổi’, thì không nên nương theo người ấy. Thiện nam tử! Đó gọi là
nghĩa quyết định.
“Y theo nghĩa chẳng y theo văn tự, lời nói. Nghĩa tức là sáng suốt, hiểu biết trọn
vẹn. Hiểu biết trọn vẹn gọi là không thiếu sót, yếu kém. Không thiếu sót, yếu
kém tức là đầy đủ. Nghĩa đầy đủ đó, gọi là Như Lai thường trụ không biến đổi.
Nghĩa Như Lai thường trụ không biến đổi tức là pháp thường. Nghĩa pháp thường tức
là Tăng thường. Đó gọi là y theo nghĩa chẳng y theo lời nói.
“Những văn tự, lời nói như thế nào là không nên nương theo? Đó là những văn từ
trau chuốt trong các sách luận, cũng nhiều vô số như kinh điển Phật đã thuyết,
nhưng toàn nói những việc tham cầu không chán, gian trá nịnh hót, giả vờ thân cận
bợ đỡ để cầu lợi, thường đến nhà cư sĩ mà làm công việc cho họ. Lại còn nói rằng:
‘Phật cho phép các tỳ-kheo chứa trữ tôi tớ và các vật bất tịnh như: vàng, bạc,
trân bảo, lúa gạo, kho lẫm, bò, dê, voi, ngựa, buôn bán kiếm lời; rằng vào thời
mất mùa đói kém, vì thương xót đệ tử nên Phật cho phép tỳ-kheo để dành đồ vật,
tay làm hàm nhai, không thọ nhận mà vẫn có ăn.’ Những lời như vậy đều chẳng nên
nương theo.
“Y theo trí tuệ chẳng y theo nhận thức. Nói trí tuệ tức là Như Lai. Như có những
người Thanh văn không thể biết rõ công đức của Như Lai, chỗ nhận thức như vậy
không nên nương theo. Như người biết rằng Như Lai tức là pháp thân, chỗ trí tuệ
chân thật như vậy là nên nương theo.
“Như có người thấy cái thân phương tiện của Như Lai bèn nói rằng thân ấy là do
các ấm, giới, nhập khống chế, là do thức ăn mà được nuôi lớn. Chỗ nhận thức như
vậy chẳng nên nương theo. Do đó mà biết được những chỗ nhận thức chẳng nên
nương theo. Như có người nói những lời như trên, cho đến những kinh sách nào
nói như vậy đều chẳng nên nương theo.
“Y theo kinh thật nghĩa rốt ráo, không y theo kinh [quyền thừa] không rốt ráo
trọn nghĩa. Kinh không rốt ráo trọn nghĩa là nói hàng Thanh văn, nghe đến tạng
bí mật sâu xa của Phật Như Lai ắt sanh tâm nghi ngờ, sợ sệt, không biết rằng tạng
ấy từ nơi biển đại trí tuệ mà ra, cũng như trẻ con chưa biết phân biệt. Đó gọi
là không trọn nghĩa. Kinh thật nghĩa rốt ráo là nói hàng Bồ Tát trí tuệ chân thật,
tùy theo đại trí vô ngại nơi tự tâm, cũng như người người đã trưởng thành hiểu
biết tất cả. Đó gọi là rốt ráo trọn nghĩa.
“Lại nữa, Thanh văn thừa gọi là không rốt ráo trọn nghĩa, Đại thừa vô thượng mới
gọi là rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: ‘Như Lai là vô thường, biến đổi’, đó gọi
là không rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: ‘Như Lai là thường trụ, chẳng biến đổi’,
đó gọi là rốt ráo trọn nghĩa.
“Chỗ thuyết dạy của hàng Thanh văn nên rõ biết, gọi là không rốt ráo trọn
nghĩa. Chỗ thuyết dạy của hàng Bồ Tát nên rõ biết, gọi là rốt ráo trọn nghĩa. Nếu
nói rằng: ‘Như Lai nhờ ăn uống mà được nuôi lớn’, đó là không rốt ráo trọn
nghĩa. Nếu nói: ‘Như Lai là thường trụ, chẳng biến đổi’, đó là rốt ráo trọn
nghĩa. Nếu nói rằng: ‘Như Lai nhập Niết-bàn, như củi hết thì lửa tắt’, đó gọi
là không rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng: ‘Như Lai thể nhập pháp tánh’, đó gọi
là rốt ráo trọn nghĩa.
“Không nên nương theo pháp của Thanh văn thừa. Vì sao vậy? Như Lai vì muốn hóa
độ chúng sanh nên dùng sức phương tiện giảng thuyết Thanh văn thừa, cũng như
trưởng giả kia dạy con những điều sơ học.
“Thiện nam tử! Thanh văn thừa cũng ví như lúc mới cày ruộng, chưa gặt lúa. Như
vậy gọi là không rốt ráo trọn nghĩa. Vì vậy chẳng nên nương theo Thanh văn thừa.
Nên nương theo pháp Đại thừa. Vì sao vậy? Vì Như Lai muốn độ chúng sanh nên
dùng sức phương tiện giảng thuyết Đại thừa, vì vậy nên nương theo. Như vậy gọi
là rốt ráo trọn nghĩa.
“Bốn pháp y theo như vậy, cần phải rõ biết.
“Lại nữa, nói y theo nghĩa, nghĩa đó gọi là thật thà thẳng thắn. Thật thà thẳng
thắn gọi là sáng tỏ rõ ràng. Sáng tỏ rõ ràng gọi là không thiếu kém. Không thiếu
kém gọi là Như Lai.
“Lại nữa, sáng tỏ rõ ràng gọi là trí tuệ. Thật thà thẳng thắn gọi là thường trụ.
“Như Lai thường tồn, gọi là y theo pháp. Pháp gọi là thường, cũng gọi là không
bờ bến, không thể nghĩ bàn, không thể cầm nắm, không thể bị trói buộc, nhưng có
thể thấy được. Như có người nói rằng: “không thể thấy được”, thì chẳng nên
nương theo người ấy. Vì vậy cho nên y theo pháp chẳng y theo người. Như có người
nào dùng lời nói vi diệu mà thuyết lẽ vô thường, thì chớ nên nương theo lời ấy.
Vì vậy cho nên y theo nghĩa chứ chẳng y theo lời nói, văn tự.
“Nói y theo trí, đó là: chúng tăng là thường, vô vi, không biến đổi, không chứa
trữ tám thứ vật bất tịnh. Vậy nên y theo trí tuệ chẳng y theo thức. Như có kẻ
nói rằng: ‘Do thức tạo tác nên thức nhận chịu. Không có chúng tăng hòa hiệp. Vì
sao vậy? Hòa hiệp đó gọi là không sở hữu gì cả. Không sở hữu gì cả thì sao gọi
là thường?’ Vì thế nên chỗ nhận thức như vậy không thể nương theo.
“Nói y theo chỗ rốt ráo trọn nghĩa, rốt ráo trọn nghĩa đó gọi là biết đủ, không
bao giờ giả hiện oai nghi thanh bạch, không kiêu mạn tự cao, không tham cầu lợi
dưỡng. Lại cũng không chấp trước các pháp mà Như Lai tùy nghi phương tiện thuyết
dạy. Đó gọi là rốt ráo trọn nghĩa. Như ai có thể trụ ở chỗ như vậy thì nên biết
rằng người đó đã trụ ở đệ nhất nghĩa. Vì vậy nên gọi là: y theo kinh rốt ráo trọn
nghĩa, chẳng y theo kinh không rốt ráo trọn nghĩa.
“Chỗ không rốt ráo trọn nghĩa đó, như trong kinh nói rằng hết thảy đều cháy
thiêu, hết thảy đều vô thường, hết thảy đều là khổ, hết thảy đều là không, hết
thảy đều là vô ngã, đó gọi là không rốt ráo trọn nghĩa. Vì sao vậy? Vì không hiểu
trọn những nghĩa như vậy, nên chúng sanh đọa vào địa ngục A-tỳ. Vì sao vậy? Vì
chấp trước nên không hiểu được rốt ráo trọn nghĩa. Hết thảy đều cháy thiêu, lại
hiểu rằng Như Lai dạy Niết-bàn cũng cháy thiêu; hết thảy đều vô thường, lại hiểu
rằng Như Lai dạy Niết-bàn cũng là vô thường. Đối với những lẽ khổ, không, vô
ngã cũng hiểu sai như vậy! Cho nên gọi là hiểu không rốt ráo trọn nghĩa kinh,
chẳng nên nương theo.
“Thiện nam tử! Như có người nói rằng: ‘Như Lai thương xót tất cả chúng sanh,
khéo biết rõ lúc nào nên làm việc gì. Vì biết được lúc thích hợp, nên nói việc
khinh là trọng, việc trọng là khinh. Như Lai xét biết có những đệ tử được đàn
việt cung cấp những vật cần dùng, không hề thiếu hụt. Đối với những người ấy,
Phật không cho phép thâu nạp và chứa trữ tôi tớ, vàng, bạc, của cải, vật báu
cùng là buôn bán đổi chác những vật bất tịnh. Nếu những đệ tử không có đàn việt
cung cấp những vật cần dùng, gặp khi mất mùa đói khổ, khó tìm món ăn vật uống;
vì muốn kiến lập, hộ trì Chánh pháp, Phật cho phép những đệ tử ấy thâu nạp và
chứa trữ tôi tớ, vàng, bạc, xe cộ, ruộng vườn, lúa thóc và đổi chác mua bán để
chi dùng. Mặc dầu được phép thâu nạp và chứa trữ những vật như vậy, nhưng cần
phải tịnh thí, làm cho đàn việt thêm lòng tin tưởng.’ Nói như vậy là hợp với bốn
pháp như trên, hãy nương theo đó. Như có kinh, luật, luận nào chẳng trái với bốn
pháp trên thì cũng nên nương theo.
“Như có người nói rằng: ‘Dù là lúc thích hợp hay không thích hợp, dù là người
có thể hộ pháp hay không thể hộ pháp, Như Lai đều cho phép tất cả tỳ-kheo thâu
nạp và chứa trữ các vật bất tịnh kia.” Lời nói như vậy chẳng nên nương theo.
Như trong các kinh, luật, luận nào có chỗ nói như vậy thì cũng chẳng nên nương
theo.
“Ta vì những chúng sanh mắt thịt mà giảng thuyết bốn pháp nương theo này, chẳng
phải vì người có tuệ nhãn.
“Vì vậy mà nay ta giảng thuyết bốn chỗ nương theo: (1) pháp tức là tánh pháp,
(2) nghĩa tức là Như Lai thường trụ không biến đổi, (3) trí tức là biết rõ tất
cả chúng sanh đều có tánh Phật, (4) hiểu nghĩa rốt ráo trọn vẹn là thông đạt hết
thảy kinh điển Đại thừa.”
QUYỂN 7 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần bốn
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như vậy có phải
là nên nương tựa, y theo bốn hạng người Phật đã nói trên?”
Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy! Thiện nam tử! Như ta đã nói, nên nương tựa, y
theo những người như thế. Vì sao vậy? Vì có bốn thứ ma. Bốn thứ ma ấy là gì? Là
ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, và ma của cảnh trời Tha hóa tự tại. Những
kinh luật khác mà các loài ma ấy thuyết dạy cũng có người thọ trì.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Phật vừa nói có bốn thứ ma. Chúng
con làm sao có thể phân biệt những điều Phật thuyết dạy với những điều ma thuyết
dạy? Có những chúng sanh theo hạnh của ma, lại có những chúng sanh vâng lời Phật
dạy, chúng con làm sao biết được?”
Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Bảy trăm năm sau khi ta nhập Niết-bàn, bọn ma Ba-tuần
sẽ dần dần làm hư hoại Chánh pháp. Ví như người thợ săn mặc vào y phục người tu
hành, Ma vương Ba-tuần cũng vậy. Chúng giả dạng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, lại hóa hình từ các vị Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, cho đến sắc thân Phật.
Với hình hài hữu lậu, Ma vương giả làm thân vô lậu để phá hoại Chánh pháp. Đến
lúc ma Ba-tuần phá hoại Chánh pháp, chúng sẽ nói rằng: ‘Thuở xưa Bồ Tát ở trên
cung trời Đâu-suất, chết đi rồi mới sanh về thành Ca-tỳ-la nơi cung vua Bạch Tịnh.
Đó là nhân chỗ cha mẹ ái dục hòa hợp mà sanh ra thân ấy.’
“Hoặc nói rằng: ‘Nếu ai sanh trong cõi người mà được đại chúng chư thiên và
nhân loại thế gian cung kính, đó là sự vô lý.’
“Ma lại nói rằng: ‘Từ thuở xưa kia, ngài đã từng tu khổ hạnh và bố thí mọi thứ,
như: đầu, mắt, tuỷ não, thành quách, giang sơn, cho đến vợ con. Nhờ vậy, nay
ngài được thành Phật đạo. Bởi nhân duyên ấy, ngài được sự cung kính của các
loài chúng sanh: loài người, chư thiên, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-già.’
“Nếu có kinh luật nào thuyết dạy như thế, nên biết rằng đó là thuyết của ma.
“Thiện nam tử! Như có kinh luật nào nói rằng: ‘Như Lai Chánh giác thành Phật đã
lâu rồi, nay mới thị hiện thành Phật đạo. Vì ngài muốn độ thoát các chúng sanh
nên thị hiện có cha mẹ, nương theo chỗ ái dục hòa hợp của cha mẹ mà sanh ra.
Ngài tùy thuận thế gian nên làm việc như vậy.’ Nên biết rằng kinh luật như thế
thật là chỗ thuyết dạy của Như Lai.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Lúc mới sanh Như Lai hướng về mười phương đi bảy bước
theo mỗi phương. Điều ấy không thể tin.’ Đó là thuyết của ma.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Lúc mới ra đời, Như Lai hướng về mười phương đi bảy bước
theo mỗi phương, đó là phương tiện thị hiện của Như Lai.’ Như vậy gọi là kinh
luật mà Như Lai đã thuyết.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Khi Bồ Tát sanh ra rồi, vua cha sai người đưa Ngài đến
thiên từ. Chư thiên được thờ phụng nơi đó thấy Ngài vào thảy đều bước xuống lễ
kính Ngài. Vì vậy nên ai nấy đều tôn xưng ngài là Phật.’
“Lại có kẻ vấn nạn rằng: ‘Chư thiên xuất hiện trước, Phật ra đời sau; như vậy
làm sao chư thiên lễ kính Phật?’ Nên biết rằng lời vấn nạn như vậy tức là thuyết
của Ma Ba-tuần.
“Như có kinh nói rằng: ‘Khi Phật bước vào miếu thờ thiên thần, các tượng thần
và chư thiên nơi ấy như Ma-hê-thủ-la, Đại Phạm thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân
thảy đều chắp tay, kính lễ dưới chân Phật.’ Kinh luật như vậy là thuyết của Phật.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là Bồ Tát.
“Như có kinh luật nói rằng: ‘Khi Bồ Tát làm thái tử, vì lòng tham Ngài đi bốn
phương tìm cưới vợ, rồi Ngài ở nơi thâm cung hưởng thụ năm thứ dục lạc, vui sướng
đủ điều.’ Kinh luật như thế là do Ma Ba-tuần nói ra vậy.
“Như có thuyết nói rằng: ‘Bồ Tát đã lìa bỏ lòng tham đối với vợ con, gia thuộc
từ lâu, cho đến đối với việc thụ hưởng năm thứ dục lạc thượng diệu ở cõi trời
Ba mươi ba ngài cũng chỉ cũng xem như đàm dãi nhơ nhớp, huống chi là sự vui
thích ở nhân gian? [Vì thế,] ngài cạo bỏ râu tóc, xuất gia tu học đạo.’ Kinh luật
như thế là do Phật thuyết.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, trong tinh xá Kỳ-đà, ngài có
cho phép các tỳ-kheo thu nhận và chứa trữ những thứ như nô tỳ, tôi tớ, bò, dê,
voi, ngựa, lừa, la, gà, heo, mèo, chó, vàng, bạc, lưu ly, chân châu, pha lê, xa
cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc thạch, ngọc bích, nồi đồng và nồi sắt, mâm đồng
lớn và mâm đồng nhỏ, cùng mọi vật dụng...; có cho phép làm ruộng, làm vườn,
buôn bán đổi chác, chứa trữ thóc lúa... Vì lòng đại từ thương xót chúng sanh,
Phật cho chứa trữ mọi vật ấy và làm mọi việc như vậy.’ Kinh luật như thế là do
ma thuyết.
“Như có người nói rằng: ‘Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, trong tinh xá Kỳ-đà, xứ sở
của quỷ Na-lê-lâu. Lúc ấy, nhân vì ông bà-la-môn Cổ-đê-đức cùng vua Ba-tư-nặc,
Như Lai có dạy rằng: Tỳ-kheo chẳng nên thu nhận và chứa trữ vàng, bạc, lưu ly,
pha lê, chân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc thạch, ngọc bích, nô tỳ,
tôi tớ, đồng nam, đồng nữ, các loại thú vật như: bò, dê, voi, ngựa, lừa, la,
gà, heo, mèo, chó, nồi đồng và nồi sắt, mâm đồng lớn và mâm đồng nhỏ, và mọi thứ
giường, mùng, chiếu, gối nhiều màu sắc...
“[Vị tỳ-kheo cũng không nên làm] những việc mà người đời cần đến để mưu sinh
như làm nhà cửa, làm ruộng, làm vườn, buôn bán, đổi chác, tự làm thức ăn, xay gạo,
giã gạo, luyện chú thuật giữ mình, tập luyện chim ưng dùng để đi săn, xem sao
đoán mệnh, suy tính việc nên hư, xem tướng kẻ nam người nữ, theo chiêm bao mà
đoán những việc lành dữ, [hoặc đoán thai nhi] là nam, là nữ, hay chẳng phải nam
chẳng phải nữ... 64 nghề giỏi; lại có 18 phép chú thuật lừa dối người, các thứ
nghề khéo léo, hoặc nói vô số việc thông tục của người đời; dùng hương tán,
hương bột, hương phết, hương xông, mọi thứ hoa kết lại; làm nghề hớt tóc, sửa
tóc, gian tà bợ đỡ, tham lợi không chán, vui thích chỗ náo nhiệt, nói chuyện giỡn
cười, tham ăn cá thịt, pha chế thuốc độc, dầu thơm, dùng dù lọng quý, đi giày
da, làm ra quạt lông, rương trấp, các thứ hình vẽ; chứa trữ lúa thóc, các loại
lúa mạch, các loại đậu cùng các thứ dưa, trái...
“[Vị tỳ-kheo cũng không được] gần gũi thân mật với vua chúa, con vua, quan chức
cao cấp cùng các phụ nữ, nói cười lớn tiếng hoặc nín lặng, không nói năng chi cả;
thường nghi ngờ đối với các pháp, hay nói bậy bạ, chuyện dài, vắn, tốt, xấu,
lành, dữ, ưa mặc áo đẹp...
“Nếu người xuất gia tự mình khen ngợi các việc bất tịnh như thế trước mặt thí
chủ, lại vào ra, đi chơi đến những chỗ bất tịnh như tiệm bán rượu, nhà dâm nữ,
chỗ cờ bạc... những người như vậy, Phật chẳng cho ở chung với các tỳ-kheo. Họ
nên ra khỏi tăng đoàn, hoàn tục mà làm hạng tôi tớ trong thế gian cho người
khác sai khiến. Họ ví như cỏ dại lẫn trong đám lúa, cần phải loại bỏ đi.’
“Những kinh luật nào dạy như trên, nên biết rằng đều là thuyết của Như Lai.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai tùy thuận
thuyết của Phật, người ấy tức là Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Bồ Tát vì muốn cúng dường thiên thần nên vào miếu thần,
như những chỗ thờ Đại tự tại thiên, Vi-đà thiên, Ca-chiên-diên thiên...’ [Lời
nói như vậy là không đúng, vì] sở dĩ Phật vào những nơi đó là để điều phục cả
hàng trời, người. Nếu nói rằng không phải như vậy thì thật vô lý!
“Lại như có kẻ nói rằng: ‘Bồ Tát không thể vào nơi ngoại đạo tà luận để biết
oai nghi của họ, văn chương và kỹ nghệ của họ, không thể hòa hợp với bọn đánh
thuê, chẳng nhận sự cung kính của kẻ nam, người nữ, quốc vương, đại thần, cũng
chẳng biết pha chế các món thuốc. Vì chẳng biết các việc như vậy mới xưng là
Như Lai, nếu biết là thuộc về bọn tà kiến. Lại nữa, Như Lai có lòng bình đẳng đối
với kẻ oán và người thân, như có người dùng dao cắt thịt ngài hay có người dùng
hương thơm thoa phết lên thân ngài, đối với hai người ấy ngài đều không xem là
có sự tốt hơn hay tổn hại gì cả. Ngài chỉ giữ mức khoảng giữa, cho nên mới được
xưng là Như Lai.’ Kinh luật như vậy, nên biết rằng đó là chỗ thuyết của ma.
“Như có người nói rằng: ‘Bồ Tát thị hiện vào miếu thờ thiên thần và ở trong
pháp ngoại đạo xuất gia tu đạo; thị hiện biết oai nghi, lễ tiết của ngoại đạo
và thế nhân, hiểu rõ tất cả văn chương, kỹ nghệ của họ, thị hiện vào thư đường,
những chỗ kỹ xảo, khéo hòa hợp với bọn đánh thuê; đối với đại chúng, đồng nam,
đồng nữ, hoàng hậu, cung phi, mỹ nữ, nhân dân, trưởng giả, bà-la-môn, vua chúa,
đại thần, cho đến hạng bần cùng, ngài là bậc tối tôn tối thượng. Ngài lại được
các hạng người ấy cung kính, Ngài cũng có thể thị hiện làm mọi việc vừa kể đó.
Tuy ở nơi những người tà kiến, nhưng ngài chẳng có lòng luyến ái, như hoa sen
không nhiễm bụi dơ. Vì độ tất cả chúng sanh, ngài khéo thi hành mọi phương tiện
ấy, tùy thuận thế pháp.’ Kinh luật như vậy, nên biết chính là chỗ thuyết dạy của
Như Lai.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận thuyết của Phật thì người ấy là Đại Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Như Lai vì chúng tôi mà giảng thuyết kinh luật. Như nói rằng
trong các pháp xấu ác, dù tội nặng, tội nhẹ hay tội thâu-lan-già thì tánh tội đều
là nặng, trong giới luật của chúng tôi hoàn toàn không phạm vào. Từ lâu chúng
tôi thọ lãnh và làm theo những pháp mà các ông chẳng tin. Chúng tôi lẽ nào lại
bỏ giới luật của mình để theo giới luật của các ông sao? Giới luật của các ông
là do ma thuyết; giới luật của chúng tôi mới là do Phật chế định. Đức Như Lai
trước đã nói ra pháp ấn chín bộ. Chín cái ấn ấy in sâu vào kinh luật của chúng
tôi; chúng tôi chưa hề nghe một câu, một chữ nào về kinh điển Phương đẳng. Như
Lai diễn thuyết vô lượng kinh luật, nhưng thuyết kinh Phương đẳng ở nơi nào?
Trong kinh luật chúng tôi chưa từng nghe nhắc đến tên mười bộ kinh! Nếu có thì
nên biết chắc chắn là do Điều-đạt làm ra. Điều-đạt là người ác, vì muốn diệt
pháp lành nên tạo ra kinh Phương đẳng. Chúng tôi chẳng tin những kinh như vậy,
vì chính ma thuyết diễn kinh ấy. Tại sao vậy? Đã phá hoại Phật pháp, lại còn
nói lời phải trái đảo điên. Những lời như vậy chỉ có trong kinh của các ông mà
chẳng có trong kinh của chúng tôi. Trong kinh luật của chúng tôi, Như Lai có
nói rằng: ‘Sau khi ta vào Niết-bàn, ở cõi đời xấu ác sẽ có kinh luật bất chánh
gọi là kinh điển Đại thừa Phương đẳng.’
“Ở đời vị lai, sẽ có những tỳ-kheo xấu như vậy.
“Phật có dạy rằng: ‘Vượt hơn cả chín bộ kinh có kinh điển Phương đẳng.’ Như ai
có thể thấu hiểu được nghĩa này, thì nên biết rằng người ấy thấu hiểu kinh luật
một cách đúng đắn, lìa xa tất cả những sự vật bất tịnh, [luôn] nhiệm mầu trong
sáng như vầng trăng tròn.
“Nếu có người nói rằng: ‘Như Lai đối với hết thảy kinh luật, thuyết dạy nghĩa
lý nhiều như cát sông Hằng, nhưng trong luật của chúng tôi lại chẳng có những
nghĩa lý ấy, nên chúng tôi biết là không có. Nếu là có, tại sao trong luật của
chúng tôi không thấy Như Lai giảng thuyết? Vì vậy nên nay chúng tôi không thể
tin nhận.’ Nên biết rằng những người nói như vậy là có tội.
“Kẻ ấy lại nói rằng: ‘Kinh luật [của chúng tôi] như thế này mới nên thọ trì. Vì
sao vậy? Vì kinh luật ấy giúp tôi được ít tham muốn, biết đủ, dứt trừ phiền
não; vì đó là trí huệ Niết-bàn, tạo được nhân pháp lành.’ Người nói như vậy chẳng
phải là đệ tử của ta.
“Như có người nói rằng: ‘Vì muốn độ chúng sanh, Như Lai có thuyết giảng kinh
Phương đẳng.’ Nên biết rằng, người nói như vậy thật là đệ tử của Phật. Nếu ai
chẳng thọ trì kinh Phương đẳng, nên biết rằng người ấy chẳng phải đệ tử Phật,
chẳng phải vì Phật pháp mà xuất gia, tức là đệ tử của bọn ngoại đạo tà kiến.
“Kinh luật đúng như [đã phân biệt trên đây] là do Phật thuyết dạy, bằng không
phải như vậy tức là do ma thuyết. Nếu ai tùy thuận chỗ thuyết của ma, người ấy
là quyến thuộc của ma. Nếu ai tùy thuận chỗ thuyết của Phật, tất nhiên người ấy
là Bồ Tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như có kẻ nói rằng: ‘Như Lai chẳng phải do vô lượng
công đức mà thành tựu, ngài vẫn là vô thường, biến đổi, bởi ngài đạt được chỗ
pháp Không nên tuyên thuyết lẽ vô ngã, nghịch với thế gian.’ Kinh luật như vậy
gọi là chỗ thuyết của ma.
“Như có người nói rằng: ‘Như Lai Chánh giác không thể nghĩ bàn, lại do vô lượng
công đức mà thành tựu, cho nên Như Lai là thường trụ, không hề biến đổi.’ Kinh
luật như vậy mới là chỗ thuyết dạy của Phật.
“Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, người ấy là quyến thuộc của ma. Nếu ai tùy thuận
thuyết của Phật tức là Bồ Tát.
“Như có tỳ-kheo thật chẳng phạm tội ba-la-di. Mọi người đều cho rằng phạm tội
ba-la-di là giống như cây đa-la bị chặt. Nhưng tỳ-kheo ấy thật không có phạm tội
chi cả. Vì sao vậy? Ta thường dạy rằng: ‘Trong bốn tội ba-la-di, nếu phạm một tội
thì như hòn đá bị tách ra, không thể gắn liền lại nữa.’ Nếu ai tự nói rằng mình
chứng đắc quả thánh thì kẻ ấy gọi là phạm ba-la-di. Vì sao vậy? Vì thật không
có chỗ đắc pháp mà cố ý giả hiện hình tướng đắc pháp. Người như vậy là gây nhân
tội lỗi, đời sau không được làm người. Đó gọi là ba-la-di.
“Như có vị tỳ-kheo ít tham muốn, biết đủ, giữ giới thanh tịnh, ở nơi vắng vẻ
yên tĩnh. Đức vua hoặc các quan đại thần nhìn thấy tỳ-kheo ấy, nghĩ rằng vị ấy
đã đắc quả A-la-hán, liền đến trước vị ấy mà tán thán, cung kính lễ bái, nói rằng:
‘Vị đại sư như thế này, sau khi bỏ thân sẽ đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.’
“Nghe được lời ấy, vị tỳ-kheo liền đáp rằng: ‘Thật tôi chưa được đạo quả
sa-môn, xin đại vương đừng xưng tán rằng tôi đã chứng đắc đạo quả. Xin đại
vương đừng nói lời [khiến tôi thành kẻ] không tự biết đủ. Không tự biết đủ, đó
là khi nghe người khác bảo rằng mình chứng đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề
mà lặng thinh chấp nhận. Nếu nay tôi lặng thinh chấp nhận điều ấy, chư Phật sẽ
quở trách. Chư Phật thường khen ngợi hạnh tự biết đủ, nên tôi trọn đời vui vẻ
tu tập theo hạnh tự biết đủ. Tự biết đủ, đó là tôi tự biết chắc mình chưa chứng
đắc đạo quả, nay đại vương xưng tán rằng tôi đã đắc quả, tôi không dám nhận, đó
gọi là tự biết đủ.’
“Đức vua nói rằng: ‘Đại sư [khiêm cung như thế] quả thật đã đắc quả A-la-hán,
như Phật không khác.’ Liền tuyên cáo với tất cả nhân dân trong thành, ngoài
thành, cùng các phi tần trong cung, rằng vị tỳ-kheo ấy đã đắc quả sa-môn. Nhờ vậy,
những ai nghe biết thảy đều đem lòng cung kính tin theo, cúng dường tôn trọng vị
tỳ-kheo ấy.
“Như vị tỳ-kheo ấy mới thật là người đức hạnh thanh tịnh, là nhân duyên giúp
cho nhiều người được phước đức lớn. Tỳ-kheo như vậy thật không hề phạm tội
ba-la-di. Vì sao vậy? Vì những người đến trước mặt vị ấy đều tự sanh lòng hoan
hỷ, tán thán, cúng dường. Vị tỳ-kheo như vậy sao lại phạm tội? Nếu như nói rằng
tỳ-kheo ấy có tội, thì nên biết rằng đó là kinh điển do ma thuyết.
“Lại có tỳ-kheo giảng thuyết theo kinh điển trong kho tàng giáo pháp rất sâu xa
của Phật rằng: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; nhờ tánh Phật ấy có thể dứt
trừ được các dây trói buộc của vô lượng phiền não, đắc thành quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, chỉ trừ hạng nhất-xiển-đề mà thôi.’ Nếu có đức vua hoặc đại
thần thưa hỏi rằng: ‘Tỳ-kheo! Ông sẽ thành Phật hay không thành Phật? Ông có
tánh Phật hay chăng?’ Tỳ-kheo ấy đáp rằng: ‘Hiện nay trong thân tôi quyết định
có tánh Phật; còn việc thành Phật hay không chưa thể biết rõ.’ Vua nói: ‘Đại đức!
Nếu không phải kẻ nhất-xiển-đề thì chắc chắn sẽ thành Phật.’ Tỳ-kheo ấy đáp rằng:
‘Đúng vậy, quả thật như lời đại vương!’ Dù vị ấy nói chắc rằng mình có tánh Phật,
cũng chẳng phạm tội ba-la-di.
“Lại có vị tỳ-kheo, ngay lúc xuất gia, suy xét như thế này: ‘Nay tôi quyết định
sẽ thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Người như vậy, dù chưa đắc thành đạo
quả vô thượng, nhưng cũng đã được phước vô lượng vô biên. Giả sử có ai nói rằng
người ấy phạm ba-la-di, thì tất cả các tỳ-kheo không ai là chẳng phạm. Vì sao vậy?
Ta đây thuở xưa trong tám mươi ức kiếp, thường xa lìa tất cả mọi vật bất tịnh,
ít tham muốn, biết đủ, trọn vẹn oai nghi, khéo tu theo Chánh pháp vô thượng của
Như Lai, nên cũng tự biết chắc rằng mình có tánh Phật. Nhờ đó nay ta đắc thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được xưng là Phật, có đại từ bi.
“Kinh luật như trên là do Phật thuyết. Nếu những ai không thể tùy thuận theo
đó, ấy là quyến thuộc của ma. Như ai tùy thuận theo đó tức là Đại Bồ Tát.
“Nếu có kẻ nói rằng: ‘Không có bốn tội ba-la-di, mười ba tội tăng tàn, hai pháp
bất định, ba mươi tội xả đọa, chín mươi đơn đọa, bốn pháp sám hối, một trăm điều
phải học, bảy pháp dứt sự tranh cãi.v.v... không có cả tội thâu-lan-già, năm tội
nghịch cùng tội nhất-xiển-đề. Như tỳ-kheo phạm một trong những tội ấy thì phải
đọa địa ngục, còn ngoại đạo thì được sanh cõi trời. Vì sao vậy? Vì ngoại đạo
không có giới nào để phạm cả. Giới đó là do Như Lai vì muốn cho người ta khiếp
sợ nên mới thị hiện thuyết dạy vậy thôi.’
“Lại có kẻ nói rằng: ‘Phật có dạy: Các tỳ-kheo nếu muốn hành dâm thì nên cởi
pháp phục, mặc y phục thế tục rồi hãy làm việc dâm dục. Lại nữa, nên nghĩ tưởng
rằng: Nếu ta làm chuyện dâm dục thì không có tội lỗi. Lúc Như Lai còn tại thế,
cũng có những tỳ-kheo quen làm chuyện dâm dục, nhưng cũng được giải thoát chân
chánh, hoặc sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Xưa nay thường có những
người làm như vậy chứ không chỉ một mình ta. Hoặc có người phạm bốn trọng giới,
hoặc có kẻ phạm năm giới, hoặc có kẻ phạm vào tất cả luật nghi bất tịnh, mà còn
đạt được giải thoát chân chánh đó thôi! Mặc dù Như Lai có nói rằng kẻ phạm tội
đột-cát-la sẽ đọa địa ngục trong một thời gian bằng tám trăm vạn năm ở cõi trời
Đao-lợi, nhưng đó cũng là cách Như Lai thị hiện để làm cho người ta khiếp sợ mà
thôi. Nếu nói rằng các tội từ ba-la-di cho đến đột-cát-la, nặng nhẹ chẳng khác
gì nhau, đó là lời sai trái của các luật sư, lại bảo rằng do Phật chế định. Vậy
nên biết chắc rằng đó không phải là lời Phật thuyết dạy.’
“Những lời lẽ như trên chính là kinh luật của ma.
“Lại như có kẻ nói rằng: ‘Đối với giới luật, dù phạm giới nhỏ cho đến các giới rất
nhỏ cũng sẽ bị quả báo khổ sở, kéo dài vô hạn.’
“Đã biết như vậy rồi, hãy khéo thận trọng phòng hộ lấy thân tâm, như con rùa thận
trọng co rút vào trong mu rùa.
“Nếu như có người dạy luật lại nói rằng: ‘Những việc phạm giới thảy đều không
có tội báo gì cả.’ Không nên gần gũi với người như vậy. Như Phật có thuyết kệ rằng:
“Nếu phạm lỗi không nhận,
Đều gọi là nói dối.
Không tin có đời sau,
Việc ác nào cũng làm.
“Cho nên đừng gần gũi với hạng người ấy.
“Trong Phật pháp luôn [giữ gìn sự] thanh tịnh như thế, huống chi phạm tội
thâu-lan-già, tội tăng-tàn hay tội ba-la-di mà nói là không có tội được sao?
Cho nên cần phải phòng hộ giữ mình một cách nghiêm cẩn và sâu sắc đối với những
pháp như vậy. Nếu không cần phải giữ gìn phòng hộ thì còn gì gọi là giới cấm?
“Trong kinh điển ta có dạy rằng: Nếu có kẻ phạm từ bốn tội nặng ba-la-di cho đến
các tội cực kỳ nhỏ nhặt như các tội đột-kiết-la, đều phải trừng trị một cách
nghiêm khắc. Nếu chúng sanh chẳng nghiêm giữ giới cấm, làm sao thấy được tánh
Phật? Tuy tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng nhất thiết phải nhờ sự trì
giới mới thấy được tánh Phật. Nhờ thấy tánh Phật mới thành tựu A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Trong chín bộ kinh [ta thuyết dạy trước] không có kinh Phương đẳng, cho nên
không nói việc có tánh Phật. Mặc dù những kinh ấy không nói, nhưng phải biết rằng
thật có tánh Phật. Nếu ai nói như vậy, nên biết rằng người ấy thật là đệ tử của
ta.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo như lời dạy trên thì tất cả chúng
sanh đều có tánh Phật. Nhưng trong chín bộ kinh, chưa từng nghe nói đến điều ấy.
Nếu ai nói rằng có tánh Phật, há chẳng phải là phạm ba-la-di sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Theo như ông vừa nói đó, thật không có việc phạm
ba-la-di. Thiện nam tử! Ví như có người nói: ‘Biển cả chỉ có bảy vật báu mà
thôi, không có tám thứ báu.’ Người ấy không có tội. Lại như có người nói:
‘Trong chín bộ kinh, không có [nói] tánh Phật.’ Người này cũng không có tội. Vì
sao vậy? Trong biển đại trí Đại thừa, ta nói rằng có tánh Phật. Đó là lẽ mà người
trong hai thừa [Thanh văn và Duyên giác] không thấy biết được. Cho nên nói
không có tánh Phật là không có tội. Cảnh giới ấy là chỗ thấy biết của chư Phật,
hàng Thanh văn và Duyên giác không thể hiểu nổi.
“Thiện nam tử! Nếu ai chẳng nghe được pháp tạng hết sức sâu kín của Như Lai thì
làm sao biết rằng có tánh Phật?
“Thế nào gọi là pháp tạng hết sức sâu kín? Đó là chỉ kinh điển Phương đẳng Đại
thừa.
“Thiện nam tử! Có những kẻ ngoại đạo nói lý ngã thường, hoặc nói lý ngã đoạn.
Như Lai chẳng phải thế, ngài nói lý hữu ngã mà cũng nói lý vô ngã. Đó gọi là
Trung đạo. Như có kẻ nói rằng: ‘Phật nói lý Trung đạo: Tất cả chúng sanh đều có
tánh Phật. Bởi phiền não che lấp tánh Phật ấy nên chẳng thấy chẳng biết. Vì thế
cần phải siêng tu phương tiện để dứt hết phiền não.’ Nếu ai thuyết được như vậy,
nên biết rằng người ấy không phạm vào [một trong] bốn tội trọng. Nếu ai không
thuyết được như vậy thì gọi là phạm tội ba-la-di.
“Như có người nói rằng: ‘Tôi đã thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì
sao vậy? Vì tôi có tánh Phật. Có tánh Phật, ắt phải thành A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Bởi nhân duyên ấy, nay tôi đã thành tựu Bồ-đề.’ Nên biết rằng người
nói như vậy là phạm tội ba-la-di. Vì sao vậy? Tuy có tánh Phật, nhưng vì chưa
tu tập các phương tiện thiện pháp nên chưa thấy tánh Phật. Vì chưa thấy tánh Phật
nên chưa được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên pháp Phật là thâm sâu, không thể nghĩ bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Có vị vua hỏi rằng: ‘Thế nào là tỳ-kheo phạm
vào lỗi vọng xưng chứng thánh?’
Phật dạy Ca-diếp: “Như có vị tỳ-kheo vì lợi dưỡng, vì món ăn vật uống mà làm
theo những cách nịnh hót, gian ngụy, dối trá, nghĩ rằng: ‘Làm sao để khiến những
người thế gian biết rõ rằng ta là bậc khất sĩ? Nhờ nhân duyên ấy, ta sẽ được lợi
dưỡng lớn, danh dự lớn.’ Tỳ-kheo ấy vì rất ngu si, trong đêm thường suy nghĩ rằng:
‘Thật ta chưa chứng đắc bốn quả sa-môn. Phải làm thế nào khiến người thế gian
tin rằng ta đã chứng đắc bốn quả ấy? Lại làm thế nào để khiến những ưu-bà-tắc
và ưu-bà-di cùng nói về ta rằng: Đó là người phước đức, thật là bậc thánh
nhân.’ Vị tỳ-kheo suy nghĩ như vậy, chính là người cầu lợi dưỡng chứ không phải
cầu pháp. Khi đi lại, lúc vào ra, tới lui, nghỉ ngơi, mặc áo, ôm bát... không để
mất oai nghi, lại ngồi một mình nơi chỗ trống trải, vắng lặng, dường như bậc
A-la-hán, khiến mọi người thế gian đều nói rằng: ‘Đó là vị tỳ-kheo xứng đáng bậc
nhất, ông ấy tinh cần khổ hạnh, tu pháp tịch diệt.’ Người ấy luôn nghĩ rằng:
‘Nhờ nhân duyên ấy, ta sẽ được nhiều đệ tử. Mọi người cũng sẽ cúng dường cho ta
nhiều áo quần, đồ ăn thức uống, thuốc men, và có nhiều nữ nhân sẽ kính trọng,
yêu quý ta.’ Nếu tỳ-kheo hay tỳ-kheo ni nào có việc làm và suy nghĩ như vậy thì
phạm vào tội vọng xưng chứng thánh.
“Lại có vị tỳ-kheo, vì muốn kiến lập Chánh pháp vô thượng liền ngồi yên nơi chỗ
trống trải vắng lặng. Vị ấy chẳng phải là A-la-hán, nhưng muốn làm cho người ta
gọi mình là A-la-hán, là vị tỳ-kheo tốt lành, là vị tỳ-kheo tịch tĩnh, khiến vô
lượng người đời sanh lòng tin. Vị ấy nghĩ rằng: ‘Nhờ nhân duyên ấy, ta sẽ được
vô số tỳ-kheo theo kề cận; nhân đó ta sẽ giáo hóa những tỳ-kheo phá giới cùng
những ưu-bà-tắc, khiến cho hết thảy đều giữ giới. Nhờ nhân duyên ấy, ta sẽ kiến
lập Chánh pháp, mở mang sáng tỏ pháp Vô thượng của Như Lai, chỉ bày khai mở
giáo pháp Phương đẳng Đại thừa, độ thoát hết thảy vô lượng chúng sanh, khéo giải
nghĩa chỗ nặng, chỗ nhẹ trong kinh luật mà Như Lai đã thuyết.’
Vị tỳ-kheo ấy lại nói rằng: “Nay ta cũng có tánh Phật. Có kinh điển gọi là kho
tàng sâu kín của Như Lai; theo kinh ấy thì ta chắc chắn sẽ được thành tựu Phật
đạo, dứt hết các dây trói buộc là vô lượng phiền não. Ta sẽ thuyết giảng với vô
số các vị ưu-bà-tắc rằng: ‘Các ông thảy đều có tánh Phật. Các ông và tôi đây,
chúng ta đều có thể trụ yên trong cảnh giới của Như Lai, thành tựu A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, dứt hết các dây trói buộc của vô lượng phiền não.’ Người
nói ra lẽ đó theo cách như vậy không hề phạm vào lỗi vọng xưng chứng thánh. Đó
gọi là Bồ Tát.
“Nếu nói rằng phạm tội đột-cát-la đều sẽ đọa địa ngục trong một thời gian tám
trăm vạn năm tính theo năm tháng ở cõi trời Đao-lợi, thọ các tội báo, vậy sao lại
dám cố ý phạm tội thâu-lan-già? Trong pháp Đại thừa, nếu có tỳ-kheo phạm tội
thâu-lan-già thì không nên gần gũi với tỳ-kheo ấy. Thế nào là tội thâu-lan-già
theo kinh Đại thừa? Như có vị trưởng giả tạo lập chùa Phật, dùng những dây hoa
mà cúng dường Phật. Kế đó, có thầy tỳ-kheo thấy trong chuỗi hoa có sợi dây kết,
không hỏi xin mà [tự ý] lấy, đó là phạm tội thâu-lan-già. Dù [có người] biết đến
hay không cũng đều là phạm tội.
“Nếu vì lòng tham mà phá hoại tháp Phật cũng là phạm tội thâu-lan-già. Người
như vậy không nên gần gũi.
“Như vua, đại thần thấy những tháp thờ hư mục, ý muốn tu bổ, cúng dường xá-lợi.
Ví như có người nhặt được trân bảo trong tháp ấy liền gửi cho tỳ-kheo gìn giữ.
Được trân bảo rồi, thầy tỳ-kheo ấy tự do sử dụng. Tỳ-kheo như vậy gọi là bất tịnh,
thường gây ra nhiều sự tranh chấp. Người cư sĩ tốt không nên gần gũi cúng dường,
cung kính tỳ-kheo như vậy. Hạng tỳ-kheo như vậy khác nào những kẻ vô căn, những
kẻ lưỡng căn, những kẻ căn tánh không xác định.
“Hạng người căn tánh không xác định thì khi ham muốn người nữ, [căn trong] thân
liền biến ra nữ căn; khi ham muốn người nam, [căn trong] thân liền biến ra nam
căn. Hạng tỳ-kheo [phạm tội] như vậy cũng ví như kẻ căn tánh xấu xa, chẳng phải
nam chẳng phải nữ, [vì tỳ-kheo ấy là] chẳng phải xuất gia cũng chẳng phải tại
gia. Không nên gần gũi cúng dường, cung kính hạng tỳ-kheo như vậy.
“Trong đạo Phật, pháp của sa-môn là nên sanh lòng từ bi che chở, nuôi dưỡng
chúng sanh, cho đến đối với con kiến cũng nên thí cho sự an ổn không sợ sệt.
Pháp của sa-môn là lìa xa việc uống rượu, cho đến chẳng ngửi mùi rượu. Pháp của
sa-môn là không được nói dối, cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến sự
nói dối. Pháp của sa-môn là không sanh lòng dâm dục, cho đến trong lúc nằm mộng
cũng không sanh lòng dâm dục. Đó là pháp của sa-môn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như có tỳ-kheo nằm mơ thấy mình làm
chuyện dâm dục, như vậy có phạm giới chăng?”
Phật dạy: “Không phạm. Nhưng đối với việc dâm dục, nên tưởng đó là việc ô uế
nhơ nhớp, cho đến không hề có ý tưởng cho đó là việc trong sạch, thường lìa xa
mối phiền não lưu luyến người nữ. Nếu khi chiêm bao thấy mình làm chuyện dâm dục,
lúc tỉnh giấc nên sanh lòng hối hận.
“Tỳ-kheo khất thực, trong khi [tiếp xúc] thọ nhận đồ cúng dường, nên có tư tưởng
như đang gặp lúc đói kém phải ăn thịt con [để sống]! Nếu thấy lòng dâm dục phát
sanh phải lìa bỏ ngay. Nên biết rằng pháp môn như vậy là kinh luật của Phật
thuyết. Nếu ai tùy thuận thuyết của ma, đó là quyến thuộc của ma. Như ai tùy
thuận thuyết của Phật, đó gọi là Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Phật cho phép tỳ-kheo thường đưa lên một chân, lặng thinh
chẳng nói, gieo mình vào lửa dữ, từ trên núi cao mà nhảy xuống, chẳng tránh tai
nạn hiểm nguy, uống thuốc độc, tuyệt thực, nằm trên tro trên đất, tự trói tay
chân, sát hại chúng sanh, chuyên nghề bùa chú... Những người dòng chiên-đà-la,
những kẻ vô căn, lưỡng căn hoặc căn tánh không xác định, cùng những kẻ căn thân
chẳng đủ... những hạng người như vậy, Như Lai thảy đều cho phép xuất gia tu đạo.’
Đó gọi là thuyết của ma.
“Phật chỉ cho phép dùng năm loại thức ăn lấy từ loài bò cùng các thứ dầu, đường...
Phật cũng cho mặc áo bằng vải dệt từ tơ tằm và đi giày da. Trừ những thứ ấy ra,
như có người nói: ‘Phật cho phép mặc áo vải tốt đẹp đắt tiền, Phật cho phép chứa
trữ tất cả những hạt giống, cây cỏ đều là loài có mạng sống. Phật đã thuyết như
vậy rồi mới nhập Niết-bàn.’ Nếu có kinh luật nào nói như vậy, nên biết rằng đó
là thuyết của ma.
“Ta chẳng hề cho phép tỳ-kheo thường đưa lên một chân [như bọn ngoại đạo]. Ta
vì [truyền] pháp mà cho phép [tỳ-kheo] đi, đứng, ngồi, nằm. Ta cũng không hề
cho phép tỳ-kheo uống thuốc độc, tuyệt thực, đốt mình trong đám lửa năm ngọn,
trói buộc tay chân, sát hại chúng sanh, chuyên nghề bùa chú, dùng ngọc thạch,
ngà voi, giày da, chứa trữ hạt giống, [ta cũng không nói rằng] cây cỏ đều có mạng
sống, [ta cũng không cho phép] mặc áo vải tốt đắt giá... Nếu ai nói rằng Thế
Tôn nói ra những điều như vậy, nên biết rằng người ấy là quyến thuộc của ngoại
đạo, không phải đệ tử của ta.
“Ta chỉ cho phép ăn năm món lấy ở loài bò cùng là dầu, đường, ta cho phép đi
giày da, mặc áo bằng vải dệt từ tơ tằm. Ta có dạy rằng bốn đại đều không có thọ
mạng. Nếu kinh luật nào nói những điều như vậy, đó là Phật thuyết. Nếu ai tùy
thuận thuyết của Phật, nên biết rằng đó là đệ tử chân thật của ta. Nếu ai chẳng
theo thuyết của Phật, đó là quyến thuộc của ma. Nếu ai tùy thuận kinh luật của
Phật, nên biết rằng người ấy là Đại Bồ Tát.
“Thiện nam tử! Tướng trạng khác nhau giữa thuyết của ma và thuyết của Phật, nay
ta đã vì ông mà phân biệt giảng rộng rõ ràng như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con mới biết rõ được tướng trạng khác
nhau giữa thuyết của ma và thuyết của Phật. Nhờ đó con mới thâm nhập được vào
những ý nghĩa sâu xa của pháp Phật.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông đã có thể hiểu
rõ và phân biệt được như vậy, đó gọi là thông minh trí huệ.”
“Thiện nam tử! Nói về sự khổ, không gọi là thánh đế. Vì sao vậy? Nếu nói rằng
khổ là khổ thánh đế, thì tất cả những loài bò, dê, lừa, ngựa cùng chúng sanh ở
địa ngục, lẽ ra đều phải có thánh đế!
“Thiện nam tử! Nếu có người không biết được cảnh giới thâm sâu của Như Lai, đối
với pháp thân vi mật thường trụ chẳng biến đổi mà cho rằng đó là thân do ăn uống
[mà thành] chứ không phải pháp thân, chẳng biết oai lực đại đức của Như Lai.
Như vậy gọi là khổ. Vì sao vậy? Vì không biết nên pháp thấy là chẳng phải pháp,
chẳng phải pháp thấy là pháp. Nên biết rằng người như vậy ắt phải đọa vào nẻo dữ,
luân chuyển mãi trong sanh tử, nuôi lớn các mối phiền não trói buộc, chịu nhiều
khổ não.
“Nếu ai biết được rằng Như Lai là thường trụ, không hề biến đổi, hoặc nghe được
hai tiếng thường trụ, dù chỉ nghe qua một lần cũng được sanh lên các cõi trời.
Rồi về sau, đến lúc giải thoát rồi mới có thể chứng biết lẽ Như Lai thường trụ,
không hề biến đổi. Khi chứng biết rồi liền nói: ‘Thuở xưa tôi đã từng nghe
nghĩa ấy, nay được giải thoát mới thật sự chứng biết. Ngày trước vì không biết
được vậy nên tôi phải luân chuyển mãi trong sanh tử, lăn lộn không cùng. Từ nay
tôi mới có được trí huệ chân thật.’
Nếu biết được vậy, mới thật là tu tập lẽ khổ, được nhiều lợi ích. Nếu không biết
vậy thì dù có chuyên cần tu học cũng không được ích lợi gì. Đó gọi là rõ biết lẽ
khổ, gọi là Khổ thánh đế. Nếu không thể tu tập như vậy thì gọi là khổ chứ không
phải Khổ thánh đế.
“Nói về Khổ tập đế, người nào đối với pháp chân thật không phát sanh trí huệ
chân thật, thọ nhận những vật bất tịnh, như tôi trai, tớ gái... thường đối với
những việc không đúng pháp mà gọi là Chánh pháp, làm cho Chánh pháp phải dứt mất,
không thể trụ thế lâu dài. Vì nhân duyên ấy nên không biết được tánh pháp. Vì
không biết nên khi luân chuyển trong sanh tử thường chịu nhiều khổ não, không
được sanh lên các cõi trời và không được giải thoát chân chánh. Nếu có sự rõ biết
sâu xa, không phá hoại Chánh pháp, nhờ nhân duyên ấy liền được sanh lên các cõi
trời và được giải thoát chân chánh. Nếu không rõ biết về Khổ tập đế mà nói rằng
Chánh pháp là không thường trụ nên là pháp sanh diệt, do nhân duyên ấy trong vô
số kiếp phải luân chuyển trong sanh tử, chịu mọi khổ não. Nếu rõ biết rằng pháp
là thường trụ, không biến đổi, đó gọi là rõ biết lẽ tập, gọi là Tập thánh đế. Nếu
không thể tu tập như vậy, đó gọi là tập chứ không phải Tập thánh đế.
“Nói về Khổ diệt đế, nếu ai thường tu tập, học theo pháp [chấp] không thì là bất
thiện. Vì sao vậy? Vì dứt bỏ tất cả các pháp, phá hoại kho tàng giáo pháp chân
thật của Như Lai. Tu học như vậy gọi là tu [chấp lẽ] không. Người tu tập [đúng
lẽ] khổ diệt thì ngược với cách tu của tất cả ngoại đạo. Nếu nói rằng tu tập
[chấp] lẽ không là Diệt đế thì hết thảy ngoại đạo đều tu pháp [chấp] không, lẽ
ra đều phải có Diệt đế!
“Như có người nói rằng: ‘Thật có tạng Như Lai, dù không thể thấy được, nhưng nếu
trừ dứt hết mọi phiền não thì sẽ thể nhập vào tạng Như Lai.’ Nếu ai phát tâm
như vậy, dù chỉ một niệm, nhờ nhân duyên đó đối với các pháp liền được tự tại.
“Nếu người tu tập [những tướng trạng] vô ngã, rỗng không vắng lặng [rồi cho đó
là] tạng sâu kín của Như Lai, thì trong vô số kiếp sẽ lưu chuyển trong sanh tử,
chịu nhiều khổ não. Nếu ai không tu tập theo cách như vậy, thì dù có phiền não
cũng mau chóng dứt trừ. Vì sao vậy? Nhờ rõ biết được tạng sâu kín của Như Lai.
Đó gọi là Khổ diệt thánh đế. Như ai tu tập lẽ diệt như vậy, ấy là đệ tử của ta.
Như ai không tu tập như vậy, đó gọi là tu pháp [chấp] không, chẳng phải tu Diệt
thánh đế.
“Nói về Đạo thánh đế, đó là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo cùng Chánh giải thoát.
Có những chúng sanh vì lòng điên đảo nên nói rằng: ‘Không có Phật, Pháp, Tăng
cùng Chánh giải thoát; sự luân chuyển trong sanh tử chỉ như huyễn hóa.’ Do nhân
duyên tu tập kiến giải [sai lầm] như vậy nên phải luân chuyển trong Ba cõi, mãi
mãi chịu sự khổ não nặng nề. Nếu có thể sanh tâm thấy rằng Như Lai là thường trụ,
không biến đổi; Pháp, Tăng, Giải thoát cũng là như vậy; chỉ nhờ vào một niệm ấy
mà trong vô số kiếp liền được những quả báo hoàn toàn theo ý muốn. Vì sao vậy?
Thuở xưa chính ta đã vì bốn sự điên đảo, đối với việc không đúng pháp mà cho là
Chánh pháp, nên phải chịu vô số quả báo ác nghiệp. Nay ta dứt hết những kiến giải
[điên đảo] ấy nên thành Phật Chánh giác. Đó gọi là Đạo thánh đế.
“Như có người nói rằng: ‘Tam bảo là vô thường.’ Tu tập theo kiến giải ấy là sai
lầm, chẳng phải Đạo thánh đế. Nếu ai thường tu tập niệm tưởng rằng: ‘Tam bảo là
thường trụ’ thì người ấy là đệ tử của ta.
“Dùng sự thấy biết chân chánh mà tu tập bốn pháp thánh đế, đó gọi là Tứ thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con mới rõ biết được việc tu tập
pháp Tứ thánh đế hết sức sâu xa.”
Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nói về Bốn điên đảo, đối với chỗ không
phải khổ mà sanh ra tư tưởng khổ, đó gọi là điên đảo. Không phải khổ, đó là Như
Lai; sanh ra tư tưởng khổ, là cho rằng Như Lai vô thường, biến đổi.
“Nếu nói rằng Như Lai là vô thường, đó là tội khổ rất lớn. Như nói rằng Như Lai
bỏ thân khổ này mà vào Niết-bàn, dường như củi hết thì lửa tắt, đó gọi là không
phải khổ mà sanh ra tư tưởng khổ. Như vậy là điên đảo.
“Giả sử ta nói rằng ‘Như Lai là thường’, như vậy tức là ngã kiến. Do ngã kiến
nên có vô lượng tội. Vì vậy nên phải nói rằng ‘Như Lai là vô thường’. Vậy nếu
nói Như Lai là vô thường ắt ta phải được vui. Nhưng Như Lai là vô thường thì đó
là khổ, nếu đã là khổ thì làm sao được vui? Vì đối với sự khổ mà sanh tư tưởng
[cho là] vui nên gọi là điên đảo.
“Đối với sự vui mà sanh tư tưởng [cho là] khổ, đó là điên đảo. Sự vui đó, tức
là Như Lai; sự khổ đó, là Như Lai vô thường. Nếu nói ‘Như Lai là vô thường’, đó
là đối với sự vui mà sanh ra tư tưởng [cho là] khổ. Như Lai thường trụ, đó gọi
là vui. Nếu ta nói rằng ‘Như Lai là thường’, vì sao Như Lai lại nhập Niết-bàn?
Nếu nói rằng Như Lai không phải sự khổ, vì sao lại bỏ thân này mà thể nhập cảnh
giới Diệt độ? Vì đối với sự vui mà sanh ra tư tưởng [cho là] khổ nên gọi là
điên đảo.
“Như trên gọi là sự điên đảo thứ nhất.
“[Đối với sự] vô thường lại tưởng là thường; [đối với sự] thường tồn lại tưởng
là vô thường, đó gọi là điên đảo. Vô thường đó, là không tu tập pháp không. Vì
không tu tập pháp không nên thọ mạng ngắn ngủi. Nếu nói rằng không tu tập pháp
rỗng không vắng lặng mà được trường thọ, đó là là điên đảo. Đây là sự điên đảo
thứ nhì.
“[Đối với sự việc] vô ngã mà tưởng là ngã, [thật có] ngã mà tưởng là vô ngã, đó
gọi là điên đảo. Người thế gian nói hữu ngã, pháp Phật cũng nói hữu ngã. Tuy
người thế gian nói hữu ngã, nhưng không có tánh Phật. Như vậy gọi là đối với vô
ngã mà sanh ra tư tưởng [cho là] có ngã. Đó gọi là điên đảo. Pháp Phật nói có
ngã, ngã đó là tánh Phật. Người thế gian nói pháp Phật là vô ngã. Đó gọi là đối
với ngã mà sanh ra tư tưởng [cho là] vô ngã. Nếu như nói rằng: ‘Pháp Phật nhất
định là vô ngã, cho nên Như Lai dạy đệ tử tu tập vô ngã’, như vậy là điên đảo.
Đó gọi là sự điên đảo thứ ba.
“[Đối với sự việc] tịnh mà tưởng là bất tịnh, bất tịnh lại tưởng là tịnh, đó gọi
là điên đảo.
“Tịnh tức là Như Lai thường trụ. Như Lai thường trụ, đó chẳng phải là thân do
ăn uống [mà thành], chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân xác thịt, chẳng
phải thân [tồn tại nhờ] gân cốt chằng chịt. Như có người nói rằng: ‘Như Lai là
vô thường, đó là thân do ăn uống [mà thành], là thân phiền não, là thân xác thịt,
là cái thân [tồn tại nhờ] gân cốt chằng chịt. Pháp, Tăng, Giải thoát đều là dứt
hết.” Đó gọi là điên đảo.
“[Đối với sự việc] bất tịnh mà tưởng là tịnh, đó gọi là điên đảo. Như có người
nói rằng: ‘Trong thân ta đây không có gì là bất tịnh. Bởi không có gì là bất tịnh,
nên chắc rằng sẽ vào được chỗ thanh tịnh. Như Lai dạy rằng phải tu phép quán bất
tịnh, đó chỉ là hư vọng mà thôi.’ Như vậy là điên đảo. Đó gọi là sự điên đảo thứ
tư.
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Kể từ hôm nay con mới được chỗ thấy biết
chân chánh. Bạch Thế Tôn! Con tự thấy rằng từ trước đến nay tất cả chúng con chỉ
là kẻ tà kiến.
“Bạch Thế Tôn! Trong hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu có thật có cái ngã hay
chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Cái ngã đó, tức là nghĩa của tạng Như Lai. Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, đó tức là ý nghĩa của ngã. Cái nghĩa của ngã đó, từ
xưa đến nay thường bị vô lượng phiền não che lấp nên chúng sanh không thấy được.
“Thiện nam tử! Ví như người đàn bà nghèo khó, trong nhà chôn giấu một kho vàng
ròng rất lớn, nhưng hết thảy mọi người trong gia đình đều không biết là ở chỗ
nào. Lúc ấy có một người ngoài khéo biết phương tiện chỉ bày, liền nói với người
đàn bà nghèo rằng: ‘Nay tôi mướn chị làm công, chị có thể cào dọn cỏ rác cho
tôi chăng?’ Người đàn bà đáp: ‘Tôi không thể làm việc ấy. Nếu tôi có thể chỉ
cho con tôi chỗ chôn giấu vàng rồi thì tôi sẽ lập tức đi làm việc cho ông.’ Người
kia nói: ‘Tôi biết cách, có thể chỉ chỗ chôn vàng cho con chị.’ Người đàn bà
nói: ‘Người trong nhà tôi còn không ai biết chỗ, huống chi ông làm sao biết được?’
Người kia nói: ‘Tôi quả thật biết được.’ Người đàn bà liền nói: ‘Tôi cũng muốn
thấy, vậy ông hãy chỉ cho tôi.’ Người ấy liền đào ngay trong nhà, lộ ra kho chứa
vàng ròng. Người đàn bà thấy vậy hết sức vui mừng, cho là việc kỳ lạ, lấy làm
tôn kính ngưỡng mộ người kia.
“Thiện nam tử! Tánh Phật của chúng sanh lại cũng như vậy. Tất cả chúng sanh đều
chẳng thấy được tánh Phật ấy, cũng như người đàn bà nghèo khó kia chẳng biết
kho báu của mình chôn ở chỗ nào.
“Thiện nam tử! Nay ta chỉ bày cho hết thảy chúng sanh cái tánh Phật mà họ sẵn
có. Tánh Phật ấy bị các phiền não che lấp, cũng như người đàn bà nghèo khó kia
có kho vàng ròng nhưng không thể thấy được. Nay Như Lai chỉ bày cho tất cả
chúng sanh kho báu tánh giác của họ, ấy là tánh Phật. Thấy việc ấy rồi, lòng họ
trở nên vui vẻ, quy ngưỡng Như Lai. Người có tài phương tiện chỉ bày tức là Như
Lai. Người đàn bà nghèo khó tức là tất cả vô lượng chúng sanh. Kho vàng ròng ấy
tức là tánh Phật.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người đàn bà kia sanh dưỡng được một đứa con,
thuở nhỏ mắc bệnh. Người mẹ buồn rầu, chạy đi tìm rước thầy thuốc. Thầy thuốc đến
rồi, bèn trộn lẫn ba thứ thuốc: bơ, sữa và đường phèn rồi cho đứa trẻ uống, dặn
dò rằng: ‘Đứa con của cô đã uống thuốc rồi, đừng cho nó bú. Phải đợi thuốc tiêu
hết mới cho bú trở lại.’ Liền đó, người đàn bà liền lấy chất đắng bôi lên vú
mình và nói với con: “Vú mẹ có bôi chất độc, con đừng đụng tới nữa.” Đứa trẻ
khát sữa muốn bú, nhưng nghe nói có độc bèn tránh xa. Đến khi thuốc đứa con uống
vào đã tiêu hết, người mẹ mới dùng nước sạch rửa vú của mình, rồi gọi con rằng:
‘Lại đây, mẹ cho bú.’ Đứa trẻ ấy, mặc dù đói khát, nhưng trước đã nghe nói có độc
nên không dám lại. Người mẹ lại nói rằng: ‘Vì con uống thuốc nên mẹ phải bôi chất
độc lên vú. Nay thuốc ấy đã tiêu, mẹ đã rửa vú sạch rồi, vậy con nên lại đây
bú, không còn đắng nữa.’ Nghe như vậy rồi, đứa trẻ liền trở lại bú sữa.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh nên ngài dạy
tu pháp vô ngã. Tu như vậy rồi, dứt hẳn được tâm chấp ngã mà nhập Niết-bàn. Vì
muốn dứt trừ các kiến giải sai lầm của thế gian nên ngài thị hiện pháp xuất thế.
Lại vì muốn chỉ bày cho thế gian thấy sự chấp ngã là hư vọng, không chân thật,
nên dạy tu pháp vô ngã để làm cho thân được thanh tịnh. Ví như người đàn bà
kia, vì [bảo vệ] đứa con nên bôi chất đắng lên vú. Như Lai cũng thế, vì dạy tu
pháp không nên nói rằng các pháp đều vô ngã. Lại như người đàn bà kia khi rửa sạch
vú rồi bèn gọi con đến cho bú. Nay ta cũng thế, [đến lúc thích hợp nên] thuyết
dạy về tạng Như Lai. Vì thế chư tỳ-kheo không nên sợ sệt. Như đứa trẻ kia, nghe
mẹ gọi mà trở lại bú sữa. Chư tỳ-kheo cũng vậy, nên tự phân biệt: Tạng sâu kín
của Như Lai không thể không có.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thật không có cái ngã. Vì sao vậy? Lúc
đứa trẻ mới sanh ra không hiểu biết chi cả. Nếu có cái ngã, tất nhiên lúc sanh
ra phải tự có hiểu biết. Vì nghĩa đó mà biết chắc là không có cái ngã.
“Nếu nhất định có cái ngã, thì khi người ta đã sanh rồi lẽ ra không hề chết. Nếu
nói tất cả chúng sanh đều có tánh Phật thường trụ, thì lẽ ra không có tướng trạng
hư hoại. Nếu không có tướng trạng hư hoại, vì sao lại có sự khác biệt nhau như
sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà, với chiên-đà-la và súc vật?
“Nay thấy có rất nhiều nghiệp duyên khác nhau, nhiều cảnh giới khác nhau. Nếu
nhất định có cái ngã, thì tất cả chúng sanh lẽ ra chẳng có kẻ hơn người kém. Vì
nghĩa đó mà biết chắc là tánh Phật chẳng phải pháp thường còn. Nếu nói rằng
tánh Phật nhất định là thường còn, vì duyên cớ gì lại có những kẻ sát hại, trộm
cướp, dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời hung dữ, nói dối, nói thêu dệt, tham lam,
sân khuể, tà kiến?
“Nếu tánh ngã là thường, tại sao khi uống rượu rồi người ta lại say sưa mê loạn?
Nếu tánh ngã là thường, thì kẻ mù đáng lẽ phải thấy được hình sắc, kẻ điếc nghe
được âm thanh, kẻ câm nói được ra lời, kẻ què có thể bước đi! Nếu tánh ngã là
thường, thì người ta không nên tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, gươm đao, kẻ
ác, cầm thú!
“Nếu cái ngã là thường, thì những việc đã trải qua rồi lẽ ra không quên! Nếu
không quên, vì sao có người lại tự hỏi rằng: ‘Tôi đã từng gặp người này ở đâu?’
Nếu cái ngã là thường, lẽ ra chẳng có những việc như nhỏ tuổi, lớn tuổi, già
nua... hoặc những khi thế lực suy vi, hưng thịnh, nhớ lại chuyện đã qua!
“Nếu cái ngã là thường thì nó trú ngụ ở đâu? Ở trong nước bọt, nước mũi, trong
các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng đó chăng? Nếu cái ngã là thường, lẽ ra phải ở
khắp trong thân, cũng như chất dầu mè, lan tràn không có chỗ hở! Nếu thân bị chặt
đứt, ngay lúc ấy lẽ ra cái ngã cũng phải đứt đoạn!”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ví như vị vua kia có một đại lực sĩ. Khoảng giữa
hai chân mày lực sĩ ấy có một hạt châu kim cương. Trong khi đấu sức với lực sĩ
khác, người ấy lấy đầu mà húc kẻ địch. Nhân đó, hạt châu nơi trán bị lún vào
phía trong lớp da, nhưng người ấy hoàn toàn không biết việc ấy. Rồi chỗ trán ấy
lại sanh ra ghẻ độc, lực sĩ liền rước lương y đến điều trị cho mình.
“Lúc ấy, có vị thầy thuốc sáng suốt hiểu rành phương dược, liền biết rằng ghẻ độc
ấy là do hạt châu nằm trong thân thể. Hạt châu lún xuống dưới da, nằm yên ở đó.
Lúc ấy, vị lương y dò hỏi lực sĩ rằng: ‘Hạt châu gắn nơi trán ông bây giờ ở
đâu?’ Lực sĩ kinh hải, đáp rằng: ‘Đại sư y vương! Hóa ra hạt châu nơi trán tôi
đã mất rồi sao? Hạt châu ấy hiện nay ở đâu? Chẳng phải đã có phép thuật ảo hóa
gì đó chăng?’ Nói rồi buồn rầu, than khóc.
“Lúc ấy, vị lương y dùng lời êm dịu, khuyên lơn lực sĩ rằng: ‘Ông chớ nên buồn
rầu khổ não thái quá. Nhân khi ông giao đấu, hạt bảo châu đã lún vào trong thân
thể. Hiện nay nó ở dưới lớp da, ảnh hiện ra ngoài. Trong khi ông giao đấu, vì
lòng sân khuể rất mạnh nên hạt châu bị ép vào thân thể mà ông không tự biết.’
“Lúc ấy, lực sĩ không tin lời lương y, nói rằng: ‘Nếu nó ở dưới da, máu mủ bất
tịnh, vì sao nó chẳng trồi ra? Nếu nó ở tại trong gân, lẽ ra không thấy được
nó. Nay vì sao ông dối gạt tôi?’
“Khi ấy vị lương y lấy kiếng soi trước mặt lực sĩ, hạt châu hiển hiện rõ ràng
trong kiếng. Lực sĩ thấy vậy rồi lấy làm kinh quái, cho là việc lạ lùng đặc biệt.
“Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh lại cũng như vậy. Vì họ chẳng hay thân cận thiện
tri thức, cho nên dù có tánh Phật nhưng thảy đều chẳng thấy được. Tánh Phật bị
che lấp bởi tham dâm, sân khuể, ngu si, cho nên đọa nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, a-tu-la, chiên-đà-la, sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà. Họ sanh vào bao
nhiêu hoàn cảnh như vậy, là bởi lòng họ khởi ra mọi thứ nghiệp duyên. Tuy mang
thân người, nhưng họ bị điếc, đui, câm, ngọng, què cụt... Trong hai mươi lăm cảnh
giới hiện hữu, họ nhận chịu mọi thứ quả báo. Vì tâm họ bị che lấp bởi tham dâm,
sân khuể, ngu si, nên họ không biết đến tánh Phật. Như lực sĩ kia, trong khi hạt
châu báu chôn khuất trong người thì cho là đã mất rồi. Chúng sanh cũng thế, vì
không thân cận thiện tri thức nên không biết đến kho báu Như Lai vi diệu sâu
kín. Họ tu học lẽ vô ngã chỉ như hạng phàm phu, tuy nói lẽ hữu ngã nhưng cũng
chẳng biết chân tánh của ngã. Các đệ tử của ta cũng như thế, vì chẳng biết thân
cận thiện tri thức, cho nên tu học lẽ vô ngã mà chẳng biết chỗ của vô ngã. Đã
không biết được chân tánh của vô ngã, nói chi đến việc có thể biết được chân
tánh của hữu ngã?
“Thiện nam tử! Như Lai dạy rằng hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, cũng ví
như vị lương y kia chỉ cho người lực sĩ hạt châu kim cương quý giá. Chúng sanh
vì bị che lấp bởi vô lượng phiền não nên không thấy biết được tánh Phật. Nếu dứt
hết phiền não, bấy giờ sẽ chứng biết rõ ràng tánh Phật, cũng như người lực sĩ
kia khi soi trong gương sáng thấy được hạt châu quý báu.
“Thiện nam tử! Tạng Như Lai sâu kín như vậy, không thể suy lường, không thể
thuyết giảng, nghĩ bàn.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như ở Tuyết sơn có một vị thuốc gọi là lạc vị. Vị
thuốc ấy rất ngọt, nhưng nằm khuất dưới lùm cây sâu không ai thấy được. Có người
nghe mùi thơm, biết rằng ở chỗ đất ấy có món thuốc đó. Thuở xưa có vị vua Chuyển
luân vì món thuốc ấy mà tạo ra ở khắp nơi trong Tuyết sơn những cái ống tre để
tiếp nhận nó. Cây thuốc ấy khi già chín, từ dưới đất trồi lên chui vào ống tre,
mùi vị vừa phải thích hợp. Sau khi vị vua Chuyển luân ấy qua đời, thuốc lại trở
nên chua, mặn, ngọt, đắng, cay hoặc nhạt. Thuốc ấy vốn có một mùi vị, nhưng khi
người ta mang nó đến xứ này hay xứ khác, nó lại biến thành những mùi vị khác.
Khi thuốc ấy còn ở tại núi, mùi vị nó vẫn vừa phải thích hợp, nhưng kẻ phàm
nhân ít phước, dù có dùng rìu búa mà chặt đốn, đào xới, tốn công khổ nhọc cũng
chẳng được món thuốc ấy. Chỉ khi có Thánh vương xuất hiện ở đời, nhờ nhân duyên
phước đức mới được món thuốc ấy với mùi vị vừa phải thích hợp.
“Thiện nam tử! Tạng Như Lai sâu kín, mùi vị cũng như thế. Vì bị rừng cây rậm rạp
phiền não che bít, chúng sanh vô minh chẳng thể thấy được. Mùi vị duy nhất của
món thuốc kia, ví với tánh Phật. Vì phiền não, cho nên từ nơi tánh Phật ấy, xuất
hiện rất nhiều mùi vị khác, như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trời, người, nam,
nữ, chẳng phải nam chẳng phải nữ, sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà.
Tánh Phật là hùng mãnh, không thể hư hoại, cho nên không ai phá hoại được. Như
có kẻ phá hoại được, ắt phải làm đứt đoạn tánh Phật. Nhưng tánh Phật như vậy chẳng
bao giờ có thể bị đứt đoạn. Nếu nói tánh ấy có thể đứt đoạn thì thật vô lý. Như
tánh ngã ấy, chính là tạng Như Lai sâu kín. Tạng sâu kín như vậy không gì có thể
làm cho hư hoại, tiêu diệt. Tuy không thể làm hư hoại, nhưng [khi bị che lấp] lại
không thể thấy được. Như đã thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, liền
chứng biết được nó. Vì nhân duyên ấy, không ai có thể phá hoại được tánh Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu không có kẻ hủy hoại được, lẽ ra
không thể có những nghiệp bất thiện?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thật có sự giết hại. Vì sao vậy? Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh vẫn ở trong năm ấm. Nếu làm hư hoại năm ấm, gọi là giết hại. Nếu có
giết hại, tức đọa vào đường dữ. Do nghiệp báo nhân duyên nên có các dòng sát-lỵ,
bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà cùng chiên-đà-la, hoặc nam, hoặc nữ, hay chẳng phải
nam chẳng phải nữ, các tướng trạng khác nhau ở trong hai mươi lăm cảnh giới hiện
hữu của chúng sanh, luân chuyển trong vòng sanh tử. Những kẻ chưa đạt quả thánh
cố chấp sai lầm rằng có ngã, tướng trạng của cái ngã ấy lớn nhỏ xê xích dường
như hạt cỏ, hoặc như hạt gạo, hạt đậu, cho đến ngón tay cái hay ngón chân
cái... Cứ như vậy mà hư vọng sinh ra đủ cách suy tưởng, ức đoán. Tướng trạng của
vọng tưởng không hề chân thật. Tướng ngã của bậc xuất thế gọi là tánh Phật. Nhận
biết cái ngã như vậy gọi là việc lành cao cả hơn hết.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người khéo biết nơi chôn giấu kho tàng, bèn lấy
dụng cụ sắc bén mà đào đất, xuyên qua những hòn đá, sạn, sỏi, một cách không
khó khăn gì. Chỉ khi gặp phải kim cương thì không thể xuyên qua. Vì kim cương
là chất mà dao búa không thể làm hư hoại.
“Thiện nam tử! Tánh Phật của chúng sanh cũng vậy. Tất cả các vị luận sư, thiên
ma Ba-tuần, cùng loài người và chư thiên đều không thể hủy hoại được nó. Tướng
trạng của năm ấm tức là sinh khởi và tạo tác. Tướng trạng sinh khởi và tạo tác
ví như đá sỏi, có thể đâm thủng, phá hoại; tánh Phật ví như kim cương, không ai
làm hư hoại được. Vì nghĩa ấy nên làm hư hoại năm ấm gọi là giết hại.
“Thiện nam tử! Nên biết chắc rằng pháp Phật như vậy là không thể nghĩ bàn!”
QUYỂN 8 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần năm
Thiện nam tử! Kinh Phương đẳng như chất cam lộ, mà cũng như
thuốc độc.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Vì sao Như Lai nói rằng kinh Phương đẳng ví như cam
lộ mà cũng như thuốc độc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông có muốn biết nghĩa chân thật của tạng Như Lai
sâu kín hay chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Nay con quả thật muốn biết nghĩa chân thật của tạng Như
Lai sâu kín.”
Lúc ấy, đức Phật liền thuyết kệ rằng:
Có kẻ uống cam lộ,
Hại mạng mà chết yểu,
Có kẻ uống cam lộ,
Đời sống được lâu dài.
Kẻ uống thuốc độc, sống,
Người uống thuốc độc, chết.
Vô ngại trí cam lộ,
Ấy là kinh Đại thừa.
Kinh Đại thừa như vậy,
Cũng gọi là độc dược.
Như bơ sữa, đề-hồ,
Cùng các món đường phèn.
Tiêu hóa được là thuốc,
Không tiêu hóa thành độc.
Kinh Phương đẳng cũng thế:
Cam lộ với người trí,
Kẻ ngu mê tánh Phật,
Nếu dùng hóa thành độc.
Với Thanh văn, Duyên giác,
Đại thừa là cam lộ.
Như trong các món ăn,
Sữa là ngon hơn hết.
Cũng vậy người tinh tấn,
Nhờ nương theo Đại thừa,
Đạt cảnh giới Niết-bàn,
Thành bậc thánh kiệt xuất.
Chúng sanh rõ tánh Phật,
Đều như Ca-diếp đây,
Uống cam lộ vô thượng:
Không sanh cũng không chết.
Ca-diếp! Các ông nên,
Khéo phân biệt Tam quy.
Tánh của Tam quy đó,
Thật là tánh của ngã.
Nếu biết quán sát kỹ:
Tánh ngã có tánh Phật.
Nên biết người như vậy,
Được vào tạng sâu kín,
Biết ngã và ngã sở,
Người ấy đã xuất thế.
Tánh Tam bảo, Phật pháp
Đáng tôn kính hơn hết.
Như ta vừa thuyết kệ,
Tánh ấy nghĩa như vậy.
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp liền đọc kệ rằng:
Con quả thật không biết,
Chỗ quy y Tam bảo.
Làm cách nào quy ngưỡng,
Bậc cao nhất chẳng sợ?
Chẳng biết chỗ Tam bảo,
Làm sao tu vô ngã?
Nương Phật như thế nào,
Cho được sự an ổn?
Nương theo pháp thế nào?
Xin vì con giảng rõ.
Làm sao được tự tại?
Làm sao không tự tại?
Quy y Tăng thế nào,
Được lợi ích cao nhất?
Thuyết chân thật thế nào,
Đời sau thành Phật đạo?
Nếu đời sau chẳng thành,
Làm sao nương Tam bảo?
Con nay chưa dự biết,
Thứ tự việc quy y.
Vì sao chưa mang thai,
Đã khởi ý có con?
Nếu đang khi có thai,
Gọi đó là có con.
Như con ở trong thai,
Ngày sanh còn không lâu,
Đó là nghĩa có con.
Nghiệp chúng sanh cũng thế.
Theo như lời Phật thuyết,
Kẻ ngu không hiểu nổi.
Do chỗ không hiểu đó,
Chịu sanh tử luân hồi.
Giả danh ưu-bà-tắc,
Chẳng biết nghĩa chân thật.
Xin Phật rộng phân biệt,
Trừ dứt sạch lòng nghi.
Như Lai đại trí huệ,
Xin xót thương phân biệt.
Thuyết dạy tạng Như Lai,
Quý báu và sâu kín.
Đức Phật liền nói kệ đáp rằng:
Ca-diếp! Ông nên biết:
Nay vì ông khai mở,
Tạng vi diệu sâu kín,
Khiến ông dứt lòng nghi.
Hãy hết lòng lắng nghe.
Ông và chư Bồ Tát,
Cùng đức Phật thứ bảy,
Là đồng một danh hiệu.
Người quy y nơi Phật,
Ưu-bà-tắc chân chánh,
Suốt đời chẳng quy y,
Với các vị thiên thần.
Người quy y nơi Pháp,
Liền bỏ việc giết hại.
Người quy y Thánh tăng,
Chẳng cầu nơi ngoại đạo.
Nương Tam bảo như vậy,
Được chỗ không sợ sệt.
Bồ Tát Ca-diếp liền đọc kệ bạch Phật rằng:
Con nương theo Tam bảo,
Gọi đó là đường chánh.
Cảnh giới của chư Phật,
Tam bảo đều như nhau.
Thường có tánh đại trí.
Tánh ngã cùng tánh Phật,
Vốn không hai, không khác.
Đạo này, Phật khen ngợi,
Chỗ chánh tấn ở yên,
Cũng gọi Chánh biến kiến,
Nên được Phật ngợi khen.
Con theo đường Vô thượng,
Bậc Thiện thệ ngợi khen,
Là cam lộ bậc nhất,
Vạn hữu thật không có!
Khi ấy, Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên phân biệt Tam
bảo [theo cách] như hàng Thanh văn và phàm phu. Trong pháp Đại thừa không có tướng
phân biệt Ba pháp quy y. Vì sao vậy? Ở trong tánh Phật vốn đã có Pháp, có Tăng.
Vì muốn hóa độ hàng Thanh văn, phàm phu nên mới phân biệt nói các tướng khác
nhau giữa Ba quy y.
“Thiện nam tử! Nếu muốn tùy thuận pháp thế gian thì phải phân biệt có Ba pháp
quy y. Thiện nam tử! Bồ Tát nên suy xét như thế này: ‘Nay ta đem thân này quy y
với Phật. Ví như với thân này ta được thành Phật đạo, khi thành Phật rồi ta chẳng
nên cung kính lễ bái, cúng dường chư Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì chư Phật đều bình
đẳng như nhau, đều là chỗ quy y của chúng sanh.
“Nếu muốn tôn trọng pháp thân xá-lợi, thì nên cung kính các tháp miếu Phật. Vì
sao vậy? Vì muốn hóa độ chúng sanh, ta cũng khiến cho chúng sanh đối với thân
ta tưởng là tháp miếu mà lễ bái cúng dường. Những chúng sanh như vậy lấy pháp
thân ta làm chỗ quy y. Tất cả chúng sanh đều quy y pháp tà ngụy chẳng chân, ta
sẽ lần lượt thuyết cho họ nghe những pháp chân thật. Lại có những kẻ quy y tăng
không chân thật, ta sẽ làm vị tăng chân chánh cho họ quy y.
“Như có những ai phân biệt Ba chỗ quy y, ta sẽ là chỗ quy y duy nhất cho họ,
không có ba chỗ khác nhau.
“Đối với kẻ mù từ thuở mới sanh, ta sẽ là mắt của họ.
“Đối với hàng Thanh văn, Duyên giác, ta cũng sẽ là chỗ quy y chân thật của họ.
“Thiện nam tử! Vị Bồ Tát như vậy, vì muốn cứu độ vô lượng chúng sanh tà ác cũng
như hàng trí giả cho nên làm mọi Phật sự.
“Thiện nam tử! Ví như có người khi vào trận chiến đấu khởi lên ý nghĩ rằng: ‘Ở
đây ta là người tài giỏi nhất, tất cả quân lính đều nương cậy nơi ta.’
“Lại như có vị vương tử suy nghĩ rằng: ‘Ta sẽ khuất phục tất cả các vương tử
khác, ta sẽ nối nghiệp bá vương của Đại vương mà được tùy ý hành xử, làm cho
các vị vương tử khác đều phải nương tựa theo ta. Bởi vậy không nên sanh tâm thấp
hèn yếu kém.’ Như các vị vua, vương tử, đại thần cũng đều như thế.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như thế, khởi ý nghĩ này: ‘Làm sao đem
cả ba việc đồng vào một thể với ta?’ Thiện nam tử! Ta chỉ bày ba việc, tức là
Niết-bàn. Như Lai đó, gọi là bậc Vô thượng sĩ. Ví như thân người ta, cái đầu là
cao nhất, chẳng phải các chi tiết khác như tay, chân... Phật cũng như thế, là bậc
cao trổi hơn hết, chẳng phải là Pháp, là Tăng. Vì muốn hóa độ hết thảy chúng
sanh trong thế gian nên thị hiện các tướng trạng khác nhau, ví như các nấc
trong một cái thang vậy. Vì thế nay ông chớ nên thọ trì [theo cách] như kẻ phàm
phu ngu si, hiểu biết [phân biệt các] tướng khác nhau của Tam quy. Ở trong Đại
thừa, ông hãy quyết đoán một cách mạnh mẽ, nhanh lẹ, như con dao cứng rắn sắc
bén vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con vốn đã biết mà thưa hỏi chứ chẳng
phải không biết. Đó là con vì hàng Bồ Tát rất dũng mãnh mà thưa hỏi về chỗ hạnh
thanh tịnh không uế nhiễm, muốn được Như Lai vì chư Bồ Tát mà phân biệt rộng
thuyết sự việc lạ lùng đặc biệt, xưng dương kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Nay
Như Lai đem lòng đại bi khéo thuyết giảng, con cũng được trụ yên như vậy trong
đó. Chỗ hạnh thanh tịnh của Bồ Tát mà Như Lai thuyết giảng, tức là tuyên thuyết
kinh Đại Niết-bàn này vậy.
“Bạch Thế Tôn! Nay con cũng sẽ vì chúng sanh mà hiển dương tạng Như Lai sâu kín
ấy, con cũng sẽ rõ biết Ba chỗ quy y chân thật. Nếu chúng sanh nào có thể tin
nhận kinh Đại Niết-bàn này, liền tự nhiên thấu rõ được Ba chỗ quy y. Vì sao vậy?
Vì tạng Như Lai sâu kín vốn có tánh Phật. Những ai tuyên thuyết kinh điển này,
thảy đều nói rằng: ‘Trong thân chúng ta đây đều có tánh Phật.’ Những người như
vậy, ắt chẳng tìm cầu ba chỗ quy y ở đâu xa. Vì sao vậy? Trong tương lai, tự
thân mình sẽ thành tựu Tam bảo. Vì thế mà hàng Thanh văn, Duyên giác và những
chúng sanh khác thảy đều nương theo mình, cung kính lễ bái.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chính vì nghĩa ấy nên phải khéo học hỏi tu tập kinh điển
Đại thừa.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch rằng: “Tánh Phật như vậy không thể nghĩ bàn! Ba mươi
hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp cũng không thể nghĩ bàn!”
Lúc ấy, Phật ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông
đã thành tựu trí huệ sâu xa sáng suốt. Nay ta lại sẽ vì ông giảng rõ sự thể nhập
vào tạng Như Lai.
“Nếu ngã là tồn tại, vậy là pháp thường còn chẳng lìa sự khổ. Nếu không có ngã
thì việc tu hành thanh tịnh thật chẳng có ích lợi gì.
“Nếu nói các pháp thảy đều không có ngã tức là đoạn kiến. Nếu nói rằng có cái
ngã tồn tại, tức là thường kiến.
“Nếu nói rằng hết thảy các hành đều không thường còn tức là đoạn kiến. Nếu nói
rằng các hành đều thường còn, lại cũng là thường kiến.
“Nếu nói [tất cả các pháp đều là] khổ tức là đoạn kiến, nếu nói [tất cả các
pháp đều là] vui, lại cũng là thường kiến.
“Tu tập [theo tư tưởng] tất cả các pháp đều thường tồn sẽ rơi vào đoạn kiến. Tu
tập [theo tư tưởng] tất cả các pháp đều đoạn diệt sẽ rơi vào thường kiến. Ví
như con sâu đo, phần thân sau phải di chuyển nương theo phần thân trước. Người
tu tập [theo các tư tưởng] thường hay đoạn cũng giống như vậy, phải phụ thuộc
vào nhân đoạn hay nhân thường.
“Vì nghĩa ấy, tu tập các pháp [môn] khác, khổ gọi là bất thiện; tu tập các pháp
[môn] khác, lạc gọi là thiện; tu tập các pháp [môn] khác, vô ngã là phiền não;
tu tập các pháp [môn] khác, thường gọi là tạng sâu kín của Như Lai, đó là nói
Niết-bàn không có nơi nương náu trú ngụ; tu tập các pháp vô thường khác tức là
tiền của; tu tập các pháp thường khác là nói Phật, Pháp, Tăng và giải thoát
chân chánh.
“Nên rõ biết chỗ trung đạo của Phật pháp là như vậy, lìa xa cả hai bên [chấp
thường và chấp đoạn] để thuyết pháp chân thật. Những kẻ phàm phu ngu si, nếu đối
với pháp này không sanh nghi ngại thì như người bệnh gầy yếu được ăn váng sữa,
khí lực liền trở nên nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.
“Các pháp hữu, vô thể tánh không nhất định, ví như bốn đại, tánh chẳng giống
nhau, thường trái ngược nhau. Người thầy thuốc khéo biết được yếu tố nào thái
quá thì làm cho nó suy yếu đi.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, đối với chúng sanh cũng như người thầy thuốc,
biết được thể tướng khác nhau của các phiền não, bèn vì chúng sanh mà dứt trừ,
khai mở chỉ bày tạng Như Lai sâu kín, tánh Phật thanh tịnh thường còn không biến
đổi.
“Nếu nói [tánh Phật] là có, trí huệ lẽ ra không thể nhiễm ô. Nếu nói [tánh Phật]
là không tức là nói dối.
“Nếu nói [tánh Phật] là có, lẽ ra chẳng nên lặng thinh, cũng chẳng cần tranh luận
biện giải, chỉ cần hiểu thấu được tánh chân thật của các pháp.
“Người phàm phu thường tranh luận biện giải nên không hiểu được tạng Như Lai vi
diệu sâu kín. Nếu nói lẽ khổ, người ngu liền cho rằng thân này là vô thường, rằng
hết thảy đều là khổ, nhưng không biết rằng trong thân vẫn có tánh lạc.
“Nếu nói lẽ vô thường, người phàm phu lại cho rằng hết thảy các thân đều là vô
thường, ví như ngói gạch, đồ gốm chưa nung. Người có trí nên phân biệt, chẳng
nên cố chấp rằng hết thảy là vô thường. Vì sao vậy? Vì trong thân ta vốn có hạt
giống tánh Phật.
“Nếu nói lẽ vô ngã, kẻ phàm phu sẽ cho rằng hết thảy pháp Phật đều không có
ngã. Người có trí nên phân biệt, nói vô ngã đó chỉ là tên gọi không thật. Biết
như vậy rồi, chẳng nên sanh lòng nghi ngại.
“Nếu nói rằng tạng Như Lai sâu kín là rỗng không, vắng lặng, người phàm phu
nghe vậy bèn nảy sanh quan niệm đoạn diệt. Người có trí nên phân biệt, [rõ biết]
Như Lai là thường tồn, không hề biến đổi.
“Nếu nói rằng giải thoát ví như ảo hóa, kẻ phàm phu sẽ cho rằng đạt được giải
thoát chân thật là dần dần diệt mất. Người có trí nên phân biệt, bậc Sư tử
trong loài người tuy có đến có đi nhưng vẫn thường trụ không biến đổi.
“Nếu nói rằng vô minh là nhân duyên của các hành, kẻ phàm phu nghe rồi liền
phân biệt, nảy sanh ý tưởng [phân biệt] hai pháp minh và vô minh. Người có trí
hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng các hành là nhân duyên của thức, kẻ phàm phu liền cho rằng đó là
hai pháp: hành và thức. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai.
Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói các pháp thập thiện, thập ác, nên làm, chẳng nên làm, nẻo lành, nẻo dữ,
thiện pháp, ác pháp, kẻ phàm phu sẽ cho rằng đó đều là những pháp đối đãi. Người
có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là
tánh thật.
“Nếu nói rằng nên tu hết thảy các pháp khổ, kẻ phàm phu sẽ cho rằng có hai pháp
phân biệt. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng hai
đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng hết thảy các hành đều là vô thường, tạng Như Lai sâu kín cũng là
vô thường, kẻ phàm phu sẽ cho đó là hai pháp đối đãi. Người có trí hiểu thấu được
tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng hết thảy các pháp đều không có ngã, tạng Như Lai sâu kín cũng
không có ngã, kẻ phàm phu sẽ cho đó là hai pháp đối đãi. Người có trí hiểu thấu
được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Ngã và vô ngã, tánh chẳng phải hai. Ý nghĩa của tạng Như Lai sâu kín cũng là
như vậy, không thể suy lường, vô lượng vô biên, chư Phật thường khen ngợi. Nay
trong kinh này ta đã thuyết dạy hết thảy mọi công đức thành tựu.
“Thiện nam tử! Ngã và vô ngã, thể tánh với tướng trạng chẳng phân hai pháp, ông
nên cung kính thọ trì như vậy.
“Thiện nam tử! Ông cũng nên bền chí thọ trì, niệm tưởng những kinh điển như thế
này. Như trước đây trong kinh Đại Bát-nhã Ba-la mật ta cũng đã có thuyết dạy rằng
ngã và vô ngã không có hai tướng trạng.
“Thiện nam tử! Cũng như do nơi sữa mà sanh ra kem sữa, do nơi kem sữa mà có bơ
sống, do nơi bơ sống mà có bơ chín, do nơi bơ chín mà có được đề-hồ. Như vậy,
kem sữa là do nơi sữa mà sanh ra, hay là tự nó sanh ra, hay là do món khác mà
sanh ra? Cho đến đề-hồ, cũng lại như vậy. Nếu do món khác mà sanh ra, tức là do
món ấy làm ra, chẳng phải do nơi sữa mà sanh ra. Nếu chẳng phải do sữa mà sanh
ra, thì sữa chẳng có tác dụng gì. Nếu như tự nó sanh ra được, lẽ ra không có việc
tuần tự nối tiếp nhau từng món sanh ra! Nếu nối tiếp nhau mà sanh ra, ắt là chẳng
sanh ra cùng nhau. Nếu chẳng sanh ra cùng nhau thì năm món ấy ắt chẳng sanh ra
cùng lúc. Dù chẳng sanh ra cùng lúc, nhưng nhất định là không phải từ nơi khác
mà đến.
“Nên biết rằng trong sữa trước đã có sẵn tướng bơ, nhưng vì chất ngọt ở trong
đó nhiều nên tướng ấy tự nó chẳng hiện ra được. Cho đến món đề-hồ cũng lại như
vậy. Con bò cái kia nhờ ăn uống, nhờ nhân duyên là nước và cỏ, huyết mạch trong
thân chuyển biến mà thành sữa. Nếu nó ăn cỏ ngọt, sữa liền trở nên ngọt. Như nó
ăn nhằm cỏ đắng, sữa của nó ắt phải đắng. Ở Tuyết Sơn có một thứ cỏ tên là
phì-nhị, nếu con bò cái ăn thứ cỏ đó thì sữa liền hóa toàn đề-hồ, chẳng có những
màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Do nhân duyên là lúa và cỏ, nên màu sắc và mùi
vị của sữa có khác.
“Các chúng sanh ở đây, vì nghiệp nhân duyên là sáng suốt và vô minh nên mới
phát sanh hai tướng. Nếu vô minh được chuyển hóa thì biến thành sáng suốt. Tất
cả các pháp thiện và bất thiện cũng đều như vậy, [thật] không có hai tướng
[phân biệt].”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói: ‘Trong sữa có kem sữa.’
Nghĩa ấy là thế nào? Thế Tôn nếu nói rằng trong sữa nhất định có tướng kem,
nhưng vì tướng ấy tinh tế nên không thể thấy, vì sao lại nói do nhân duyên là sữa
mà sanh ra kem sữa? Như pháp vốn không có, mới gọi là sanh; nếu đã sẵn có, sao
gọi là sanh? Nếu nói rằng trong sữa nhất định có tướng kem, thì ở trong hết thảy
các loại cỏ, lẽ ra cũng sẵn có chất sữa. Cũng vậy, trong sữa lẽ ra cũng sẵn có
cỏ. Như nói rằng trong sữa nhất định không có kem sữa, vì sao nhờ nơi sữa lại
sanh ra kem? Nếu [kem sữa] là pháp vốn không có, sau đó mới sanh ra, vậy sao
trong sữa lại chẳng sanh ra cỏ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Không thể nói nhất định rằng trong sữa có kem hay
trong sữa không có kem. Cũng không thể nói rằng do thứ khác mà sanh ra. Nếu nói
rằng trong sữa nhất định có kem, tại sao hai món ấy hình thể và mùi vị khác
nhau? Vậy nên không thể nói chắc rằng trong sữa đã có sẵn tánh chất kem. Nếu
nói rằng trong sữa nhất định không có kem, tại sao từ nơi sữa chẳng sanh ra [những
thứ khác như] sừng thỏ? Khi người ta bỏ chất độc vào sữa thì món kem có thể làm
chết người. Vậy nên không thể nói rằng trong sữa nhất định không có tánh chất
kem. Nếu nói rằng kem do thứ khác mà sanh ra, tại sao nước lã chẳng sanh ra
kem? Vậy nên không thể nói rằng kem do thứ khác sanh ra.
“Thiện nam tử! Do nhân duyên là cỏ mà con bò cái đã ăn vào, máu của nó chuyển
hóa ra màu trắng; khi cỏ và máu đã không còn nữa, nhờ phước lực của chúng sanh
mà [chúng] chuyển hóa thành sữa. Sữa ấy do nơi cỏ và máu [bò] mà ra, nhưng
không thể nói là hai [thứ khác biệt], chỉ có thể nói là do nhân duyên mà sanh
ra thôi. Từ món kem cho tới món đề-hồ cũng đều như vậy. Vì nghĩa ấy cho nên gọi
là món ăn do loài bò cung cấp. Món sữa ấy không còn nữa khi có đủ nhân duyên
chuyển thành món kem. Nhân duyên là những gì? Như men, như hơi ấm... Vậy nên gọi
là do nhân duyên mà có. Cho đến món đề-hồ cũng là như vậy. Cho nên không thể
nói nhất định rằng trong sữa không có tướng kem. Nếu nói ngoài món sữa mà có thể
do nơi món khác sanh ra từ món kem cho đến món đề-hồ thì thật là vô lý!
“Thiện nam tử! Sự sáng suốt với vô minh cũng vậy. Nếu kết hợp với các mối phiền
não trói buộc, đó gọi là vô minh. Nếu kết hợp với tất cả pháp lành, đó gọi là
sáng suốt. Cho nên ta nói rằng không có hai tướng. Bởi nhân duyên ấy, trước đây
ta có nói rằng: Tuyết sơn có thứ cỏ tên là phì-nhị, nếu bò cái ăn thứ cỏ ấy thì
sữa của nó biến thành đề-hồ. Tánh Phật cũng là như thế.
“Thiện nam tử! Vì chúng sanh bạc phước nên chẳng thấy loài cỏ ấy. Tánh Phật
cũng vậy, do phiền não che lấp nên chúng sanh chẳng thấy được. Ví như biển cả,
tuy cùng một vị mặn, nhưng trong đó lại có một thứ nước ngon quý có vị như sữa.
Ví như Tuyết sơn, tuy thành tựu đủ các công đức, sanh ra nhiều loại thuốc,
nhưng cũng có loài cỏ độc. Thân chúng sanh cũng vậy, tuy có bốn đại như loài rắn
độc, nhưng trong thân ấy cũng có loài thuốc cực kỳ hay quý: đó là tánh Phật, chẳng
phải là pháp do người làm ra, chỉ vì phiền não từ bên ngoài che lấp mất mà
thôi. Nếu người dù thuộc hàng sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá hay thủ-đà, có thể dứt
trừ những phiền não ấy thì đều thấy được tánh Phật, thành đạo Vô thượng.
“Giống như khi trời có sấm sét chuyển mưa thì trên tất cả ngà voi đều sanh ra
những vân hoa. Nếu chẳng có sấm sét, vân hoa ấy tất không sanh ra, cũng chẳng
có tên gọi. Tánh Phật của chúng sanh cũng vậy, thường bị hết thảy phiền não che
lấp, không thể thấy được. Cho nên ta nói rằng chúng sanh không có ‘ngã’.
“Nếu được nghe kinh điển vi diệu Đại Bát Niết-bàn này, ắt sẽ thấy được tánh Phật,
như vân hoa trên ngà voi. Tuy được nghe hết thảy Tam-muội của khế kinh nhưng chẳng
nghe được kinh này thì chẳng biết được tướng vi diệu Như Lai, cũng như không có
sấm sét thì chẳng thấy được vân hoa trên ngà voi.
“Nếu nghe được kinh này tức là biết được tánh Phật trong tạng sâu kín mà hết thảy
các vị Như Lai đều thuyết dạy, cũng như khi trời có sấm sét liền thấy vân hoa
trên ngà voi.
“Nếu nghe được kinh này liền rõ biết hết thảy vô lượng chúng sanh đều có tánh
Phật. Vì nghĩa ấy nên nói rằng Đại Niết-bàn gọi là tạng sâu kín của Như Lai,
làm cho pháp thân tăng trưởng, cũng như khi có sấm sét thì những vân hoa trên
ngà voi có thể phát triển.
“Vì nghĩa lớn lao ấy nên gọi là Kinh Đại Bát Niết-bàn. Như có kẻ nam người nữ
nào có thể học hỏi làm theo kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này, nên biết rằng
những người ấy có thể báo đáp ơn Phật, thật là đệ tử Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Kỳ lạ thay, Thế Tôn! Tánh Phật mà Phật thuyết dạy
đó rất thâm sâu, khó thấy, khó thể nhập, như sức của hàng Thanh văn, Duyên giác
thật chẳng thấu nổi.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đúng vậy, đúng vậy! Như chỗ xưng tán của ông đó không
trái lời dạy của ta.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Tánh Phật ấy thế nào là rất thâm sâu,
khó thấy, khó thể nhập?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như có trăm người mù, vì trị bệnh mắt nên tìm đến
lương y. Lúc ấy, vị lương y dùng mũi kim vàng mà khơi vào màng mắt, rồi đưa lên
một ngón tay, hỏi rằng: ‘Thấy không?’ Người mù nói: ‘Tôi còn chưa thấy.’ Lại
đưa lên hai ngón, ba ngón, người mù mới nói rằng đã thấy chút ít.
“Thiện nam tử! Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng như vậy đó, khi Như Lai
chưa thuyết dạy, vô lượng Bồ Tát tuy đã thực hành đủ các hạnh ba-la-mật, cho đến
hàng Thập trụ vẫn còn chưa thấy được tánh Phật sẵn có. Đến khi Như Lai thuyết dạy
rồi, họ liền thấy được đôi chút. Các vị Đại Bồ Tát ấy được thấy [tánh Phật] rồi,
thảy đều nói rằng: ‘Lạ thay, Thế Tôn! Chúng con lưu chuyển biết bao lần trong
sanh tử, thường bị lẽ vô ngã làm cho lầm lạc, mê loạn.’
“Thiện nam tử! Các vị Bồ Tát như vậy, chứng đắc Thập địa còn chưa thấy rõ được
tánh Phật, huống chi hàng Thanh văn, Duyên giác lại có thể thấy được hay sao?
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người nhìn lên con ngỗng trời, con nhạn đang bay
trên không. Đó là hư không chăng? Là ngỗng trời, là nhạn chăng? Nhìn kỹ hồi lâu
mới thấy phảng phất hình con ngỗng trời, con nhạn. Hàng Bồ Tát Thập trụ lại
cũng như thế, đối với tánh Như Lai, chỉ thấy biết đôi chút mà thôi, huống chi
người trong hàng Thanh văn, Duyên giác lại thấy biết được sao?
“Thiện nam tử! Ví như người say rượu kia, chân muốn đi xa, nhưng mắt chỉ thấy mập
mờ đường đi. Hàng Bồ Tát Thập trụ cũng vậy, đối với tánh Như Lai chỉ thấy biết
đôi chút mà thôi.
“Thiện nam tử! Ví như người khát nước đi giữa đồng hoang. Người ấy khổ bức vì
khát, đi khắp nơi tìm nước, thấy một đám cây, trên có những con hạc trắng. Tinh
thần người ấy đang mê loạn, không phân biệt được ấy là cây hay là nước. Nhìn kỹ
hồi lâu mới biết là hạc trắng với đám cây. Thiện nam tử! Hàng Bồ Tát Thập trụ
cũng vậy, đối với tánh Như Lai chỉ thấy biết một phần rất nhỏ mà thôi.
“Thiện nam tử! Ví như có người ở giữa biển cả, rộng đến vô lượng trăm ngàn
do-tuần. Người ấy từ xa trông thấy một chiếc thuyền lớn, có đủ lầu gác và những
mái chèo, liền nghĩ rằng: ‘Đó là lầu gác, mái chèo hay là hư không?’ Nhìn hồi
lâu mới chắc quyết trong lòng, biết đó là lầu gác và những mái chèo. Hàng Bồ
Tát Thập trụ, tự trong thân mình thấy được tánh Như Lai cũng giống như vậy.
“Thiện nam tử! Ví như có vị vương tử thân thể rất yếu đuối, suốt đêm đi chơi bời,
thức cho đến sáng trắng. Bấy giờ, mắt nhìn tất cả chẳng thấy gì tỏ rõ. Hàng Bồ
Tát Thập trụ, tuy nơi thân mình thấy được tánh Như Lai nhưng cũng như vậy,
không được tỏ rõ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một người thư lại của vua, vì bận việc giúp vua
đến giữa đêm mới trở về nhà. Nhân khi trời chớp lóe, nhìn thấy một bầy bò, liền
nghĩ rằng: ‘Đó là bò chăng? Hay là đám mây, nhà cửa?’ Nhìn một hồi lâu, rồi tuy
cũng cho đó là bò nhưng vẫn còn chưa chắc quyết. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy nơi
thân mình thấy được tánh Như Lai, nhưng cũng như vậy, vẫn còn chưa chắc quyết.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như vị tỳ-kheo trì giới, nhìn vào bát nước không có
trùng nhưng lại thấy tướng trùng. Bèn nghĩ rằng: ‘Trong này có vật lay động, đó
là trùng chăng? Hay là bụi đất?’ Nhìn một hồi lâu, tuy biết đó là bụi nhưng
cũng không biết một cách thật tỏ rõ. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy nơi thân mình thấy
được tánh Như Lai, nhưng cũng giống như vậy, chẳng thấy thật tỏ rõ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một người ở trong bóng tối, thoáng thấy đứa trẻ
liền nghĩ rằng: ‘Đó là con bò, chim thứu, hay là người ta?’ Nhìn một hồi lâu, mặc
dù thấy là đứa trẻ nhưng cũng không thấy được một cách tỏ rõ. Hàng Bồ Tát Thập
trụ tuy ở nơi thân mình thấy được tánh Như Lai, nhưng cũng như thế, không thấy
được một cách tỏ rõ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức tượng vẽ Bồ
Tát liền nghĩ rằng: ‘Đó là tượng Bồ Tát, tượng Tự Tại Thiên hay là tượng Đại Phạm
Thiên mặc áo nhuộm vậy?’ Nhìn một hồi lâu, tuy trong ý biết là tượng Bồ Tát,
nhưng cũng không quyết định một cách tỏ rõ. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy ở nơi thân
mình thấy được tánh Như Lai, nhưng cũng như thế, không thấy được một cách tỏ
rõ.
“Thiện nam tử! Tánh Phật sẵn có như vậy rất thâm sâu, khó thấy biết được, chỉ
có Phật thấy biết rõ được, còn hàng Thanh văn, hàng Duyên giác không thể đạt tới.
Thiện nam tử! Người có trí nên biết phân biệt hiểu tánh Như Lai như thế.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Tánh Phật như vậy thật vi tế, khó thấy.
Làm sao mắt phàm có thể thấy được?”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Như cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng kia, người
trong Hai thừa cũng không biết nổi, nhưng nhờ có lòng tin theo [những điều thuyết
dạy trong] Khế kinh mà có thể biết được.
“Thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác nhờ tin theo kinh Đại Niết-bàn này mà
tự biết trong thân mình có tánh Như Lai, việc này cũng vậy. Thiện nam tử! Vậy
nên phải tinh cần tu tập kinh Đại Niết-bàn. Thiện nam tử! Tánh Phật như vậy chỉ
có Phật mới biết được, chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác có thể đạt tới.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Hàng phàm phu có tánh chúng sanh
chưa chứng thánh thảy đều nói là có ngã. [Nghĩa ấy là thế nào?]”
Phật dạy: “Ví như có hai người bạn thân, một người là con vua, người kia con
nhà nghèo hèn. Hai người ấy cùng qua lại chơi thân với nhau. Bấy giờ, người
nghèo thấy vị vương tử có một con dao rất tốt, xinh đẹp vô cùng, trong lòng lấy
làm ham thích. Về sau, vương tử mang dao ấy trốn sang nước khác. Người nghèo lại
đến nhà khác ngủ nhờ một đêm, khi nằm mộng nói mê rằng: ‘Dao! Dao!’ Người gần
bên nghe vậy, liền bắt mang đến chỗ vua. Lúc ấy, vua hỏi người ấy rằng: ‘Nhà
ngươi nói dao, vậy dao đó ngươi được ở đâu?’ Người ấy đem việc trước thuật lại
đầy đủ, tâu rằng: ‘Như nay bệ hạ có cắt xẻo thân thể tôi, phân rã tay chân tôi
để tìm dao ấy, thật cũng chẳng có. Vị vương tử kia với tôi vốn là bạn thân, trước
cùng nhau chung sống. Tuy mắt tôi thường trông thấy dao, nhưng chẳng dám sờ đến,
huống chi là giữ lấy?’ Vua lại hỏi: ‘Trong lúc ngươi nhìn thấy dao, hình dạng
nó giống như cái gì?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Thần trông thấy giống như cái sừng
dê đen.’ Vua nghe vậy rồi, vui cười nói rằng: ‘Nay ngươi có thể tùy ý ra đi, đừng
lo sợ chi cả. Trong kho tàng của ta còn không có con dao như vậy, huống chi
ngươi lại thấy nó khi ở bên vương tử?’
“Lúc ấy, vua liền hỏi quần thần rằng: ‘Các khanh có từng thấy con dao như thế
không?” Vua vừa hỏi xong thì băng hà. Triều đình lập một vị vương tử khác lên nối
ngôi vua. Vua mới lại hỏi các quan triều thần rằng: ‘Các khanh có từng thấy con
dao như thế trong kho chăng?’ Các quan đáp: ‘Chúng tôi đã từng thấy.’ Vua lại hỏi:
‘Hình dạng nó giống như cái gì?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Nó giống như cái sừng dê
đen.’ Vua nói: ‘Trong kho tàng của ta, chỗ nào lại có con dao hình dạng như thế?’
Lần lượt bốn vị vua nối tiếp nhau đều tra tìm nhưng không biết được gì.
“Sau đó một thời gian, vị vương tử đã trốn đi ngày trước lại từ nước ngoài trở
về, được lập làm vua. Khi đã lên ngôi vua rồi lại hỏi các quan rằng: ‘Các khanh
có thấy con dao ấy chăng?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Chúng tôi đều có thấy.’ Vua lại
hỏi: ‘Nó giống như vật chi?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Màu sắc nó trong sạch như
hoa ưu-bát-la.” Lại có người nói: ‘Nó như cái sừng dê.’ Lại có người khác nói:
‘Màu sắc nó đỏ hồng như lửa.’ Lại có kẻ nói: ‘Nó giống như con rắn đen.’ Lúc ấy
vua bật cười lớn, nói rằng: ‘Các khanh thảy đều chẳng thấy được hình dạng thật
con dao của ta.’
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy, xuất hiện ở đời thuyết dạy tướng
thật của cái ngã. Thuyết xong liền rời đi, cũng ví như vị vương tử cầm con dao
quý đẹp mà trốn sang nước khác. Kẻ phàm phu ngu si nói rằng: ‘Tất cả đều có
ngã, có ngã’, cũng ví như người nghèo ngủ ở nhà người khác nói mê rằng: ‘Dao!
Dao!’ Hàng Thanh văn, Duyên giác hỏi chúng sanh rằng: ‘Tướng của cái ngã như thế
nào?’ Đáp rằng: ‘Tôi thấy tướng cái ngã lớn bằng ngón tay cái.’ Có kẻ lại nói:
‘Nó như hạt gạo, hoặc như hạt lúa lép.’ Cũng có kẻ nói: ‘Cái ngã ở trong tim,
chiếu sáng như mặt trời.’ Những chúng sanh ấy chẳng biết tướng của cái ngã,
cũng như các vị quan kia chẳng biết hình dạng của con dao. Bồ Tát thuyết dạy tướng
ngã như vậy, kẻ phàm phu chẳng hiểu biết, phân biệt ra nhiều cách, tự tạo ra tướng
ngã, cũng như hỏi về hình dạng con dao mà đáp rằng giống như sừng dê! Những kẻ
phàm phu ấy nối tiếp nhau mà khởi lên các tà kiến. Vì muốn dứt trừ các tà kiến ấy,
nên Như Lai mới thị hiện thuyết dạy lẽ vô ngã, cũng như vua kia nói với các
quan rằng: ‘Trong kho tàng của ta chẳng hề có con dao như vậy.’
“Thiện nam tử! Cái ngã chân thật mà hôm nay Như Lai thuyết dạy gọi là tánh Phật.
Tánh Phật như vậy trong Phật pháp ví như con dao quý đẹp. Thiện nam tử! Như có
kẻ phàm phu có thể khéo giảng nói tánh Phật, tức là tùy thuận pháp Phật vô thượng.
Nếu có kẻ khéo phân biệt, tùy thuận tuyên thuyết giảng giải tánh Phật, nên biết
rằng đó chính là Bồ Tát hiện tướng.”
[Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp]: “Thiện nam tử! Hết thảy các môn luận khác, cùng những
chú thuật, ngôn ngữ, văn tự, đều là thuyết của Phật, chẳng phải của ngoại đạo.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai thuyết dạy căn bản
của chữ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ban sơ ta thuyết dạy nửa chữ, lấy đó làm căn bản. Thọ
trì các sách luận, chú thuật, văn chương, pháp thật của các ấm. Kẻ phàm phu học
căn bản của chữ như vậy, rồi sau mới có thể phân biệt được là đúng pháp hay
không đúng pháp.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Chữ mà Phật dạy đó ý nghĩa như thế
nào?”
“Thiện nam tử! Có mười bốn âm, gọi là nghĩa của chữ. Chữ được nói ở đây gọi là
Niết-bàn, thường trụ nên không lưu chuyển. Nếu không lưu chuyển ắt là không dứt
mất. Nếu là không dứt mất tức là thân kim cang của Như Lai. Mười bốn âm này gọi
là căn bản của chữ.
“Âm ác nghĩa là không bị phá hoại. Không bị phá hoại gọi là Tam bảo, ví như chất
kim cang. Lại nữa, ác nghĩa là không lưu chuyển, rỉ chảy. Không lưu chuyển, rỉ
chảy, tức là Như Lai. Chín lỗ của Như Lai không có những chất rỉ chảy, cho nên
gọi là không rỉ chảy. Lại nữa, không có chín lỗ nên không lưu chuyển. Không lưu
chuyển tức là thường. Thường tức là Như Lai. Như Lai không tạo tác cho nên
không lưu chuyển. Lại nữa, ác nghĩa là công đức. Công đức tức là Tam bảo. Vì thế
nên gọi là ác.
“Âm a tức là A-xà-lê. A-xà-lê nghĩa là gì? Nghĩa là ở trong thế gian được xưng
là thánh. Sao gọi là thánh? Thánh, gọi là không dính mắc, ít ham muốn, biết đủ,
cũng gọi là trong sạch, có thể cứu độ chúng sanh vượt ra ngoài Ba cõi, vượt khỏi
biển lớn sanh tử. Đó gọi là thánh.
“Lại nữa, a nghĩa là tiết chế điều độ, tu trì giới hạnh trong sạch, thuận theo
oai nghi. Lại nữa, a nghĩa là nương theo bậc thánh, nên học mọi oai nghi trong
việc tới lui, cử động, cúng dường, cung kính lễ bái Tam Tôn, hiếu dưỡng cha mẹ,
tu học Đại thừa. Những kẻ nam người nữ lòng lành giữ đủ các giới cấm cùng các vị
đại Bồ Tát đều gọi là bậc thánh. Lại nữa, a gọi là răn dạy, như nói rằng: ‘Các
ông nên làm việc như thế này, đừng làm việc như thế này.’ Như ai có thể ngăn chặn
những pháp trái oai nghi, gọi là bậc thánh. Vì thế nên gọi là a.
“Âm ức tức là tánh Phật, là hạnh trong sạch rộng lớn không nhơ bợn, dường như vầng
trăng tròn. [Đó là nghĩa phân biệt] các ông nên làm như thế này, không nên làm
như thế này; thế này là đúng nghĩa, thế này là trái nghĩa; thế này là Phật thuyết,
thế này là ma thuyết. Vì thế nên gọi là ức.
“Âm y tức là pháp Phật vi diệu, thâm sâu khó được. Như pháp của các vị vua trời
Tự Tại, vua trời Đại Phạm thì gọi là tự tại. Như có thể gìn giữ pháp tất được
xưng là hộ pháp. Lại nữa, tự tại cũng gọi là bốn vị hộ thế. Bốn vị tự tại như vậy
ắt có thể gìn giữ bảo vệ kinh Đại Niết-bàn, lại cũng có thể tuyên thuyết giảng
rộng một cách tự tại.
“Lại nữa, y nghĩa là có thể vì chúng sanh thuyết pháp một cách tự tại. Nhưng y
nghĩa là tự tại mà thuyết những gì? Đó là thuyết việc tu tập kinh điển Phương đẳng.
Lại nữa, y nghĩa là dứt trừ tật đố, cũng như người ta nhổ bỏ cỏ xấu, khiến cho
tất cả đều trở nên tốt lành. Vì thế nên gọi là y.
“Âm úc nghĩa là cao quý nhất, vượt hơn tất cả, phát triển cao nhất trong hết thảy
các kinh là Đại Niết-bàn. Lại nữa, úc nghĩa là tánh Như Lai, hàng Thanh văn,
Duyên giác chưa từng được nghe. Ví như trong khắp thảy các chốn, cõi Uất-đan-việt
về phương bắc là vượt trội hơn hết; nếu Bồ Tát được nghe và thọ trì kinh này
thì vượt trội hơn hết trong tất cả chúng. Vì nghĩa ấy, kinh này được gọi là cao
quý nhất, vượt trội hơn hết. Vì thế nên gọi là úc.
“Âm ưu, ví như vị của sữa bò là hơn hết trong các vị. Tánh Như Lai lại cũng như
thế, là cao quý nhất, hơn hết trong tất cả các kinh, nếu có ai phỉ báng thì nên
biết rằng người ấy chẳng khác chi loài bò. Lại nữa, ưu nghĩa là người như thế
không có trí huệ, chánh niệm, phỉ báng tạng vi diệu sâu kín của Như Lai. Nên biết
rằng người này rất đáng thương xót, lìa xa tạng sâu kín của Như Lai mà nói pháp
vô ngã. Vì thế nên gọi là ưu.
“Âm yên tức là Niết-bàn, tánh pháp của chư Phật. Vì thế nên gọi là yên.
“Âm huề là nghĩa Như Lai. Lại nữa, huề tức là trong mọi việc tới lui dừng nghỉ,
co lại duỗi ra, mọi cử động của Như Lai không gì là không lợi ích cho hết thảy
chúng sanh. Vì thế nên gọi là huề.
“Âm ô gọi là nghĩa phiền não. Phiền não gọi là các lậu. Như Lai đã vĩnh viễn đoạn
trừ hết thảy phiền não. Vì thế nên gọi là ô.
“Âm bào là nghĩa Đại thừa, là nghĩa rốt ráo trong mười bốn âm. Kinh điển Đại thừa
lại cũng như vậy, là rốt ráo trong các kinh luật. Vì thế nên gọi là bào.
“Âm am là có thể ngăn che hết thảy những vật bất tịnh, ở trong Phật pháp có thể
xả bỏ hết thảy vàng bạc, vật báu. Vì thế nên gọi là am.
“Âm a là nghĩa thừa vượt trội hơn hết. Vì sao vậy? Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn
này là vượt trội hơn hết trong các kinh. Vì thế nên gọi là a.
“Âm ca là khởi lòng đại từ bi đối với chúng sanh, xem như con ruột của mình,
như Phật đối với La-hầu-la, tạo nên ý nghĩa mầu nhiệm hiền thiện. Vì thế nên gọi
là ca.
“Âm khư gọi là chẳng phải bạn hiền. Chẳng phải bạn hiền gọi là dơ xấu, tạp nhạp,
chẳng tin vào tạng sâu kín của Như Lai. Vì thế nên gọi là khư.
“Âm già gọi là kho chứa. Kho chứa đó là tạng Như Lai sâu kín: Tất cả chúng sanh
đều có tánh Phật. Vì thế nên gọi là già.
“Âm kính là âm thanh thường còn của Như Lai. Cái gì gọi là âm thanh thường còn
của Như Lai? Đó là Như Lai thường trụ chẳng biến đổi. Vì thế nên gọi là kính.
“Âm nga là tướng hư hoại của tất cả các hành. Vì thế nên gọi là nga.
“Âm già tức là nghĩa tu sửa. Điều phục hết thảy chúng sanh nên gọi là nghĩa tu
sửa. Vì thế nên gọi là già.
“Âm xa là Như Lai che mát hết thảy chúng sanh, ví như cái lọng lớn. Vì thế nên
gọi là xa.
“Âm xà là giải thoát chân chánh, không có tướng già yếu. Vì thế nên gọi là xà.
“Âm thiện là phiền não bao che rậm rạp, ví như rừng rậm. Vì thế nên gọi là thiện.
“Âm nhã là nghĩa trí huệ, biết tánh pháp chân thật. Vì thế nên gọi là nhã.
“Âm trá là trong cõi Diêm-phù-đề thị hiện một nửa thân mà diễn thuyết pháp, ví
như một nửa mặt trăng. Vì thế nên gọi là trá.
“Âm thoa là pháp thân đầy đủ, ví như trăng tròn. Vì thế nên gọi là thoa.
“Âm trà, ấy là hạng tăng ngu si, chẳng biết những lẽ thường, vô thường, ví như
trẻ con. Vì thế nên gọi là trà.
“Âm tổ là chẳng biết ơn thầy, ví như con dê đực. Vì thế nên gọi là tổ.
“Âm noa là chẳng phải nghĩa thánh, ví như ngoại đạo. Vì thế nên gọi là noa.
“Âm đa là nghĩa Như Lai ở nơi đó bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Nên lìa sự kinh sợ,
ta sẽ vì các ông mà thuyết pháp vi diệu.’ Vì thế nên gọi là đa.
“Âm tha gọi là nghĩa ngu si. Chúng sanh lưu chuyển sanh tử, quay lộn như con tằm,
con bọ hung. Vì thế nên gọi là tha.
“Âm đà gọi là bố thí lớn, là nói Đại thừa. Vì thế nên gọi là đà.
“Âm đàn là xưng tán công đức, đó là nói Tam bảo, như núi Tu-di cao ngất, rộng lớn,
không thể nghiêng ngã. Vì thế nên gọi là đàn.
“Âm na là Tam bảo trụ yên, không nghiêng ngã lay động, ví như cái then cửa. Vì
thế nên gọi là na.
“Âm ba gọi là nghĩa điên đảo. Như nói rằng: ‘Tam bảo thảy đều diệt hết’, nên biết
rằng người này tự sanh nghi hoặc. Vì thế nên gọi là ba.
“Âm pha là tai ương của thế gian. Như nói rằng: ‘Lúc thế gian khởi tai ương,
Tam bảo cũng diệt mất.’ Nên biết rằng người này ngu si không trí huệ, trái nghịch
ý thánh. Vì thế nên gọi là pha.
“Âm bà gọi là Mười sức của Phật. Vì thế gọi là bà.
“Âm phạm gọi là gánh vác việc nặng nề, có thể nhận lãnh gánh vác Chánh pháp vô
thượng. Nên biết người này là Đại Bồ Tát. Vì thế nên gọi là phạm.
“Âm ma là sự tiết chế, điều độ nghiêm ngặt và cao cả của các vị Bồ Tát, đó là
nói Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì thế nên gọi là ma.
“Âm da là nghĩa các vị Bồ Tát bất kỳ ở đâu cũng vì chúng sanh giảng nói pháp Đại
thừa. Vì thế nên gọi là da.
“Âm ra là nghĩa có thể phá trừ tham dục, sân khuể, ngu si, giảng nói pháp chân
thật. Vì thế nên gọi là ra.
“Âm la gọi là Thanh văn thừa chuyển động chẳng dừng, còn Đại thừa trụ yên nên
không nghiêng ngã lay động. Lìa bỏ thừa Thanh văn, tinh cần tu tập Đại thừa vô
thượng. Vì thế nên gọi là la.
“Âm hòa là nghĩa Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh tuôn mưa pháp lớn, đó là nói các
loại chú thuật, kinh sách của thế gian. Vì thế nên gọi là hòa.
“Âm xa là nghĩa lìa xa ba mũi tên. Vì thế nên gọi là xa.
“Âm sa gọi là nghĩa đầy đủ. Như ai nghe được kinh Đại Niết-bàn này, hẳn là đã
được nghe và thọ trì hết thảy kinh điển Đại thừa. Vì thế nên gọi là sa.
“Âm ta là nghĩa vì chúng sanh diễn thuyết Chánh pháp, khiến cho trong lòng vui
vẻ. Vì thế nên gọi là ta.
“Âm ha gọi là nghĩa trong lòng vui vẻ. Lạ thay, đức Thế Tôn lìa tất cả các
hành. Lạ thay! Như Lai nhập đại Niết-bàn! Vì thế nên gọi là ha.
“Âm trà gọi là nghĩa của ma. Vô số các ma không thể hủy hoại tạng Như Lai sâu
kín. Vì thế nên gọi là trà. Lại nữa, trà là nghĩa cho đến việc tùy thuận thế
gian, thị hiện có cha mẹ, vợ con. Vì thế nên gọi là trà.
“Về bốn chữ ‘lỗ, lưu, lư, lâu’ có bốn nghĩa: Phật, Pháp, Tăng và pháp đối đãi.
Nói pháp đối đãi tức là tùy thuận thế gian. Ví như Điều-bà-đạt thị hiện phá hoại
chúng tăng, hóa ra mọi thứ hình sắc tướng mạo [xấu ác] vì [để nhân đó Phật mới]
chế định giới luật. Người có trí huệ thông suốt chẳng nên sanh lòng sợ sệt đối
với việc ấy. Đó gọi là hạnh tùy thuận thế gian. Vì thế nên gọi là lỗ, lưu, lư,
lâu.
“[Khi người ta phát âm thì] không khí được đưa vào, lưỡi lại [chuyển động kết hợp]
với khoang mũi tạo thành âm thanh khác nhau có dài, có ngắn, tùy theo đó mà hiểu
nghĩa. Đều là do ở lưỡi và răng mà có sự khác biệt nhau. Nghĩa của chữ như thế
có thể làm cho khẩu nghiệp của chúng sanh trở nên trong sạch. Tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải như vậy, chẳng phải nhờ ở văn tự rồi sau mới trở nên
trong sạch. Vì sao vậy? Vì tánh vốn là trong sạch. Tuy ở trong các ấm, nhập, giới,
nhưng chẳng đồng với ấm, nhập, giới. Vì thế mà chúng sanh đều nên quy y nơi tự
tánh.
“Các vị Bồ Tát do nơi tánh Phật nên nhìn tất cả chúng sanh không có sự khác biệt
nhau. Do đó mà nửa chữ là căn bản của kinh thư, ký luận, văn chương. Lại nữa,
nghĩa của nửa chữ tức là căn bản của những lời thuyết dạy về phiền não. Vì thế
nên gọi là nửa chữ. Còn trọn chữ mới là căn bản của tất cả những lời thuyết dạy
về thiện pháp.
“Ví như ở thế gian, kẻ làm điều ác thì gọi là ‘chẳng nên người’, kẻ tu điều thiện
được gọi là ‘nên người’. Hết thảy kinh thư, ký luận như vậy đều là do nơi nửa
chữ là căn bản. Nếu nói rằng Như Lai và giải thoát chân chánh đều ở trong nửa
chữ thì thật vô lý. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi văn tự. Cho nên Như Lai đối với hết
thảy các pháp đều không ngăn ngại, không vướng mắc, thật được giải thoát.
“Sao gọi là hiểu rõ nghĩa của chữ? Có người biết rằng Như Lai xuất hiện ở thế
gian có thể trừ bỏ nửa chữ, nên gọi là hiểu rõ nghĩa chữ. Như có người chấp chặt
nơi nghĩa của nửa chữ, người này chẳng hiểu được tánh Như Lai.
“Sao gọi là nghĩa không có chữ? Người thân cận, tu tập các pháp chẳng lành, đó
gọi là không có chữ. Lại nữa, người không có chữ tuy thân cận và tu tập các
pháp lành nhưng không biết được Như Lai là thường còn hay không thường còn, lâu
dài hay chẳng lâu dài, cùng hai ngôi báu là Pháp và Tăng, đúng luật hay không
đúng luật, là kinh hay chẳng phải kinh, là ma thuyết hay Phật thuyết. Nếu không
thể phân biệt như vậy thì gọi là chạy theo nghĩa không có chữ. Nay ta đã thuyết
xong việc chạy theo nghĩa không có chữ.
“Thiện nam tử! Vậy các ông nên lìa khỏi nửa chữ, khéo hiểu được trọn chữ.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con thật nên học rành số chữ.
Nay chúng con đã được gặp bậc thầy vô thượng, được đức Như Lai ân cần khuyên dạy.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Kẻ hâm mộ Chánh pháp nên học hỏi
như vậy.”
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Có hai loài chim, một loài tên
ca-lân-đề, một loài tên uyên ương, dù khi bay đi hay ngừng đậu đều theo cùng với
nhau, chẳng lìa được nhau. Những pháp: khổ, vô thường, vô ngã lại cũng như vậy,
chẳng lìa được nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao những pháp khổ, vô thường, vô ngã
này lại giống như chim uyên ương và chim ca-lân-đề kia?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những pháp khổ, vui khác nhau; có những pháp là thường,
vô thường khác nhau; có những pháp khác là ngã, vô ngã khác nhau.
“Cũng ví như hạt nếp khác với hạt mè, hạt mè lại khác với hạt đậu, hạt lúa và
cây mía... Các loại ấy, từ phôi mầm cho đến lá hoa đều là vô thường. Đến khi hạt
trái khô chín, dùng được mới gọi là thường. Vì sao vậy? Vì là tánh thật.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu những vật ấy là thường thì đồng với Như
Lai hay sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nói ra lời ấy. Vì sao vậy? Như nói
[ví dụ rằng] đức Như Lai [lớn lao] như núi Tu-di, nhưng có lẽ nào đến lúc kiếp
hoại núi Tu-di sụp đổ, Như Lai lại cũng hư hoại như vậy sao?
“Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nhận giữ ý nghĩa như vậy. Thiện nam tử! Trong
tất cả các pháp, chỉ trừ tánh Phật và Niết-bàn, ngoài ra không một pháp nào là
thường cả. Chỉ vì thuận theo lẽ thế gian nên mới nói hạt trái là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Lành thay, lành thay! Đúng như lời Phật dạy.”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy! Thiện nam tử! Tuy là tu tập hết thảy các
phép định trong Khế kinh mà chưa nghe được kinh Đại Bát Niết-bàn, đều nói rằng
hết thảy là vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có phiền não cũng như không phiền
não, liền có thể làm lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết thân
mình vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cây am-la, khi vừa trổ hoa gọi là tướng vô thường.
Đến khi có hạt trái, được nhiều lợi ích, mới gọi là thường. Như vậy đó, thiện
nam tử! Tuy là tu tập hết thảy các phép định trong Khế kinh nhưng lúc chưa nghe
kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy là vô thường. Nghe kinh này rồi thì
dù có phiền não cũng như không phiền não, liền có thể làm lợi ích cho hết thảy
trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như chất khoáng vàng, khi nung chảy ra gọi là tướng
vô thường. Nung chảy xong đã [tinh luyện] thành vàng ròng, được nhiều lợi ích,
mới gọi là thường. Như vậy đó, thiện nam tử! Tuy là tu tập hết thảy các phép định
trong Khế kinh, nhưng lúc chưa nghe kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy
là vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có phiền não cũng như không phiền não,
liền có thể làm lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn
có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như những hạt mè khi chưa mang đi ép gọi là vô thường.
Khi ép xong thành dầu mè, được nhiều lợi ích, mới gọi là thường. Như vậy đó,
thiện nam tử! Tuy là tu tập hết thảy các phép định trong Khế kinh, nhưng lúc
chưa nghe kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy là vô thường. Nghe kinh
này rồi thì dù có phiền não cũng như không phiền não, liền có thể làm lợi ích
cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn có tánh Phật. Đây mới
gọi là thường.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như các dòng sông đều chảy về nơi biển. Hết thảy các
phép định Tam-muội trong Khế kinh đều quy về kinh Đại thừa Đại Niết-bàn. Vì sao
vậy? Vì rốt ráo khéo dạy rằng có tánh Phật.
“Thiện nam tử! Vì vậy nên ta nói rằng: Có những pháp là thường, vô thường khác
nhau, cho đến [ngã], vô ngã cũng là như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Lai đã lìa xa mũi tên độc là sự lo nghĩ
thương tưởng.
“Lo nghĩ thương tưởng gọi là chư thiên; Như Lai chẳng phải hàng chư thiên. Có
lo nghĩ thương tưởng gọi là người; Như Lai chẳng phải là người. Lo nghĩ thương
tưởng gọi là hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Như Lai chẳng phải [thuộc về] hai
mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Vì vậy Như Lai không có lo nghĩ thương tưởng. Vì
sao [con từng nghe Phật] nói rằng Như Lai có lo nghĩ thương tưởng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! [Ví như] cõi trời Vô tưởng gọi là không có sự nghĩ tưởng.
Nếu không có sự nghĩ tưởng, ắt là không có thọ mạng. Nếu không có thọ mạng, làm
sao có ấm, giới, nhập? Vì nghĩa ấy nên mạng sống ở cõi trời Vô tưởng không thể
nói là có chỗ xác định.
“Thiện nam tử! Ví như vị thần cây, nương theo cây mà ở. Người ta không thể nói
nhất định rằng vị ấy nương theo cành cây, lóng cây, thân cây hoặc lá cây. Tuy
không có chỗ xác định, nhưng không thể nói là không có. Mạng sống ở cõi trời Vô
tưởng cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Pháp Phật cũng như thế, rất sâu xa khó hiểu. Như Lai thật không
có sự lo buồn, khổ não, nhưng đối với chúng sanh khởi lòng đại từ bi, thị hiện
có lo nghĩ thương tưởng, xem tất cả chúng sanh như La-hầu-la, [như đứa con duy
nhất của ngài.]
“Lại nữa, thiện nam tử! Mạng sống ở cõi trời Vô tưởng chỉ riêng Phật mới có thể
biết rõ mà thôi, ngoài ra không ai biết được. Cho đến ở cõi Phi tưởng phi phi
tưởng cũng vậy.
“Ca-diếp! Tánh Như Lai là thanh tịnh, không nhiễm ô, như thân biến hóa, sao lại
có sự lo buồn, khổ não ở nơi nào? Nhưng nếu nói rằng Như Lai không có sự lo
nghĩ thương tưởng, làm sao Ngài có thể làm lợi ích hết thảy chúng sanh, rộng
truyền pháp Phật? Nếu nói là không có [sự lo nghĩ thương tưởng], sao có thể nói
rằng Như Lai xem tất cả chúng sanh đồng như La-hầu-la? Nếu [nói Như Lai] không
xem chúng sanh đồng như La-hầu-la thì đó ắt là lời nói dối trá.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên Phật không thể nghĩ bàn, Pháp cũng không thể
nghĩ bàn; tánh Phật của chúng sanh không thể nghĩ bàn, mạng sống ở cõi trời Vô
tưởng cũng không thể nghĩ bàn. Như Lai có lo nghĩ hay không lo nghĩ, đó là cảnh
giới của Phật, không phải chỗ hàng Thanh văn, Duyên giác có thể biết được.
“Thiện nam tử! Ví như ở giữa không trung thì nhà cửa, bụi đất không thể đứng vững,
nhưng nếu nói rằng nhà cửa không nương nơi hư không mà trụ thì thật vô lý. Vì
nghĩa ấy, không thể nói rằng nhà cửa trụ nơi hư không hoặc chẳng trụ nơi hư
không. Những kẻ phàm phu tuy nói rằng nhà cửa trụ nơi hư không, nhưng hư không ấy
thật không có chỗ trụ. Vì sao vậy? Vì tánh [thật vốn] là không trụ.
“Thiện nam tử! Cái tâm cũng thế, không thể nói rằng có trụ nơi ấm, giới, nhập
hoặc là không trụ. Mạng sống ở cõi trời Vô tưởng cũng là như vậy, sự lo nghĩ
thương tưởng của Như Lai cũng là như vậy. Nếu không có lo nghĩ thương tưởng,
sao lại nói rằng xem tất cả chúng sanh đồng như La-hầu-la? Còn nếu nói rằng có,
sao có thể nói rằng tánh [Như Lai] đồng với hư không?
“Thiện nam tử! Ví như một ảo thuật gia, dùng phép hóa ra mọi thứ cung điện, các
việc như giết hại, nuôi dưỡng, trói buộc, buông thả, cùng là hóa ra vàng, bạc,
lưu ly, vật báu, rừng rậm, cây cối... thảy đều không có tánh thật. Như Lai cũng
thế, tùy thuận thế gian mà thị hiện sự lo nghĩ thương tưởng, nhưng [đều là]
không thật có.
“Thiện nam tử! Như Lai đã vào Đại Niết-bàn, làm sao lại có sự lo buồn, khổ não?
Nếu [ai] cho rằng Như Lai vào Niết-bàn là vô thường, nên biết rằng người ấy ắt
có sự lo buồn. Nếu [ai] nói rằng Như Lai chẳng vào Niết-bàn, thường trụ không
biến đổi, nên biết rằng người ấy không có sự lo buồn. Như Lai có lo buồn hay
không, thật không ai có thể biết được.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người hạ lưu chỉ có thể biết việc hạ lưu, không
biết được việc của hàng trung lưu, thượng lưu. Người trung lưu biết việc trung
lưu, chẳng biết được việc của hàng thượng lưu. Còn người thượng lưu chẳng những
biết việc thượng lưu, lại còn biết luôn các việc của hàng trung lưu và hạ lưu.
“Những người trong hàng Thanh văn, Duyên giác cũng vậy, đều chỉ hiểu biết trong
phạm vi của mình mà thôi. Như Lai không phải thế, ngài biết được cả phạm vi của
mình và phạm vi của mọi người khác. Cho nên Như Lai gọi là trí huệ không ngăn
ngại, tùy thuận thế gian mà thị hiện mọi sự ảo hóa. Phàm phu mắt thịt cho [sự ảo
hóa] đó là chân thật nhưng lại muốn biết được hết trí vô ngại vô thượng của Như
Lai, việc ấy thật vô lý. Có lo buồn hay không, chỉ riêng Phật có thể biết mà
thôi. Bởi nhân duyên này, [ta nói] có những pháp hữu ngã, vô ngã khác nhau. Vì
thế nói là như tánh của chim uyên ương và chim ca-lân-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Phật pháp ví như [đôi] chim uyên ương cùng đi với nhau.
Chim ca-lân-đề và chim uyên ương, vào giữa mùa hạ, lúc nước dâng lên thì chọn
vùng đất cao mà đặt chim con để tiện việc nuôi dưỡng. Sau đó mới trở lại chốn
cũ mà yên ổn dạo chơi. Như Lai xuất hiện ở đời cũng vậy, giáo hóa vô lượng
chúng sanh, làm cho trụ nơi Chánh pháp. Cũng như chim uyên ương và ca-lân-đề
kia chọn vùng đất cao mà đặt chim con, Như Lai cũng vậy, khiến cho chúng sanh
làm xong công việc của họ rồi, ngài mới nhập Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Đây gọi là có những pháp khổ, vui khác nhau. Các hành đều là khổ,
Niết-bàn là vui, nhiệm mầu bậc nhất vì đã phá trừ hết thảy các hành.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao chúng sanh được Niết-bàn gọi là vui
nhất?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như ta có dạy, các hành hòa hợp gọi là già chết.
Cẩn thận không phóng dật,
Chính là thuốc trường sanh.
Phóng dật, không cẩn thận,
Là đi vào cõi chết.
Nếu ai không phóng dật,
Sẽ đạt sự bất tử,
Những ai thường phóng dật,
Luôn đi theo đường chết.
“Nếu người phóng dật thì gọi là pháp hữu vi; pháp hữu vi đó là khổ bậc nhất. Nếu
người không phóng dật thì gọi là Niết-bàn, Niết-bàn ấy gọi là cam lộ, an vui bậc
nhất. Nếu chạy theo các hành thì gọi là chỗ chết, chịu khổ bậc nhất. Nếu đạt tới
Niết-bàn thì gọi là bất tử, thọ hưởng sự an vui mầu nhiệm bậc nhất. Nếu không
phóng dật, tuy có gồm tụ các hành cũng gọi là thường, vui, bất tử, thân không bị
phá hoại. Thế nào là phóng dật? Thế nào là không phóng dật? Những kẻ phàm phu
chưa chứng thánh gọi là phóng dật, là pháp thường [chịu sự già] chết. Thánh
nhân xuất thế là không phóng dật, không có sự già chết. Vì sao vậy? Vì vào cảnh
Niết-bàn thường tồn, an vui bậc nhất. Vì nghĩa ấy nên có những pháp khổ, vui
khác nhau; có những pháp ngã, vô ngã khác nhau.
“Ví như người đứng ở mặt đất ngước nhìn trên không, chẳng thấy dấu chân chim.
Thiện nam tử! Chúng sanh cũng thế, [vì] không có thiên nhãn [nên] ở trong phiền
não không tự thấy có tánh Như Lai. Cho nên ta mới chỉ dạy lẽ vô ngã sâu kín. Vì
sao vậy? Những kẻ không có thiên nhãn chẳng biết được cái ngã chân thật, nên cố
chấp sai lầm là có ngã. Do nơi các phiền não tạo ra những việc hữu vi, tức là
vô thường. Cho nên ta nói rằng có những pháp thường, vô thường khác nhau.
Bậc tinh cần dũng mãnh,
Khi ở tại đỉnh núi,
Đất bằng hay đồng hoang,
Thường thấy hàng phàm phu.
Lên điện trí huệ lớn,
Đài vô thượng vi diệu,
Tự dứt trừ buồn khổ,
Còn thấy chúng sanh khổ.
“Như Lai đã dứt hết vô lượng phiền não, vững vàng trên núi trí huệ, nhìn thấy
chúng sanh thường ở trong vô lượng phiền não.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Thế Tôn! Như bài kệ Phật vừa thuyết dạy đó,
nghĩa lý không hợp. Vì sao vậy? Vào Niết-bàn rồi thì không có lo buồn, không có
vui vẻ. Làm sao lại lên điện đài trí huệ? Làm sao lại vững vàng trên đỉnh núi
mà nhìn thấy chúng sanh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Điện trí huệ đó tức là Niết-bàn. Người không lo buồn ấy
là Như Lai. Người có lo buồn gọi là phàm phu. Vì phàm phu có lo buồn nên Như
Lai không lo buồn. Đỉnh núi Tu-di là nói giải thoát chân chánh. Người chuyên cần
tinh tấn ví như núi Tu-di không hề động chuyển. Mặt đất là hạnh hữu vi. Những
người phàm phu ở yên trên đất ấy mà tạo tác các hành. Người trí huệ gọi là
Chánh giác, lìa khỏi chấp hữu, thường trụ nên gọi là Như Lai. Như Lai thương
xót vô lượng chúng sanh thường bị trúng tên độc chấp hữu, cho nên nói là Như
Lai có sự lo nghĩ thương tưởng.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu nói Như Lai có sự lo nghĩ thương tưởng
thì không thể xưng là bậc Chánh giác!”
Phật dạy: “Ca-diếp! Đó đều là có nhân duyên, tùy nơi nào chúng sanh muốn được
giáo hóa, Như Lai thị hiện thọ sanh nơi đó. Tuy thị hiện thọ sanh, nhưng thật
không có sanh. Vì vậy Như Lai gọi là pháp thường trụ, như các loài chim
ca-lân-đề, uyên ương.
QUYỂN 9 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần sáu
Phật dạy: “Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có những người thấy
mặt trăng không hiện ra đều nói rằng trăng lặn, liền sanh ý tưởng rằng trăng đã
lặn mất. Nhưng tánh của mặt trăng ấy thật không có lặn mất. Khi chuyển hiện ra ở
nơi khác, chúng sanh nơi đó lại bảo rằng trăng mọc. Nhưng tánh của mặt trăng ấy
thật không có mọc lên. Vì sao vậy? Vì núi Tu-di che khuất, nên chẳng hiện ra. Mặt
trăng ấy thường có, tánh nó không có mọc lên hay lặn mất.
“Đức Như Lai, Ứng, Chánh biến tri cũng vậy, xuất hiện trong cõi Tam thiên Đại
thiên thế giới này; hoặc ở Diêm-phù-đề thị hiện có cha mẹ, chúng sanh đều bảo rằng
Như Lai sanh trong cõi Diêm-phù-đề. Hoặc ở Diêm-phù-đề thị hiện Niết-bàn, tánh
Như Lai ấy thật không có Niết-bàn, nhưng chúng sanh đều nói rằng Như Lai thật
có vào Đại Niết-bàn, ví như mặt trăng lặn mất.
“Thiện nam tử! Tánh Như Lai thật không có sanh diệt. Vì giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện sanh diệt.
“Thiện nam tử! Ví như mặt trăng tròn ở đây, nơi khác thấy là khuyết; mặt trăng
khuyết ở đây, nơi khác thấy là tròn. Người ở Diêm-phù-đề khi thấy trăng non đều
nói là ngày mồng một, liền sanh ý tưởng rằng trăng non. Khi thấy trăng tròn đều
nói là ngày rằm, liền sanh ý tưởng rằng trăng tròn đầy. Nhưng tánh của trăng ấy
thật không có tròn khuyết. Do núi Tu-di nên có sự tròn, khuyết.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, ở Diêm-phù-đề thị hiện vừa sanh ra, hoặc thị
hiện Niết-bàn. Lúc thị hiện mới sanh, ví như trăng non, ai nấy đều bảo đó là đồng
tử mới sanh. Ngài đi bảy bước, ví như mặt trăng đêm mồng hai. Rồi lại thị hiện
vào thư đường học tập, ví như mặt trăng đêm mồng ba. Thị hiện xuất gia, ví như
mặt trăng đêm mồng tám. Ngài phóng ánh sáng vi diệu của đại trí huệ, có thể phá
dẹp vô lượng chúng ma, ví như mặt trăng tròn đầy đêm rằm. Hoặc thị hiện ba mươi
hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân mình, rồi thị hiện Niết-bàn,
ví như nguyệt thực.
“Như vậy, chỗ thấy của chúng sanh chẳng đồng. Khi thấy trăng khuyết, khi thấy
trăng tròn, hoặc có khi thấy nguyệt thực. Nhưng tánh của mặt trăng ấy thật
không có tăng, giảm, không bị che khuất, vẫn luôn tròn đầy. Thân Như Lai cũng vậy,
cho nên gọi là thường trụ, không biến đổi.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như trăng tròn, hiện ra ở khắp mọi nơi, từ thành ấp,
làng xóm, núi non, đầm nước, giếng, ao hồ, bồn chậu... hết thảy đều có trăng hiện.
Có những chúng sanh đi được trăm do-tuần, trăm ngàn do-tuần, đều thấy mặt trăng
thường đi theo mình. Kẻ phàm phu ngu si sanh ra ý tưởng sai lầm, nói rằng: ‘Khi
ta còn ở nơi thành ấp nhà cửa, đã thấy mặt trăng ấy. Nay đến chỗ đồng hoang trống
vắng này cũng thấy. Đó là mặt trăng trước, hay là mặt trăng khác?’ Có những kẻ
nghĩ rằng mặt trăng có lớn, có nhỏ, hoặc như cái miệng chậu... Lại có kẻ khác
nói rằng: ‘Nó lớn bằng bánh xe.’ Hoặc nói rằng: ‘Nó rộng bốn mươi chín do-tuần.’
Ai nấy đều thấy mặt trăng chiếu sáng, hoặc có kẻ thấy nó tròn trịa như cái mâm
vàng. Tánh của mặt trăng ấy là duy nhất, nhưng chúng sanh mỗi người đều thấy tướng
trạng của nó khác nhau.
“Thiện nam tử! Như Lai xuất hiện ở thế gian cũng vậy. Hoặc có người hay chư
thiên nghĩ rằng: ‘Hiện nay, Như Lai ở trước mặt ta.’ Lại có những chúng sanh
khác cũng nghĩ tưởng rằng: ‘Hiện nay, Như Lai ở trước mặt ta.’ Hoặc có những kẻ
câm điếc thấy Như Lai cũng câm điếc như họ. Các loài chúng sanh khác nhau, tiếng
nói khác nhau, thảy đều bảo rằng Như Lai nói cùng thứ tiếng với họ, ai nấy cũng
đều nghĩ rằng: ‘Như Lai ở tại nhà tôi, thọ nhận sự cúng dường của tôi.’ Hoặc có
những chúng sanh thấy Như Lai thân tướng rộng lớn vô lượng. Lại có kẻ thấy Như
Lai hình tướng nhỏ bé. Hoặc có kẻ thấy Phật có hình tượng Thanh văn. Cũng có kẻ
thấy Phật mang hình tượng Duyên giác. Lại có những kẻ ngoại đạo nói rằng: ‘Hiện
nay Như Lai xuất gia học đạo ở trong pháp của chúng tôi.’ Hoặc có những chúng
sanh lại nghĩ rằng: “Hiện nay Như Lai chỉ riêng vì tôi mà xuất hiện ở thế.’
“Tánh thật của Như Lai ví như mặt trăng kia, tức là pháp thân, là thân không
sanh, là thân phương tiện, tùy thuận thế gian mà thị hiện vô số nhân duyên căn
bản của nghiệp... Ngài ở khắp mọi nơi thị hiện có sanh ra, như mặt trăng kia.
Vì nghĩa ấy cho nên Như Lai là thường trụ, không hề biến đổi.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như vị vua loài a-tu-la là La-hầu-la lấy tay che khuất
mặt trăng, người thế gian đều bảo đó là nguyệt thực. Vua a-tu-la ấy thật không
thể nuốt mất mặt trăng, chỉ che khuất ánh sáng thôi. Mặt trăng ấy vẫn tròn đầy
không hao khuyết, chỉ vì bàn tay của vua a-tu-la che khuất nên chẳng hiện ra. Nếu
bàn tay ấy rút đi, thế gian sẽ cho rằng mặt trăng lại sanh ra, đều nói rằng: ‘Mặt
trăng chịu nhiều khổ não.’ Nhưng dù cho trăm ngàn vị vua a-tu-la cũng không thể
làm cho mặt trăng khổ não!
“Như Lai cũng thế, ngài thị hiện có những chúng sanh đối với Như Lai sanh lòng
thô ác, làm thân Phật chảy máu, phát khởi Năm tội nghịch, cho đến thành kẻ nhất-xiển-đề.
Ngài vì các chúng sanh đời vị lai mà thị hiện những việc phá hoại Chúng tăng,
đoạn dứt Chánh pháp và gây ra những khó khăn chướng ngại... [Thật ra, dù] có
trăm ngàn vô lượng chúng ma cũng không thể làm cho thân Như Lai chảy máu. Vì
sao vậy? Vì thân Như Lai không có máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy. Như Lai là
chân thật, không thể quấy nhiễu, phá hoại. Chúng sanh đều cho rằng Pháp, Tăng bị
hủy hoại, Như Lai có diệt mất. Nhưng tánh Như Lai chân thật, không biến đổi,
không thể phá hoại. Vì tùy thuận thế gian nên thị hiện như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như hai người giao đấu tranh tài. Nếu dùng dao gậy
gây ra thương tích, làm chảy máu đối phương, tuy có làm chết người nhưng không
hề khởi ý tưởng giết hại. Hình thức tạo nghiệp như vậy là nhẹ chứ không phải nặng.
Người đối với Như Lai vốn không có tâm giết hại, tuy làm cho thân Phật chảy máu
thì nghiệp này cũng như trên, nhẹ chứ không nặng. Như Lai vì giáo hóa chúng
sanh đời vị lai nên thị hiện nghiệp báo như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có vị lương y cố sức dạy cho con những phương
thuốc căn bản, dạy rằng: ‘Đây là rễ cây thuốc, đây là thân cây thuốc, đây là
hoa cây thuốc... Con nên biết rành mọi thứ hình dáng.’ Người con kính vâng lời
cha truyền dạy, tinh cần học tập, hiểu rành các thứ thuốc. Về sau, vị lương y ấy
chết đi. Người con khóc kể và nói rằng: ‘Cha tôi từng dạy tôi: rễ thuốc như thế
này, thân cây thuốc như thế này, hoa cây thuốc như thế này, màu sắc hình dáng
như thế này.’
“Như Lai cũng thế, vì giáo hóa chúng sanh nên thị hiện chế định giới luật: ‘Nên
thọ trì như thế này, đừng phạm vào tội Ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp cùng là
nhất-xiển-đề.’ Vì đời vị lai nên khởi ra những việc ấy. Cho nên thị hiện để khiến
cho sau khi Phật nhập diệt, các vị tỳ-kheo đều biết như thế này: ‘Đây là Khế
kinh, nghĩa lý thâm sâu. Đây là giới luật, có các hình thức nặng nhẹ khác nhau;
đây là A-tì-đàm, phân biệt rõ ràng các pháp.’ Cũng như đứa con của vị lương y
kia.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như loài người xem mặt trăng, cứ sáu tháng có một lần
nguyệt thực. Nhưng trên cõi trời kia, chỉ trong một thời gian ngắn mà chư thiên
đã thấy nhiều lần nguyệt thực. Vì sao vậy? Vì ngày ở cõi trời ấy rất dài, còn
ngày ở cõi người thì ngắn.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, chư thiên thảy đều bảo rằng tuổi thọ của Như
Lai là ngắn. Cũng như chư thiên kia trong một thời gian ngắn đã thấy nhiều lần
nguyệt thực; Như Lai cũng thế, trong một thời gian ngắn đã thị hiện trăm ngàn vạn
ức lần Niết-bàn, dứt trừ ma phiền não, ma ấm, ma chết. Cho nên trăm ngàn vạn ức
thiên ma thảy đều biết rằng Như Lai vào Đại Niết-bàn. Lại còn thị hiện vô lượng
trăm ngàn nhân duyên nghiệp đời trước, tùy thuận mọi tánh của thế gian mà thị
hiện vô lượng vô biên như vậy, không thể nghĩ bàn. Cho nên Như Lai là thường trụ,
không biến đổi.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như mặt trăng sáng, chúng sanh đều muốn nhìn ngắm,
nên khen mặt trăng là đáng nhìn. Chúng sanh nếu có tham lam, sân khuể, ngu si,
thì chẳng được khen là đáng nhìn. Tánh Như Lai cũng như mặt trăng sáng ấy, thuần
thiện, trong sạch không nhơ bợn, nên rất đáng xưng là đáng nhìn. Những chúng
sanh hâm mộ Chánh pháp đều ngắm nhìn ngài không chán, những kẻ ác tâm chẳng
thích ngẩng mặt nhìn ngài. Vì nghĩa ấy cho nên nói rằng: ‘Như Lai ví như trăng
sáng.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như khi mặt trời xuất hiện, có ba mùa khác nhau: mùa
xuân, mùa hạ, mùa đông. Ngày mùa đông ngắn, ngày mùa xuân vừa phải, ngày mùa hạ
rất dài. Như Lai cũng thế, ở trong cõi Tam thiên đại thiên này, vì những người
có đời sống ngắn ngủi và các vị Thanh văn nên thị hiện đời sống ngắn ngủi. Những
người này thấy vậy đều nói rằng đời sống của Phật rất ngắn, ví như ngày mùa
đông. Phật lại vì chư Bồ Tát mà thị hiện đời sống vừa phải, như trọn một kiếp
hoặc một kiếp giảm, ví như ngày mùa xuân. Duy chỉ có [chư] Phật nhìn thấy Phật
có đời sống vô lượng, ví như ngày mùa hạ.
“Thiện nam tử! Giáo lý sâu kín mầu nhiệm của kinh phương đẳng Đại thừa do Như
Lai thuyết giảng, thị hiện nơi thế gian để đổ trận mưa pháp lớn. Trong tương
lai, nếu có những người có thể thọ trì kinh điển này, mở bày chỉ bảo, phân biệt
làm lợi ích chúng sanh, nên biết rằng những người ấy thật là Bồ Tát, ví như
đang mùa hạ nóng bức được cơn mưa mát mẻ! Nếu có hàng Thanh văn, Duyên giác
nghe được giáo pháp sâu kín mầu nhiệm của Phật Như Lai, ví như trong ngày mùa
đông phải chịu nhiều khổ nạn buốt giá. Hàng Bồ Tát nếu nghe được lời dạy bảo
sâu kín mầu nhiệm như thế này: ‘Như Lai là thường trụ, tánh không biến đổi, ví
như ngày xuân cây cối đâm chồi nảy lộc. Nhưng tánh Như Lai vốn không dài ngắn,
chỉ vì thế gian nên thị hiện như vậy, đó là tánh pháp chân thật của chư Phật.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như các ngôi sao, ban ngày chẳng hiện ra. Người ta đều
cho rằng ban ngày sao lặn mất. Kỳ thật, sao ấy không có lặn mất. Sở dĩ không hiện
ra là vì mặt trời chói sáng. Như Lai cũng thế, Thanh văn, Duyên giác không thể
nhìn thấy được, cũng như người đời không nhìn thấy được các ngôi sao ban ngày.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như đang khi trời u ám, mặt trời, mặt trăng không hiện
ra. Người ngu bảo rằng: ‘Mặt trời, mặt trăng đã mất.’ Nhưng mặt trời, mặt trăng
thật không mất! Vào lúc Chánh pháp Như Lai diệt mất, Tam bảo cũng hiện ra tướng
lặn khuất như vậy, thật không phải diệt mất hẳn. Vậy nên biết rằng Như Lai là
thường trụ, không có biến đổi. Vì sao vậy? Vì tánh chân thật của Tam bảo chẳng
bị những điều nhơ xấu làm nhiễm ô.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vào tuần trăng tối, sao chổi hiện ra lúc ban
đêm, ánh sáng chói lòa, trong chốc lát rồi lặn mất. Chúng sanh thấy vậy rồi
sanh ra ý tưởng cho là điềm chẳng lành. Các vị Phật Bích-chi lại cũng như vậy,
ra đời vào lúc không có Phật. Chúng sanh thấy vậy rồi, thảy đều cho rằng Như
Lai hẳn thật diệt độ, nên sanh lòng lo buồn. Nhưng thân Như Lai thật không có
diệt mất, cũng như mặt trời và mặt trăng kia không hề lặn mất.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như khi mặt trời hiện, sương mù đều tan mất. Kinh điển
vi diệu Đại Niết-bàn này lại cũng như vậy, hiện ra mạnh mẽ trong đời. Nếu như
có chúng sanh nào tai nghe qua kinh này một lần, liền có thể diệt trừ được tất
cả nghiệp ác vô gián. Cảnh giới rất thâm sâu của Đại Niết-bàn này không thể
nghĩ bàn, khéo giảng bày tánh nhiệm mầu sâu kín của Như Lai.
“Vì nghĩa ấy, các thiện nam tử, thiện nữ nhân nên đối với Như Lai sanh tâm thường
trụ, không biến đổi, Chánh pháp không dứt mất, Tăng bảo chẳng hề tiêu diệt. Vậy
nên phải tu nhiều phương tiện, siêng học kinh điển này. Người như vậy không lâu
sẽ thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Vì vậy nên kinh này gọi là chỗ thành tựu của vô lượng công đức, cũng gọi là Bồ-đề
không thể cùng tận. Vì không cùng tận, nên mới xưng là Đại Bát Niết-bàn. Bởi có
ánh sáng lành, nên ví như ngày mùa hạ, và bởi thân không hạn lượng nên gọi là Đại
Niết-bàn.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng là hơn hết, tất cả
các loại ánh sáng khác đều không sánh được; hào quang của kinh Đại Niết-bàn lại
cũng như vậy, vượt trội hơn hết so với hào quang Tam-muội của các Khế kinh, tất
cả đều không sánh được. Vì sao vậy? Vì hào quang của kinh Đại Niết-bàn có thể
vào trong các lỗ chân lông của chúng sanh. Dù chúng sanh chẳng có tâm Bồ-đề,
nhưng có thể vì họ mà tạo ra nhân duyên Bồ-đề. Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật nói rằng hào quang của kinh Đại Niết-bàn
vào tất cả những lỗ chân lông của chúng sanh, dù họ chẳng có tâm Bồ-đề cũng có
thể vì họ tạo ra nhân Bồ-đề. Nghĩa ấy chẳng đúng! Vì sao vậy? Thế Tôn! Những kẻ
phạm Bốn giới cấm nặng, những người làm Năm tội nghịch, những kẻ nhất-xiển-đề,
nếu hào quang vào trong thân họ tạo ra được nhân Bồ-đề, thì những hạng người
như vậy so với những người giữ gìn giới hạnh trong sạch, tu tập các điều lành
có khác gì nhau? Nếu chẳng khác nhau, vì sao Như Lai lại giảng nghĩa Bốn pháp
nương theo?
“Thế Tôn! Lại như Phật nói rằng: ‘Nếu có những chúng sanh, tai nghe qua kinh Đại
Niết-bàn một lần, ắt dứt trừ được các phiền não.’ Vì sao trước đó Như Lai dạy rằng:
‘Có người đã phát tâm ở trước chư Phật nhiều như cát sông Hằng, khi nghe kinh Đại
Niết-bàn cũng chẳng hiểu được nghĩa?’ Nếu chẳng hiểu nghĩa, làm sao dứt trừ được
tất cả phiền não?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề, ngoài ra những chúng
sanh khác khi nghe được kinh này rồi, thảy đều có thể tạo được nhân duyên Bồ-đề.
Tiếng giảng pháp phát ra hào quang, vào nơi lỗ chân lông rồi thì nhất định người
ấy sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Nếu ai có thể cúng dường
cung kính vô lượng chư Phật, mới được nghe kinh Đại Niết-bàn. Những kẻ bạc phước
ắt chẳng được nghe. Vì sao vậy? Người có phước đức lớn mới có thể được nghe việc
lớn như thế này. Kẻ tiểu nhân hạ tiện ắt chẳng được nghe. Sao gọi là việc lớn?
Đó là tạng rất sâu kín của chư Phật, đó là tánh Phật. Vì nghĩa ấy, cho nên gọi
là việc lớn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao người chưa phát tâm Bồ-đề có thể tạo
nhân Bồ-đề?”
Phật dạy: “Như ai có nghe kinh Đại Niết-bàn này rồi nói rằng mình chẳng cần
phát tâm Bồ-đề, và phỉ báng Chánh pháp. Tức thời người ấy đến đêm nằm ngủ mộng
thấy hình tượng La-sát, trong lòng kinh sợ. La-sát nói với người ấy rằng: ‘Này
thiện nam tử! Nay nếu ông chẳng phát tâm Bồ-đề, tôi sẽ lấy mạng ông.’ Người ấy
hoảng sợ, khi tỉnh giấc liền phát tâm Bồ-đề. Người ấy sau khi mạng chung, nếu ở
trong Ba đường dữ cũng như ở các cõi trời, người, vẫn tiếp tục nhớ tưởng tâm Bồ-đề.
Nên biết rằng đó là bậc Đại Bồ Tát ma-ha-tát. Vì nghĩa ấy, sức oai thần của
kinh Đại Niết-bàn này có thể khiến người chưa phát tâm Bồ-đề tạo nên nhân Bồ-đề.
“Thiện nam tử! Đó gọi là nhân duyên phát tâm của Bồ Tát, chẳng phải không có
nhân duyên. Vì nghĩa ấy, kinh điển Đại thừa mầu nhiệm này quả thật là do Phật
thuyết dạy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như giữa hư không, khi kéo mây mưa lớn thì nước mưa
trút xuống mặt đất. Trên những cây khô, núi đá, gò nổng, cao nguyên... nước chẳng
đọng lại mà chảy dồn xuống nơi ruộng vườn, ao hồ, làm cho đầy tràn, lợi ích vô
lượng chúng sanh. Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng như vậy đó, tưới trận
mưa pháp lớn, thấm nhuần khắp chúng sanh.
“Nhưng kẻ nhất-xiển-đề mà phát tâm Bồ-đề là việc không thể có! Lại nữa, thiện
nam tử! Ví như hạt giống đã hư hỏng, dù gặp mưa xuống cho đến trăm, ngàn, vạn
kiếp cũng không thể nảy mầm. Nếu mầm sanh ra được, đó là việc không thể có.
“Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, dù có được nghe kinh điển vi diệu Đại Bát Niết-bàn
này, cũng không hề nảy sanh cái mầm tâm Bồ-đề. Nếu họ nảy sanh ra được, đó là
việc không thể có! Vì sao vậy? Những người ấy đã dứt mất hết thảy căn lành, như
hạt giống đã hư hỏng, không thể nảy sanh những mầm rễ là tâm Bồ-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như hạt minh châu đặt vào chỗ nước đục. Nhờ công
năng của hạt châu, nước liền lắng trong. Nhưng nếu ném xuống chỗ bùn lầy, hạt
châu cũng không thể làm cho bùn lầy trở nên trong sạch. Kinh điển vi diệu Đại
Niết-bàn này cũng vậy, đối với những chúng sanh phạm Năm tội vô gián cùng Bốn
giới cấm nặng, cũng như nước đục, còn có thể lắng trong, [khiến họ] phát tâm Bồ-đề.
Nhưng đối với bùn lầy như những kẻ nhất-xiển-đề, dù cho đến trăm ngàn vạn năm
cũng không thể làm cho trong sạch, phát tâm Bồ-đề. Vì sao vậy? Những kẻ nhất-xiển-đề
này đã dứt hết căn lành, không thể đón nhận giáo pháp. Ví như họ được nghe kinh
Đại Niết-bàn này trong trăm ngàn vạn năm, rốt cùng cũng không thể phát tâm Bồ-đề.
Vì sao vậy? Vì chẳng có tâm lành.
“Thiện nam tử! Ví như có loại cây thuốc gọi là cây thuốc chúa, vượt trội hơn hết
trong tất cả các loại thuốc. Nếu đem hòa với kem sữa, hoặc với mật, với bơ, với
nước, với sữa, làm thành thuốc tán, thuốc hoàn, rồi bôi những chỗ ghẻ, xông mình,
thoa mắt... khi nhìn thấy hoặc ngửi mùi [thuốc ấy] đều có thể trừ được hết thảy
bệnh tật của chúng sanh. Nhưng cây thuốc ấy chẳng hề nghĩ rằng: ‘Tất cả chúng
sanh, như ai muốn lấy rễ của ta thì chẳng nên lấy lá, như lấy lá thì đừng lấy rễ.
Như ai lấy thân ta thì chẳng nên lấy vỏ, như lấy vỏ thì đừng lấy thân.’ Tuy cây
ấy chẳng khởi ý nghĩ như vậy, nhưng nó có thể trừ diệt tất cả bệnh khổ.
“Thiện nam tử! Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể dứt trừ tất
cả nghiệp ác của chúng sanh, như bốn tội ba-la-di, năm tội vô gián, mọi điều ác
của người ta, dù là ở trong hay ở ngoài. Những ai chưa phát tâm Bồ-đề, nhân đây
liền phát tâm. Vì sao vậy? Vì kinh điển vi diệu này là vua trong các kinh, cũng
như cây thuốc kia là vua trong các cây thuốc. Dù ai có tu tập kinh Đại Niết-bàn
này hay là chẳng tu, nhưng nếu nghe được danh hiệu của kinh này rồi đem lòng
kính tin, thì người ấy dù có bao nhiêu phiền não trọng bệnh cũng đều trừ hết.
Chỉ là không thể làm cho những kẻ nhất-xiển-đề ở yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Ví như món thuốc hay kia, dù trị được mọi thứ bệnh nặng, nhưng không
thể chữa trị cho những kẻ nhất định phải chết.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người có ghẻ nơi bàn tay, cầm nắm thuốc độc, chất
độc liền theo chỗ ghẻ mà vào trong người. Nếu không có ghẻ thì chất độc chẳng
thể vào. Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, họ không có nhân Bồ-đề, cũng như người
không có ghẻ, chất độc không vào được. Ghẻ đó là ví cho nhân duyên Bồ-đề vô thượng.
Chất độc đó là ví cho thuốc hay bậc nhất. Người không có ghẻ đó là ví cho kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như kim cang, không gì có thể phá hoại nó được,
nhưng nó lại có thể phá hoại tất cả mọi vật, chỉ trừ ra mu rùa và sừng dê trắng.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể đặt yên vô lượng chúng sanh
nơi đạo Bồ-đề, duy không thể khiến cho kẻ nhất-xiển-đề tạo lập nhân Bồ-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như loài cỏ răng ngựa, cây ta-la-sí, cây ni-ca-la,
dù cho chặt đứt thân cây vẫn tiếp tục mọc lên như cũ, không phải như cây đa-la,
bị chặt rồi thì không mọc lại được. Chúng sanh cũng vậy, nếu được nghe kinh Đại
Niết-bàn, dù cho có phạm Bốn giới cấm nặng cùng Năm tội vô gián vẫn có thể phát
sanh nhân duyên Bồ-đề. Những kẻ nhất-xiển-đề không phải như vậy, dù có được
nghe kinh điển mầu nhiệm này cũng không thể phát sanh nhân duyên đạo Bồ-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cây khư-đà-la, cây trấn-đầu-ca, nếu bị chặt
ngang rồi chì chẳng mọc lên được nữa, cũng như những hạt giống đã bị hư hỏng.
Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, dù có được nghe kinh Đại Niết-bàn này nhưng vẫn
không thể phát sanh nhân duyên Bồ-đề, như những hạt giống bị hư hỏng.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như mưa lớn, nước chẳng đọng lại giữa không trung.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, rưới cơn mưa pháp xuống khắp nơi,
nhưng nước mưa pháp ấy chẳng đọng lại được nơi kẻ nhất-xiển-đề. Kẻ nhất-xiển-đề
ấy toàn thể kín chặt, ví như kim cang không cho vật thể bên ngoài xen vào.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có thuyết kệ:
“Chẳng thấy thiện không làm,
Chỉ thấy ác nên làm,
Chỗ ấy là đáng sợ,
Như đường hiểm xấu ác.”
“Bạch Thế Tôn! Bài kệ đó có nghĩa thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chẳng thấy, đó là chẳng thấy tánh Phật. Thiện, tức là
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chẳng làm, nghĩa là không gần gũi bạn hiền. Chỉ
thấy, là thấy không có nhân quả. Ác, nghĩa là phỉ báng kinh điển phương đẳng Đại
thừa. Nên làm, là kẻ nhất-xiển-đề nói không có kinh Phương đẳng. Vì nghĩa ấy
cho nên kẻ nhất-xiển-đề không có lòng hướng về thiện pháp thanh tịnh. Thiện
pháp là gì? Đó là Niết-bàn. Người hướng đến Niết-bàn là người có thể tu tập các
hạnh hiền thiện. Nhưng kẻ nhất-xiển-đề không có hạnh hiền thiện. Vì vậy, kẻ ấy
không thể hướng đến Niết-bàn. Chỗ ấy là đáng sợ, đó là nói sự phỉ báng Chánh
pháp. Những ai nên sợ? Là những người có trí tuệ. Vì sao vậy? Vì kẻ phỉ báng
Chánh pháp thì không có thiện tâm và không có phương tiện. Đường hiểm xấu ác,
đó là nói các hành.”
Ca-diếp lại bạch Phật: “Như Phật có thuyết kệ:
“Sao biết việc đã làm?
Làm sao được pháp lành?
Ở đâu không sợ sệt,
Như đường lớn vua đi?”
“Ý nghĩa bài kệ này như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Biết việc đã làm, nghĩa là bày tỏ, phát lộ các điều
ác. Trải qua bao đời sanh tử đã làm các điều ác, nay bày tỏ phát lộ tất cả, cho
đến chỗ không cùng tận. Vì nghĩa ấy, ở chỗ ấy là không sợ sệt. Ví như một vị
vua, khi dạo chơi trên đường thì bọn trộm cướp ở đó đều chạy trốn hết. Phát lộ
như vậy thì các điều ác sẽ dứt tuyệt. Lại nữa, không biết việc đã làm là nói kẻ
nhất-xiển-đề đã làm mọi điều ác nhưng chẳng thấy việc họ đã làm. Đó là lòng
kiêu mạn của kẻ nhất-xiển-đề. Tuy họ làm nhiều việc ác, nhưng đối với những việc
ấy không hề sợ sệt. Vì lẽ ấy nên họ không thể chứng đắc Niết-bàn, ví như những
con khỉ bắt lấy mặt trăng dưới nước.
“Thiện nam tử! Ví như có vô lượng chúng sanh cùng lúc đạt được quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, các đức Như Lai cũng không thấy kẻ nhất-xiển-đề kia thành đạo
Bồ-đề. Vì nghĩa ấy, nên gọi là không biết việc đã làm. Lại nữa, không biết việc
của ai đã làm? Đó là không thấy biết những việc mà Phật đã làm. Phật vì chúng
sanh thuyết dạy có tánh Phật. Những kẻ nhất-xiển-đề lăn lộn trong vòng sanh tử,
không thể thấy biết. Vì nghĩa ấy nên gọi là chẳng thấy những việc mà Phật đã
làm.
Lại nữa, kẻ nhất-xiển-đề thấy Như Lai buông bỏ tất cả mà vào Niết-bàn, bèn cho
rằng đó thật là vô thường, như dầu hết thì đèn phải tắt. Vì sao vậy? Vì nghiệp
ác của kẻ ấy chẳng hề giảm bớt chút nào. Như có các vị Bồ Tát tạo những nghiệp
lành, hồi hướng về quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tuy những kẻ nhất-xiển-đề
chê bai, phá hoại, chẳng tin, nhưng các vị Bồ Tát vẫn bố thí cho họ, muốn họ
cùng được thành đạo vô thượng. Vì sao vậy? Vì pháp của chư Phật là như thế!
“Làm ác, chẳng thọ liền,
Như sữa thành ra kem.
Như tro che phủ lửa,
Kẻ ngu khinh dể đạp.”
“Nhất-xiển-đề, gọi là không có mắt, nên không thấy con đường của bậc A-la-hán;
như bậc A-la-hán thì chẳng đi theo đường sanh tử hiểm ác. Vì không có mắt nên
phỉ báng kinh Phương đẳng, chẳng muốn tu tập; như bậc A-la-hán thì chuyên cần
tu tập tâm từ. Những kẻ nhất-xiển-đề lại không tu tập kinh Phương đẳng như vậy.
“Như có người nói: ‘Nay tôi chẳng tin kinh điển Thanh văn, chỉ tin nhận Đại thừa,
đọc tụng, giảng nói, như vậy tôi chính là Bồ Tát. Tất cả chúng sanh đều có tánh
Phật. Vì có tánh Phật nên trong thân chúng sanh có đủ mười sức, ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp. Chỗ tôi thuyết dạy cũng chẳng khác gì Phật thuyết. Nay
ông và tôi cùng phá vô lượng phiền não độc dữ, ví như người ta đập bể cái bình
đựng nước. Phá xong các mối trói buộc ấy rồi tất sẽ được thấy A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Tuy kẻ ấy giảng nói như vậy, nhưng tự tâm lại chẳng tin rằng
mình có tánh Phật. Chỉ vì lợi dưỡng nên theo những gì được nghe mà nói lại thế
thôi. Kẻ giảng thuyết như vậy gọi là ác nhân. Nhưng kẻ ác ấy không thọ nhận quả
báo nhanh chóng, [mà cần có thời gian] như sữa biến thành kem.
“Ví như vị sứ giả của vua, có tài đàm luận, khéo léo về phương tiện, vâng lệnh
đến nước khác. Thà chịu mất mạng chứ không quên nói những điều vua đã căn dặn.
Người có trí tuệ cũng thế, ở giữa những người phàm phu, không tiếc thân mạng,
chỉ cốt tuyên thuyết cho được kinh Đại thừa Phương đẳng, tạng sâu kín của Như
Lai: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.’
“Thiện nam tử! Có những kẻ nhất-xiển-đề giả hình dạng như A-la-hán, ở nơi trống
trải vắng vẻ mà phỉ báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Những kẻ phàm phu thấy
vậy đều cho rằng họ thật là A-la-hán, là Đại Bồ Tát ma-ha-tát. Những tỳ-kheo xấu
nhất-xiển-đề ấy, ở nơi a-lan-nhã nhưng phá hoại pháp a-lan-nhã. Thấy người khác
được lợi, họ liền sanh lòng ganh ghét, nói rằng: ‘Những kinh điển Phương đẳng Đại
thừa thảy đều do thiên ma Ba-tuần thuyết dạy.’ Họ cũng nói rằng: ‘Như Lai là
pháp vô thường.’ Họ hủy diệt Chánh pháp, phá hoại Chúng tăng, lại nói rằng: ‘Đó
là thuyết của Ba-tuần, chẳng phải thuyết thuận theo điều lành.’ Họ tuyên thuyết
những pháp tà ác như vậy. Họ làm ác nhưng không chịu quả báo tức thì, [cần có
thời gian] cũng như sữa hóa thành kem; như đống lửa phủ tro kín, kẻ ngu [không
biết nên] khinh dể giẫm lên. Những kẻ như vậy, gọi là nhất-xiển-đề. Cho nên phải
biết rằng kinh điển vi diệu Phương đẳng Đại thừa chắc chắn thanh tịnh, ví như hạt
châu ma-ni, ném vào nước đục thì nước liền lắng trong. Kinh điển Đại thừa lại
cũng như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như hoa sen, khi ánh nắng soi chiếu thì nở ra. Tất cả
chúng sanh lại cũng như vậy, nếu được nghe thấy mặt trời Đại Niết-bàn, người
chưa phát tâm cũng sẽ phát tâm, tạo nhân Bồ-đề. Vì vậy nên ta nói rằng hào
quang của kinh Đại Niết-bàn vào nơi lỗ chân lông rồi ắt tạo thành nhân duyên mầu
nhiệm. Kẻ nhất-xiển-đề kia, dù có tánh Phật, nhưng bị vô số tội lỗi nhơ nhớp buộc
trói, không thể ra khỏi, ví như con tằm ở trong cái kén. Vì nghiệp duyên ấy
không thể phát sanh nhân Bồ-đề mầu nhiệm, phải xoay chuyển mãi trong vòng sanh
tử, không lúc nào dứt được!
“Lại nữa, thiện nam tử! Như những loại hoa sen ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu,
phân-đà-lỵ thảy đều từ nơi bùn lầy mà sanh ra, nhưng chẳng hề bị bùn lầy làm
nhiễm ô. Chúng sanh tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn lại cũng như vậy, tuy
có phiền não, nhưng rốt cùng chẳng bị phiền não nhiễm ô. Vì sao vậy? Vì biết được
tánh, tướng và lực của Như Lai.
“Thiện nam tử! Ví như ở xứ kia thường có nhiều luồng gió trong lành mát mẻ. Khi
gió ấy chạm đến lỗ chân lông của chúng sanh thì có thể trừ được mọi sự bứt rứt
nóng nảy. Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, vào khắp các lỗ chân
lông của chúng sanh, tạo ra nhân duyên vi diệu Bồ-đề, chỉ trừ đối với những kẻ
nhất-xiển-đề. Vì sao vậy? Vì họ chẳng phải là pháp khí.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có vị lương y hiểu rõ tám loại thuốc, trị được tất
cả các bệnh, chỉ trừ những kẻ nhất định phải chết. Các phép thiền định Tam-muội
trong tất cả khế kinh lại cũng như vậy, có thể trị tất cả các bệnh phiền não
như tham dục, sân hận, ngu si, có thể nhổ bật những mũi tên độc phiền não,
nhưng không trị được những kẻ phạm Bốn giới cấm nặng và Năm tội vô gián.
“Thiện nam tử! Lại ví như vị lương y thông thạo cách dùng tám loại thuốc, có thể
trừ mọi thứ bệnh khổ của chúng sanh, duy không thể trị cho kẻ nhất định phải chết.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể trừ diệt tất cả phiền não
của chúng sanh, khiến họ trụ yên nơi nhân mầu nhiệm thanh tịnh của Như Lai, khiến
những kẻ chưa phát tâm liền được phát tâm, duy trừ những kẻ nhất định phải chết
là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vị lương y có thể dùng thuốc hay mà trị các người
bệnh mù, khiến họ trông thấy được ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú và tất
cả hình sắc, chỉ không thể trị cho những kẻ mù bẩm sinh. Kinh điển Đại thừa Đại
Niết-bàn này cũng vậy, có thể khai mở mắt huệ cho người trong hàng Thanh văn,
Duyên giác, khiến họ trụ yên nơi kinh điển Đại thừa vô lượng vô biên; đối với
người chưa phát tâm, người phạm Bốn giới cấm nặng, Năm tội vô gián, đều có thể
khiến cho phát tâm Bồ-đề, duy trừ ra kẻ mù bẩm sinh là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vị lương y thông thạo tám cách dùng thuốc, muốn
trị tất cả bệnh khổ của chúng sanh, bèn dùng đủ mọi phương thuốc như thuốc gây
nôn, thuốc xổ, thuốc xoa, thuốc xông hơi, thuốc nhỏ vào mũi, thuốc tán, thuốc
hoàn. Như có người ngu không muốn uống thuốc, vị lương y đem lòng thương xót liền
đưa người ấy về nhà, ép phải uống thuốc. Nhờ sức thuốc nên bệnh được dứt. Như
có người đàn bà đang lúc sanh con nhưng đứa bé chẳng lọt lòng, liền cho uống
thuốc. Uống xong liền sanh con được, và đứa con cũng an ổn không bệnh. Kinh điển
Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, dù đến nơi nào, vào nhà nào cũng trừ được
vô lượng phiền não của chúng sanh. Đối với những kẻ chưa phát tâm, phạm Bốn giới
cấm nặng, Năm tội vô gián, đều có thể khiến cho phát tâm, chỉ trừ ra những kẻ
nhất-xiển-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Những kẻ phạm Bốn giới cấm nặng và Năm tội
vô gián, gọi là phạm những điều ác nặng nhất, như cây đa-la bị chặt đứt ngọn,
vĩnh viễn không mọc trở lại. Nếu những kẻ ấy chưa phát tâm Bồ-đề, làm sao có thể
khiến họ tạo nhân Bồ-đề?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những chúng sanh ấy, như trong giấc mộng thấy mình đọa
địa ngục, chịu các khổ não, liền sanh lòng hối hận: ‘Buồn thay cho chúng ta! Tự
mình chuốc lấy tội này! Nếu nay tôi được thoát khỏi tội này, nhất định sẽ phát
tâm Bồ-đề. Nay tự mắt tôi nhìn thấy, thật là nguy khổ quá mức!’ Sau khi tỉnh mộng,
những kẻ ấy liền biết Chánh pháp, được quả báo lớn.
“Như đứa trẻ kia, dần dần lớn lên thường suy nghĩ rằng: ‘Vị thầy thuốc ấy rất
hay, hiểu rõ các phương thuốc. Khi ta còn ở trong thai, ông ấy cho mẹ ta uống
thuốc. Nhờ thuốc ấy, mẹ ta được an ổn. Nhờ nhân duyên ấy ta được toàn mạng. Lạ
thay cho mẹ ta! Bà chịu khổ não lớn, mang ta trong thai trọn đủ mười tháng. Sau
khi sanh ta ra rồi, bà đặt ta ở chỗ khô, tự bà nằm chỗ ướt, dọn bỏ những chất đại
tiểu tiện dơ dáy của ta, cho ta bú mớm, nuôi dưỡng ta, chăm sóc ta. Vì lẽ ấy,
ta phải báo ân, hết lòng nuôi mẹ, hầu hạ đêm ngày, tùy thuận phụng dưỡng.’ Những
kẻ phạm Bốn giới cấm nặng và Năm tội vô gián, đến lúc lâm chung, nếu họ nhớ tới
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này, dù có phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ hay
sanh lên cõi trời, cõi người, kinh điển này đều sẽ tạo nhân Bồ-đề cho họ, chỉ
trừ bọn nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có vị lương y và người con của ông đều hiểu biết
sâu sắc, giỏi hơn các vị lương y khác, thông thạo chú thuật vô thượng trừ độc.
Như có rắn độc, rồng hay bò cạp, họ liền dùng chú thuật, niệm chú vào thuốc làm
cho chúng trở nên hiền lành. Nếu dùng thuốc ấy mà bôi lên giày da, khi giày ấy
chạm phải trùng độc thì chất độc tiêu tan, duy trừ một thứ độc gọi là nọc rồng
lớn. Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, như có chúng sanh phạm Bốn
giới cấm nặng, Năm tội vô gián, kinh này có thể tiêu diệt tội báo, khiến các
chúng sanh ấy trụ yên nơi Bồ-đề, cũng như thuốc bôi ở giày da làm tiêu các thứ
độc. Đối với những chúng sanh chưa phát tâm, kinh này liền khiến cho phát tâm
và trụ yên nơi đạo Bồ-đề. Món thuốc oai thần kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này có
thể diệt trừ các độc, khiến chúng sanh được an vui, chỉ không trừ được một thứ
độc nọc rồng lớn: đó là những kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có người kia, đem món thuốc độc còn mới, bôi lên
một cái trống lớn, rồi đánh trống ấy lên giữa đám đông người. Mọi người tuy vô
tình nghe tiếng trống ấy nhưng đều phải chết, chỉ trừ một người là không thể chết
đột ngột. Kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, bất kỳ ở nơi đâu, giữa các
chúng sanh, có ai nghe tiếng giảng kinh này thì các tham dục, sân khuể, ngu si
thảy đều tiêu diệt. Trong đó tuy có người vô tình mà nghĩ tưởng đến kinh Đại Niết-bàn
này, nhờ sức nhân duyên ấy vẫn có thể trừ diệt phiền não, làm cho các mối trói
buộc phải tự tan biến. Cho đến những kẻ phạm Bốn giới cấm nặng và Năm tội vô
gián, khi nghe kinh này rồi cũng tạo ra được nhân duyên Bồ-đề vô thượng, dần dần
sẽ dứt hết phiền não, chỉ trừ kẻ không thể chết đột ngột là hạng nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như đêm tối, tất cả mọi công việc thảy đều ngừng nghỉ.
Nếu công việc nào chưa xong, phải chờ đến trời sáng. Người học Đại thừa, tuy tu
tất cả pháp thiền định trong Khế kinh, nhưng phải chờ đợi mặt trời Đại thừa Đại
Niết-bàn, nghe giáo lý sâu kín của Như Lai, rồi mới có thể tạo nghiệp Bồ-đề, trụ
yên nơi Chánh pháp. Ví như trời mưa thấm nhuần và làm nảy nở tất cả các hạt giống
lớn lên kết thành trái ngọt, trừ dứt nạn đói, mọi người được no đủ, vui vẻ. Mưa
pháp vô lượng của tạng Như Lai sâu kín cũng vậy, có thể trừ được tám thứ bệnh
nhiệt. Kinh này ra đời, ví như trái cây kia, có nhiều lợi ích, làm cho tất cả
được an lạc, khiến chúng sanh thấy được tánh Phật, như trong hội Pháp hoa có
tám ngàn Thanh văn riêng được Phật thọ ký, sẽ được quả lớn.
“Ví như mùa thu thâu hoạch, mùa đông chứa trữ, rồi không còn công việc gì nữa cả.
Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, đối với các pháp lành họ chẳng có công việc gì
để làm nữa cả.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một vị lương y, nghe có con nhà kia bị loài phi
nhân bắt, bèn lấy thuốc hay rồi sai bảo một người rằng: ‘Ông mau đem thuốc này
cho người ấy. Nếu người ấy gặp các quỷ thần dữ, nhờ sức thuốc này chúng sẽ lánh
xa. Nếu ông chậm trễ, tôi sẽ tự đi, chớ nên để người ấy phải chết uổng mạng. Nếu
bệnh nhân ấy được thấy sứ giả và oai đức của tôi, thì liền dứt được khổ não, vui
vẻ an ổn.’ Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy. Nếu trong hàng tỳ-kheo,
tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng các ngoại đạo, có những người đủ sức thọ
trì kinh điển này, đọc tụng thông thạo, lại vì người khác phân biệt giảng rộng,
như tự mình sao chép hay nhờ người khác sao chép, thì những người ấy đều tạo ra
nhân duyên Bồ-đề. Như những kẻ phạm Bốn giới cấm, Năm tội nghịch, hoặc bị tà quỉ
độc ác bắt giữ, nếu nghe được kinh điển này thì tất cả những điều ác đều tiêu
diệt, cũng như tà ma ác quỷ khi gặp lương y liền phải tránh xa. Nên biết rằng
những người ấy thật là Đại Bồ Tát. Vì sao vậy? Nhờ được nghe kinh Đại Niết-bàn
này trong chốc lát, lại sanh ra ý tưởng Như Lai là thường tồn.
“Được nghe kinh này trong chốc lát còn như vậy, huống chi là sao chép, thọ trì,
đọc tụng? [Cho nên những người được nghe kinh này], chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề,
còn lại đều là Đại Bồ Tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như những kẻ điếc chẳng nghe được âm thanh. Những kẻ
nhất-xiển-đề cũng vậy, dù muốn lắng nghe kinh điển vi diệu này cũng không nghe
được. Vì sao vậy? Là vì bị điếc.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một vị lương y thông đạt hết các phương thuốc, lại
thêm biết rộng vô số chú thuật. Vị lương y ấy đến gặp vua, tâu rằng: ‘Đại
vương! Nay ngài đang có bệnh phải chết.’ Vua đáp rằng: ‘Khanh chẳng thấy được
những gì trong bụng trẫm, làm sao nói rằng trẫm có bệnh phải chết?’ Lương y
đáp: ‘Như ngài không tin, vậy nên uống thuốc xổ. Sau khi xổ ra rồi, tự ngài sẽ
thấy biết.’ Vua không chịu uống thuốc xổ. Lúc ấy, vị lương y dùng sức chú thuật,
khiến hậu môn của vua lở lói, lại có cả trùng và máu lẫn theo ra khi vua đi
tiêu. Thấy vậy rồi, vua lấy làm khiếp sợ, khen ngợi vị lương y ấy rằng: ‘Giỏi
thay, giỏi thay! Trước khanh đã nói, nhưng trẫm không tin. Nay mới biết khanh
làm chuyện lợi ích lớn cho thân trẫm đây vậy.” Vua liền cung kính vị lương y dường
như cha mẹ.
“Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, đối với các chúng sanh, dù có
tham dục hay không tham dục, kinh này có thể làm cho phiền não của họ đều rơi rụng.
Các chúng sanh ấy, cho đến trong giấc mộng được thấy kinh này, thảy đều cung
kính cúng dường, cũng như vị vua kia cung kính vị lương y. Vị đại lương y ấy,
khi biết người bệnh nhất định phải chết thì không điều trị. Kinh điển Đại thừa
Đại Niết-bàn này cũng vậy, không trị được những kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như lương y thông thạo tám phương pháp dùng thuốc ắt
có thể liệu trị hết thảy các bệnh, chỉ không thể trị cho kẻ nhất định phải chết.
Chư Phật và chư Bồ Tát cũng vậy, có thể cứu độ cho hết thảy những người có tội,
chỉ không cứu được những kẻ nhất định phải chết là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vị lương y thông thạo tám phương pháp mầu nhiệm
trong sách thuốc, lại còn hiểu biết rộng hơn cả tám phương pháp ấy nữa. Trước hết,
ông đem sự hiểu biết của mình mà dạy cho con, khiến con biết rõ tất cả mọi thứ
cây thuốc trên cạn, dưới nước hoặc ở nơi núi rừng. Cứ như vậy, ông dần dần dạy
cho con đủ tám phép trị bệnh, sau đó lại dạy đến những phương thuật khác mầu
nhiệm và cao trổi hơn hết.
“Đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri cũng vậy, trước hết ngài dạy cho con là
các vị tỳ-kheo về phương tiện dứt trừ tất cả phiền não, tu học quán tưởng toàn
thân vốn không bền vững, đó là ví như dưới nước, trên cạn, hoặc ở nơi núi rừng.
Dưới nước là ví thân chịu khổ [mong manh] như bọt nước. Trên cạn là ví thân
không bền vững, như thân cây chuối. Ở nơi núi rừng là ví như ở trong phiền não
mà tu tập phép tưởng vô ngã. Vì nghĩa ấy, thân được gọi là vô ngã. Như vậy, Như
Lai dần dần dạy cho các đệ tử giáo pháp chín bộ kinh, khiến cho thông thuộc rõ
biết. Kế đó, ngài mới dạy về tạng Như Lai sâu kín. Ngài thuyết cho các đệ tử
nghe: ‘Như Lai là thường tồn.’ Như vậy, Như Lai thuyết Kinh Đại thừa Điển Đại
Niết-bàn, ngài tạo nhân Bồ-đề cho các chúng sanh đã phát tâm hoặc chưa phát
tâm, chỉ trừ bọn nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử! Kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này là vô lượng vô số như vậy, không
thể nghĩ bàn, chưa từng có! Nên biết rằng kinh này là vị lương y cao trổi hơn hết,
đáng tôn trọng nhất, đứng đầu trong tất cả kinh điển.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một chiếc thuyền lớn từ bờ biển bên này lướt
sang bờ biển bên kia, lại từ bờ biển bên kia trở về bờ biển bên này. Như Lai, Ứng
cúng, Chánh biến tri lại cũng như vậy, ngài nương chiếc thuyền quý Đại thừa Đại
Niết-bàn, đi qua lại mà cứu độ chúng sanh. Bất kỳ ở đâu, hễ có những chúng sanh
có thể cứu độ, ngài đều khiến cho họ được thấy thân Như Lai. Vì nghĩa ấy, Như
Lai được xưng là vị thuyền sư cao trổi hơn hết. Cũng giống như khi có thuyền tất
phải có thuyền sư, đã có thuyền sư tất phải có những chúng sanh vượt biển. Như
Lai thường trụ, hóa độ chúng sanh lại cũng như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có người ở giữa biển cả, dùng thuyền [buồm] vượt
biển. Nếu được gió thuận, trong chốc lát có thể đi được vô số do-tuần. Nếu
không có gió, dù bao nhiêu năm cũng chẳng rời khỏi vị trí ban đầu. Đến lúc thuyền
hư hoại, sẽ bị chìm xuống nước mà chết. Chúng sanh cũng vậy, ở giữa biển lớn
sanh tử ngu si, nương theo thuyền “các hành”. Nếu gặp được luồng gió Đại Bát Niết-bàn
mạnh mẽ, ắt sẽ mau tới bờ đạo pháp Vô thượng. Nếu không gặp gió, ắt sẽ lưu chuyển
lâu dài trong vô lượng sanh tử. Rồi khi thuyền “các hành” tan rã, sẽ đọa vào địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có những người không gặp được gió lớn, phải ở
lâu giữa biển cả, bèn tự nghĩ rằng: ‘Nay chúng ta chắc phải chết tại đây.’ Đang
khi nghĩ như vậy thì bỗng gặp luồng gió thuận, liền theo đó mà vượt biển. Họ lại
nói rằng: ‘Vui thích thay, ngọn gió này thật chưa từng có! Giúp chúng ta yên ổn
qua khỏi được tai nạn giữa biển cả.’ Chúng sanh cũng vậy, ở lâu trong biển cả
sanh tử ngu si, khốn khổ cùng lụy. Trong khi chưa gặp cơn gió Đại Niết-bàn này,
hẳn phải nghĩ rằng: ‘Chúng ta chắc chắn sẽ phải đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ.’ Đang khi nghĩ như vậy thì bỗng gặp luồng gió Đại thừa Đại Niết-bàn, liền
thuận theo gió mà đi, vào được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mới biết là chân
thật, phát sanh ý tưởng cho là kỳ lạ, khen ngợi rằng: ‘Vui thích thay! Chúng ta
từ xưa nay chưa từng nghe thấy tạng sâu kín như thế này của Như Lai.” Lúc ấy họ
liền phát sanh lòng tin trong sạch đối với kinh Đại Niết-bàn này.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như con rắn lột da, có chết mất chăng?”
“Bạch Thế Tôn, không.”
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, ngài dùng phương tiện thị hiện xả bỏ thân độc
dữ. Có thể nói rằng Như Lai là vô thường, diệt mất chăng?”
“Bạch Thế Tôn, không thể.”
“Trong cõi Diêm-phù-đề này, Như Lai dùng phương tiện mà xả bỏ xác thân, cũng
như con rắn kia lột bỏ bộ da cũ. Cho nên Như Lai gọi là thường trụ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người thợ vàng gặp được loại vàng ròng tốt, tùy
ý làm ra đủ món đồ dùng. Như Lai cũng vậy, ở trong hai mươi lăm cảnh giới hiện
hữu, ngài có thể thị hiện mọi thứ sắc thân, vì muốn giáo hóa chúng sanh vượt
thoát khỏi sanh tử. Cho nên Như Lai gọi là thân không giới hạn. Tuy ngài thị hiện
đủ mọi thân hình, nhưng vẫn gọi là thường trụ, không biến đổi.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cây am-la và cây diêm phù, mỗi năm thay đổi ba lần:
trong khi nở hoa màu sắc sáng lên rực rỡ, lúc đâm chồi lá xanh um rậm rạp, vào
mùa rụng lá lại trông giống như khô chết.
“Thiện nam tử! Ý ông thế nào? Cây ấy có thật là khô chết hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải.”
“Thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, ở trong Ba cõi ngài thị hiện ba loại thân: có khi
sơ sinh, có lúc trưởng thành, đến lúc lại vào Niết-bàn. Nhưng thân Như Lai thật
chẳng phải là vô thường.”
Bồ Tát Ca-diếp khen rằng: “Lành thay! Đúng như lời Phật dạy, Như Lai là thường
trụ, không hề biến đổi.”
Thiện nam tử! Lời sâu kín của Như Lai rất sâu xa, khó hiểu. Ví như vị đại vương
bảo quần thần: ‘Đem tiên-đà-bà đến đây.’ Chỉ một tiếng tiên-đà-bà mà có bốn
nghĩa: một là muối, hai là cái bát, ba là nước, bốn là ngựa. Bốn món ấy đều gọi
cùng một tên. Vị quan có trí tuệ khéo hiểu được tiếng ấy. Như khi vua tắm rửa,
gọi tiên-đà-bà thì dâng nước. Như khi vua dùng cơm, gọi tiên-đà-bà thì dâng muối.
Khi vua ăn xong muốn uống nước, gọi tiên-đà-bà thì dâng bát. Khi vua muốn dạo
chơi, gọi tiên-đà-bà thì dâng ngựa. Như vậy, vị quan có trí tuệ khéo hiểu được
bốn cách nói sâu kín của đại vương.
“Kinh Đại thừa này cũng vậy, có đủ bốn lẽ vô thường... Vị quan Đại thừa có trí
tuệ phải khéo hiểu được bốn lẽ ấy. Như khi Phật ra đời, vì chúng sanh thuyết giảng
Niết-bàn của Như Lai, người có trí tuệ nên biết rằng đó là Như Lai vì những kẻ
chấp lẽ thường còn nên mới thuyết dạy tư tưởng vô thường, khiến các vị tỳ-kheo
tu tập phép quán tưởng vô thường.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Chánh pháp sắp diệt.’ Người có trí tuệ nên biết rằng
đó là Như Lai vì những kẻ chấp lẽ vui thú nên thuyết dạy tư tưởng khổ, khiến
các vị tỳ-kheo thường tu phép quán khổ.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Nay ta bệnh khổ, Chúng tăng bị phá hoại.’ Người có trí
tuệ nên biết rằng đó là Như Lai vì những kẻ chấp ngã nên thuyết dạy tư tưởng vô
ngã, khiến các vị tỳ-kheo tu tập phép quán vô ngã.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Cái gọi là không đó chính là giải thoát chân chánh.
Người có trí tuệ nên biết rằng đó là Như Lai nói giải thoát chân chánh không có
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, khiến các vị tỳ-kheo tu học phép quán không.
Vì nghĩa ấy, giải thoát chân chánh gọi là không, cũng gọi là chẳng động. Gọi là
chẳng động, đó là trong giải thoát không có khổ não. Cho nên chẳng động tức là
giải thoát chân chánh, không có hình tướng. Gọi là không có hình tướng, nghĩa
là không có các loại hình sắc, âm thanh, hương vị, xúc cảm. Cho nên gọi là
không hình tướng. Giải thoát chân chánh thường tồn không biến đổi. Trong giải
thoát ấy không có sự vô thường, nóng bức, biến đổi. Cho nên giải thoát chân
chánh gọi là thường trụ, không biến đổi, trong mát.
“Có khi Phật lại dạy: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Như Lai.’ Người có trí tuệ
nên biết rằng đó là Như Lai thuyết dạy pháp thường tồn, khiến các vị tỳ-kheo tu
pháp thường chân chánh. Nếu các vị tỳ-kheo có thể thuận theo đó mà tu học, nên
biết rằng những người ấy thật là đệ tử của ta, khéo biết rõ tạng sâu kín của
Như Lai, như vị quan có trí tuệ của đại vương kia hiểu rõ được ý vua.
“Thiện nam tử! Như vị vua kia còn có lời sâu kín, huống chi Như Lai lại chẳng
có sao? Thiện nam tử! Cho nên giáo pháp sâu kín của Như Lai thật khó rõ biết được.
Chỉ những người có trí tuệ mới có thể hiểu được pháp Phật rất thâm sâu, chẳng
phải hạng phàm phu ở thế gian có thể đủ sức tin nhận.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cây ba-la-xa, cây ca-ni-ca, cây a-thúc-ca, gặp
khi nắng hạn chẳng sanh hoa trái. Cho đến các loài vật khác trên cạn dưới nước
cũng đều khô héo, xác xơ, không được thấm nhuần ướt át, không thể tăng trưởng.
Tất cả các loại cây thuốc đều không còn hiệu nghiệm.
“Thiện nam tử! Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy. Sau khi ta diệt độ,
nếu có những chúng sanh không chịu cung kính thì kinh này không có oai đức. Vì
sao vậy? Vì các chúng sanh ấy không biết được tạng sâu kín của Như Lai. Vì sao
vậy? Vì các chúng sanh ấy kém phước đức.
“Lại nữa, thiện nam tử! Khi Chánh pháp Như Lai sắp diệt mất, bấy giờ sẽ có nhiều
tỳ-kheo làm điều xấu ác, không rõ biết tạng sâu kín của Như Lai, lười nhác chậm
chạp, không thể đọc tụng, tuyên dương, phân biệt Chánh pháp của Như Lai. Ví như
kẻ trộm cướp ngu si, vất bỏ những món quý báu, lại đi gánh vác cỏ rơm! Vì họ chẳng
hiểu tạng sâu kín của Như Lai, cho nên đối với kinh này lười nhác chẳng siêng
năng. Thật nguy hiểm đáng thương thay! Đời vị lai đáng lo sợ thay! Khổ thay cho
chúng sanh, không siêng năng nghe và thọ trì kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn
này. Chỉ có các vị Đại Bồ Tát mới có thể đối với kinh này nắm được nghĩa lý
chân thật, không trói buộc nơi văn tự, tùy thuận không trái nghịch, vì chúng
sanh mà thuyết giảng.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cô gái chăn bò kia muốn bán sữa, vì tham lợi nên
thêm vào hai phần nước, rồi bán cho cô chăn bò khác. Cô này mua được sữa rồi lại
thêm vào hai phần nước nữa, đem bán cho một cô gái ở gần thành. Mua sữa rồi, cô
gái ở gần thành lại thêm vào hai phần nước, rồi đem bán cho cô gái ở trong
thành. Cô gái ở trong thành mua sữa rồi lại thêm vào hai phần nước, kế đem ra
chợ bán. Lúc ấy, có một người cưới vợ cho con, cần loại sữa tốt để đãi khách liền
đến chợ để mua, nhưng cô gái bán sữa ấy đòi giá đắt hơn gấp nhiều lần. Người ấy
nói rằng: ‘Sữa của cô pha nhiều nước, chẳng đúng như lời hứa của cô. Nhưng ngay
hôm nay tôi cần đãi khách nên mới mua.” Người ấy nhận lấy sữa, về nhà nấu thành
món cháo sữa nhưng nếm chẳng có vị sữa. Tuy chẳng có vị sữa, nhưng so với vị đắng
thì vẫn hơn cả nghìn lần. Vì sao vậy? Vì vị sữa là hơn hết trong tất cả các mùi
vị.
“Thiện nam tử! Sau khi ta vào Niết-bàn, lúc Chánh Pháp chưa dứt, còn khoảng tám
mươi năm, bấy giờ ở cõi Diêm-phù-đề kinh này sẽ được lưu truyền khắp nơi. Lúc ấy
có những tỳ-kheo xấu ác cướp lấy kinh này rồi chia ra nhiều phần, có thể làm mất
đi màu sắc, hương thơm và vị ngon của Chánh pháp. Những kẻ xấu ác ấy, tuy cũng
đọc tụng kinh điển này, nhưng làm mất đi nghĩa lý cốt yếu sâu kín của Như Lai,
đưa vào những lời lẽ hoa mỹ vô nghĩa của thế gian. Họ chép đoạn trước ra sau,
đoạn sau ra trước, rồi lại chép đoạn trước và đoạn sau vào giữa, chép đoạn giữa
vào nơi đoạn trước và đoạn sau. Nên biết rằng các tỳ-kheo xấu ấy là bạn hữu của
ma. Họ thâu nhận và chứa trữ mọi vật bất tịnh, nói rằng: ‘Như Lai có cho phép
tôi chứa trữ tất cả.’ Như cô gái chăn bò kia pha thêm nhiều nước vào sữa, các tỳ-kheo
xấu ác cũng vậy, họ pha lẫn những lời thế tục làm sai lầm [ý nghĩa] kinh này,
khiến nhiều chúng sanh chẳng nhận được sự thuyết dạy chân chánh, chẳng có được
bản chép kinh chân chánh, cũng chẳng được nhận giữ kinh này một cách chân chánh
để tôn trọng, ngợi khen, cúng dường cung kính. Các tỳ-kheo xấu ấc ấy vì lợi dưỡng
nên không thể truyền bá, lưu hành kinh này một cách rộng rãi. Chỗ truyền bá lưu
hành của họ thật quá ít oi, không đáng kể.
“Như cô gái chăn bò nghèo khổ kia bán sữa qua nhiều người, cho đến khi nấu
thành cháo thì chẳng còn mùi vị của sữa. Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này
cũng vậy, lưu chuyển nhiều nơi mà trở nên mỏng manh, nhạt nhẽo, chẳng còn khí vị.
Tuy chẳng còn khí vị, nhưng vẫn còn hơn các kinh khác cả ngàn lần. Cũng như mùi
vị sữa kia so với vị đắng vẫn còn hơn cả ngàn lần. Vì sao vậy? Kinh điển Đại thừa
Đại Niết-bàn này, so với kinh điển của Thanh văn là bậc cao trổi, cũng như sữa
bò là vị ngon hơn hết trong tất cả các mùi vị. Vì nghĩa ấy nên gọi kinh này là
Đại Niết-bàn.
“Lại nữa, thiện nam tử! Tất cả mọi người, ai cũng cầu được làm thân nam tử. Vì
sao vậy? Vì tất cả người nữ đều phải chịu mọi sự xấu kém.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như nước tiểu của con muỗi thì không thể làm cho khắp
cõi đất này thấm ướt. Lòng dục khó thỏa của người nữ cũng giống như vậy. Ví như
mang hết thảy cõi đất này vo lại thành những viên nhỏ như hạt cải, với số đàn
ông nhiều như số hạt cải ấy cùng ăn nằm với một người đàn bà cũng không thể đủ!
Giả sử đàn ông nhiều đến như số cát sông Hằng cùng làm việc dâm dục với một người
đàn bà, cũng không thể đủ!
“Thiện nam tử! Ví như biển cả, hết thảy nước mưa trên trời đổ xuống và nước ở
trăm sông đều chảy dồn về, nhưng biển vẫn chưa từng đầy tràn. Người đàn bà cũng
thế, ví như tất cả [loài người] đều là đàn ông, cùng ăn nằm với một người đàn
bà cũng vẫn không đủ!
“Lại nữa, thiện nam tử! Như cây a-thúc-ca, cây ba-trá-la, cây ca-ni-ca, đến mùa
xuân trổ hoa, loài ong đến hút lấy hết vị tinh tế trong sắc đẹp và hương thơm của
các hoa ấy, nhưng vẫn không biết chán. Người đàn bà ham muốn đàn ông cũng như
thế, chẳng hề biết chán.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên những kẻ nam người nữ được nghe kinh Đại thừa Đại
Niết-bàn này thường nên chê bỏ thân tướng nữ nhân và cầu được thân nam tử. Vì
sao vậy? Vì kinh điển Đại thừa này có tướng trượng phu, ấy là tánh Phật. Nếu ai
không biết tánh Phật ắt không có tướng nam tử. Vì sao vậy? Vì chẳng tự biết
mình có tánh Phật.
“Như ai không biết được tánh Phật, ta gọi những người ấy là nữ nhân. Như ai tự
biết mình có tánh Phật, ta nói rằng người ấy có tướng trượng phu.
“Như có những người nữ nào có thể biết rằng tự thân mình quyết có tánh Phật,
nên biết rằng những người ấy tức là nam tử.
“Thiện nam tử! Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này gồm thâu các công đức vô lượng
vô biên, không thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Vì thuyết giảng được tạng sâu kín của
Như Lai. Cho nên những kẻ nam người nữ nào muốn mau chóng biết được tạng sâu
kín của Như Lai thì nên tùy phương tiện mà siêng năng tu tập kinh này.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, như vậy! Đúng như lời Phật
dạy, nay con nhờ có tướng trượng phu nên được vào tạng sâu kín của Như Lai. Hôm
nay đức Như Lai vừa khai ngộ cho con, nhân đó con chắc chắn sẽ được thông đạt.”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Nay ông tùy thuận pháp thế gian
mà nói như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa: “Con chẳng tùy thuận pháp thế gian.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay, lành thay! Nay ông đã biết được mùi vị của
pháp cao trổi hơn hết, rất thâm sâu khó biết, thế mà ông được biết. Như loài
ong hút lấy mùi vị tinh tế nhất, ông cũng như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như nước tiểu của con muỗi chẳng thể thấm ướt khắp cõi
đất này. Sự lưu hành phân bố của kinh này trong tương lai cũng vậy, [không thể
nào đủ khắp]. Cũng như nước tiểu của loài muỗi, kinh này về thuở Chánh pháp sắp
diệt sẽ bị mất đi ở cõi đất này trước hết. Nên biết rằng đó tức là tướng suy của
Chánh pháp.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vừa qua hết mùa hạ, tháng đầu mùa thu trời mưa
liên miên nhiều ngày. Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, vì các vị Bồ
Tát ở phương Nam mà sẽ tuôn mưa pháp thấm đẫm khắp nơi. Khi Chánh pháp sắp dứt
mất, kinh này sẽ đến xứ Kế Tân, đầy đủ không thiếu, được chôn giấu trong lòng đất.
Hoặc có người tin, hoặc có người không tin, pháp vị cam lộ của kinh điển Phương
đẳng Đại thừa này cũng sẽ nằm sâu trong lòng đất. Kinh này mất đi rồi, tất cả
các kinh điển Đại thừa cũng đều sẽ dứt mất. Nếu như ai có được kinh này, đầy đủ
không thiếu, đó là bậc cao quý vượt trội giữa loài người. Các vị Bồ Tát nên biết
rằng Chánh pháp vô thượng của Như Lai còn chẳng bao lâu nữa sẽ dứt mất.”
QUYỂN 10 - Phẩm TÁNH NHƯ LAI - Phẩm thứ tư – Phần bảy
Lúc ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Nay Thuần-đà
còn có lòng nghi, xin Như Lai phân biệt [giảng nói] lần nữa để dứt trừ lòng
nghi của ông ấy.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông ấy có lòng nghi như thế nào hãy nói ra đi, ta sẽ dứt
trừ cho.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thuần-đà có lòng nghi rằng: ‘Như Lai thường trụ là
nhờ sức thấy biết được tánh Phật. Nếu thấy tánh Phật rồi là thường, thì lúc
chưa thấy đáng lẽ phải là vô thường. Nhưng nếu trước đã vô thường, về sau đáng
lẽ cũng như thế. Vì sao vậy? Như những vật ở thế gian trước vốn là không, nay lại
thành có, rồi từ có trở lại thành không. Những vật như vậy đều là vô thường.
Theo nghĩa ấy thì chư Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác chẳng khác gì nhau.”
Lúc ấy, Thế Tôn liền thuyết kệ rằng:
Vốn là có mà nay thành không,
Vốn là không mà nay thành có,
Nếu nói trong Ba đời có pháp,
Thật không thể có nghĩa như thế!
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên chư Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác có chỗ
khác nhau mà cũng không khác nhau.”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngợi khen rằng: “Lành thay! Đúng như lời dạy của Thế Tôn.
Nay con mới hiểu rằng chư Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác có chỗ khác nhau
mà cũng không khác nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy rằng tánh của chư Phật, Bồ
Tát, Thanh văn, Duyên giác vốn không khác biệt. Xin Như Lai phân biệt giảng rộng
để làm lợi ích an vui cho hết thảy chúng sanh.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hãy nghe cho kỹ, hãy nghe cho kỹ. Ta sẽ vì các ông mà
giảng nói.
“Thiện nam tử! Ví như một người con nhà trưởng giả kia, nuôi rất nhiều bò sữa,
có đủ các sắc lông, thường giao cho một người chăn giữ, chăm sóc. Một hôm, người
ấy muốn cúng tế nơi đền thờ nên vắt hết sữa của các con bò, cho vào một cái
thùng. Người ấy thấy sữa toàn một màu trắng, lấy làm kinh quái, nghĩ rằng: ‘Bò
có màu lông khác nhau, vì sao sữa lại chỉ có một màu?’ Người ấy liền suy nghĩ rằng:
‘Như vậy, tất cả đều do nhân duyên nghiệp báo của chúng sanh nên khiến cho sữa
chỉ có một màu.’
“Thiện nam tử! Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cũng vậy, thảy đều đồng một tánh Phật,
cũng như chất sữa kia [cùng một màu] vậy. Vì sao thế? Vì thảy đều dứt sạch phiền
não. Nhưng chúng sanh vẫn nói rằng Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác đều có
khác biệt. Có những vị Thanh văn và người phàm phu có lòng nghi đối với Ba thừa:
‘Tại sao không khác nhau?’ Các chúng sanh ấy lâu về sau mới tự hiểu ra rằng tất
cả Ba thừa đều đồng một tánh Phật, cũng như người chủ bò kia tỉnh ngộ mà hiểu rằng
màu sắc của sữa là do nhân duyên nghiệp báo của chúng sanh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như chất khoáng vàng được nung luyện sạch hết cặn bẩn
thành vàng ròng, từ đó mới có giá trị vô cùng. Thiện nam tử! Thanh văn, Duyên
giác, Bồ Tát cũng thế, đều được thành tựu cùng một tánh Phật. Vì sao vậy? Vì dứt
trừ phiền não, cũng như khoáng vàng kia lọc bỏ những chất cặn bẩn. Vì nghĩa ấy
nên tất cả chúng sanh đều cùng một tánh Phật chẳng khác gì nhau. Vì trước được
nghe tạng sâu kín của Như Lai nên sau mới thành Phật, tự nhiên được rõ biết,
cũng như ông trưởng giả kia biết được sữa chỉ có một màu. Vì sao vậy? Vì đã dứt
sạch vô số phiền não.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, thì
Phật với chúng sanh có khác gì nhau? Thuyết giảng như vậy thật quá sai lầm! Nếu
như chúng sanh đều có tánh Phật, vì nhân duyên gì mà những người như ông Xá-lợi-phất
đều vào Niết-bàn bậc hạ? Hàng Duyên giác đều vào Niết-bàn bậc trung? Hàng Bồ
Tát lại vào Niết-bàn bậc thượng? Tất cả mọi người nếu cùng một tánh Phật, vì
sao chẳng cùng vào Niết-bàn của Như Lai?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Niết-bàn mà chư Phật Thế Tôn chứng đắc không phải chỗ
chứng đắc của hàng Thanh văn, Duyên giác. Vì nghĩa ấy, Đại Bát Niết-bàn gọi là
sự hiện hữu tốt đẹp. Thế gian dù không có Phật vẫn có những người trong Hai thừa
chứng đắc hai bậc Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Nghĩa ấy như thế nào?”
Phật dạy: “Trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp mới có một đức Phật ra đời
chỉ bày giảng rõ Ba thừa.
“Thiện nam tử! Như ông vừa nói đó, Bồ Tát với hàng Nhị thừa chẳng khác biệt
nhau. Trước đây, ở tạng sâu kín của Như Lai trong kinh Đại Niết-bàn này đã có
thuyết giảng nghĩa đó. Các vị A-la-hán chưa phải [đạt đến] sự hiện hữu tốt đẹp.
Vì sao vậy? Vì tất cả các vị A-la-hán [cuối cùng] đều sẽ đạt đến Đại Niết-bàn
này. Vì nghĩa ấy nên Đại Bát Niết-bàn mới có được niềm vui hoàn toàn, rốt ráo.
Vì thế nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Như Phật vừa dạy, nay con mới biết được nghĩa khác
nhau và chẳng khác nhau. Vì sao vậy? Vì tất cả Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác,
[cuối cùng rồi] trong đời vị lai đều sẽ về nơi Đại Bát Niết-bàn, cũng như các
dòng nước đều về nơi biển cả. Cho nên hàng Thanh văn, Duyên giác thảy đều gọi
là thường, chẳng phải vô thường. Vì nghĩa ấy nên có chỗ khác nhau mà cũng không
khác nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh khác nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hàng Thanh văn ví như sữa, hàng Duyên giác ví như kem
sữa, hàng Bồ Tát ví như bơ sữa, chư Phật Thế Tôn ví như đề-hồ. Vì nghĩa ấy,
trong kinh Đại Niết-bàn này ta nói bốn loại tánh khác biệt nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Tánh tướng của tất cả chúng sanh là như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như con bò cái mới sanh con, sữa và máu chưa phân biệt.
Tánh phàm phu lẫn lộn các phiền não cũng giống như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Trong thành Câu-thi-na có người dòng chiên-đà-la tên
là Hoan Hỷ. Phật có thọ ký cho người ấy rằng, nhờ một lần phát tâm mà sẽ mau
chóng được thành đạo Vô thượng Chánh giác trong thế giới này, nằm trong số một
ngàn đức Phật sẽ ra đời. Vì sao Như Lai chẳng thọ ký cho những người như tôn giả
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên... được sớm thành Phật đạo?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những Thanh văn, Duyên giác hoặc Bồ Tát phát thệ
nguyện rằng: ‘Tôi sẽ hộ trì Chánh pháp rất lâu, rồi sau mới thành Phật đạo vô
thượng.’ Vì [những người] phát nguyện nhanh chóng mới thọ ký [cho họ] nhanh
chóng [thành Phật].
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như nhà buôn kia có một vật báu vô giá, mang đến chợ
bán. Những kẻ ngu nhìn thấy không biết, chê cười. Người chủ vật báu nói to rằng:
‘Hạt châu báu của tôi đây giá trị vô cùng.’ Họ nghe rồi lại cười nữa, thảy đều
bảo nhau rằng: ‘Đây chẳng phải hạt châu thật, chỉ là pha lê thôi.’
“Thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác cũng vậy. Nếu nghe việc mau chóng thọ
ký, ắt sẽ biếng nhác, chê cười, khinh dể, như những kẻ ngu kia chẳng biết vật
báu thật.
“Trong đời vị lai sẽ có những tỳ-kheo không chịu chuyên cần tu tập thiện pháp;
họ bần cùng khốn khổ, bức thiết vì nỗi đói khát, vì thế mới xuất gia để được no
ấm tấm thân. Tâm ý họ dể duôi, đời sống gian tà, bợ đỡ nịnh hót. Nếu họ nghe
hàng Thanh văn được Như Lai thọ ký sớm thành Phật, ắt họ sẽ cười to, khinh mạn,
chế nhạo. Nên biết rằng đó là bọn phá giới, họ tự nói rằng chứng đắc quả thánh.
“Vì lẽ ấy nên tùy theo sự phát nguyện nhanh chóng mà được thọ ký nhanh chóng.
Người [phát tâm] hộ trì Chánh pháp [dài lâu] thì thọ ký lâu xa mới thành Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Bồ Tát ma-ha-tát làm thế nào để
quyến thuộc khỏi bị hư hoại?”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Như những Bồ Tát nào chuyên cần tinh tấn, dốc lòng hộ
trì Chánh pháp, nhờ nhân duyên ấy, quyến thuộc khỏi bị hư hoại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà môi miệng của
chúng sanh khô khan, nóng phỏng?”
Phật dạy Ca-diếp rằng: “Như ai không biết rằng Tam bảo là thường tồn, do nhân
duyên ấy môi miệng họ bị khô khan, nóng phỏng. Ví như người trong miệng khó chịu,
chẳng phân biệt được sáu vị: ngọt, đắng, cay, chua, mặn và nhạt. Tất cả chúng
sanh ngu si không trí tuệ, chẳng biết Tam bảo là pháp thường tồn, nên gọi là
môi miệng khô khan, nóng phỏng.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như có chúng sanh chẳng biết Như Lai là thường trụ, nên
biết rằng họ là những kẻ đui mù bẩm sanh. Những ai biết rằng Như Lai là thường
trụ, dù chỉ có mắt thịt nhưng ta cũng gọi họ là có thiên nhãn.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như ai có thể biết rằng Như Lai là thường, nên biết rằng
những người ấy tu tập kinh điển này đã lâu. Ta nói rằng những người ấy có thiên
nhãn. Dù ai có thiên nhãn mà không biết rằng Như Lai thường tồn thì ta gọi những
kẻ ấy là người mang mắt thịt. Hạng người ấy thậm chí không biết được thân thể
tay chân của chính họ, cũng không thể làm cho kẻ khác biết được. Vì nghĩa ấy
nên gọi là người mang mắt thịt.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như Lai thường vì tất cả chúng sanh mà làm cha mẹ. Vì
sao vậy? Tất cả chúng sanh, đủ mọi hình tướng, chủng loại, như loài có hai
chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không có chân, Phật chỉ dùng một giọng nói mà
thuyết pháp với họ, nhưng chúng sanh loài nào cũng hiểu được, thảy đều ngợi
khen rằng: ‘Hôm nay Như Lai vì tôi mà thuyết pháp.’ Bởi nghĩa ấy nên gọi Như
Lai là cha mẹ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như người kia sanh một đứa con mới được mười sáu tháng.
Tuy có nói chuyện, nhưng trẻ chưa thể hiểu được. Cha mẹ muốn dạy trẻ nói, trước
hết phải nói một giọng theo nó, rồi dần dần mới dạy nó. Vậy giọng nói theo như
trẻ của cha mẹ có gọi là không đúng hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải vậy.”
“Thiện nam tử! Chư Phật Như Lai cũng vậy, tùy theo đủ loại tiếng nói của chúng
sanh mà thuyết pháp, vì muốn giúp cho họ trụ yên nơi Chánh pháp. Tùy theo ý muốn
của chúng sanh mà thị hiện đủ mọi hình tướng. Như Lai nói theo đồng một giọng
nói với chúng sanh, vậy có gọi là không đúng hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Vì sao? Vì chỗ thuyết dạy của Như Lai dường như
tiếng sư tử rống, tùy theo đủ mọi âm thanh của thế gian mà diễn giải, thuyết giảng
giáo pháp mầu nhiệm.”
PHẨM ĐẠI CHÚNG THƯA HỎI
Phẩm thứ năm
Lúc ấy, từ nơi khoảng giữa hai chân mày trên trán, Thế Tôn phóng ra hào
quang đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, chiếu đến thân Thuần-đà. Thuần-đà
chạm hào quang ấy rồi liền cùng với quyến thuộc mang những thức ăn ngon đến chỗ
Phật, muốn được cúng dường Như Lai và các vị tỳ-kheo tăng lần sau cùng. Những
bát đĩa đủ loại chứa đầy thức ăn được đưa đến phía trước đức Phật.
Lúc ấy có những vị thiên nhân oai đức lớn đến ngăn phía trước mặt và vây quanh
bảo Thuần-đà rằng: “Thuần-đà! Hãy đứng lại đó, chớ vội cúng dường.”
Đang lúc ấy, Như Lai lại phóng ra vô lượng vô biên đủ loại hào quang. Đại chúng
chư thiên chạm phải hào quang này rồi liền để cho Thuần-đà đi đến chỗ Phật mà
dâng hiến lễ cúng.
Lúc ấy, chư thiên và tất cả chúng sanh thảy đều tự mang những vật thực cúng dường
của mình đến phía trước Phật, quỳ mọp xuống bạch Phật rằng: “Nguyện đức Như Lai
cho phép chư tỳ-kheo thọ nhận các món ăn này.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo biết là đã đúng giờ, bèn đắp y, ôm bát, định tâm an ổn. Lúc
ấy, Thuần-đà vì Phật và chư Tăng mà sắp xếp các tòa sư tử quý báu, treo các phướn,
lọng bằng lụa, chuỗi ngọc hương hoa... Lúc ấy, cõi Tam thiên đại thiên được
trang nghiêm vi diệu, dường như cõi nước An Lạc ở phương tây.
Bấy giờ Thuần-đà đứng trước Phật, ưu bi thảm đạm, bạch Phật một lần nữa: “Nguyện
được Như Lai đem lòng thương xót, trụ lại cõi thế này một kiếp hoặc một kiếp giảm.”
Phật bảo Thuần-đà: “Như ông muốn ta trụ lâu cõi thế, vậy hãy mau cúng dường lần
cuối cùng để cho trọn vẹn hạnh Bố thí Ba-la-mật của ông.”
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Bồ Tát và chư thiên, loài người, tuy khác miệng mà đồng
âm, thảy đều nói lên những lời này: “Lạ thay, Thuần-đà! Người được phước đức lớn,
có thể khiến Như Lai thọ nhận bữa cúng dường cuối cùng cao trổi hơn hết. Chúng
ta đây không có phước nên mọi lễ vật bày ra phải bị dẹp bỏ.”
Bấy giờ, muốn làm cho tất cả đại chúng đều được thỏa lòng, từ mỗi lỗ chân lông
nơi thân của Thế Tôn liền hóa ra vô lượng chư Phật, mỗi đức Phật có vô lượng
chư tỳ-kheo tăng [vây quanh]. Chư Thế Tôn ấy và vô lượng đại chúng thảy đều thị
hiện thọ nhận các món cúng dường của chư thiên và loài người. Đức Thích-ca Như
Lai tự ngài thọ nhận bữa cơm mà Thuần-đà cúng dường.
Lúc ấy, món cơm vừa nấu chín mà Thuần-đà dâng lên được lấy ở nước Ma-kiệt-đà,
chứa đầy tám hộc. Nhờ sức thần của Phật mà có thể làm cho tất cả chúng hội đều
no đủ.
Bấy giờ, Thuần-đà nhìn thấy như vậy rồi, trong lòng lấy làm vui vẻ, phấn khởi
vô cùng. Tất cả đại chúng cũng vậy. Lại nương theo ý Phật, tất cả đại chúng đều
nghĩ rằng: “Nay Như Lai đã thọ nhận đồ dâng cúng của chúng ta, ắt không bao lâu
nữa sẽ vào Niết-bàn.” Nghĩ như vậy rồi, ai lấy đều cảm thấy buồn vui lẫn lộn.
Khi ấy, đất đai ở rừng cây tuy nhỏ hẹp nhưng nhờ sức thần của Phật nên mỗi khoảng
đất như đầu kim cũng đều có vô lượng chư Phật Thế Tôn cùng quyến thuộc ngồi thọ
thực. Món ăn của tất cả các vị đều không khác biệt nhau.
Lúc ấy, chư thiên, loài người, a-tu-la đều than khóc sầu thảm, cùng nói ra lời
này: “Hôm nay Như Lai đã thọ nhận bữa cúng dường cuối cùng do chúng ta dâng hiến.
Thọ cúng dường rồi ngài sẽ vào Niết-bàn. Rồi đây chúng ta còn biết cúng dường
cho ai? Chúng ta sắp vĩnh biệt đức Điều ngự vô thượng, sẽ trở nên tối tăm như
những kẻ mù lòa.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì muốn an ủi tất cả đại chúng liền nói kệ rằng:
“Các ông đừng sầu thảm,
Pháp Phật đều như vậy.
Ta vào cõi Niết-bàn,
Đã qua vô lượng kiếp.
Thường hưởng vui tột bậc,
Vĩnh viễn nơi yên ổn.
Nay phải hết lòng nghe,
Ta dạy pháp Niết-bàn.
Ta đã lìa ăn uống,
Không có sự đói khát.
Nay ta vì các ông,
Thuyết giảng nguyện tùy thuận,
Khiến cho toàn đại chúng,
Đều được vui an ổn.
Nghe xong, nên tu hành,
Phật và Pháp thường trụ.
Ví như quạ, chim cú
Cùng đậu chung một cây,
Như anh em thân thiết,
Mới Niết-bàn vĩnh viễn.
Như Lai thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Chúng sanh thường tôn kính,
Sao dứt vào Niết-bàn?
Giả sử rắn, chuột, sói,
Cùng ở chung một hang,
Thương nhau như anh em,
Mới Niết-bàn vĩnh viễn.
Như Lai thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Chúng sanh thường tôn kính,
Sao dứt vào Niết-bàn?
Giả sử hoa thất diệp,
Tỏa hương hoa bà-sư;
Trái cây ca-lưu-ca,
Biến thành trái trấn-đầu,
Ta mới vào Niết-bàn.
Như Lai thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Sao lại bỏ từ bi,
Vào mãi nơi Niết-bàn?
Giả sử nhất-xiển-đề,
Ngay đời này thành Phật,
Thọ hưởng vui bậc nhất,
Ta mới vào Niết-bàn.
Như Lai thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Sao lại bỏ từ bi,
Vào mãi nơi Niết-bàn?
Giả sử toàn đại chúng,
Cùng lúc đều thành Phật,
Lìa hẳn mọi lỗi lầm,
Ta mới vào Niết-bàn.
Như Lai thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Sao lại bỏ từ bi,
Vào mãi nơi Niết-bàn?
Như nước tiểu loài muỗi,
Ướt đẫm khắp mặt đất,
Núi non, trăm sông suối,
Ngập tràn cả biển lớn.
Nếu có chuyện như vậy,
Ta mới vào Niết-bàn.
Lòng bi thương tất cả,
Đồng như La-hầu-la,
Chúng sanh thường tôn kính,
Sao dứt vào Niết-bàn?
Các ông vì lẽ ấy,
Nên hâm mộ Chánh pháp.
Chẳng nên sanh sầu não,
Than khóc và kể lể.
Muốn thành hạnh chân chánh,
Nên tu Như Lai thường,
Nên quán pháp thế này:
Lâu dài, không biến đổi.
Lại nên nghĩ thế này:
Tam bảo đều thường trụ.
Liền được che chở lớn,
Như cây khô sanh quả.
Đó gọi là Tam bảo.
Bốn chúng nên nghe kỹ.
Nghe rồi nên vui vẻ,
Liền phát tâm Bồ-đề.
Có thể biết Tam bảo
Là thường trụ, chân thật,
Đó là nguyện cao nhất,
Của tất cả chư Phật.
“Như có những tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di có thể nương theo lời
nguyện cao nhất của Như Lai mà phát nguyện, nên biết rằng những người ấy không
hề ngu si, đủ sức thọ lãnh sự cúng dường. Nhờ sức nguyện ấy, quả báo công đức
là cao trổi nhất trong thế gian, cũng như bậc A-la-hán. Nếu có những ai không
thể quán tưởng lẽ Tam bảo thường tồn, thì đó là hạng chiên-đà-la. Những ai có
thể biết lẽ Tam bảo thường trụ, nhân duyên thật pháp thì lìa được khổ não, đạt
được an vui, không phải chịu những sự nhiễu hại hoặc tai nạn.”
Lúc ấy, đại chúng gồm chư thiên, loài người và a-tu-la nghe pháp ấy rồi, sanh
lòng vui vẻ, phấn khởi vô cùng. Tâm họ trở nên thuần thục hiền hòa, khéo trừ được
những thứ che chướng, không còn có tâm phân biệt cao thấp, oai đức thanh tịnh,
vẻ mặt vui tươi, biết rằng Phật là thường trụ. Cho nên họ bày ra những món cúng
dường của chư thiên, rảy các thứ hoa, hương bột, hương thoa, và trỗi lên những
khúc nhạc trời để cúng dường Phật.
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ông có thấy việc ít có trong đại
chúng này chăng?”
Ca-diếp thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Con thấy các đức Như Lai nhiều
vô lượng vô biên không thể kể xiết, thọ nhận thức ăn uống của đại chúng chư
thiên và loài người cúng dường. Con lại thấy chư Phật thân tướng cao lớn đẹp đẽ
ngồi nơi chỗ ngồi chỉ bằng đầu cây kim, lại có rất nhiều người vây quanh mà vẫn
không đụng chạm, chướng ngại. Con lại thấy đại chúng thảy đều phát lời thệ nguyện
nói ra mười ba bài kệ. Con cũng biết trong đại chúng ai nấy đều tự nghĩ rằng:
‘Hôm nay đức Như Lai riêng thọ nhận sự cúng dường của tôi.’
“Giả sử thức ăn uống mà Thuần-đà phụng hiến đó nghiền nát thành những hạt bụi rất
nhỏ, rồi cúng dường cho mỗi vị Phật chỉ một hạt bụi đó thôi cũng không đủ số,
nhưng nhờ sức thần của Phật mà được đầy đủ cho đến hết thảy đại chúng. Chỉ có
chư Đại Bồ Tát và những vị như Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi mới có thể biết được
việc ít có như vậy. Đó là chỗ phương tiện thị hiện của Như Lai. Đại chúng Thanh
văn và hàng a-tu-la thảy đều biết rằng Như Lai là pháp thường trụ.”
Lúc ấy, Thế Tôn bảo Thuần-đà rằng: “Sự việc ông thấy hôm nay có phải là kỳ lạ
ít có hay chăng?”
Thuần-đà thưa: “Quả thật vậy, Thế Tôn! Trước con đã thấy vô lượng chư Phật đầy
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, bây giờ còn
được thấy các vị Đại Bồ Tát tướng mạo quý lạ, cao lớn đẹp đẽ, lại chỉ thấy
riêng thân Phật [uy nghiêm] như cây thuốc chúa có các vị Đại Bồ Tát vây quanh.”
Phật bảo Thuần-đà: “Lúc nãy ông nhìn thấy vô lượng chư Phật đều là do ta hóa hiện
để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, khiến họ được vui vẻ; còn các vị Đại Bồ
Tát ấy thì chỗ tu hành đạt đến đều không thể nghĩ bàn, có thể làm được vô số Phật
sự.
“Thuần-đà! Nay ông đã thành tựu hạnh Bồ Tát ma-ha-tát, được trụ ở hàng Thập địa,
đã làm xong những việc cần làm.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Đúng vậy, đúng vậy! Quả như lời Phật dạy,
chỗ tu tập của Thuần-đà đã thành tựu hạnh Bồ Tát, con cũng mừng cho ông ấy. Nay
đức Như Lai vì muốn chiếu ánh sáng lớn cho vô lượng chúng sanh đời vị lai nên
thuyết giảng kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này.
“Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa giảng thuyết trong tất cả Khế kinh là hữu dư hay vô dư?
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ý nghĩa trong các pháp ta thuyết giảng là hữu dư, cũng
là vô dư.”
Thuần-đà bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Phật có nói kệ:
“Những gì mình có,
Bố thí hết thảy,
Chỉ được khen ngợi,
Không hề thiệt mất.
“Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy là thế nào? Trì giới và phá giới có gì khác nhau?”
Phật dạy: “Chỉ trừ [việc bố thí cho] một người, còn ngoài ra hết thảy sự bố thí
đều đáng khen ngợi.”
Thuần-đà hỏi rằng: “Tại sao gọi là chỉ trừ một người?”
Phật dạy: “Đó là người phá giới như đã thuyết giảng trong kinh này.”
Thuần-đà lại bạch Phật: “Nay con chưa hiểu, xin Phật dạy rõ.”
Phật bảo Thuần-đà: “Nói phá giới đó là hạng nhất-xiển-đề. Ngoài ra, hết thảy những
chỗ bố thí đều đáng khen ngợi, được quả báo lớn.”
Thuần-đà lại thưa hỏi: “Nói nhất-xiển-đề nghĩa là thế nào?”
Phật dạy: “Thuần-đà! Như có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nói ra những
lời thô ác, phỉ báng Chánh pháp, tạo nghiệp nặng như vậy mà vĩnh viễn không hối
cải, lòng không chút hổ thẹn. Những người như vậy gọi là hướng theo con đường
nhất-xiển-đề.
“Như có những kẻ phạm Bốn tội trọng, làm Năm tội nghịch, tự biết chắc rằng mình
đã phạm tội nặng như vậy, nhưng trong lòng không hề sợ sệt, hổ thẹn, không chịu
bộc lộ, đối với Chánh pháp không hề có lòng mến tiếc, ủng hộ, xây dựng, lại chê
bai khinh dể, nói ra nhiều điều sai trái. Những người như vậy, cũng gọi là hướng
theo con đường nhất-xiển-đề.
“Lại như có kẻ nói rằng: ‘Không có Phật, Pháp, Tăng’, đó cũng gọi là hướng theo
con đường nhất-xiển-đề.
“Chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề như thế, ngoài ra bố thí cho tất cả đều đáng
khen ngợi.”
Lúc ấy, Thuần-đà lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nói phá giới là nghĩa như thế
nào?”
Phật dạy: “Thuần-đà! Nếu phạm Bốn giới cấm nặng cùng Năm tội nghịch, phỉ báng
Chánh pháp, những người như vậy gọi là phá giới.”
Thuần-đà lại hỏi: “Phá giới như vậy, còn có thể cứu vớt được chăng?”
Phật dạy: “Thuần-đà! Nếu có nhân duyên thì có thể cứu vớt được. Chẳng hạn như vẫn
chưa cởi bỏ pháp phục, trong tâm thường tự biết hổ thẹn, sợ sệt, luôn tự trách
mình rằng: ‘Chao ôi! Sao ta phạm tội nặng như thế? Quái lạ thay! Sao ta tạo
nghiệp khổ như thế?’ Trong lòng liền cải hối, sanh tâm hộ pháp, muốn tạo lập
Chánh pháp, nghĩ rằng: ‘Nếu có ai hộ pháp, tôi sẽ cúng dường. Nếu có ai đọc tụng
kinh điển Đại thừa, tôi sẽ đến thưa hỏi [người ấy] và thọ trì, đọc tụng. Khi đọc
tụng thông suốt rồi, tôi lại sẽ vì người khác phân biệt giảng rộng.’ Ta dạy rằng
người như vậy chẳng phải là phá giới.
“Vì sao vậy? Thiện nam tử! Ví như mặt trời hiện ra có thể trừ được tất cả những
sự mờ mịt, tối tăm. Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này xuất hiện hưng thạnh ở
thế gian cũng vậy, có thể trừ được các tội mà chúng sanh đã làm trong vô lượng
kiếp. Cho nên kinh này dạy rằng: ‘Ủng hộ Chánh pháp được quả báo lớn, cứu vớt
những kẻ phá giới.’
“Như có ai hủy báng Chánh pháp mà có thể tự cải hối, trở về với pháp, tự xét rằng
tất cả những điều bất thiện mà mình đã làm đó như tự hại chính mình, bèn sanh
lòng lo sợ, kinh hãi, hổ thẹn, [nghĩ rằng:] ‘Trừ Chánh pháp này ra, không còn
chỗ cứu hộ nào khác. Vậy nên phải trở về với Chánh pháp.’ Nếu [ai] có thể quay
về nương tựa [Chánh pháp] theo lời ta dạy như thế, thì bố thí cho người ấy sẽ
được phước vô lượng. Người ấy cũng được xưng là xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
Nếu ai đã phạm những tội ác kể trên mà trải qua một tháng hoặc mười lăm ngày
không khởi tâm quay về nương tựa [Chánh pháp], bộc lộ [lỗi lầm], thì việc bố
thí cho người ấy được quả báo rất ít ỏi.
“Người phạm Năm tội nghịch cũng vậy, nếu có thể sanh tâm hối lỗi, trong lòng
luôn biết hổ thẹn: ‘Nay tôi đã làm nên nghiệp bất thiện, thật là khổ lớn! Tôi
nên tạo lập và hộ trì Chánh pháp.’ Người như vậy không gọi là phạm Năm tội nghịch,
nếu bố thí cho người ấy sẽ được phước vô lượng. Như ai phạm tội nghịch rồi chẳng
sanh lòng quay lại nương tựa [Chánh pháp], hộ pháp, nếu bố thí cho người ấy thì
phước đức không đáng kể.
“Lại nữa, thiện nam tử! Về kẻ phạm tội nặng, ông nay hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ
vì ông mà phân biệt giảng rộng. Nên sanh tâm như thế này: ‘Chánh pháp là kho
tàng sâu kín của Như Lai, cho nên tôi sẽ hộ trì, xây dựng.’ Bố thí cho người
như vậy sẽ được quả báo tốt đẹp.
“Thiện nam tử! Ví như có người đàn bà mang thai gần sanh, gặp khi trong nước loạn
lạc, liền trốn sang nước khác, ở trong một cái miếu thờ thần rồi sanh con tại
đó. Khi nghe nước cũ của mình đã được yên ổn sung túc, liền dắt con định trở về.
Giữa đường gặp một con sông nước ngập tràn chảy xiết. Cô vì bế con nên không đủ
sức lội qua sông, nhưng tự nghĩ rằng: ‘Ta thà cùng chết với con chứ quyết không
bỏ con để lội qua sông một mình.’ Trong lúc suy nghĩ như vậy thì [đuối sức nên]
cả hai mẹ con đều phải chết chìm. Sau khi chết, cô được sanh lên cõi trời. Đó
là nhờ lòng thương con [nên khởi lòng lành] quyết đưa con qua sông, chứ cô ấy vốn
tánh xấu ác. Nhờ thương con mà [khởi lòng lành nên] được sanh lên cõi trời.
“Kẻ phạm bốn giới cấm nặng, năm tội vô gián, nếu sanh lòng hộ pháp thì cũng như
vậy. Tuy trước đã tạo nghiệp bất thiện nhưng nhờ hộ pháp nên được trở thành ruộng
phước cao trổi nhất ở thế gian. Người hộ pháp ấy có quả báo vô lượng như vậy.”
Thuần-đà lại bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu kẻ nhất-xiển-đề có thể tự cải hối, cung
kính cúng dường, ngợi khen Tam bảo. Bố thí cho kẻ ấy có được quả báo lớn hay
chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chớ nên nói ra lời ấy. Thiện nam tử! Ví như có
người kia ăn trái am-la rồi nhả hạt xuống đất. Nhưng người ấy lại nghĩ rằng:
‘Trong cái hạt này chắc có vị ngọt.’ Liền nhặt hạt lên, đập ra mà nếm. Thấy vị
rất đắng, liền sanh lòng hối tiếc. Lại vì sợ mất giống, người ấy liền nhặt hết
những mảnh hạt ấy rồi trồng xuống đất, siêng năng chăm sóc, tùy theo lúc thích
hợp mà tưới bằng bơ, dầu, sữa. Ý ông thế nào? Hạt ấy có thể mọc lên chăng?”
Thuần-đà thưa: “Bạch Thế Tôn, không thể được! Ví như có được cơn mưa tốt lành
nhất cũng không thể mọc mầm lên được!”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Kẻ nhất-xiển-đề kia lại cũng như vậy, căn lành đã bị
cháy mất cả rồi, còn do đâu mà được trừ tội? Thiện nam tử! Nếu còn có thể phát
sanh lòng lành thì không gọi là nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên quả báo của hết thảy mọi việc bố thí chẳng phải
là không khác nhau. Vì sao vậy? Bố thí cho hàng Thanh văn thì được quả báo
khác. Bố thí cho Bích-chi Phật lại được quả báo khác nữa. Chỉ có sự bố thí
[cúng dường] đức Như Lai là được quả báo cao nhất. Cho nên ta dạy rằng: ‘Tất cả
các việc bố thí chẳng phải là không có khác biệt.’”
Thuần-đà thưa hỏi: “Vì sao Như Lai thuyết bài kệ ấy?”
Phật dạy: “Thuần-đà! Vì có nhân duyên ta mới thuyết kệ ấy. Trong thành Vương Xá
có một ưu-bà-tắc lòng tin không trong sạch, phụng sự bọn ngoại đạo Ni-kiền. Người
ưu-bà-tắc ấy có đến hỏi ta về nghĩa bố thí. Vì nhân duyên đó ta mới thuyết bài
kệ ấy. Ta cũng vì chư Đại Bồ Tát nên thuyết giảng nghĩa của kho tàng [Chánh
pháp] sâu kín.”
Thuần-đà lại hỏi: “Thế Tôn! Như bài kệ ấy, ý nghĩa như thế nào?”
Phật dạy: “Nói ‘hết thảy’ là [muốn chỉ đến một] ít phần trong tất cả. Nên biết
rằng Đại Bồ Tát là bậc anh hùng trong nhân loại, thâu nhiếp những kẻ nghiêm trì
giới luật, bố thí cho đủ mọi sự cần dùng; lại trừ bỏ kẻ phá giới như trừ bỏ
loài cỏ dại.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như trước đây ta có thuyết kệ rằng:
“Hết thảy các sông,
Đều có khúc quanh.
Hết thảy rừng rậm,
Đều là cây cối.
Hết thảy người nữ,
Lòng không ngay thẳng,
Hết thảy tự tại,
Đều được an vui.”
Lúc ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai phải,
quỳ gối phải sát đất, kính lễ dưới chân Phật rồi nói kệ rằng:
“Chẳng phải hết thảy sông,
Đều là chảy uốn khúc,
Chẳng phải hết thảy rừng,
Đều là cây cối hợp.
Chẳng phải mọi người nữ,
Lòng đều không ngay thẳng,
Hết thảy người tự tại,
Chưa hẳn được an vui.
“Thế Tôn! Phật giảng thuyết kệ ấy chắc hẳn còn chưa hết nghĩa. Xin Phật rủ lòng
thương xót giảng giải nhân duyên ấy.
“Vì sao vậy? Trong cõi Tam thiên đại thiên này có một cái bãi tên là Câu-da-ni.
Dưới bãi có một con sông ngay thẳng không uốn khúc, tên là Ta-bà-da, thẳng như
đường dây mực, chảy vào Tây hải. Trong các kinh khác Phật chưa từng nói đến tướng
trạng sông này. Nguyện đức Như Lai nhân kinh Phương đẳng này và kinh A-hàm mà
nói nghĩa còn lại, để cho các vị Bồ Tát hiểu sâu nghĩa ấy.
“Thế Tôn! Ví như có người trước đã biết khoáng vàng, nhưng sau chẳng biết vàng
ròng. Như Lai cũng thế, ngài hiểu biết tường tận các pháp, nhưng chỗ diễn thuyết
chưa trọn hết nghĩa. Tuy Như Lai giảng nghĩa chưa trọn hết, nhưng nên tùy
phương tiện để hiểu được ý thú.
“Hết thảy rừng rậm đều là cây cối, câu ấy cũng chưa trọn nghĩa. Vì sao vậy? Vì
có rất nhiều cây quý bằng vàng, bạc, lưu ly mà người ta cũng gọi là rừng!
“Hết thảy người nữ lòng không ngay thẳng, câu này cũng chưa trọn nghĩa. Vì sao
vậy? Vì có những phụ nữ khéo giữ gìn giới cấm, thành tựu công đức, có lòng đại
từ bi.
“Hết thảy tự tại đều được an vui, câu này cũng chưa trọn nghĩa. Vì sao vậy? Vì
chỉ có bậc Thánh đế Thích-ca được nuôi dưỡng trong Chánh pháp, là đấng Pháp
vương Như Lai, không tùy thuộc ma chết, không thể dứt mất, [mới thật là tự tại
an vui]. Còn những vị Phạm vương, Đế-thích, chư thiên... tuy có được tự tại
nhưng đều là vô thường. Nếu là thường trụ, không biến đổi mới đáng gọi là tự tại.
Như thế tức là Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông khéo được tài biện thuyết không ngăn ngại. Hãy
ngừng lại, lắng nghe đây!
“Văn-thù-sư-lợi! Ví như vị trưởng giả, thân thường có bệnh khổ. Lương y chẩn mạch,
làm cho món thuốc cao. Bấy giờ người bệnh vì lòng tham nên muốn uống nhiều thuốc
ấy. Lương y liền bảo rằng: ‘Nếu có thể tiêu hóa được mới nên uống nhiều, còn
ông thân thể suy yếu, chớ nên uống nhiều. Nên biết rằng thuốc cao ấy là cam lộ
mà cũng là độc dược. Nếu uống nhiều mà không tiêu hóa tức là độc dược.
“Thiện nam tử! Nay ông chớ nên cho rằng lời của lương y ấy là trái nghĩa lý,
làm mất sự hiệu nghiệm của món thuốc cao. Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, ngài
vì [muốn giáo hóa] các vị quốc vương, hậu phi, thái tử, vương tử, đại thần nên
nhân lúc vua Ba-tư-nặc cùng vương tử và các hậu phi của vua ấy có lòng kiêu mạn,
liền điều phục họ bằng cách thị hiện cho họ hoảng sợ, cũng như vị lương y kia.
Cho nên mới thuyết kệ rằng:
“Hết thảy các sông,
Đều có khúc quanh.
Hết thảy rừng rậm,
Đều là cây cối.
Hết thảy người nữ,
Lòng không ngay thẳng.
Hết thảy tự tại,
Đều được an vui.”
“Văn-thù-sư-lợi! Nay ông nên biết, những điều Như Lai thuyết dạy không hề sai
sót. Như cõi đất này có thể bị đảo ngược, nhưng lời nói của Như Lai không hề có
chỗ sai sót. Vì nghĩa ấy, hết thảy những điều Như Lai thuyết giảng đều còn có
nghĩa khác.”
Lúc ấy Phật khen ngợi Văn-thù-sư-lợi rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử!
Ông biết nghĩa ấy đã lâu, nhưng vì lòng thương xót tất cả, muốn cho chúng sanh
được trí huệ nên ông mới hỏi rộng Như Lai về nghĩa của bài kệ ấy.”
Lúc ấy, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi liền đối trước Phật đọc kệ rằng:
Với lời người khác,
Tùy thuận chẳng nghịch.
Đừng xét kẻ khác,
Làm hoặc chẳng làm.
Chỉ tự xét mình:
Thiện hay bất thiện.
“Thế Tôn! Ngài thuyết giảng về món thuốc pháp đó, chẳng phải là thuyết chánh.
‘Với lời người khác tùy thuận chẳng nghịch’, nguyện xin Như Lai rủ lòng thương,
thuyết giảng lẽ chân chánh. Vì sao vậy? Thế Tôn thường nói: ‘Tất cả các môn học
của ngoại đạo, chín mươi lăm thứ, đều hướng theo nẻo ác.’ Các đệ tử Thanh văn đều
noi theo đường chân chánh, khéo hộ trì cấm giới, gìn giữ oai nghi, thủ hộ các
căn. Những người như vậy rất hâm mộ đại pháp, đi theo đường lành. Tại sao trong
chín bộ kinh, Như Lai chê bai họ, quở trách họ? Như nghĩa của bài kệ ấy là hướng
về đâu?”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Thiện nam tử! Ta nói bài kệ ấy chẳng phải vì hết thảy
chúng sanh, chỉ vì vua A-xà-thế lúc đó mà thôi. Nếu chẳng có nhân duyên, chư Phật
Thế Tôn không hề nói lẽ trái ngược. Vì có nhân duyên nên ta mới thuyết như vậy.
“Thiện nam tử! Vua A-xà-thế giết cha rồi liền đến chỗ ta, muốn khuất phục ta
nên cật vấn rằng: ‘Này Thế Tôn, thế nào là ngài thật có trí hiểu biết tất cả,
hay ngài không phải hiểu biết tất cả? Nếu là hiểu biết tất cả, thì Điều-đạt
trong vô số kiếp trước thường ôm lòng ác theo đuổi Như Lai để giết hại, vì sao
Như Lai còn cho phép ông ấy xuất gia?’
“Thiện nam tử! Do nhân duyên ấy, ta vì vua A-xà-thế mà nói kệ rằng:
Với lời người khác,
Tùy thuận chẳng nghịch,
Đừng xét kẻ khác,
Làm hoặc chẳng làm,
Chỉ tự xét mình:
Thiện hay bất thiện.
“Ta lại bảo vua ấy rằng: ‘Đại vương! Nay ông đã giết cha, làm nên tội nghịch,
là tội vô gián nặng nhất, lẽ ra nên bộc lộ [sám hối] để cầu sự trong sạch. Vì cớ
gì lại chỉ thấy lỗi lầm của người khác?’
“Thiện nam tử! Vì nghĩa đó, ta vì vua ấy mà thuyết bài kệ này.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ta cũng vì những kẻ nghiêm giữ cấm giới, [tự mình]
thành tựu oai nghi nhưng [thường lưu ý] thấy những lỗi lầm của người khác nên mới
thuyết bài kệ này. Lại nữa, nếu ai biết tiếp nhận lời khuyên dạy của người khác
mà lìa xa mọi việc ác, lại khuyên dạy người khác khiến cho lìa bỏ mọi việc ác,
những người ấy đúng là đệ tử Phật.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn vì Văn-thù-sư-lợi mà thuyết kệ rằng:
“Ai cũng sợ đao trượng,
Không ai không tham sống,
Suy mình ra người khác,
Đừng giết hại, đánh đập.”
Liền đó, Văn-thù-sư-lợi liền đối trước Phật nói kệ rằng:
“Không phải ai cũng sợ trượng,
Không phải ai cũng tham sống,
Suy mình hiểu được người khác,
Siêng năng khéo làm phương tiện.
“Bạch Thế Tôn! Như Lai thuyết bài kệ nói pháp như trên cũng chưa trọn nghĩa. Vì
sao vậy? Ví như các vị A-la-hán hoặc [các món báu như] ngọc nữ, voi quí, ngựa
quí, vị thần chủ kho tàng của vị Chuyển luân Thánh vương, dù cho hàng chư
thiên, loài người cùng a-tu-la có cầm gươm bén mà hại cũng không thể được. Những
bậc dũng sĩ, liệt nữ, ngựa chúa, thú chúa hay vị tỳ-kheo trì giới, dù có đối mặt
với điều gì cũng không bao giờ sợ sệt. Vì nghĩa ấy, Như Lai thuyết bài kệ trên
cũng chưa trọn nghĩa. Như nói “suy mình ra người khác” cũng là chưa trọn nghĩa.
Vì sao vậy? Nếu vị A-la-hán lấy mình mà so với kẻ khác, ắt là có những tư tưởng
chấp ngã và thọ mạng. Nếu vị ấy có tư tưởng chấp ngã và thọ mạng, hẳn phải lo
giữ gìn, bảo vệ. Người phàm phu ắt phải xem hết thảy A-la-hán đều là những kẻ
còn tu hành. Nếu như vậy thì là tà kiến. Nếu có tà kiến, sau khi chết lẽ ra phải
sanh vào địa ngục A-tỳ. Lại nữa, không thể có việc vị A-la-hán đối với chúng
sanh lại khởi tâm gây hại; và vô số chúng sanh cũng không thể làm hại được vị
A-la-hán.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nói tư tưởng chấp ngã đó, là nói đối với chúng sanh khởi
lòng đại bi, không có tư tưởng giết hại, là nói A-la-hán có tâm bình đẳng. Đừng
cho rằng đức Thế Tôn không có nhân duyên mà nói ra lẽ trái ngược.
“Ngày trước, trong thành Vương Xá có một người thợ săn giỏi, giết được nhiều
con hươu, thỉnh ta đến ăn thịt. Lúc ấy, tuy ta có nhận lời mời thỉnh ấy nhưng đối
với chúng sanh luôn khởi lòng đại bi xem như [con mình là] La-hầu-la, nên mới
thuyết kệ rằng:
“Nếu người muốn trường thọ,
Sống mãi ở thế gian,
Theo pháp không gây hại,
Thọ mạng đồng chư Phật.”
Và cũng vì thế ta mới thuyết bài kệ này:
Ai cũng sợ đao trượng,
Không ai không tham sống,
Suy mình ra người khác,
Đừng giết hại, đánh đập.
Phật lại dạy: “Lành thay, lành thay! Văn-thù-sư-lợi! Ông đã vì các vị Đại Bồ
Tát mà thưa hỏi Như Lai về nghĩa lý sâu kín như vậy.”
Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi lại đọc kệ thưa hỏi rằng:
“Kính cha mẹ thế nào,
Thuận theo và tôn trọng,
Vì sao tu pháp ấy,
Đọa vào ngục Vô gián?
Đức Như Lai liền đọc kệ đáp lời Văn-thù-sư-lợi:
“Nếu xem tham ái là mẹ,
Vô minh lại lấy làm cha,
Tùy thuận tôn trọng như thế,
Chắc chắn đọa ngục Vô gián.”
Lúc ấy, Như Lai vì Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi mà thuyết lại bài kệ này:
“Mọi việc phụ thuộc người khác,
Tất phải gọi đó là khổ.
Mọi việc do mình tự quyết,
Đó là tự tại an vui.
Những ai kiêu căng khinh mạn,
Thế lực hết sức bạo ác.
Những người hiền lành lương thiện,
Ai ai cũng mến cũng thương.”
Liền đó, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Bài kệ mà Như Lai thuyết
đó cũng chưa trọn nghĩa. Nguyện Như Lai rủ lòng thương xót nói rõ nhân duyên.
Vì sao vậy?
“Như người con của vị trưởng giả, trong khi theo học với thầy, có tùy thuộc ông
thầy hay chăng? Nếu nói tùy thuộc ông thầy thì nghĩa ấy không hợp [với bài kệ
trên]. Nếu nói không tùy thuộc, nghĩa cũng không hợp [với bài kệ trên]. Nếu nói
được tự tại, nghĩa cũng không hợp [với bài kệ trên]. Cho nên chỗ thuyết của Như
Lai còn chưa trọn nghĩa.
“Lại nữa, Thế Tôn! Ví như vị vương tử kia không có sự học hỏi luyện tập mọi thứ,
đến khi làm việc chẳng được thành công. Như vậy cũng là [tự quyết] tự tại,
nhưng thường phải khổ vì ngu si, tối tăm. Vị vương tử như vậy mà nói là tự tại
[an vui] thì cũng không hợp nghĩa, còn như nói phụ thuộc người khác [đều là khổ]
thì nghĩa ấy cũng không thích hợp. Vì những nghĩa ấy nên chỗ Phật thuyết như
trên vẫn còn chưa trọn nghĩa. Cho nên, hết thảy phụ thuộc người khác chưa hẳn
đã là khổ, hết thảy do mình tự quyết chưa hẳn đã được vui.
“‘Những ai kiêu căng khinh mạn, thế lực hết sức bạo ác,’ điều này cũng là chưa
trọn nghĩa.
“Bạch Thế Tôn! Có những nữ nhân tánh khí mạnh mẽ, vì lòng kiêu mạn mà xuất gia
học đạo, nghiêm giữ cấm giới, thành tựu oai nghi, gìn giữ các căn chẳng cho vọng
động. Như vậy thì ‘hết thảy kiêu căng khinh mạn’ chưa hẳn đã là bạo ác.
“‘Những người hiền lành lương thiện, ai ai cũng mến cũng thương’, câu ấy cũng
chưa trọn nghĩa. Ví như có người trong lòng phạm Bốn cấm giới nặng, nhưng không
xả bỏ y phục người tu, kiên trì giữ theo oai nghi, những người hộ trì Chánh
pháp thấy vậy đều chẳng ưa thích. Người ấy đến lúc mạng chung, ắt đọa địa ngục.
Như có người hiền lành đã lỡ phạm cấm giới nặng, những người hộ pháp thấy vậy
liền đuổi ra khỏi Tăng đoàn, khiến phải bỏ đạo mà trở lại thế tục. Vì nghĩa ấy
nên những người hiền lành lương thiện chưa hẳn đã được tất cả mọi người thương
mến.”
Lúc ấy, Phật bảo Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Vì có nhân duyên nên trong bài kệ
ấy Như Lai mới thuyết giảng không trọn nghĩa. Lại cũng có nhân duyên nên chư Phật
Như Lai mới thuyết giảng pháp này.
“Thuở ấy, thành Vương Xá có một cô gái tên là Thiện Hiền. Nhân khi về thăm nhà
cha mẹ, cô có đến chỗ ta mà quy y Tam bảo, rồi nói ra lời này:
“Hết thảy phụ nữ,
Đều chẳng tự do,
Hết thảy đàn ông,
Tự tại không ngại.”
“Lúc ấy, ta biết được trong lòng cô gái ấy, mới vì cô mà thuyết giảng bài kệ
như vậy.
“Văn-thù-sư-lợi! Lành thay, lành thay! Nay ông có thể vì tất cả chúng sanh mà hỏi
Như Lai về nghĩa sâu kín như vậy.”
Văn-thù-sư-lợi lại đọc kệ rằng:
“Hết thảy mọi chúng sanh,
Đều sống nhờ ăn uống.
Hết thảy người sức mạnh,
Trong lòng không tật đố.
Hết thảy do ăn uống,
Nên mắc nhiều bệnh khổ,
Hết thảy do tu tịnh,
Nên được hưởng an vui.
“Như vậy, bạch Thế Tôn, hôm nay thọ nhận Thuần-đà cúng dường món ăn thức uống,
Như Lai há không có điều lo sợ hay sao?”
Lúc ấy, đức Thế Tôn lại vì Bồ Tát Văn-thù mà đọc kệ rằng:
Chẳng phải mọi chúng sanh,
Đều sống nhờ ăn uống,
Chẳng phải người sức mạnh,
Đều không lòng tật đố.
Chẳng phải đều do ăn,
Nên mắc phải bệnh hoạn,
Chẳng phải ai tịnh hạnh,
Cũng đều được an vui.
“Văn-thù-sư-lợi! Nếu ông có bệnh thì ta cũng vậy, ắt cũng phải có bệnh khổ. Vì
sao vậy? Các vị A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ Tát, Như Lai, thật không có việc ăn
uống. Chỉ vì muốn giáo hóa chúng sanh nên thị hiện thọ dụng vật thực mà vô lượng
chúng sanh dâng hiến, khiến họ được trọn vẹn hạnh bố thí, để cứu giúp những cõi
địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu nói rằng Như Lai sáu năm khổ hạnh nên thân thể
gầy yếu, thật không thể có. Chư Phật Thế Tôn tự mình đã vượt khỏi các cảnh giới
hiện hữu, không giống như kẻ phàm phu, làm sao thân thể lại phải gầy yếu? Chư
Phật Thế Tôn đã tinh cần tu tập, được thân kim cang [kiên cố], chẳng giống như
thân mong manh dễ hư hoại của người đời. Các đệ tử của ta cũng vậy, không thể
nghĩ bàn, không phụ thuộc vào sự ăn uống.
“Hết thảy người sức mạnh, trong lòng không tật đố, câu ấy cũng chưa trọn nghĩa.
Như người thế gian có khi trọn đời chẳng hề sanh lòng tật đố, nhưng cũng chẳng
có sức mạnh gì!
“Hết thảy do ăn uống, nên mắc nhiều bệnh khổ, câu ấy cũng chưa trọn nghĩa. Cũng
có những người mắc bệnh do các điều kiện bên ngoài, chẳng hạn như bị thương do
mũi nhọn, gươm, đao, giáo, kích...
“Hết thảy do tu tịnh, nên được hưởng an vui, câu ấy cũng chưa trọn nghĩa. Thế
gian cũng có những kẻ ngoại đạo, mặc dù tu hạnh thanh tịnh nhưng chịu nhiều khổ
não.
“Vì nghĩa ấy, chỗ thuyết giảng của Như Lai hết thảy đều chưa trọn nghĩa. Đó gọi
là Như Lai chẳng phải không có nhân duyên mà thuyết ra kệ ấy. Thật có nhân
duyên nên mới thuyết giảng.
“Ngày trước, ở nước Ưu-thiền-ni có một người bà-la-môn tên là Cổ-đê-đức, đến chỗ
ta ở, muốn thọ pháp Bát quan trai. Lúc đó ta bèn thuyết với ông ấy bài kệ này.”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Những gì gọi là nghĩa trọn vẹn? Thế
nào gọi là nghĩa bao gồm hết thảy?”
“Thiện nam tử! Trừ ra các pháp trợ đạo, còn các thiện pháp an vui thường tồn đều
gọi là bao gồm hết thảy. Các pháp này gọi là bao gồm hết thảy, cũng gọi là
nghĩa trọn vẹn. Ngoài ra các pháp khác đều có nghĩa trọn vẹn, cũng có nghĩa
chưa trọn vẹn. [Hôm nay] ta muốn khiến cho những thiện nam tử ưa chuộng Chánh
pháp được rõ biết những ý nghĩa trọn vẹn và chưa trọn vẹn như thế.”
Bồ Tát Ca-diếp trong lòng hết sức vui sướng, vô cùng phấn khích, liền đối trước
Phật bạch rằng: “Kỳ lạ thay, Thế Tôn! Ngài xem chúng sanh đều bình đẳng, [hết
lòng thương yêu] như La-hầu-la!”
Lúc ấy, Phật khen ngợi Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Chỗ thấy của ông
nay rất sâu xa, mầu nhiệm!”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nguyện Như Lai thuyết giảng chỗ được công đức
của kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này.”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Như có ai được nghe tên kinh này thì các vị
Thanh văn, Bích chi Phật không đủ sức tuyên thuyết chỗ được công đức của người
đó; chỉ có chư Phật mới có thể biết. Vì sao vậy? Cảnh giới của chư Phật là
không thể nghĩ bàn. [Chỉ nghe tên kinh mà còn được công đức như thế], huống chi
là những người thọ trì, đọc tụng thông suốt, sao chép trọn quyển kinh này?
Bấy giờ, chư thiên, loài người và a-tu-la liền đối trước Phật, khác miệng đồng
lời mà tụng kệ rằng:
Chư Phật khó nghĩ bàn,
Pháp, Tăng cũng như thế.
Cho nên nay khuyến thỉnh,
Xin Phật tạm nán lại.
Tôn giả Đại Ca-diếp,
Cùng với ngài A-nan,
Và đồ chúng hai vị,
Giây lát sẽ đến đây.
Lại vua nước Ma-già,
Đại vương A-xà-thế,
Hết lòng kính tín Phật,
Cũng chưa đến nơi đây.
Thỉnh nguyện đức Như Lai,
Thương xót trụ giây lát,
Ở giữa đại chúng này,
Dứt lưới nghi chúng con.
Lúc ấy, Như Lai vì đại chúng mà nói bài kệ này:
Trưởng tử trong pháp ta,
Ấy là Đại Ca-diếp,
A-nan siêng, tinh tấn,
Dứt được các mối nghi.
Các ông nên xét kỹ
A-nan bậc nghe nhiều,
Tự nhìn được hiểu rõ,
Lẽ thường và vô thường.
Vậy các ông chớ nên,
Ôm lòng lo buồn quá.
Lúc ấy, đại chúng đem mọi phẩm vật mà cúng dường Như Lai. Cúng dường Phật rồi,
ai nấy đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các vị Bồ Tát số nhiều vô
lượng vô biên như cát sông Hằng đều được chứng đắc địa vị Sơ địa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thọ ký riêng cho Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Ca-diếp và Thuần-đà.
Thọ ký riêng rồi, Phật dạy rằng:
“Các vị thiện nam tử! Mỗi người nên tự tu hành trong tâm, cẩn thận đừng phóng dật.
Nay ta thấy đau ở lưng, khắp thân thể cũng đều đau. Vậy ta muốn nằm như đứa trẻ
thơ, cũng như kẻ thường đau yếu.
“Văn-thù và các ông nên vì Bốn bộ chúng mà thuyết rộng Đại pháp. Nay ta đem
pháp này giao phó lại cho các ông. Khi nào Ca-diếp và A-nan đến đây, các ông lại
sẽ giao phó Chánh pháp này cho hai người ấy.”
Lúc ấy, Như Lai nói xong mấy lời này rồi, vì muốn điều phục chúng sanh nên hiện
thân có bệnh, nằm nghiêng về bên mặt, giống như người bệnh.
QUYỂN 11 - Phẩm THỊ HIỆN BỆNH - Phẩm thứ sáu
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Lai đã lìa
khỏi tất cả tật bệnh, mọi sự đau đớn khổ não đều đã dứt hết, không còn sợ sệt
chi cả.
“Bạch Thế Tôn! Trong tất cả chúng sanh, có bốn mũi tên độc là nguyên nhân của bệnh.
Những gì là bốn? Đó là tham dục, sân khuể, ngu si và kiêu mạn. Nếu có nguyên
nhân gây bệnh, ắt phải có bệnh sinh ra; như các thứ bệnh phổi do tham ái, nóng
nảy, khí uất lên làm nôn mửa, da thịt ngứa ngáy, mình mẩy nhức mỏi, lòng dạ bồn
chồn tán loạn; bệnh kiết lỵ đại tiện khó khăn, tiểu tiện từng giọt, mắt xốn tai
nhức, lưng đau bụng trướng, điên cuồng nóng bức, hoặc mắc phải quỷ mỵ... Đủ các
thứ bệnh tật của thân tâm như vậy, chư Phật Thế Tôn đều không bao giờ còn mắc
phải. Hôm nay vì duyên cớ gì Như Lai lại sai bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: ‘Nay ta
đau lưng, các ông nên vì Bốn bộ chúng mà thuyết pháp”?
“Có hai nhân duyên không có mọi bệnh khổ. Những gì là hai? Một là thương xót hết
thảy chúng sanh, hai là cung cấp, bố thí thuốc thang cho người có bệnh.
“Từ thuở xa xưa, trong vô số vạn ức kiếp, Như Lai trong khi tu đạo Bồ Tát thường
nói lời thân ái, lợi ích cho chúng sanh, không làm cho họ khổ não, bố thí đủ
món thuốc thang cho những người bệnh tật. Vậy duyên cớ gì nay lại tự nói rằng
có bệnh?
“Bạch Thế Tôn! Thế gian có những người bệnh dù nằm hay ngồi đều không yên chỗ,
hoặc đòi ăn uống, sai khiến người nhà chăm sóc sản nghiệp. Vì sao Như Lai nằm
đó lặng thinh, chẳng dạy các đệ tử Thanh văn về Giới độ, về các pháp thiền giải
thoát, Tam-ma-bạt-đề, các pháp tu chánh cần? Vì sao ngài chẳng thuyết kinh điển
Đại thừa thâm sâu như vậy? Vì sao Như Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện dạy bảo
Đại Ca-diếp, bậc Voi chúa trong loài người và các vị đại nhân, khiến cho ai nấy
đều chẳng còn thối lui đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Vì sao chẳng
trừng trị những tỳ-kheo xấu ác, chứa trữ hết thảy những vật bất tịnh? Đức Thế
Tôn thật không có bệnh, vì sao lặng thinh nằm nghiêng bên mặt?
“Chư Bồ Tát thường khi cấp thí thuốc thang cho người bệnh, được bao nhiêu căn
lành đều thí hết cho chúng sanh, cùng nhau hồi hướng về địa vị của bậc có trí
tuệ biết hết tất cả, là vì dứt trừ những phiền não chướng, nghiệp chướng và báo
chướng cho chúng sanh.
“Phiền não chướng, đó là tham dục, sân khuể, ngu si, phẫn nộ, buồn phiền trói
buộc che chướng, ganh ghét keo lận, gian trá, siểm nịnh, không biết hổ thẹn, ngạo
mạn khinh người, tự cao tự đại, kiêu căng, phóng dật, oán hận tranh tụng, tà vạy
dối trá, giả hiện hình tướng, dùng lợi cầu lợi, mong cầu việc xấu ác, tham cầu
thật nhiều, không biết cung kính, không theo lời khuyên dạy, gần gũi bạn xấu,
tham lợi không chán, các mối chằng chịt trói buộc khó gỡ, tham muốn việc xấu,
chấp thân, chấp hữu, cho đến chấp không, ưa nằm ham ngủ, thiếu thốn chẳng vui,
ham mê ăn uống, lòng dạ ngu tối, tán tâm vọng tưởng, nghĩ điều bất thiện, miệng
nói lời ác, thân làm việc ác, ham vui nói nhiều, các căn tối tăm, nói lời vô
nghĩa, thường bị những cảm xúc tham dục, sân khuể, độc hại che lấp... Như vậy gọi
là phiền não chướng.
“Nghiệp chướng, đó là năm tội đọa địa ngục Vô gián, bệnh nặng nguy kịch.
“Báo chướng, đó là sanh vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, những kẻ phỉ báng
Chánh pháp cùng những kẻ nhất-xiển-đề. Như vậy gọi là báo chướng.
“Ba loại che chướng ấy gọi là bệnh nặng. Các vị Bồ Tát trong vô số kiếp, đang
khi tu đạo Bồ-đề cấp thí thuốc thang cho tất cả những người bệnh tật thường
phát nguyện rằng: ‘Nguyện cho chúng sanh mãi mãi dứt trừ ba loại bệnh chướng ấy.’
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ Tát ma-ha-tát, đang khi tu đạo Bồ-đề, cấp thí thuốc
thang cho tất cả những người bệnh, thường phát nguyện rằng: ‘Nguyện cho chúng
sanh mãi mãi dứt trừ bệnh tật, được thành tựu thân kim cang Như Lai.’ Lại phát
nguyện rằng: ‘Nguyện cho hết thảy vô lượng chúng sanh đều thành bậc Dược vương
mầu nhiệm, dứt trừ hết thảy các bệnh nguy kịch. Nguyện cho chúng sanh được món
thuốc a-già-đà, dùng sức thuốc ấy có thể trừ được hết thảy vô số loại chất độc.’
Lại phát nguyện rằng: ‘Nguyện cho chúng sanh không còn thối chuyển đối với với
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sớm được thành tựu liều thuốc Phật cao
quý nhất, tiêu trừ hết thảy những mũi tên độc phiền não.’ Lại phát nguyện:
“Nguyện cho chúng sanh siêng tu tinh tấn, thành tựu thân kim cang Như Lai, làm
loại thuốc mầu nhiệm điều trị các thứ bệnh, không còn để bất cứ ai sanh khởi ý
tưởng gây gổ kiện tụng.’ Lại cũng phát nguyện: “Nguyện cho chúng sanh thành cây
thuốc lớn, liệu trị tất cả các bệnh nguy kịch là những điều tà ác.’ Lại nguyện
rằng: ‘Nguyện cho chúng sanh nhổ bỏ được những mũi tên độc, thành tựu hào quang
Như Lai cao quý nhất.’ Lại nguyện rằng: ‘Nguyện cho chúng sanh được vào kho
tàng Chánh pháp sâu kín của Như Lai, được liều thuốc quý trí huệ trừ dứt mọi bệnh
khổ.’
“Thế Tôn! Như vậy, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, [Như Lai
khi còn là] Bồ Tát đã phát khởi các thệ nguyện ấy, khiến chúng sanh đều không
có bệnh hoạn. Duyên cớ gì mà hôm nay Như Lai lại nói rằng có bệnh?
“Lại nữa, Thế Tôn! Thế gian có những người bệnh không thể ngồi dậy, cúi xuống,
ngẩng lên, đi đứng, ăn uống chẳng được, nước đổ vào miệng chẳng nuốt xuống được,
không còn có thể dạy bảo con cái chăm sóc nghiệp nhà. Lúc đó, cha mẹ, vợ con,
anh em, thân thuộc, những người quen biết... thảy đều nghĩ rằng bệnh nhân ấy nhất
định phải chết.
“Bạch Thế Tôn! Ngày nay Như Lai cũng thế, nghiêng về bên mặt mà nằm, không bàn
luận giảng thuyết chi cả. Có những kẻ ngu trong cõi Diêm-phù-đề này sẽ nghĩ rằng:
‘Như Lai Chánh giác sắp vào Niết-bàn’, liền nảy sanh ý nghĩ cho là [mọi thứ] đều
dứt hết. Nhưng tánh Như Lai thật rốt ráo chẳng vào Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như
Lai là thường trụ, không hề biến đổi. Vì nhân duyên ấy, Thế Tôn chẳng nên nói rằng:
‘Nay ta đau nhức lưng’.
“Lại nữa, Thế Tôn! Thế gian có những người bệnh thân thể gầy yếu, nằm ngửa, nằm
nghiêng, hoặc nằm luôn trên giường bệnh. Lúc ấy, người nhà sanh lòng chán ghét,
nghĩ rằng bệnh nhân ấy nhất định phải chết.
“Nay Như Lai cũng thế, ngài đang bị chín mươi lăm nhóm ngoại đạo khinh ngạo, họ
sanh ra tư tưởng [cho rằng Như Lai là] vô thường. Những kẻ ngoại đạo ấy nói rằng:
‘Ông ấy chẳng bằng chúng ta, [vì chúng ta] dựa vào các pháp ngã, tánh, nhân, tự
tại, thời tiết, vi trần... nên là thường trụ, không có biến đổi. Sa-môn Cồ-đàm
bị chuyển dời vì sự vô thường, ông ấy là pháp chịu sự biến đổi.’ Vì nghĩa ấy,
hôm nay Thế Tôn chẳng nên lặng yên, nghiêng về bên mặt mà nằm.
“Lại nữa, Thế Tôn! Thế gian có những người bệnh, do bốn đại tăng giảm không hòa
hợp nhau, khiến cho mệt mỏi, suy nhược; vì thế không thể tùy ý ngồi hoặc đứng,
phải nằm luôn trên giường bệnh. Bốn đại của Như Lai không phải là không hòa hợp,
sức lực nơi thân ngài vẫn đầy đủ, không hề suy yếu!
“Bạch Thế Tôn! Như sức lực của mười con bò nhỏ cũng không bằng một con bò lớn;
mười con bò lớn cũng không bằng một con bò xanh; mười con bò xanh cũng không bằng
một con voi nhà; mười con voi nhà cũng không bằng một con voi rừng; mười con
voi rừng cũng không bằng một con voi hai ngà; mười con voi hai ngà cũng không bằng
một con voi bốn ngà; mười con voi bốn ngà cũng không bằng một con voi trắng ở
Tuyết sơn; mười con voi trắng ở Tuyết sơn cũng không bằng một con hương tượng;
mười con hương tượng cũng không bằng một con voi xanh; mười con voi xanh cũng
không bằng một con voi vàng; mười con voi vàng cũng không bằng một con voi đỏ;
mười con voi đỏ cũng không bằng một con voi trắng; mười con voi trắng cũng
không bằng một con voi núi; mười con voi núi cũng không bằng một con voi
ưu-bát-la; mười con voi ưu-bát-la cũng không bằng một con voi ba-đầu-ma; mười
con voi ba-đầu-ma cũng không bằng một con voi câu-vật-đầu; mười con voi câu-vật-đầu
cũng không bằng một con voi phân-đà-lỵ. [Nhưng] sức lực của mười con voi
phân-đà-lỵ cũng không bằng chỉ một vị lực sĩ trong loài người; mười vị lực sĩ
trong loài người cũng không bằng một vị bát-kiền-đề; mười vị bát-kiền-đề cũng
không bằng một vị na-la-diên có tám cánh tay; mười vị na-la-diên cũng không bằng
chỉ một khớp xương của vị Bồ Tát Thập trụ.
“Thế Tôn! Các khớp xương trong thân người phàm, khớp này chẳng chạm khớp kia.
Các khớp xương của những vị lực sĩ trong loài người, đầu khớp xương này vừa đụng
đầu khớp xương kia. Trong thân của những vị bát-kiền-đề, các khớp xương tiếp nối
nhau. Trong thân của những vị na-la-diên, các khớp xương móc lại với nhau.
Trong thân của vị Bồ Tát Thập trụ, các khớp của bộ xương liên kết liền lạc với
nhau, dường như rồng uốn khúc. Cho nên sức lực của vị Bồ Tát [Thập trụ] là mạnh
nhất. Vào lúc thế giới hình thành, Bồ Tát từ nơi bờ cõi Kim cang, đứng dậy khỏi
tòa Kim cang, đi lên Đạo tràng nơi cội cây Bồ-đề. Bồ Tát ngồi nơi đó rồi, trong
tâm liền được Mười sức.
“Nay Như Lai chớ nên như đứa trẻ sơ sinh kia! Trẻ sơ sinh ngu dại, không có trí
tuệ, không biết nói năng. Vì lẽ ấy, tùy ý nằm ngửa, nằm nghiêng đều không ai
chê cười. Như Lai Thế Tôn có trí huệ lớn, soi sáng tất cả. Ngài là tinh hoa
trong nhân loại, có đủ oai đức lớn, thành tựu thần thông, là bậc tiên nhân cao
quý nhất, mãi mãi dứt tuyệt mọi sự nghi hoặc, đã nhổ xong tên độc, đi đứng yên
lành, oai nghi trọn vẹn, không có chỗ sợ sệt. Nay vì sao ngài lại nghiêng bên mặt
mà nằm, khiến người ta và chư thiên phải ưu sầu khổ não?”
Lúc ấy, Bồ Tát Ca-diếp liền đối trước Phật đọc kệ rằng:
Đức Đại thánh Cồ-đàm!
Xin khởi diễn diệu pháp.
Chẳng nên như trẻ thơ,
Như người bệnh liệt giường.
Bậc thầy cõi trời, người,
Nằm dựa giữa đôi cây,
Kẻ ngu, phàm phu thấy,
Sẽ bảo là Niết-bàn.
Chẳng biết kinh Phương đẳng,
Chỗ Phật hành sâu xa,
Chẳng thấy tạng sâu kín,
Như người mù nhìn đường.
Chỉ có chư Bồ Tát,
Như Văn-thù-sư-lợi,
Mới hiểu chỗ sâu xa,
Ví như bậc thiện xạ.
Chư Thế Tôn ba đời,
Căn bản là đại bi,
Đại từ bi như vậy,
Nay đang ở nơi nào?
Nếu không có đại bi,
Thì chẳng gọi là Phật.
Nếu Phật vào Niết-bàn,
Thì chẳng gọi là thường.
Xin nguyện đấng Vô thượng,
Nghe lời chúng con thỉnh,
Vì lợi ích chúng sanh.
Hàng phục hết ngoại đạo.
Lúc ấy, đức Thế Tôn với lòng đại bi tràn ngập trong tâm, biết được hết thảy niệm
tưởng của mỗi một chúng sanh. Ngài muốn tùy thuận cho họ được sự lợi ích rốt
ráo, liền từ chỗ nằm ngồi dậy, ngồi theo kiểu kết già, sắc mặt vui tươi sáng
chói như sắc vàng ròng, đoan nghiêm như vầng trăng tròn, hình dung trong sạch
chẳng chút bợn nhơ. Ngài phóng hào quang chói sáng, tràn khắp hư không. Hào
quang ấy sáng hơn cả ánh sáng của trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các cõi Phật ở
mười phương: đông, nam, tây, bắc và bốn phương kế cận, cùng phương trên và
phương dưới. Ngài rộng lòng ban phát đuốc sáng đại trí tuệ cho khắp chúng sanh,
khiến họ dứt trừ vô minh đen tối, khiến trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh đều
được trụ yên nơi tâm Bồ-đề, không còn thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn trong lòng không chút nghi lự, như bậc sư tử chúa. Ngài
dùng ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân và tám mươi vẻ đẹp mà trang nghiêm
thân mình. Hết thảy những lỗ chân lông trên thân ngài, mỗi một lỗ chân lông đều
hiện ra một đóa hoa sen. Các hoa sen ấy rất đẹp, mỗi hoa có cả ngàn cánh, đều là
màu vàng ròng, cuống hoa bằng lưu ly, nhụy hoa bằng kim cang, đài hoa bằng ngọc
mân khôi, hình lớn và tròn như bánh xe. Từ nơi các hoa sen ấy phóng ra hào
quang đủ màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, tía và màu pha lê. Các hào quang ấy đều tỏa
chiếu ra khắp nơi, đến tận địa ngục A-tỳ, địa ngục Tưởng, địa ngục Hắc thằng, địa
ngục Chúng hiệp, địa ngục Khiếu hoán, địa ngục Đại khiếu hoán, địa ngục Tập nhiệt,
địa ngục Đại tập nhiệt. Đó là tám cõi địa ngục mà chúng sanh thường bị bức thiết
bởi mọi nỗi khổ, như bị đốt, bị nấu, bị nướng, chém, đâm, xẻ, lột... Khi chúng
sanh trong các cõi địa ngục gặp được hào quang ấy rồi, các nỗi khổ như trên liền
tiêu diệt hết, trở nên an ổn, mát mẻ, khoái lạc vô cùng. Trong ánh hào quang ấy
lại nghe có tiếng thuyết pháp về kho tàng Chánh pháp sâu kín của Như Lai, rằng:
‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.’ Chúng sanh ở địa ngục nghe như vậy rồi liền
mạng chung, sanh lên các cõi người, cõi trời.
Hào quang ấy lại chiếu tới tám thứ địa ngục lạnh: địa ngục A-ba-ba, địa ngục
A-tra-tra, địa ngục A-la-la, địa ngục A-bà-bà, địa ngục Ưu-bát-la, địa ngục
Ba-đầu-ma, địa ngục Câu-vật-đầu, địa ngục Phân-đà-lỵ. Trong các cõi địa ngục
này, chúng sanh thường bị bức não bởi những nỗi khổ vì lạnh, như da thịt nứt nẻ,
thân thể hư nát... tàn hại lẫn nhau. Gặp được hào quang ấy rồi, mọi nỗi khổ như
vậy đều dứt tuyệt, họ được điều hòa, ấm áp, thích thú. Trong ánh hào quang ấy,
lại cũng nghe có tiếng thuyết pháp về kho tàng Chánh pháp sâu kín của Như Lai,
rằng: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật’. Các chúng sanh ở địa ngục nghe như
vậy rồi liền mạng chung, sanh lên các cõi người, cõi trời.
Lúc ấy, ở cõi Diêm-phù-đề này cùng ở các thế giới khác, có bao nhiêu địa ngục
thảy đều trống rỗng, không còn người chịu tội, chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề.
Trong cõi ngạ quỷ, chúng sanh bị bức thiết vì đói khát, tóc dài phủ xuống quấn
quanh thân hình, trải qua trăm ngàn năm chưa từng được nghe đến tên gọi của nước,
[huống gì là việc được ăn uống]! Khi gặp được hào quang ấy, sự đói khát của họ
liền dứt ngay. Trong ánh hào quang ấy, lại cũng có tiếng thuyết pháp về kho
tàng Chánh pháp sâu kín của Như Lai, rằng: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.’
Chúng sanh cõi ngạ quỷ nghe như vậy rồi liền mạng chung, sanh lên các cõi người,
cõi trời.
Lúc ấy, bao nhiêu cõi ngạ quỷ đều trở nên trống rỗng, không còn người chịu tội,
chỉ trừ những kẻ phỉ báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa.
Trong cõi súc sanh, chúng sanh giết hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Những chúng
sanh đó gặp được hào quang [từ các hoa sen của Phật chiếu ra] rồi, lòng oán hận
liền dứt hết. Trong hào quang ấy cũng có tiếng thuyết pháp về kho tàng Chánh
pháp sâu kín của Như Lai, rằng: ‘Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.’ Chúng
sanh cõi súc sanh nghe rồi liền mạng chung, sanh lên cõi người, cõi trời.
Lúc ấy, cõi súc sanh cũng trở nên trống rỗng, chỉ còn lại những kẻ phỉ báng
Chánh pháp.
Trên mỗi hoa sen đều [hóa hiện] có một đức Phật, có vầng hào quang tròn đường
kính một tầm, màu vàng sáng rực, đoan nghiêm vi diệu, cao trổi không gì sánh bằng.
Mỗi đức Phật đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm
thân mình. Trong các đức Thế Tôn ấy, có vị ngồi, có vị đi, có vị nằm, có vị đứng,
có vị làm sấm sét, có vị tuôn mưa, có vị phóng ra chớp điện, có vị làm nổi gió,
cũng có vị làm xuất hiện khói lửa, thân như một đám lửa... Lại có vị hiện ra
núi cao, ao suối, sông rạch, rừng núi cây cối thảy đều bằng bảy món báu. Cũng
có vị thị hiện cõi nước bằng bảy món báu, có đủ thành ấp, làng xóm, cung điện,
nhà cửa... Lại có vị thị hiện voi, ngựa, sư tử, cọp sói, chim sẻ, phụng
hoàng... Cũng có vị thị hiện khiến cho chúng sanh ở Diêm-phù-đề thảy đều trông
thấy các cõi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Lại có vị thị hiện sáu cảnh trời thuộc
Dục giới.
Lại có vị Thế Tôn giảng về ấm, giới, nhập, các yếu tố ấy có nhiều sự tai hại.
Cũng có vị nói pháp Bốn thánh đế. Hoặc có vị giảng về nhân duyên các pháp. Có vị
lại dạy rằng các nghiệp phiền não đều do nhân duyên mà sanh. Cũng có vị nói về
giáo lý ngã và vô ngã. Hoặc có vị giảng thuyết về hai pháp khổ và lạc. Cũng có
vị nói về thường và vô thường. Lại có vị thuyết tịnh và bất tịnh. Lại có vị Thế
Tôn vì chư Bồ Tát mà diễn thuyết sáu pháp Ba-la-mật mà mình đã tu hành. Cũng có
vị nói chỗ được công đức của chư Đại Bồ Tát. Lại có vị nói chỗ được công đức của
chư Phật Thế Tôn. Cũng có vị nói chỗ được công đức của người trong hàng Thanh
văn. Lại có vị nói lẽ tùy thuận Nhất thừa. Cũng có vị nói Ba thừa thành đạo. Hoặc
có vị Thế Tôn thị hiện phun nước ra từ hông bên tả, tuôn lửa ra từ hông bên hữu.
Cũng có vị thị hiện đản sanh, xuất gia, ngồi nơi Đạo tràng tại gốc cây Bồ-đề,
chuyển bánh xe diệu pháp, nhập Đại Niết-bàn. Lại có vị Thế Tôn phát ra tiếng
[thuyết pháp] hùng hồn như sư sử rống, khiến ai nấy trong hội của ngài đều đắc
quả, như các quả thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, cho đến quả thứ tư. Hoặc có vị giảng
thuyết vô lượng nhân duyên lìa khỏi sanh tử.
Lúc ấy, trong cõi Diêm-phù-đề có những chúng sanh gặp được hào quang ấy rồi, kẻ
mù liền được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm có thể nói, kẻ què có thể đi, kẻ
nghèo được của cải, kẻ keo lận sanh lòng bố thí, kẻ giận hờn sanh lòng từ hòa,
kẻ bất tín lại sanh lòng tin... Như vậy, khắp thế giới không còn một chúng sanh
nào làm việc ác, chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề.
Lúc ấy, hết thảy các loài chúng sanh, từ chư thiên, loài rồng, quỷ thần,
càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, la-sát, kiện-đà, ưu-ma-đà,
a-bà-ma-la, loài người, loài phi nhân, đều cùng nhau xướng lên lời này: “Lành
thay, lành thay! Bậc tôn quý cao trổi nhất mang lại nhiều lợi ích.”
Nói ra lời ấy rồi, ai nấy đều lấy làm vui vẻ phấn khích, hoặc ca hoặc múa, hoặc
chuyển động thân thể, rồi mang đủ các loại hoa đến rảy cúng Phật và chư tăng,
như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ, hoa mạn-đà-la,
hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa tán-đà-na, hoa
ma-ha tán-đà-na, hoa lô-chi-na, hoa ma-ha lô-chi-na, hoa hương, hoa đại hương,
hoa thích ý, hoa đại thích ý, hoa ái kiến, hoa đại ái kiến, hoa đoan nghiêm,
hoa đệ nhất đoan nghiêm... Ai nấy lại rảy các thứ hương như hương trầm thủy,
hương da-già-lâu, hương chiên-đàn, hương uất kim, hương được trộn lẫn nhiều loại,
hương được tìm về từ các vùng ven biển... Lại còn đem các loại cờ báu, phướn, lọng
và các loại nhạc khí cõi trời như đàn tranh, ống địch, sênh, sắt, không hầu...
cùng trỗi lên để cúng dường Phật. Kế đó, họ đồng tụng kệ rằng:
Nay chúng con sẽ đại tinh tấn,
Vô thượng Chánh giác Lưỡng túc tôn!
Đại chúng: chư thiên, người chẳng rõ,
Chỉ có Cồ-đàm mới thấu đáo.
Thuở xưa Thế Tôn vì chúng con,
Tu khổ hạnh trong vô lượng kiếp.
Tại sao một ngày bỏ nguyện xưa,
Buông xả thân mạng, vào Niết-bàn?
Tất cả chúng sanh không thể thấy
Tạng sâu kín của Phật Thế Tôn.
Vì nhân duyên ấy, khó ra khỏi,
Luân hồi sanh tử, đọa ác đạo.
Như Phật có dạy: A-la-hán,
Tất cả đều sẽ đến Niết-bàn.
Chỗ Phật hạnh thâm sâu như vậy,
Phàm phu ngu hèn sao biết được?
Thí pháp cam lộ cho chúng sanh,
Để giúp dứt trừ phiền não vậy.
Nếu ai uống cam lộ đó rồi,
Chẳng còn chịu sanh, già, bệnh, chết.
Như Lai dùng đó mà liệu trị,
Trăm ngàn vô lượng các chúng sanh,
Khiến ai mắc phải các bệnh nặng,
Tất cả đều khỏi, không còn bệnh.
Thế Tôn từ lâu dứt bệnh khổ,
Nên được xưng là Phật thứ bảy.
Hôm nay xin Phật rưới mưa pháp,
Thấm nhuần mầm công đức chúng con.
Đại chúng, chư thiên và loài người đọc kệ thỉnh Phật như vậy rồi liền đứng yên.
Trong khi đại chúng tụng kệ ấy, tất cả chư Phật ngự trên các tòa sen từ cõi
Diêm-phù-đề lên tới trời Tịnh cư, thảy đều nghe rõ.
Lúc ấy, Phật bảo Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông đã có đủ trí
huệ thâm sâu và vi diệu như vậy, trí huệ ấy không thể bị tất cả chúng ma và ngoại
đạo phá hoại.
“Thiện nam tử! Ông đã trụ yên, tất cả các luồng gió tà ác sẽ không làm cho ông
nghiêng ngã được.
“Thiện nam tử! Ông nay đã thành tựu biện tài nhạo thuyết. Ông đã từng cúng dường
chư Phật Thế Tôn đời quá khứ nhiều như số cát vô lượng sông Hằng, cho nên mới
có thể thưa hỏi Như Lai Chánh giác về nghĩa như vậy.
“Thiện nam tử! Thuở xưa, cách nay vô lượng vô biên ức na-do-tha trăm ngàn vạn
kiếp, ta đã dứt trừ gốc bệnh, lìa hẳn những sự nằm, dựa...
“Ca-diếp! Về thuở quá khứ, cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có một đức Phật ra
đời, hiệu là Vô Thượng Thắng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc,
Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn. Ngài có thuyết kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này với hàng Thanh văn, mở
bày chỉ bảo, phân biệt, hiển phát nghĩa lý. Thuở ấy, ta cũng làm một vị Thanh
văn trong đồ chúng của đức Phật ấy, thọ trì kinh điển Đại Niết-bàn này, đọc tụng
thông suốt, sao chép trọn quyển kinh, lại vì người khác mà mở bày chỉ bảo, phân
biệt, thuyết giảng nghĩa lý. Ta lại đem căn lành ấy hồi hướng đến quả vị A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Từ thuở đó cho đến nay, ta chưa từng có những nghiệp duyên khổ
não hoặc nghiệp dữ khiến đọa ác đạo như: phỉ báng Chánh pháp, làm kẻ nhất-xiển-đề,
mang thân hoàng môn, thân không căn, thân hai căn, phản nghịch với cha mẹ, giết
A-la-hán, phá chùa tháp, hủy hoại Chúng tăng, làm thân Phật chảy máu, phạm Bốn
cấm giới nặng. Từ đó đến nay, thân tâm ta luôn được an ổn, không có các khổ
não.
“Ca-diếp! Nay ta thật không có bất kỳ bệnh tật gì. Vì sao vậy? Vì chư Phật Thế
Tôn từ lâu đã lìa xa hết thảy bệnh tật.
“Ca-diếp! Chúng sanh chẳng biết giáo pháp sâu kín của kinh Phương đẳng Đại thừa,
cho nên nói rằng Như Lai thật có bệnh.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai là sư tử trong loài người’, nhưng Như Lai thật chẳng
phải sư tử! Lời nói như vậy tức là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai là rồng lớn trong loài người’, nhưng trải qua vô
lượng kiếp ta đã lìa bỏ nghiệp [súc sanh] ấy rồi.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai là người, là trời’, nhưng ta thật chẳng phải người,
chẳng phải trời, cũng chẳng phải quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la già, chẳng phải ngã, chẳng phải [có thọ] mạng, chẳng phải nhờ dưỡng dục
mà thành, chẳng phải linh hồn, chẳng phải làm, chẳng phải không làm, chẳng phải
thọ, chẳng phải không thọ, chẳng phải Thế Tôn, chẳng phải Thanh văn, chẳng phải
thuyết, chẳng phải không thuyết. Những lời nói như vậy đều là giáo pháp sâu kín
của Như Lai.
“Này Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai như biển cả, như núi chúa Tu-di’, nhưng Như
Lai thật chẳng phải vị mặn [của biển], cũng chẳng phải [vô tri] như núi đá. Nên
biết rằng những lời nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai như hoa phân-đà-lỵ’, nhưng ta thật chẳng phải hoa
phân-đà-lỵ. Lời nói như vậy tức là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai như cha mẹ’, nhưng Như Lai thật không phải cha mẹ.
Lời nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai là đại thuyền sư’, nhưng Như Lai thật chẳng phải
là thuyền sư. Lời nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai như vị thương chủ’, nhưng Như Lai thật chẳng phải
là thương chủ. Lời nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai có thể hàng phục ma’, nhưng Như Lai thật không có
lòng ác, muốn cho kẻ khác phải khuất phục mình. Lời nói như vậy thảy đều là
giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Ví như nói ‘Như Lai có thể trị ghẻ độc’, nhưng ta thật chẳng phải là
thầy thuốc trị bệnh ghẻ. Lời nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Như trước đây ta có nói: ‘Như có kẻ nam, người nữ lòng lành biết tu chỉnh,
sửa trị ba nghiệp của thân, khẩu và ý, khi người ấy bỏ thân mạng, dù thân quyến
có đem thi hài thiêu trong lửa, hoặc thả xuống nước, hoặc để nơi nghĩa địa, bấy
giờ chồn, sói, cầm thú tranh nhau mà ăn thân xác ấy, còn tâm thức người ấy liền
sanh về cõi lành. Nhưng thật ra tâm thức ấy không có đi lại, cũng không có chỗ
đến, chỉ là trước sau có chỗ giống nhau, nối tiếp nhau, tướng mạo chẳng khác. Lời
nói như vậy cũng là giáo pháp sâu kín của Như Lai.
“Ca-diếp! Nay ta nói rằng ta có bệnh, cũng là như vậy, cũng là giáo pháp sâu
kín của Như Lai. Cho nên ta sai bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: ‘Nay ta đau nhức lưng.
Các ông nên vì Bốn chúng mà thuyết pháp.’
“Ca-diếp! Như Lai Chánh giác thật không có bệnh mà phải nằm nghiêng bên mặt,
ngài cũng không buông hết tất cả mà vào Niết-bàn.
“Ca-diếp! Đại Niết-bàn ấy tức là thiền định thâm sâu của chư Phật. Thiền định
như vậy chẳng phải là chỗ hàng Thanh văn, Duyên giác có thể làm được.
“Ca-diếp! Trước ông có hỏi: ‘Vì sao Như Lai nằm tựa chẳng dậy, chẳng đòi ăn uống,
chẳng dạy bảo người nhà việc xây dựng sự nghiệp?’
“Ca-diếp! Tánh của hư không vốn không có ngồi dậy, đòi hỏi ăn uống, dạy bảo người
nhà việc xây dựng sự nghiệp. Cũng không có sự đi lại, sanh diệt, già trẻ, hiện
ra hay mất đi, thương tổn, bể nát, giải thoát, trói buộc. Cũng chẳng tự nói, chẳng
nói kẻ khác. Cũng chẳng tự hiểu, chẳng hiểu kẻ khác, chẳng phải yên lành, chẳng
phải bệnh hoạn...
“Thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn cũng vậy, dường như hư không. Làm sao có các loại
bệnh khổ?
“Ca-diếp! Thế gian có ba loại bệnh nặng khó trị: một là phỉ báng Đại thừa, hai
là phạm Năm tội nghịch, ba là nhất-xiển-đề. Ba loại bệnh ấy là nặng nhất trong
đời, chẳng phải sức của Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát có thể liệu trị nổi.
“Thiện nam tử! Ví như người có bệnh nhất định phải chết thì khó mà trị được. Dù
có khám bệnh, chăm sóc tử tế, cho dùng thuốc thang; hoặc không khám bệnh, không
chăm sóc, không cho dùng thuốc thang, bệnh ấy vẫn chắc chắn là không thể liệu
trị. Nên biết rằng người bệnh ấy nhất định phải chết, không nghi ngờ gì nữa!
“Thiện nam tử! Ba loại người nói trên cũng vậy, dù cho các vị Thanh văn, Duyên
giác, Bồ Tát có thuyết pháp hay không thuyết pháp [cho họ nghe] cũng không thể
khiến họ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Ca-diếp! Ví như người bệnh, nếu được khám bệnh, chăm sóc tử tế, cho dùng thuốc
thang, ắt có thể khỏi bệnh. Nếu không có ba việc ấy thì không thể khỏi bệnh.
Hàng Thanh văn, Duyên giác cũng vậy, nhờ nương theo Phật, Bồ Tát, được nghe
Chánh pháp rồi liền có thể phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; không thể
không nhờ nghe Chánh pháp mà có thể phát tâm.
“Ca-diếp! Ví như có loại bệnh, dù có xem bệnh, chiều thuận theo ý, dùng thuốc
thang, hoặc không xem bệnh, chiều thuận theo ý, dùng thuốc thang, cũng vẫn được
khỏi bệnh. Có một hạng người cũng giống như vậy, dù gặp Thanh văn hay chẳng gặp
Thanh văn, dù gặp Duyên giác hay chẳng gặp Duyên giác, dù gặp Bồ Tát hay chẳng
gặp Bồ Tát, dù gặp Như Lai hay chẳng gặp Như Lai, dù được nghe Chánh pháp hay
chẳng được nghe Chánh pháp, vẫn tự nhiên được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Đó là những người hoặc vì thân mình, hoặc vì thân người, hoặc vì sợ sệt, hoặc
vì lợi dưỡng, hoặc vì nịnh bợ, hoặc vì dối gạt người khác mà sao chép kinh Đại
Niết-bàn này, [lại hết lòng] thọ trì, đọc tụng, cung kính cúng dường, vì người
khác mà giảng giải kinh này.
“Ca-diếp! Có năm hạng người tu tập kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này còn có
chỗ sai lầm, chưa phải là Như Lai. Đó là năm hạng người nào?
“Một là những người cắt đứt ba mối trói buộc, đạt được quả Tu-đà-hoàn, không đọa
địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, còn tái sanh bảy lần trong cõi trời người, vĩnh viễn
dứt trừ các nỗi khổ, vào nơi Niết-bàn. Ca-diếp! Đó gọi là hạng người thứ nhất
còn có chỗ sai lầm. Hạng người ấy trong tương lai, trải qua tám vạn kiếp sẽ được
thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Hai là những người cắt đứt ba mối trói buộc, giảm dần tham, sân, si, đạt được
quả Tư-đà-hàm, gọi là Nhất vãng lai, vĩnh viễn dứt trừ các nỗi khổ, vào nơi Niết-bàn.
Ca-diếp! Đó gọi là hạng người thứ nhì còn có chỗ sai lầm. Hạng người ấy trong
tương lai, trải qua sáu vạn kiếp sẽ được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Ba là những người cắt đứt năm mối trói buộc, đạt được quả A-na-hàm, chẳng còn
trở lại cõi này, vĩnh viễn dứt trừ các nỗi khổ, vào nơi Niết-bàn. Đó gọi là hạng
người thứ ba còn có chỗ sai lầm. Hạng người ấy trong tương lai, trải qua bốn vạn
kiếp sẽ được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Bốn là những người dứt tuyệt tham dục, sân khuể, ngu si, đạt được quả
A-la-hán, không còn phiền não, vào nơi Niết-bàn, nhưng chưa thành tựu hạnh kỳ
lân đứng riêng một mình. Đó gọi là hạng người thứ tư còn có chỗ sai lầm. Hạng
người ấy trong tương lai, trải qua hai vạn kiếp sẽ được thành A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Năm là những người dứt tuyệt tham dục, sân khuể, ngu si, thành tựu quả Phật
Bích-chi, không còn phiền não, vào nơi Niết-bàn. Người ấy thật đã thành tựu hạnh
kỳ lân đứng riêng một mình. Đó gọi là hạng người thứ năm còn có chỗ sai lầm. Hạng
người ấy trong tương lai, trải qua một vạn kiếp sẽ được thành A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Ca-diếp! Đó gọi là năm hạng người còn có chỗ sai lầm, chẳng phải là Như Lai.”
PHẨM THÁNH HẠNH
Phẩm thứ bảy - Phần một
Lúc ấy, đức Phật dạy Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát nên đối
với kinh Đại Niết-bàn này, chuyên tâm suy xét về năm hạnh. Những gì là năm hạnh?
Một là Thánh hạnh, hai là Phạm hạnh, ba là Thiên hạnh, bốn là Anh nhi hạnh và
năm là Bệnh hạnh.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát thường nên tu tập năm công hạnh ấy. Lại còn một
hạnh nữa gọi là hạnh Như Lai, đó là nói kinh Đại thừa Đại Niết-bàn.
“Ca-diếp! Bồ Tát ma-ha-tát tu tập Thánh hạnh như thế nào? Bồ Tát ma-ha-tát hoặc
theo Thanh văn, hoặc theo Như Lai, được nghe kinh Đại Niết-bàn này; nghe rồi liền
sanh lòng tin. Tin rồi nên suy xét rằng: ‘Chư Phật Thế Tôn có đạo cao trổi hơn
hết, có Chánh pháp lớn lao, có Đại chúng tu hành chân chánh, lại có kinh điển
Phương đẳng Đại thừa. Nay ta nên vì lòng ái mộ và ham muốn kinh Đại thừa mà lìa
bỏ vợ con, quyến thuộc thân ái, nơi ăn chốn ở, vàng bạc trân bảo, chuỗi ngọc tốt
đẹp, hương hoa kỹ nhạc, tôi tớ hầu hạ gái trai lớn nhỏ, voi ngựa xe cộ, bò dê
gà chó... mọi thứ.’
“Lại suy xét rằng: ‘Đời sống gia đình chật hẹp tù túng, dường như lao ngục, hết
thảy phiền não đều do đó mà sanh ra. Xuất gia thì rộng rãi thoáng đãng, dường
như hư không, tất cả pháp lành do đó mà nảy nở, tăng trưởng. Nếu ở nhà thì chẳng
được suốt đời tu tập hạnh thanh tịnh. Nay ta nên cạo râu xuống tóc, xuất gia học
đạo.’ Suy xét như vậy rồi, tự thấy nhất định phải xuất gia tu học đạo Bồ-đề vô
thượng chân chánh.
“Khi Bồ Tát muốn xuất gia như vậy, thiên ma Ba-tuần hết sức khổ não, tự nói rằng:
‘Bồ Tát ấy rồi sẽ cùng ta khởi cuộc chiến tranh.’ Thiện nam tử! Nhưng vị Bồ Tát
như vậy có lý nào lại gây sự chiến tranh với kẻ khác?
“Lúc ấy, Bồ Tát liền đến Tăng phường. Nếu gặp được Như Lai và đệ tử Phật, oai
nghi đầy đủ, các căn an tịnh, trong lòng liền được nhu hòa, trong sạch, tịch diệt,
liền cầu xin xuất gia, cạo râu xuống tóc, mặc ba tấm pháp y. Khi xuất gia rồi,
nghiêm giữ mọi giới cấm, oai nghi trọn đủ, đi đứng an tịnh, không xúc phạm bất
cứ ai; cho đến đối với tội nhỏ cũng sanh lòng sợ sệt. Tâm giữ giới của Bồ Tát ấy
bền chắc như kim cang.
“Thiện nam tử! Ví như có người dùng một cái phao để bơi qua biển cả. Bấy giờ,
giữa biển có một quỷ la-sát bám theo người ấy hỏi xin cái phao. Nghe xong, người
ấy liền suy nghĩ rằng: ‘Nay nếu ta cho cái phao, ắt phải bị chết chìm.’ Bèn đáp
rằng: “La-sát! Thà ngươi giết ta đi, chứ ngươi không thể lấy cái phao này.’
“La-sát lại nói rằng: ‘Nếu ông không thể cho tôi cả cái phao, thì xin thương
tình cho tôi phân nửa.’ Người ấy cũng không chịu.
“La-sát lại nói: ‘Nếu không thể cho tôi phân nửa, mong ông rủ lòng cho tôi một
phần ba.’ Người ấy cũng chẳng thuận.
“La-sát lại năn nỉ: ‘Nếu chẳng được vậy, cũng nên thí cho tôi một miếng chỉ bằng
bàn tay.’ Người ấy cũng nhất định không chịu.
“La-sát lại nói: ‘Nay nếu ông không thể cho tôi một miếng bằng bàn tay, tôi đây
phải chịu đói khổ bức bách. Cầu xin ông giúp cho tôi một mảnh nhỏ bằng hạt bụi
cũng được.’
“Người ấy đáp rằng: ‘Chỗ đòi hỏi của ông thật cũng không nhiều. Nhưng nay tôi
phải vượt biển, không biết gần xa như thế nào. Nếu tôi cho ông dù một mảnh nhỏ,
không khí trong phao sẽ theo đó mà thoát dần ra hết. Như vậy tôi biết nhờ vào
đâu để vượt qua biển cả? Giữa đường ắt phải chìm xuống nước mà chết!’
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát giữ gìn giới cấm cũng vậy, như người vượt biển
khéo giữ gìn cái phao. Bồ Tát trong khi giữ gìn giới cấm như vậy, thường có bọn
la-sát hung dữ là các phiền não đến nói rằng: “Ông nên tin tôi, tôi chẳng bao
giờ lại lừa dối ông. Nếu chỉ phá Bốn giới cấm nặng thôi, còn giữ đủ các giới
khác; nhờ nhân duyên ấy sẽ vẫn được yên ổn, vào Niết-bàn.’ Lúc ấy, Bồ Tát nên
đáp rằng: ‘Thà ta giữ giới cấm ấy mà vào địa ngục A-tỳ chứ quyết không hủy phạm
để sanh lên cõi trời.’
“La-sát phiền não lại nói rằng: ‘Như ông không thể phá Bốn giới cấm nặng, vậy
nên phá các giới tăng tàn. Nhờ nhân duyên ấy, ông sẽ được yên ổn, được vào Niết-bàn.’
Bồ Tát cũng không nên nghe theo lời xúi giục ấy.
“La-sát lại nói rằng: ‘Như ông không thể phạm các giới tăng tàn, cũng nên phạm
tội thâu-lan-già. Nhờ nhân duyên ấy, ông sẽ được yên ổn và được vào Niết-bàn.”
Lúc ấy, Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
“La-sát lại xúi giục rằng: ‘Như ông không thể phạm thâu-lan-già, vậy ông có thể
phạm xả đọa. Nhờ nhân duyên ấy, ông sẽ được yên ổn, được vào Niết-bàn.’ Lúc ấy
Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
“La-sát lại nói rằng: ‘Như ông không thể phạm xả đọa, nên phạm ba-dật-đề. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được yên ổn, được vào Niết-bàn.’ Lúc ấy, Bồ Tát cũng chẳng
nghe theo.
“La-sát nói tiếp rằng: ‘Như ông không thể phạm ba-dật-đề, tôi xin ông hãy hủy
phá giới đột-kiết-la. Nhờ nhân duyên ấy, ông sẽ được yên ổn, được vào Niết-bàn.’
“Lúc ấy, Bồ Tát tự suy nghĩ rằng: ‘Ngày nay, nếu ta phạm tội đột-kiết-la và
không tự bộc lộ, ắt ta không thể sang đến bờ bên kia của biển sanh tử mà được
Niết-bàn.’ Bồ Tát ma-ha-tát đối với các giới nhỏ nhất trong giới luật cũng giữ
gìn một cách kiên cố, tâm bền chắc như kim cang.
“Bồ Tát ma-ha-tát giữ gìn Bốn giới cấm nặng cho đến các giới đột-kiết-la, kiên
trì cẩn trọng như nhau, không có sai khác. Nếu Bồ Tát giữ gìn được kiên trì như
vậy tức là thành tựu đủ năm phần của giới. Đó là thành tựu giới làm thanh tịnh
các nghiệp căn bản của Bồ Tát; giới làm thanh tịnh các hành vi liên quan khác
trước đây và sau này; giới làm thanh tịnh sự nhận thức, thấy biết, xa lìa những
nhận thức sai lầm, xấu ác; giới làm thanh tịnh mọi ý niệm, luôn duy trì, giữ
gìn chánh niệm; và giới hồi hướng [mọi công đức] về quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.
“Ca-diếp! Vị Bồ Tát ma-ha-tát này lại có đủ hai thứ giới. Một là giới nhận lãnh
thọ học những kiến thức thế tục, hai là giới thành tựu Chánh pháp. Nếu Bồ Tát
giữ giới thành tựu Chánh pháp thì không bao giờ làm việc xấu ác. Nếu muốn giữ
giới nhận lãnh thọ học những kiến thức thế tục thì trước phải theo đúng pháp
tác bạch tứ Yết-ma rồi sau mới được thọ nhận.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có hai thứ giới: một là giới có tính chất quan trọng,
hai là giới nhằm ngăn ngừa sự ganh ghét của thế gian. Giới có tính chất quan trọng
là nói Bốn giới cấm nặng. Giới ngăn ngừa sự ganh ghét của thế gian là không làm
[những điều như] buôn bán, cân non, đong thiếu, dối gạt người khác, cậy thế lực
kẻ khác, chiếm đoạt tài vật người khác, cố ý hại người, phá hoại sự thành công của
người khác, [lười nhác] ngủ ngày, làm ruộng, trồng cây, khuếch trương sự nghiệp
riêng; không [vì lợi mà] nuôi voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, chó, khỉ,
chim sẻ, chim két, chim cộng-mạng, câu-chỉ-la, chó sói, cọp, beo, mèo, chồn...
hoặc các thú dữ khác; không tích lũy, chứa giữ những thứ như xe cộ, kẻ hầu hạ
trai, gái, lớn, nhỏ... hoặc vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã
não, san hô, ngọc bích, các thứ ngọc thạch, chén bát bằng đồng đỏ, thiếc trắng
và bằng thau, y phục dệt bằng lông thú hoặc ghép bằng lông chim, tất cả các giống
lúa, gạo, lúa mạch lớn, lúa mạch nhỏ, đậu, mè, bắp, nếp, đồ ăn còn sống hoặc nấu
chín...
“[Người giữ giới] chỉ ăn mỗi ngày một bữa, đă ăn rồi thì không ăn nữa. Nếu đi
khất thực hoặc khi ăn chung với Chúng tăng thường tự biết no bụng thì dừng,
không nhận sự mời thỉnh đặc biệt. Không ăn thịt, không uống rượu, không ăn năm
món cay nồng. Nhờ vậy trong thân không có mùi hôi, thường được chư thiên và tất
cả người đời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. [Những kẻ] nhanh chân
bước vội vì miếng ăn, rốt cùng không thể được sống lâu. [Người giữ giới chỉ] nhận
lãnh y phục vừa đủ che thân; dù đi tới đâu cũng luôn có đủ ba tấm pháp y và
bình bát, không lìa hai món ấy, như con chim không lìa đôi cánh.
“[Người giữ giới] không tích lũy chứa giữ các loại củ rễ, thân, mắt ghép, nhánh
ghép, hạt giống của cây. Không tích lũy chứa giữ kho báu như vàng, bạc, đồ ăn uống
chất chứa nơi nhà bếp và trong kho lẫm, áo quần, đồ trang sức, giường cao rộng
lớn, giường bằng ngà voi và bằng vàng, những món thêu dệt sặc sỡ chẳng nên dùng
làm nệm ngồi. Không chứa trữ những chiếu dệt bằng các nguyên liệu nhỏ mịn.
Không ngồi trên bành voi, yên ngựa... Không được dùng loại vải nhỏ mịn và đẹp
mà trải giường nằm. Ở đầu giường không được để hai cái gối, cũng không được nhận
giữ gối rất đẹp màu đỏ hoặc gối bằng cây sơn thếp màu vàng. Không khi nào xem
những cuộc đấu nhau giữa voi, ngựa, chiến xa, quân đội, [cho đến] đàn ông, đàn
bà, bò, dê, trâu, gà, trĩ, két... cũng không được cố ý đến xem chiến trận.
“[Người giữ giới cũng] không được lắng nghe những tiếng sáo, địch, ốc tù và, tiếng
trống, tiếng đàn cầm, đàn sắt, đàn tranh, đàn không hầu... cùng mọi tiếng ca nhạc
múa hát, chỉ trừ [những âm thanh để dâng lên] cúng dường Phật. Không tham gia
các trò vui đánh cờ, bài bạc, trò ba-la-tắc. Không xem các loài sư tử, voi đấu
nhau, không chơi đánh cờ, sáu môn cờ bạc ăn thua, đánh cầu, ném đá, thảy hồ, dắt
đường, chơi cờ tám đường quanh thành, [nói chung] hết thảy mọi trò vui đùa bỡn
cợt đều không nên tham dự hoặc đến xem...
“[Người giữ giới cũng] không được xem tướng tay, chân, mặt, mắt... Không được
dùng móng chân, móng tay, gương soi, cỏ thi, nhành dương, bát thủ, sọ người mà
làm quẻ bói. Cũng không được ngước nhìn các vì sao trên trời, trừ phi để phá
tan cơn buồn ngủ. Không được nhận những sứ mạng đi lại do kẻ có quyền chức giao
phó, không đem việc người này nói với người kia, đem việc người kia nói với người
này... Không bợ đỡ nịnh hót, sống bằng tà mạng. Cũng không được nói việc vua
quan, trộm cướp, đấu tranh, ăn uống, cùng những việc thất mùa đói kém, lo âu sợ
sệt, no đủ, vui sướng, an ổn trong cõi nước.
“Thiện nam tử! Đó gọi là giới mà vị Bồ Tát giữ theo để ngăn ngừa sự ganh ghét của
thế gian. Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát giữ trọn những giới ngăn che, chế ngự
như vậy, cũng không hề xem nhẹ hơn các giới có tính chất quan trọng.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát sau khi thọ trì các giới cấm như vậy rồi, liền
phát nguyện rằng: ‘Thà [tôi] đem thân này lao vào hầm sâu lửa dữ chứ quyết
không bao giờ hủy phạm các giới cấm mà chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đã
chế định, [chẳng hạn như] làm những việc không trong sạch với người nữ thuộc
dòng sát-lỵ, bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ...’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Thà ta dùng sắt
nóng đắp quanh thân hình chứ quyết không bao giờ dám nhận y phục của người đàn
việt có tín tâm khi tự mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Thà ta bỏ hòn sắt
nóng vào miệng nuốt chứ quyết không bao giờ dám dùng đến những thức ăn uống của
người đàn việt có tín tâm khi tự mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà nằm trên
sắt nóng chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận giường nằm, nệm gối của người đàn
việt có tín tâm khi tự mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Thà thân ta phải
chịu đựng ba trăm mũi giáo chứ quyết không bao giờ dám nhận thuốc men của người
đàn việt có tín tâm khi tự mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà nhảy vào
nồi sắt nóng chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận phòng ốc, nhà cửa của người
đàn việt có tín tâm khi tự mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà tự dùng
chùy sắt đập nát toàn thân này thành bụi nhỏ chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận
sự cung kính lễ bái của các hàng sát-lỵ, bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ... khi tự
mình đã phá giới.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà dùng lưỡi
đao, giáo bằng sắt nóng mà tự khoét hai mắt ra chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô nhìn những hình sắc đẹp bên ngoài.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dùi
sắt tự đâm thủng lỗ tai chứ quyết không bao giờ đem tâm nhiễm ô mà lắng nghe những
âm thanh hay lạ [của thế tục].’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dao
bén tự cắt bỏ mũi mình chứ quyết không bao giờ đem tâm nhiễm ô mà tham ngửi các
mùi thơm.’
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dao
bén tự cắt đứt lưỡi mình chứ quyết không bao giờ đem tâm nhiễm ô mà tham đắm những
vị ngon.”
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại phát nguyện rằng: ‘Ta thà dùng lưỡi
búa sắc bén tự chặt đứt thân mình, chứ quyết không bao giờ đem tâm nhiễm ô mà
tham đắm những sự xúc chạm êm ái.’
“Vì sao vậy? Vì những nhân duyên ấy có thể làm cho người tu hành đọa vào nơi địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
“Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát giữ gìn giới cấm. Bồ Tát ma-ha-tát giữ gìn
các giới cấm như vậy rồi, liền bố thí [mọi công đức thành tựu] cho hết thảy
chúng sanh. Vì nhân duyên ấy, nguyện cho tất cả chúng sanh đều giữ gìn giới cấm,
được giới thanh tịnh, giới tốt lành, giới không thiếu sót, giới không bị hủy
phá, giới Đại thừa, giới không thối chuyển, giới tùy thuận, giới rốt ráo, giới
thành tựu đầy đủ các pháp ba-la-mật.
“Thiện nam tử! Khi Bồ Tát ma-ha-tát tu trì giới thanh tịnh như vậy, liền được bắt
đầu trụ vào địa vị Bất động. Sao gọi là địa vị Bất động? Bồ Tát trụ vào địa vị
Bất động thì không còn có những sự dao động, sa đọa, thối chuyển hay tán thất.
“Thiện nam tử! Ví như núi Tu-di, lốc xoáy và những cơn gió mạnh không thể làm
cho núi ấy lay động, sụp đổ, đẩy lùi hay vỡ nát. Vị Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở địa
vị Bất động cũng vậy, không hề bị dao động vì hình sắc, âm thanh, hương vị, xúc
cảm... không còn bị sa đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, không thể thối lui
trở lại địa vị Thanh văn, Phật Bích chi, không bị những luồng gió tà kiến làm
cho tán loạn mà rơi vào nếp sống tà vạy không chân chánh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bất động còn có nghĩa là không bị dao động bởi tham dục,
sân khuể, ngu si; không sa đọa còn có nghĩa là không rơi vào Bốn cấm giới nặng;
không thối chuyển còn có nghĩa là không thối lui, buông bỏ giới luật mà quay về
đời sống thế tục; không tán thất còn có nghĩa là không vì trái nghịch với kinh
điển Đại thừa mà phải bị tán loạn, hư hoại mất.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát cũng không bị các ma phiền não làm khuynh
động, không bị ma năm ấm làm sa đọa. Cho đến khi [sắp thành đạo] ngồi nơi đạo
tràng dưới cội cây Bồ-đề, tuy có chúng ma từ cõi trời đến quấy phá cũng không
thể làm cho Bồ Tát thối lui đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bồ Tát
cũng không còn bị ma chết làm tán hoại.
“Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát tu tập Thánh hạnh.
“Thiện nam tử! Sao gọi là Thánh hạnh? Thánh hạnh, đó là chỗ hành trì của Phật
và Bồ Tát. Vì thế nên gọi là Thánh hạnh.
“Vì sao gọi chư Phật, Bồ Tát là thánh nhân? Vì các vị ấy có pháp của bậc thánh,
thường quán xét tánh rỗng không vắng lặng của các pháp. Vì nghĩa ấy, nên gọi là
thánh nhân. Vì có giới của bậc thánh nên gọi là thánh nhân. Vì có định, huệ của
bậc thánh nên gọi là thánh nhân. Vì có Bảy món báu của bậc Thánh là: tín, giới,
tàm, quý, đa văn, trí huệ, xả ly, cho nên gọi là Thánh nhân. Lại có bảy Thánh
giác nên gọi là Thánh nhân. Vì nghĩa ấy, nên lại gọi là Thánh hạnh.”
QUYỂN 12 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần hai
Lại nữa, thiện nam tử! Thánh hạnh của Đại Bồ Tát là quán sát
thân này từ đầu đến chân, trong đó duy chỉ toàn là những thứ như tóc, lông,
móng tay, móng chân, răng, các thứ dơ nhớp, da, thịt, gân, xương, tỳ, thận,
tim, phổi, gan, mật, ruột, dạ dày, hai tạng sanh và thục, các cơ quan đại, tiểu
tiện, nước mũi, nước miếng, nước mắt, những lớp mỡ, da mỏng bọc ở ngoài mỡ, tủy
xương, mủ, máu, não, các mạch từ não cho đến ngón chân cái...
“Trong khi Bồ Tát chuyên tâm quán sát như vậy, liền suy xét rằng: ‘Trong những
thứ đó có gì là ngã? Cái ngã thuộc về ai? Nó nằm ở chỗ nào? Cái gì thuộc về
ngã?’
“Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: ‘Bộ xương là ta chăng? Lìa bộ xương là ta chăng?’
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát liền loại bỏ da và thịt, chỉ quán xét riêng bộ xương trắng.
Lại suy xét rằng: ‘Màu sắc của xương có khác nhau như xanh, vàng, trắng... cho
đến [xám tro] như màu lông chim câu. Tướng trạng của xương như vậy cũng chẳng
phải là cái ngã. Vì sao vậy? Cái ngã đó chẳng phải xanh, vàng, trắng cho đến
[xám tro] như màu lông chim câu.’
“Khi Bồ Tát chú tâm quán tưởng như vậy liền dứt trừ được sự ham muốn đối với
hình sắc.
“Bồ Tát lại xét nghĩ rằng: ‘Bộ xương này do nhân duyên mà sanh. Nhân nơi xương
bàn chân mà chống chịu xương mắt cá; nhân nơi xương mắt cá mà chống chịu xương ống
chân; nhân nơi xương ống chân mà chống chịu xương đầu gối; nhân nơi xương đầu gối
mà chống chịu xương đùi; nhân nơi xương đùi mà chống chịu xương mu; nhân nơi
xương mu mà chống chịu xương chậu; nhân nơi xương chậu mà chống chịu xương sống;
nhân nơi xương sống mà chống chịu gân cốt; lại nhân nơi xương sống mà phía trên
có xương cổ; nhân nơi xương cổ mà chống chịu xương hàm; nhân nơi xương hàm mà
chống chịu bộ răng, trên hết lại có xương sọ; lại nhân nơi xương cổ mà chống chịu
xương vai; nhân nơi xương vai mà chống chịu xương cánh tay; nhân nơi xương cánh
tay mà chống chịu xương cổ tay; nhân nơi xương cổ tay mà chống chịu xương bàn
tay; nhân nơi xương bàn tay mà chống chịu xương ngón tay.’
“Khi Đại Bồ Tát quán xét như vậy, thấy hết thảy những xương hiện có trong thân
đều [là những phần] tách rời riêng biệt [kết hợp trong sự phụ thuộc lẫn nhau].
Quán xét được như vậy rồi liền dứt trừ ba thứ ham muốn: một là ham muốn nhan sắc,
hai là ham muốn dáng vẻ, ba là ham muốn xúc chạm.
“Khi Đại Bồ Tát quán xương màu xanh, liền thấy cõi đất này về bốn phương đông,
tây, nam, bắc và bốn phương kế cận, hai phương trên, dưới, thảy đều có tướng
màu xanh.
“Cũng như màu xanh, khi quán những màu vàng, trắng, xám cũng đều như vậy.
“Khi Đại Bồ Tát thực hiện phép quán như vậy, từ khoảng giữa hai chân mày liền
phóng ra những hào quang xanh, vàng, trắng, xám... Trong mỗi loại hào quang ấy,
Bồ Tát đều nhìn thấy có hình Phật. Thấy như vậy rồi, liền tự hỏi rằng: ‘Như
thân này là do những nhân duyên bất tịnh hòa hiệp mà thành, sao lại có thể ngồi,
dậy, đi, đứng, co lại, duỗi ra, cúi xuống, ngẩng lên, nhìn xem, nháy mắt, ho
hen, khóc lóc, vui cười...? Ở trong thân ấy không có chủ, vậy ai sai khiến như
vậy?’ Tự hỏi như vậy rồi, hình tượng chư Phật trong hào quang kia bỗng nhiên
không còn nữa.
“Bồ Tát lại nghĩ rằng: ‘Hoặc giả thức là ngã chăng, cho nên khiến chư Phật chẳng
vì ta mà thuyết dạy?’ Lại quán thức này lần lượt sanh diệt, dường như dòng nước
chảy, cũng không phải ngã.
“Bồ Tát lại xét nghĩ rằng: ‘Nếu thức không phải ngã thì hơi thở ra vào có lẽ là
ngã chăng?’ Lại xét rằng: ‘Hơi thở ra vào đó chính là tánh gió, mà tánh gió ấy
cũng nằm trong bốn đại. Trong bốn đại ấy, cái nào là ngã? Đất chẳng phải ngã,
nước, lửa, gió lại cũng chẳng phải ngã.’
“Bồ Tát lại nghĩ rằng: ‘Trong thân này hết thảy đều không có cái ngã. Chỉ có
tâm như cơn gió hòa hiệp với các nhân duyên mà hiện ra đủ mọi thứ hành vi, sự
việc. Cũng ví như những thứ do sức thần chú, ảo thuật tạo thành, lại cũng ví
như cái đàn không hầu, tùy theo ý người chơi mà phát ra âm thanh. Cho nên thân
này là không trong sạch như vậy, do các nhân duyên giả hợp mà thành.
“Vậy do nơi đâu mà sanh ra tham dục? Nếu bị người khác nhục mạ, lại do nơi đâu
mà sanh sân khuể? Thân này của ta chứa 36 thứ, thảy đều là hôi thối, không
trong sạch, vậy do nơi đâu có người bị mạ nhục?’ Nếu nghe tiếng mạ nhục, liền
suy xét rằng: ‘Do nơi tiếng nào thấy được sự mạ nhục?’ Liền xét trong mỗi tiếng
riêng rẽ không tiếng nào có thể thấy được sự mạ nhục. Nếu mỗi tiếng không thể
thấy sự mạ nhục, thì nhiều tiếng hợp lại cũng không thể thấy sự mạ nhục. Vì
nghĩa ấy mà không nên sanh tâm sân hận.’
“Nếu người khác đánh đập mình, cũng nên xét rằng: ‘Sự đánh đập đó, do đâu mà
sanh?’ Lại xét rằng: “Do có tay người, dao gậy, và thân ta nên mới có cái gọi
là đánh đập. Nay vì duyên cớ gì ta lại nổi giận với người khác? Chính do cái
thân này của ta tự chuốc lấy tai hại ấy. Do cái thân năm ấm mà ta thọ lãnh,
cũng ví như nhân cái đích mới có mũi tên bắn trúng. Thân ta cũng thế, bởi có
thân nên mới có sự đánh đập. Nếu ta không nhẫn chịu, tâm ắt phải tán loạn. Nếu
tâm tán loạn, ắt phải mất chánh niệm. Nếu mất chánh niệm, ắt không thể quán xét
ý nghĩa thiện và bất thiện. Nếu không thể quán xét ý nghĩa thiện và bất thiện, ắt
sẽ làm việc ác. Do tạo nhân duyên ác, ắt phải đọa vào những cảnh giới địa ngục,
súc sanh, ngạ quỷ.
“Bấy giờ, Bồ Tát đã quán xét như vậy rồi liền được Bốn niệm xứ. Đạt được Bốn niệm
xứ rồi, ắt sẽ được trụ ở địa vị Kham nhẫn. Đại Bồ Tát trụ ở địa vị ấy rồi, ắt
có thể nhẫn chịu đối với sự tham dục, sân khuể, ngu si, cũng có thể nhẫn chịu đối
với những sự lạnh nóng, đói khát, muỗi mòng, chí rận, gió mạnh, sự xúc chạm
hung dữ, mọi thứ dịch bệnh, người ác khẩu chửi mắng hay đánh đập, hành hạ... Mọi
khổ não về thân tâm đều có thể nhẫn chịu được tất cả. Vì thế nên gọi là trụ ở địa
vị Kham nhẫn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát chưa được trụ ở địa vị Bất động,
trong khi giữ giới thanh tịnh, có nhân duyên gì có thể phá giới chăng?”
“Thiện nam tử! Bồ Tát chưa được trụ ở địa vị Bất động, khi có nhân duyên có thể
phá giới.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn, đó là những nhân duyên gì?”
Phật bảo Ca-diếp: “Nếu Bồ Tát biết là dùng nhân duyên phá giới thì có thể khiến
người khác thọ trì và ưa chuộng, ngưỡng mộ kinh điển Đại thừa, lại có thể khiến
người khác đọc tụng thông suốt, sao chép trọn quyển kinh, vì người khác mà thuyết
giảng rộng, không còn thối lui đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
thì vì những việc [lợi lạc] như vậy, vị Bồ Tát có thể phá giới. Lúc ấy, Bồ Tát
nên nghĩ rằng: ‘Ta thà đọa vào địa ngục A-tỳ để chịu tội trong một kiếp hoặc một
kiếp giảm, nhưng nhất thiết phải [dùng phương tiện] khiến cho những người như vậy
không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Ca-diếp! Vì nhân duyên ấy, vị Bồ Tát ma-ha-tát có thể hủy phạm giới thanh tịnh.”
Lúc ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát giữ gìn, bảo vệ
những người như vậy, khiến họ không còn thối chuyển đối với tâm Bồ-đề, thì
không có lý nào vì sự [phương tiện] hủy phạm giới hạnh thanh tịnh như vậy mà phải
đọa vào địa ngục A-tỳ.”
Bấy giờ, Phật ngợi khen Văn-thù-sư-lợi rằng: “Lành thay, lành thay, đúng như
ông vừa nói đó! Ta nhớ lại thuở xưa, ở cõi Diêm-phù-đề này ta làm một vị Đại quốc
vương tên là Tiên Dự, thường ái mộ, tưởng nhớ, kính trọng kinh điển Đại thừa.
Lòng vua thuần thiện, không có những điều thô ác, tật đố, tham lam keo kiệt; miệng
vua thường nói ra những lời thân ái, hiền lành, thường đem thân bảo vệ che chở
những kẻ bần cùng, cô độc, thường làm việc bố thí, tinh tấn, không hề lười
nhác.
“Thuở ấy không có Phật, Thanh văn, Duyên giác ra đời. Ta vì ái mộ kinh điển
Phương đẳng Đại thừa nên trong 12 năm lo phụng sự các thầy bà-la-môn, cung cấp
mọi sự cần dùng. Qua 12 năm, việc cúng dường đã xong, ta bèn nói rằng: ‘Nay các
thầy nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Có thầy bà-la-môn nói: ‘Đại vương! Tánh Bồ-đề ấy vốn là không có, kinh điển Đại
thừa cũng vậy. Sao đại vương lại khiến cho con người và vạn vật đồng như hư
không?’
“Thiện nam tử! Thuở ấy, trong lòng ta tôn trọng Đại thừa nên vừa nghe thầy
bà-la-môn ấy phỉ báng kinh Phương đẳng như vậy, ta liền giết chết ngay.
“Thiện nam tử! Nhân duyên là như vậy, mà từ ấy đến nay ta không hề đọa vào địa
ngục.
“Thiện nam tử! Nhờ sự ủng hộ, giữ gìn kinh điển Đại thừa mới có được thế lực vô
lượng như vậy.”
Đức Phật lại bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Ca-diếp! Còn có Thánh hạnh gọi là Tứ thánh đế.
Khổ, Tập, Diệt, Đạo gọi là Tứ thánh đế.
“Ca-diếp! Khổ là tướng bức bách. Tập là tướng có sức sanh trưởng. Diệt là tướng
tịch diệt. Đạo là tướng Đại thừa.
“Lại nữa, thiện nam tử! Khổ là tướng hiện ra. Tập là tướng chuyển đổi. Diệt là
tướng dứt trừ. Đạo là tướng có năng lực dứt trừ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Khổ đó, có ba tướng khổ là tướng khổ vì sự khổ, tướng
khổ vì các hành và tướng khổ vì hoại diệt. Tập, là hai mươi lăm cảnh giới hiện
hữu. Diệt, là dứt trừ hết thảy hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Đạo là tu tập
giới, định, huệ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Pháp hữu lậu có hai loại: pháp có nhân và pháp có quả.
Pháp vô lậu cũng có hai loại: pháp có nhân và pháp có quả. Quả của pháp hữu lậu
gọi là khổ. Nhân của pháp hữu lậu gọi là tập. Quả của pháp vô lậu gọi là diệt.
Nhân của pháp vô lậu gọi là đạo.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có tám tướng gọi là khổ. Đó là: sanh là khổ, già là khổ,
bệnh là khổ, chết là khổ, yêu mến phải lìa xa là khổ, oán ghét phải gặp nhau là
khổ, mong cầu không được là khổ, năm ấm bạo phát là khổ.
“Vì phát sanh tám tướng khổ nên gọi là tập. Chỗ không có tám pháp khổ ấy gọi là
diệt. Mười sức, Bốn đức chẳng sợ, Ba chỗ niệm, tâm đại bi, đó gọi là đạo.
“Thiện nam tử! Sanh là tướng xuất hiện. Có năm loại: một là vừa mới xuất hiện,
hai là đã thành hình, ba là ngày càng phát triển lớn lên, bốn là ra khỏi thai,
năm là sanh ra thành chủng loại.
“Những gì là già? Già có hai loại: một là già đi trong từng giây phút, hai là
già lúc cuối đời. Lại có hai loại: một là già trong khi tăng trưởng, lớn lên;
hai là già trong khi hoại diệt. [Những trạng thái] như vậy đều gọi là già.
“Thế nào là bệnh? Đó là nói bốn đại như bốn con rắn độc không hòa hợp nhau. Lại
có hai loại bệnh: một là bệnh nơi thân, hai là bệnh nơi tâm. Thân bệnh có năm
loại: một là do nước, hai là do gió, ba là do sức nóng, bốn là do nhiều nguyên
nhân lẫn lộn, năm là do nguyên nhân từ bên ngoài.
“Bệnh do nguyên nhân từ bên ngoài có bốn loại: một là do gắng gượng làm những
việc vượt quá sức mình, hai là do sơ ý té ngã, ba là do dao gậy, gạch đá, bốn
là do các loài quỷ mỵ vướng mắc.
“Tâm bệnh cũng có bốn loại: một là phấn khích, hai là khiếp sợ, ba là lo buồn,
bốn là ngu si.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bệnh của thân tâm thường có ba loại. Những gì là ba? Một
là do nghiệp báo, hai là do không lìa xa được những [tác động] đối nghịch xấu
ác, ba là do thời tiết thay đổi.
“[Từ đó] sanh ra sự phân biệt [các bệnh] theo nhân duyên, tên gọi, cảm thọ.
[Phân biệt bệnh theo] nhân duyên là như các thứ bệnh [trúng] phong, [bệnh nhiễm
nước] v.v... [Phân biệt bệnh theo] tên gọi là như bệnh tâm muộn (trong lòng buồn
bực) bệnh sưng phổi, bệnh thượng khí (hơi đưa lên), bệnh ho nghịch, bệnh khiếp
nhược, bệnh kiết lỵ... [Phân biệt bệnh theo] cảm thọ là như bệnh nhức đầu, bệnh
đau mắt, bệnh tay chân nhức mỏi... Như thế đều gọi chung là bệnh.
“Những gì gọi là chết? Chết nghĩa là xả bỏ cái thân đang có. Xả bỏ cái thân
đang có, cũng có hai trường hợp: một là do thọ mạng đã hết mà chết, hai là do
nhân duyên bên ngoài mà chết.
“Thọ mạng đã hết mà chết lại có ba loại: một là thọ mạng đã dứt nhưng phước đức
chưa dứt, hai là phước đức đã dứt nhưng thọ mạng chưa dứt, ba là cả phước đức
và thọ mạng đều dứt hết.
“Do nhân duyên bên ngoài mà chết cũng có ba trường hợp: một là chẳng phải số phần
của mình nhưng tự hại mà chết, hai là bị kẻ khác hại chết, ba là cùng chết với
kẻ khác.
“Lại có ba loại chết: một là chết phóng dật, hai là chết phá giới, ba là chết mạng
căn hư hoại.
“Sao gọi là chết phóng dật? Nếu có người phỉ báng [các kinh] Phương đẳng Đại thừa,
Bát-nhã ba-la-mật, đó gọi là chết phóng dật.
“Sao gọi là chết phá giới? Hủy phạm những giới cấm mà chư Phật quá khứ, vị lai,
hiện tại chế định. Đó gọi là chết phá giới.
“Sao gọi là chết mạng căn hư hoại? Xả bỏ thân năm ấm. Đó gọi là chết mạng căn
hư hoại.
“Như vậy gọi rằng chết là nỗi khổ lớn lao!
“Những gì gọi rằng yêu mến phải lìa xa là khổ? Những vật mình yêu mến bị phá hoại,
lìa tan. Những vật mình yêu mến bị hư hoại, lìa tan cũng có hai trường hợp: một
là ở cõi người, năm ấm bị hư hoại, hai là ở cõi trời năm ấm bị hư hoại. Năm ấm
mà người ta và chư thiên yêu mến, phân biệt, kể đếm ra có vô số chủng loại. Như
vậy gọi rằng yêu mến phải lìa xa là khổ.
“Sao gọi rằng oán ghét phải gặp nhau là khổ? [Đó là khi] những gì mình không
yêu mến lại phải cùng tụ họp một nơi.
“Những gì mình không yêu mến lại phải cùng tụ họp một nơi cũng có ba trường hợp.
Đó là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Ba cảnh khổ ấy, phân biệt kể đếm ra có đến
vô số chủng loại. Như vậy gọi rằng oán ghét phải gặp nhau là khổ.
“Sao gọi rằng mong cầu không được là khổ? Mong cầu không được là khổ cũng có
hai trường hợp: một là đặt niềm hy vọng, mong cầu mà không thể được; hai là tốn
công gắng sức rất nhiều nhưng chẳng được kết quả. Như vậy đều gọi rằng mong cầu
không được là khổ.
“Sao gọi rằng năm ấm bạo phát là khổ? Cái khổ năm ấm bạo phát ấy là khổ sanh,
khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ yêu mến phải lìa xa, khổ oán ghét phải gặp
nhau, khổ mong cầu mà chẳng được. [Những nỗi khổ này đều có căn bản phát sanh từ
sự tụ họp, xung khắc và tan rã của năm ấm nên] như vậy gọi rằng năm ấm bạo phát
là khổ.
“Ca-diếp! Do nơi sanh là căn bản mà có bảy thứ khổ kia, từ khổ già cho đến khổ
năm ấm bạo phát.
“Ca-diếp! Sự già yếu không phải tất cả đều có. Như Phật và chư thiên nhất định
không có sự già yếu. Còn trong nhân loại thì không nhất định: kẻ có, người
không.
“Ca-diếp! Trong Ba cõi, có thọ thân thì không ai là không có sanh, nhưng tướng
già thì không nhất định. Cho nên sanh là căn bản của tất cả. Chúng sanh ở thế
gian vì sự điên đảo che lấp trong tâm nên tham đắm tướng sanh, ghê sợ những tướng
già, chết. Ca-diếp! Bồ Tát không phải như thế, quán xét từ tướng sanh ra ban đầu
đã thấy chỗ tai hại rồi!
“Ca-diếp! Như có một cô gái kia vào nhà kẻ khác. Cô gái ấy đoan chánh, vẻ mặt
và hình tướng đều rất đẹp, lại còn dùng chuỗi ngọc tốt để trang điểm trên thân.
Chủ nhà nhìn thấy cô liền hỏi rằng: ‘Cô tên họ gì? Là người của ai?’ Cô gái đáp
rằng: ‘Tôi đây chính là Công Đức Đại Thiên.’ Chủ nhân lại hỏi: ‘Cô đến đây để
làm gì?’ Cô gái đáp: ‘Những nơi tôi đến đều có thể được ban cho đủ các loại
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, voi, ngựa,
xe cộ, tôi trai, tớ gái, kẻ hầu người hạ...’ Chủ nhà nghe xong sanh lòng vui mừng,
phấn khích vô cùng, liền nói rằng: ‘Nay tôi có phước đức nên khiến cô đến nhà
tôi.’ Người ấy liền đốt hương, rảy hoa cúng dường, cung kính lễ bái.
“Lúc ấy, ngoài cửa lại có một cô gái khác hình dạng xấu xí, áo quần rách nát,
dơ bẩn, da thịt nứt nẻ, sắc diện già nua, nhợt nhạt... Chủ nhà thấy vậy lại hỏi
rằng: ‘Cô tên họ gì? Là người của ai?’ Cô gái đáp rằng: ‘Tôi tên là Hắc Ám.’ Lại
hỏi: ‘Vì sao cô có tên là Hắc Ám?’ Cô gái đáp: ‘Những nơi tôi đi đến, có thể
làm cho mọi thứ của cải, đồ quý trong nhà ấy đều hao tổn, suy giảm.’ Nghe xong,
chủ nhà liền cầm dao bén nói rằng: ‘Nếu cô không đi ngay ta sẽ giết chết cô.’
Cô gái đáp rằng: ‘Ông thật quá ngu si, chẳng có chút trí huệ.’ Chủ nhà hỏi:
‘Sao lại gọi là ngu si, không có trí huệ?’ Cô gái đáp: ‘Người ở trong nhà ông
đó là chị của ta. Chị ấy với ta thường cùng đi với nhau. Nếu ông đuổi ta, cũng
là đuổi chị ấy.’
“Chủ nhân trở vào nhà hỏi Công Đức Thiên rằng: ‘Bên ngoài có một cô gái nói là
em của cô, có thật vậy chăng?’ Công Đức Thiên nói: ‘Thật là em tôi. Tôi với cô
em đó thường đi chung với nhau, chưa từng xa lìa. Đến ở nơi nào thì tôi thường
làm việc tốt, em tôi thường làm việc xấu, tôi thường làm lợi ích, em tôi thường
gây suy giảm, tổn hao. Nếu yêu mến tôi, cũng phải yêu mến em tôi. Như cung kính
tôi, cũng phải cung kính em tôi.’
“Chủ nhà liền nói: ‘Nếu có việc tốt lẫn xấu như vậy thì tôi đây không cần cả
hai, các cô cứ tùy ý mà đi đi.’ Bấy giờ, hai cô gái cùng đưa nhau đi, định trở
về chỗ cũ. Chủ nhà thấy họ đi rồi, trong lòng vui vẻ, phấn khích vô cùng.
“Lúc ấy, hai cô gái cùng đi với nhau, đến một nhà nghèo kia. Người nhà nghèo ấy
nhìn thấy hai cô rồi, trong lòng vui vẻ, liền thỉnh mời rằng: ‘Từ nay trở đi
xin hai cô cứ ở lại nhà tôi.’ Công Đức Thiên nói: ‘Trước đây chúng tôi vừa bị
người khác đuổi đi. Cớ sao ông lại thỉnh mời cả hai chúng tôi ở lại?’ Người nhà
nghèo đáp rằng: “Nay cô nghĩ đến tôi, tôi vì cô mà cũng cung kính cô kia. Cho
nên tôi thỉnh mời cả hai cô cùng ở lại nhà tôi.’
“Ca-diếp! Bồ Tát ma-ha-tát cũng như thế, chẳng nguyện sanh lên cảnh trời, vì có
sanh tất phải có già, bệnh, chết. Vì vậy nên dứt hết, chưa từng khởi lòng yêu mến.
Những kẻ phàm ngu chẳng biết chỗ tai hại của già, bệnh, chết nên ham thích cả
hai pháp sống và chết.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như có đứa trẻ dòng bà-la-môn, đang lúc quá đói, thấy ở
trong đống phân người có một trái am-la liền đưa tay nhặt lấy. Người có trí thấy
vậy, quở trách rằng: ‘Cậu là người dòng bà-la-môn thanh tịnh, sao lại nhặt trái
dơ trong đống phân?’ Đứa trẻ ấy nghe xong, thẹn đỏ mặt, đáp rằng: ‘Tôi thật
không ăn, chỉ muốn lấy rửa cho sạch rồi ném bỏ.’ Người có trí kia liền bảo nó rằng:
‘Mày thật quá ngu si, nếu định ném bỏ thì trước đó chẳng nên nhặt lấy.’
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, đối với cái sanh, chẳng thọ cũng chẳng
bỏ, như người có trí kia quở trách đứa trẻ. Những kẻ phàm phu ưa sống ghét chết,
như đứa trẻ kia nhặt trái rồi lại vứt đi.
“Lại nữa Ca-diếp! Ví như có người mang nhiều thức ăn đủ các màu sắc, hương vị,
đến chỗ ngã tư đường để bán. Có người từ xa đến, đói kém suy nhược, thấy cơm và
thức ăn có đủ các màu sắc, hương vị liền dừng lại, hỏi rằng: ‘Đây là những món
gì?’ Người chủ nói: ‘Đây là những thức ăn ngon nhất, có đủ màu sắc, hương vị.
Như ai ăn vào thì được hình sắc tốt đẹp, có sức mạnh, trừ được đói khát, được gặp
chư thiên. Chỉ có một điều tai hại là phải chết.’ Người ấy nghe rồi liền nghĩ rằng:
‘Nay tôi chẳng cần hình sắc, sức mạnh, gặp chư thiên, cũng chẳng muốn chết.’ Liền
hỏi rằng: ‘Nếu ăn vào phải chết, vậy nay ông mang bán những thức ăn này làm
gì?’ Người chủ thức ăn đáp rằng: ‘Người có trí chẳng bao giờ chịu mua, duy có
những kẻ ngu không hiểu việc ấy, trả cho tôi nhiều tiền, vì tham mà ăn.’
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát cũng như thế, chẳng nguyện sanh lên cõi trời,
được hình sắc tốt, sức mạnh, gặp chư thiên. Vì sao vậy? Vì những việc ấy cũng
chẳng khỏi các sự khổ não. Những kẻ phàm ngu, tùy chỗ sanh ra đều đem lòng tham
mến. Là vì không thấy được những sự [khổ là] già, bệnh, chết.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như cây có độc, rễ nó có thể làm chết người, thân nó
cũng có thể làm chết người, cho đến vỏ cây, hoa, trái, hạt... thảy đều có thể
làm chết người. Thiện nam tử! Trong 25 cảnh giới hiện hữu, tùy chỗ thọ sanh mà
thọ nhận năm ấm cũng vậy, hết thảy đều có thể làm chết người.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như phẩn dơ, dù nhiều hay ít cũng đều hôi thối. Thiện nam
tử! Sự sanh ra cũng vậy, dù cho sống lâu đến tám vạn năm, hoặc chỉ được mười tuổi
cũng đều là chịu khổ.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như cái hầm nguy hiểm, bên trên có cỏ che phủ, bên cạnh
mép hầm lại có nhiều cam lộ. Như ai ăn được chất cam lộ ấy thì sống đến ngàn
năm, trừ tuyệt các bệnh, an ổn khoái lạc. Những kẻ phàm ngu vì tham ăn món ấy,
không biết là phía dưới có cái hầm rất sâu, liền đi tới để lấy, bất ngờ trượt
chân, sa xuống hầm mà chết. Người trí đã biết nên lìa bỏ, lánh xa.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, cho đến những món ăn ngon nhất ở cõi
trời còn chẳng tham muốn, huống gì món ăn ở cõi người? Kẻ phàm tục cho đến ở
nơi địa ngục còn nuốt lấy những hòn sắt nóng, huống chi những món ăn ngon thịnh
soạn ở cõi trời, cõi người, làm sao có thể không [tham] ăn?
“Ca-diếp! Bởi những thí dụ ấy, và còn vô số thí dụ khác nữa, nên biết rằng sự
sanh ra thật là nỗi khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét
sự sanh ra là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét
già là khổ? Sự già nua có thể khiến cho người ta phải bị ho hen, khí nghịch đưa
lên; có thể làm tiêu mất sức mạnh, trí nhớ; làm mất đi tuổi thanh niên tráng kiện,
sự khoái lạc, ngạo mạn tự cao, an ổn thỏa chí; làm cho lưng còng, chậm chạp biếng
nhác, bị người khác khinh chê.
“Ca-diếp! Ví như trong hồ nước có đầy hoa sen nở ra đẹp đẽ, tươi tắn, trông rất
đáng ưa thích. Bỗng gặp khi trời đổ cơn mưa đá xuống, phá hoại tất cả. Thiện
nam tử! Cái già cũng thế, có thể phá hoại sắc đẹp tuổi thanh xuân!
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như vua kia có một vị quan trí tuệ, khéo biết cách dùng
binh. Có một vua khác đối địch, chống lại. Vua liền sai vị quan có trí tuệ ấy
đi đánh phạt. Vị quan bắt được vua kia đem về nộp lên. Cảnh già cũng như thế, bắt
lấy cái sắc đẹp tráng kiện đem nộp cho vua chết.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như cái trục xe gãy không thể dùng vào việc gì. Cái già
cũng vậy, không thể dùng vào việc gì được nữa.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như một nhà rất giàu, có nhiều của cải, vật quý, vàng bạc,
lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não... Nếu giặc cướp vào nhà ấy có thể cướp
giật làm cho mất sạch. Thiện nam tử! Sắc đẹp và tuổi thanh xuân tráng kiện cũng
vậy, thường bị giặc cướp là cái già cướp mất.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như người nghèo tham ăn món ngon, tham mặc vải lụa tốt,
tuy hy vọng như vậy nhưng không có được. Thiện nam tử! Cái già cũng vậy, tuy có
lòng tham muốn thọ hưởng giàu có, vui sướng, thỏa thích trong năm món dục,
nhưng không thể được.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như con rùa ở trên cạn, thường nhớ nghĩ đến nước. Thiện
nam tử! Người ta cũng thế, đã bị khô héo vì già yếu thì lòng thường nhớ nghĩ đến
năm món dục đã thọ hưởng thời trai trẻ.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như mùa thu có hoa sen, ai cũng muốn nhìn ngắm, đến khi
héo tàn, ai cũng chán chê. Thiện nam tử! Sắc đẹp tuổi xuân cũng vậy, ai nấy đều
ưa thích. Đến khi già yếu thì ai cũng chán chê.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như cây mía ép lấy nước rồi thì không còn vị ngọt. Thiện
nam tử! Sắc đẹp tuổi xuân cũng vậy, khi bị cái già ép đến rồi thì không còn [thực
hiện được] ba việc: một là xuất gia, hai là đọc tụng [kinh điển], ba là ngồi
thiền.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như mặt trăng tròn, ban đêm sáng nhiều, còn ban ngày
không được vậy. Thiện nam tử! Người ta cũng như vậy, lúc tuổi thanh xuân dáng vẻ
nghiêm trang, hình mạo to khỏe; đến lúc già thì suy yếu, hình dung khô héo, tiều
tụy.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như một vị vua thường dùng chánh pháp trị nước chăn dân,
lòng dạ chân thật, không tà vạy, giàu đức từ bi, thường thực hành bố thí. Bấy
giờ bị nước địch phá hoại, vua trôi dạt trốn tránh, cuối cùng đến một nước
khác. Nhân dân nước ấy thấy vua liền sanh lòng thương xót, thảy đều nói rằng:
‘Đại vương thuở xưa trị nước theo chánh pháp, muôn dân khỏi sự oan uổng, vì sao
trong sớm chiều đã trôi dạt tới đây?’ Thiện nam tử! Người ta cũng thế, khi bị sự
già yếu làm cho bại hoại rồi, thường ca ngợi những việc đã làm vào thuở tráng
niên.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như cây đèn cháy được nhờ nơi dầu thắp. Khi dầu sắp hết
thì đèn không thể cháy được lâu. Thiện nam tử! Người ta cũng như thế, chỉ nhờ
nơi loại dầu tráng niên. Khi dầu tráng niên đã hết, ngọn đèn già yếu làm sao
còn cháy được lâu?
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như con sông khô cạn không thể làm lợi ích cho loài người,
loài phi nhân, cho đến các loài chim, thú... Thiện nam tử! Người ta cũng vậy, bị
cái khô cạn của tuổi già rồi thì không thể làm lợi ích bất cứ công việc nào cả.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như cây cao đứng cạnh mé sông, nếu gặp gió lớn ắt phải
ngã nhào. Thiện nam tử! Người ta cũng như vậy, đứng ven bờ nguy hiểm là cảnh
già, khi gió chết thổi tới, tất không đứng vững nữa được.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như chiếc xe bị gãy trục, không thể chở đồ. Thiện nam tử!
Kẻ già rồi cũng vậy, không thể học hỏi bất cứ pháp lành nào.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như đứa trẻ con, bị mọi người xem thường. Thiện nam tử! Kẻ
già cũng vậy, thường bị hết thảy mọi người khinh chê, xem thường.
“Ca-diếp! Vì những thí dụ ấy và vô số thí dụ khác, nên biết rằng sự già nua thật
là nỗi khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn,
quán sự già là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán
xét bệnh là khổ? Gọi là bệnh đó, có thể làm mất hết mọi sự an ổn, vui sướng, ví
như mưa đá làm tổn hại lúa mạ.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như người có kẻ thù, trong lòng thường lo buồn mà ôm lấy sự
sợ sệt. Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh lại cũng như vậy, vì sợ bệnh khổ nên
trong lòng thường lo buồn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như có người [thanh niên] tướng mạo đẹp đẽ tuấn tú, hoàng
hậu [trông thấy] động lòng yêu thương, sai người ép buộc gọi đến để cùng làm việc
mây mưa. Bấy giờ vua bắt được liền sai người khoét một con mắt, cắt một lỗ tai,
chặt đứt một tay và một chân. Lúc ấy, người này hình dung đổi lạ, ai nấy đều
chê ghét. Thiện nam tử! Người ta cũng như thế, trước thời dung mạo đoan nghiêm,
tai mắt đầy đủ, đến khi đã bị bệnh khổ vây quanh bức bách thì mọi người đều
ghét bỏ, chê bai.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như những loại cây chuối, cây tre, cây lau, cây sậy, con
la, khi có trái hoặc có con thì phải chết. Thiện nam tử! Người ta cũng thế, có
bệnh thì phải chết.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như vua Chuyển luân, vị đại thần cầm quân thường ở phía trước,
còn vua đi phía sau. Lại như vua cá, vua kiến, vua ốc, vua trâu cùng vị thương
chủ thì đi phía trước, trong khi cả đoàn đều theo sau, không hề rời bỏ. Thiện
nam tử! Vua chết cũng thế, thường theo sau vị đại thần là bệnh, chẳng hề rời bỏ.
Cũng như các vị vua cá, vua kiến, vua ốc, vua trâu cùng vị thương chủ, vua bệnh
thường đi trước và đoàn chết luôn theo sau.
“Ca-diếp! Nhân duyên của bệnh là khổ não, lo rầu, buồn nản, thân tâm chẳng yên,
hoặc bị kẻ oán thù, giặc cướp bức bách, làm hại, phá hoại phao nổi, rút bỏ cầu
cống, cũng có thể cướp mất căn bản chánh niệm, lại có thể phá hoại sắc đẹp, sức
mạnh, sự yên vui của tuổi tráng niên, trừ bỏ lòng hổ thẹn, có thể làm cho thân
tâm trở nên nóng nảy, bứt rứt.
“Bởi những thí dụ ấy và vô số những thí dụ khác, nên biết rằng bệnh khổ là nỗi
khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán
xét bệnh là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán
xét sự chết là khổ? Gọi là chết đó, là có thể đốt cháy, tiêu diệt.
“Ca-diếp! Như nạn lửa nổi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ cảnh trời Nhị thiền
sức lửa chẳng tới. Thiện nam tử! Lửa chết cũng vậy, có thể đốt cháy tất cả, chỉ
trừ Bồ Tát trụ ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, thế lực nó chẳng tới.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như nạn lụt nổi lên, tất cả đều bị cuốn trôi, nhấn chìm, chỉ
trừ cảnh trời Tam thiền, sức nước chẳng tới. Thiện nam tử! Trận lụt chết cũng
thế, nó cuốn trôi, nhấn chìm tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như nạn gió bão nổi lên, có thể thổi bay tất cả, làm cho
tiêu tan, diệt mất, chỉ trừ cảnh trời Tứ thiền, sức gió chẳng tới. Thiện nam tử!
Cơn bão chết cũng thế, nó thổi bay mất hết thảy mọi vật đang có, chỉ trừ Bồ Tát
trụ ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Cảnh trời Tứ thiền đó, do nhân duyên gì mà
gió không thể thổi, nước không thể trôi, lửa không thể cháy?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Cảnh trời Tứ thiền đó, trong ngoài đều dứt sạch
hết thảy mọi lỗi lầm, tai họa. Thiện nam tử! Chỗ lỗi lầm tai họa ở cảnh trời Sơ
thiền là bên trong có giác quan, bên ngoài có nạn lửa. Chỗ lỗi lầm tai họa ở cảnh
trời Nhị thiền là bên trong có sự vui mừng, bên ngoài có nạn lụt. Chỗ lỗi lầm
tai họa ở cảnh trời Tam thiền là bên trong có hơi thở gấp, bên ngoài có nạn gió
bão.
“Thiện nam tử! Cảnh trời Tứ thiền đó, trong ngoài đều dứt sạch hết thảy mọi lỗi
lầm, tai họa. Cho nên các nạn [gió, nước, lửa đều] không thể tới. Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như thế, nhờ trụ yên ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn cho
nên mọi lỗi lầm, tai họa trong ngoài đều dứt sạch. Vì vậy nên vua chết chẳng tới
được.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như chim kim sí có thể nuốt vào và tiêu hóa hết thảy
những loài rồng, cá, vàng, bạc cùng mọi vật báu khác, chỉ trừ chất kim cang là
không thể tiêu hóa. Thiện nam tử! Cái chết cũng như chim kim sí kia, có thể nuốt
vào và tiêu hóa tất cả chúng sanh, nhưng không thể tiêu được vị Bồ Tát
ma-ha-tát trụ yên nơi Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như ven bờ sông có các loại cây cỏ, gặp trận nước lụt
tràn qua, thảy đều trôi dạt, bị cuốn vào biển cả, chỉ trừ cây dương liễu, nhờ
cây ấy mềm dẻo. Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh lại cũng như thế, thảy đều cuốn
theo dòng nước trôi vào biển chết, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như [vị lực sĩ cõi trời là] na-la-diên có thể khuất phục hết
thảy các lực sĩ khác, chỉ trừ cơn gió lớn mà thôi. Vì sao vậy? Vì không có chướng
ngại. Thiện nam tử! Cái chết cũng như vị na-la-diên kia, có thể khuất phục hết
thảy chúng sanh, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì sao vậy?
Vì không có chướng ngại.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như có người kia đối với kẻ mình oán thù căm ghét lại giả
làm ra vẻ thân thiện, thường theo đuổi như bóng với hình, rình rập chờ lúc thuận
tiện để giết. Nhưng kẻ oán thù ấy thật cẩn thận, phòng bị chắc chắn, nghiêm ngặt,
làm cho người kia không thể nào giết được. Thiện nam tử! Cái chết cũng như người
có oán thù kia, thường rình rập chúng sanh, chờ dịp để giết, chỉ không giết được
vị Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị Bồ Tát
này không bao giờ lười nhác, buông thả phóng túng.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như [khi trời] thình lình đổ xuống trận mưa lớn bằng chất
kim cang, ắt sẽ làm hư hoại mọi loài cây thuốc, cây cối nơi rừng núi, đất, cát,
ngói gạch, sỏi đá, vàng, bạc, lưu ly, hết thảy mọi vật, chỉ không thể làm hư hoại
chất kim cang thật. Thiện nam tử! Cái chết cũng như trận mưa kim cang kia, có
thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ bậc Bồ Tát kim cang trụ ở Đại thừa Đại
Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như chim kim sí, có thể ăn thịt cả loài rồng, chỉ không
thể ăn thịt những chúng sanh nào đã thọ Tam quy y. Thiện nam tử! Cái chết cũng
như chim kim sí kia, có thể ăn được hết thảy vô lượng chúng sanh, chỉ trừ vị Bồ
Tát trụ ở ba phép định. Những gì là ba phép định? Đó là [các pháp]: không, vô
tướng và vô nguyện.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như con rắn độc ma-la, những ai đã bị nó cắn thì dù có thần
chú, thuốc hay mầu nhiệm nhất cũng không cứu chữa được! Chỉ có tinh chú A-kiệt-đa
mới có thể chữa khỏi. Nọc độc của cái chết cũng vậy, hết thảy mọi phương thuốc
đều vô hiệu! Chỉ trừ sức chú thuật của Bồ Tát trụ ở Đại thừa Đại Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Ví như có người bị vua giận, nếu biết dùng lời dịu ngọt, hiền
hòa cùng với của cải, vật quý mà dâng lên vua thì có thể thoát tội. Thiện nam tử!
Cái chết chẳng giống như vua kia, cho dù có đem lời dịu ngọt, cùng với tiền
tài, trân bảo mà dâng lên, cũng chẳng thoát được.
“Thiện nam tử! Người nhận lấy cái chết tức là đang ở nơi tai nạn nguy hiểm mà
không có chút tiền của, lương thực nào; phải đi đến chỗ xa xôi diệu vợi mà
không có bạn đồng hành, đi suốt ngày đêm mà chẳng biết đâu là bờ bến, sâu thẳm,
u ám, chẳng có ánh đèn, không có cửa vào nhưng thật có xứ sở; tuy không có chỗ
đau nhưng không thể điều trị, đi lại không ai ngăn cản nhưng rốt cùng không thể
thoát; không có chỗ phá hoại nhưng ai thấy cũng buồn lo, căm giận; chẳng phải
là hình sắc dữ tợn nhưng khiến người sợ sệt; lộ rõ bên mình mà không thể hay biết.
“Ca-diếp! Vì những thí dụ ấy và vô số thí dụ khác, nên biết rằng sự chết thật
là nỗi khổ rất lớn. Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại
Niết-bàn quán xét sự chết là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét
sự yêu mến phải lìa xa là khổ? Nỗi khổ phải lìa xa chỗ yêu mến đó có thể là căn
bản của mọi nỗi khổ, như bài kệ ta thuyết đây:
“Yêu mến sanh lo buồn,
Yêu mến sanh sợ hãi,
Nếu lìa bỏ yêu mến,
Còn lo gì, sợ gì?”
“Do nhân duyên ái luyến, ắt phải sanh ra lo rầu, khổ não. Do lo rầu, khổ não, ắt
phải khiến cho chúng sanh trở nên già yếu. Khổ vì phải lìa xa chỗ yêu mến là
nói khi mạng sống đã hết. Thiện nam tử! Do nơi sự biệt ly mà có thể phát sanh đủ
mọi khổ não nhỏ nhặt khác. Nay ta sẽ vì ông mà phân biệt nói rõ.
“Thiện nam tử! Vào thời quá khứ, người ta sống lâu vô lượng. Bấy giờ, ở thế
gian có một vị vua tên là Thiện Trụ. Vua ấy từ lúc còn thơ ấu, lớn lên làm thái
tử lo việc cai trị, cho đến lúc lên ngôi vua, cả thảy là tám vạn bốn ngàn năm.
Bấy giờ, trên đỉnh đầu vua bỗng mọc lên một bướu thịt. Bướu ấy mềm nhuyễn như
bông đâu-la-miên, loại bông mềm nhuyễn nhất thế gian. Bướu dần dần lớn lên
nhưng không đau nhức chi cả. Khi đủ mười tháng, bướu ấy tự vỡ, sanh ra một bé
trai hình dung kỳ lạ, đoan chánh chẳng ai sánh bằng, hình sắc dáng vẻ phân biệt
rõ ràng, bậc nhất trong nhân loại. Vua cha lấy làm vui sướng, đặt tên [cho đứa
con kỳ lạ ấy] là Đỉnh Sanh.
“Về sau, vua Thiện Trụ đem việc nước mà giao phó cho Đỉnh Sanh, rồi lìa bỏ cung
điện, vợ con, quyến thuộc, vào núi học đạo tu hành trọn tám vạn bốn ngàn năm.
“Một hôm, nhằm ngày rằm, Đỉnh Sanh ở trên lầu cao, tắm gội thọ trai. Bỗng đâu từ
phương đông có một bánh xe báu bằng vàng hiện ra. Bánh xe ấy có một ngàn cây
nan hoa và có đủ các bộ phận, tự nhiên hình thành mà không phải do bàn tay thợ
làm ra. Bánh xe ấy hiện ra rồi lại tự nhiên bay đến trước mặt vua Đỉnh Sanh.
“Đại vương Đỉnh Sanh liền nghĩ rằng: ‘Từ trước, ta từng nghe những vị tiên nhân
đạt được Ngũ thông nói rằng: Nếu vị vua dòng sát-đế-lợi, nhằm ngày rằm ở trên lầu
cao tắm gội thọ trai, có bánh xe báu bằng vàng có một ngàn cây nan hoa và có đủ
các bộ phận, tự nhiên hình thành mà không phải do tay thợ làm ra, tự nhiên bay
đến ứng hầu, nên biết rằng vua ấy sẽ được làm Chuyển luân Thánh vương.’
“Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền lấy tay trái nâng bánh xe
vàng ấy lên. Kế đó, tay mặt cầm lư hương, quỳ xuống phát lời nguyện rằng: ‘Nếu
bánh xe vàng này là thật, chẳng phải hư dối, thì xin hãy tự đi một đường như những
bánh xe của các vị Chuyển luân Thánh vương trong quá khứ đã đi.’
“Vua phát nguyện xong, bánh xe bằng vàng ấy liền bay lên hư không, đi khắp mười
phương và trở về trụ nơi bàn tay trái của vua. Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lấy làm
vui mừng phấn khích, liền nói rằng: ‘Nay ta chắc rằng sẽ làm được Chuyển luân
Thánh vương.’
“Sau đó chẳng lâu, lại có con bạch tượng quý báu hiện ra, hình dung đoan nghiêm
như hoa sen trắng, chân, ngà và vòi voi đều chấm đất. Vua Đỉnh Sanh liền nghĩ rằng:
‘Từ trước, ta từng nghe những vị tiên nhân đạt được Ngũ thông nói rằng: Nếu vị
vua dòng sát-đế-lợi, nhằm ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội thọ trai, có bạch tượng
quý báu hình dung đoan nghiêm như hoa sen trắng, chân, ngà và vòi voi đều chấm
đất, hiện ra ứng hầu, nên biết rằng vua ấy sẽ được làm Chuyển luân Thánh
vương.’
Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền nâng lư hương, quỳ xuống phát
lời nguyện rằng: ‘Nếu bạch tượng quý báu này là thật, chẳng phải hư dối, hãy đi
một đường như những bạch tượng của các vị Chuyển luân Thánh vương trong quá khứ
đã đi.’
“Vua phát nguyện xong, bạch tượng ấy liền ra đi từ sáng đến chiều, đủ khắp tám
phương, đến tận bờ biển cả, rồi trở về đứng ở chỗ cũ. Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lấy
làm vui mừng thích ý, liền nghĩ rằng: ‘Nay ta chắc sẽ được làm Chuyển luân
Thánh vương.’
“Sau đó chẳng lâu, lại có con ngựa báu màu xanh biếc tuyệt đẹp, lông đuôi màu
vàng ròng [hiện đến]. Đỉnh Sanh thấy vậy rồi, lại nghĩ rằng: ‘Từ trước ta từng
nghe những vị tiên nhân đạt được Ngũ thông nói rằng: Nếu có vua Chuyển luân,
vào ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội thọ trai, bỗng có con ngựa quý màu xanh biếc
tuyệt đẹp, lông đuôi màu vàng ròng, hiện đến ứng hầu, nên biết rằng vua ấy tức
là Thánh vương.’
“Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền nâng lư hương, quỳ xuống
phát nguyện rằng: ‘Nếu ngựa quý màu xanh biếc này là thật, chẳng phải hư dối,
hãy đi một đường như những ngựa quý của các vị Chuyển luân Thánh vương trong
quá khứ đã đi.’ Vua phát lời nguyện ấy rồi, ngựa quý liền ra đi từ sáng tới chiều,
đi khắp tám phương, đến tận bờ biển cả, rồi trở về đúng chỗ cũ. Lúc ấy, Đỉnh
Sanh lấy làm vui mừng phấn khích, liền nói rằng: ‘Nay ta chắc rằng sẽ được làm
bậc Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có một mỹ nhân hình dung đoan chính, xinh đẹp bậc nhất,
không cao không thấp, chẳng trắng chẳng đen. Từ các lỗ chân lông trên thân cô lại
tỏa ra mùi hương chiên-đàn, trong miệng bay ra mùi thơm như hoa sen xanh. Mắt
cô có thể nhìn xa đến một do-tuần, tai cũng có thể nghe xa, mũi cũng có thể ngửi
xa đến như vậy. Lưỡi cô lớn rộng, khi thè ra có thể che trùm cả khuôn mặt, hình
thể da dẻ mịn màng xinh đẹp, có màu như đồng đỏ. Mỹ nhân ấy lại thông minh sáng
suốt, đối với chúng sanh thường nói lời êm dịu. Khi cô dùng tay sờ vào áo vua,
liền có thể biết được thân vua đang an vui hay có bệnh, lại có thể biết được
trong lòng vua đang nghĩ đến những điều gì. Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lại nghĩ rằng:
‘Nếu có người mỹ nhân khéo biết được trong lòng vua, ấy là báu vật vô giá.’
“Rồi sau đó chẳng bao lâu, trong cung vua tự nhiên xuất hiện hạt châu ma-ni quý
báu, có màu xanh thuần như lưu ly, lớn bằng bắp đùi người, có thể ở trong chỗ tối
chiếu ra ánh sáng xa đến một do-tuần. Nếu khi trời đổ mưa, hạt mưa lớn như trục
bánh xe, hạt châu ấy có thể hóa ra cây lọng quý che khắp một do tuần, chẳng để
cho hạt mưa nào có thể rơi xuống trong khoảng ấy. Bấy giờ, Đỉnh Sanh lại nghĩ rằng:
‘Như vua Chuyển luân mà được hạt châu này, ắt phải là Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có vị quan Chủ tạng thần tự nhiên xuất hiện. Vị ấy
có nhiều của cải trân bảo, giàu có vô lượng, kho báu đầy tràn, không thiếu món
chi. Vị ấy có cặp mắt nhìn thấu suốt bên dưới lòng đất, thấy được kho tàng ẩn
khuất ở mọi nơi, tùy ý vua cần dùng bao nhiêu, vị ấy đều có thể liệu kiếm được
đủ cho vua dùng.
“Lúc ấy, Đỉnh Sanh lại muốn thử xem. Vua liền cùng ngồi thuyền với vị Chủ tạng
thần ấy đi ra biển cả, bảo rằng: ‘Nay ta muốn có những món trân bảo lạ.’ Nghe
xong, vị Chủ tạng thần liền lấy hai bàn tay mà khuấy nước biển. Lúc ấy, nơi mười
đầu ngón tay của vị ấy bỗng xuất hiện mười kho báu, người dâng lên Thánh vương
và tâu rằng: ‘Đại vương cần những thứ chi, xin tuỳ ý dùng. Còn dư bao nhiêu,
xin trả lại biển cả.’ Lúc ấy, Đỉnh Sanh lấy làm vui mừng phấn khích vô cùng, lại
nói rằng: ‘Nay ta chắc chắn rằng ta sẽ là Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có vị quan Chủ binh thần tự nhiên xuất hiện. Vị này
dũng mãnh thao lược, mưu trí bậc nhất, khéo biết sử dụng cả bốn loại quân. Khi
nhận trách nhiệm chiến đấu, ắt Thánh vương xuất hiện. Nếu không nhận trách nhiệm
chiến đấu, liền rút lui chẳng hiện. Đối với những người chưa khuất phục, có thể
làm cho khuất phục, đối với những người đã khuất phục, có thể đủ sức bảo vệ, giữ
gìn.
“Bấy giờ, vua Đỉnh Sanh nghĩ rằng: ‘Nếu vua Chuyển luân được quân đội quý báu
này, chắc chắn phải là Chuyển luân Thánh vương.’
“Một hôm, Chuyển luân Thánh vương Đỉnh Sanh hỏi các đại thần rằng: ‘Các khanh
nên biết là cõi Diêm-phù-đề này đã được an ổn, phồn thạnh. Nay trẫm có đủ bảy
món báu và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan tâu lên rằng: ‘Đại vương, Phất-bà-đề ở phương đông chưa qui thuận uy
đức của ngài, nên đến đó thảo phạt.’
“Lúc ấy, Thánh vương cùng với bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay lên
hư không mà đến cõi Phất-bà-đề ở phương đông. Ở châu ấy, nhân dân thảy đều vui
lòng qui thuận.
“Vua lại hỏi các đại thần rằng: ‘Châu Diêm-phù-đề và châu Phất-bà-đề đã được an
ổn, phồn thạnh, nhân dân thảy đều qui thuận. Trẫm có đủ bảy báu và một ngàn đứa
con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan lại tâu rằng: ‘Đại vương, Cồ-đà-ni ở phương tây hãy còn chưa quy thuận
đức lớn của ngài.’ Lúc ấy, Thánh vương với bảy báu của ngài và tất cả quân binh
đều bay trên hư không mà đến Cồ-đà-ni ở phương tây. Khi vua ngự tới đó rồi,
nhân dân cõi ấy cũng quy phục đức lớn của ngài.
“Vua lại hỏi các đại thần rằng: ‘Châu Diêm-phù-đề, châu Phất-bà-đề và châu Cồ-đà-ni
nay đều được an ổn, phồn thạnh, nhân dân thảy đều quy thuận. Trẫm có đủ bảy báu
và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan tâu rằng: “Đại vương! Uất-đan-việt ở phương bắc hãy còn chưa qui thuận.”
“Lúc ấy, Thánh vương với bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay lên hư
không mà đến châu Uất-đan-việt ở phương bắc. Khi vua ngự tới đó rồi, nhân dân ở
cõi ấy đều vui lòng qui thuận đức lớn của ngài.
“Vua lại phán với các đại thần rằng: ‘Bốn cõi thiên hạ đều được an ổn, phồn thạnh,
nhân dân thảy đều qui thuận đức lớn của ta. Ta có đủ bảy báu và một ngàn đứa
con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan đáp rằng: ‘Thánh vương! Ở cõi trời Ba mươi ba mạng sống của chư thiên
rất lâu dài, an ổn, khoái lạc. Chư thiên ở đó thân hình đoan nghiêm không chi
sánh bằng. Cung điện mà họ ở, giường ngủ, ghế ngồi đều toàn bằng bảy món báu. Họ
dựa vào phước lực cõi trời nên chưa chịu đến quy hóa. Nay có thể đến đó mà làm
cho họ khuất phục.’
“Lúc ấy, Thánh vương lại cùng với bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay
lên hư không, lên tới cung trời Đao-lợi, nhìn thấy một cái cây màu xanh lục.
Thánh vương liền hỏi các đại thần rằng: ‘Đó là màu sắc gì vậy?’ Đại thần đáp rằng:
‘Đó là màu sắc của cây ba-lợi-chất-đa-la. Chư thiên ở cõi trời Đao-lợi này,
trong ba tháng mùa hạ thường vui chơi dưới cội cây ấy.’
“Lại thấy màu trắng dường như mây bạc, vua hỏi đại thần rằng: ‘Đó là màu sắc gì
vậy?’ Đại thần đáp: ‘Là màu sắc của Thiện pháp đường. Chư thiên ở Đao-lợi thường
họp nhau trong đó, luận bàn việc ở cõi trời và cõi người.’
“Lúc ấy vị Thiên chủ Thích-đề-hoàn-nhân biết rằng vua Đỉnh Sanh đã đến ở bên
ngoài, bèn ra nghinh tiếp. Gặp nhau rồi, nắm tay cùng lên Thiện pháp đường,
phân chỗ mà ngồi.
“Lúc ấy, hai vua hình dung tướng mạo y hệt như nhau, duy chỉ cặp mắt có phần
hơi khác nhau thôi. Ngay lúc ấy, Thánh vương khởi ý nghĩ rằng: ‘Nay ta có nên từ
bỏ ngôi vua kia mà ở lại đây làm Thiên vương chăng?’
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Đế-thích thọ trì, đọc tụng kinh điển Đại thừa, lại
vì người khác mà mở mang, chỉ bảo, phân biệt giảng nói, chỉ đối với nghĩa lý
sâu xa chưa thông đạt đến mức cùng tột mà thôi. Nhờ sức nhân duyên của việc thọ
trì, đọc tụng, vì người khác mà phân biệt giảng rộng [kinh điển Đại thừa] nên
có oai đức rất lớn.
“Thiện nam tử! Vì Đỉnh Sanh đối với Đế-thích sanh khởi lòng xấu ác nên liền bị
đọa lạc, [lập tức] rơi trở lại cõi Diêm-phù-đề, ôm lòng nhớ tưởng sự chia lìa
giữa cõi người và cõi trời mà phát sanh khổ não rất lớn. Sau lại mắc bệnh nặng,
liền phải bỏ mạng.
“Đế-thích lúc bấy giờ tức là Phật Ca-diếp sau này, còn Chuyển luân Thánh vương
thuở ấy tức là tiền thân của ta.
“Thiện nam tử! Nên biết rằng cái khổ yêu mến phải chia lìa đó thật là khổ lớn.
Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát còn nhớ tới những nỗi khổ vì chia lìa ấy trong
các đời quá khứ của mình, huống chi Bồ Tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Niết-bàn mà
chẳng quán xét nỗi khổ yêu mến phải chia lìa trong đời hiện tại này sao?
“Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn
quán xét sự khổ vì oán ghét phải gặp nhau? Thiện nam tử! Vị Bồ Tát ma-ha-tát ấy
nhìn thấy ở các cõi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, cõi người, cõi trời, thảy đều
có sự khổ vì oán ghét phải gặp nhau.
“Ví như người ta xét thấy những cảnh trói giam, gông cùm nơi lao ngục là khổ lớn,
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy, xét thấy tất cả muôn loài thọ sanh trong năm
đường đều là nỗi khổ lớn vì phải gặp gỡ người mình oán ghét.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như có một người kia thường sợ sự gông cùm, xiềng
khóa của kẻ oán thù, bèn lìa bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, trân bảo, sản nghiệp
mà trốn đi xa. Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy, vì sợ sệt sanh
tử bèn tu hành trọn vẹn sáu pháp ba-la-mật, vào nơi Niết-bàn.
“Ca-diếp! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn
quán xét việc oán ghét phải gặp nhau là khổ.
“Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn quán
xét việc mong cầu không được là khổ? Nói mong cầu đó là mọi thứ đều dốc lòng cầu.
Dốc lòng cầu có hai trường hợp: một là cầu pháp lành, hai là cầu pháp chẳng
lành. Pháp lành chưa đạt được là khổ, pháp chẳng lành chưa dứt bỏ được là khổ.
“Đó là lược nói qua về năm ấm bạo phát là khổ. Ca-diếp! Đó gọi là Khổ đế.”
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói về cái khổ năm ấm bạo
phát, nghĩa ấy không thích hợp. Vì sao vậy? Trước đây Phật có nói với
Thích-ma-nam rằng: ‘Nếu hình sắc là khổ thì hết thảy chúng sanh chẳng nên cầu
hình sắc. Nếu có người cầu, tức không gọi là khổ.’
“Lại như Phật có dạy chư tỳ-kheo rằng: ‘Có ba loại cảm thọ: cảm thọ khổ, cảm thọ
vui, và cảm thọ không vui không khổ.’
“Lại như trước đây Phật có dạy chư tỳ-kheo rằng: ‘Nếu có người biết tu hành
theo pháp lành, ắt được hưởng sự vui thích.’
“Lại như Phật có dạy: ‘Trong thiện đạo có sáu sự xúc chạm tạo ra vui thích, như
mắt thấy hình sắc đẹp liền sinh lòng vui thích. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý đối với
các pháp tốt đẹp tương ứng cũng vậy.’
“Như Phật có thuyết kệ rằng:
“Giữ giới ắt được vui,
Thân không chịu các khổ,
Giấc ngủ được yên ổn,
Khi thức lòng vui vẻ.
Như lúc lãnh áo cơm,
Tụng tập rồi kinh hành,
Cô độc nơi rừng núi,
Như vậy là vui nhất!
Nếu đối với chúng sanh,
Ngày đêm thường tu từ,
Nhân đó thường được vui,
Vì không tổn hại ai.
Ít muốn, biết đủ, vui,
Nghe nhiều rõ biết, vui,
La-hán không đắm chấp,
Cũng gọi là được vui.
Bồ Tát ma-ha-tát,
Rốt cùng đến bờ kia,
Mọi việc đã làm xong,
Gọi là vui bậc nhất.
“Bạch Thế Tôn! Như trong các kinh nói về tướng vui thích, ý nghĩa là như vậy.
Nay như Phật vừa nói đó, làm sao phù hợp với nghĩa ấy?”
Phật dạy Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông thật khéo hỏi Như
Lai nghĩa ấy! Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh khi chịu ít khổ hơn liền sanh ra
tư tưởng trái ngược cho là vui sướng. Cho nên tướng khổ mà hôm nay ta thuyết dạy
so về căn bản cũng không khác biệt.”
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Như Phật dạy rằng chúng sanh khi chịu ít khổ
hơn liền sanh ra tư tưởng cho là vui sướng, vậy thì những sự ít khổ khác như
già, bệnh, chết, yêu mến phải lìa xa, mong cầu không được, oán ghét phải gặp
nhau, năm ấm bạo phát, lẽ ra cũng đều có chỗ vui sướng.
“Bạch Thế Tôn! Sanh nơi thấp kém, đó là nói Ba cảnh dữ. Sanh nơi trung bình, đó
là nói cõi người. Sanh nơi cao quý, đó là nói cõi trời. Như có người lại hỏi:
‘Nếu khi được ít vui lại sanh ra tư tưởng cho là khổ, được vui sướng trung bình
sanh ra tư tưởng cho là không khổ không vui, được vui sướng nhiều liền sanh ra
tư tưởng cho là vui sướng.’ Vậy phải trả lời như thế nào?
“Bạch Thế Tôn! Như nói khi chịu ít khổ hơn mà sanh ra tư tưởng cho là vui sướng,
con chưa từng thấy có người nào sắp phải chịu đánh ngàn lần mà khi bị đánh một
lần đầu lại sanh ra tư tưởng vui sướng! Nếu chẳng sanh tư tưởng ấy, sao nói rằng
khi chịu ít khổ hơn liền sanh ra tư tưởng vui sướng?”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì nghĩa ấy nên
không có cái tư tưởng vui sướng. Vì sao vậy? Cũng như người kia, sắp phải chịu
đánh một ngàn lần, nhưng vừa chịu đánh xong một lần liền được giải thoát. Lúc
đó, người ấy liền sanh tư tưởng vui sướng. Cho nên biết rằng, [người ấy] đối với
việc không vui sướng mà sai lầm sanh ra tư tưởng vui sướng.”
Ca-diếp nói: “Bạch Thế Tôn! Người ấy không phải vì chịu đánh một lần mà phát
sanh tư tưởng vui sướng, chính là vì được thoát [khỏi những lần còn lại] nên
sanh ra tư tưởng vui sướng.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Cho nên ngày xưa ta vì Thích-ma-nam mà dạy về sự vui sướng
trong năm ấm, chẳng phải lời hư dối.
“Ca-diếp! Có ba sự cảm thọ và ba sự khổ. Ba sự cảm thọ là: cảm thọ vui sướng, cảm
thọ đau khổ, cảm thọ không vui không khổ. Ba sự khổ là: khổ vì sự khổ, khổ vì
các hành và khổ vì sự hư hoại.
“Thiện nam tử! Cảm thọ đau khổ đó là [chịu đựng đủ] ba sự khổ: khổ vì sự khổ,
khổ vì các hành và khổ vì sự hư hoại. Còn hai cảm thọ kia là khổ vì các hành và
khổ vì sự hư hoại.
“Thiện nam tử! Vì nhân duyên ấy nên giữa chốn sanh tử thật có cảm thọ vui sướng.
Bậc Đại Bồ Tát thấy rõ tánh thật của khổ đau và vui sướng chẳng hề lìa nhau nên
mới dạy rằng: ‘Tất cả đều là khổ.’
“Thiện nam tử! Giữa chốn sanh tử thật không có gì là vui sướng. Chỉ vì chư Phật,
Bồ Tát tùy thuận thế gian nên dạy rằng có vui sướng.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu chư Phật và Bồ Tát tùy thuận thế tục mà
nói thì đó có phải là hư vọng chăng? Như Phật có dạy: ‘Tu hành điều thiện, ắt
hưởng quả báo vui sướng; giữ giới thì được an vui, thân không chịu khổ; cho đến
làm xong mọi việc thì đó là sự vui sướng tột bực. Những kinh như vậy nói về sự
cảm thọ vui sướng, có phải là hư dối chăng? Nếu là hư dối, thì chư Phật Thế Tôn
tu đạo Bồ-đề trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp lâu xa, đã lìa bỏ sự nói dối,
nay lại nói ra như vậy là ý nghĩa gì?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như trên đã nói, bài kệ giảng về những cảm thọ vui sướng
tức là căn bản của đạo Bồ-đề, lại cũng có thể nuôi lớn quả vị Chánh đẳng chánh
giác. Bởi nghĩa ấy nên trước đây trong kinh ta có nói về tướng vui sướng như vậy.
“Thiện nam tử! Ví như ở thế gian, những thứ cần đến trong đời sống có thể là
nguyên nhân của vui sướng, nên gọi đó là vui sướng. Những thứ ấy là: sắc đẹp phụ
nữ, rượu ngon, món ăn thịnh soạn, vị ngọt, lúc khát gặp nước uống, lúc lạnh gặp
lửa ấm, áo quần, vòng chuỗi, voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái, vàng bạc, lưu
ly, san hô, chân châu, kho lẫm lúa thóc... Những thứ như vậy là chỗ cần đến của
thế gian, có thể là nguyên nhân của vui sướng, cho nên gọi là vui sướng.
“Thiện nam tử! Những thứ như vậy lại cũng có thể sanh ra đau khổ. Do người phụ
nữ mà làm cho người đàn ông sanh ra những sự đau khổ, lo buồn, than khóc, cho đến
bỏ mạng. Do nơi rượu ngon, món ăn thịnh soạn... hết thảy các thứ cho đến kho lẫm
lúa thóc... mà làm cho người ta sanh mối lo lắng buồn phiền lớn. Vì nghĩa ấy, hết
thảy đều là khổ, thật không có tướng vui sướng.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát đối với tám nỗi khổ, biết rõ là khổ nên không
có khổ.
“Thiện nam tử! Hết thảy hàng Thanh văn, Bích-chi Phật chẳng biết nguyên nhân của
vui sướng. Vì những người như vậy nên ở trong chỗ ít khổ mà nói là có tướng vui
sướng. Chỉ có Bồ Tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn mới có thể rõ biết
nguyên nhân của đau khổ và nguyên nhân của vui sướng như vậy.
QUYỂN 13 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần ba
Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa
Đại Bát Niết-bàn mà quán sát Tập đế?
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát quán Tập đế ấy là nhân duyên của các ấm. Gọi là
tập, ấy là quay lại luyến ái chỗ sở hữu. Luyến ái có hai loại: một là luyến ái
tự thân, hai là luyến ái những thứ cần đến.
“Lại chia ra hai loại: một là khi chưa được năm món dục thì hết lòng mong cầu;
hai là khi đã cầu được rồi thì cố chịu đựng mà mê đắm bám giữ theo.
“Lại chia ra ba loại: một là luyến ái ở Dục giới, hai là luyến ái ở Sắc giới,
ba là luyến ái ở Vô sắc giới.
“Lại chia ra ba loại: một là luyến ái do nhân duyên nghiệp, hai là luyến ái do
nhân duyên phiền não, ba là luyến ái do nhân duyên khổ.
“Người xuất gia bốn thứ luyến ái. Những gì là bốn? Một là y phục, hai là thức
ăn uống, ba là đồ dùng nằm ngồi, bốn là thuốc thang trị bệnh.
“Lại chia ra năm loại, tức là tham đắm vướng mắc năm ấm. Tùy theo những thứ cần
đến, hết thảy đều luyến ái vướng mắc, nếu phân biệt tính đếm sẽ thành ra vô số.
“Thiện nam tử! Luyến ái lại có hai loại: một là luyến ái thiện, hai là luyến ái
bất thiện. Luyến ái bất thiện, chỉ có kẻ ngu mới cầu. Luyến ái thiện là chỗ cầu
của các vị Bồ Tát. Về pháp luyến ái thiện, lại cũng chia ra hai loại: bất thiện
và thiện. Người cầu Nhị thừa gọi là bất thiện, người cầu Đại thừa gọi là thiện.
“Thiện nam tử! Chỗ luyến ái của phàm phu gọi là tập, không gọi là đế. Chỗ luyến
ái của Bồ Tát gọi là Thật đế, không gọi là tập. Vì sao vậy? Bồ Tát vì cứu độ
chúng sanh nên thọ sanh, chẳng phải vì luyến ái mà thọ sanh.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như ở trong các kinh khác, Phật vì chúng
sanh thuyết dạy rằng nghiệp là nhân duyên, hoặc dạy rằng lòng kiêu mạn, hoặc
sáu xúc, hoặc vô minh là nhân duyên của năm ấm bạo phát. Hôm nay vì nghĩa gì mà
khi thuyết giảng Bốn Thánh đế, chỉ riêng nói tánh luyến ái là nhân của năm ấm?”
Phật khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Như ông vừa nói,
các nhân duyên đó chẳng phải làm ra, chẳng phải là nguyên nhân, chỉ vì năm ấm cần
thiết phải có nhân nơi luyến ái.
“Thiện nam tử! Ví như vị đại vương nếu ra đi tuần du thì các vị đại thần, quyến
thuộc đều phải theo hầu. Luyến ái cũng như vậy. Tùy chỗ có luyến ái, các kết sử
cũng đều theo đến. Ví như cái áo trơn láng, khi có bụi liền bám vào, bám vào rồi
liền dính mắc nơi áo. Luyến ái cũng như vậy. Tùy chỗ có luyến ái, các nghiệp kết
cũng dính mắc ở đó.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như đất ẩm có thể sanh các mầm cây. Luyến ái cũng vậy,
có thể sanh ra hết thảy các mầm nghiệp và phiền não.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại Thừa Đại Bát Niết-bàn quán xét
sâu xa sự luyến ái đó, nói chung có chín loại: Một là như món nợ chưa trả hết,
hai là như người vợ La-sát, ba là như thân cây hoa đẹp có con rắn độc quấn
quanh, bốn là như món ăn độc chẳng nên ăn nhưng phải gượng ăn, năm là như người
đàn bà dâm đãng, sáu là như hạt ma-lâu-ca, bảy là như chỗ thịt lồi ra nơi ghẻ độc,
tám là như trận gió bão, chín là như sao chổi.
“Sao gọi là như món nợ trả chưa hết? Thiện nam tử! Ví như người cùng khổ, nợ tiền
người khác. Tuy có trả nợ, muốn cho hết nhưng vẫn chưa hết, nên người ấy phải bị
giam trong ngục chưa được thả ra. Hàng Thanh văn, Duyên giác cũng vậy, do tánh
luyến ái vẫn chưa hết nên không thể thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Thiện nam tử! Đó gọi là như món nợ trả chưa hết.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như người vợ la-sát? Thiện nam tử! Ví như người lấy vợ
là la-sát nữ. La-sát nữ ấy, mỗi khi sanh con rồi liền ăn thịt con. Ăn hết thịt
con rồi lại ăn thịt chồng. Thiện nam tử! Luyến ái cũng như la-sát nữ kia, bám
theo chúng sanh, sanh ra con là các căn lành, nhưng sanh ra rồi lại ăn hết. Ăn
hết các căn lành rồi lại ăn cả chúng sanh, khiến họ phải đọa vào [những cảnh giới]
địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chỉ trừ hàng Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như người vợ
la-sát.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như thân cây hoa đẹp có con rắn độc quấn quanh? Ví
như người ưa thích hoa đẹp, chẳng thấy nơi thân cây hoa ấy có mối nguy là con rắn
độc, liền đến hái hoa. Hái rồi liền bị rắn cắn chết ngay. Hết thảy người phàm
phu cũng đều như vậy, ham mê loài hoa là năm món dục, chẳng thấy mối nguy rắn độc
là luyến ái, nên liền nhận lấy, bị con rắn độc luyến ái cắn mổ, chết đi đọa vào
ba đường ác, chỉ trừ hàng Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như thân cây hoa đẹp có con
rắn độc quấn quanh.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng gượng ăn?
Ví như có người gặp món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng gượng ăn. Ăn xong
đau bụng quặn ruột mà chết. Luyến ái cũng như món ăn độc kia, chúng sanh trong
Năm đường tham đắm gượng ăn. Vì nhân duyên ấy nên phải đọa vào Ba đường ác, chỉ
trừ hàng Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng
gượng ăn.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như người đàn bà dâm đãng? Ví như kẻ ngu si cùng tư
thông với người đàn bà dâm đãng. Người đàn bà ấy khéo dùng đủ cách vuốt ve chiều
chuộng, giả cách thương yêu rồi chiếm lấy hết tiền bạc, tài sản của kẻ ngu si ấy.
Khi lấy hết tiền rồi liền xua đuổi đi. Luyến ái cũng như người đàn bà dâm đãng
kia, kẻ ngu si không có trí tuệ, tư thông với nó, liền bị chiếm đoạt hết thảy
pháp lành. Pháp lành đã hết liền bị xua đuổi, đọa vào ba đường ác, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như người đàn bà dâm đãng.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như hạt ma-lâu-ca? Ví như hạt ma-lâu-ca, khi chim nuốt
hạt ấy vào bụng rồi, nó theo phân chim mà rơi xuống đất. Hoặc nhân khi gió thổi
bay đến bám ở phía dưới thân cây, rồi nảy nở lớn dần lên, quấn chặt quanh cây
ni-câu-đà, khiến cây này không lớn lên được, cho đến phải khô chết. Luyến ái
cũng như hạt ma-lâu-ca kia, nó [phát triển lên thì] trói chặt kẻ phàm phu, khiến
những pháp lành không thể tăng trưởng, cho đến phải khô chết. Pháp lành đã khô
chết rồi, sau khi mạng chung phải đọa vào ba đường ác, chỉ trừ hàng Bồ Tát mà
thôi. Đó gọi là như hạt ma-lâu-ca.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như thịt lồi ra trong ghẻ độc? Ví như người bị ghẻ độc
đã lâu, trong ghẻ sanh ra thịt lồi. Người ấy phải siêng năng điều trị, không được
buông thả. Nếu như buông thả, ghẻ độc liền lớn thêm, lại sanh trùng trong đó.
Do nhân duyên ấy mà bỏ mạng. Năm ấm của người phàm phu ngu si cũng như ghẻ độc
kia, trong đó sanh ra thịt lồi là luyến ái. Phải siêng năng điều trị chỗ thịt lồi
luyến ái đó. Nếu chẳng điều trị, khi mạng chung sẽ đọa vào ba đường ác, chỉ trừ
hàng Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như thịt lồi ra trong ghẻ độc.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như trận gió bão? Ví như trận gió bão có thể dời non
lật núi, nhổ bật rễ sâu của cây to. Luyến ái cũng như trận gió bão lớn kia, đối
với cha mẹ mà sanh lòng dữ, có thể nhổ bật rễ sâu cây Bồ-đề vô thượng của những
người như Đại trí Xá-lợi-phất, chỉ trừ hàng Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như trận
gió bão.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như sao chổi? Ví như khi sao chổi xuất hiện thì trong
thiên hạ, hết thảy nhân dân đều đói kém, bệnh hoạn, lại thêm mọi sự khổ não.
Luyến ái cũng như sao chổi kia, có thể làm dứt hết thảy các hạt giống căn lành,
khiến cho người phàm phu trở nên cô độc, cùng khổ, đói kém, sanh các bệnh phiền
não, lăn lộn trong vòng sanh tử, chịu đủ mọi khổ não, chỉ trừ hàng Bồ Tát mà
thôi. Đó gọi là như sao chổi.
“Thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán sát luyến ái
trói buộc có chín loại như thế.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa đó nên những người phàm phu có khổ mà không có đế; hàng
Thanh văn và Duyên giác có khổ, có khổ đế mà không chân thật. Các vị Bồ Tát hiểu
rõ được khổ, không khổ, nên không khổ mà có chân thật.
“Những kẻ phàm phu có tập, không có đế; hàng Thanh văn và Duyên giác có tập, có
tập đế. Các vị Bồ Tát hiểu rõ tập, không tập, nên không có tập mà có chân đế.
“Hàng Thanh văn và Duyên giác có diệt, không chân thật. Bồ Tát ma-ha-tát có diệt,
có chân đế.
“Hàng Thanh văn và Duyên giác có đạo, không chân thật. Bồ Tát ma-ha-tát có đạo,
có chân đế.
“Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn
nhìn thấy diệt và diệt đế? Đó là nói dứt trừ hết thảy phiền não. Nếu phiền não
dứt thì gọi là thường còn. Dập tắt lửa phiền não thì gọi là tịch diệt. Vì phiền
não đã dứt nên được hưởng vui. Chư Phật, Bồ Tát vì cầu nhân duyên nên gọi là tịnh.
Không còn trở lại trong hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu nên gọi là xuất thế. Vì
là xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với hình sắc, âm thanh, hương vị, cảm
xúc, nam nữ, sanh trụ dị diệt, khổ vui, không khổ không vui... đều không chấp
giữ tướng mạo, cho nên gọi là tất cánh tịch diệt, là chân đế. Thiện nam tử! Bồ
Tát trụ ở Đại thừa Đại Bát Niết-bàn như vậy, quán xét Diệt thánh đế.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn quán xét Đạo
thánh đế như thế nào? Thiện nam tử! Ví như ở chỗ tối, nhờ có ánh đèn mà thấy được
các vật lớn nhỏ. Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn,
nhờ có Bát Thánh đạo mà thấy được hết thảy các pháp, đó là: thường, vô thường,
hữu vi, vô vi, có chúng sanh, không có chúng sanh, vật, chẳng phải vật, khổ,
vui, ngã, tịnh, bất tịnh, phiền não, chẳng phải phiền não, nghiệp, chẳng phải
nghiệp, thật, chẳng thật, thừa, chẳng phải thừa, biết, chẳng biết, đà-la-phiếu,
chẳng phải đà-la-phiếu, cầu-na, chẳng phải cầu-na, thấy, chẳng thấy, sắc, chẳng
phải sắc, đạo, chẳng phải đạo, hiểu, chẳng hiểu. Thiện nam tử! Bồ Tát trụ ở Đại
thừa Đại Bát Niết-bàn như vậy, quán xét Đạo thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Bát thánh đạo chính là Đạo thánh đế thì
nghĩa chẳng hợp nhau. Vì sao vậy? Có khi Như Lai dạy rằng: Đức tin là đạo, có
thể độ thoát các lậu.
“Có khi lại dạy rằng: Đạo là không phóng dật. Chư Phật Thế Tôn nhờ không phóng
dật nên thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó cũng là pháp trợ đạo của
hàng Bồ Tát.
“Lại có khi dạy rằng: Tinh tấn là đạo. Như bảo A-nan rằng: Nếu người nào siêng
tu tinh tấn ắt sẽ được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Hoặc có khi dạy rằng: Hãy quán thân niệm xứ. Nếu người nào chú tâm tinh cần tu
tập pháp thân niệm xứ sẽ được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề.
“Hoặc có khi dạy rằng: Chánh định là đạo. Như Phật bảo Đại đức Ma-ha Ca-diếp rằng:
Chánh định chân thật là đạo, không chánh định không phải là đạo. Nếu nhập chánh
định mới có thể suy xét sự sanh diệt của năm ấm, không nhập chánh định không thể
suy xét được.
“Hoặc có khi chỉ dạy một pháp, nếu người tu tập có thể làm cho chúng sanh thanh
tịnh, dứt trừ hết thảy ưu sầu khổ não, dần dần chứng đắc Chánh pháp. Đó là pháp
niệm Phật Tam-muội.
“Hoặc lại dạy rằng: Tu phép quán tưởng vô thường gọi là đạo. Như bảo các vị tỳ-kheo
rằng: Nếu ai thường tu phép quán tưởng vô thường có thể thành tựu A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Hoặc dạy rằng: Ở nơi trống không vắng lặng, ngồi một mình mà suy xét thì có thể
nhanh chóng được thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Có khi lại dạy rằng: Vì người khác giảng pháp, đó gọi là đạo. Nếu nghe pháp rồi,
tức trừ dứt lưới nghi. Dứt nghi rồi sẽ được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.
“Lại có khi dạy rằng: Trì giới là đạo. Như bảo A-nan rằng: Nếu ai tinh cần tu tập
giữ gìn giới cấm, người ấy ắt sẽ vượt qua nỗi khổ lớn sanh tử.
“Hoặc có khi dạy rằng: Gần gũi bạn lành là đạo. Như bảo A-nan rằng: ‘Nếu gần
gũi với thiện tri thức sẽ được đầy đủ giới hạnh thanh tịnh. Nếu có chúng sanh
nào được gần gũi với ta, ắt sẽ được phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Có khi dạy rằng: Tu tâm từ là đạo. Người tu học đức từ, dứt các phiền não, được
chỗ không còn xao động.
“Có khi dạy rằng: Trí tuệ là đạo. Như lúc trước Phật có vì tỳ-kheo ni
Ba-xà-ba-đề mà dạy rằng: Này các vị, như các vị Thanh văn dùng gươm trí tuệ có
thể chặt đứt các phiền não rỉ chảy.
“Hoặc có khi Như Lai dạy rằng: Bố thí là đạo. Như lúc trước Phật bảo vua
Ba-tư-nặc rằng: ‘Đại Vương nên biết, thuở xưa ta thường làm nhiều việc bố thí rộng
rãi. Nhờ nhân duyên ấy mà ngày nay được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Bạch Thế Tôn! Nếu Bát thánh đạo là Đạo đế thì các kinh nói như trên chẳng phải
là sai trái hay sao? Nếu các kinh ấy không sai trái, vậy duyên cớ gì mà trong
đó không dạy rằng Bát thánh đạo là Đạo thánh đế? Nếu trong đó không dạy, lẽ nào
lúc trước Như Lai đã nhầm lẫn? Nhưng con biết chắc rằng chư Phật Như Lai từ lâu
đã lìa xa mọi sự nhầm lẫn.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam
tử! Nay ông vì muốn biết chỗ sâu kín trong kinh điển vi diệu Đại thừa của hàng
Bồ Tát nên mới hỏi như vậy. Thiện nam tử! Những kinh như vậy, hết thảy đều thuộc
về Đạo đế. Thiện nam tử! Như ta đã nói, nếu có người tin đạo, lòng tin đạo này
là căn bản của đức tin, có thể trợ giúp cho đạo Bồ-đề. Vậy nên những lời ta dạy
đó không có sự nhầm lẫn.
“Thiện nam tử! Như Lai khéo biết vô số phương tiện, vì muốn giáo hóa chúng sanh
nên tạo ra đủ mọi cách thuyết pháp như vậy. Thiện nam tử! Ví như vị lương y thấu
hiểu mọi thứ nguyên nhân gây bệnh của chúng sanh, liền tùy theo từng bệnh mà
pha chế các món thuốc, cũng như biết rõ những thứ cấm kỵ đối với thuốc. Chỉ có
nước là chẳng nằm trong những thứ cấm kỵ. Hoặc cho uống nước gừng, nước cam thảo,
nước cây tế tân, nước đường phèn đen, nước a-ma-lặc, nước ni-bà-la, nước
bát-trú-la, hoặc cho uống nước lạnh, nước nóng, nước nho, nước thạch lựu... Thiện
nam tử! Vị lương y ấy biết rành các chứng bệnh của chúng sanh, dù có nhiều thứ
cấm kỵ đối với thuốc nhưng nước chẳng hề bị cấm kỵ. Như Lai cũng thế, khéo biết
phương tiện, chỉ nơi một tướng pháp mà tùy theo các chúng sanh nên phân biệt giảng
thuyết đủ mọi thứ tên gọi hình tướng. Các chúng sanh kia đều tùy chỗ giảng thuyết
của Phật mà nhận biết. Nhận biết rồi liền tu tập, dứt trừ phiền não, cũng như
những người bệnh kia nhờ nghe theo lời dạy của vị lương y mà trừ dứt bệnh tật.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như có người kia khéo hiểu được nhiều thứ tiếng khác
nhau trong đại chúng. Mọi người trong đại chúng bị nóng khát, mỗi người đều kêu
lên: ‘Tôi muốn uống nước. Tôi muốn uống nước.’ Người ấy liền lấy nước trong
mát, rồi tùy theo ngôn ngữ của mỗi người mà nói rằng: Đây là nước, hoặc nói là
ba-ni, uất-trì, sa-lỵ-lam, sa-lỵ, bà-da, cam lộ hay sữa bò. Người ấy dùng vô số
tên gọi của nước để nói với đại chúng. Thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, ngài đem
một Thánh đạo mà vì các vị Thanh văn diễn thuyết đủ mọi cách, từ các pháp như
tín căn cho đến Bát Thánh đạo.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như người thợ vàng, dùng một chất vàng mà tùy ý làm
ra đủ các món xâu chuỗi, trang sức, như là kẹp, khóa, dây chuyền, vòng, xuyến,
thoa, mão thiên quan, tỷ ấn... Tuy các món ấy đều khác biệt nhau, nhưng cũng
không ngoài chất vàng. Thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, dùng một đạo Phật mà tùy
theo chúng sanh phân biệt đủ cách để vì họ giảng thuyết.
“Hoặc ngài dạy chỉ có một, đó là một đạo của chư Phật, không có hai.
“Hoặc lại dạy hai pháp, đó là định và tuệ.
“Rồi lại dạy có ba pháp, ấy là: kiến, trí và tuệ.
“Lại dạy bốn pháp: kiến đạo, tu đạo, vô học đạo, Phật đạo.
“Lại dạy có năm pháp: tín hành đạo, pháp hành đạo, tín giải thoát đạo, kiến đáo
đạo, thân chứng đạo.
“Lại dạy có sáu pháp: Tu-đà-hoàn đạo, Tư-đà-hàm đạo, A-na-hàm đạo, A-la-hán đạo,
Bích-chi Phật đạo, Phật đạo.
“Lại dạy có bảy pháp: Niệm giác phần, Trạch pháp giác phần, Tinh tấn giác phần,
Hỷ giác phần, Trừ giác phần, Định giác phần, Xả giác phần.
“Lại dạy tám pháp là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
“Lại dạy chín pháp là Tám Thánh đạo và Tín.
“Lại dạy mười pháp là Mười sức.
“Lại dạy mười một pháp là Mười sức và Đại từ.
“Lại dạy mười hai pháp là Mười sức và Đại từ, Đại bi.
“Lại dạy mười ba pháp là: Mười sức, Đại từ, Đại bi và Niệm Phật Tam-muội.
“Lại dạy mười sáu pháp là: Mười sức, Đại từ, Đại bi, Niệm Phật Tam-muội và Ba
chánh niệm xứ của chư Phật.
“Lại dạy hai mươi đạo là: Mười sức, Bốn đức chẳng sợ, Đại từ, Đại bi, Niệm Phật
Tam-muội và Ba chánh niệm xứ...
“Thiện nam tử! Đạo này là một thể; ngày trước Như Lai vì chúng sanh mà phân biệt
đủ mọi cách.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như một thứ lửa nhưng do chất đốt khác nhau nên có rất
nhiều tên, như lửa cây, lửa cỏ, lửa cám, lửa trấu, lửa phân bò, phân ngựa...
Thiện nam tử! Đạo Phật cũng vậy, chỉ có một không hai, nhưng vì chúng sanh mà
phân biệt ra đủ mọi cách.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như chỉ một thức mà phân biệt nói là sáu. Như ở nơi
con mắt thì gọi là nhãn thức, cho đến ở nơi ý cũng gọi tên khác đi như thế. Thiện
nam tử! Đạo cũng như vậy, chỉ một không hai. Như Lai vì giáo hóa chúng sanh mà
phân biệt đủ mọi cách.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như sắc pháp chỉ là một, nhưng chỗ thấy của mắt thì
gọi là hình sắc, chỗ nghe của tai thì gọi là âm thanh, chỗ ngửi biết của mũi
thì gọi là mùi hương, chỗ nếm biết của lưỡi thì gọi là vị nếm, chỗ nhận biết của
thân thì gọi là xúc chạm. Thiện nam tử! Đạo cũng như vậy, chỉ một không hai.
Như Lai vì giáo hóa chúng sanh mà phân biệt đủ mọi cách.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy cho nên lấy Bát thánh đạo mà gọi là Đạo thánh đế.
Thiện nam tử! Bốn thánh đế này được chư Phật Thế Tôn tuần tự thuyết dạy. Nhờ
nhân duyên đó, vô lượng chúng sanh được thoát khỏi sanh tử.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Có một lần trước đây, khi Phật ở trong rừng
Thi-thủ bên bờ sông Hằng. Lúc ấy Phật cầm một nắm lá cây, hỏi chư tỳ-kheo rằng:
‘Lá cây ta đang nắm trong tay là nhiều hay lá của hết thảy cây cỏ trên mặt đất
là nhiều?’ Chư tỳ-kheo đáp rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Tất cả những lá cây cỏ trên mặt
đất là nhiều, không thể tính đếm. Những lá cây mà Như Lai nắm trong tay đó thật
quá ít không đáng nói.’
“Lúc ấy, Phật dạy rằng: ‘Chư tỳ-kheo! Tất cả những pháp mà ta biết rõ, ví như
[số lá của cây cỏ] mọc trên mặt đất. Những pháp mà ta vì chúng sanh thuyết dạy
chỉ như số lá ta nắm trong tay.’ Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật nói lúc ấy thì Như
Lai rõ biết vô lượng các pháp. Nếu các pháp ấy đều nằm trong Bốn đế, như vậy đều
là những pháp đã thuyết. Còn nếu chẳng nằm trong Bốn đế, thì lẽ ra phải có đến
Năm đế!”
Lúc ấy, Phật khen ngợi Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Việc
ông hỏi ta hôm nay đó có thể làm lợi ích, an ổn, khoái lạc cho vô lượng chúng
sanh. Thiện nam tử! Các pháp như vậy thảy đều thâu nhiếp vào trong Bốn Thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Nếu các pháp ấy đều nằm trong Bốn đế, tại sao Như Lai
nói rằng không có thuyết dạy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tuy là [có những pháp] nằm trong ấy, nhưng không gọi
là đã thuyết dạy. Vì sao vậy? Thiện nam tử! Hiểu biết về Bốn Thánh đế, có hai bậc
trí tuệ. Một là bậc trung, hai là bậc thượng. Bậc trung là trí tuệ của hàng
Thanh văn, Duyên giác. Bậc thượng là trí tuệ của chư Phật, Bồ Tát.
“Thiện nam tử! Rõ biết các ấm là khổ, đó gọi là trí tuệ bậc trung. Phân biệt
các ấm có vô lượng hình tướng, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được
của hàng Thanh văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những
nghĩa như vậy ta chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết các nhập là cửa vào, cũng gọi là khổ, đó gọi là trí tuệ bậc
trung. Phân biệt các nhập có vô lượng hình tướng, thảy đều là khổ, đó không phải
là chỗ biết được của hàng Thanh văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện
nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết các giới, đó gọi là chỗ phân chia, cũng gọi là tánh,
cũng gọi là khổ, đó là trí tuệ bậc trung. Phân biệt các giới có vô số hình tướng,
thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được của hàng Thanh văn, Duyên giác,
gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề
thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng hư hoại của sắc, đó là trí tuệ bậc trung. Phân biệt
các sắc có vô số tướng hư hoại, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được
của hàng Thanh văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những
nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng nhận biết của cảm thọ, đó là trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các cảm thọ có vô số tướng nhận biết, đó không phải là chỗ biết được
của hàng Thanh văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những
nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng nắm giữ của tưởng, đó là trí tuệ bậc trung. Phân
biệt tưởng ấy có vô số tướng nắm giữ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những nghĩa như
vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng tạo tác của hành, đó là trí tuệ bậc trung. Phân biệt
hành ấy có vô số tướng tạo tác, đó không phải là chỗ biết được của hàng Thanh
văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy
ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng phân biệt của thức, đó là trí tuệ bậc trung. Phân
biệt thức ấy có vô số tướng trí, đó không phải là chỗ biết được của hàng Thanh
văn, Duyên giác, gọi là trí tuệ bậc thượng. Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy
ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết nhân duyên luyến ái có thể sanh ra Năm ấm, đó là trí tuệ
bậc trung. Sự sanh khởi luyến ái vô lượng vô biên của một người đã là chỗ mà
hàng Thanh văn, Duyên giác không thể biết được, nhưng có thể biết được chỗ luyến
ái sanh khởi như vậy của tất cả chúng sanh gọi là trí tuệ bậc thượng. Những
nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết chỗ diệt trừ phiền não, đó là trí tuệ bậc trung. Phân biệt
được các phiền não không thể đếm kể, chỗ diệt trừ phiền não lại cũng như vậy,
không thể đếm kể, đó không phải chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên giác biết được, gọi
là trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh
khác.
“Thiện nam tử! Biết tướng của đạo thì có thể lìa phiền não, đó là trí tuệ bậc
trung. Phân biệt tướng của đạo vô lượng vô biên, chỗ lìa phiền não cũng vô lượng
vô biên, đó không phải chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên giác biết được, gọi là trí
tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Hiểu biết Thế đế, đó là trí tuệ bậc trung. Phân biệt Thế đế là
vô lượng vô biên, không thể đếm kể, đó không phải chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên
giác biết được, gọi là trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề
thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Tất cả các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn tịch diệt,
đó là Đệ nhất nghĩa, gọi là trí tuệ bậc trung. Biết Đệ nhất nghĩa là vô lượng
vô biên, không thể đếm kể, đó không phải là chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên giác
biết được, gọi là trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết
trong kinh khác.”
Lúc ấy Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế
mà Phật dạy đó, ý nghĩa như thế nào?
“Bạch Thế Tôn! Trong Đệ nhất nghĩa có Thế đế hay không? Trong Thế đế có Đệ nhất
nghĩa hay không? Nếu có, tức chỉ là một mà thôi. Nếu không, chẳng phải Như Lai
đã nói lời hư dối rồi sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Thế đế tức là Đệ nhất nghĩa đế.”
“Thế Tôn! Nếu như vậy tức là không có hai đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có phương tiện khéo léo, tùy thuận chúng sanh mà dạy rằng
có hai đế. Thiện nam tử! Nếu theo như lời nói, hẳn phải có hai pháp: một là
pháp thế gian, hai là pháp xuất thế gian.
“Thiện nam tử! Chỗ hiểu biết của người xuất thế gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Chỗ hiểu
biết của người thế gian gọi là Thế đế.
“Thiện nam tử! Năm ấm hòa hiệp thì gọi tên đó là người này, người kia. Chúng
sanh phàm phu tùy theo đó mà gọi tên, gọi là Thế đế. Hiểu rõ trong các ấm không
có những tên gọi người này, người kia; lìa khỏi các ấm cũng không có tên gọi
người này, người kia; người xuất thế đối với hình tướng và thể tánh như thế có
thể rõ biết, gọi là Đệ nhất nghĩa đế.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có những pháp thật có và có tên gọi; hoặc có những pháp
không thật có nhưng có tên gọi. Thiện nam tử! Pháp không thật có nhưng có tên gọi,
đó là Thế đế; pháp thật có và có tên gọi, đó là Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử! Các pháp như bản ngã, chúng sanh, thọ mạng, tri kiến, dưỡng dục,
trượng phu, người tạo tác, người thọ nhận, ảo ảnh lúc trời nóng, cảnh hóa
thành, lông rùa, sừng thỏ, vòng lửa xoáy quanh, các ấm, giới, nhập... đó gọi là
Thế đế. Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử! Thế pháp có năm loại: một là danh thế, hai là cú thế, ba là phược
thế, bốn là pháp thế, năm là chấp trước thế.
“Thiện nam tử! Sao gọi là danh thế? Kẻ nam, người nữ, bình bát, y phục, xe cộ,
phòng ốc..., những thứ như vậy gọi là danh thế.
“Sao gọi là cú thế? Bốn câu thành một bài kệ, các bài kệ như vậy gọi là cú thế.
“Sao gọi là phược thế? Những việc như đóng cuốn, kết lại, trói buộc, chấp tay,
đó gọi là phược thế.
“Sao gọi là pháp thế? Như đánh chuông nhóm tăng, nổi trống thúc quân, thổi vỏ ốc
biết giờ, đó gọi là pháp thế.
“Sao gọi là chấp trước thế? Ví như nhìn ra xa thấy người mặt áo nhuộm, liền
sanh ra tư tưởng chấp trước, nói đó là sa-môn, chẳng phải bà-la-môn. Như thấy
có gút dây mà choàng trên thân liền nghĩ rằng: Đó là bà-la-môn, chẳng phải
sa-môn. Như vậy, gọi là chấp trước thế.
“Thiện nam tử! Đó gọi là năm loại thế pháp. Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào
đối với năm loại thế pháp ấy mà tâm không điên đảo, hiểu biết đúng như thật, đó
gọi là Đệ nhất nghĩa đế.
“Lại nữa, thiện nam tử! Như đốt cháy, cắt đứt, chết mất, hư hoại, đó gọi là thế
đế. Không đốt cháy, không cắt đứt, không chết mất, không hư hoại, đó gọi là Đệ
nhất nghĩa đế.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có tám tướng khổ gọi là Thế đế. Không sanh, không già,
không bệnh, không chết, không chia lìa người thương yêu, không gặp gỡ kẻ oán cừu,
không mong cầu chẳng được, không năm ấm bạo phát, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử! Ví như một người có thể làm được nhiều việc, khi chạy đua thì gọi
là vận động viên, khi cắt gặt lại gọi là thợ gặt, khi nấu ăn gọi là đầu bếp,
khi làm những đồ gỗ thì gọi là thợ mộc, khi làm những đồ vàng bạc thì gọi là thợ
kim hoàn. Một người như vậy có nhiều tên gọi.
“Pháp cũng như thế, thật chỉ là một nhưng có nhiều tên. Do cha mẹ hòa hợp sanh
ra, đó gọi là Thế đế. Do Mười hai nhân duyên hòa hợp mà sanh, đó gọi là Đệ nhất
nghĩa đế.”
Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Thật đế mà Phật dạy đó, ý nghĩa
như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nói Thật đế đó, gọi là pháp chân thật. Thiện nam tử! Nếu
pháp không chân thật chẳng gọi là Thật đế.
“Thiện nam tử! Thật đế không có sự điên đảo. Không có điên đảo mới gọi là Thật
đế.
“Thiện nam tử! Thật đế không có sự hư dối. Nếu có hư dối không gọi là Thật đế.
“Thiện nam tử! Thật đế gọi là Đại thừa. Không phải Đại thừa không gọi là Thật đế.
“Thiện nam tử! Thật đế chính là lời Phật dạy, không phải thuyết của ma. Nếu là
thuyết của ma, không phải thuyết của Phật thì không gọi là Thật đế.
“Thiện nam tử! Thật đế là chỉ một đạo thanh tịnh, không có hai.
“Thiện nam tử! Có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, đó gọi là nghĩa của Thật đế.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu lấy chân thật là Thật đế, thì pháp chân
thật tức là Như Lai, là hư không, là tánh Phật. Nếu là như vậy thì Như Lai, hư
không và tánh Phật đều không có khác biệt.”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Có khổ, có đế, có chân thật; có tập, có đế, có chân
thật; có diệt, có đế, có chân thật; có đạo, có đế, có chân thật.
“Thiện nam tử! Như Lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế, là chân thật. Hư không chẳng
phải khổ, chẳng phải đế, là chân thật. Tánh Phật chẳng phải khổ, chẳng phải đế,
là chân thật.
“Văn-thù-sư-lợi! Nói rằng khổ là tướng vô thường, tướng có thể dứt đoạn, đó là
Thật đế. Tánh Như Lai không phải khổ, không phải vô thường, không thể dứt đoạn,
cho nên là chân thật. Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nói rằng tập là có thể làm cho năm ấm hòa hợp mà sanh,
cũng gọi là khổ, cũng gọi là vô thường, là tướng có thể dứt đoạn, đó là Thật đế.
Thiện nam tử! Như Lai chẳng phải là tánh tập như vậy, chẳng phải do nhân các ấm,
chẳng phải tướng có thể dứt đoạn, cho nên là chân thật. Hư không, tánh Phật
cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Nói rằng diệt là diệt trừ phiền não, cũng là thường, vô thường.
Chỗ chứng đắc của hàng Nhị thừa gọi là vô thường. Chỗ chứng đắc của chư Phật gọi
là thường, cũng gọi là pháp chứng, đó là Thật đế. Thiện nam tử! Tánh Như Lai chẳng
gọi là diệt, có thể diệt trừ phiền não, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường,
không gọi là chứng biết, thường trụ không biến đổi, nên là chân thật. Hư không,
tánh Phật cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Nói rằng đạo là có thể dứt trừ phiền não, cũng là thường, vô thường,
là pháp có thể tu, gọi là Thật đế. Như Lai chẳng phải đạo, có thể dứt trừ phiền
não, chẳng phải thường, vô thường, chẳng phải pháp có thể tu, thường trụ không
biến đổi, nên là chân thật. Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nói chân thật đó, tức là Như Lai. Như Lai là chân thật.
Chân thật đó, tức là hư không. Hư không là chân thật. Chân thật đó, tức là tánh
Phật. Tánh Phật là chân thật.
“Văn-thù-sư-lợi! Có đau khổ, có nguyên nhân của đau khổ, có sự chấm dứt đau khổ,
có cách đối trị đau khổ. Như Lai chẳng phải là khổ, cho đến chẳng phải là đối
trị đau khổ, nên là chân thật, không gọi là đế. Hư không, tánh Phật cũng là như
vậy.
“Khổ, ấy là pháp hữu vi, hữu lậu, không vui sướng. Như Lai chẳng phải hữu vi,
chẳng phải hữu lậu, hồn nhiên sâu lắng an vui, là chân thật, chẳng phải đế.”
Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy, không có điên đảo gọi
là Thật đế. Nếu vậy, trong Bốn đế có Bốn điên đảo hay chăng? Nếu có, vì sao lại
dạy rằng không điên đảo gọi là Thật đế, hết thảy điên đảo không gọi là chân thật?”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Hết thảy pháp điên đảo đều nằm trong Khổ đế. Như
chúng sanh nào có tâm điên đảo thì gọi là người điên đảo. Thiện nam tử! Ví như
có người không nhận lời dạy bảo của cha mẹ và các bậc tôn trưởng, hoặc có nhận
cũng không theo đó mà làm. Những kẻ như vậy gọi là điên đảo. Những kẻ điên đảo
như vậy không thể không khổ, chính là khổ vậy.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Như Phật có dạy, không hư dối tức là Thật đế. Nếu vậy,
nên biết rằng hư dối hẳn không phải là Thật đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả hư dối đều vào trong Khổ đế. Như có chúng sanh
nào dối gạt kẻ khác, do nhân duyên ấy đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Những
pháp như vậy gọi là hư dối. Hư dối như vậy không thể không khổ, chính là khổ vậy.
Đó là chỗ mà hàng Thanh văn, Duyên giác và chư Phật Thế Tôn đều xa lìa không
làm, nên gọi là hư dối. Sự hư dối như vậy, chư Phật và hàng Nhị thừa đều đã trừ
dứt, nên gọi là Thật đế.”
Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật: “Như lời Phật dạy, Đại thừa là Thật đế, vậy nên
biết rằng các thừa Thanh văn và Bích-chi Phật hẳn là không chân thật!”
Phật dạy: “Văn-thù-sư-lợi! Hai thừa ấy cũng là thật, cũng là không thật. Hàng
Thanh văn, Duyên giác dứt trừ các phiền não nên gọi là thật. Vô thường chẳng trụ,
là pháp biến đổi nên gọi là không thật.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Như Phật có dạy: Nếu là lời Phật thuyết thì gọi là thật,
nên biết rằng lời ma thuyết hẳn là không thật. Bạch Thế Tôn! Như lời ma thuyết
có thâu nhiếp vào trong Thánh đế hay chăng?”
Phật dạy: “Văn-thù-sư-lợi! Lời của ma thuyết thâu nhiếp vào trong hai đế là Khổ
đế và Tập đế. Nói chung hết thảy những điều không phải Chánh pháp, không phải
giới luật thì không thể làm cho người ta được lợi ích. Dù có thuyết giảng suốt
ngày cũng chẳng ai nhờ đó mà thấy được khổ, dứt trừ nguyên nhân của khổ, chứng
được chỗ dứt trừ đau khổ, tu tập đạo giải thoát. Đó gọi là hư dối. Hư dối như vậy
gọi là thuyết của ma.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Như Phật có dạy, chỉ một đạo thanh tịnh, chẳng có hai. Những
kẻ ngoại đạo cũng nói rằng: ‘Ta có một đạo thanh tịnh, chẳng có hai.’ Nếu nói rằng
chỉ một đạo là Thật đế, thì so với ngoại đạo kia có gì khác biệt? Nếu không
khác biệt thì không nên nói rằng chỉ một đạo thanh tịnh!”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những kẻ ngoại đạo có Khổ đế, Tập đế, nhưng họ không
có Diệt đế, Đạo đế. Trong chỗ không phải diệt mà nảy sanh tư tưởng cho đó là diệt,
trong chỗ không phải đạo mà nảy sanh tư tưởng cho đó là đạo, trong chỗ không phải
quả mà nảy sanh tư tưởng cho đó là quả, trong chỗ không phải nhân mà nảy sanh
tư tưởng cho đó là nhân. Vì nghĩa ấy, họ không có một đạo thanh tịnh duy nhất
không phân biệt.”
Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: “Như lời Phật dạy: Có thường, có lạc, có ngã, có tịnh,
đó là thật nghĩa. Những kẻ ngoại đạo lẽ ra là có Thật đế, còn trong Phật pháp lại
không có. Vì sao vậy? Vì những kẻ ngoại đạo cũng nói rằng: ‘Các hành là thường.’
Thế nào là thường? Dù vừa ý hay không vừa ý, hết thảy các nghiệp báo đều phải
nhận chịu chẳng hề sai mất. Nói vừa ý, đó là quả báo của Mười điều lành. Nói
không vừa ý, đó là quả báo của Mười điều ác. Nếu nói rằng ‘các hành đều vô thường’,
vậy người tạo nghiệp sau khi chết mất ở nơi này, còn ai lại ở nơi kia mà chịu
quả báo? Vì nghĩa ấy nên các hành chính là thường. Nhân duyên sát sanh cũng gọi
là thường!
“Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng ‘các hành đều vô thường’, thì kẻ giết hại và kẻ bị
giết hại, cả hai đều là vô thường. Nếu là vô thường, vậy ai ở địa ngục mà chịu
tội báo? Nếu nói chắc chắn có người chịu tội báo nơi địa ngục, thì nên biết rằng
các hành thật chẳng phải vô thường.
“Bạch Thế Tôn! Chuyên tâm ghi nhớ cũng gọi là thường. Như chỗ ghi nhớ trong mười
năm, thậm chí đến trăm năm cũng chẳng hề quên mất, cho nên là thường. Nếu là vô
thường thì những việc đã thấy từ trước còn ai nhớ, ai nghĩ? Vì nhân duyên ấy, hết
thảy các hành đều chẳng phải vô thường.
“Thế Tôn! Hết thảy mọi sự nhớ tưởng cũng gọi là thường. Như có người trước kia
đã nhìn thấy rõ một người khác từ đầu đến chân. Về sau, nếu có gặp liền nhớ lại
ngay. Nếu là vô thường thì những sự nhớ tưởng việc trước kia lẽ ra phải mất rồi!
“Thế Tôn! Các nghề nghiệp, việc làm, đều nhờ sự học hỏi, rèn luyện lâu ngày,
như từ khi mới học phải trải qua ba năm, hoặc năm năm... mới được thông thạo,
cho nên là thường.
“Thế Tôn! Trong phép tính toán, từ số một đến số hai, từ số hai đến số ba...
cho đến số trăm ngàn. Nếu là vô thường, đáng lẽ số một ban đầu phải mất. Số một
ban đầu nếu mất, làm sao có đến số hai? Như vậy chỉ thường có số một, rốt cùng
cũng chẳng có số hai! Vì số một không mất mới có đến số hai, cho đến số trăm
ngàn, vậy nên là thường.
“Thế Tôn! Như trong phép tụng đọc, phải đọc kinh A-hàm bộ thứ nhất, kế đến
A-hàm bộ thứ nhì, rồi đến bộ thứ ba, thứ tư. Nếu là vô thường, thì việc đọc tụng
rốt cùng không đến được bộ thứ tư. Vì có nhân duyên là sự tụng đọc tăng dần như
vậy nên gọi là thường.
“Thế Tôn! Bình bát, y phục, xe cộ... cho đến người thiếu nợ, hình tướng trên mặt
đất, núi sông, rừng rậm, cây cối cỏ lá làm thuốc, chúng sanh trị bệnh... thảy đều
là thường, cũng lại như vậy.
“Thế Tôn! Tất cả ngoại đạo đều nói rằng: ‘Các hành là thường.’ Nếu các hành là
thường, tức là Thật đế!
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng có sự vui sướng. Vì sao biết được?
Người thọ nhận, chắc chắn sẽ được quả báo vừa ý. Thế Tôn! Nói chung những người
thọ nhận sự vui sướng chắc chắn sẽ được như vậy, đó là những cảnh giới Đại Phạm
Thiên vương, Đại Tự Tại thiên, Thích-đề-hoàn-nhân, Tỳ-nữu thiên, cùng cõi người,
cõi trời. Vì nghĩa ấy nên gọi là quyết định có sự vui sướng.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng có sự vui sướng, vì có thể khiến
chúng sanh nảy sanh lòng mong cầu: kẻ đói mong cầu thức ăn, kẻ khát mong cầu thức
uống, kẻ lạnh mong cầu được ấm, kẻ nóng mong cầu được mát, kẻ cực khổ mong cầu
được nghỉ ngơi, kẻ mắc bệnh mong cầu được khỏi, kẻ tham dục mong cầu sắc đẹp. Nếu
không có sự vui sướng, vì sao những kẻ ấy lại mong cầu? Bởi có kẻ mong cầu nên
biết rằng có sự vui sướng.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng bố thí có thể được vui sướng. Người đời
thích bố thí cho sa-môn, bà-la-môn, những kẻ bần cùng khốn khổ các món áo quần,
thức ăn uống, đồ ngủ, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, hương bột, hương thoa, các
thứ hoa, phòng ốc, nhà cửa, chỗ nương dựa, đèn đuốc... Làm đủ các việc bố thí
như vậy là vì muốn rằng đời sau sẽ được quả báo vừa ý. Vì vậy nên biết rằng chắc
chắn có sự vui sướng.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng vì có nhân duyên nên biết rằng có sự
vui sướng. Như nói người được vui sướng là vì có nhân duyên nên gọi là cảm xúc
vui sướng. Nếu không có vui sướng làm sao có nhân duyên? Như không có sừng thỏ,
hẳn không có nhân duyên. Bởi có nhân duyên vui sướng, nên biết rằng có sự vui
sướng.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng vì có các cảnh giới cao, thấp và
trung bình nên biết là có sự vui sướng. Cảnh giới thấp được vui sướng là cảnh
Thích-đề hoàn-nhân. Cảnh giới trung bình được vui sướng là cảnh Đại Phạm Thiên
vương. Cảnh giới cao được vui sướng là cảnh Đại Tự Tại thiên. Bởi có ba cảnh giới
cao, thấp và trung bình như vậy, nên biết rằng có sự vui sướng.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng có sự thanh tịnh. Vì sao vậy? Nếu
không có sự thanh tịnh thì lẽ ra không khởi lòng tham muốn. Nếu có khởi lòng
tham muốn, nên biết là có sự thanh tịnh.
“Lại có kẻ nói rằng: vàng, bạc, trân bảo, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san
hô, chân châu, ngọc bích, ngọc đá, suối nước chảy, ao tắm, ẩm thực, y phục, hoa
hương, hương bột, hương thoa, đèn đuốc... những vật như vậy đều là pháp thanh tịnh.
“Lại nữa, có sự thanh tịnh, như nói năm ấm là vật chứa thanh tịnh, vì chứa những
vật thanh tịnh như là người ta, chư thiên, các vị tiên, A-la-hán, Phật
Bích-chi, Bồ Tát, chư Phật. Vì nghĩa ấy nên gọi là thanh tịnh.
“Thế Tôn! Có những ngoại đạo lại nói rằng có ngã, vì có sự nhìn thấy, có khả
năng tạo tác. Ví như có người vào nhà thợ gốm, tuy chẳng thấy người thợ ấy
nhưng nhìn thấy những đồ nghề làm gốm liền biết chắc rằng nhà ấy có thợ gốm.
Cái ngã cũng vậy, do thấy hình sắc nên biết rằng có ngã. Nếu không có ngã thì
ai nhìn thấy hình sắc? Nghe biết âm thanh cho đến tiếp xúc với các pháp, cũng
là như thế..
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Do hình tướng mà biết được. Những gì là
hình tướng? Hơi thở nhanh chậm, con mắt nhìn nháy, mạng sống, đem lòng nhận chịu
những sự đau khổ, vui sướng, tham lam, mong cầu, giận dữ. Những pháp như vậy đều
là hình tướng của ngã. Bởi vậy nên biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã là vì biết phân biệt mùi vị. Như có người ăn trái cây,
nhìn thấy đã biết được vị. Vì thế nên biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì thực hiện được các công việc. Như cầm
liềm có thể cắt cỏ, cầm rìu có thể đốn cây, cầm bình chứa nước, lên xe có thể
cưỡi đi... Những việc như vậy là do cái ngã có khả năng thực hiện. Bởi vậy nên
biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Ngay khi sanh ra đã muốn được bú mớm,
là do thói quen từ đời trước. Bởi vậy nên biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì có sự hòa hiệp làm lợi ích cho những
chúng sanh khác. Ví như bình bát, y phục, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, núi rừng
cây cối, voi, ngựa, bò, dê. Những vật như vậy, nếu hòa hiệp hẳn có lợi ích. Năm
ấm trong thân người cũng vậy, từ con mắt cho đến các giác quan khác nếu hòa hợp
hẳn có lợi ích cho người. Bởi vậy nên biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Là vì có những pháp ngăn che. Như có vật
nên có ngăn che, chướng ngại. Nếu không có vật thì không có ngăn che. Nếu có
ngăn che thì biết là có ngã. Bởi vậy nên biết rằng nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì có sự phân chia ra cùng nhóm, không
cùng nhóm. Thân thiết và không thân thiết, đó chẳng phải cùng nhóm. Chánh pháp,
tà pháp cũng chẳng phải cùng nhóm. Trí và vô trí, cũng chẳng phải cùng nhóm.
Sa-môn, chẳng phải sa-môn; bà-la-môn, chẳng phải bà-la-môn; con, chẳng phải
con; ngày, chẳng phải ngày; đêm, chẳng phải đêm; ngã, chẳng phải ngã... những
pháp như vậy là cùng nhóm và không cùng nhóm. Bởi vậy nên biết rằng nhất định
có ngã.
“Thế Tôn! Những kẻ ngoại đạo dùng đủ cách để nói rằng có thường, lạc, ngã, tịnh.
Nên biết rằng nhất định có thường, lạc, ngã, tịnh. Thế Tôn! Vì nghĩa ấy nên những
kẻ ngoại đạo cũng có thể nói rằng: Ta có chân đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu có vị sa-môn, bà-la-môn nào có thường, có lạc, có
ngã, có tịnh, họ chẳng phải là sa-môn, bà-la-môn. Vì sao vậy? Vì mê muội nơi
sanh tử, lìa xa bậc Đại đạo sư thông hiểu tất cả. Hạng sa-môn, bà-la-môn ấy
chìm đắm trong các dục, vì pháp lành của họ bị yếu ớt, mất đi. Những kẻ ngoại đạo
này bị trói buộc trong ngục tù của tham dục, sân khuể và ngu si, cam tâm hưởng
thụ sự vui sướng [giả tạm].
“Những kẻ ngoại đạo ấy tuy biết rằng nghiệp quả tự làm tự chịu, nhưng chưa thể
lìa xa pháp xấu ác. Những kẻ ngoại đạo ấy không tự sanh sống theo Chánh pháp,
chánh mạng. Vì sao vậy? Vì không có lửa trí tuệ nên không thể tiêu trừ.
“Những kẻ ngoại đạo ấy tuy tham đắm vướng chấp nơi năm món dục lạc ở hàng cao
quý tốt đẹp nhưng lại có rất ít pháp lành, vì không siêng năng tu tập. Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy muốn đạt được giải thoát chân chánh nhưng không giữ đúng theo
giới luật nên không thể thành tựu.
“Những kẻ ngoại đạo ấy tuy muốn được vui sướng nhưng không thể cầu được nhân
duyên của sự vui sướng; tuy chán ghét mọi khổ não nhưng việc làm chưa thể lìa
xa những nhân duyên gây đau khổ.
“Những kẻ ngoại đạo ấy tuy bị con rắn độc bốn đại buộc trói, nhưng vẫn còn làm
việc buông thả, không thể cẩn thận. Những kẻ ngoại đạo ấy bị vô minh che lấp,
lìa xa các bạn lành, vui thích ở trong đám lửa lớn hừng hực của Ba cõi vô thường
mà không thể thoát ra.
“Những kẻ ngoại đạo ấy mắc phải bệnh nan y phiền não nhưng lại không cầu tìm bậc
lương y có trí tuệ lớn. Những kẻ ngoại đạo ấy, trong tương lai sẽ trải qua đường
xa hiểm trở vô cùng, nhưng không biết tích lũy các pháp lành để làm hành trang,
lương thực mang theo, tự làm tốt đẹp cho mình.
“Những kẻ ngoại đạo ấy thường bị hại bởi tai họa độc địa và dâm dục nhưng họ lại
ôm giữ lấy đám sương độc năm món dục; tuy có lòng sân hận bốc cao nhưng lại gần
gũi những người bạn xấu.
“Những kẻ ngoại đạo ấy thường bị vô minh che lấp nhưng lại tìm cầu những pháp
tà ác. Những kẻ ngoại đạo ấy thường bị những tà kiến mê hoặc nhưng trong chỗ ấy
lại nảy sanh tư tưởng thân thiện.
“Những kẻ ngoại đạo ấy cầu được ăn trái ngọt nhưng lại gieo hạt giống đắng. Những
kẻ ngoại đạo ấy ở trong nhà tối phiền não nhưng lại lìa xa ngọn đuốc sáng trí
tuệ lớn.
“Những kẻ ngoại đạo ấy, tuy khổ bức vì cơn khát phiền não nhưng lại uống vào thứ
nước mặn là các món tham dục. Những kẻ ngoại đạo ấy trôi dạt chìm đắm trong
dòng sông lớn sanh tử không bờ bến nhưng lại lìa xa vị thuyền sư giỏi nhất.
“Những kẻ ngoại đạo ấy mê hoặc, điên đảo, nói rằng các hành là thường. Các hành
nếu là thường thì thật là vô lý!
QUYỂN 14 - Phẩm THÁNH HẠNH - Phẩm thứ bảy – Phần bốn
Thiện nam tử! Ta xét thấy các hành đều là vô thường. Vì sao
biết được? Là do nhân duyên. Nếu có các pháp do duyên mà sanh, hẳn biết được là
vô thường. Những kẻ ngoại đạo ấy không có pháp nào lại không do duyên sanh.
“Thiện nam tử! Tánh Phật là không sanh, không diệt, không đến, không đi; không
thuộc quá khứ, không thuộc vị lai, không thuộc hiện tại; không phải do nhân tạo
tác, cũng chẳng phải không do nhân tạo tác; không tạo tác, không người tạo tác;
không phải tướng, không phải vô tướng; chẳng phải có tên, chẳng phải không tên,
chẳng phải tên gọi; chẳng phải hình sắc, chẳng dài, chẳng ngắn; chẳng phải chỗ
thâu nhiếp, nắm giữ của các ấm, giới, nhập. Vì thế nên gọi là thường.
“Thiện nam tử! Tánh Phật tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp. Pháp tức là thường.
Thiện nam tử! Thường tức là Như Lai. Như Lai tức là Tăng. Tăng tức là thường.
Vì nghĩa ấy nên những pháp do nhân sanh ra chẳng gọi là thường. Những kẻ ngoại
đạo ấy không có pháp nào là không do nhân sanh ra.
“Thiện nam tử! Những kẻ ngoại đạo ấy chẳng thấy được tánh Phật, Như Lai và
Chánh pháp. Cho nên những lời mà họ nói ra đều là sai lầm, hư dối, không có
chân đế. Những kẻ phàm phu trước thấy những vật như bình bát, y phục, xe cộ,
nhà cửa, thành quách, sông rạch, núi rừng, nam nữ, voi ngựa, bò dê.. về sau lại
thấy những hình dạng cũng tương tự như thế, liền cho đó là thường. Nên biết, thật
ra đó chẳng phải thường.
“Thiện nam tử! Hết thảy các pháp hữu vi đều là vô thường. Hư không vô vi nên là
thường. Tánh Phật vô vi nên là thường. Hư không tức là tánh Phật; tánh Phật tức
là Như Lai. Như Lai tức là vô vi; vô vi tức là thường; thường tức là pháp; pháp
tức là Tăng; Tăng tức là vô vi. Vô vi đó, tức là thường.
“Thiện nam tử! Các pháp hữu vi nói chung có hai loại: pháp hình sắc và pháp
không hình sắc. Pháp không hình sắc là các pháp tâm và tâm sở. Pháp hình sắc là
những thứ như đất, nước, lửa, gió...
“Thiện nam tử! Tâm gọi là vô thường. Vì sao vậy? Vì bản tánh nó là phan duyên,
tùy chỗ tiếp xúc mà phân biệt. Thiện nam tử! Tánh của nhãn thức là biến đổi,
cho đến tánh của ý thức cũng là biến đổi, nên là vô thường.
“Thiện nam tử! Cảnh giới của hình sắc là biến đổi, cho đến cảnh giới của pháp
là biến đổi, nên là vô thường.
“Thiện nam tử! Sự tương ứng của nhãn thức là biến đổi, cho đến sự tương ứng của
ý thức là biến đổi, nên là vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì đáng lẽ riêng một nhãn thức cũng đủ duyên
theo hết thảy các pháp! Thiện nam tử! Nếu nhãn thức là biến đổi, cho đến ý thức
cũng là biến đổi, thì biết đó là vô thường. Vì các pháp có chỗ tương tợ như
nhau, trong mỗi khoảnh khắc thường sanh ra và diệt mất, nên kẻ phàm phu thấy vậy
liền cho đó là thường.
“Thiện nam tử! Vì hình tướng của các nhân duyên có thể hư hoại nên cũng gọi là
vô thường. Chẳng hạn như nhân có con mắt, có hình sắc, có ánh sáng, có sự suy
xét, mới sanh ra sự nhận biết của mắt. Khi sanh ra sự nhận biết của tai thì lại
do nơi các nhân khác biệt, chẳng phải cùng các nhân như sự nhận biết của mắt.
Cho đến sự nhận biết của ý đều khác biệt, cũng là như vậy.
Lại nữa, thiện nam tử! Nhân duyên hư hoại của các hành là khác nhau, cho nên
tâm gọi là vô thường. Chẳng hạn như tâm tu tập [quán tưởng] vô thường là khác,
tâm tu tập [quán tưởng] các pháp khổ, không, vô ngã cũng khác. Nếu tâm là thường,
lẽ ra chỉ thường tu pháp [quán tưởng] vô thường. Như vậy không thể quán được
các pháp khổ, không, vô ngã, huống hồ có thể quán các pháp thường, lạc, ngã, tịnh?
Vì nghĩa ấy nên trong pháp của ngoại đạo không thể thâu nhiếp giữ lấy thường, lạc,
ngã, tịnh. Thiện nam tử! Nên biết rằng tâm pháp nhất định là vô thường.
“Lại nữa, thiện nam tử! Vì tâm tánh khác nhau nên gọi là vô thường. Chẳng hạn
như tâm tánh của hàng Thanh văn là khác, tâm tánh của hàng Duyên giác là khác,
tâm tánh của chư Phật lại cũng khác.
“Hết thảy ngoại đạo có ba thứ tâm. Một là tâm xuất gia, hai là tâm tại gia, ba
là tâm tại gia muốn xa lìa. Tâm tương ứng với vui sướng là khác, tâm tương ứng
với khổ là khác, tâm tương ứng với việc chẳng khổ chẳng vui là khác. Tâm tương ứng
với tham dục là khác, tâm tương ứng với sân khuể là khác, tâm tương ứng với ngu
si là khác... Hết thảy ngoại đạo, tâm tương ứng của họ cũng khác nhau. Chẳng hạn
như tâm tương ứng với ngu si là khác, tâm tương ứng với nghi hoặc là khác, tâm
tương ứng với tà kiến là khác. Những lúc tới lui, giữ theo oai nghi, tâm ấy
cũng khác.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì người ta không thể phân biệt được các màu,
chẳng hạn như màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu tím... Thiện nam tử! Nếu
tâm là thường thì những việc đã nhớ nghĩ lẽ ra không thể quên mất! Thiện nam tử!
Nếu tâm là thường thì trong việc tụng đọc lẽ ra không có sự tiến triển.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nếu tâm là thường, lẽ ra không thể nói rằng: đã làm,
đang làm, sẽ làm. Nếu có ‘đã làm, đang làm, sẽ làm’, phải biết rằng tâm ấy nhất
định là vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường, hẳn không có oán thù hay thân thiện, hoặc chẳng
oán chẳng thân. Nếu tâm là thường, hẳn không nên nói là ‘vật của tôi’, ‘vật của
người khác’, hoặc chết, hoặc sống... Nếu tâm là thường, tuy có chỗ làm nhưng lẽ
ra là không có sự phát triển.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên biết rằng tâm tánh có nhiều loại khác nhau. Vì
có khác nhau nên biết rằng là vô thường.
“Thiện nam tử! Nay ta đã giảng giải lẽ vô thường trong chỗ pháp không hình sắc.
Nghĩa ấy đã rõ. Ta lại sẽ vì ông mà giảng lẽ vô thường của hình sắc.
“Sắc ấy là vô thường, vốn không có sanh, vì sanh đã diệt. Bên trong thì như
thân người lúc mới vào thai, giai đoạn ca-la-ra vốn không có sanh, vì sanh đã
biến đổi. Bên ngoài thì như các mầm cây vốn không có sanh, vì sanh đã biến đổi.
Vì thế nên biết rằng tất cả pháp hình sắc đều là vô thường.
“Thiện nam tử! Những hình sắc ở trong thân đều [liên tục] biến đổi theo từng thời
điểm. Khi ở thời kỳ ca-la-ra là khác, khi ở thời kỳ an-phù-đà là khác, khi ở thời
kỳ già-na là khác, khi ở thời kỳ nắm tay là khác, khi ở thời kỳ thành hình bào
thai là khác, khi ở thời kỳ sơ sanh là khác, khi ở thời kỳ hài nhi là khác, khi
ở thời kỳ nhi đồng là khác, mãi cho đến khi già nua, mỗi lúc đều có biến đổi...
“Những hình sắc bên ngoài cũng vậy: mầm cây là khác, thân cây là khác, cho đến
cành, lá, hoa, trái... đều là khác.
“Lại nữa, thiện nam tử! Cho đến mùi vị bên trong cũng luôn đổi khác. Khi ở thời
kỳ ca-la-ra là khác, cho đến thời kỳ già nua, mỗi lúc đều biến đổi... Mùi vị
bên ngoài cũng vậy, mầm cây, thân cây, cành, lá, hoa, trái... mỗi lúc đều có vị
khác nhau...
“Khi ở thời kỳ ca-la-ra, sức lực là khác, cho đến khi già nua sức lực cũng
khác. Khi ở thời kỳ ca-la-ra, hình dạng là khác, đến khi già nua hình dạng lại
khác nữa. Khi ở thời kỳ ca-la-ra, quả báo là khác, đến khi già nua, quả báo lại
khác nữa. Khi ở thời kỳ ca-la-ra, tên gọi là khác, đến khi già nua, tên gọi
cũng khác.
“Hình sắc trong thân hư hoại rồi hợp lại, nên biết là vô thường. Hình sắc bên
ngoài như cây cối cũng hư hoại rồi hợp lại, nên biết là vô thường. Cứ tuần tự
theo thứ lớp sanh ra, nên biết là vô thường.
“Theo thứ lớp sanh ra là như từ thời kỳ ca-la-ra cho tới lúc già nua. Theo thứ
lớp sanh ra là như từ mầm cây cho tới quả, hạt... nên biết là vô thường.
“Các hình sắc có thể diệt mất, nên biết là vô thường. Sự diệt mất ở thời kỳ
ca-la-ra là khác, cho đến sự diệt mất ở thời kỳ già nua là khác. Sự diệt mất của
mầm cây là khác, cho đến sự diệt mất của trái cây là khác... nên biết là vô thường.
Kẻ phàm phu không hiểu biết, thấy chỗ sanh ra tương tự liền cho là thường. Vì
nghĩa ấy nên gọi là vô thường.
“Nếu là vô thường tức là khổ; nếu là khổ tức là bất tịnh. Thiện nam tử, nhân vì
trước đây Ca-diếp có hỏi việc ấy, ta đã giải đáp rồi.
“Lại nữa, thiện nam tử! Các pháp là vô ngã. Thiện nam tử! Tất cả các pháp gồm
có pháp hình sắc và pháp không có hình sắc. Các pháp có hình sắc chẳng phải là
ngã. Vì sao vậy? Vì có thể bị phá hỏng, bị hư hoại, bị xé rách, bị đánh đập,
sanh ra rồi lớn dần lên. Còn cái ngã thì không thể bị phá hỏng, bị hư hoại, bị
xé rách, bị đánh đập, không sanh ra rồi lớn dần lên. Vì nghĩa ấy nên biết các
pháp có hình sắc chẳng phải là ngã. Các pháp không hình sắc cũng chẳng phải là
ngã. Vì sao vậy? Vì do nhân duyên mà sanh ra.
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo nhờ chuyên tâm suy nghĩ mà biết là có
ngã, thì tánh của sự chuyên tâm suy nghĩ đó thật chẳng phải ngã. Nếu lấy sự
chuyên tâm suy nghĩ mà cho là tánh của ngã, thì những việc trong quá khứ hẳn phải
có chỗ quên mất. Vì có chỗ quên mất, nên biết chắc là vô ngã.
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo nhờ nghĩ nhớ mà biết rằng có ngã, vì không
nghĩ nhớ nên biết chắc là vô ngã. Như nói: ‘Có người bàn tay đến sáu ngón.’ Vừa
nghe vậy liền hỏi rằng: ‘Trước đây tôi có gặp người ấy ở đâu kìa?’ Nếu là có
ngã, lẽ ra không cần hỏi lại. Vì có hỏi nhau nên biết chắc là vô ngã.
“Thiện nam tử! Như có những kẻ ngoại đạo vì có chỗ ngăn che mà biết rằng có
ngã. Thiện nam tử! Bởi có sự ngăn che nên biết chắc là vô ngã. Như nói: ‘Điều-đạt’
thì chẳng bao giờ nói ‘chẳng phải Điều-đạt’. Cái ngã cũng vậy, nếu nói chắc là
có ngã thì chẳng bao giờ lại ngăn che cái ngã. Bởi có ngăn che cái ngã nên biết
chắc là vô ngã. Nếu vì sự ngăn che mà biết rằng có ngã, nay ông không có sự
ngăn che, nhất định phải là vô ngã!
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo lấy việc cùng nhóm, chẳng cùng nhóm mà
biết rằng có ngã; vậy thì vì không cùng nhóm lẽ ra không có ngã! Có những pháp
không có gì cùng nhóm, ấy là: Như Lai, hư không, tánh Phật. Cái ngã cũng vậy,
thật không có gì cùng nhóm. Vì nghĩa ấy nên biết chắc là vô ngã.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo lấy tên gọi mà biết rằng có
ngã, trong những pháp vô ngã cũng có tên gọi ngã, như người nghèo hèn có tên là
Phú Quý. Như nói: ‘Ta chết’. Nếu là ta chết, thì là tự ta giết ta. Nhưng cái
ngã thật không thể giết. Tạm gọi là ‘giết ta’, cũng như người lùn thấp mà có tên
là Người Cao Lớn. Vì nghĩa ấy, nên biết chắc là vô ngã.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo thấy trẻ vừa sanh ra đã biết
đòi bú mà cho rằng có ngã. Thiện nam tử! Nếu là có ngã thì hết thảy trẻ con lẽ
ra không bốc lấy phẩn dơ, lửa, rắn, thuốc độc... Vì nghĩa ấy nên biết chắc là
vô ngã.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có ba việc mà hết thảy chúng sanh đều có sự hiểu biết
như nhau. Đó là: sự dâm dục, sự ăn uống và sự khiếp sợ. Vì vậy nên vô ngã.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo vì tướng mạo mà biết rằng có
ngã. Thiện nam tử! Vì có tướng nên vô ngã. Vì không tướng cũng là vô ngã. Như
người đang ngủ không thể đi, đứng, cúi xuống, ngẩng lên, nhìn, nháy mắt, chẳng
biết khổ, vui, lẽ ra là không có ngã. Nếu lấy việc đi, đứng, cúi xuống, ngẩng
lên, nhìn, nháy mắt mà biết là có ngã, thì người máy bằng gỗ lẽ ra cũng có ngã!
Thiện nam tử! Như Lai cũng thế, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng cúi xuống, chẳng ngẩng
lên, chẳng nhìn, chẳng nháy mắt, chẳng khổ, chẳng vui, chẳng tham, chẳng giận,
chẳng si, chẳng làm. Như Lai như vậy, chân thật có ngã.
“Lại nữa, thiện nam tử! Nếu có những kẻ ngoại đạo thấy người khác ăn trái cây,
trong miệng chảy nước miếng, do đó biết rằng có ngã. Thiện nam tử! Bởi có nhớ
tưởng nên nhìn thấy thì chảy nước miếng, nước miếng đó chẳng phải ngã. Ngã cũng
chẳng phải là nước miếng, chẳng phải vui, chẳng phải buồn, chẳng phải ngáp, chẳng
phải cười, chẳng phải nằm, chẳng phải ngồi, chẳng phải đói, chẳng phải no... Vì
nghĩa ấy nên biết chắc là vô ngã.
“Thiện nam tử! Những kẻ ngoại đạo ấy ngu si như trẻ con, không có phương tiện
trí tuệ, không rõ biết các lẽ thường, vô thường, khổ, vui, tịnh, bất tịnh, ngã,
vô ngã, thọ mạng, chẳng phải thọ mạng, chúng sanh, chẳng phải chúng sanh, thật,
chẳng phải thật, có, chẳng phải có. Ở trong Phật pháp, họ chỉ nắm được một phần
rất nhỏ, hư dối cho rằng có thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng thật chẳng biết thường,
lạc, ngã, tịnh.
“Như người mù từ lúc mới sanh, không biết màu của sữa, liền hỏi một người khác:
‘Màu của sữa giống cái gì?’ Người kia đáp: ‘Màu trắng như vỏ ốc.’ Người mù lại
hỏi: ‘Màu của sữa có giống như tiếng thổi vỏ ốc chăng?’ Đáp rằng: ‘Không phải.’
Lại hỏi: ‘Màu của vỏ ốc giống cái gì?’ Đáp: ‘Như cháo nếp.’ Người mù lại hỏi:
‘Sữa có mềm dẻo như cháo nếp chăng? [Đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi:] Cháo nếp
giống cái gì?’ Đáp: ‘Giống như mưa tuyết.’ Người mù lại hỏi: ‘Cháo nếp có lạnh
như tuyết chăng? [Đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi:] Tuyết giống cái gì?’ Đáp:
‘Giống như con hạc trắng.’
“Người mù từ lúc mới sanh ấy, tuy nghe bốn cách so sánh như vậy, nhưng rốt cuộc
cũng chẳng biết được màu thật của sữa. Những kẻ ngoại đạo kia cũng vậy, rốt cuộc
cũng chẳng biết được thường, lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên trong pháp Phật mới có chân lý chân thật, ngoại
đạo không có được.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thật ít có thay, Thế Tôn! Nay Như Lai sắp buông xả tất
cả mà vào Niết-bàn, dùng phương tiện chuyển bánh xe pháp Vô thượng, phân biệt
Chân đế như vậy!”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Hôm nay vì sao ông đối với Như Lai lại nảy sanh tư tưởng
[cho rằng Như Lai sắp vào] Niết-bàn?
“Thiện nam tử! Như Lai thật là thường trụ, không biến đổi, không có vào Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Như có ý cho rằng: ‘Ta là Phật, ta thành A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Ta là pháp, pháp là của ta. Ta là đạo, đạo là của ta. Ta là Thế Tôn,
Thế Tôn là của ta. Ta là Thanh văn, Thanh văn là của ta. Ta có thể thuyết pháp,
khiến người khác nghe và tin nhận. Ta chuyển bánh xe Pháp, ngoài ra những người
khác không thể.’ Như Lai không bao giờ có những ý nghĩ như vậy. Cho nên Như Lai
không có chuyển bánh xe Pháp.
“Thiện nam tử! Như có người có những ý tưởng hư dối cho rằng: ‘Ta là mắt, mắt
là của ta. Cho đến tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như vậy. Ta là sắc, sắc là của
ta; cho đến pháp cũng là như vậy. Ta là đất, đất là của ta, cho đến nước, lửa,
gió cũng là như vậy.’ [Những ý tưởng như vậy đều là hư dối.]
“Thiện nam tử! Như có người nói rằng: ‘Ta là tín, tín là của ta. Ta là đa văn,
đa văn là của ta. Ta là Đàn ba-la-mật, Đàn ba-la-mật là của ta. Ta là Thi-la
ba-la-mật, Thi-la ba-la-mật tức là của ta. Ta là Sằn-đề ba-la-mật, Sằn-đề
ba-la-mật là của ta. Ta là Tỳ-lê-da ba-la-mật, Tỳ-lê-da ba-la-mật là của ta. Ta
là Thiền ba-la-mật, Thiền ba-la-mật là của ta. Ta là Bát-nhã ba-la-mật, Bát-nhã
ba-la-mật là của ta. Ta là Bốn niệm xứ, Bốn niệm xứ là của ta. Bốn chánh cần, Bốn
như ý túc, Năm căn, Năm sức, Bảy phần giác, Tám Thánh đạo lại cũng như vậy.’
[Những ý tưởng như vậy đều là hư dối.] Thiện nam tử! Như Lai chẳng bao giờ có
những ý nghĩ [hư dối] như thế, nên Như Lai thật không có chuyển bánh xe Pháp.
“Thiện nam tử! Nếu nói [Như Lai] là thường trụ, không hề biến đổi, sao lại nói
rằng Phật chuyển bánh xe Pháp? Cho nên hôm nay ông không nên nói rằng ‘Như Lai
phương tiện chuyển bánh xe Pháp’.
“Thiện nam tử! Ví như có nhân là con mắt, có các duyên là hình sắc, ánh sáng, sự
suy xét. Nhân và duyên hòa hợp mà sanh ra sự thấy biết của mắt, tức là nhãn thức.
Thiện nam tử! Con mắt không nghĩ rằng: ‘Ta có thể sanh ra nhãn thức.’ Hình sắc,
ánh sáng, sự suy xét cũng đều không nghĩ rằng: ‘Ta sanh ra nhãn thức.’ Nhãn thức
lại cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’ Thiện nam tử! Những pháp như
vậy, do nhân và duyên hòa hợp nên được gọi là sự thấy.
“Thiện nam tử! Như Lai cũng thế. Nhân có sáu pháp ba-la-mật, ba mươi bảy pháp
trợ Bồ-đề, nên rõ biết hết các pháp. Lại nhân có yết hầu, lưỡi, răng, môi, miệng,
lời lẽ, giọng nói, nên vì Kiều-trần-như mà thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là
chuyển bánh xe Pháp. Vì nghĩa ấy nên không gọi là ‘Như Lai chuyển bánh xe
pháp’.
“Thiện nam tử! Nếu như không chuyển thì gọi đó là Pháp. Pháp đó là Như Lai.
“Thiện nam tử! Ví như nhân có đồ đánh lửa, nhân sự chà xát, nhân bàn tay, nhân
phân bò khô mà sanh ra lửa. Đồ đánh lửa không nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra lửa.’
Sự chà xát, bàn tay, phân bò, mỗi thứ cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể sanh ra
lửa.’ Lửa cũng chẳng nói rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’
“Như Lai cũng vậy, nhân nơi sáu pháp ba-la-mật cho đến vì Kiều-trần-như mà thuyết
pháp, gọi là chuyển bánh xe Pháp. Như Lai không nghĩ rằng: ‘Ta chuyển bánh xe
Pháp.’
“Thiện nam tử! Nếu không sanh ra, tức gọi là chuyển bánh xe Pháp một cách chân
chánh. Chuyển bánh xe pháp như vậy, gọi là Như Lai.
“Thiện nam tử! Ví như nhân có sữa, có nước, có sự khuấy đảo, có bình chứa, có sợi
dây, có tay người vớt lấy, mà có món bơ. Sữa không nghĩ rằng: ‘Ta có thể làm ra
bơ.’ Các yếu tố khác, cho đến tay người cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể làm ra
bơ.’ Món bơ cũng không nói rằng: ‘Ta có thể tự làm ra.’ Bởi nhiều duyên hòa hợp
nên mới thành món bơ. Như Lai cũng vậy, chẳng bao giờ nghĩ rằng: ‘Ta chuyển
bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử! Nếu chẳng làm ra [như vậy], đó gọi là chuyển bánh xe Pháp một
cách chân chánh. Chuyển bánh xe pháp như vậy, tức là Như Lai.
“Thiện nam tử! Ví như nhân có hạt giống, có đất, có nước, có sự ấm áp, có gió,
có phân bón, có thời tiết, có người trồng tỉa... nên mầm cây được sanh ra. Thiện
nam tử! Hạt giống không nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra mầm cây.’ Các yếu tố khác,
cho đến người trồng tỉa cũng đều chẳng nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra mầm cây.’ Mầm
cây cũng không nói rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’ Như Lai cũng thế, không bao giờ
nghĩ rằng: ‘Ta chuyển bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử! Nếu không tạo tác, ấy gọi là chuyển bánh xe pháp một cách chân
chánh. Chuyển bánh xe pháp như vậy tức là Như Lai.
“Thiện nam tử! Ví như nhân có cái trống, có khoảng không, có da bịt trống, có
người, có dùi trống, hợp lại mà phát ra tiếng. Cái trống chẳng nghĩ rằng: ‘Ta
có thể phát ra tiếng.’ Các yếu tố khác, cho đến cái dùi trống cũng đều như vậy.
Tiếng trống cũng chẳng nói: ‘Ta có thể tự phát ra.’ Thiện nam tử! Như Lai cũng
thế, chẳng bao giờ nghĩ rằng: ‘Ta chuyển bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử! Chuyển bánh xe Pháp, đó gọi là không tạo tác; không tạo tác tức
là chuyển bánh xe Pháp. Chuyển bánh xe Pháp tức là Như Lai. Thiện nam tử! Chuyển
bánh xe Pháp [như thế] đó mới là cảnh giới của chư Phật Thế Tôn, chẳng phải chỗ
hàng Thanh văn, Duyên giác có thể rõ biết được.
“Thiện nam tử! Hư không không sanh ra, không xuất hiện, không tạo tác, không phải
pháp hữu vi. Như Lai cũng vậy, không sanh ra, không xuất hiện, không tạo tác,
không phải pháp hữu vi. Như tánh Như Lai, tánh Phật cũng vậy, không sanh ra,
không xuất hiện, không tạo tác, không phải pháp hữu vi.
“Thiện nam tử! Ngôn ngữ của chư Phật Thế Tôn có hai phần: một là ngôn ngữ thế
gian, hai là ngôn ngữ xuất thế gian. Thiện nam tử! Như Lai vì hàng Thanh văn,
Duyên giác mà giảng thuyết bằng ngôn ngữ thế gian, vì các vị Bồ Tát mà giảng
thuyết bằng ngôn ngữ xuất thế gian.
“Thiện nam tử! Trong đại chúng đây cũng có hai hạng: một là hạng cầu Tiểu thừa,
hai là hạng cầu Đại thừa. Ngày xưa, ở thành Ba-la-nại ta vì hàng Thanh văn mà
chuyển bánh xe Pháp. Hôm nay, ở tại thành Câu-thi-na này ta lần đầu tiên vì các
vị Bồ Tát mà chuyển bánh xe Đại pháp.
“Lại nữa, thiện nam tử! Có hai hạng người: hạng căn tánh trung bình và hạng căn
tánh cao tột. Trước đây ở thành Ba-la-nại ta đã chuyển bánh xe pháp cho hạng
người căn tánh trung bình. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na, ta chuyển bánh
xe đại pháp cho hạng người căn tánh cao tột, hàng voi chúa giữa loài người, là
các vị như Bồ Tát Ca-diếp đây.
“Thiện nam tử! Với hạng người căn tánh kém cỏi nhất thì Như Lai chẳng bao giờ
vì họ mà chuyển bánh xe Pháp. Hạng căn tánh kém cỏi nhất, đó là những kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Những người cầu Phật đạo cũng có hai hạng: một là hạng
tinh tấn bậc trung, hai là hạng tinh tấn bậc thượng. Trước đây, ở thành Ba-la-nại
ta đã chuyển bánh xe pháp cho hạng tinh tấn bậc trung. Nay ở nơi này, tại thành
Câu-thi-na, ta chuyển bánh xe Đại pháp cho hạng tinh tấn bậc thượng.
“Lại nữa, thiện nam tử! Trước đây khi ở thành Ba-la-nại ta chuyển bánh xe Pháp
lần đầu, có tám vạn chư thiên và người ta đắc quả Tu-đà-hoàn. Nay ở nơi này, tại
thành Câu-thi-na, có tám mươi vạn ức người được địa vị không còn thối chuyển đối
với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Khi ở thành Ba-la-nại, Đại Phạm thiên vương cúi đầu sát
đất thỉnh ta chuyển bánh xe Pháp. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na, Bồ Tát
Ca-diếp cúi đầu sát đất thỉnh ta chuyển bánh xe Pháp.
“Lại nữa, thiện nam tử! Khi xưa ta ở thành Ba-la-nại kia chuyển bánh xe Pháp,
giảng thuyết những pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Nay ở nơi này, tại thành
Câu-thi-na, chuyển bánh xe Pháp, giảng thuyết những pháp thường, lạc, ngã, tịnh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ta xưa ở thành Ba-la-nại kia chuyển bánh xe Pháp, những
lời nói ra tận cảnh trời Phạm thiên cũng nghe. Nay Như Lai ở thành Câu-thi-na
chuyển bánh xe Pháp, những lời nói ra thấu suốt các thế giới của chư Phật ở
phương đông nhiều như số cát hai mươi sông Hằng. Về các phương nam, phương tây,
phương bắc, bốn phương phụ, phương trên và phương dưới cũng đều vang xa như vậy.
“Lại nữa, thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn giảng thuyết bất cứ điều gì cũng đều gọi
là chuyển bánh xe Pháp. Thiện nam tử! Ví như vị Thánh vương có bánh xe quý, với
những kẻ chưa hàng phục có thể khiến cho hàng phục; những kẻ đã hàng phục rồi lại
có thể khiến cho được an ổn. Thiện nam tử! Những sự giảng thuyết của chư Phật
Thế Tôn cũng vậy, những ai chưa điều phục vô lượng phiền não có thể khiến cho
điều phục; những ai đã điều phục rồi, lại khiến cho sanh khởi các căn lành.
“Thiện nam tử! Ví như vị Thánh vương có bánh xe quý, ắt có thể tiêu diệt hết thảy
giặc thù. Như Lai thuyết pháp cũng vậy, có thể khiến cho hết thảy giặc phiền
não đều trở nên tĩnh lặng.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như vị Thánh vương có bánh xe quý, trên dưới đều
xoay chuyển. Như Lai thuyết pháp cũng vậy, có thể khiến cho những chúng sanh tệ
ác ở những cảnh giới thấp được sanh lên cõi người, cõi trời, cho đến vào trong
Phật đạo.
“Thiện nam tử! Vì thế nên hôm nay ông không nên xưng tán rằng: ‘Như Lai lại
chuyển bánh xe Pháp ở đây.’”
Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng phải là không biết nghĩa ấy.
Sở dĩ thưa hỏi là vì muốn được lợi ích cho chúng sanh.
“Bạch Thế Tôn! Từ lâu con đã biết rằng chuyển bánh xe Pháp thật là cảnh giới của
chư Phật Như Lai, chẳng phải chỗ hàng Thanh văn, Duyên giác có thể biết được.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Đó gọi là chỗ thực hành
Thánh hạnh của vị Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Do ý nghĩa gì mà gọi là Thánh hạnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Thánh là danh xưng của chư Phật Thế Tôn. Vì nghĩa ấy
nên gọi là Thánh hạnh.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Thế Tôn! Nếu là hạnh của chư Phật, ắt không phải hàng
Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát có thể tu hành.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn trụ yên ở kinh Đại Bát Niết-bàn này
mà đưa ra những lời chỉ bày phân biệt như vậy, diễn thuyết ý nghĩa. Vì nghĩa ấy
nên gọi là Thánh hạnh. Hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát được nghe như vậy rồi
liền có thể kính cẩn làm theo, nên gọi là Thánh hạnh.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát khi được Thánh hạnh này rồi, ắt được trụ nơi địa
vị Vô sở úy. Thiện nam tử! Như có Bồ Tát nào trụ nơi địa vị Vô sở úy, ắt không
còn trở lại sợ sệt tham dục, sân khuể, ngu si, sanh, già, bệnh, chết. Cũng
không còn sợ sệt những đường ác như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
“Thiện nam tử! Sự ác có hai loại: một là a-tu-la, hai là trong cõi người. Trong
cõi người có ba hạng ác: một là những kẻ nhất-xiển-đề, hai là những kẻ phỉ báng
kinh điển Phương đẳng, ba là những kẻ phạm Bốn tội nghiêm trọng. Thiện nam tử!
Trụ ở địa vị Vô sở úy rồi, các vị Bồ Tát không bao giờ sợ rơi vào những điều ác
như vậy, cũng không sợ sệt hàng sa-môn, bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến, Thiên ma
Ba-tuần, cũng không còn sợ thọ sanh vào hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Vì vậy
nên địa vị ấy gọi là Vô sở úy.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở địa vị Vô sở úy có hai mươi lăm phép
Tam-muội vượt qua được hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
Thiện nam tử! Bồ Tát chứng được Vô cấu Tam-muội có thể vượt qua cõi địa ngục.
Chứng được Vô thối Tam-muội có thể vượt qua cõi súc sanh.
Chứng được Tâm lạc Tam-muội có thể vượt qua cõi ngạ quỷ.
Chứng được Hoan hỷ Tam-muội có thể vượt qua cõi a-tu-la.
Chứng được Nhật quang Tam-muội có thể vượt qua cõi Phất-bà-đề.
Chứng được Nguyệt quang Tam-muội có thể vượt qua cõi Cồ-da-ni.
Chứng được Nhiệt diệm Tam-muội có thể vượt qua cõi Uất-đan-việt.
Chứng được Như huyễn Tam-muội có thể vượt qua cõi Diêm-phù-đề.
Chứng được Nhất thiết pháp bất động Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Tứ Thiên
Vương.
Chứng được Tồi phục Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Ba mươi ba.
Chứng được Duyệt ý Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Diệm-ma.
Chứng được Thanh sắc Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Đâu-suất.
Chứng được Hoàng sắc Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Hóa lạc.
Chứng được Xích sắc Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Tha hóa tự tại.
Chứng được Bạch sắc Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Sơ thiền.
Chứng được Chủng chủng Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Đại phạm.
Chứng được Song Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Nhị thiền.
Chứng được Lôi âm Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Tam thiền.
Chứng được Chú vũ Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Tứ thiền.
Chứng được Như hư không Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Vô tưởng.
Chứng được Chiếu kính Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Tịnh cư A-na-hàm.
Chứng được Vô ngại Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Không xứ.
Chứng được Thường Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Thức xứ.
Chứng được Lạc Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Bất dụng xứ hữu.
Chứng được Ngã Tam-muội có thể vượt qua cõi trời Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.
“Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát chứng được hai mươi lăm phép Tam-muội dứt trừ
được hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Thiện nam tử! Hai mươi lăm phép Tam-muội ấy
gọi là Tam-muội vương, là vua của các phép Tam-muội.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát khi nhập vào các phép Tam-muội vương này, nếu
muốn thổi nát núi chúa Tu-di thì có thể tùy ý làm được ngay. Nếu muốn biết hết
ý nghĩ trong tâm của chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới, liền có thể
biết được ngay. Nếu muốn đem chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới đặt
vào một lỗ chân lông trên thân mình, thì tùy ý làm được ngay, lại cũng có thể
làm cho các chúng sanh ấy không cảm thấy bị dồn ép. Nếu muốn hóa ra vô lượng
chúng sanh đầy khắp cả Tam thiên Đại thiên thế giới, cũng có thể tùy ý làm được.
Muốn phân một thân ra thành nhiều thân, rồi khiến nhiều thân ấy hợp lại thành một
thân. Tuy làm những việc như thế, nhưng trong tâm không có chỗ vướng mắc, luôn
tinh khiết như hoa sen.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát khi nhập vào các phép Tam-muội vương này, liền
được trụ nơi địa vị tự tại. Bồ Tát trụ ở địa vị tự tại ấy thì có sức tự tại, muốn
sanh ra ở xứ nào liền được sanh đến đó.
“Thiện nam tử! Ví như vị Thánh vương thống lãnh bốn cõi thiên hạ tùy ý đi lại,
không gì có thể chướng ngại. Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, trong hết thảy mọi nơi,
muốn sanh nơi nào thì tùy ý sanh đến đó.
“Thiện nam tử! Khi Bồ Tát ma-ha-tát thấy trong tất cả chúng sanh ở địa ngục có
kẻ có thể giáo hóa, khiến cho trụ nơi căn lành được, liền tức thời sanh vào
trong địa ngục. Bồ Tát tuy sanh ra [trong địa ngục] nhưng chẳng phải do nghiệp
quả. Bồ Tát ma-ha-tát trụ nơi địa vị tự tại, do sức nhân duyên mà sanh vào
trong đó. Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát tuy ở địa ngục nhưng không chịu những
nỗi khổ như đốt cháy, cưa xẻ nát thân.
“Thiện nam tử! Chỗ thành tựu công đức như vậy của Bồ Tát ma-ha-tát đã là vô lượng
vô biên, trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết, huống chi công đức của chư Phật lại
có thể nói hết được sao?”
Lúc ấy, trong chúng có một vị Bồ Tát tên là Trụ Vô Cấu Tạng Vương, có oai đức lớn,
thành tựu thần thông, được phép đại tổng trì, đầy đủ các phép Tam-muội, được đức
không sợ sệt, từ chỗ ngồi đứng dậy vén y bày bên vai phải, quỳ gối phải sát đất,
chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa dạy, chỗ thành tựu công đức và trí
tuệ của chư Phật, Bồ Tát là vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức, thật không thể
nói hết. Nhưng ý con cho là cũng không bằng kinh điển Đại thừa này. Vì sao vậy?
Vì nhờ sức của kinh Phương đẳng Đại thừa này mà có thể sanh ra A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề của chư Phật Thế Tôn.”
Bấy giờ, Phật liền khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Đúng như vậy,
đúng như lời ông vừa nói đó, các kinh điển Phương đẳng Đại thừa khác tuy có vô
lượng công đức, nhưng nếu muốn so với kinh này thì không thể được. Công đức của
kinh này vượt hơn gấp trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn ức lần, cho đến so sánh
tính toán cũng không thể nói hết!
“Thiện nam tử! Ví như từ bò sữa sanh ra sữa, từ sữa sanh ra kem sữa, từ kem sữa
sanh ra bơ sống, từ bơ sống sanh ra bơ chín, từ bơ chín sanh ra đề-hồ. Đề-hồ là
món tốt nhất, người nào ăn vào thì các bệnh đều dứt, vì các loại thuốc đều có
trong đó.
“Thiện nam tử! Đức Phật cũng như thế. Từ Phật nói ra Mười hai bộ kinh, từ Mười
hai bộ kinh mà có Tu-đa-la, từ Tu-đa-la mà có kinh Phương đẳng, do kinh Phương
đẳng mà có kinh Bát-nhã Ba-la-mật, từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật mà có kinh Đại Niết-bàn
này, cũng như chất đề-hồ. Nói đề-hồ là ví như tánh Phật. Tánh Phật tức là Như
Lai.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên nói rằng công đức của Như Lai là vô lượng vô
biên, không thể nói hết.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Như lời Phật ngợi khen thì kinh Đại Niết-bàn
cũng như đề-hồ là món ăn tốt nhất, ngon quý nhất. Nếu người nào được ăn thì các
bệnh đều dứt, vì các loại thuốc đều có trong đó. Con được nghe lời này rồi, lại
có ý riêng rằng: ‘Nếu người nào không thể nghe và tin nhận kinh này, nên biết rằng
người ấy thật quá ngu si, không có tâm lành.’
“Bạch Thế Tôn! Con nay thật sự có thể nhẫn chịu sự lột da mình làm giấy, chích
máu tự thân làm mực, lấy tủy trong xương mình làm nước, chẻ xương mình làm bút
để sao chép kinh Đại Niết-bàn này. Khi sao chép ra rồi, con sẽ đọc tụng cho được
thông suốt, sau đó sẽ vì người khác mà giảng rộng nghĩa kinh này.
“Bạch Thế Tôn! Nếu có những chúng sanh tham đắm tiền bạc, của cải, con sẽ bố
thí cho họ tiền bạc, sau đó lấy kinh Đại Niết-bàn này mà khuyên họ đọc. Nếu là
người tôn quí, trước hết con sẽ dùng lời êm ái tùy thuận ý họ, sau đó dần dần sẽ
đem kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này mà khuyên họ đọc. Nếu là kẻ tầm thường dân
dã, con sẽ dùng oai thế ép buộc họ phải đọc kinh này. Nếu là những kẻ kiêu căng
khinh mạn, con sẽ theo hầu hạ, tùy thuận ý họ để khiến họ vui vẻ, sau đó mới
dùng kinh Đại Niết-bàn này để dạy bảo, chỉ dẫn họ. Nếu có những kẻ phỉ báng
kinh Đại thừa, con sẽ dùng thế lực mà khuất phục họ, sau đó mới khuyên họ đọc
kinh Đại Niết-bàn này. Nếu có những ai ưa thích kinh Đại thừa, con sẽ đích thân
đến chỗ những vị ấy cung kính cúng dường, ngợi khen tôn trọng.”
Lúc ấy, đức Phật khen ngợi Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Ông nay rất
ưa thích kinh điển Đại thừa, ham muốn kinh Đại thừa, tin nhận kinh Đại thừa, hiểu
thấu kinh Đại thừa, kính tin và tôn trọng, cúng dường Đại thừa.
“Thiện nam tử! Ông nay nhờ nhân duyên có tâm lành đó sẽ vượt hơn cả vô lượng vô
biên, các vị Đại Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, ở ngay trước các vị ấy mà
thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chẳng bao lâu nữa, ông cũng sẽ
rộng vì đại chúng mà diễn thuyết kinh Đại Bát Niết-bàn này, cùng những ý nghĩa
của Như Lai, tánh Phật, kho tàng sâu kín của chư Phật.
“Thiện nam tử! Vào đời quá khứ, khi mặt trời Phật đạo chưa mọc lên, ta làm một
thầy bà-la-môn, tu theo hạnh Bồ Tát, có thể thông đạt tất cả kinh luận của ngoại
đạo. Ta tu hạnh tịch diệt, đầy đủ oai nghi, trong tâm thanh tịnh, chẳng bị phá
hoại bởi những ngoại cảnh làm nảy sanh ý tưởng tham dục, dập tắt lửa sân hận,
thọ trì các pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Ta đi khắp nơi tìm cầu kinh điển Đại
thừa, nhưng thậm chí chưa từng được nghe đến tên gọi Phương đẳng.
“Thuở ấy ta ở tại Tuyết sơn. Núi ấy thanh tịnh, có suối chảy, ao tắm, cây gỗ, cây
thuốc mọc đầy mặt đất. Khắp nơi đều có suối chảy trong veo giữa các khe đá, có
nhiều thứ hoa thơm tô điểm, chim chóc, muông thú nhiều không kể xiết, trái cây
ngon ngọt sai oằn đủ loại, khó nói hết được... Lại có vô số những củ sen, rễ ngọt,
rễ thơm của cây xanh.
“Thuở ấy, một mình ta ở trong núi, chỉ ăn các loại trái cây. Ăn rồi ngồi thiền,
chú tâm suy xét. Trải qua vô số năm cũng chẳng nghe có Như Lai ra đời, [chẳng
nghe] có tên kinh điển Đại thừa.
“Thiện nam tử! Trong khi ta tu khổ hạnh khó khăn như vậy, Thích-đề-hoàn-nhân và
chư thiên [nhìn thấy] thảy đều hết sức kinh ngạc, lấy làm kỳ lạ, liền cùng nhau
hội họp. Ai nấy bảo nhau cùng nói ra bài kệ rằng:
Người người đều chỉ cho nhau,
Tuyết sơn thanh tịnh có người ngồi yên,
Lìa xa tham dục não phiền,
Là vua công đức trang nghiêm muôn phần!
Đã lìa xa tham, mạn, sân,
Mãi mãi dứt trừ siểm nịnh, ngu si.
Miệng người chẳng nói điều chi,
Xấu xa, thô ác, hoặc lời khó nghe.
“Bấy giờ, trong chúng hội có một vị thiên tử tên là Hoan Hỷ lại đọc kệ rằng:
Người lìa tham dục thế kia,
Chuyên cần, thanh tịnh, siêng tu sửa lòng,
Lẽ nào lại chẳng cầu mong,
Ngôi cao Đế-thích, chư thiên cõi trời?
Nếu là ngoại đạo chuyên tu,
Bao năm khổ hạnh rừng sâu nhọc nhằn,
Hẳn là tham muốn được làm,
Vua trời Đế-thích đứng đầu chư thiên!
“Lúc ấy lại có một vị Tiên thiên tử vì Đế-thích mà đọc kệ rằng:
Hỡi Đế-thích Kiều-thi-ca!
Chớ nên lo lắng sinh ra buồn phiền.
Người tu khổ hạnh triền miên,
Cũng chưa hẳn đã cầu Thiên đế tòa.
“Vị ấy đọc kệ xong lại nói rằng: ‘Này Kiều-thi-ca! Trong đời vẫn có bậc đại sĩ
vì chúng sanh nên chẳng tham tiếc thân mình, vì muốn lợi ích chúng sanh nên tu
vô lượng khổ hạnh đủ cách. Người như vậy biết rõ mọi tội lỗi sai lầm trong chốn
sanh tử nên dù có nhìn thấy trân bảo đầy khắp mặt đất, trên núi cao, trong biển
lớn, cũng chẳng sanh lòng tham đắm, chỉ xem như bãi nước bọt nhơ nhớp.
“Bậc đại sĩ như vậy đã buông xả hết tiền bạc, châu báu, vợ con luyến ái, đầu, mắt,
tủy, não, tay, chân các thứ, nhà cửa phòng ốc, voi ngựa xe cộ, tôi trai tớ
gái... Cũng chẳng cầu sanh lên cõi trời, chỉ mong cho hết thảy chúng sanh đều
được an vui, sung sướng. Theo như chỗ tôi hiểu thì bậc đại sĩ như vậy luôn
thanh tịnh không nhiễm ô, đã mãi mãi dứt sạch mọi phiền não trói buộc, chỉ duy
nhất mong cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà thôi.’
“Thích-đề-hoàn-nhân lại hỏi: ‘Như ông nói đó, người này ắt là thâu nhiếp được hết
thảy chúng sanh ở thế gian!
“‘Này Đại tiên! Nếu như thế gian này có Phật ra đời như cây to bóng mát, sẽ dứt
trừ được con rắn độc phiền não của hết thảy chư thiên, người đời và a-tu-la. Nếu
chúng sanh được ở dưới bóng mát của đức Phật thì các độc phiền não ắt sẽ dứt sạch.
“Này Đại tiên! Người này nếu như trong đời tương lai thành bậc Thiện thệ, ắt sẽ
giúp chúng ta có thể tiêu diệt được vô lượng phiền não như lửa dữ. Việc như vậy
thật khó tin. Vì sao vậy? Có vô lượng trăm ngàn chúng sanh phát tâm cầu quả Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng khi gặp đôi chút nghịch duyên liền bị lay động,
thối chuyển đối với quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cũng như hình mặt
trăng dưới nước, khi nước xao động thì mặt trăng ấy liền xao động; lại như bức
tranh vẽ, làm thành thì khó nhưng phá hỏng rất dễ. Tâm Bồ-đề cũng vậy, phát tâm
thật khó nhưng hoại mất rất dễ.
“Đại tiên! Ví như có nhiều người tự trang bị những áo giáp, binh khí kiên cố,
muốn xông lên phía trước dẹp giặc, nhưng khi lâm trận khiếp sợ liền thối lui,
tan rã. Vô lượng chúng sanh cũng vậy, phát khởi tâm Bồ-đề, tự trang bị cho mình
rất kiên cố, nhưng khi thấy những lỗi lầm tai họa chốn sanh tử thì trong lòng
sanh ra khiếp sợ liền thối lui, tan rã.
“Đại tiên! Tôi đã nhìn thấy vô lượng chúng sanh như vậy, sau khi phát tâm rồi đều
bị lay động, thối chuyển. Cho nên hôm nay tuy thấy người này tu khổ hạnh, không
phiền não nóng nảy, luôn sống trong sự kiểm thúc theo đạo pháp, có hạnh thanh tịnh,
nhưng vẫn chưa thể tin được. Nay tôi cần phải tự mình đến đó thử thách, để xem
người ấy quả thật có thể nhận lãnh gánh vác được trách nhiệm lớn lao là thành tựu
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề hay chăng.
“Đại tiên! Như xe có hai bánh thì mới dùng chuyên chở được, chim có hai cánh mới
đủ sức bay đi. Người tu khổ hạnh ấy cũng vậy. Tuy tôi thấy người ấy giữ bền cấm
giới, nhưng chưa biết là có trí tuệ sâu xa hay chăng. Nếu có trí tuệ sâu xa thì
biết rằng có thể nhận lãnh gánh vác được trách nhiệm lớn lao là thành tựu quả vị
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Đại tiên! Ví như con cá có nhiều trứng nhưng số trứng được nở thành cá con rất
ít. Như cây am-la có nhiều hoa nhưng kết thành quả rất ít. Vô lượng chúng sanh
phát tâm Bồ-đề, nhưng đến khi thành tựu thì rất ít, không đáng kể.
“Đại tiên! Nay tôi và ông hãy cùng đến đó thử thách người ấy. Đại tiên! Ví như
vàng thật, phải thử qua ba cách mới biết được là thật. Ba cách ấy là: nung, đập
và mài. Muốn thử thách vị khổ hạnh kia, cũng nên như vậy.’
“Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân tự biến thân mình thành hình tướng la-sát rất đáng
sợ, giáng hạ nơi Tuyết sơn, cách chỗ ta không xa rồi đứng đó. Lúc ấy la-sát
trong lòng không sợ sệt, sức mạnh khó đương, lại có tài biện thuyết mạch lạc. Với
giọng thanh tao nhã nhặn, la-sát ấy đọc lên nửa bài kệ mà đức Phật quá khứ đã từng
thuyết:
Các hành vô thường,
Là pháp sanh diệt.
“Đọc nửa bài kệ ấy rồi, la-sát liền đến đứng ngay phía trước ta, hiện ra tướng
mạo hình dạng hết sức đáng sợ, quay nhìn khắp nơi, quan sát cả bốn hướng.
“Ta vừa nghe được nửa bài kệ này, trong lòng sanh ra vui mừng. Cũng ví như có
người khách buôn đi qua vùng nguy hiểm, đang đêm lạc mất bạn đồng hành, lo lắng
tìm kiếm, hỏi han khắp nơi, bỗng nhiên gặp lại bạn, lòng sanh ra vui mừng, hết
sức phấn khích. Lại ví như người mang bệnh đã lâu, chưa gặp được lương y chẩn bệnh,
cho thuốc hay, rồi sau bỗng nhiên lại gặp được thầy, được thuốc. Như người chìm
đắm nơi biển cả bỗng nhiên gặp được tàu thuyền. Như người đang khát gặp được ly
nước trong mát. Như người bị kẻ oán thù rượt đuổi bỗng nhiên được cứu thoát.
Như người bị trói đã lâu bỗng nghe tin được thả ra. Lại như người làm ruộng
đang khi nắng hạn mà gặp cơn mưa. Lại như người đi xa trở về, người nhà gặp được
hết sức vui mừng.
“Thiện nam tử! Ta lúc ấy nghe được nửa bài kệ kia rồi, trong lòng hết sức vui mừng
như vậy. Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lấy tay vén tóc, nhìn quanh bốn hướng mà
hỏi rằng: ‘Vừa nghe nói kệ đó, là ai nói ra vậy?’ Bấy giờ nhìn mãi cũng chẳng
thấy người nào khác, chỉ thấy có một quỷ la-sát, ta liền hỏi rằng: ‘Ai mở cửa
giải thoát như vậy? Ai có thể phát ra tiếng nói của chư Phật như sấm rền? Trong
chốn sanh tử như giấc ngủ mê, ai là người riêng mình thức tỉnh, nói lên những lời
như vậy? Ở chốn này ai là người có thể chỉ bày đường đi, đạo vị cao quý nhất
cho chúng sanh đói khó? Vô lượng chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử, ai
có thể ở trong ấy làm vị đại thuyền sư? Chúng sanh thường bị cơn bệnh nặng phiền
não trói buộc, ai có thể vì họ mà làm vị lương y? Ai nói ra nửa bài kệ ấy làm
khai mở, bừng tỉnh tâm tôi, như một nửa vầng trăng, như hoa sen đang dần nở
ra?’
“Thiện nam tử! Bấy giờ ta nhìn mãi không thấy ai khác, chỉ thấy quỷ la-sát. Ta
lại nghĩ rằng: ‘Phải chăng la-sát đây vừa đọc bài kệ ấy?’ Nhưng rồi lại sanh
nghi, cho rằng không phải vậy. Vì sao? Vì thấy hình thù rất đáng sợ. Nếu như
người được nghe những câu kệ ấy thì tất cả những hình tướng xấu xa ghê sợ ắt phải
được dứt sạch. Tại sao người có hình dung tướng mạo như vậy lại có thể đọc bài kệ
ấy? Trong lửa đỏ không lẽ sanh ra hoa sen! Không thể trong ánh sáng mặt trời lại
sanh ra nước lạnh!
“Thiện nam tử! Lúc ấy ta lại nghĩ rằng: ‘Nay ta không có trí tuệ, biết đâu
la-sát ấy lại chẳng được gặp chư Phật quá khứ, nương theo nơi chư Phật mà nghe
được nửa bài kệ ấy? Nay ta nên hỏi nghĩa nửa bài kệ ấy.’ Ta liền đến trước mặt
la-sát, nói rằng: ‘Lành thay, Đại sĩ! Ngài ở nơi đâu mà nghe được nửa bài kệ ấy
của bậc Ly bố úy trong quá khứ đã nói ra? Đại sĩ ở nơi đâu mà được nửa hạt châu
như ý này? Đại sĩ! Ý nghĩa của nửa bài kệ này mới là Chánh đạo của chư Phật Thế
Tôn đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Hết thảy vô lượng chúng sanh ở thế gian
thường bị mạng lưới dày đặc của các tà kiến vây phủ, che lấp, trọn đời ở trong
pháp ngoại đạo mà chẳng hề nghe được chỗ thuyết giảng nghĩa Không của bậc xuất
thế Thập lực thế hùng.’
“Thiện nam tử! Khi nghe ta hỏi như vậy rồi, la-sát liền đáp rằng: ‘Đại
bà-la-môn! Nay ông chẳng nên hỏi tôi nghĩa ấy. Vì sao vậy? Đã nhiều ngày rồi
tôi không được ăn gì cả. Tôi đi khắp nơi tìm kiếm mà chẳng được món gì. Tôi đói
khát khổ não, trong lòng rối loạn nên nói mê sảng, đó chẳng phải là chỗ hiểu biết
thật trong lòng tôi. Giả sử nay tôi có thế lực mà bay đi, dạo nơi hư không, tới
châu Uất-đan-việt, cho đến miền thiên thượng, đi mọi nơi để tìm món ăn, cũng
không tìm được. Vì nhân duyên ấy tôi mới nói ra lời đó.’
“Thiện nam tử! Khi ấy ta lại nói với la-sát rằng: ‘Đại sĩ! Nếu ông đọc cho tôi
nghe trọn bài kệ, tôi sẽ làm đệ tử của ông suốt đời.
“Đại sĩ! Chỗ ông nói ra lúc nãy thật chưa trọn lời, cũng chưa trọn nghĩa. Vì
duyên cớ gì mà ông không muốn nói hết?
“Nói chung thì việc bố thí tiền của ắt phải có lúc cạn kiệt, còn nhân duyên thí
pháp không thể hết được. Tuy không thể hết được nhưng lại được nhiều lợi ích.
Nay tôi đã nghe nửa bài kệ nói pháp ấy rồi, lòng sanh ra hoài nghi, kinh ngạc.
Mong ông có thể vì tôi trừ dứt lòng nghi ấy, nói ra trọn bài kệ ấy rồi, tôi sẽ
suốt đời làm đệ tử ông.’
“La-sát đáp rằng: ‘Ông thật khôn ngoan thái quá, chỉ biết lo cho bản thân mà
không xét nghĩ cho tôi. Nay tôi khổ bức vì đói, thật không thể nói ra.’
“Ta liền hỏi: ‘Vậy thức ăn của ông là món gì?’
“La-sát đáp: ‘Ông chẳng cần phải hỏi, nếu tôi nói ra sẽ khiến cho nhiều người sợ
sệt.’
“Ta lại hỏi: ‘Tôi ở nơi đây một mình, không còn người nào khác cả. Tôi đã không
sợ, sao ông lại chẳng nói ra?’
“La-sát đáp: ‘Món ăn của tôi chỉ duy nhất là thịt tươi còn ấm của con người. Thức
uống của tôi chỉ duy nhất là máu nóng của người. Vì tôi bạc phước nên chỉ dùng
được các món đó thôi. Tôi đã đi khắp nơi tìm kiếm, mỏi mệt rã rời mà không thể
tìm được. Tuy trong đời có rất nhiều người, nhưng họ đều có phước đức, lại thêm
được chư thiên bảo vệ, tôi không có sức mạnh nên không thể giết họ.’
“Thiện nam tử! Ta lại nói rằng: ‘Ông chỉ cần nói ra cho trọn bài kệ ấy. Tôi
nghe kệ rồi sẽ dùng thân này mà phụng thí cúng dường ông.
“Đại sĩ! Giá như tôi chết rồi thì thân này không có chỗ dùng, sẽ làm món ăn cho
cọp, sói và các loài chim dữ. Sau đó tôi cũng không được mảy may phước báo. Nay
tôi vì cầu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề sẽ lìa bỏ thân không bền chắc
này để được thân kiên cố.’
“La-sát đáp: ‘Có ai tin được những lời như vậy của ông, chỉ vì [nửa bài kệ] tám
chữ mà có thể lìa bỏ thân thể mình yêu mến hay sao?’
“Thiện nam tử! Ta liền đáp rằng: ‘Ông thật không có trí tuệ. Ví như có người
kia thí cho kẻ khác món đồ bằng sành để được món đồ bằng bảy báu. Tôi cũng như
vậy, xả bỏ thân không bền chắc này để được thân kim cang. Ông nói rằng: Có ai
tin được? Nay tôi có người làm chứng: Đại Phạm thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân
và bốn vị Thiên vương đều có thể làm chứng việc ấy. Lại có chư Bồ Tát thiên
nhãn, vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sanh nên tu hành Đại thừa, có đủ sáu
pháp ba-la-mật, các vị ấy cũng có thể chứng biết. Lại có chư Phật Thế Tôn mười
phương, vì lợi ích cho chúng sanh cũng có thể chứng minh cho việc tôi vì [nửa
bài kệ] tám chữ mà xả bỏ thân mạng này.’
“La-sát lại nói: ‘Nếu ông có thể xả thân như vậy, hãy lắng nghe đây! Tôi sẽ vì
ông nói ra nửa bài kệ còn lại.’
“Thiện nam tử! Lúc ấy, ta nghe như vậy trong lòng lấy làm vui vẻ, liền cởi tấm
áo da hươu đang mặc trải ra làm pháp tòa cho la-sát ấy, bạch rằng: ‘Hòa thượng!
Xin thỉnh ngài ngồi lên tòa này.’ Rồi ta ở trước mặt la-sát, chắp tay quỳ mọp,
thưa rằng: ‘Thỉnh hòa thượng vì con nói ra nửa bài kệ còn lại, khiến cho được đầy
đủ, trọn vẹn.’
“La-sát liền nói:
Sanh diệt dứt rồi,
Tịch diệt là vui.
“Bấy giờ, la-sát nói kệ rồi liền bảo ta rằng: ‘Bồ Tát ma-ha-tát, nay ông đã
nghe trọn nghĩa bài kệ. Sở nguyện của ông đã được trọn đủ. Nếu muốn lợi ích cho
các chúng sanh, bây giờ xin hãy thí thân cho tôi.’
“Thiện nam tử! Thuở ấy ta suy xét sâu xa ý nghĩa bài kệ ấy. Về sau ở khắp nơi,
hoặc trên đá, hoặc trên vách tường, cây cối, nơi đường sá, ta đều viết lên bài
kệ ấy.
“Khi đó ta liền mặc đủ y phục vì e rằng sau khi chết thân thể phải lõa lồ, rồi
trèo lên một cây cao.
“Vị thần cây hỏi ta rằng: ‘Lành thay! Nhân giả, ngài muốn làm gì vậy?’
“Thiện nam tử! Lúc ấy ta đáp rằng: ‘Tôi muốn xả thân để trả giá một bài kệ [đã
được nghe].’
“Vị thần cây hỏi: ‘Bài kệ ấy có ích lợi gì?’
“Ta đáp: ‘Những câu kệ ấy là của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai thuyết dạy,
khai mở pháp Không của Chánh đạo. Tôi vì pháp này xả bỏ thân mạng, chẳng vì lợi
dưỡng, danh vọng, của cải, trân bảo, chẳng vì các ngôi vị Chuyển luân Thánh
vương, Bốn Đại thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Đại Phạm Thiên vương cùng mọi sự
vui sướng trong cõi người, cõi trời. Chỉ vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng
sanh nên xả bỏ thân này.’
“Thiện nam tử! Khi ta xả bỏ thân mạng lại nói ra lời này: ‘Nguyện cho tất cả những
kẻ keo lận thảy đều nhìn thấy tôi lìa bỏ thân này! Như có người ít làm việc bố
thí, khởi tâm cao ngạo cũng khiến cho được nhìn thấy tôi vì một bài kệ mà xả bỏ
thân mạng này như vất bỏ cỏ cây.’
“Nói xong lời ấy, ta liền buông mình từ trên cây cao rơi xuống. Khi ta rơi chưa
đến mặt đất thì giữa hư không bỗng phát ra rất nhiều âm thanh. Âm thanh ấy vang
lên đến tận cảnh trời Sắc cứu cánh. Bấy giờ, la-sát hiện nguyên hình Đế-thích,
giữa không trung đón lấy thân ta và đặt yên trên mặt đất.
“Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân cùng chư thiên, Đại Phạm Thiên vương, thảy đều cúi
đầu làm lễ dưới chân ta, ngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Ngài quả thật
là Bồ Tát, có thể làm lợi ích lớn lao cho vô lượng chúng sanh, muốn thắp lên
cây đuốc pháp lớn giữa chốn vô minh tăm tối. Vì chúng tôi mến tiếc Chánh pháp lớn
lao của Như Lai nên mới cùng nhau đến quấy rối ngài. Xin ngài nhận cho sự sám hối
tội lỗi của chúng tôi. Về sau ngài nhất định sẽ thành Phật đạo, nguyện xin cứu
độ chúng tôi.’
“Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân và chư thiên cùng lễ bái dưới chân ta, từ biệt mà
đi, bỗng nhiên mất dạng.
“Thiện nam tử! Như ta thuở ấy vì nửa bài kệ mà xả bỏ thân này. Do nhân duyên ấy
liền vượt qua được đủ mười hai kiếp, thành Phật trước Bồ Tát Di-lặc.
“Thiện nam tử! Ta được vô lượng công đức như vậy đều do nơi sự cúng dường Chánh
pháp của Như Lai. Thiện nam tử! Các ông nay cũng thế, phát tâm A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, ắt là đã vượt lên hơn cả các vị Bồ Tát nhiều vô lượng vô
biên như số cát sông Hằng.
“Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, tu tập
Thánh hạnh.”
QUYỂN 15 - Phẩm HẠNH THANH TỊNH - Phẩm thứ tám - Phần một
Thiện nam tử! Thế nào là hạnh thanh tịnh của Bồ Tát
ma-ha-tát? Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn,
trụ nơi Bảy pháp lành, được đủ hạnh thanh tịnh.
“Những gì là bảy? Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba là biết lúc thích hợp,
bốn là biết đủ, năm là tự biết mình, sáu là biết rõ người quanh mình, bảy là biết
phân biệt kẻ trên người dưới.
“Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát biết pháp? Thiện nam tử! Bồ Tát
ma-ha-tát rõ biết Mười hai bộ kinh: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Thọ ký, Già-đa, Ưu-đà-na,
Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-mục-đa-già, Xà-đà-già, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma
và Ưu-ba-đề-xá.
“Thiện nam tử! Những gì gọi là kinh Tu-đa-la? Từ đoạn khởi đầu ‘Tôi được nghe
đúng như thế này’ cho đến phần kết thúc nói rằng ‘vui mừng kính cẩn vâng làm
theo’. Hết thảy như vậy đều gọi là kinh Tu-đa-la.
“Những gì gọi là kinh Kỳ-dạ? Phật có dạy chư tỳ-kheo rằng: ‘Thuở xưa, ta và các
ông đều ngu si không trí tuệ, không nhìn thấy đúng thật Bốn chân đế, vì vậy mà
lưu chuyển dài lâu trong sanh tử, chìm đắm trong biển lớn khổ não.
“Những gì là Bốn chân đế? Đó là Khổ, Tập, Diệt và Đạo.’ Khi Phật đã thuyết giảng
xong Khế kinh như vậy với các vị tỳ-kheo, lại có những chúng sanh căn trí nhanh
nhạy, vì muốn nghe pháp nên tìm đến chỗ Phật, liền hỏi mọi người rằng: ‘Như Lai
mới vừa thuyết giảng điều chi?’ Lúc ấy, Phật biết như vậy liền theo nội dung
kinh đã thuyết giảng mà đọc kệ tụng rằng:
Xưa, ta cùng các ông,
Chẳng thấy Bốn chân đế,
Nên lưu chuyển dài lâu,
Trong biển khổ sanh tử.
Nếu thấy được Bốn đế,
Ắt dứt được sanh tử.
Sanh tử đã dứt rồi,
Không thọ sanh các cảnh.
“Như vậy gọi là kinh Kỳ-dạ.
“Những gì gọi là kinh Thọ ký? Như có những kinh luật mà trong khi Như Lai thuyết
giảng có thọ ký quả Phật cho chư thiên hoặc loài người, [chẳng hạn như:] ‘Này
A-dật-đa! Về đời vị lai sẽ có vị vua tên là Hướng-khư, vào khi ấy ông sẽ thành
Phật hiệu là Di-lặc.’ Như vậy gọi là kinh Thọ ký.
“Những gì gọi là kinh Già-đà? Trừ kinh Tu-đa-la và các phần giới luật, ngoài ra
như có thuyết những bài kệ bốn câu, chẳng hạn như:
Không làm các việc ác,
Thành tựu mọi điều lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
“Như vậy đều gọi là kinh Già-đà.
“Những gì gọi là kinh Ưu-đà-na? Như đức Phật vào giờ bô nhập thiền định, vì
hàng chư thiên mà [hóa hiện lên cõi trời] giảng rộng nghĩa cốt yếu của pháp.
Lúc ấy, chư tỳ-kheo đều nghĩ rằng: ‘Hiện giờ [không biết] Như Lai đang làm việc
chi?’ Đến sáng hôm sau Phật ra khỏi thiền định, tuy không có ai thưa hỏi nhưng
dùng tha tâm trí tự nói ra rằng: ‘Các tỳ-kheo nên biết rằng đời sống của tất cả
chư thiên rất lâu dài. Tỳ kheo các ông! Lành thay cho những kẻ vì người khác,
chẳng cầu lợi cho mình! Lành thay cho những kẻ ít ham muốn! Lành thay cho những
kẻ tự biết đủ! Lành thay cho hạnh vắng lặng yên tĩnh!’ Những kinh như vậy không
có ai thưa hỏi mà Phật tự thuyết giảng. Như vậy gọi là kinh Ưu-đà-na.
“Những gì gọi là kinh Ni-đà-na? Như các kinh kệ vì người khác mà giảng thuyết
chỗ nguyên nhân, nguồn gốc của sự việc. Ví như ở thành Xá-vệ có người thanh
niên giăng lưới bắt chim. Khi bắt được rồi thì nhốt trong lồng, cho uống nước,
ăn lúa no đủ, sau mới thả cho bay đi. Đức Thế Tôn biết rõ nhân duyên từ đầu đến
cuối, nên đọc kệ dạy rằng:
Chớ khinh tội nhỏ,
Cho là không hại.
Giọt nước tuy bé,
Dần đầy bồn to.
“Đó gọi là kinh Ni-đà-na.
“Những gì gọi là kinh A-ba-đà-na? Như trong giới luật có nói ra những thí dụ,
như vậy gọi là kinh A-ba-đà-na.
“Những gì gọi là kinh Y-đế-mục-đa-già? Như Phật có dạy: ‘Chư tỳ-kheo nên biết rằng,
khi ta ra đời, những pháp ta thuyết diễn gọi là Giới kinh. Lúc Phật Cưu-lưu-tần
ra đời, những pháp mà đức Phật ấy thuyết diễn gọi là Trống cam lộ. Khi Phật
Câu-na-hàm-mâu-ni ra đời, pháp mà ngài thuyết diễn gọi là Pháp kính. Khi Phật
Ca-diếp ra đời, pháp mà đức Phật ấy thuyết diễn gọi là Phân biệt không.’ Như vậy
gọi là kinh Y-đế-mục-đa-già.
“Những gì gọi là kinh Xà-đà-già? Như Phật Thế Tôn khi còn làm Bồ Tát, tu các
pháp khổ hạnh. Chẳng hạn như dạy rằng: ‘Chư tỳ-kheo nên biết rằng thời quá khứ
ta đã từng làm hươu, làm gấu, làm mang, làm thỏ, làm vua, làm Chuyển luân Thánh
vương, làm rồng, làm chim kim sí... Khi còn tu đạo Bồ Tát ta có thọ các thân ấy.’
Như vậy gọi là kinh Xà-đà-già.
“Những gì gọi là kinh Tỳ-phật-lược? Ấy là kinh điển Phương đẳng Đại thừa, nghĩa
lý rộng lớn như hư không. Như vậy gọi là kinh Tỳ-phật-lược.
“Những gì gọi là kinh A-phù-đà-đạt-ma? Như Bồ Tát khi mới sanh ra, chẳng có ai
nâng đỡ mà bước đi bảy bước, phóng hào quang lớn, quán chiếu khắp mười phương!
Lại như con vượn tay bưng bát mật đến hiến cúng Như Lai! Như con chó trên đầu
có vá trắng, đến ngồi bên Phật mà nghe pháp. Như Ma Ba-tuần biến làm con trâu
xanh, đi giữa những chén bát bằng sành, làm cho chén bát chạm nhau khua động
nhưng không bể vỡ cái nào. Như Phật vừa đản sanh, khi vào đền thờ chư thiên khiến
cho các tượng chư thiên đều phải bước xuống mà lễ kính ngài! Những kinh thuyết
việc như vậy gọi là kinh A-phù-đà-đạt-ma.
“Những gì gọi là kinh Ưu-ba-đề-xá? Như trong các kinh do Phật Thế Tôn thuyết diễn,
nói ra những lời biện luận nghĩa lý, phân biệt giảng rộng, chỉ rõ các hình tướng,
dung mạo. Như vậy gọi là kinh Ưu-ba-đề-xá.
“Nếu Bồ Tát có thể hiểu rõ được cả mười hai bộ kinh như vậy, gọi là biết pháp.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát biết nghĩa? Bồ Tát ma-ha-tát nếu đối với tất cả
ngôn ngữ văn tự đều hiểu biết sâu rộng ý nghĩa, như vậy gọi là biết nghĩa.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát biết lúc thích hợp? Thiện nam tử! Bồ Tát khéo biết
được lúc nào nên tu tịch tĩnh, lúc nào nên tu tinh tấn, lúc nào nên tu xả định,
lúc nào nên cúng dường Phật, lúc nào nên cúng dường thầy, lúc nào nên tu các
pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủ cả pháp Bát-nhã
Ba-la-mật. Như vậy gọi là biết đúng thời.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát tự biết đủ? Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát tự biết
đủ trong những việc như ăn uống, sử dụng y phục, thuốc men, đi, đứng, nằm, ngồi,
thức, ngủ, nói, im. Như vậy gọi là biết đủ.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát tự biết mình? Bồ Tát ấy tự biết rằng mình có lòng
tin như thế nào, giữ giới như thế nào, đa văn như thế nào, hạnh xả như thế nào,
trí tuệ như thế nào, đến và đi như thế nào, chánh niệm như thế nào, thiện hạnh
như thế nào, hỏi như thế nào, đáp như thế nào. Như vậy gọi là tự biết mình.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát biết rõ người quanh mình? Thiện nam tử! Vị Bồ Tát
biết rõ đây là nhóm người sát-lỵ, đây là nhóm người bà-la-môn, đây là nhóm người
cư sĩ, đây là nhóm các vị sa-môn... rõ biết hết các nhóm người như thế. Lại biết
rằng khi ở trong mỗi nhóm ấy nên đi lại như thế nào, đứng ngồi như thế nào,
thuyết pháp như thế nào, hỏi đáp như thế nào...Như vậy gọi là biết rõ người
quanh mình.
“Thế nào là Bồ Tát ma-ha-tát biết phân biệt kẻ trên người dưới? Thiện nam tử!
Người có hai hạng: một là người có đức tin, hai là người không có đức tin. Bồ
Tát nên biết, người có đức tin là tốt, người không có đức tin là không tốt.
“Lại nữa, trong những người có đức tin cũng có hai hạng: một là người thường đến
chùa, hai là người không đến chùa. Bồ Tát nên biết, người có đến chùa là tốt,
người không đến chùa gọi là không tốt.
“Người đến chùa lại cũng có hai hạng: một là người có lễ bái, hai là người
không lễ bái. Bồ Tát nên biết, người có lễ bái là tốt, người không lễ bái là
không tốt.
“Người lễ bái lại cũng có hai hạng: một là nghe pháp, hai là không nghe pháp. Bồ
Tát nên biết: người nghe pháp là tốt, người không nghe pháp là không tốt.
“Người nghe pháp lại cũng có hai hạng: một là người hết lòng chú ý lắng nghe,
hai là người không chú ý lắng nghe. Bồ Tát nên biết, người hết lòng nghe pháp
là người tốt, người không hết lòng nghe pháp là không tốt.
“Người hết lòng nghe pháp lại cũng có hai hạng: một là người biết suy xét nghĩa
lý, hai là người không suy xét nghĩa lý. Bồ Tát nên biết, người biết suy xét
nghĩa lý là tốt, người không suy xét nghĩa lý là không tốt.
“Người biết suy xét nghĩa lý cũng có hai hạng: một là người [hiểu rồi] làm theo
như lời dạy, hai là người không làm theo. Người làm theo như lời dạy là tốt,
người không làm theo là không tốt.
“Người làm theo lời dạy lại cũng có hai hạng: một là người cầu [được quả vị của]
thừa Thanh văn, không thể làm lợi ích an ổn cho hết thảy chúng sanh khổ não,
hai là người hồi hướng về Vô thượng Đại thừa, lợi ích cho nhiều người, khiến
cho được an vui. Bồ Tát nên biết, có thể làm lợi ích cho nhiều người, khiến họ
được an vui, đó là việc thiện cao quý nhất.
“Thiện nam tử! Như trong các vật quý báu, hạt châu như ý là hơn hết; trong các
mùi vị, vị cam lộ là hơn hết. [Cũng vậy,] hàng Bồ Tát [có thể làm lợi ích chúng
sinh] như thế là bậc cao quý hơn hết trong nhân loại và chư thiên, không ai so
sánh được.
“Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát ma-ha-tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết-bàn,
trụ nơi bảy pháp lành. Bồ Tát trụ nơi bảy pháp lành như thế rồi liền được đầy đủ
các hạnh thanh tịnh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Các hạnh thanh tịnh ấy là: từ, bi, hỷ và xả.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu ai thường tu tâm từ thì có thể dứt trừ
sân khuể; tu tập tâm bi cũng dứt được sân khuể. Như vậy sao nói là Bốn tâm vô
lượng? Cứ suy theo nghĩa mà nói thì lẽ ra chỉ có ba mà thôi!
“Bạch Thế Tôn! Tâm từ có ba duyên: một là duyên chúng sanh, hai là duyên với
pháp, ba là không duyên. Các tâm bi, hỷ, xả lại cũng như vậy. Nếu theo nghĩa ấy
thì lẽ ra chỉ có ba, không nên nói là có bốn!
“Duyên chúng sanh là duyên với năm ấm, nguyện mang lại cho chúng sanh sự vui vẻ.
Đó gọi là duyên chúng sanh.
“Duyên với pháp là duyên với những vật mà các chúng sanh cần dùng, đem những vật
ấy mà thí cho chúng sanh. Đó gọi là duyên với pháp.
“Không duyên tức là duyên với Như Lai. Như vậy gọi là không duyên.
“Tâm từ phần nhiều là duyên với những chúng sanh nghèo túng. Bậc đại sư là Như
Lai đã vĩnh viễn lìa xa sự nghèo túng, hưởng niềm vui cao cả nhất. Nếu duyên với
chúng sanh ắt không duyên với Phật. Đối với pháp cũng vậy. Vì nghĩa ấy, duyên với
Như Lai gọi là không duyên.
“Bạch Thế Tôn! Tâm từ duyên với hết thảy chúng sanh, như duyên với cha mẹ, vợ
con, thân thuộc... Vì nghĩa ấy nên gọi là duyên chúng sanh.
“Duyên với pháp là không thấy có cha mẹ, vợ con, thân thuộc... chỉ thấy hết thảy
các pháp đều do duyên mà sanh. Như vậy gọi là duyên với pháp.
“Không duyên là không trụ ở tướng pháp và tướng chúng sanh. Như vậy gọi là
không duyên.
“Các tâm bi, hỷ, xả lại cũng như thế. Cho nên đáng lẽ chỉ có ba tâm, không có tới
bốn!
“Thế Tôn! Có hai hạng người, một là người theo chỗ thấy biết mà làm, hai là người
theo chỗ yêu mến mà làm. Người theo chỗ thấy biết mà làm thường tu từ bi, người
theo chỗ yêu mến mà làm thường tu hỷ xả. Theo như nghĩa này thì lẽ ra chỉ có
hai tâm, không có tới bốn!
“Bạch Thế Tôn! Nói là vô lượng cũng gọi là không giới hạn. Vì không thể biết được
giới hạn đến đâu nên gọi là vô lượng. Nếu là vô lượng thì lẽ ra chỉ là một,
không nên nói là bốn! Nếu nói là bốn, làm sao có thể là vô lượng? Vậy nên lẽ ra
chỉ là một, không có đến bốn!”
Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Chư Phật Như Lai vì chúng sanh mà giảng
thuyết những chỗ pháp yếu, lời lẽ sâu kín, rất khó thấu hiểu trọn vẹn. Có khi
các ngài vì chúng sanh mà thuyết giảng một nhân duyên, như nói: ‘Những gì là một
nhân duyên? Đó là tất cả các pháp hữu vi.’
“Thiện nam tử! Hoặc có khi lại thuyết dạy [phân biệt thành] hai loại là nhân và
quả. Hoặc thuyết dạy ba loại là phiền não, nghiệp, khổ. Hoặc nói bốn loại là vô
minh, các hành, sanh và già chết. Hoặc nói năm loại là thọ, ái, thủ, hữu và
sanh. Hoặc nói sáu loại là nhân và quả trong ba đời. Hoặc nói bảy loại là thức,
danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái và thủ. Hoặc nói tám loại là [Mười hai nhân
duyên] trừ ra vô minh, hành, sanh và già chết, còn lại tám loại. Hoặc nói chín
loại là như trong Thành kinh có nói: [Mười hai nhân duyên] trừ ra vô minh,
hành, thức, còn lại chín nhân duyên. Hoặc nói mười một loại, như Phật vì
Tát-già là kẻ tin theo ngoại đạo Ni-kiền-tử mà thuyết rằng, [Mười hai nhân
duyên] trừ ra một pháp sanh, còn lại mười một pháp. Hoặc nói đủ Mười hai nhân
duyên, như khi ở thành Vương Xá vì nhóm ông Ca-diếp mà thuyết đầy đủ Mười hai
nhân duyên, từ vô minh cho tới sanh, già, bệnh, chết.
“Thiện nam tử! Giống như chỉ một nhân duyên nhưng vì chúng sanh mà phân biệt
nhiều cách khác nhau, tâm pháp vô lượng cũng là như vậy. Thiện nam tử! Vì nghĩa
ấy nên đối với hạnh sâu kín của chư Phật không nên sanh lòng nghi ngại.
“Thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn có phương tiện lớn lao, vô thường [có thể] nói
là thường; thường [có thể] nói là vô thường. Vui [có thể] nói là khổ; khổ [có
thể] nói là vui. Bất tịnh [có thể] nói là tịnh, tịnh [có thể] nói là bất tịnh.
Ngã [có thể] nói là vô ngã; vô ngã [có thể] nói là ngã. Đối với chẳng phải
chúng sanh [có thể] nói là chúng sanh; đối với chúng sanh thật [có thể] nói là
chẳng phải chúng sanh. Chẳng phải vật [có thể] nói là vật, vật [có thể] nói là
chẳng phải vật. Chẳng phải thật [có thể] nói là thật; thật [có thể] nói là chẳng
phải thật. Chẳng phải cảnh [có thể] nói là cảnh; cảnh [có thể] nói là chẳng phải
cảnh. Không phải sanh [có thể] nói là sanh; sanh [có thể] nói là không phải
sanh. Cho đến vô minh [có thể] nói là minh; minh [có thể] nói là vô minh. Sắc
[có thể] nói là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc [có thể] nói là sắc. Không phải
đạo [có thể] nói là đạo; đạo [có thể] nói là không phải đạo.
“Thiện nam tử! Như Lai dùng vô lượng phương tiện như vậy là vì muốn điều phục
chúng sanh, há có thể là hư dối hay sao?
“Thiện nam tử! Hoặc có những chúng sanh tham muốn của cải, ta liền hiện đến nơi
những người đó, tự hóa thân làm vua Chuyển luân. Trong vô số năm ta cung cấp mọi
thứ tùy theo sự cần dùng của họ, sau đó mới giáo hóa, khiến họ trụ yên nơi A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Nếu có những chúng sanh tham đắm năm món dục, trong vô số năm ta dùng năm món
dục tốt đẹp mà làm cho họ được thỏa ý. Sau đó mới khuyên bảo, giáo hóa, khiến họ
trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Nếu có những chúng sanh sẵn được sự giàu sang phú quý, ta liền đến nơi những
người đó, trong vô số năm làm kẻ hầu hạ cho họ sai khiến, tất bật bôn ba để chu
cấp, chăm sóc họ. Khi được họ tin yêu rồi, ta sẽ khuyên bảo, giáo hóa, khiến họ
trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Nếu có những chúng sanh tính tình ngang ngược, hung bạo, luôn tự cho mình
đúng, cần phải có người quở trách, can gián. Ta liền dạy dỗ, quở trách, khích lệ,
đôn đốc, giảng giải với họ trong vô số trăm ngàn năm, khiến cho tâm họ được điều
phục, rồi sau đó ta lại khuyên bảo, khiến họ trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Như Lai dùng đủ mọi phương tiện như vậy trong vô số năm, khiến
các chúng sanh được trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, há có thể là hư
dối hay sao? Chư Phật Như Lai tuy ở trong mọi cảnh xấu ác nhưng chẳng hề nhiễm
ô, cũng giống như hoa sen.
“Thiện nam tử! Nên hiểu nghĩa của Bốn [tâm] vô lượng là như vậy. Thiện nam tử!
Tâm vô lượng có bốn thể tánh, nếu ai tu hành theo đó thì sanh lên cõi trời Đại
phạm. Thiện nam tử! Vì tâm vô lượng này chia thành bốn nhóm nên gọi là bốn.
“Người tu tâm từ có thể dứt trừ tham dục; người tu tâm bi có thể dứt trừ sân hận;
người tu tâm hỷ có thể dứt hết những điều không vui; người tu tâm xả có thể
giúp chúng sanh [khác] dứt trừ tham dục và sân khuể. Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy
nên gọi là bốn, chẳng phải là một, hai hay ba.
“Thiện nam tử! Theo như ông nói, tâm từ có thể dứt được lòng sân hận, tâm bi
cũng vậy, nên lẽ ra phải nói là ba. Nay ông không nên cật vấn như thế. Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Sự oán giận có hai loại: một là có thể dẫn đến giết người, hai là
có thể đánh đập người. Tu tâm từ ắt có thể ngăn dứt được sự giết hại; tu tâm bi
ắt có thể ngăn dứt được sự đánh đập. Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy, há không phải
là bốn đó sao?
“Lại nữa, sân hận có hai loại, một là sân hận với chúng sanh, hai là sân hận với
đối tượng chẳng phải chúng sanh. Người tu tâm từ dứt được sân hận với chúng
sanh; người tu tâm bi dứt được sân hận với đối tượng chẳng phải chúng sanh.
“Lại nữa, sân hận có hai loại, một là có nhân duyên, hai là không có nhân
duyên. Người tu tâm từ dứt được sân hận có nhân duyên, người tu tâm bi dứt được
sân hận không có nhân duyên.
“Lại nữa, sân hận có hai loại, một là tập tính từ lâu xa trong quá khứ, hai là
tập tính mới có trong đời hiện tại. Người tu tâm từ dứt được sân hận do tập
tính từ lâu xa trong quá khứ; người tu tâm bi dứt được sân hận do tập tính
trong đời hiện tại.
“Lại nữa, sân hận có hai loại, một là sân hận với thánh nhân, hai là sân hận với
phàm phu. Người tu tâm từ dứt được sân hận với thánh nhân; người tu tâm bi dứt
được sân hận với phàm phu.
“Lại nữa, sân hận có hai loại, một là bậc cao, hai là bậc vừa. Người tu tâm từ
dứt được sân hận bậc cao; người tu tâm bi dứt được sân hận bậc vừa.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên gọi là bốn. Sao có thể cật vấn rằng chỉ nên có
ba, chẳng phải bốn?
“Ca-diếp! Vì thế nên tâm vô lượng này dựa theo các nhóm khác nhau mà phân ra
làm bốn. Lại theo tâm lượng mà gọi là bốn. Nếu trong tâm lượng đang có từ thì
không có bi, hỷ, xả. Vì nghĩa ấy mà nên kể là bốn, không nên bớt đi.
“Thiện nam tử! Vì chỗ thực hành khác nhau mà nên gọi là bốn. Trong khi thực
hành tâm từ thì không có bi, hỷ, xả. Cho nên phải có bốn.
“Thiện nam tử! Vì là vô lượng nên cũng gọi là bốn.
“Vô lượng có bốn loại: Có tâm vô lượng có duyên mà không được tự tại; có tâm vô
lượng được tự tại mà không có duyên; có tâm vô lượng vừa có duyên vừa được tự tại;
có tâm vô lượng không có duyên mà cũng không được tự tại.
“Thế nào là tâm vô lượng có duyên mà không được tự tại? Đó là duyên với vô lượng
vô biên chúng sanh nhưng chẳng được phép Tam-muội tự tại. Hoặc có được nhưng
không ổn định, lúc có lúc không.
“Thế nào là tâm vô lượng được tự tại mà không có duyên? Như có duyên với cha mẹ,
anh chị em, muốn làm cho họ được an vui, đó chẳng phải là duyên vô lượng.
“Thế nào là tâm vô lượng vừa có duyên vừa được tự tại? Đó là nói chư Phật, Bồ
Tát.
“Thế nào là tâm vô lượng không có duyên mà cũng không được tự tại? Đó là nói
hàng Thanh văn, Duyên giác, không được rộng duyên với vô lượng chúng sanh, cũng
không được tự tại.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên gọi là Bốn [tâm] vô lượng, chẳng phải chỗ mà
hàng Thanh văn, Duyên giác có thể rõ biết được, thật là cảnh giới của chư Phật
Như Lai.
“Thiện nam tử! Bốn việc như vậy [ở nơi] hàng Thanh văn, Duyên giác tuy cũng gọi
là vô lượng, nhưng thật nhỏ nhoi không đáng kể; chỉ [ở nơi] chư Phật, Bồ Tát mới
đáng gọi là vô lượng vô biên.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Đúng thật như vậy, đúng như lời Phật dạy! Cảnh
giới của chư Phật Như Lai chẳng phải chỗ hàng Thanh văn, Duyên giác có thể đạt
đến.
“Bạch Thế Tôn! Liệu có vị Bồ Tát nào trụ ở kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, được
tâm từ bi mà không phải là tâm đại từ, đại bi hay chăng?”
Phật dạy: “Này thiện nam tử, quả thật có như vậy! Nếu Bồ Tát đối với chúng sanh
phân biệt thành ba nhóm: một là những người thân yêu, hai là những kẻ oán ghét,
ba là những người không oán không thân. Trong số những người thân yêu, lại phân
ra thành ba hạng là thương nhiều, thương ít và trung bình. Đối với những kẻ oán
ghét cũng phân ra [ba hạng] như vậy. Vị Bồ Tát ma-ha-tát ấy đối với những người
mình thương yêu nhiều liền mang đến cho họ niềm vui lớn lao. Đối với những người
mình thương yêu ít và ở mức trung bình cũng vẫn đem lòng bình đẳng mà mang đến
cho họ niềm vui lớn lao. Đối với những kẻ oán ghét nhiều chỉ mang đến cho họ
chút ít niềm vui. Đối với những kẻ oán ghét ở mức trung bình thì mang đến cho họ
niềm vui trung bình. Đối với kẻ ít oán ghét nhất thì mang đến cho họ niềm vui lớn
nhất.
“Vị Bồ Tát như vậy lại dần dần tu tập để thay đổi tăng tiến hơn. Đối với những
kẻ oán ghét nhiều cũng mang đến cho họ niềm vui trung bình. Đối với kẻ oán ghét
ở mức trung bình và ít thì mang đến cho họ niềm vui lớn nhất.
“Rồi lại tiếp tục tu tập thay đổi [tiến bộ] hơn nữa. Đối với những kẻ oán ghét
nhiều cũng như ít, cũng như ở mức trung bình, đều bình đẳng mang lại cho họ niềm
vui lớn nhất.
“Nếu đối với những kẻ mình oán ghét nhất mà mang đến cho họ niềm vui lớn nhất
thì lúc ấy có thể nói là đã thành tựu được tâm từ. Vị Bồ Tát ấy lúc bấy giờ dù
đối với cha mẹ hay đối với những kẻ mình oán ghét nhất cũng đều có lòng bình đẳng,
chẳng xem là khác biệt nhau.
“Thiện nam tử! Như vậy gọi là tu được tâm từ, không phải là đại từ.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ chi mà Bồ Tát được tâm từ
như vậy vẫn chưa được gọi là đại từ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì sự tu tập [như vậy là] thành tựu một cách khó khăn
nên không gọi là đại từ. Vì sao vậy? Đã từ lâu xa trong vô số kiếp quá khứ tích
chứa nhiều phiền não, chưa tu pháp lành, cho nên không thể trong một ngày mà điều
phục được tâm.
“Thiện nam tử! Ví như hạt đậu khô cứng, dùi đâm mãi cũng không bám vào được.
Phiền não kiên cố, bền chặt cũng như vậy, tuy suốt ngày đêm chú tâm không tán
loạn, cũng khó điều phục được.
“Lại như con chó nhà chẳng hề sợ người, con hươu rừng thấy người thì sợ chạy.
Sân hận khó đẩy lùi, như giữ mãi con chó nhà; tâm từ dễ mất, như con hươu rừng
kia. Vậy nên tâm này rất khó điều phục. Vì nghĩa ấy mà không gọi là đại từ.
“Lại nữa, thiện nam tử! Ví như khắc chữ trên đá thì còn mãi, còn vạch trên mặt
nước thì mất ngay, không thể tồn tại. Sân hận cũng như khắc [chữ] trên đá, các
căn lành như vạch trên mặt nước. Vậy nên tâm này rất khó điều phục.
“Như đống lửa lớn chiếu sáng được lâu, còn tia điện chớp thì không hề lưu lại.
Sân hận cũng như đống lửa, tâm từ như tia điện chớp. Vậy nên tâm này rất khó điều
phục. Vì nghĩa ấy mà không gọi là đại từ.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở Sơ địa gọi là đại từ. Vì sao vậy? Thiện
nam tử! Kẻ xấu ác nhất gọi là nhất-xiển-đề. Bồ Tát trụ ở Sơ địa trong khi tu tập
đại từ, đối với những kẻ nhất-xiển-đề cũng không thấy có gì khác biệt, không thấy
lỗi lầm của họ, nên không sanh sân hận. Vì nghĩa ấy nên được gọi là đại từ.
“Thiện nam tử! Vì chúng sanh mà trừ bỏ những việc vô ích, đó gọi là đại từ.
Mong muốn mang đến cho chúng sanh vô lượng những điều lợi ích, vui vẻ, đó gọi
là đại bi. Đối với chúng sanh trong lòng sanh hoan hỷ, đó gọi là đại hỷ. Không
có gì để ôm giữ, bảo vệ, đó gọi là đại xả.
“Như không thấy có bản ngã và các tướng pháp, không thấy có thân mình, thấy hết
thảy các pháp đều bình đẳng không phân hai, đó gọi là đại xả.
“Tự mình vất bỏ sự vui sướng, mang niềm vui đến cho người khác, đó gọi là đại xả.
“Thiện nam tử! Chỉ Bốn [tâm] vô lượng ấy mới có thể giúp Bồ Tát tăng trưởng đầy
đủ sáu pháp ba-la-mật mà thôi, ngoài ra các hạnh tu khác đều không có khả năng ấy.
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trước tiên phải đạt được Bốn tâm vô lượng của
thế gian, tiếp đó mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sau nữa mới được
Bốn tâm vô lượng xuất thế gian.
“Thiện nam tử! Nhân chỗ vô lượng của thế gian mà được chỗ vô lượng xuất thế
gian. Vì nghĩa ấy, nên gọi là đại vô lượng.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch Phật: “Thế Tôn! Trừ bỏ những việc vô ích và mang đến những
điều lợi ích, vui vẻ, thật ra không có chỗ làm. Suy nghĩ như vậy tức là quán
xét một cách hư dối, không thật có lợi ích.
“Thế Tôn! Ví như vị tỳ-kheo trong khi quán xét sự bất tịnh, thấy y phục đang mặc
đúng là hình tướng của da mà thật chẳng phải da; thấy những món đang ăn đều là
hình tướng của loài sâu bọ mà thật chẳng phải sâu bọ... Vị ấy quán xét món chè
đậu, nghĩ rằng đó là phân sệt mà thật chẳng phải phân; quán xét món kem sữa
đang ăn giống như tủy não mà thật chẳng phải não; quán xét xương nát như bột
cám mà thật chẳng phải cám... Bốn tâm vô lượng cũng là như vậy, không thể làm lợi
ích cho chúng sanh một cách chân thật, khiến họ được vui. Tuy miệng nói rằng
mang đến cho chúng sanh niềm vui, nhưng thật là chẳng được [như vậy]. Quán xét
như vậy chẳng phải là hư dối đó sao?
“Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng phải hư dối, mà thật có mang đến niềm vui, vậy sao
chúng sanh chẳng nhờ oai đức của chư Phật và Bồ Tát mà hết thảy đều được vui?
“Nếu quả thật chẳng được vui, thì như Phật có dạy: ‘Ta nhớ lại thuở xưa, ta chỉ
tu một tâm từ, trải qua bảy lần thành hoại của thế giới này, ta chẳng thọ sanh ở
đây. Khi thế giới thành, ta sanh ở cõi Phạm thiên. Khi thế giới hoại, ta sanh ở
cõi Quang âm thiên. Khi sanh ở cảnh Phạm thiên thì có thế lực tự tại, chẳng ai
hơn được, cao trổi hơn hết trong số ngàn vị thiên nhân cõi Phạm thiên, gọi là Đại
Phạm Vương. Hết thảy chúng sanh đối với địa vị của ta đều cho là cao cả nhất.
Trong ba mươi sáu lần thọ thân làm Đao-lợi Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, vô
lượng trăm ngàn lần làm Chuyển luân vương...’ Chỉ tu một tâm từ mà được quả báo
ở hai cõi trời người như vậy, nếu là không chân thật thì làm sao hợp với nghĩa ấy?”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông quả thật là dũng mãnh, không
có gì sợ sệt.”
N