Phụng hoàng cảnh sách

Phụng hoàng cảnh sách

Mục lục

Lời đầu

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hòa thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hòa thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi.

Cuối Đông Nhâm Ngọ - 2002.

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 29-2 Giáp Tuất (9-4-1994)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay, những vị có lỗi tự biết ra chúng sám hối, đó là một điều đáng khen. Điều thứ hai, tôi thấy trong chúng có những người vì tâm chúng sanh có niệm ái dấy lên. Trong Thanh qui không có ghi lỗi này, vì nó thuộc về nội tâm của mỗi người khó kiểm tra được. Nhưng những vị đó kiểm điểm nội tâm mình thấy còn có những niệm ái dục quấy rầy, đã tự xấu hổ ra chúng phát lồ sám hối, mong nhờ tha lực của đại chúng giúp cho tiêu nghiệp, để sự tu hành không bị chướng ngại. Đó là điều rất tốt.

Con người sanh ra trong cõi thế gian này không ai tránh khỏi niệm ái dục, chỉ có người nặng, người nhẹ thôi. Tu là phải vượt qua nó. Quí vị đọc trong kinh A-hàm, có những bài kinh kể lại các ngài cũng khổ sở vì nó rất nhiều. Như có lần ngài A-nan đi khất thực với một huynh đệ, trên đường đi gặp một thiếu nữ xinh đẹp. Tôn giả đó không đứng vững nổi phải cầu cứu ngài A-nan, ngài A-nan nói: Dục là pháp điên đảo, khi chúng lẫy lừng, phải trừ niệm tưởng tượng thì dục ý sẽ tự dứt. Tôn giả quán bất tịnh và tìm đủ mọi cách chế ngự vẫn không buông được, rốt cuộc vị ấy khám phá ra dục từ tư tưởng sanh. Hễ dừng tư tưởng, dục theo đó hết, không còn hoành hành nữa, đó là lẽ thật.

Ví dụ, trên một băng xe đò, nếu ngồi chung với chị ruột hoặc em ruột của mình, tuy là khác phái mà không hề có niệm gì xấu. Ngược lại, nếu ngồi gần một người nữ không phải quyến thuộc, niệm ái dễ sanh. Tại sao hai trường hợp đều là người khác phái mà người ruột thịt mình không có niệm ái, còn người lạ lại có? Chẳng qua vì người kia mình thấy là thân thuộc ruột rà nên không khởi niệm. Không khởi niệm thì không có ái. Còn người này là người ngoài nên niệm ái dễ dấy động. Vậy có tư tưởng là người thân thì không có niệm ái, còn có tư tưởng người lạ, thì niệm ái theo đó sanh.

Cho nên trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật đã từng dạy: “Nếu phải cùng người nữ nói chuyện, nên chánh tâm suy nghĩ: Ta là bậc Sa-môn ở trong đời ác, phải như hoa sen chẳng bị bùn làm ô uế, tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, kẻ nhỏ như em, đứa bé như con, mà sanh tâm độ thoát thì diệt được niệm xấu.” Phật thấy rõ những điều đó, nên Ngài dạy chư Tăng phải chánh quán. Ngày nay xét kỹ cũng thấy rõ ràng như vậy. Cho nên dù người đó là khác phái, nếu mình không khởi niệm nghĩ gì về họ, tự nhiên tâm ái không dấy động. Ngược lại, khi vừa nghĩ họ thương hoặc để ý mình, tâm ái nổi lên làm mình quay cuồng không thể tự do được.

Đó là bệnh chung, không phải bệnh riêng một cá nhân nào. Nếu chúng ta khéo tu, vượt qua được thì sẽ ra khỏi trầm luân, còn nếu không vượt qua nổi tất phải chìm trong sanh tử.

Quí vị thấy tất cả chúng sanh đều đua nhau theo đuổi dục lạc, cho đó là hạnh phúc, vui thích, rồi bị chìm đắm trong sanh tử khổ đau. Từ con người cho đến các loài vật như chó mèo... sanh ra đều bị dục chi phối. Đó là con đường nghiệp dẫn, đi trong sanh tử, không bao giờ ra được. Nay chúng ta quyết tâm ra khỏi sanh tử, phải cố gắng vượt qua không thể dể duôi. Đó là điểm rất thiết yếu.

Bởi vậy, tôi tạo điều kiện cho mấy chú tu là phải tránh các duyên. Tất cả ở trong nội viện, sống với huynh đệ, khi có những duyên làm dấy khởi niệm ái, được nhắc nhở ngay. Đó là tôi muốn giữ gìn cho mấy chú. Thật ra, đa số người tu hơi lớn một chút là ra trụ trì, trong khi tuổi còn trẻ, rất khó giữ vững đạo tâm. Tôi muốn mấy chú tu đến nơi đến chốn, làm chủ được mình, có thể thắng được tập khí muôn đời, đây là điều thực tế chớ không phải tưởng tượng. Đó là chỗ tôi đã lo, hằng lo cho mấy chú.

Ngày nay tạo được khu nội viện như thế này tôi tạm yên tâm. Tôi sẽ gìn giữ cho mấy chú tu hành trọn vẹn, để đủ sức mạnh thắng hết các duyên lôi cuốn bên ngoài, thời gian không hạn định là bao lâu. Đó là sở nguyện của tôi.

Lại nữa, quí vị ở đây mỗi ngày ngồi thiền sáu tiếng, những người mới đến thấy rất nặng nề, còn những người đã quen thì thấy bình thường. Nhưng tại sao tôi bắt ngồi thiền nhiều như vậy, với mục đích gì? Chúng ta ngồi thiền là tập chết, chết về thân lẫn tâm, nghĩa là khi ngồi mình sống mà coi như chết. Phải thắng hết các cảm giác chân đau, bàn tọa nóng... mọi sự khó chịu mình đều vượt qua, đó là làm chủ được thân. Như vậy mai kia chúng ta mới thắng được những nhu cầu đòi hỏi của nó. Nếu không làm chủ được, nó đòi cái gì mình chạy theo cái ấy, rốt cuộc một đời chỉ buông lung theo dục lạc thế gian không thắng nổi.

Đó là nói trong cuộc sống hiện tại, còn ngày mai khi sắp tắt thở, cơ thể sẽ bứt rứt, khổ sở, khó chịu trăm phần. Nếu chúng ta không có được sức mạnh, không quen làm chủ, lúc đó sẽ bị các niệm rối loạn dẫn đi, rồi sanh vào những nơi không định trước được. Do đó, tập làm chủ tất cả những cảm giác trong lúc ngồi tu là để quen sức chịu đựng. Đạo lực có mạnh mẽ mới thắng được những ưa muốn phi pháp, những chuyện mình không muốn làm mà bị lôi kéo. Như vậy, tập làm chủ về thân là điều thiết yếu.

Kế đến là tập làm chủ nội tâm. Khi ngồi thiền, tất cả những niệm dấy lên chúng ta đều buông xả. Người thế gian khởi niệm cứ tưởng là tâm mình rồi chạy theo, còn chúng ta biết là hư dối nên làm chủ nó. Nếu mình làm chủ thắng được nó thì nội tâm lặng lẽ. Khi mọi dấy động đều dừng tôi gọi là tâm chết. Nó chết mình mới sống, còn nếu tâm vọng sống, bị nó dẫn, coi như mình chết. Tuy sống trong các cõi nhưng mình không làm chủ được gì. Sống theo nghiệp, sống bị nghiệp dẫn là sống trong sự nô lệ, tôi tớ. Vì vậy, chúng ta tu là giải thoát ra khỏi vòng lôi kéo của nghiệp, phải làm chủ nghiệp.

Như vậy, đối với thân không bị những cảm giác lôi kéo, đối với tâm không bị vọng tưởng chi phối, hướng dẫn. Được vậy chúng ta sẽ tự do, đi tới giải thoát sanh tử; ngược lại, bị nó dẫn thì muôn kiếp luân hồi. Vì vậy, tất cả chúng ta ai cũng phải nỗ lực, cố gắng chinh phục thân và tâm. Phải chiến thắng nó, đừng để nó thắng mình. Đó là điều tôi mong mỏi, tất cả nên cố gắng! Quí vị nhớ mình đã nguyện tu thì phải làm cho đời của mình có ý nghĩa, đừng để những thứ hư dối làm chủ mình, không tròn nhiệm vụ người xuất gia.

Những buổi tham vấn, nói là tham vấn chớ kỳ thật tôi giảng dạy cho quí vị rõ chủ trương và đường lối tu hành của Thiền viện. Quí vị phải nắm vững những điều đó. Đồng thời khi bắt đầu vào chương trình hướng dẫn về văn hóa hay các tư liệu Thiền tông đời Trần, mấy chú phải học kỹ để biết cho rõ ràng, thông suốt, vì chủ trương Thiền viện Trúc Lâm tu theo đường lối Thiền tông đời Trần. Nếu tôi giảng mấy chú không hiểu, không thông thì khi người khác hỏi làm sao mấy chú giải thích được. Chính bản thân mình tu không ổn, nói cho người nghe cũng không xong, không xứng đáng Thiền sinh Thiền viện Trúc Lâm. Do đó mấy chú phải nghe kỹ, một lần không nhớ thì hai ba lần. Phải hiểu, phải nhớ cho thật rõ ràng để mai kia mấy chú có trách nhiệm nói lại cho những người khác biết, đồng thời tự mình ứng dụng tu một cách cụ thể chớ không phải mơ hồ.

Ngày 28-3 Giáp Tuất (8-5-1994)

Hôm nay toàn chúng không ai vi phạm Thanh qui, như vậy rất tốt. Chúng ta tu cốt làm sao trong chúng mỗi ngày mỗi tiến, vượt lên, không để lui sụt. Tất cả tránh được những lỗi lầm có thể xảy ra là điều rất đáng mừng.

Tôi nhắc nhở chung cho toàn chúng tu hành ngày càng tinh tấn hơn. Không ai đã xuất gia cầu giải thoát lại muốn tu cầm chừng, tu cho có một chút duyên tốt, để đời sau hưởng được phước lạc hơn đời này. Tôi chắc rằng ở đây ai cũng quyết tâm tu đến thành Phật mới thôi. Nếu chúng ta tu theo Phật mà không đến Phật quả thì việc tu của mình chưa xong, chưa đạt kết quả cuối cùng. Vậy nên, hồi xưa tôi từng nhắc, chư Thiền đức có dạy chúng ta trên đường tu phải ráng phát khởi hai tâm hạnh: kiên cố và trường viễn.

Một là tâm kiên cố, khi phát nguyện tu hành thì quyết chí tu đến chết, không có tánh cách cầm chừng hay sẽ có lúc bỏ cuộc, mà cương quyết khẳng định sự tu hành của mình, phải đạt được kết quả. Thứ hai là tâm trường viễn, trường là dài, viễn là lâu xa, tức là phát tâm tu chẳng những một đời mà đến nhiều đời, chừng nào đạt quả vị Phật mới xong bản nguyện. Đừng nghĩ tu năm bảy tháng, một hai năm thành Phật liền, hiểu như vậy là trái giáo lý nhà Phật.

Tuy nhiên trong nhà thiền luôn luôn nói chúng ta sẵn có tánh Phật, nhưng vì phiền não trần lao vô số kiếp, nên bây giờ dù biết có tánh Phật cũng không sống được với ông Phật của mình. Phải nỗ lực cố gắng lâu dài mới có thể đạt được sở nguyện. Cho nên, nếu chúng ta mong mau có kết quả là trái với giáo lý.

Trong kinh Phật thường dạy, tu từ phát tâm cho đến ngày thành Phật phải qua ba vô số kiếp. Tuy nhiên, ba vô số kiếp không phải là thời gian cố định, bởi vì “vô số” là không thể tính đếm, làm sao nói ba? Trong kinh nói: Trải qua từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là vô số kiếp thứ nhất. Từ Sơ địa đến Thất địa là vô số kiếp thứ hai. Bát địa đến Thập địa là vô số kiếp thứ ba, qua Thập địa đến Đẳng giác, Diệu giác là thành Phật. Như vậy ba chặng đó không có định số.

Ví như đi học ở đời, nếu người rất thông minh nghe một hiểu mười, có thể học rút từ lớp một tới lớp năm trong ba năm. Người bình thường học năm năm, còn người trì trệ học ở lại lớp hoài thì chừng mấy năm? Như vậy không thể nói cấp tiểu học nhất định năm năm mà cũng có thể là ba năm, hay bảy năm tùy theo khả năng mỗi người. Vì vậy nói nhất định là sai.

Gọi vô số kiếp bởi vì trong thời gian tu người tiến chậm, người tiến nhanh không tính số được. Tôi dẫn chứng trong kinh: Đức Phật Thích-ca và Phật Di-lặc phát tâm đồng thời, nhưng đức Phật Thích-ca từ thành Phật đến nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm mà đức Di-lặc vẫn còn ở cung trời Đâu-suất chờ đến hội Long Hoa mới thành Phật. Vậy còn chừng bao lâu nữa? Ít ra cũng một triệu năm nữa. Như vậy cùng tu một lượt mà một người đã thành Phật trước cả một hai triệu năm, một vị về sau mới thành. Vậy lỗi do đâu? Là vì đức Phật Thích-ca tinh tấn tu hành, còn ngài Di-lặc thích cầu danh nên chậm trễ. Vậy làm sao nhất định thời gian năm, tháng được.

Hơn nữa trong nhà Phật có nhiều vị Bồ-tát, một đời hi sinh thân mình để cứu người hoặc giúp người ngộ đạo, những vị đó vượt qua cả mười kiếp, trăm kiếp tu. Như vậy mới thấy tu không ai giống ai, thời gian kết quả tùy theo sở nguyện, ý chí, tâm hi sinh cho đạo... của từng người. Nếu cũng tu mà lừng chừng, hết năm hết tháng không tiến bao nhiêu, chắc còn hơn ba vô số kiếp nữa, phải không? Như vậy việc tu hành không hạn định thời gian, nó có giá trị từ sự cố gắng, quyết tâm liều chết tiến tu. Được vậy thời gian ngắn mà kết quả nhiều; bằng không, mất nhiều thời giờ, kết quả lại ít. Thời gian không đặt ra chung cho tất cả mọi người, tùy theo ý chí và sự nhất tâm của từng cá nhân.

Có nhiều vị hỏi tôi: “Chư Tăng, chư Ni vào Thiền viện tu bao lâu thì ra?” Tôi nói: “Chừng nào có ai sáng đạo, đủ lòng tin đối với Tam Bảo và có khả năng làm lợi ích chúng sanh, tôi sẽ cho ra. Trừ những trường hợp bất thường, có người xin rút lui vì không chịu đựng nổi khuôn phép Thiền viện, hay bệnh hoạn không thể trị hết thì ra lúc nào cũng được. Nếu tôi thấy xứng đáng lãnh trách nhiệm ở đâu, cho ra làm Phật sự là kết quả tốt, còn hai trường hợp kia là kết quả xấu.”

Bởi vậy tôi thường nhắc chư Tăng phải ráng tu. Không phải xuất gia muộn là sẽ tu chậm, cũng không ỷ lại xuất gia sớm tu hay. Hay hoặc dở là do quyết tâm, ý chí của mỗi người. Vì vậy, ai đã quyết tâm tu thì phải lập chí chết sống trên đường tu, nhất định có kết quả tốt. Còn tu mà cứ thả trôi theo duyên sẽ không tới đâu. Ở đây Thiền viện lập ra là để giúp cho những người quyết chí tu, chớ không nuôi những người lừng chừng. Bởi vậy tôi bắt buộc chư Tăng phải tu đúng thời khóa và phải kham khổ, gan dạ. Trong những trường hợp bệnh hoạn cố vượt qua, thắng được thì quí vị tu hành bảo đảm sẽ tiến đến nơi đến chốn. Còn nếu hèn nhát sợ bệnh, sợ thiếu ăn, sụt cân..., nhất là ngồi thiền sợ đau chân thì tu khó tiến, rất dễ thối tâm.

Tôi muốn những người tới đây phải có ý chí chết sống trong việc tu. Tại sao tôi muốn như vậy? Bởi vì ở thế gian nếu người nào khôn ngoan tài giỏi tạo được sự nghiệp lớn, năm mươi, bảy mươi năm rồi chết, sự nghiệp cũng hoại theo. Còn chúng ta tu, từ cái thân hư dối, tạm bợ mình quyết vươn lên sống với pháp thân chân thật bất diệt, chuyện đó không phải giản đơn. Hơn nữa, từ con người phàm tục muốn chuyển thành bậc Thánh không phải việc thường. Đã là việc phi thường thì phải có ý chí phi thường, nếu muốn làm việc phi thường mà ý chí tầm thường phàm tục sẽ không bao giờ làm được.

Những bức phù điêu ở gác chuông là để nhắc cho chúng Tăng biết rằng mình phải học gương chư Tổ ngày xưa, quyết chết cầu đạo, quyết chết tu hành: Nhị tổ Huệ Khả chặt tay cầu đạo, Lục tổ Huệ Năng đeo đá giã gạo. Những hình ảnh đó nhắc chúng ta người tu hành phải có ý chí quyết tử, không thể tầm thường. Cho nên ai đến đây tu cũng phải tôi luyện ý chí mỗi ngày càng cứng cỏi, càng mạnh mẽ hơn. Đừng nghĩ rằng ở đây mọi việc tôi lo hết, tu thật là nhàn, khỏe quá. Phải hiểu rằng, tôi muốn tất cả chư Tăng chỉ dồn hết tâm lực tu. Vì dồn hết trong việc tu, nên ngày đêm lúc nào cũng nhớ ráng tu để giải thoát sanh tử, ngoài ra không có chuyện gì khác.

Đó là sự mong mỏi của tôi. Mong rằng tất cả chúng Tăng mỗi người phải nhớ, lập tâm kiên cố và trường viễn, đừng nghĩ chỉ năm bảy tháng hoặc một hai năm. Cứ quyết chí tu, tu mãi thì có ngày đạt kết quả tốt.

Ngày 13-4 Giáp Tuất (23-5-1994)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay tôi rất hoan hỉ. Chúng ta chưa có ai là Thánh, không thể nào không phạm lỗi lầm, nhưng mỗi khi có lỗi biết ăn năn hối cải, đó là tiến bộ. Nếu có lỗi mà cứ ôm ấp chất chứa trong lòng, không cho người ngoài biết, cũng không dám sám hối, tích trữ lâu ngày tăng trưởng tội lỗi, không thể tiến tu. Nay thấy chúng có tinh thần tự giác, nhận lỗi sám hối và hứa chừa bỏ, đó là điều rất hay. Mong tất cả đều cố gắng.

Tất cả những vị đã được nhận vào đây tu đều tỏ ra có quyết tâm, không phải là những người vào đạo chỉ muốn được an thân, mà nhất định tiến tu đạt kết quả tốt mới thôi. Tinh thần đó rất phù hợp với sở nguyện của tôi. Tôi đã tuyên bố cho tất cả biết rõ, sở nguyện của tôi là làm sao tạo dựng được một cơ sở có thể đem lại sự an ổn cho chúng yên tu, đúng như những gì tôi mong muốn, và được một số chúng nhất quyết tu hành, có thể đạt kết quả trong một ngày không xa lắm. Tôi thường nói, với số tuổi của tôi thì ngày theo Phật không còn bao xa. Vì vậy tôi mong tất cả chúng Tăng đều dồn hết thời giờ của mình vào chuyện tu hành, đừng để lãng phí luống qua.

Trong giờ tọa thiền, tuy toàn chúng ai cũng cố gắng, nhưng những người cũ thì được an ổn, không khó khăn mấy, còn những người mới thấy có nhiều trở ngại hoặc mệt mỏi. Nhưng nếu dễ dãi cho người mới đi từ từ, rốt cuộc họ lại chậm tiến. Cho nên tôi cứ để mặc cho quí vị cố gắng tối đa.

Tuy là mình đi sau nhưng lần hồi cũng theo kịp quí vị đi trước, không đến nỗi ở tuốt đằng sau. Mới nhìn qua thấy tôi hơi thiếu lòng từ bi, để cho quí vị đau chân than thở mà không thương. Nhưng như tôi đã từng nói, người tu phải quyết chí, dứt khoát trên đường đạo, khó khổ không thành vấn đề đối với mình. Việc trọng yếu là làm sao tu cho sáng đạo, không thể chần chờ.

Như vậy quí vị cần thấy rõ không phải chỉ giờ ngồi thiền, giờ sám hối mới tu, mà phải tu trong tất cả giờ. Vậy mà tôi thấy hình như hễ làm việc chung đôi ba người thì chuyện trò liên tục. Nói chuyện lung tung như vậy, lúc đó có tu được không? Chắc là không nhiều. Vì vậy yêu cầu quí vị ráng giữ sao cho thời ngồi thiền, sám hối là giờ tu chánh, còn lúc lao động cũng là giờ tu. Ví dụ ba huynh đệ ngồi lặt rau, ai cũng luôn luôn tỉnh sáng là tốt; còn ngồi lặt rau kể chuyện năm trên, năm dưới, người thân, kẻ sơ... là điều không hay. Bởi vì càng nói chuyện nhiều tinh thần càng loạn. Cho nên quí vị ráng tỉnh táo trong tất cả mọi thời chớ không chỉ trong lúc ngồi thiền. Đó là điều thiết yếu tôi nhắc, tất cả nên cố gắng.

Thói thường, muốn cho vui thì phải nói chuyện, cười đùa. Còn không coi bộ mặt mày buồn hiu. Bây giờ quí vị phải đổi lại, khi nào làm thinh thì mặt tươi như hoa, còn lúc nói chuyện phải thấy là đáng buồn, bởi vì mình đang phóng tâm. Đừng nghĩ nói chuyện mới vui, ngồi không là buồn. Chúng ta ngồi thiền yên lặng để tâm tỉnh sáng, được nhẹ nhàng thanh tịnh là tốt, là vui; còn nói chuyện hao thần tổn khí, tâm dễ xao xuyến là điều thiệt thòi.

Cho nên quí vị ráng cẩn thận trong cuộc sống, lúc nào cũng là lúc tu. Tôi thường nhắc tới nhắc lui, tôi không còn thời gian nhiều, nên tôi không muốn quí vị mất thời giờ vì những việc không đâu, để tôi chờ đợi hoài. Quí vị phải tu cho có kết quả tốt. Nếu trên đường tu có những sự cố đột xuất hoặc bị trở ngại phải cho tôi biết để nhắc nhở ngay. Lỡ mai kia tôi theo Phật rồi, quí vị tu có gì trở ngại, những người còn lại đây chưa chắc có đủ kinh nghiệm để hướng dẫn bằng tôi.

Vậy nên mong rằng quí vị ở đây một năm xứng đáng một năm. Nghĩa là sau một năm thấy có tiến bộ khác hơn những ngày trước rất nhiều, chớ không thể một, hai năm vẫn y nguyên như cũ. Điều đó tôi không chấp nhận. Tất cả hãy cố gắng, cố gắng tối đa! Cố gắng không phải là kềm giữ mà phải tỉnh táo sáng suốt. Bởi vì tu không phải dùng sức đè ép cho có kết quả, mà do từ tâm an định phát sanh trí tuệ mới có kết quả. Cho nên quí vị ráng tỉnh sáng, đừng để những thứ tạp nhạp lôi kéo.

Đời sống ở đây không quá khổ hạnh, cũng không quá phóng túng, mà ở mức trung đạo, chúng Tăng không phải chịu khó khổ nhiều. Quí vị phải tỉnh sáng để sự tu hành của mình không mất thời giờ, được lợi ích lớn, vì chúng ta không khổ hạnh mà thiếu tỉnh sáng thì dễ buông lung. Vậy mong tất cả cố gắng tối đa, đừng nên thả lỏng, mất thời giờ vô ích!

Tất cả thư từ của chúng ở đây gởi đi hoặc ở đâu gởi lại, Quản chúng phải xem qua, kiểm tra rồi mới đưa, không để những thư nhảm nhí gởi tới hoặc những thư trong chúng gởi đi mà thiếu tư cách, làm mang tiếng chung không tốt. Việc này Quản chúng phải chịu trách nhiệm. Bởi vì tôi thấy có nhiều thư gởi tới rất là nhảm nhí, không có giá trị gì, làm phiền chúng.

Có một ít vị thấy rằng khi ngồi thiền, dường như vọng tưởng nhiều hơn đi ra ngoài dạo vườn dạo cảnh. Như vậy đi dạo thảnh thơi mà cũng hết vọng tưởng thì ngồi chi cho khổ. Đó là điều quí vị nhiều khi lầm, nay tôi chỉ cho thấy rõ. Khi chúng ta đi dạo vườn, dạo cảnh, mắt nhìn cái này cái nọ, tai nghe tiếng này tiếng kia, vì ý duyên theo trần cảnh nên mình tưởng như lúc đó không có vọng tưởng. Thật ra, nó đang chạy chớ không phải đứng yên. Chúng ta lầm tưởng như vậy là yên cứ thong thả tự tại, lần hồi nó dẫn mình lúc nào không hay. Đây cũng là một bệnh.

Bởi vậy quí vị phải hiểu cho rõ. Khi chúng ta ngồi thiền, mắt không nhìn ra ngoài, tai nếu có nghe thì nghe tiếng chim, hoặc những tiếng động thường, chớ không có tiếng người hay tiếng gì lôi kéo. Vì vậy chỉ có nhìn thẳng vào mình, bao nhiêu vọng tưởng dấy lên đều thấy rõ, nên nói nhiều. Thật ra nhờ không duyên theo cảnh bên ngoài, chúng ta kiểm soát tâm ý thật kỹ, thấy nó rõ ràng. Còn khi đi dạo chơi vì duyên theo cảnh nên không thấy rõ vọng tưởng, rồi lầm cho là không vọng.

Như vậy, giờ phút ngồi thiền rất quan trọng, vì lúc đó mình mới thấy rõ bộ mặt tâm là yên hay động. Khi ngồi thiền tâm thanh tịnh, đó mới thật là thanh tịnh, còn đi ra ngoài tưởng như thanh tịnh nhưng thật không phải. Tôi nhắc để quí vị đừng hiểu lầm. Cứ nói: “Con đi ra ngoài thấy nhẹ nhàng quá, ngồi lại sao nhiều vọng tưởng lăng xăng.” Đó là hiểu lầm.

Theo kinh nghiệm bản thân tôi, những lúc sáng được lý này lý nọ, đa số là trong những giờ ngồi thiền yên ổn, không phải lúc ở ngoài. Vì khi ngồi thiền dồn hết tâm lực chuyên nhất một chỗ, tâm an ổn thanh tịnh nên dễ sáng, đi ra ngoài có cảnh duyên nên khó sáng. Trừ một hai trường hợp đặc biệt nào đó, còn đa số lúc ngồi thiền có kết quả cụ thể hơn hết. Vì vậy, quí vị ráng chịu đau một lúc, qua cơn đau sẽ thấy khỏe, rồi lần lần tâm an, có những niềm vui.

Như trước kia tôi có viết bài “Nụ cười bất diệt”. Chúng ta nhìn lên gương mặt của đức Phật, thấy Ngài luôn mỉm cười. Cũng vậy, người tu thiền sẽ được nguồn vui không bao giờ mất, còn những thứ vui chơi trên thế gian không có thật, qua rồi là khổ. Người tu khi được niềm vui chân thật rồi, không còn thấy cái vui nào trên thế gian có thể bì được. Đó là cái vui tuyệt đối, cái vui vô cùng, không thể diễn tả hết, chỉ ráng tu một ngày nào đó sẽ cảm nhận được. Không phải ngồi thiền cứ chịu đau chân, mỏi mê hoài, vẫn có những lúc nhẹ nhàng an vui.

Các kinh A-hàm có phân rõ: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Sơ thiền dịch nghĩa “ly sanh hỉ lạc”, tức là lìa dục được hỉ lạc. Khi chúng ta ngồi tu, đối với ngũ dục, lúc ở ngoài mình mê đắm, giờ tự nhiên thấy chán không ưa nữa, lòng được nhẹ nhàng an vui. Đó gọi là ly sanh hỉ lạc. Được Sơ thiền rồi đến Nhị thiền, là “định sanh hỉ lạc”, do tâm mình định tự nhiên được an vui tự tại trong lúc ngồi tu. Rồi tới Tam thiền là “ly hỉ diệu lạc”, tức là lìa cái vui mừng có tánh cách thô động, được niềm vui tế nhị nhẹ nhàng. Đến Tứ thiền là “xả niệm thanh tịnh”, nghĩa là buông bỏ tất cả vọng niệm, tâm an nhiên thanh tịnh.

Như vậy, quí vị thấy tiến vào các tầng thiền đều được vui, không hề khổ. Nhưng bước đầu do chưa an được thân, chưa tiến vào định nên chưa được niềm vui. Khi tu lâu thuần thục, quí vị tiến sâu trong thiền định mới thấy nguồn an vui của đạo. Nguồn an vui đó thế gian không thể nào bì được. Chính vì vậy người ta mới chịu cực khổ, bỏ cả cuộc đời để tiến tu, nếu tu mà khổ hoài thì tu làm gì? Sợ khổ thế gian, vô đạo cũng khổ nữa thì đâu có gì quí.

Quí vị ráng tu để tất cả đều hưởng được niềm vui đạo vị. Đó là điều thiết yếu. Nên tôi hơi khó khăn đối với những vị có trách nhiệm như Tri sự, Tri khố hay trưởng ban hoa kiểng, trưởng ban trà nước... Mấy vị có trách nhiệm đó, thiệt thòi rất nhiều trong sự tu hành vì đa đoan công việc. Nhưng tôi muốn tất cả các vị làm việc mà đừng mất giờ tu, đừng bị thiệt thòi. Tri sự lúc này bận không theo giờ giấc được. Một thời gian ngắn nữa công việc ổn định rồi, phải khép vô thời khóa, tới giờ tu cũng tu, đâu vào đấy để không bị thiệt thòi. Bây giờ hoàn cảnh còn đang bề bộn đành phải bỏ thời khóa chớ sau này phải cố gắng. Tri khố tuy công chuyện chợ búa bận rộn nhiều, nhưng cũng phải khéo sắp xếp. Trưởng ban chè nước cũng vậy, việc nhiều nhưng ráng đừng để mất thời giờ tu của mình. Được vậy, nhịp tiến của quí vị so với huynh đệ mới không thua sút.

Nếu bỏ trôi một thời gian, huynh đệ tu tiến được còn mình giậm chân tại chỗ sẽ cảm thấy buồn, rồi đâm ra chán. Như vậy việc hi sinh của mình đưa đến sự thối chuyển trên đường tu không tốt. Cho nên tôi nhắc quí vị cố gắng một chút, lúc nào quá bề bộn đành phải chịu, khi bớt công chuyện thì sắp đặt gọn gàng để có giờ tu hành theo chúng, không bị thiệt thòi. Như vậy mới vẹn toàn.

Quí vị là những người lớn, khi đi ra ngoài ai cũng biết đây là quí thầy ở Thiền viện Trúc Lâm. Ban lãnh đạo mà sự tu hành chưa ra gì sẽ kẹt nhiều. Nên quí vị phải cố gắng trong mọi hoàn cảnh, giờ nào làm thì làm, giờ nào tu cũng phải tu. Tôi chủ trương tất cả người đến đây ai cũng phải tu được, không phải đến làm công quả, rồi năm mười năm ra chỉ có phước thôi. Tôi không muốn như vậy. Tôi muốn ai cũng phải tu có kết quả, nên thời giờ tu mỗi người phải khéo thu xếp đừng để bị thiệt thòi. Như vậy tu mới tiến, tiến được mới vui mà làm trách nhiệm của mình, không sợ không chán. Nếu tu không tiến, làm việc một thời gian đâm ra chán rồi thối tâm. Đó là điều tôi nhắc nhở những người có trách nhiệm, ráng gìn giữ đừng để bị thiệt thòi.

Ngày 14-5 Giáp Tuất (22-6-1994)

Trong nhà thiền có câu chuyện: Có hai con quỉ đi chơi lang thang tới chỗ một vị Sư đang ngồi thiền, xếp chân kiết-già. Con quỉ lớn nói với con quỉ nhỏ: “Kìa, chùa bằng vàng.” Hai đứa đứng chờ xem ông Sư ngồi ra sao. Ngồi hồi lâu, chân Sư đau quá, xả kiết-già, ngồi lại bán già. Con quỉ lớn nói: “À! Giờ biến thành chùa bạc.” Hai đứa tiếp tục ngồi nhìn. Một hồi, Sư mỏi quá, buông chân ra ngồi xếp bằng. Hai con quỉ cười khúc khích: “Bây giờ là chùa đất sét!”

Qua câu chuyện đó trong chúng hiểu sao? Mình đang là chùa gì? Chùa vàng, chùa bạc hay là chùa đất sét? Mới thấy trong nhà thiền rất quí giờ ngồi thiền, mà ngồi kiết-già là tốt nhất, ngồi bán già tàm tạm, còn xả ra xếp bằng là không ra gì. Vì vậy trong chúng mỗi người ráng tinh tấn, dầu đau nhức khó chịu cũng không xả, tập lâu thành quen vượt qua được, không phải đau mãi đâu mà sợ. Nếu mình có chí thì mọi thứ đều phải tập được, không thể không được. Cho nên mong toàn thể đại chúng cố gắng ngồi đàng hoàng, đừng lôi thôi.

Ngày 29-5 Giáp Tuất (7-7-1994)

Tôi nhắc thêm vài điểm để quí vị lưu ý.

Điểm thứ nhất: Ở đây chúng ta có Thiền đường công cộng, tới giờ tọa thiền, toàn chúng phải hội đủ ở Thiền đường để ngồi thiền, chỉ trừ những người công tác đặc biệt, như vậy sức cố gắng của mình sẽ được tăng trưởng. Bởi vì nếu ngồi riêng ở phòng, trong người hơi nhọc một chút thì muốn nằm dài ra ngủ, không chịu cố gắng. Còn ngồi chung trong chúng, dầu nhọc cũng ráng, nhờ ráng mà vượt qua, sự tu càng tiến thêm. Đừng vì chút mệt nhọc mà ngồi tại phòng rồi ngủ luôn không tốt. Nên tôi muốn tất cả chúng phải ngồi tại Thiền đường công cộng, người này nương người kia, nhờ vậy sức tu được tăng tiến.

Điểm thứ hai: Khi ăn uống nên nhẹ nhàng, đừng khua động nhiều không tốt. Chúng ta là người tu, đừng nên thô tháo để chén bát khua vang, khách lạ nghe người ta cười.

Điểm thứ ba: Đến ngày dự học ở Tham vấn đường, toàn chúng phải đi đúng giờ, tức là tám giờ thiếu mười lăm, Quản chúng hướng dẫn toàn chúng lên, không nên đi sớm. Chúng ta thường ngày ở trong khu nội viện cấm người ngoài tới, nay đến ngày học ra ngoài đi đứng tự do, muốn làm gì tùy ý thì không hay. Cho nên kém mười lăm phút tới giờ giảng thì toàn bộ chúng Tăng lên một lượt, vô ngồi nghiêm chỉnh để tránh tới lui qua lại làm động niệm không tốt.

Chúng ta tu ở đây, muốn không bị các duyên bên ngoài ràng buộc thì phải ráng gìn giữ nghiêm chỉnh từ việc làm đến cách đi đứng, nói năng. Tất cả chư Tăng từ lớn đến nhỏ phải ráng tập sao cho ngôn ngữ của mình nhẹ nhàng, êm ái, đạo đức. Đừng dùng những lời thô bạo, gây ấn tượng không tốt đối với người khác.

Ngày xưa các Thiền viện ở Trung Hoa, chư Tôn đức đạt đạo cũng nói những câu mạnh, nhưng vị thầy và mọi người chung quanh đều hiểu nên nói mạnh mà không có hại. Ngày nay Thiền viện chúng ta đang trong bước đầu khôi phục Thiền tông, ai cũng nhìn vào tìm hiểu nên chư Tăng phải có oai nghi đức hạnh. Người nói năng nhẹ nhàng có oai nghi đức hạnh, nếu ngộ đạo thì càng thêm uy tín. Còn mình nói toàn thiền ngữ mạnh bạo, khi người ta kiểm tra thấy chưa ngộ đạo sẽ cho là mình khoác lác, nói lời bắt chước chớ chưa thật đến. Vậy nên trong chúng ráng dè dặt. Bởi vì tôi được nghe một số lời phê bình mấy sư ở Thiền viện T.C ăn to nói lớn quá làm người nghe bực bội. Nên tôi nhắc cho tất cả từ lớn đến nhỏ phải dè dặt ngôn ngữ của mình.

Hiện nay ở Việt Nam, hơn chục ngàn ngôi chùa đều tu Tịnh độ, chỉ có một hai Thiền viện chúng ta tu thiền, đối với quần chúng rất là mới mẻ. Đã là mới mẻ thì phải giữ oai nghi cho tốt, để người ta thấy dù mình tu thiền vẫn đầy đủ oai nghi tế hạnh. Đừng nên có những thái độ lạ lùng, kỳ cục làm người hoang mang, không hoan hỉ với chuyện hướng dẫn giáo hóa của mình. Do đó mong tất cả hãy lưu ý, cố gắng đừng để những cái dở xảy ra làm người ta phiền. Đó là những điều tôi được nghe biết, nhắc cho trong chúng dè dặt. Điều gì xấu dở chưa có đừng để xảy ra, còn cái gì lỡ có thì phải sửa, đừng cho tái phạm.

Tôi nhắc thêm một điều nữa. Quí vị đã học kinh Di Giáo, có nhớ câu: “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”? Nghĩa là giữ tâm một chỗ không việc gì chẳng xong. Chúng ta tu vì quyết tâm cầu quả vị Vô thượng Bồ-đề, đức Phật dạy phải giữ tâm một chỗ. Nghĩa là tâm ở một chỗ mới có thể đạt được mục đích tối thượng, còn nếu buông tâm phóng túng thì không bao giờ thành tựu. Kinh Di Giáo là một trong những kinh rất gần với Tăng Ni trong bước đầu học Phật. Còn chúng ta học thiền thì như tôi từng nói “phản quan tự kỷ bổn phận sự”, nghĩa là việc bổn phận của chúng ta là xoay nhìn lại mình.

Như vậy, giữ tâm một chỗ và phản quan tự kỷ, ngôn ngữ tuy có khác nhưng trọng tâm đều là xoay nhìn lại mình, đừng để tâm chạy rong theo sáu trần, đó là cái gốc của sự tu. Nếu chúng ta tu mà không nhìn lại mình, không giữ tâm một chỗ thì không bao giờ đạt được kết quả. Mục đích cao cả cuối cùng của đạo Phật là giác ngộ. Mà giác ngộ điều gì? Giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nếu không phản chiếu lại mình, cứ rong ruổi theo sáu trần thì làm sao thấy được mặt thật xưa nay, nên phản chiếu lại mình là điều thiết yếu.

Cho nên từ giờ ngồi thiền, sám hối đến giờ lao động, tất cả phải nhớ xoay nhìn lại mình, tìm cho ra chính mình là cái gì. Chừng nào nhận được rồi thì phải hằng sống để nuôi dưỡng cho được viên mãn. Đó là mục đích tối thượng của người tu. Tất cả nên nhớ để ứng dụng.

Ngày 15-6 Giáp Tuất (21-7-1994)

Qua buổi thỉnh nguyện, thấy trong chúng đa số đều được trong sạch không phạm lỗi, chỉ một vài vị có lỗi nhỏ cũng đã tự giác ra chúng phát lồ sám hối. Đó là tinh thần tiến bộ, biết lỗi sám hối. Hi vọng toàn chúng ngày càng thanh tịnh để cùng tinh tấn tu hành.

Chúng ta tu trước hết phải có đạo đức. Đạo đức tức là phần giới luật. Ở đây chúng ta tuy chỉ đơn giản sử dụng lục hòa làm gốc rồi đến mười giới, nhưng sự thật chỉ phần lục hòa quí vị đã thấy khó giữ rồi. Thân hòa đồng trụ hơi dễ. Khẩu hòa vô tránh tức là miệng không được cãi vã, không được nói những lời nặng nhẹ, hung dữ... với ai. Những điều này khó giữ, nhưng tới ý hòa đồng duyệt thì càng khó hơn. Sống trong chúng năm ba chục người mỗi người mỗi ý, chúng ta làm sao hòa thuận, an ổn cùng tu không có gì phiền não, chướng ngại, điều đó rất khó. Nhưng chính đây là nền tảng đạo đức giúp mình tu mau tiến.

Giả dụ như trước khi tọa thiền mình cãi với ai, đến khi vào ngồi tâm không an được. Vì vậy, cần phải dè dặt, cẩn thận giữ cho được lục hòa, sau đó chúng ta mới có thể tiến tu không bị trở ngại. Quí vị thấy, ở trong chúng nếu ai thiếu ý hòa đồng duyệt dễ sanh ra buồn phiền rồi thối tâm.

Cho nên chúng ta tu phải biết điều hòa giữa mình và mọi người. Ai cũng là người quyết chí cầu giải thoát sanh tử, không có cái gì quá tệ, chẳng qua chỉ là những sơ sót, lỗi lầm nhỏ, cần biết tha thứ, dung hòa vui vẻ để tu. Phải ráng giữ lục hòa sau mới đến mười giới. Vì lục hòa là điểm then chốt giúp cho tất cả chúng ta không bị những rối rắm, phiền não làm trở ngại sanh ra thối tâm Bồ-đề, nên lục hòa là nền tảng căn bản nhất của sự tu chúng ta. Vậy tất cả quí vị ở trong tập thể cùng tu học ráng giữ cho được lục hòa.

Nếu chúng ta nhập thất riêng một mình, đối với lục hòa khỏi phải lo, nhưng chúng ta đang sống tu trong một tập thể thì lục hòa rất là thiết yếu. Ở trong thất, vì không gần gũi va chạm huynh đệ, chúng ta thấy yên ổn, đến khi ra thất, tiếp xúc với mọi người lại sanh ra loạn tâm, loạn tưởng, như vậy không được hay. Còn ở đây, chúng ta ngay trong lúc sống chung, gần gũi huynh đệ, có những lời qua tiếng lại mà vẫn hòa được, đó mới là đạo đức chân thật ngay giữa cuộc sống này.

Bởi vậy tôi mong tất cả nhớ ứng dụng triệt để lục hòa trong cuộc sống. Nếu không ứng dụng được lục hòa, đó chính là nguyên cớ tự loại mình ra khỏi tập thể. Điều này quí vị xét kỹ sẽ thấy rõ ràng không nghi ngờ.

Kế đây tôi nhắc cho tất cả quí vị nhớ, Phật dạy có hai cái vui. Khi chúng ta vào đạo mà chưa tu thiền sâu, mình sẽ có pháp lạc hay pháp hỉ. Nghe một câu Phật Tổ dạy, chúng ta thấm thía sâu xa, chuyển hóa cả đời mê tối của mình, dù một câu cũng quí như vàng như ngọc, thế gian không bao giờ có được, nên chúng ta vui mừng thích thú. Đến lúc tu thiền sâu rồi sẽ được Thiền duyệt. Pháp hỉ và Thiền duyệt là hai cái vui thiết yếu của người tu. Người xuất gia bỏ tất cả niềm vui thế tục để vào đạo, phải có nguồn vui của đạo. Nếu tu mà thấy thiền là khổ, pháp là nhọc thì không bao giờ tiến được, đó là cái cớ thối tâm Bồ-đề.

Ngày trước, sau khi tôi rời Phật học viện Huệ Nghiêm lên núi Vũng Tàu cất thất tu, tôi để tên Pháp Lạc Thất. Pháp Lạc là vui với chánh pháp, nghĩa là khi tôi chưa đi sâu vào Thiền định được, tôi lấy chánh pháp làm nguồn vui. Cho nên hồi ấy, trong thất tôi quan trọng số một là Đại Tạng Kinh. Ngoài giờ công tác, tôi đem Đại Tạng Kinh ra, quyển nào hay tôi dịch. Nhờ chánh pháp, tôi được an vui tự tại trong khi ở một mình. Do vui với pháp mà tâm được phấn khởi, an lạc, còn nếu buồn không thể nào ở một mình được.

Trong giai đoạn đầu chúng ta lấy pháp lạc hay pháp hỉ làm nguồn vui để tinh tấn tu, qua giai đoạn thứ hai chúng ta vui với Thiền định nên gọi là Thiền duyệt. Làm sao tới giờ ngồi thiền mình cảm thấy phấn khởi, ngồi thiền là một nguồn vui, chớ không như bây giờ ngồi thiền chịu đau chân nhăn mặt nhíu mày, cảm thấy như bị hành hạ đau khổ.

Quí vị nên nhớ, không có niềm vui nào tự nhiên mà có được, phải qua cái khổ rồi mới được vui. Cũng như một người gánh rất nặng đi trên đường dốc, đi lâu thấm nặng càng thấy nhọc nhằn khổ sở không chịu nổi. Nếu người đó được buông gánh nặng xuống, lúc đó thật là vui. Do buông được gánh nặng mà vui chớ không phải ngẫu nhiên vui.

Quí vị ngồi thiền cũng vậy, trong lúc này ráng cho đúng giờ mới xả, bởi ráng nên có cảm giác đau chân, nhức mình, khó chịu. Hễ gắng qua được cơn đau rồi thì yên ổn, tự nhiên vui. Nhưng qua nỗi khổ đau chân, chỉ là cái vui nhỏ. Khi nào ngồi thiền được an ổn, thấy rõ cuộc sống toàn là điên đảo hư dối, không có gì thật, thấy chúng sanh đang lăn lộn trong điên đảo nên rất thương, và nhận ra cái chân thật hiện tiền, đó mới là vui cứu kính. Vui trong chỗ chân thật, không đợi có cảnh đến mới vui. Tự tâm thanh tịnh là nguồn an lạc.

Nguồn vui đó không thể tìm ở đâu khác, chính do chúng ta biết phản quan tự kỷ, một ngày nào đó sẽ được vui. Lúc đó thiền định coi như thức ăn, nên nói “thiền duyệt vi thực”, tức là lấy cái vui trong thiền định làm thức ăn. Ngày nào không được ngồi thiền ngày đó coi như đói, còn tới giờ đi ngồi thiền giống như lúc nghe đánh bảng ăn cơm. Đói bụng mà nghe đánh bảng cốc cốc thì vui vẻ mặc áo đi ăn, cũng như nghe kiểng ngồi thiền liền hăng hái mặc áo lên chánh điện. Quí vị ráng tập, nhờ cố gắng phấn chấn, từ nỗi khổ biến thành niềm vui. Khi được vui trong thiền định rồi, mới thấy đi tu là điều cao cả hơn hết, còn chưa được niềm vui đó thì tu dường như hình phạt.

Vậy mong tất cả Tăng chúng phải khéo tu để vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn ban đầu, vươn tới sự an lạc trong giai đoạn sau. Với tâm an lạc, chúng ta sống vui vẻ, an lành trong đạo lý, gặp ai cũng có thể chia sẻ cho họ chút ít niềm vui. Còn tu mà khổ sở phiền não quá, làm sao ban vui cho người được, chỉ có ban phiền não cho họ thôi, phải không?

Nên quí vị thấy, ai ôm ấp phiền não nhiều, khi gặp người khác chỉ lo trút phiền não, còn người nào tâm thanh tịnh an vui, gặp ai cũng có thể đem lại nguồn vui, rõ ràng như vậy. Cho nên khi tâm mình còn phiền não, đừng nói chuyện nhiều với người khác, vì nói ra mình sẽ nhả cái phiền não cho người, làm cho họ mệt thêm. Chỉ khi nào tâm an vui tự tại, mình nói chuyện, tiếp xúc mới đem lại nguồn an lạc cho mọi người.

Chúng ta tu cốt để ban vui cứu khổ cho người, đó là nghĩa từ bi. Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Muốn ban vui, ít ra mình phải có niềm vui trước, mới ban cho người ta được, ai lại ban cái giọng phiền não, bực bội! Lúc đó nếu gặp khách, mình nói chuyện chắc là không vui, nhiều khi nói một hồi rồi phát sân, những chuyện cũ được khơi lại, phát ra những lời nặng nhẹ... gây phiền cho người.

Vậy nên mong tất cả ráng tinh tấn tu, gần nhất là hưởng được pháp lạc, sau nữa là Thiền duyệt. Làm sao thấy cuộc đời tu hành là nguồn an vui vô tận. Từ nguồn an vui đó mình sẽ ban rải cho mọi người, làm cho tất cả cùng được vui lây, gọi là ban rải lòng từ. Muốn đem lòng từ bi chan rải, trước mình phải có nguồn vui.

Tất cả quí vị ráng tu rồi sẽ tiến tới chỗ an vui thật sự, từ đó về sau mình mới xứng đáng là người làm việc đạo đức, lợi sanh. Còn nếu không có niềm vui bên trong thì việc làm, lời nói của mình thảy là suông rỗng, không có thực chất. Tất cả phải cố gắng, đừng lơ là việc tu, mỗi ngày mỗi tinh tấn vượt qua các khó khăn rồi sẽ đến chỗ an lạc. Đó là sự mong mỏi của tôi.

Ngày 27-10 Giáp Tuất (29-11-1994)

Mấy tháng qua, Thiền viện mình mới thành lập, chúng vừa tụ tập tôi có việc đi vắng, biết trong chúng không tránh khỏi sẽ có người thối Bồ-đề tâm. Trước khi đi tôi đã biết như vậy, nhưng tôi thấy cũng không có gì quan trọng. Bởi vì ở đây tôi muốn cho mọi người ý thức đường lối tu hành của chúng ta là con đường giác ngộ hiện thực, hành giả phải quyết tâm chết sống trên đường tu chớ không phải chuyện tùy hứng. Vì vậy tôi không đặt vấn đề đến hay đi, mà chỉ quan trọng nơi người quyết tâm tu.

Trong thời gian ở nước ngoài, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với Phật tử cũng như một số Tăng Ni, thấy ai ai cũng có tâm hoan hỉ hướng về Thiền viện Trúc Lâm. Bởi vì tôi đã từng nói với họ Thiền viện Trúc Lâm là lý tưởng tối hậu của đời tôi, nên mọi người đều hoan hỉ ủng hộ. Cho nên chư Tăng ở đây có trách nhiệm hết sức nặng nề chớ không phải thường.

Thứ nhất, theo chủ trương của tôi, làm sống dậy Thiền tông Việt Nam đời Trần là một trách nhiệm rất lớn. Tại sao lớn? Từ trước đến giờ tôi đã từng nói với mọi người, Phật giáo là đạo hướng về mình, tìm cho ra con người đích thực của mình, vậy nên đức Phật tọa thiền giác ngộ, chư Tổ tu thiền ngộ. Ngộ cái gì? Trong nhà thiền gọi là bản lai diện mục, tức là bộ mặt thật của mình. Tìm ra được cái thật này là gốc của đạo Phật. Vậy nên tu thiền là nguồn gốc đạo Phật, không chối cãi được.

Nhìn lại hai thời khóa tụng, quí vị thấy quay lại mình hay hướng ra ngoài? Tu Tịnh độ thì hướng về Tây phương mong được sanh về bên kia; còn tu trì chú thì hướng ra cầu chư Bồ-tát, chư Long thiên Hộ pháp gia hộ cho mình tiêu nghiệp, đều là hướng ra ngoài. Cho nên khi khôi phục Thiền tông Việt Nam, tôi đã dùng phương pháp chư Phật, chư Tổ dạy quay về để tìm cho ra con người đích thực của mình. Tìm ra được gọi là giác ngộ.

Đạo Phật lấy giác ngộ làm gốc, người tu thiền cũng phải lấy giác ngộ làm gốc. Đó là một con đường xuyên suốt từ đức Phật cho đến chư Tổ sau này. Thế nhưng bây giờ ở Việt Nam chúng ta đã mất cái gốc đó, nên tôi chủ trương phải làm sống dậy nguồn gốc đạo Phật Việt Nam. Hiện nay, hầu hết chư Tăng Ni các chùa Tịnh độ đang tu theo Nhị thời khóa tụng, tôi chủ trương làm sống dậy Thiền tông, là một điều hết sức khó, không đơn giản. Đó là cái khó thứ nhất ở đất nước mình.

Thứ hai là ở nước ngoài. Khi đi ra mới thấy chẳng những Phật tử Việt Nam mà những người nước ngoài cũng đang có xu hướng muốn tìm hiểu đạo Phật, xoay về nghiên cứu Thiền tông. Do đó một số Tăng Ni đệ tử tôi ở nước ngoài, vì không rành phương pháp để hướng dẫn theo nhu cầu của Phật tử Việt Nam và người nước ngoài, nên muốn về Việt Nam, vào Thiền viện Trúc Lâm tu một thời gian để có đủ uy tín, biết rõ đường lối tu thiền đặng sang bên kia hướng dẫn Phật tử.

Như vậy, đường lối tu thiền rất thích ứng với Phật tử Việt Nam ở nước ngoài và những người muốn nghiên cứu đạo Phật. Do đó trách nhiệm chúng ta rất nặng nề, vừa lo tu cho mình, vừa làm sống dậy Thiền tông Việt Nam, vừa phải hướng dẫn những Phật tử nước ngoài, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu đạo Phật của họ. Cụ thể là những người Mỹ tới Trúc Lâm tập tu mấy hôm nay.

Tôi ra nước ngoài chuyến này, số Phật tử qui y khoảng chừng một ngàn rưỡi người, cộng thêm số Phật tử cũ của mình qua bên ấy cũng nhiều. Bên Canada, bây giờ Phật tử bắt đầu thành lập nhiều nhóm thiền, mỗi tuần cũng họp lại tọa thiền, sám hối, thảo luận giáo lý dựa theo những kinh sách mình đã phát hành. Có nơi, Phật tử mời tôi đến nói chuyện ở Niệm Phật đường của họ. Trước khi tôi nói chuyện họ xin phép tụng Sám hối. Đó là bài Sám Hối Sáu Căn. Người ta âm thầm hưởng ứng hồi nào mình không hay. Bên Mỹ cũng có nhiều nhóm qui y, tập tu. Họ xin tôi lâu lâu qua để nhắc nhở, chỉ dạy, sửa những chỗ sai lầm. Tôi không dám hứa. Họ lại yêu cầu cho quí thầy hoặc quí cô qua hướng dẫn. Buộc lòng tôi phải hứa khi nào hoàn cảnh thuận tiện sẽ cho một số Tăng Ni thay phiên qua chỉ dạy.

Như vậy, chẳng những chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn Phật tử trong nước, còn phải chăm lo cho Phật tử nước ngoài đã qui hướng về mình, lâu lâu qua để nhắc nhở họ.

Qua những trách nhiệm nặng nề tôi vừa kể, mấy chú thấy sao? Trúc Lâm là nơi nhiều người tin tưởng hướng về, cho nên tôi yêu cầu chư Tăng phải ráng thực hiện cho được hai điều. Thứ nhất, phải thực hiện nếp sống lục hòa. Tôi thường nói với mọi người, Tăng mà thiếu lục hòa thì không còn ý nghĩa Tăng. Vì vậy nên Thiền viện Trúc Lâm lấy lục hòa làm nền tảng đạo đức. Thứ hai là phải tu làm sao đối với đạo mình đủ lòng tin, thấy rõ ràng không còn ngờ vực.

Nếu chúng ta không thực hiện được lục hòa thì tinh thần Thiền viện bị lung lay. Bởi vì như tôi đã nêu rõ trong bản Thanh qui: Lục hòa là chất keo gắn chặt lâu bền các Thiền sinh chung sống tu hành, cũng là nền tảng vững chắc của toàn thể Tăng. Vậy nên tất cả chư Tăng nội viện, ngoại viện ráng giữ lục hòa làm gốc. Muốn giữ lục hòa, yêu cầu đừng ai có đồng nào trong túi. Vì có tiền thì hay nghĩ đến chuyện mua sắm riêng, sẽ hết lục hòa. Điều thiết yếu là mỗi người không nên có một tài sản riêng, ngoài những thứ do viện cung cấp cho để sử dụng hằng ngày.

Tôi bảo đảm ngày nào tôi còn sống, quí vị khỏi lo đói, lo rách. Hai điều đó được đảm bảo rồi, quí vị cứ an tâm tu không có gì phải bận lòng. Vì vậy, quí vị đừng lo lắng hay cất giữ riêng. Nếu có ai cúng tiền, căn cứ theo Thanh qui cúng chung cho toàn Tăng chúng. Còn nếu đi đâu về dư chút ít cũng giao lại cho Thủ bổn. Tập được như vậy, quí vị ngày càng thấm sâu tinh thần lục hòa.

Tôi được nghe lại, T.N khi có ai cúng tiền cất giữ riêng, nói rằng để dành khi nào muốn mua gì thì mua. Như vậy mất tinh thần hòa hợp của Thiền viện. Nếu một người có tiền xài tự do thì người khác cũng muốn có tiền để xài tự do. Lâu ngày trở thành rối không còn nề nếp gì nữa. Bởi vậy, trong chúng hãy can đảm chấp nhận mình đến đây tu phải trong sạch, những gì trái với Thanh qui nên bỏ, đừng để thành thói quen, làm hư nề nếp chung.

Cho nên yêu cầu tất cả phải giữ lục hòa trọn vẹn, không ai có một đồng xu trong túi trừ Thủ bổn hoặc người đi chợ về. Làm sao chúng ăn gì mình ăn nấy, chúng xài cái gì mình xài cái đó, mọi thứ như nhau thì tinh thần lục hòa mới bền; còn nếu có người hơn kẻ kém dần dần lục hòa sẽ tan vỡ, không được lâu dài. Khi người ta chú trọng mình, mình càng phải cẩn thận, gìn giữ cho chu đáo hơn.

Tôi thường nói tuổi thọ tôi cũng không còn lâu, tôi ráng nhắc nhở Tăng Ni tu, nhất là ở Thiền viện Trúc Lâm, sao cho có nền tảng vững chắc. Về đạo đức, lấy lục hòa và mười giới làm gốc; còn về thiền, quí vị phải thấy và hiểu thấu đáo đường lối tu thiền tôi đã hướng dẫn. Như vậy đến khi tôi nhắm mắt quí vị mới có thể thay thế, tiếp tục những Phật sự tôi đang làm dở dang. Ví dụ như khôi phục Thiền tông Việt Nam là một vấn đề rất lâu dài. Đời tôi làm chưa rồi quí vị phải tiếp tục. Muốn vậy, quí vị phải đủ hai mặt: có đức hạnh và thông hiểu Thiền tông thật sâu. Như vậy trách nhiệm quí vị hết sức nặng nề chớ không phải thường. Tôi mong đợi tất cả những vị hiện đang có mặt.

Giả sử ở đây có những người yếu đuối, sanh tâm chán nản muốn rút lui tôi cũng không ngại. Tôi nghĩ còn chừng mười lăm, hai mươi người mà quyết tâm tu tới nơi tới chốn cũng là đáng mừng. Số lượng không quan trọng, chỉ cần phẩm chất, sau mới có thể đủ tư cách hướng dẫn mọi người.

Trách nhiệm chúng ta rất nặng nề. Người ta càng thương quí mình nhiều chừng nào thì trách nhiệm càng nặng chừng ấy, chớ không đơn giản. Vậy nên kể từ đây về sau toàn chúng cố gắng khép mình hơn chút nữa. Tu cho đều và giữ lục hòa cho đúng đắn, đừng để sai chạy. Chúng ta đã nói thì phải làm, không nên nói một đàng làm một ngả, người ta sẽ cười mình. Như vậy giá trị Thiền viện sẽ trở thành số không. Lý tưởng tối hậu của đời tôi cũng thành không. Cho nên mong tất cả những vị có mặt ở đây đều phải nỗ lực, cố gắng, không nên giải đãi lôi thôi. Nếu ai thấy mệt mỏi muốn rút lui, tôi sẵn sàng cho, không ép một chút nào.

Mỗi người ở đây phải nên tự tạo một sức mạnh, tức là luôn luôn chủ trương đời tu của mình phải đến nơi đến chốn, đừng tu cầm chừng lấy có. Chúng ta đã bỏ tất cả những gì của thế gian vào đạo thì phải đạt được đạo, chớ không thể vào đây rồi để ngày tháng luống qua chờ chết. Đó là điều vô lý.

Cho nên mỗi người phải phát nguyện, làm sao đạt được đạo mới thôi. Mọi khó khăn, cực nhọc, bệnh hoạn, chướng ngại đến đều dẹp sang một bên, vượt qua để tiến tới cứu kính giác ngộ giải thoát.

Nguyện lực mạnh mẽ như vậy mới mong sau này làm được việc lớn. Nếu hơi khó khăn một chút liền thối tâm, bệnh hoạn một chút là chán nản thì không mong làm được đại sự. Chẳng những không làm được gì cho mọi người bên ngoài mà chính bản thân mình tu cũng không tới đâu. Cho nên mong tất cả đều phải cố gắng, đừng có lôi thôi.

Như chuyến đi này tôi thấy rõ ràng, mình có một sức mạnh mà người ngoài không tưởng tượng nổi. Hơn ba tháng sống lang thang, không ở chỗ nào lâu quá một tuần, nay chỗ này mai chỗ kia mà tôi ăn ngủ vẫn bình thường. Có những lúc bị người ta hăm he thế này thế nọ, tôi vẫn thản nhiên không hề mất ăn, mất ngủ. Không lo âu gì hết cho nên đi một trăm ngày về vẫn khỏe mạnh. Như vậy mới thấy mình có một chút đạo lực. Mà sở dĩ có được là do hằng ngày mình củng cố trưởng dưỡng. Còn nếu trong lòng lo sợ hoài chắc đi về chỉ còn da bọc xương. Do đó quí vị mới thấy, chúng ta tu có đạo lực, mọi việc xảy đến không có gì làm cho mình phải xao động, lo rầu sợ sệt. Nhờ vậy tâm trí tỉnh sáng, sức khỏe không bị suy giảm.

Từ hôm ở bên kia về đây, thời tiết giờ giấc sai khác tôi cũng ăn ngủ như thường. Trong khi hoàn cảnh luôn luôn thay đổi mà mình vẫn an ổn, điều đó chứng minh rằng nếu sức tu chúng ta khá vững, sẽ có một sức mạnh tự làm chủ, dù ở hoàn cảnh nào cũng được yên ổn, không bị mất ăn mất ngủ như người thế gian. Đó là những chuyện cụ thể.

Khi qua Mỹ, các bác sĩ Mỹ nói với tôi rằng: “Chương trình làm việc của Thầy, đứng về mặt y học chúng tôi không thể nào chấp nhận được.” Một ngày thứ bảy giảng ba thời, ngày chủ nhật giảng ba thời, ngoài ra còn qui y, sau khi giảng tiếp khách, tối đến ngồi lại cho pháp danh... Như vậy liên tục cả mấy tuần lễ, quí vị nghĩ sức khỏe đâu mà tôi làm nổi! Vậy mà tôi vẫn bình an khỏe mạnh. Rõ ràng khi gặp cảnh mình mới thấy sức tu.

Trước khi tôi qua Texas, cả tuần lễ người ta phê bình chỉ trích tôi trên đài phát thanh. Lúc ấy Phật tử ở đó tổ chức khóa học hai ngày, báo tin cho Phật tử các nơi ai muốn học thì ghi tên trước, tôi là người hướng dẫn tu. Người ta điện thoại tới hăm he ghê gớm lắm mà Ban tổ chức cũng lì, vẫn tổ chức khóa học. Tới ngày tôi sắp qua đó, số người ghi tên quá đông, không còn chỗ nên Ban tổ chức phải từ chối không nhận thêm nữa.

Có những chuyện tức cười mình không ngờ tới. Tôi qua đó giảng dạy hai ngày. Ban tổ chức nhờ hai người cảnh sát Mỹ theo dõi bảo vệ, tôi đi ra họ đi ra, tôi đi vô họ đi vô. Bởi vì người ta dọa sẽ phá hoại nên Ban tổ chức cũng sợ. Trưa ngủ cũng có hai cảnh sát Mỹ bắc ghế ngồi trước thất coi chừng. Rốt cuộc thì mọi sự cũng bình yên, tôi thấy không có gì nhưng Phật tử nghe dọa cũng lo. Mấy chú thấy, đâu phải mình đi ra ngoài mọi việc đều như ý! Còn bao nhiêu thứ đe dọa mà tôi vẫn thản nhiên cho tới ngày về.

Cũng như hôm giảng tại chùa Đức Viên của Sư bà Đàm Lựu, dự định mười giờ sáng làm lễ qui y cho bốn trăm người, chiều hai giờ giảng. Lúc chín giờ sáng, một số người kéo đến biểu tình trước chùa. Người trong chùa báo tin cho cảnh sát đến giữ trật tự. Hai ba người Mỹ đứng gác chung quanh chùa. Tới đúng giờ tôi vẫn qui y như thường. Chiều cũng giảng, trên một ngàn người nghe. Như vậy mới thấy việc làm của mình không phải luôn luôn trôi chảy mà vẫn có những trục trặc xảy ra. Tuy nhiên tôi không nề hà gì, việc họ họ làm, việc mình mình làm, mình cũng không giận họ. Có nhiều người biểu tình mệt rồi vô đứng gần cửa nghe giảng, một hồi sau họ cũng muốn nghe luôn, không la lối gì nữa.

Cho nên làm Phật sự không phải mọi việc đều như ý. Chúng ta phải một lòng chân thành vì đạo. Kế đến phải có một tinh thần vô úy, không sợ khó khăn nguy hiểm, mới có thể sáng suốt đối phó với mọi hoàn cảnh, còn nếu mình không hiểu gì hết cũng khó vượt qua.

Qua những việc làm của tôi, thấy cũng có khá nhiều trắc trở. Quí vị nhớ trước khi tôi đến Pháp, bên ấy người ta cũng lên truyền hình phản đối. Nhưng khi tôi qua đến, mọi việc lại êm xuôi. Sang Canada cũng có người kêu điện thoại phản đối, hăm he Ban tổ chức, rồi cũng êm xuôi. Qua Mỹ chỉ có một hai chỗ dọa biểu tình, nhưng rồi việc ai nấy làm, không có chuyện gì xảy ra.

Nếu nhát gan, nghe họ hăm quá chắc không dám đi. Chẳng những người ngoài dọa mà cả Phật tử mình cũng viết thư về yêu cầu tôi hoãn chuyến đi, vì nghe hăm quá ai cũng sợ. Nhưng tôi đi rồi về bình an, ai nấy đều mừng. Tôi thường nói với Phật tử: “Trâu già chẳng nệ dao phay.” Ai làm gì thì làm, tôi cứ đi, việc tôi tôi làm. Tôi không nghĩ hại ai hết, ai muốn hại tôi thì cứ hại. Như vậy để mấy chú biết rằng trong công tác Phật sự, không phải mọi việc đều luôn như ý mình. Chúng ta làm sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng mình đã quyết tâm vì Phật pháp thì không có gì phải sợ. Đó là điều tôi muốn cho mọi người ý thức rõ.

Tất cả chúng ở đây còn bao nhiêu cũng được, người nào còn ở lại thì phải quyết tâm tu cho đạt kết quả và sống có nề nếp, đạo đức. Hai điều đó được vuông tròn, ngày mai có lẽ Phật pháp ở xứ mình cũng được tốt đẹp và những nơi khác đến nghiên cứu học tập với mình cũng sẽ thu gặt được nhiều điều hay. Như vậy là tự lợi, lợi tha đầy đủ.

Tất cả chúng Tăng phải cố gắng. Hoàn cảnh chúng ta hiện nay không cho phép mình chần chờ, lôi thôi mà phải nỗ lực. Đó là lời nhắc nhở của tôi, mong tất cả chú ý.

Ngày 13-11 Giáp Tuất (15-12-1994)

Mấy hôm này có nhiều tin sét đánh lắm phải không? Tin ba của Thái Hồng chết, quí vị nghe có như sét đánh không? Rồi ba của chú Tuệ Đạt mất. Tôi thấy đó là những tin sét đánh. Ba của Thái Hồng một tuổi với tôi mà ông đã đi rồi. Tôi thường cảnh cáo quí vị phải ráng tu, vì thời gian tôi còn ở lại không biết được bao nhiêu, mấy chú tu lơ mơ tới lúc tôi hết tuổi thọ vẫn không ra gì thì thật là uổng công.

Chúng ta đọc trong lời sám hối:

Người dưng chết chóc
Nước mắt ráo khô,
Thân quyến qua đời
Đầm đìa lệ máu.

Nghĩa là nghe người ngoài chết mình tỉnh bơ, còn nếu đó là ruột thịt thì tràn trề lệ máu. “Sét đánh” khi nào là người thân của mình, còn nếu cha mẹ người khác thì không có sét đánh chút nào. Đó là vì mình không ý thức được lý vô thường, nếu ý thức được thì đã không có những sai lầm. Dầu là cha mẹ ai nhưng khi nghe tin có người chết, đó là một sự cảnh tỉnh lớn lao, mình phải ráng tu. Cái chết đuổi gấp từ người này đến người kia, chúng ta nghe tin liền liền. Không phải đến bảy tám mươi tuổi mới mất mà cũng có thể sáu mươi, năm mươi. Cái chết đến bất cứ lúc nào. Lúc còn trẻ nhiều chú cứ tưởng mình sống dai lắm rồi mơ ước những chuyện xa xôi. Chúng ta phải nhớ cái chết luôn chờ chực bên mình, phải nỗ lực cố gắng tu, đừng để tâm rong ruổi theo phàm tục.

Chúng ta tu là thấy rõ từng tâm niệm của mình, đó là cái gốc. Đa số người không biết như vậy, khi ngồi thiền còn chú tâm tỉnh giác, đến lúc ra ngoài lại thả lỏng, vậy là thiệt thòi. Làm sao khi ngồi thiền thấy rõ từng tâm niệm, tới lúc ra ngoài cũng thấy từng tâm niệm. Mỗi người tự chăn, tự giữ như vậy mới có thể tiến được. Nếu khi ngồi thiền mới tu còn ra ngoài thả trôi thì sự tu sẽ suy giảm. Một ngày đêm hai mươi bốn giờ, chỉ ngồi tu có sáu giờ, là một phần tư thời gian, còn ba phần tư kia mình thả lỏng thì không tốt.

Bởi vậy tất cả phải ráng kềm chế, trong khi đi công tác lao động nặng nhẹ gì cũng phải dòm chừng nó luôn, đừng để rong ruổi. Như vậy tu mới có kết quả. Mỗi người tập làm chủ lấy mình, lần lần sẽ thấy thuần thục, cũng không phải khó. Lúc mới ứng dụng tu, nhiều khi tôi cũng cảm thấy khó khăn, sau bao năm dường như cũng không tiến được gì, nhưng tu càng lâu mới thấy sự mầu nhiệm, nó sạch từ bao giờ mình không ngờ.

Mấy chú nhớ ngài Triệu Châu nói phải bao nhiêu năm? Ba mươi năm tâm mới thành một khối. Còn Quốc sư Huệ Trung hơn bốn mươi năm ở núi Bạch Nhai, chưa từng xuống núi. Nghĩa là phải nuôi dưỡng lâu dài, luôn luôn theo dõi gìn giữ, tới một lúc nào đó mới thuần thục, chớ không phải giản đơn. Nhưng điều quí vị phải nhớ rõ là có tu thì có tiến. Mình nỗ lực tu tất sẽ tiến, dầu chậm hay mau. Chỉ không biết tu mới thả trôi theo sáu trần.

Tất cả chúng sanh đều buông trôi sáu căn chạy theo sáu trần, muôn đời muôn kiếp như vậy. Chúng ta cũng là những chúng sanh mê lầm đó, bây giờ mới thức tỉnh, biết quay lại tìm xem mình là cái gì. Chúng ta thấy từng ý niệm, không phóng chạy ra ngoài nữa để biết rõ mình. Tuy biết mình mà chưa làm chủ được, song biết mình cũng tốt rồi. Lục Tổ có dạy “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, biết được niệm khởi tức là có giác. Chúng ta quen chạy ra ngoài, quên mình là mê, bây giờ biết được mình thì đó là giác chớ không gì lạ. Tuy chưa hết niệm nhưng hằng biết vọng khởi tức là hằng giác, lâu ngày vọng sẽ mòn yếu dần rồi tự sạch.

Như vậy tu không gì lạ, hễ đuổi theo vật, tức buông lung sáu căn chạy theo sáu trần, là hạng người tầm thường. Còn ngay nơi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không dính mắc là người bậc thượng. Chúng ta vẫn thấy nghe nhưng không dính mắc, đó là bước tiến. Chính mình đã có giác, có chủ rồi chớ không phải thường.

Bởi vậy trong khi tu mấy huynh đệ đừng sợ còn vọng tưởng, chỉ sợ chúng ta không biết được vọng tưởng. Vọng tưởng còn mà chúng ta thấy biết rõ ràng, tức là kiểm soát được nó. Còn để nó dẫn đi xa lắc rồi mới giật mình, đó là dở, bị vọng tưởng lừa. Không ai mới tu mà thành Thánh Hiền ngay, phải do công phu dài dặc nhiều năm tháng. Nhờ chúng ta cố gắng tu, luôn luôn tỉnh giác, mới dẹp sạch được vọng tưởng. Dù chúng ta ham tu mà thả trôi thì cũng tạo nghiệp sanh tử tiếp nối không ngừng. Rõ ràng vọng tưởng là mầm sanh tử, không nghi ngờ gì nữa.

Niệm khởi là nhân sanh tử, cho nên Phật dạy, khởi là vô minh, không phải đợi vô minh nào khác. Vừa dấy niệm đã che mờ trí tuệ, đó là vô minh. Cho nên chúng ta phải thấy từng niệm để không bị nó dẫn, là hằng giác, hằng sáng.

Như vậy sự tu thấy dường như đơn giản nhưng hết sức tế nhị. Chúng ta phải hằng giờ hằng phút hằng giây thấy rõ mình, đừng quên. Khi ra làm công tác, cứ làm mọi việc, vừa thấy vọng tưởng dấy lên liền buông, như vậy giờ công tác cũng giống như giờ ngồi thiền. Còn nếu ra làm công tác, kể chuyện năm trên năm dưới đủ thứ để cười chơi, đó là làm công tác chớ không phải thiền, không phải tu. Ở đây tôi muốn giờ công tác cũng là giờ tu, làm sao xuống nhà bếp thấy người nấu cơm, người lặt rau đều lặng lẽ trong việc tu, quí biết chừng nào. Nhưng ở đây đã được vậy chưa? Hay là làm bếp thì cười om sòm dưới bếp, ra ngoài vườn nói chuyện ỏm tỏi ngoài vườn? Phải làm sao đi đâu, làm gì cũng là thiền, mấy chú nên cố gắng!

Như tôi đã nói, thời gian tôi còn ở đây ngắn ngủi lắm, không biết bao lâu. Mấy chú cứ lơ là, tới trăm tuổi cũng còn lừng chừng, thì thật uổng cái lý tưởng tối hậu của tôi, không có kết quả gì. Cho nên mỗi người phải ráng kềm chế gìn giữ, ở trong hoàn cảnh nào cũng tu, đừng để phóng túng, buông lung. Mình tập được thì người khác sẽ tập theo, mình tập không được người khác cũng bắt chước. Người này bày chuyện nói, người kia bắt chước nói theo, một hồi chẳng còn thiền gì cả.

Cho nên phải chuyên tâm gìn giữ, đừng để buông lung, làm sao được như lời ngài Đại An: “Con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.” Tôi nhắc cho tất cả nhớ, mỗi người nên tinh tấn tu. Đây là việc làm phi thường, chúng ta làm được thì rất quí. Bởi vì những nhà bác học hay là gì đi nữa cũng chỉ học những điều bên ngoài chớ không bao giờ thấy được cái mình chân thật. Chúng ta quay lại tìm được mình mới là điều quí nhất.

Tôi thường nói với những người ở nước ngoài, dù cho quí vị thụ hưởng vật chất sung mãn, dư dả, nhưng nếu hỏi để phục vụ cho cái gì, quí vị trả lời phục vụ cho mình, mà hỏi mình là gì thì không biết. Như vậy, tất cả vật chất dồi dào để phục vụ cho mình mà không ai biết mình là gì thì thật vô nghĩa. Bởi vậy, dù chúng ta nghèo thiếu nhưng biết rõ mình là gì, đó là quí nhất, thực tế nhất. Đừng nghĩ khoa học phát minh đủ thứ là thực tế. Chính hiểu được mình mới thực tế. Cuộc sống là của con người, vậy trước hết mọi người phải biết rõ về mình. Còn biết tất cả bên ngoài mà không biết mình, là biết rỗng, vô vị.

Chúng ta hiểu được đường lối đó thì tu là những giờ phút nhìn lại mình, biết rõ cái gì hư dối, không để bị lừa dẫn, tìm cho ra cái chân thật sẵn có của mình. Đó là chúng ta có sức tự chủ, ngày mai khi sắp ra đi cũng làm chủ, nếu chưa giải thoát được ắt cũng biết chọn lối đi để tiếp tục tu và làm Phật sự, còn ai giải thoát được thì tự tại hơn.

Trái lại, những người ở đời chỉ chạy theo vật chất rồi ngã đùng ra chết. Họ không biết mình là gì, sẽ bị các nghiệp điên đảo lôi dẫn sa đọa nơi này nơi kia. Sống mấy chục năm lận đận trên thế gian rồi chết, rốt cuộc đời họ không có giá trị thật, bao nhiêu của cải cũng là thứ tạm bợ vô thường. Chỉ có tìm ra được mình, đó mới là nguồn gốc đưa tới chỗ an lạc thật sự, còn các lạc thú thế gian là những trò ảo ảnh, cười đó rồi khóc đó, không phải thật.

Vì vậy, biết tu rồi chúng ta phải dồn hết tâm lực làm cái việc quí báu cao cả này cho đến nơi đến chốn. Đừng chần chờ, thờ ơ, thả trôi hết ngày, hết tháng vô ích. Chúng ta phải cố gắng! Mỗi người tự nỗ lực rồi sẽ thấy kết quả không nghi.

Vậy mong tất cả chúng Tăng mỗi người ráng tự kềm chế, làm chủ mình, quay lại sống với đạo từng phút từng giây, đừng thả lỏng uổng phí thời giờ. Mạng này không biết dài hay ngắn. Nếu chúng ta không xong việc, tới chừng nhắm mắt không làm chủ được sẽ đau khổ vô cùng. Mong tất cả cố gắng tu.

Ngày 1-12 Giáp Tuất (1-1-1995)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay một số vị có lỗi nhỏ cũng ra sám hối. Đó là tinh thần tự giác biết quí trọng Thanh qui của Thiền viện. Có lỗi biết ra sám hối để sửa đổi là điều rất tốt. Bởi vì chúng ta là chúng sanh, chưa ai là Thánh cả nên đều có lỗi, chỉ có nhiều hay ít thôi. Biết lỗi sám hối thì tội sẽ tiêu. Đó là một điều hay trong đạo.

Nhưng rất tiếc ít có ai chỉ lỗi cho ai. Đó cũng là điểm yếu, vì có người không tự thấy được lỗi, nhờ huynh đệ nhắc nhở giùm, mới tiến bộ. Nên trong chúng nếu có huynh đệ nào thiếu sót, mình nhắc người ta biết để sửa. Tôi ở xa không thấy rõ. Huynh đệ cùng một liêu dễ thấy hơn, nên nhắc nhở nhau để sửa đổi. Làm sao chúng Tăng mỗi ngày mỗi tiến, như vậy mới hay. Đừng vì nể nang rồi cứ để những lỗi lầm quấy nhiễu mãi không tốt, chướng cho người đó và chướng cho huynh đệ chung quanh nữa. Mong rằng trong chúng thấy ai có lỗi cứ sẵn sàng nhắc nhở. Nhắc nhở giữa chúng là vì lòng thương, còn nói châm chích nhau là có ý xấu, làm mất hòa khí không tốt. Vì vậy, trong buổi thỉnh nguyện chúng ta đem hết tinh thần giúp đỡ nhau tu hành. Thấy ai có gì hay mình mừng, có gì dở mình nhắc.

Sau đây tôi có vài điểm cần giải thích rõ. Có một số chú nói rằng: “Thầy cho lên đây để chuyên tu, sao nay Thầy lại bắt học?” Như vậy dường như tôi mâu thuẫn, trước sau không nhất như. Đó là mấy chú hiểu lầm. Tôi lo cho tương lai của mấy chú, nghĩ rằng mai kia tôi không còn có mặt ở đây nữa, mấy chú sẽ là những người gánh vác việc lớn.

Việc lớn đó là khôi phục Thiền tông Việt Nam, nhất là Thiền tông đời Trần. Cho nên mấy chú vừa ráng tu vừa phải nắm vững, hiểu tường tận đường lối tu hành của chư Tổ đời Trần.

Như vậy học có hai cái lợi. Thứ nhất là mình hiểu rõ lời dạy của người xưa để ứng dụng tu. Thứ hai, đời Trần mang nhiều tinh thần văn hóa xưa của dân tộc Việt Nam, nếu chúng ta hiểu rõ văn hóa đời Trần, khi những người đang hướng về Phật pháp, muốn nghiên cứu Thiền tông Việt Nam đến học hỏi, mình có đủ bằng cứ để chỉ dạy họ. Nếu không chúng ta sẽ lúng túng, vì văn cổ là văn chữ Hán chớ không phải chữ Việt hay chữ Nôm. Chữ Nôm dịch ra tiếng Việt còn dễ, chớ chữ Hán nếu mình không biết gì, nhiều khi cũng lúng túng.

Tôi nghĩ, nếu mấy chú là người đã thông thuộc chủ trương đường lối ở đây, tu hành có kết quả, mai kia khi tôi nhắm mắt rồi, những người học đạo đến đây trực tiếp học với mấy chú. Trong số đó có những người muốn phăng từ gốc chớ không chịu đi từ ngọn. Từ gốc là phải tìm cho ra những văn bản chữ Hán, để họ chắc rằng đường lối tu của mình phù hợp với những lời dạy trong đó. Khi họ đem ra hỏi chẳng lẽ mấy chú không biết gì. Như vậy là làm cho người ta xem thường đường lối của mình. Người ta sẽ nói mình phỏng theo chớ không nắm vững.

Tôi lo xa, mong rằng ngày mai người ta sẽ tin mình trăm phần trăm. Nếu có những điểm sơ sót thì lòng tin sẽ bị suy giảm, tất nhiên sự giáo dục hướng dẫn cũng không đạt được kết quả tốt. Bởi lo xa nên tôi nghĩ mấy chú phải chịu khó, bớt một chút thời giờ tu của mình để có được lợi ích lâu dài.

Mấy chú nhớ hồi xưa Mã Tổ bảo ngài Tây Đường:

- Sao con chẳng xem kinh?

Tây Đường thưa:

- Kinh đâu có khác.

- Tuy nhiên như thế, song con về sau vì người cần phải xem.

Như vậy, lời dạy của Mã Tổ đã rõ ràng. Ở đây chúng ta chủ trương Thiền Giáo đồng hành, nhất là đời Trần chủ trương đó rất cụ thể. Vẫn biết hiện nay kinh điển dịch ra chữ Việt cũng khá nhiều, nhưng muốn chính xác tôi phải giảng thẳng những bản chữ Hán của các Thiền sư đời Trần. Nếu quí vị không học kỹ những bản văn chữ Hán đó, ít ra cũng phải biết đại khái, để khi người ta đem ra vấn nạn, mình nắm vững giải thích rõ ràng cho họ không nghi ngờ. Như vậy có lợi cho mình và lợi cho người. Chớ nếu có ai đem bản chữ Hán ra hỏi: “Thầy giảng câu đó nguyên văn chữ Hán thế nào” hay: “Thầy đối chiếu với bản chữ Hán này coi đúng không”, chúng ta không biết là thiếu sót.

Tôi muốn mấy chú có một căn bản vững. Điều gì nói được phải làm được. Cái gì biết xuất xứ thì phải nắm vững và thông hiểu rõ ràng. Như vậy sự giảng dạy của mình không ai bắt bẻ được. Hồi xưa, nhất là cuối đời Tống qua đời Nguyên, đời Minh, ở Trung Hoa người ta thường nói các vị tu thiền là thiền hông ngực. “Hông ngực” ý nói mình dốt không hiểu biết gì trong kinh điển, cứ nghĩ sao nói vậy chớ không hiểu rõ những lời Phật Tổ dạy. Như vậy cũng là trở ngại.

Cho nên tuy tu là phải dồn hết tâm lực, nhưng mình cũng có thể nhín chút thời giờ để học. Tôi dạy một tháng có hai bài thôi. Mấy chú chịu khó coi lại chữ Hán, đọc tới đọc lui rồi từ từ nhớ. Chỉ cần biết đại khái chớ không phải bắt mấy chú học thông thạo tất cả Hán văn. Đó là nói những người lớn, còn các chú nhỏ, mới vào đạo chưa biết gì, nếu nói chuyện tu nhiều khi mấy chú cũng lớ ngớ, chưa biết dụng công thế nào. Vậy nên học thêm một ít chữ Hán cho có căn bản để đọc được những bài văn này. Mai sau tu khá, học hành có căn bản thì lợi ích rất lớn. Nếu không chịu học hành, mấy chú sẽ có nhiều giờ rảnh, nói chuyện tào lao vô ích, uổng đi thời giờ quí báu của mình.

Hôm trước tôi lại phía sau T.T, thấy đang ngồi viết tôi tưởng viết chữ Hán, ai ngờ vẽ cái gì đó. Như vậy chữ Hán mấy chú chẳng chịu học, lại vẽ chữ này chữ kia chơi, đó là hơi phí. Phải ráng tiết kiệm thời giờ. Tuy chúng ta tu tới lui đi đứng đều phải cố gắng gìn giữ thanh tịnh, nhưng cũng nên chia ra chút ít thời giờ để ôn lại chữ Hán. Sau này mới có căn bản, ra làm Phật sự không trở ngại, nếu không sẽ bị người ta chê dốt, nói mình chỉ học sơ sài, không có căn bản.

Đó là tôi lo xa cho mấy chú chớ không phải thay đổi ý kiến bắt mấy chú học để thi cử gì. Mấy chú học kỹ, sau này có ai hỏi bản dịch hoặc bản chữ Hán đều biết, không bị người ta chê dốt không đủ tư cách hướng dẫn họ. Không rành chữ Hán cũng là một trở ngại, bởi vì thời này người học đạo chịu nghiên cứu hơn là thật tu. Khi nghe chúng ta tu có đường lối chủ trương, họ liền đi tới để tìm hiểu. Tìm hiểu trên sự tu hành đã đành, nhiều khi còn tìm hiểu khả năng học hành của mình nữa. Vậy nên chúng ta không thể dốt.

Đó là điều thiết yếu, buộc lòng tôi phải sắp đặt như vậy. Không phải tôi muốn mấy chú lo học quên tu. Tu là chủ yếu, còn học thì mỗi tháng chỉ để chút thời giờ nhỏ, thay vì làm những việc mất thời giờ khác. Đừng vội vàng nói tôi thay đổi đường lối, chủ trương. Chính vì lo xa, muốn giữ uy tín của mấy chú cho người ta tin cậy, ngày sau tôi vắng mặt, còn mấy chú để người ta nương tu nên phải sắp xếp như vậy. Thật ra, nếu để mấy chú tu được bao nhiêu thì tu, làm được cái gì thì làm, chỉ cần có mặt ở đây cho đông thôi, chuyện đó rất dễ. Nhưng tôi nghĩ đến tương lai xa xôi buộc lòng phải lo như vậy. Mấy chú cần hiểu rõ rồi tiết kiệm thời giờ để học thêm trong lúc rảnh.

Kế đó, tôi được biết mấy chú nhà Tăng hình như nói chuyện nhiều, bàn tán nhiều, làm một số người hơi phiền. Tôi xin nhắc trưởng liêu nếu huynh đệ ồn náo quá, phải rầy nhắc khuyên bảo họ. Tôi cử trưởng liêu là để coi chừng, hướng dẫn huynh đệ, nhắc họ dành thời giờ tu và học, đừng phí thời giờ ngồi lý luận chuyện đâu đâu vô ích. Vì thời giờ của chúng ta rất hiếm hoi, phải coi như vàng như ngọc, đừng có xem thường.

Nếu huynh đệ ngồi tán dóc với nhau, thời giờ qua mau lắm, còn ngồi thiền lại thấy dài dằng dặc. Tán dóc sanh ra nhiều chuyện, quên mất thời giờ. Cho nên những người có trách nhiệm ráng nhắc nhở huynh đệ cần mẫn, yên lặng tu, đừng nên ồn náo, làm người chung quanh muốn tu cũng trở ngại. Vậy trưởng liêu cần biết rõ để nhắc nhở huynh đệ.

Thêm một điều tôi nhắc chung cho tất cả. Chúng ta được duyên phước lành nên mới đủ điều kiện để yên ổn tu như thế này. Đây không phải là điều dễ kiếm. Gặp duyên tốt rồi mình phải biết là quí, là hi hữu, còn không biết nhiều khi bỏ mất cơ hội rất uổng. Tất cả quí vị đều do ham tu mà xuất gia, không có ai nói tôi xuất gia để trở thành thầy cúng, hoặc tu cầm chừng hết một đời. Ai cũng nghĩ xuất gia tu để được giải thoát. Nhưng gặp được điều kiện giúp cho mình tu đến giải thoát rất hiếm hoi, ít có.

Ở đây tôi cố gắng tạo điều kiện cho mấy chú tu. Ngoại trừ Ban chức sự phải hi sinh cho chúng, chịu mất thời giờ, còn toàn chúng không bị mất thời giờ với những việc bên ngoài, cứ yên lặng tu trong phạm vi hoạt động của mình, trong những giờ tọa thiền sám hối. Mấy chú không nên để phí uổng những giờ quí đó.

Nếu tất cả đều ứng dụng tu đúng như lời Phật Tổ dạy, tôi nghĩ rằng ai cũng sẽ đạt được kết quả tốt không nghi. Bằng chứng là bản thân tôi. Ngày trước, bao nhiêu năm tôi đi giảng dạy nơi này nơi nọ không có giờ tu. Đến khi tôi nhập thất, nghĩ rằng quí thầy đi trước đã từng nhập thất cả mười năm, hai mươi năm còn chưa tìm ra điều mới lạ, mình có hi vọng gì! Nhưng sau ba tháng, tôi đã thấy những cái mới mà hồi xưa chưa từng thấy.

Như vậy mới biết rằng người nào quyết chí tu mãnh liệt, sớm muộn gì cũng có tiến bộ. Nếu nghĩ phải nhập thất mười năm, hai mươi năm mới có thể tiến là hiểu lầm. Chỉ cần chúng ta quyết tâm, cố gắng, liều chết tu thì sẽ tiến không nghi ngờ. Ai quyết tâm chỉ một việc tu, không bị những trần cảnh bên ngoài ràng buộc lôi kéo, nhất định người đó sẽ tiến chớ không lùi.

Vậy nên tất cả chúng phải quyết tâm tu, đừng nghĩ rằng mình tu lâu quá sao không tiến. Người quyết tâm tu thời gian ngắn được kết quả nhiều, còn người tu lơ lơ thì thời gian dài mà kết quả ít. Bởi vậy trong kinh có nói: Các vị Bồ-tát từ địa vị này sang địa vị kia như Sơ địa, Nhị địa... thời gian không nhất định. Người nào tinh tấn nỗ lực tu thì mau, người nào chần chờ giải đãi thì lâu. Như mình học kinh thấy Bồ-tát Di-lặc và đức Phật Thích-ca đồng thời tu, nhưng Bồ-tát Di-lặc thích cầu danh nên tiến chậm, còn Phật Thích-ca tinh tấn tu nên tiến nhanh. Vì vậy đức Thích-ca thành Phật trước đức Di-lặc cả mấy triệu năm.

Như vậy mấy chú thấy sức tinh tấn giúp mình tiến mau, làm cho thời gian rút ngắn. Cùng tu với nhau mà người nào tinh tấn sẽ có tiến bộ vượt bậc, còn người nào chần chờ giải đãi, yếu đuối tiến rất chậm. Vậy nên mỗi người phải ráng tập luyện cho mình có sức quyết tiến mãnh liệt, đừng chần chờ để mất thời giờ quí báu. Không ai biết thọ mạng dài hay ngắn, nhiều khi tu chưa tới đâu đã hết tuổi thọ. Như vậy uổng một đời, nên tất cả phải cố gắng tiến tu.

Ngoài ra, có hai việc tôi cần nhắc trong chúng:

Việc thứ nhất là giữ nhà bếp sạch sẽ, bởi vì những người tới đây thăm có nhiều hạng. Có những vị Trụ trì lớn muốn biết sanh hoạt Tăng Ni ở đây ra sao, hoặc những người muốn nghiên cứu tổ chức của Thiền viện hay khách ở nước ngoài về, nghe đồn muốn đến xem cho biết, nên tôi phải dẫn đi coi từ trên xuống dưới để thấy nếp sanh hoạt của mình, nhất là sanh hoạt chư Tăng riêng biệt bên Tăng, chư Ni riêng bên Ni. Để cho họ khỏi nghi ngờ, tôi dẫn vô nhà bếp xem mấy chú tự nấu nướng lấy, không phải nhờ một cô nào hết. Họ sẽ thấy rằng Thiền viện đáng tin cậy, không rơi vào trường hợp mượn mấy cô nấu nướng rồi có những chuyện lủng củng. Tôi muốn mọi người thấy rõ tổ chức của mình để đủ lòng tin, nhờ vậy tương lai mấy chú làm Phật sự được dễ dàng. Cho nên nhớ dọn dẹp nhà bếp gọn gàng sạch sẽ.

Việc thứ hai là tôi giao T.T coi chừng các dụng cụ, thấy nó gãy hoặc rớt ở đâu, chịu khó đem về kho để thợ mộc tra cán lại. Mỗi người chịu khó có trách nhiệm gìn giữ để bớt hao hụt. Thấy như là việc nhỏ nhưng mà lớn. Một cái cuốc, cái chĩa hư, khi cần không có làm, phải chạy mua cái mới cũng mấy chục ngàn chớ không rẻ. Vì vậy mình giữ những cái gãy cán gom lại để sửa chữa. Những thứ vụn vặt cũng gom lại để dành khi cần xài có sẵn, đỡ hao tốn của Tam Bảo. Đó là chỗ tiết kiệm của mình, mấy chú ráng cẩn thận.

Buổi nói chuyện đặc biệt.

Hôm nay có một buổi nói chuyện bất thường. Nhân trong lúc ngồi tu tôi thấy thích thú, tôi muốn nói lại để tất cả ý thức việc tu hành của mình.

Buổi nói chuyện này đề tài là: Tìm chân lý.

Tất cả chư Tăng chúng ta đi tu để tìm cái gì? Đức Phật ngày xưa đi tu là đi tìm cái gì? Tìm chân lý. Nhưng chân lý là gì? Chân là chân thật, lý là lẽ, là lẽ thật. Lẽ thật đó ở hai lãnh vực: lẽ thật ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ và lẽ thật nơi chính con người chúng ta.

Tìm lẽ thật ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ là những hình thức hiện giờ các nhà khoa học đang thực hiện. Còn tìm lẽ thật nơi con người thì chính đức Phật đã thực hành, nên chúng ta nói đức Phật đi tìm chân lý.

Tại sao nói đức Phật đi tìm chân lý? Trước hết phải hiểu tại sao đức Phật đi tu. Chắc ai cũng nhớ rằng Ngài chứng kiến cảnh sanh, già, bệnh, chết rồi đi tu. Nhưng Ngài chán nản mà đi tu hay là chứng kiến những cảnh đó Ngài có những quan niệm riêng nên mới đi tu? Nếu nói vì chán nản đi tu thì Ngài yếu ớt quá phải không? Đó không phải là tinh thần đi tìm chân lý. Cho nên chúng ta phải hiểu thấu đáo nguyên nhân đức Phật đi tu, rồi chúng ta mới hiểu được tường tận tại sao mình đi tu.

Đức Phật đi tu tức là đi tìm chân lý, Ngài thấy con người sanh ra lớn lên rồi già, bệnh, chết. Lớp đó qua rồi, lớp kế cũng vậy! Như thế cứ tiếp tục mãi mãi không có ai thoát khỏi sanh già bệnh chết. Nó là cái gì mà lôi cuốn người ta cứ tiếp tục như vậy không cưỡng lại được? Đó là một lý do khiến Ngài muốn tìm hiểu. Kế nữa, Ngài thấy nếu con người sanh ra rồi già bệnh chết, vậy có ai hay có phương tiện nào dứt khoát không còn bị lôi vào vòng sanh già bệnh chết đó nữa không? Đó là hai lý do khiến Ngài muốn tìm cho ra chân lý của kiếp người.

Như hiện giờ chúng ta ai cũng đinh ninh rằng theo luật thiên nhiên con người sanh ra rồi lớn lên, có gia đình con cái, lo cho con cái khôn lớn rồi già chết. Trước ông bà cha mẹ như vậy, sau con cái cháu chắt cũng đều như vậy. Cứ theo cái đà đó tiếp tục chấp nhận luật thiên nhiên ấy. Nhưng với đức Phật, Ngài không thấy như vậy. Ngài thắc mắc vì lý do nào mà con người phải sanh ra, rồi già bệnh chết? chết rồi ra sao nữa? Trước khi sanh ra mình là cái gì? sau khi chết mình là cái gì? có ai biết không? Rồi động cơ nào bắt mình sanh ra? Làm sao để dứt điểm không còn sanh ra nữa? Tất cả đều không ai biết.

Đó là những vấn đề đức Phật phải đi tìm. Phăng tìm ra được là thấy chân lý của con người. Bởi lẽ đó nên Ngài đi tu, theo học mấy vị tiên. Vị trước nhất dạy Ngài tu đạt đến cảnh giới Vô sở hữu xứ, Ngài thấy chưa giải quyết được vấn đề thắc mắc nên từ giã ra đi. Tới vị kế dạy Ngài tu đạt đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng cũng chưa giải quyết được thắc mắc nên Ngài cũng từ giã ra đi.

Cuối cùng, Ngài nghĩ phải chịu khổ hạnh quên cả thể xác này may ra mới có thể tìm được chân lý, cho nên Ngài tu khổ hạnh. Nhưng khổ hạnh cũng không giải quyết được, chỉ làm thân thể yếu đuối, tâm trí mờ mịt thêm, nên Ngài bỏ luôn khổ hạnh. Sau cùng Ngài phải sử dụng lý Trung đạo, tức là ăn mặc vừa đủ để tu cho trí tuệ sáng suốt. Đến đây, Ngài quyết định tới cội bồ-đề ngồi yên định để tự phăng tìm chân lý.

Đây tôi kể sự giác ngộ đơn giản của Ngài cho quí vị thấy. Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề, đến đêm thứ bốn mươi chín, đầu hôm Ngài chứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là biết rõ. Trong kinh A-hàm Phật kể, khi Ngài chứng được Túc mạng minh, những việc của vô số kiếp về trước, nếu Ngài muốn nhớ sẽ nhớ rõ ràng như chuyện hôm qua, không sai chạy. Vì vậy đức Phật biết rằng Ngài đã từng sanh tử vô số kiếp, khi nơi này khi nơi kia. Những câu chuyện Phật kể lại cho đệ tử nghe được ghi chép thành hai bộ kinh Bản Sanh và Bản Sự trong A-hàm. Kinh ghi lại những đời trước của Ngài và các đệ tử đã từng làm gì, ở đâu, tạo ra nghiệp gì... Như vậy giải quyết được nghi vấn thứ nhất: “Trước khi có thân này ta là cái gì?”

Đến canh ba Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ các nghiệp thiện ác, tốt xấu... dẫn dắt con người đi trong lục đạo luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Trong kinh A-hàm, đức Phật diễn tả rõ như vậy. Thế là Ngài đã giải quyết được nghi vấn thứ hai: “Con người chết rồi sẽ đi đâu?” Ngài thấy rõ, chết rồi không phải hết mà theo nghiệp dẫn đi trong luân hồi lục đạo.

Đức Phật chỉ quay lại mình, tìm cho ra manh mối con người, nhưng khi giải quyết xong vấn đề đó, Ngài lại giải quyết thêm những vấn đề khác. Phật thấy suốt cả vũ trụ, thiên nhiên. Thấy cái gì? Ngài thấy ngoài hành tinh chúng ta còn vô số vô lượng hành tinh khác, nên trong kinh Phật mới nói “hằng hà sa số thế giới”, nghĩa là thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Đức Phật nhìn trong nước thấy vô số vi trùng, các pháp duyên hợp như thế nào, Ngài đều thấy rõ ràng.

Cuối cùng, khi sao Mai mọc Ngài chứng được Lậu tận minh, tức là dứt hết các mầm rơi trong tam giới chịu sanh tử. Lậu là rơi rớt, tận là hết.

Tới đó, Ngài dứt hết mầm sanh tử không còn rơi rớt trở lại nữa, gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy, tới Lậu tận minh Ngài mới thấy rõ tại sao con người phải đi trong sanh tử và làm sao giải thoát sanh tử.

Hai vấn đề này hết sức quan trọng. Cho nên sau khi ngộ đạo rồi Ngài đi thuyết pháp, bài pháp đầu tiên nói về Tứ đế, tức là bốn lẽ thật. Trước hết Phật chỉ ra các thứ khổ chúng sanh phải chịu, đó là Khổ đế. Tiếp đến Ngài nói nguyên nhân tạo thành quả khổ sanh tử, gọi là Tập đế. Rồi Phật chỉ chỗ dứt hết sanh tử là Diệt đế và làm cách nào để chấm dứt sanh tử, giải thoát luân hồi, đó là Đạo đế.

Như vậy chỗ đạt đạo của Ngài là thấy rõ manh mối đưa con người vào sanh tử. Bản thân Ngài đã thoát ra khỏi, rồi nói lại rõ ràng cho chúng ta nghe. Như vậy, giải thoát sanh tử là không còn bị lôi kéo vào đường sanh tử nữa. Chính Tập đế là nghiệp nhân dẫn chúng sanh đi trong sanh tử. Nếu dứt nghiệp nhân thì giải thoát sanh tử, rõ ràng như ban ngày.

Đức Phật tới đó là đạt được chân lý. Ngài đạt được ở đâu? Thử trả lời coi. Nhiều người nói Ngài đạt chân lý ở dưới cội bồ-đề. Thật ra không phải. Ngài đạt chân lý ở chính nơi mình, thấy tường tận nơi mình từ khi chưa có mặt và sau khi thân này hoại, thấy rõ nhân nào tiếp tục tạo sanh tử, nhân nào dứt được sanh tử. Phật thấy rõ ràng tường tận như vậy, gọi là đạt được chân lý. Nếu tới cội bồ-đề đạt được chân lý thì bây giờ chúng ta chỉ cần tốn một ít tiền máy bay, qua Ấn Độ tới cội bồ-đề ngồi thiền, có đạt được không? Thành ra chân lý ở chính mình chớ không ở đâu ngoài.

Còn bây giờ chúng ta tu là làm cái gì? Chúng ta đang đi tìm cái gì? Chúng ta đi tìm chân lý ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ hay tìm chân lý nơi con người? Phải xác nhận chỗ làm, đường đi của mình cho rõ. Nhiều khi mấy chú không biết ngồi thiền làm gì, mỏi mê nhọc nhằn quá. Chúng ta phải hiểu tại sao mình làm việc đó.

Qua sự chỉ dạy của đức Phật, chúng ta đã thấy rõ sanh tử nhân nơi nghiệp mà có. Tập đế chỉ cho tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thuộc về ý nghiệp.

Từ ý nghiệp phát ra khẩu nghiệp rồi thân nghiệp, tạo thành một dòng nghiệp, có sức mạnh dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử. Vậy tuy nói ba nghiệp thân khẩu ý, nhưng thật tình căn cứ theo pháp Tứ đế, thì tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, sáu món căn bản phiền não là trọng tâm đưa mình đi trong luân hồi sanh tử. Trọng tâm đó thuộc về ý nghiệp. Như vậy, ý nghiệp là chủ động tạo nên sức mạnh dẫn chúng ta đi trong lục đạo luân hồi, tiếp tục đời này đời nọ liên miên không dứt.

Chúng sanh luân hồi trong sáu đường, bây giờ mình chỉ ví dụ trường hợp được sanh làm người. Con người sanh ra sáu bảy chục năm rồi chết. Tiếp tục sanh ra sáu bảy chục năm rồi chết... cứ như vậy chừng một trăm lần, nếu chúng ta có thể nhớ lại được thì thấy khổ quá. Tại sao cứ sanh ra rồi đau đớn, già, chết? rồi lại sanh ra, đau, già, chết? Cứ làm hoài chuyện đó khổ sở không biết bao nhiêu. Cho nên trong kinh Phật dạy: Cái khổ bị uống nước đồng sôi, bị nuốt hoàn sắt nóng ở địa ngục chưa phải là khổ, làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa phải là khổ, chỉ có kẻ si mê không biết lối đi mới là khổ. Vì si mê nên bị nghiệp dẫn cứ tiếp tục sanh tử không dừng, đó là khổ hơn hết.

Cho nên trọng tâm của đạo Phật là giải thoát sanh tử, tức là không bị lôi đi trong sanh tử nữa. Vậy mà có nhiều người nói không biết giải thoát cái gì, làm sao giải thoát? Tu thì tu mà không biết cái gốc đó.

Như vậy muốn giải thoát sanh tử phải dứt nghiệp. Muốn dứt nghiệp phải dừng ý. Nếu ý còn khởi tham, sân, si... ác kiến thì không bao giờ dứt nghiệp, dứt sanh tử. Vậy trọng tâm là ý nghiệp, Tập đế nằm ngay ý. Chúng ta mỗi ngày ba buổi ngồi thiền sáu giờ để làm gì? Để tìm chân lý. Chân lý không trên non cao, không ở ngoài biển cả, không ở trên trời xanh mà ở ngay nơi mình.

Muốn thấy được chân lý, chúng ta phải biết cái gì là động cơ làm mình mê tối. Dừng được động cơ đó thì chân lý hiện tiền, chớ không có gì lạ. Hiện giờ chúng ta khởi vọng tưởng là vọng tưởng về cái gì? Nhớ chuyện gần xa, chuyện hơn thua, phải quấy... Những thứ hào nhoáng, tạm bợ, sanh diệt liên tục không dừng, chợt có chợt không, không phải thật.

Như vậy, thân và tâm lâu nay chúng ta cho là mình, đều không phải chân lý của con người. Vậy mà chúng ta chấp nó làm mình, không bao giờ thấy được chân lý, nên cứ tiếp tục sanh diệt trầm luân, đời này đời nọ lên xuống không lường được. Tâm sanh diệt tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là nhân tạo nghiệp ác. Thân sanh diệt vô thường mà cứ muốn được bền lâu, sung mãn nên tìm những thứ bồi bổ, thỏa mãn nó, tạo thành tội ác. Bám vào thân hư dối tưởng lầm là thật rồi dính mắc với sáu trần, tham sắc đẹp, vị ngon, mùi thơm... Lại bám vào tâm sanh diệt tạm bợ tưởng là thật rồi tạo bao nhiêu tội lỗi. Bây giờ thấy rõ ràng hai thứ đó không thật, giả biết giả, là thấy được một phần chân lý, là người biết đúng. Rồi chừng nào thật biết thật, đó là thấy được chân lý.

Bây giờ tất cả chúng ở đây, cái giả đã biết là giả chưa? Thân này thật hay giả? những ý niệm lăng xăng của mình thật hay giả? Nó giả mà chúng ta có bám vào cho là mình không? Đó chính là chỗ ngu si. Cái ngu si của mình không thể tưởng tượng, nên trong kinh Viên Giác, Phật dạy Bồ-tát Văn-thù: “Thế nào là vô minh? Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ, bị các thứ điên đảo, giống như người mê thấy bốn phương đổi chỗ, vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên theo sáu trần làm tướng tự tâm...”

Tất cả chúng ta vì vô minh che phủ nên thấy thân tạm bợ, sanh diệt này thật, tâm vọng tưởng điên đảo phải quấy lăng xăng, chạy mãi khó dừng cho là tâm thật. Cái không thật mà tưởng thật, đó là si mê, vô minh. Vô minh chính là đầu mối của luân hồi. Như Phật dạy trong mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, do vô minh nhận thân tâm giả dối làm mình nên có hành; hành duyên thức v.v..., rồi nó dẫn đi một vòng luân hồi sanh tử không cùng, không dứt.

Thấy rõ như vậy rồi, chúng ta phải làm sao? Bây giờ ngồi tu quí vị nhìn lại thân này biết rõ nó thật hay không thật? Nói mạnh thử coi!

- Dạ, không thật.

- Ờ, rồi cái tâm lăng xăng thật hay không thật?

- Dạ, không thật.

Hai cái đều không thật nên đừng chấp nó. Không thật mà chấp là si mê. Còn không thật biết không thật, đó là trí tuệ Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Như vậy, trí tuệ là thấy thân này và những vọng tưởng hư dối không thật. Đó là một bước tiến đến gần chân lý cứu kính.

Nếu thấy không thật mà ôm giữ là vô minh. Bây giờ thấy không thật, buông xả không theo là trí tuệ. Như vậy tu là sao? Là thấy đúng như thật về thân và tâm, nhận định rõ ràng hai thứ đó hư dối không thật, tạo nghiệp sanh tử, nên không ôm ấp, bám víu, không cố giữ, đó là chúng ta đã tiến một bước. Cho nên nói cửa thiền là cửa không. Biết thân này và những tâm niệm không thật là bước vào cửa không rồi.

Quí vị thấy đó là lẽ thật không nghi ngờ. Thân này hiện giờ ai cũng quí trọng, nhưng nó có thật đáng quí không? Giả sử người mình thương nhất đã chết bảy ngày không liệm không chôn, mình muốn tới gần thi hài đó thì phải sao? Phải bịt mũi. Như vậy thân của người bình thường mình thương, tới chừng đó mình gớm và sợ, thân của mình người khác có thương, mai kia mình chết bảy ngày họ cũng gớm, cũng sợ. Cái thứ không thật nên khi bại hoại nó ghê gớm nhớp nhúa như vậy, rõ ràng là hiện tượng đáng chán, đáng nhờm. Vậy mà chúng ta mê say, có phải là ngu si điên đảo không? ngu si điên đảo đến cỡ nào?

Rõ ràng thân là tướng hư dối, tạm bợ, nhớp nhúa mà mình lại bảo vệ nó. Rồi lại còn tìm những người khác để thương nữa, thương cái hôi thúi đó. Cho nên đức Phật, khi có mấy kiều nữ tới dụ dỗ, Ngài nói: “Đi! cái đãy da hôi thúi, ta không dùng!” Còn mình đây, thấy cái đãy da đó đẹp như tiên, chỉ nghĩ đẹp như tiên mà không biết nó là đãy da hôi thúi. Tức là thấy cái dáng ở ngoài, được che phủ bằng quần áo, son phấn, rồi quên mất bản chất của nó.

Như chúng ta bây giờ, sáng súc miệng rửa mặt sạch sẽ thấy dễ coi, nếu một ngày một đêm thức dậy không súc miệng rửa mặt, nói chuyện có ai chịu nổi không? Nó là cái gốc bẩn thỉu, hôi thúi mà chúng ta lại tưởng là quí, sống trong ảo tưởng không thật. Chúng ta tu là tìm lẽ thật, lẽ thật nơi con người chớ không phải ở bên ngoài. Nếu chúng ta biết rõ thân này và tâm vọng tưởng đều không thật thì không bám chấp vào thân, đồng thời buông xả được cái chấp vọng tưởng.

Bây giờ tôi hỏi quí vị, như mình đi một khoảng đường từ đây qua bên kia, trong khi đi không khởi nghĩ gì hết, mình có thấy đường đi, có biết bước chân đi và có nghe những tiếng động bên ngoài không? Không khởi niệm mà mình vẫn thấy đường, vẫn biết đi, vẫn nghe những âm thanh bên ngoài. Như vậy cái gì nghe? cái gì đi? cái gì thấy?

Nếu nói ý niệm là mình, lúc không có nó cái gì hướng dẫn đi, cái gì nhìn thấy đường, cái gì nghe tất cả chung quanh? Chỗ đó Tổ Lâm Tế nói: “Chính trước mặt các ông hiện đang nghe pháp ấy vậy.” Khi đang nghe giảng pháp mình không suy nghĩ, chỉ nghe thôi. Nếu cho ý niệm là mình, lúc không suy nghĩ đâu có mình. Như vậy thì ai đang nghe? Ngài chỉ quá rõ, phải không? Ai đang nghe? Cái nghe đó không dấy niệm, tức là không động, không tạo nghiệp thấy, nghe, biết rõ ràng mà không dấy niệm, tức không có tham, sân, si thì có cái gì tạo nghiệp? Nếu chúng ta sống với cái thật đó, lúc nhắm mắt có còn luân hồi không?

Như vậy, ý niệm chợt có, chợt không là giả dối. Còn cái biết thấy, biết nghe đó hằng hữu, làm sao giả dối được! Vậy mà chúng ta cứ nhớ cái chợt có chợt không mà quên cái hằng hữu.

Nhưng cái hằng hữu đó ở đâu? Ở ngay nơi mình, cho nên chư Tổ nói “dưới chân ông” hoặc “trước mắt ông”. Chỉ nói bao nhiêu thôi, không chỉ chỗ nào, cứ nhìn lại dưới chân mình. Như vậy cái đó có sẵn nơi mình. Nhất là khi chúng ta ngồi thiền, tâm nghĩ suy lặng đi, mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, sự sống trong thân, từng bộ phận biến động thế nào mình biết rõ. Biết tất cả mà không nghĩ suy, đó không phải là cái biết của sanh diệt. Như vậy ai cũng có cái đó. Mà cái đó ở đâu? Ngay đây rõ ràng! Nên ngài Huyền Giác có nói: “Bất ly đương xứ thường trạm nhiên. Mích tức tri quân bất khả kiến.” Không rời chỗ này mà thường lặng lẽ, hễ khởi niệm tìm nó thì không thể gặp. Như vậy chư Tổ đã nói quá rõ.

Cái hằng tỉnh hằng giác mà không dấy niệm đó tên gì? là người, trời hay là gì? Chỗ này đa số người thắc mắc. Đức Phật nói tu dứt hết mầm sanh tử thì được giải thoát. Hỏi cái gì giải thoát sanh tử, Ngài không nói. Tại sao vậy? Vì nếu nói con người giải thoát sanh tử thì không đúng. Vì người là một trong lục đạo, còn cái đó không thuộc về lục đạo. Lục đạo là nghiệp mà cái đó không phải nghiệp. Nói trời cũng không được, vì trời cũng còn trong lục đạo. Vậy nói nó là cái gì? Chỉ nói giải thoát, nghĩa là không còn bị dẫn đi trong sanh tử nữa.

Hiện giờ chúng ta thấy nơi mình có hai cái: một cái sanh diệt tạo nghiệp và một cái không sanh diệt, không tạo nghiệp. Nếu theo sanh diệt tạo nghiệp thì bị dẫn đi trong lục đạo, còn sống với cái không sanh diệt sẽ không tạo nghiệp, tức là giải thoát, không còn bị lôi dẫn trong luân hồi nữa. Đã gọi giải thoát sanh tử thì còn có tên không? Bởi vì nó không đi trong lục đạo, nào biết gọi tên gì! Nó luôn sẵn có nhưng không có tên, cho nên các Tổ thường gọi là “cái không tên”.

Một hôm, Lục Tổ bảo đại chúng:

- Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên, không họ, không lưng, không mặt, các ngươi biết chăng?

Ngài Thần Hội bước ra thưa:

- Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Tổ bảo:

- Đã nói với các ngươi là không tên, không họ, ngươi lại kêu là bản nguyên, Phật tánh; ngươi lại đi lấy tranh che đầu cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải.

Như vậy, tên chỉ là cái chúng ta gán đặt. Hiểu vậy mới thấy rõ chỗ tu của mình. Rõ ràng bên đây là giải thoát không tạo nghiệp, bên kia là sanh tử tạo nghiệp. Bây giờ biết cái kia tạo nghiệp đừng theo thì cái thật hiện tiền, tức không còn bị sanh tử nữa, đó là tu. Rõ ràng như ban ngày.

Còn tiếp tục theo niệm là còn đi trong sanh tử. Theo niệm thì có hai bên: tốt hoặc xấu, thương hoặc ghét... Đó là nhân tham sân si, theo nó thì phải đi trong luân hồi, không nghi ngờ gì nữa. Còn nếu không theo, niệm lặng cái chân thật hiện tiền. Ở đây có người nào thiếu không? Không ai thiếu thì có người nào tu không được? Như vậy ai cũng có quyền đạt đến chỗ đó, nhưng nếu không chịu buông hết ý niệm sẽ không bao giờ thấy.

Tôi ví dụ như dùng một tấm vải trắng làm phông để chiếu bóng. Khi rọi hình lên, chúng ta lo nhìn hình bóng, quên không thấy tấm vải. Chừng nào hình bóng không còn, mình mới thấy tấm vải. Cũng như vậy, khi các niệm dấy khởi, nếu chúng ta theo nó thì sẽ không bao giờ thấy cái thể thật lặng lẽ thầm kín ở trong. Khi niệm lặng, thể chân thật hiện tiền.

Như khi tôi ngồi thiền khuya, muỗi cắn chân bị ngứa. Tôi cảm thấy ngứa ở mặt dưới chân, đầu gối hơi đau, nhưng ngứa đó không phải là tôi, vì tôi biết nó.

Cái đầu gối đau cũng không phải là tôi, vì tôi biết đau. Quí vị ngồi lâu tâm an, biết rõ từng mạch máu đang nhảy, thấy rõ ràng con người mình, tự nhiên cái thật hiển hiện không khuất, không mờ bao giờ.

Bởi vậy tôi thấy tội nghiệp mọi người quá, tại sao không chịu nhìn lại mình, không biết gì về mình hết. Vậy nên hôm nay tôi nói chuyện với tất cả quí vị, vì tôi thấy cái thật rõ ràng mà không ai chịu tin, không chịu thấy, cứ ở trong cái điên đảo chạy ngược chạy xuôi, buồn giận, thương ghét đủ thứ chuyện phiền nhiễu khổ đau.

Khi chúng ta thương ai, nhớ đến người đó mình hơi vui vui, còn nhớ tới người mình ghét thì buồn. Như vậy sẽ có khổ vui khi có niệm yêu ghét, phải không? Ở đời luôn luôn có khổ là có vui, ngược lại có vui liền có khổ. Thí dụ có bà con thương mến ở xa về, chúng ta mừng vui được hai ba ngày rồi họ đi. Lúc họ đi chúng ta thấy buồn. Như vậy có vui là có buồn, cuộc đời vốn như vậy, luôn luôn thay đổi không dừng trong dòng vui khổ lẫn lộn không hề an ổn. Còn khi chúng ta không nhớ nghĩ chuyện gì, tâm mình thản nhiên tự tại.

Lúc đó không vui không buồn mà gương mặt lại tươi. Bởi vì sống với cái thật thì đâu còn đối đãi, đã không đối đãi thì đâu còn đau khổ. Đây là chỗ tột cùng mà chúng ta phải đến.

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 29-2 Giáp Tuất (9-4-1994)

Thỉnh nguyện hôm nay ai có lỗi lớn nhỏ cũng đều thành tâm sám hối. Đó là tinh thần tự giác cao, có lỗi liền sửa không đợi nhắc nhở. Nếu người tu ai cũng có tinh thần tự giác như vậy, thì trên bước đường tu hành sẽ không mắc phải lỗi lầm, tránh khỏi những điều đáng tiếc xảy ra.

Mong rằng tất cả chúng ở đây, mỗi lần thỉnh nguyện thấy những lỗi lầm không tốt ráng sửa, chừa bỏ đừng để tái phạm lần thứ hai, thứ ba. Bởi vì nay nó là lỗi nhỏ, nếu mình không khéo để tái phạm mãi lâu ngày thành lớn. Nên khi thấy lỗi rồi, từ đây về sau phải gắng sửa đổi, không để sơ sót nữa. Giả sử có tái phạm thì chỉ lần thứ hai là cùng, chớ đừng để đến lần thứ ba, thứ tư. Đó là Thầy nhắc nhở chung cho toàn chúng.

Bây giờ tới phần nhắc việc tu hành. Trong chúng có những người ngồi thiền, thấy vài điều xảy đến bất thường, nhưng vì sợ không dám trình cho Thầy biết, cứ ôm ấp nghi ngờ, tu hành không tiến. Hôm nay Thầy cho phép ai có điều gì đột biến trong tâm mình, xin phép Ni sư Quản chúng lại trình cho Thầy biết. Vì mọi người tu ở đây, tuy không tuyên bố nhập thất nhưng sự thật là nhập thất lỏng, nhập thất tập thể, dẹp tất cả duyên bên ngoài, chỉ ở trong nội viện, dứt những ràng buộc, lôi kéo khiến tâm mình xao xuyến.

Ở các nơi thời giờ tu không được nghiêm nhặt. Ở đây, thời khóa khít khao, đồng thời buông cả duyên bên ngoài, chắc chắn tu hành có tiến. Tiến là sự đột biến trong nội tâm. Nếu có điều gì xảy đến đều phải trình cho quí thầy biết, để thấy cái đó là đúng hay sai. Nếu đúng, khuyến khích để tiến thêm, nếu sai phải sửa liền kẻo thành bệnh. Bởi vậy, người lãnh trách nhiệm hướng dẫn tu mang nhiều trọng trách, thấy như không có giảng dạy nhiều mà sự thật là phải theo dõi từng bước đi, từ hành động tới nội tâm chuyển biến thế nào, để biết rõ mà hướng dẫn.

Mỗi người chúng phải đem hết tâm lực vào sự tu, đừng để điều gì ràng buộc vô lý. Nếu mình không buông hết duyên bên ngoài sẽ tự cột lấy duyên bên trong. Ví dụ như duyên huynh đệ làm chướng ngại sự tu hành, trái với sở nguyện của mình. Ở đây, Thầy muốn những năm cuối đời Thầy sẽ có một số Tăng Ni tu có kết quả tốt. Thầy đang trông đợi. Tụi con đến đây tu, phải nỗ lực, làm cho được điều Thầy đang trông chờ. Nếu tụi con vào đây mà tâm hồn vẩn vơ, bị lôi kéo bởi những việc vô lý, sẽ trở ngại sự tu, trái với sở nguyện của Thầy. Thầy mong tất cả ý thức được con đường tu hành của mình.

Khi tụi con phát nguyện vào đây, những người thân thuộc cho đến người bên ngoài đều nghĩ rằng tụi con ở đây một ngày xứng đáng một ngày. Do đó, không đứa nào được chần chờ, chậm trễ, để một ngày qua vô ích. Tụi con phải cố gắng, nỗ lực tiến đến mục đích tối hậu.

Nói cố gắng không có nghĩa là quá kềm, mà phải tỉnh luôn luôn, không để một chút mê mờ lôi kéo. Có tỉnh như vậy, tụi con mới chóng dẹp được phiền não, bớt đi vọng tưởng. Chỉ có mê mới sanh ra điên đảo, tăng trưởng phiền não, tỉnh thì mấy cái đó không có. Vì vậy tụi con từ lớn tới nhỏ phải luôn luôn tỉnh sáng đừng để cho cái mê làm mờ mịt, bị tập khí lôi dẫn sanh ra phiền não, tu hành lui sụt, đánh mất sở nguyện ban đầu.

Tất cả tụi con nên thấy những gì mình còn sơ sót, không phải chỉ những lỗi bên ngoài thôi, cả những lỗi từ nội tâm dấy động, phải ngay đó làm chủ, buông sạch không còn mảy may. Một ngày ở đây là một ngày thanh tịnh, không phải một ngày vô ích. Như vậy tu mới tiến được, mới kịp với tuổi già của Thầy. Nếu tụi con chần chờ, Thầy đã già, tới chừng Thầy theo Phật, tụi con tu có gì xảy ra ai biết để chỉ dạy? Cho nên ráng nỗ lực đừng chần chờ, đừng để tâm mình xao xuyến loạn động vô ích. Tất cả phải tận lực, đi đâu làm cái gì cũng tu, trong khi tụi con cuốc đất cũng tu, nấu cơm ở nhà bếp cũng tỉnh sáng. Luôn luôn tỉnh sáng, đừng để tâm chạy theo ngoại cảnh, làm việc gì biết việc đó. Trong khi làm việc phải nhiệt tình nhưng không để tâm xao lãng, thì sẽ thành công trong việc tu hành.

Nếu chỉ tu trong giờ ngồi thiền, ngoài ra chạy ngược chạy xuôi là không đúng với tinh thần Thầy dạy. Ở đây, Thầy đặt thời khóa chỉ là phương tiện, còn giờ nào phút nào cũng là giờ phút để tu, không phải tới giờ tọa thiền, tụng kinh mới tu. Hiểu vậy, mỗi người tự kiểm, dè dặt từng tâm niệm, lời nói, hành động, chắc chắn lỗi lầm ít xảy ra. Tụi con sẽ thấy mỗi ngày được thanh tịnh, an lạc hơn. Như vậy mới rõ giá trị của sự tu. Còn nếu cứ thả trôi, mai kia nhìn lại mình vẫn như trước, không tiến chút nào, tụi con sẽ chán nản thối tâm.

Nên ý thức rằng đây là bước đường mới, tụi con phải nỗ lực, đừng chần chờ, đừng lôi thôi, phải tỉnh sáng luôn luôn. Đó là lời Thầy nhắc nhở, mong tụi con cố gắng!

Ngày 14-3 Giáp Tuất (24-4-1994)

Toàn chúng có tinh thần biết nhận lỗi sám hối, dù lỗi nhỏ, đó là điều đáng mừng. Mong rằng toàn chúng đều cố gắng tinh tấn tu để tròn bản nguyện của mình.

Làm việc trong chúng, sống với huynh đệ được hai điều hòa thuận và tinh tấn không bê trễ là điều tốt. Ở đây, nhắc lại cho toàn chúng nhớ, Thầy nghe có vài vị tuy quyết chí tu, nhưng thỉnh thoảng cũng có những niệm buồn nhớ. Trong lời nói đầu của Thanh qui đã nói, tu theo đường lối của Tổ Trúc Lâm Đại Đầu-đà thì phải tập tánh dứt khoát, đời ra đời đạo ra đạo. Mấy chữ đó phải hiểu cho thật kỹ, bởi vì mình tu là phải tự phát tâm, tự lập chí nguyện tu ra khỏi sanh tử. Người đời, sống trong phạm vi thế gian, cho nên theo nghiệp dẫn, lớn lên có gia đình con cái, rồi lo tạo sự nghiệp, tới già chết không thoát ra khỏi vòng lôi kéo của nghiệp. Bị nghiệp làm chủ dẫn đi trầm luân không biết chừng nào ra khỏi.

Ở đây chúng tuy còn nhỏ, nhưng tất cả đều thức tỉnh, quyết tâm bước chân đi vào đường đạo, ra khỏi sanh tử. Nếu ở ngoài đời, những niệm danh lợi, đắm mê tài sắc làm chủ mình, ngày nay vào đạo rồi thì phải thế nào? Phải bỏ những niệm đó. Nếu nó vẫn còn tiềm tàng trong tâm thức thì phải tìm mọi cách loại bỏ, không nên nuôi dưỡng. Hồi xưa mê, đi theo đường đời, ngày nay tỉnh, biết theo đường đạo. Đời chạy theo dục lạc thế gian, đạo thì dứt khoát xa lìa dục lạc.

Như vậy, hai con đường khác hẳn nhau, một đi xuống và một đi lên. Đi xuống thì dễ, đi lên rất khó. Đã can đảm cương quyết vào đạo, mỗi người phải cố gắng tối đa đừng để cho thói quen cũ ẩn núp trong tâm, nhiều khi hình thức là người tu mà tâm tư vẫn còn thế tục, như vậy không tốt. Mình phải có thái độ dứt khoát đâu ra đó, đời ra đời, đạo ra đạo. Ngày xưa mê thì sống như bao nhiêu người, ngày nay tỉnh phải thật tỉnh, không để mê trở lại. Đó là hướng đi mà mọi người quyết chí tu đều phải cố gắng.

Ở đây muốn tập cho người tu khi vào đạo, khẳng định chỉ một con đường tiến lên, không lui sụt, không thối chuyển. Cho nên mấy vị mới tới đây thấy khó hay dễ? Bắt ngồi thiền hai tiếng đồng hồ, ở yên một chỗ, không được đi rong, hơi mất tự do phải không? Nói theo lời thế gian là Thầy càng già càng sanh tật khó, ai mà ở gần thì phải chấp nhận cái khó đó.

Tại sao Thầy phải khó? Bởi vì đường lối tu tại Thiền viện Trúc Lâm rất là xưa cũ. Hệ phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời vào thế kỷ thứ 13, nhưng sau này người ta quên lãng đi, trở thành mai một. Bây giờ tới thế kỷ 20, chúng ta muốn làm sống dậy tinh thần đó. Nó rất cũ nhưng bây giờ lại rất mới, vì bao thế kỷ rồi không ai nghĩ nhớ tới tên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nữa. Bây giờ chúng ta làm sống dậy, là khơi gợi cái thiên hạ đã quên lãng, việc làm này rất khó. Khó ở mấy vấn đề:

Thứ nhất là người ta đã quên lãng rồi, nay muốn cho nhớ lại mình phải nói rất nhiều. Như vậy về phần lý thuyết phải nói rõ, người ta mới biết ngày xưa phái Trúc Lâm Yên Tử có những cái hay như thế nào, cao quí ra sao.

Thứ hai, họ biết được cái hay và cao quí của chư Tổ ngày xưa chưa đủ, mà phải làm sống dậy hiện thực, nghĩa là ngày xưa có những cái hay gì, ngày nay Thiền sinh ở Thiền viện Trúc Lâm cũng phải tập theo cái hay đó. Nhìn vào mình mà người ta đánh giá được người xưa. Đây không phải là việc dễ làm, cho nên Thầy muốn tất cả Tăng Ni đều phải có ý chí quyết liệt.

Khi vào đạo, nhất là vào Thiền viện Trúc Lâm, tất cả phải khẳng định trên đường tu, luôn tiến không bao giờ dừng, đừng nói là thối. Bởi vì dừng tức là thối, thối tức là lùi không còn cách nào kéo lại được. Tại sao chúng ta quyết chí như vậy? Vì mình đã dứt khoát vào đạo, đi con đường giải thoát, mọi khó khăn do thói quen tật cũ lôi kéo trì trệ, phải gan dạ tiến lên thì mới dứt khoát được. Tăng Ni ở trong Thiền viện, những người cũ tập ngồi thiền đã quen, ngồi hai tiếng đồng hồ không khó, còn những người mới tới, tuy tu lâu nhưng ở các chùa không ngồi thiền, bây giờ bắt đầu ngồi, quí vị cảm thấy khổ vì đau chân, đau lưng đủ thứ. Vậy mà ở đây bắt phải gắng ngồi suốt không tha, có phải ép cho quí vị khổ không?

Đúng ra người tu phải gan dạ. Ở tháp chuông, Thầy cho họ vẽ mấy bức tượng của ngài Thần Quang, Lục Tổ. Người vào đạo quên thân mới đủ tư cách để làm được việc lớn. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, không cần có nhiều đệ tử, chỉ cần gặp một người. Ngài Thần Quang lần đầu ra mắt Tổ, Tổ ngồi yên không ngó ngàng, không nói tới, Ngài vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Tổ. Đến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối mà gương mặt vẫn thản nhiên như thường. Mình mà lạnh thì sao? Vừa nhăn vừa run đủ thứ, còn Ngài vẫn bình tĩnh. Tổ thấy thế thương tình, hỏi:

- Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý cầu việc gì?

Ngài thưa:

- Con muốn vào đạo, xin Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.

Tổ bảo:

- Chư Phật ngày xưa muốn được đạo vô thượng, phải trải qua nhiều kiếp tinh tấn, bao đời làm việc khó làm, hay nhẫn việc khó nhẫn, còn không thể đến thay! Huống là, nay ông dùng chút ít khổ hạnh mà cầu được pháp chân thừa ư?

Ở đây có ai gan như ngài Thần Quang đứng suốt đêm ngoài tuyết không? Vậy mà còn bị Tổ chê, nên Ngài lén lấy dao chặt một cánh tay dâng lên để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Tổ biết đây là pháp khí nên hứa khả và đặt tên Huệ Khả.

Như vậy người dám quên mình, liều chết cầu đạo mới có thể gánh vác được việc lớn. Chỉ có mình ngài Huệ Khả mà hệ phái Thiền tông truyền mãi không dứt. Nếu Ngài nhút nhát như chúng ta thì có làm được việc gì? Như vậy việc đứng suốt đêm trong tuyết và chặt tay nói lên cái gan dạ của người cầu đạo, không phải là muốn được yên thân nhẹ trí, mà phải quyết đạt đạo, thà chết chớ không có lừng chừng lôi thôi. Chính nhờ gan dạ, quên thân mà Ngài lãnh hội được đạo lý Tổ Đạt-ma trao truyền, để từ đó tới nay Thiền tông vẫn còn truyền thừa.

Kế đó là Lục Tổ, khi Ngài đến Hoàng Mai, Ngũ Tổ bảo xuống nhà trù làm công quả. Có ông cư sĩ sai Ngài giã gạo. Vì Ngài ốm không đủ sức nặng cho cái chày cất lên, nên phải đeo thêm một viên đá, trải qua tám tháng như vậy. Chúng ta hiện nay làm cái gì nặng thì kêu người này, người nọ ra phụ. Ngài không như vậy, làm việc gì dù khổ nhọc cũng nhất định làm cho được, chết sống gì cũng làm. Nhờ tinh thần gan dạ đó nên các ngài đạt được sở nguyện của mình.

Ngày nay những người mới phát tâm tu thiền phải cố gắng. Nếu cứ được an ủi vỗ về hoài thì tâm đạo sẽ không kiên cố. Ở đây Thầy bắt ngồi thiền, đau nhức mấy cũng ráng chịu, thử coi được mấy người gan. Người gan dạ thì mai kia mới làm được việc lớn. Vào đạo mà khó một chút, đau đớn một chút chịu không nổi, thì nên nhường chỗ cho kẻ khác, vì nhút nhát quá ở lâu cũng không làm được việc gì.

Tại sao Thầy khó lắm vậy? Thầy nói cho tất cả hiểu rõ. Vì thời gian của Thầy không còn dài, sợ tới ngày nào đó Thầy theo Phật mà Tăng Ni ở đây tu chưa ra gì, chưa có ai đủ khả năng gánh vác sự nghiệp của Thầy. Nên Thầy đòi hỏi mọi người phải gan và cố gắng cho kịp thời gian Thầy còn có mặt, thấy được có những người xứng đáng thay thế cho Thầy, chừng đó mới yên lòng. Thời gian ngắn, Thầy phải gấp, bắt buộc mọi người phải cố gắng tu. Nếu tụi con tu có kết quả, mai kia sẽ làm được việc cho đạo.

Trách nhiệm tụi con ở đây không phải như chỗ khác, tu được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ở đây bắt buộc tụi con tu sao cho mọi người thấy người ở Thiền viện Trúc Lâm ra là những người quyết chí tu và phải có gì kỳ đặc vượt thường. Không thể vào như thế nào, đi ra cũng thế đó, không khác tí nào. Bởi vậy, ở đây trách nhiệm tụi con là phải vượt lên, không được dừng một chỗ. Do đó phải nỗ lực, kiên trì hoàn thành bản nguyện.

Lại nữa, tụi con tu có kết quả là làm đúng sở nguyện của Thầy, làm sống dậy Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Sống dậy ở chỗ hành động, chỗ đạt đạo của tụi con, chớ không phải sống dậy bằng cách nói suông cho người ta nghe. Mình phải thực hành, thấy đạo, rồi đem ra hướng dẫn người khác, như vậy mới là sống dậy thực. Nếu chỉ nói suông thì không thể làm sống dậy được. Cho nên tụi con phải có thực tu, thực chứng, không phải tu suông. Trách nhiệm đó quá nặng nề, không phải đơn giản. Vì vậy tất cả tụi con phải quyết tâm tu đến nơi đến chốn, để gánh vác trọng trách đó, chớ có lôi thôi.

Thầy chủ trương làm sống dậy Thiền tông Việt Nam, nhất là Thiền tông đời Trần, cái nghĩa sống dậy đó phải được thực nghiệm. Do đó, trông mong ở tụi con, mỗi đứa đều gan dạ cố gắng, ngang đây phủi bỏ mọi cái phàm tục, đừng chứa chấp, để làm được việc gì xứng đáng cho Phật giáo Việt Nam. Mai này nhìn vào, người ta quí trọng và theo học, để mọi người biết tinh thần Phật giáo Việt Nam không phải dạy tu cho có chừng, rồi chết như bao nhiêu người, không có gì khác. Trọng trách này, tụi con phải kề vai gánh vác. Các chùa vì phải lo cơm ăn, áo mặc nên Tăng Ni có khi phải làm công tác này nọ hoặc đi cúng kính. Ở đây, tụi con không phải lo lắng gì, chỉ một việc tu sáng đạo thôi. Tụi con tu đàng hoàng, khi Thầy còn, bảo đảm tụi con không đói rách.

Người quyết chí tu phải gỡ lần những tâm niệm đã huân tập ở thế gian, nếu còn sót lại phải đuổi đi, đừng cho dính mắc. Mọi tâm tư dồn hết trong một việc tu, chớ để ngoại cảnh chi phối. Đồng thời, những tâm niệm lệ thuộc vào tình cảm cha mẹ, anh em, Thầy Tổ đều buông, chỉ nhớ một câu: Tu sáng đạo đủ đền ơn cha mẹ, Thầy Tổ. Ngồi đây nhớ thương, khóc nước mắt lên tới mắt cá cũng chưa đủ đền ơn. Chỉ có tu được mới đền đáp tứ trọng ân. Nếu tụi con không chịu tu, chỉ ngồi nhớ ơn người này, người nọ, đó là cái cớ để xao lãng. Đừng nuôi dưỡng những tâm niệm không đúng với hạnh nguyện giải thoát. Đó là lời nhắc nhở của Thầy, mong rằng tất cả tụi con phải mạnh dạn can đảm, đừng e dè nhút nhát rồi không tiến được bao nhiêu, không làm tròn sứ mạng Thầy đã giao phó.

Như vậy, điều thứ nhất là làm sao thực hiện cho được mục đích ban đầu mình đã nhắm, nghĩa là đừng nghĩ mình tu có chừng, tu lấy có hay tu an nhàn. Đi tu là quyết tâm cầu giải thoát sanh tử, nên xa lìa cha mẹ, anh em, quyến thuộc, bạn bè để vào đạo tiến tu với mục đích cao cả. Tụi con không thể nào quên hay lơ là được. Lúc nào cũng nhớ tỉnh giác, nếu lơ là thì sẽ giải đãi. Một phút một giây giải đãi là trái với sở nguyện ban đầu, phụ công sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.

Vào đạo rồi, tụi con phải quyết chí tiến tu, không được thả trôi. Ở đây tạo điều kiện cho mấy đứa tu, đó là giúp tụi con giữ tròn bản nguyện, chớ không phải bắt tụi con làm gì cực khổ. Chỉ vì muốn tụi con đạt được sở nguyện nên hơi khó khăn một chút. Nếu mình đi tu mà kết thúc cuộc đời không ra gì, bỏ công ơn cha mẹ, bỏ người thân đến với đạo, mà rốt cuộc không tới đâu, như vậy là phí cuộc đời vô ích. Tụi con quyết chí tu thì phải nuôi dưỡng tâm ban đầu, thực hiện cho được chí nguyện xuất trần của mình.

Điều thứ hai, Thầy đã từng nói với tụi con, chỗ này lập ra là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Cả đời Thầy lo cho Tăng Ni tu, nhưng những hoàn cảnh trước Thầy sắp đặt chưa được vuông tròn, như ý. Chuyến này Thầy quyết làm cho được, nên tạo đủ điều kiện, đủ duyên tốt để tụi con tiến tu không dừng. Quyết tâm của Thầy là muốn tụi con tu được. Nếu tụi con đến đây mà tu không được, vô tình cô phụ chí nguyện ban đầu, phụ công giáo dưỡng cũng như lòng mong đợi của Thầy.

Hai bổn phận đó tụi con phải cố gắng, đừng có lơ là. Ngày xưa thời đức Phật là thời chánh pháp, nhiều người tu đắc đạo. Đức Phật nhập Niết-bàn năm trăm năm sau là thời tượng pháp, một trăm người tu chừng năm mươi người đắc đạo; thời mình là thời mạt pháp, ngàn người tu chưa có một người đắc đạo. Nhưng nếu thời chánh pháp mà người tu lơ là cũng trở thành mạt pháp, còn thời mạt pháp mà mình nỗ lực tiến tu cũng thành thời chánh pháp.

Thầy dẫn chứng, như thời đức Phật tại thế có một số thầy Tỳ-kheo hoàn tục, như vậy là chánh hay mạt? Đức Phật ra đời thật hi hữu, mà những người đó không quyết tâm đem hết ý chí tu hành, lại lơi lỏng, buông trôi đến phải hoàn tục, nên không được lợi bao nhiêu. Thời này là thời mạt pháp, nhưng nếu ai quyết tâm tu thì cũng có thể thấy đạo, đối với họ cũng như thời chánh pháp.

Như vậy chánh pháp hay mạt pháp không quan trọng, cốt là ở con người quyết tâm hay không quyết tâm. Nếu quyết tâm tức chuyển mạt pháp thành chánh pháp, không quyết tâm dù thời chánh pháp cũng trở thành mạt pháp. Mình sanh trong thời mạt pháp hoàn cảnh khó tu nên ít đạt đạo, nhưng trong cái khó đó biết cố gắng nỗ lực, người xưa chịu khó mười, bây giờ mình chịu khó một trăm, chắc cũng tiến được. Vì vậy Thầy mong tất cả tụi con từ lớn tới nhỏ, đã quyết tâm tu cầu giải thoát phải can đảm đi thẳng, đừng để cho cái gì trói buộc lôi kéo mình phải lùi bước, nghiêng ngả bên này bên nọ thì uổng một đời, có duyên tốt gặp Phật pháp xuất gia mà không đi đến đâu.

Kế đó là phần tu, nhiều người có tâm Bồ-tát thấy mình chỉ ngồi tu, không làm lợi cho ai, sợ ăn của người ta mang tội, nên tu chút chút đã muốn ra làm này nọ cho thiên hạ. Nếu mình tu chút chút ra giúp thiên hạ thì có lợi chút chút; mình tu thật hay, thật cao tới chừng ra giúp thì lợi ích cũng nhiều. Ví như mình học lớp năm, thấy người ta dốt ra dạy họ thì nhiều lắm tới lớp bốn. Còn bây giờ mình học tới đại học rồi đi dạy sẽ được đến lớp mười hai hoặc hơn nữa.

Như vậy mới thấy rằng, ngồi một chỗ tu không có nghĩa là tiêu cực, chính tâm bê tha của mình mới là tiêu cực. Cho nên phải quyết chí tu sáng đạo rồi đem cái sáng đó chỉ dạy cho người, người ta mới sáng được. Nếu mình tối tăm mà chỉ dạy thì chỉ đưa người ta tới chỗ mờ mịt thôi, không sáng đạo được. Bởi vậy, cái nhìn của Thầy khác hơn người. Thầy chỉ mong tụi con tu thật kỹ, thật đúng, có kết quả tốt rồi sẽ dạy người ta, chớ mình được chút ít chưa ra gì mà lo cho người khác thì mình và người đều không tới đâu, tuy có lòng tốt nhưng kết quả rất nhỏ nhoi.

Kế đó, tụi con nên biết, tu hành muốn đạt được đạo không phải việc giản đơn, không phải chuyện làm năm, bảy tháng mà làm cả đời. Các Thiền sư thường dạy người tu phải có tâm kiên cố và trường viễn, nghĩa là kiên cố mãi mãi, không phải một, hai, ba năm thôi. Bởi vậy đứa nào quyết chí tu bền vững suốt đời không thối chuyển, không một niệm chán nản, người đó bảo đảm đi tới nơi tới chốn. Còn nếu hăng hái buổi đầu rồi sau thả trôi thì không tiến được.

Ở ngoài đời, đi học muốn qua mỗi cấp phải trải mấy năm, muốn thành người có tài cũng phải mười mấy năm, huống chi mình tu chuyển từ người phàm thành bậc Thánh thì dễ sao được. Nên mình phải có tâm bền vững, lâu dài, không nản giữa đường mới có kết quả. Chẳng những đời này mà nhiều đời sau nữa vẫn tiếp tục tu, mới đến nơi đến chốn. Vì tâm lười biếng nên muốn tu cho mau được kết quả, muốn làm mau rồi nghỉ đó là lười biếng. Chúng ta cứ làm cho xong việc, bao lâu cũng được, không nói làm rồi đặng nghỉ. Có nhiều người đem những điều không phải Phật pháp ra dạy người, họ bảo năm, bảy tháng sẽ chứng ngộ, ai nghe cũng thích. Thích là tại sao? Tại muốn mau, tâm lười biếng thích cho mau rồi nghỉ, vì vậy mà dễ bị gạt.

Cho nên khi phát tâm tu, tụi con đừng nghĩ mấy năm xong. Mình quyết tâm tu, ngày nào cũng tu, không bao giờ thối Bồ-đề tâm nên gọi là trường viễn, đời này chưa mãn đời sau tiếp, cứ như vậy hoài cho tới khi thành Phật mới thôi. Thành Phật là mức cuối cùng, chưa thành Phật thì chưa thôi, đừng nói bao lâu. Chỉ sợ mình đi trong mê, chớ mỗi ngày mỗi cố gắng ra khỏi đêm tối vô minh tức là đang sáng từ từ. Sáng một chút là nhẹ đi một chút. Càng sáng thì càng nhẹ, càng nhẹ thì càng vui, tu như vậy là vui, đâu có khổ. Ngồi thiền hai tiếng đau chân quá, khổ một chút, đến khi tu tiến rồi không thấy khổ, chỉ một con đường an vui.

Nghe nói dài, tụi con thấy ngán. Sự thật khi mình thấy đạo rồi, cuộc sống của mình là một đời làm lợi ích cho nhiều người, đó là chỗ vui của mình. Sống trong niềm vui thì không có gì chán cũng không thấy dài. Sanh tử bao nhiêu lần cũng được, sanh ra đời gặp lại bạn bè, gặp những người có duyên với mình, dạy họ tu, vui vẻ dẫn họ tiến lên hoài cho đến chỗ tột cùng. Chỉ có tu không tới đâu, sanh tật này chứng nọ, trục trặc hoài, đó mới khổ. Nếu mỗi lần trở lên mỗi lần tiến, giúp ích được nhiều người thì sự có mặt của mình là vui. Còn nếu mình ra đời như món nợ của xã hội thì buồn lắm.

Tụi con phải tu làm sao để mỗi ngày phiền não mỗi nhẹ, trí tuệ mỗi sáng, chớ đừng càng ngày trí tuệ càng mờ tối, phiền não càng đậm thêm. Phải tiến cả hai mặt: bớt phiền não và tăng trưởng trí tuệ. Hai mặt này không tiến thì không lợi ích cho đời tu.

Bây giờ Thầy nhắc nhở riêng. Vừa rồi có hai người Úc xin Tri khách vào tập tu. Khi ngồi thiền chung, nếu tụi con không nghiêm chỉnh, người ta sẽ cười. Phải ráng ngồi nghiêm chỉnh đúng hai tiếng như trong Thanh qui đã qui định. Lúc xả thiền nhớ xoa chà đúng như Thầy dạy. Ai muốn làm thêm các động tác gì khác thì chờ khi về liêu. Phải tập đúng qui củ ngay từ bây giờ, sau thành nếp tốt cho người bắt chước.

Ngày 28-3 Giáp Tuất (8-5-1994)

Kỳ thỉnh nguyện này dường như ít lỗi hơn kỳ trước, nên sám hối cũng ít. Mỗi tháng đều có giảm những lỗi lầm, đó là điều đáng khích lệ.

Bây giờ Thầy nhắc thêm vài điểm. Tụi con tu không chỉ trong giờ ngồi thiền hay giờ tụng kinh, sám hối, mà trong tất cả giờ. Ở trường hợp nào, làm công tác gì, tụi con cũng ứng dụng tu thì sẽ tiến nhiều. Nếu trong công tác, tụi con thả trâu chạy tứ tung, tới giờ ngồi thiền kềm chế hơi cực. Ở đây, tụi con nên dùng hết thời giờ trong sự tu, nếu bỏ sót cũng chút ít thôi, tu như vậy mới thấy được bước tiến. Nhìn lại tụi con tu bao nhiêu năm rồi, bây giờ tới đây mà còn phí thời giờ rất uổng! Ráng tinh tấn, đừng để ngày giờ luống qua.

Thầy nhắc thêm, tụi con ở đây tu, thấy dường như Thầy hơi khắt khe, kềm chế tụi con. Đó là Thầy muốn tụi con trọn vẹn trong việc tu, không mất thời giờ vô ích vào bất cứ việc gì, cho nên dùng mọi cách để che chở tụi con đừng bị mất thời giờ.

Trước đây khoảng một tháng, có một tu sĩ bên Mỹ về thăm, đến đảnh lễ Thầy. Ông quấn y theo người Hoa, về thăm thân nhân ở Rạch Giá.

Thầy hỏi:

- Chú tu ở chùa nào?

Chú nói:

- Thưa, ở chùa Vạn Phật bên Mỹ.

Thầy hỏi:

- Trong chùa đó, lối tu thế nào?

Chú nói:

- Tăng Ni ai thích tu pháp gì thì tu. Cũng có người thích tu khổ hạnh không nằm, ngủ cũng ngồi luôn. Ngoài những giờ sanh hoạt, suốt ngày đêm chỉ ngồi. Ngày ăn một bữa đúng ngọ, sáng chiều không ăn. Tất cả thức ăn đều không nêm nếm, mỗi lần ăn một tiếng đồng hồ. Người Mỹ vào tu cũng như vậy. Ban đêm ngồi thiền trời lạnh như cắt cũng không được quàng gì thêm, chỉ mặc áo tràng và y mà thôi.

Tụi con thấy ở đây tu, tuy ngồi thiền ngày đêm sáu giờ cũng hơi cực, nhưng còn được nằm ngủ. Tụi con một ngày nằm mấy tiếng?

- Dạ, sáu tiếng.

Như thế là nằm khá nhiều rồi, vậy mà còn muốn ra gốc thông nằm nữa! Người hay nằm là hiện tượng của giải đãi, lười biếng. Cho nên bên đó người ta tạo điều kiện tinh tấn, chỉ ngồi ngủ chớ không nằm, giống như Hiếp tôn giả lưng không bén chiếu. Ở đây, Thầy giữ nếp trung hòa, không khổ hạnh, cũng không buông lung. Mình theo trung đạo, ráng làm cho đúng thì kết quả tốt.

Vừa rồi, chú Chánh Minh Tâm đệ tử Thầy cũng vô trong đó tập tu, thuật lại với Thầy là có người muốn vô nhập chúng tập tu, vị Sư trưởng hỏi:

- Tại sao ông muốn vô đây tập tu?

- Vì con tin tưởng tất cả sự chỉ dạy của Thầy.

Lúc ấy, vị Thầy liền nhổ nước miếng, rồi nói:

- Nếu tin tưởng nơi tôi thì liếm đi!

Hành động rất lạ lùng, khó ai dám làm. Vậy mà vẫn có người tin và ở lại tu. Như vậy tụi con thấy, trên thế gian này còn rất nhiều người quyết tâm tu hành, dù khó khổ mấy cũng không nệ, miễn là được tu. Lại thêm một điều nữa, nếu ai ở trong chúng có vẻ hơi nổi là ông Thầy đem ra tố, bảo là kiêu mạn, là ngã, chê đủ thứ...

Tụi con ở đây tu thật nhẹ nhàng, mà lâu lâu có người cũng thấy mỏi mệt. Nhớ lúc trước được tự do, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm, bây giờ hơi mất tự do, lâu lâu hối hận muốn xuống núi. Nhưng tụi con nghĩ kỹ, không phải bắt buộc tụi con ở một chỗ để làm cái gì cho Thầy. Chính vì lo chuyện tu hành của tụi con, sợ rề rà chậm tiến, nên muốn thúc cho đi nhanh. Nếu ở đây năm mười năm không ra trò gì thì rất uổng phí. Thầy muốn tất cả tụi con ý thức được mình đã quyết tâm tu tiến tới giải thoát, lúc nào cũng phải tỉnh giác, đem hết ý chí, khả năng của mình để khắc phục thói quen buông lung cũ. Một ngày ở trong Thiền viện là lợi ích một ngày. Một tháng, một năm ở trong Thiền viện phải thấy có sự tiến bộ khác hơn xưa, như vậy mới xứng đáng.

Khi thành lập Thiền viện, Thầy đã tuyên bố với mọi người, Thầy tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành đến nơi đến chốn. Chẳng lẽ Thầy tuyên bố như vậy mà năm, mười năm không ai tu hành ra gì, Thầy biết nói sao! Vì Thầy muốn tụi con tiến, muốn cho Thiền viện đầy đủ uy tín từ bây giờ đến mãi về sau, muốn những ai vào đây đều là những người xứng đáng, một ngày có lợi một ngày, một tháng có lợi một tháng, một năm có lợi một năm, không bỏ phí ngày nào hết. Như vậy, không hổ thẹn đã phát tâm vào đây tu rồi cũng y như xưa. Ngày xưa hay cười giỡn, bây giờ đi ra cũng cười giỡn, ngày xưa loạn tưởng đủ thứ bây giờ cũng loạn tưởng đủ thứ. Vậy có gì hay đâu? Nhất định tụi con phải có tiến Thầy mới chịu.

Vì vậy, tất cả tụi con đều phải cố kềm chế những thói quen cũ. Một là đừng cho nó lôi kéo. Hai là luôn luôn phải tự sách tấn, đừng để lười trễ sau thành thói quen xấu, rồi phải hổ thẹn với huynh đệ. Cùng tu với mình mà người ta tiến bộ đáng kể, còn mình không ra gì. Thứ ba, từ hành động đến lời nói, tụi con luôn luôn có sự e dè, cẩn thận, có nề nếp đừng bừa bãi.

Nơi đây thường có Phật tử từ các nơi về tập tu, chỉ cần một vài đứa buông lung, thiếu tư cách, tất cả đều mang tiếng chung, như vậy là không hay. Cho nên, tất cả tụi con phải dè dặt từng hành động, lời nói, đàng hoàng chín chắn, đâu ra đấy, xử sự với ai cũng phải mở rộng lòng tha thứ, cảm thông. Nói cách khác phải là người từ bi, buông xả, không cố chấp, được như vậy mới xứng đáng. Nếu tụi con còn cố chấp cái này, bỏn sẻn cái kia tức là dở, vì ở đây không có tư hữu, không có cái gì là của mình, khỏi lo bảo thủ. Cũng đừng có tâm hẹp hòi so đo hay phân bì với mọi người.

Tất cả tụi con cố gắng nhớ ba điều Thầy nhắc, ráng tu tiến không để mất thời giờ. Thầy mong tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 13-4 Giáp Tuất (23-5-1994)

Thỉnh nguyện hôm nay trong chúng có tiến, không biết bước tiến đó thật sự hay chỉ ở bên ngoài. Thấy gần đây lỗi lầm cũng giảm, đó là điều tốt, không biết thật sự giảm hay còn ẩn núp bên trong. Mỗi ngày một giảm tội lỗi là điều đáng mừng. Mong rằng trong chúng từ lớn tới nhỏ đều cố gắng tinh tấn tu hành, đừng để cho những tâm niệm thế gian, phiền não chen lẫn. Toàn thể đều được thanh tịnh tu hành, đạt kết quả tốt, đó là mong ước của Thầy.

Hôm nay có nhiều điều nhắc nhở trong chúng:

Điểm thứ nhất, khuyên tất cả chúng, mỗi người phải tự thấy điều nào trọng yếu và điều nào không cần thiết, để xử sự với mọi người được tốt đẹp, đem lại lợi ích cho bản thân cũng như cho những huynh đệ chung quanh. Ở trong chúng, mọi thứ hơn thua phải quấy đều phải bỏ, dù cho mình lý luận hơn người, cái hơn đó không phải hay đối với người tu. Người tu phải làm sao buông xả hết những tâm niệm phiền não, được an vui thanh tịnh, đó mới là hay. Còn mình muốn hơn hay muốn thắng huynh đệ không phải là điều tốt.

Tụi con nên nhớ, ở đây điều Thầy trông chờ tụi con là một tiếng “À!” lớn, cười to. Còn lý sự hơn thua chỉ là cái khôn khéo thế gian, không phải đạo đức thâm hậu. Tất cả tụi con phải cố gắng tu, đừng ham lý luận, tranh cãi hơn thua, tự mình phiền não và làm người khác phiền não, không hay.

Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện.” Câu đó rất là thâm trầm đối với người tu thiền. “Chế tâm nhất xứ” là giữ tâm ở một chỗ. Chế là kềm chế, nói nhẹ hơn là giữ tâm ở một chỗ thì không việc gì chẳng xong. Người nào ngày đêm giữ tâm không loạn động, người đó sớm chầy gì cũng xong việc lớn. Còn để tâm mình buông lung phóng túng, chạy theo việc này việc kia, dù cho tuổi đạo nhiều, kết quả tu cũng chẳng bao nhiêu. Vì vậy, tụi con lấy trọng tâm của sự tu là thắng các loạn tưởng, giữ tâm ở một chỗ, đừng để những niệm vui buồn làm tâm mình xao xuyến, dao động.

Phải luôn luôn chí quyết làm một việc. Một việc này xong thì xứng đáng một đời tu, không hổ thẹn là người xuất gia mà tâm chẳng xuất trần. Phật đã dạy, chư Tổ cũng dạy, người tu đừng để tâm lăng xăng lộn xộn. Ngài Vô Nghiệp nói một câu tụi con phải nhớ suốt đời: “Chớ vọng tưởng!” Câu nói hết sức giản đơn, hầu như tất cả tụi con đều biết, nhưng vọng tưởng thì cứ vọng tưởng, phải không? Ngài chỉ nhắc một điều là “chớ vọng tưởng”, không hỏi đông tây gì hết. Đức Phật nói tâm ở một chỗ việc gì cũng xong, còn ngài không nói như vậy mà nói “chớ vọng tưởng”. Không vọng tưởng thì tâm ở một chỗ rồi.

Như vậy, Phật Tổ dạy không ngoài chủ đích phải giữ gìn đừng để tâm buông lung, loạn tưởng. Tâm không buông lung, không loạn động là định. Định thì trí tuệ sáng, sáng ít hoặc sáng nhiều, không thể nào không sáng. Đây là chỗ thiết yếu của sự tu. Nếu mình tu mà tâm loạn tưởng hoài, dù nói hay hoặc có hạnh tốt cũng khó thoát khỏi sanh tử. Chỉ khi nào sống được với tâm chân thật của mình, chừng đó mọi điều nói ra đều là lẽ thật do chính mình thấy biết, không phải từ bên ngoài. Tất cả tụi con quyết tâm tu phải luôn nhớ việc giải thoát sanh tử. Biết “chế tâm nhất xứ” thì giải thoát hiện tiền, không phải xa, không phải chuyện huyền thoại mơ màng. Đó là lẽ thật, Thầy nhắc cho tất cả nhớ để cố gắng tu.

Qua điểm thứ hai, Thầy chuẩn bị đi ngoại quốc. Giả sử Thầy đi hai, ba tháng thì ở nhà làm sao? Ở nhà yên ổn tu hay là ở nhà loạn lên? Trên đường tu, nếu luôn được nhắc nhở mình mới tu, còn không có ai nhắc nhở thì bê tha, như vậy rất là trẻ con. Mình là người thật tu, khôn lớn cả rồi, dù có được nhắc nhở thường xuyên hay không, bổn phận mình đều phải gắng tu. Vì vậy, trong thời gian Thầy đi khỏi khoảng hai ba tháng, ở nhà tụi con mỗi đứa đều cố gắng chăm chỉ tu hành, không bê tha, cũng không bao giờ khởi niệm lăng xăng làm rộn cho mình, rối cho người.

Nếu tụi con nghĩ Thầy đi vắng không ai nhắc nhở, xách gói đi đông đi tây, đó là một suy nghĩ sai lầm. Không có chỗ nào an ổn hơn nơi mình đang tu, được cùng huynh đệ vui hòa, cùng dìu dắt nhau tiến lên, đó là một môi trường rất tốt. Nếu không có người nhắc nhở làm loạn lên là không tốt.

Trong thời gian Thầy đi khỏi, Ni sư Quản chúng chịu trách nhiệm thỉnh nguyện trong chúng, mỗi tháng hai kỳ, còn những giờ rảnh mở băng nghe những lời nhắc nhở của Thầy, ôn tới ôn lui cho thâm nhập. Dù có mặt Thầy hay không có mặt, tụi con tu hành cũng bình thường, không có gì làm mình xao lãng.

Tất cả tụi con đã quyết chí tu, tự nhiên trên đường tu mỗi ngày sẽ mỗi tiến, dù không được nhiều nhưng cũng được một hai bước. Như vậy, trên con đường xa nếu có bước tiến, dù nhiều hay ít, một ngày nào đó sẽ gần không còn xa nữa. Nếu tụi con có duyên thù thắng thì đến đích sớm, duyên chậm thì đến sau mọi người, nhưng cũng sẽ đến. Vì vậy tụi con tu đừng nản lòng, cũng đừng chờ ngộ. Nghe Thầy nói phải “À”, phải cười, rồi cứ ngồi mong sao cho mình ngộ, mong đó cũng là bệnh. Đừng mong ngộ, chỉ nơi mình không có vọng tưởng thì ngày kia sẽ gần. Nếu mong ngộ, mà vọng tưởng cứ cuồn cuộn lên thì dù mong cũng không bao giờ có kết quả.

Cũng như nước đục muốn lóng trong, tụi con để chút phèn vào quậy, khi quậy cứ nhìn trông cho nó lặng, có lợi gì không? Hay là quậy rồi để yên một lúc tự nó lắng cặn xuống, nước trong veo? Thời gian đủ là nước trong. Nếu ngồi chờ đợi mà thời gian chưa đủ nước cũng không trong. Chỉ có khôn ngoan khi quậy rồi rút tay ra đừng quậy nữa, nước mới yên, yên rồi mới trong được. Nước chưa yên mà quậy hoài làm sao trong?

Bởi vậy, người tu nên hiểu, đối với con đường giác ngộ mình phải tiến tới nhưng đừng trông mong. Phật dạy vọng tưởng là thứ che đậy làm cho tâm thể thanh tịnh không hiện, mình phải buông xả nó. Nó yên lặng thì thể thanh tịnh tự sáng, khỏi trông chờ. Việc nên làm mình phải cố gắng làm, kết quả đủ duyên tự đến, đừng trông mong vô ích. Đó là điều Thầy nhắc nhở, tụi con cố gắng tinh tấn tu hành!

Ngày 28-4 Giáp Tuất (7-6-1994)

Hôm rồi có mấy Xơ bên Công giáo lên đây thăm, xin Thầy cho vô xem giờ ngồi thiền của chúng. Khi về, họ xin phép Thầy cho lên tập sự một hoặc hai tuần, Thầy có hứa sau Tết sẽ cho. Vậy có mấy điều tụi con phải nhớ:

Điều thứ nhất: Tụi con phải cẩn thận về hành động của mình, làm việc nhẹ nhàng êm ái, đừng thô tháo. Ngày trước có đạo hữu Ba nói về âm nhạc. Anh nói, một số nghệ sĩ vào chùa, nghe quí thầy quí cô đánh tiếng chuông, họ có thể đoán là người tu lâu hay mới tu. Người tu lâu tâm hồn an tịnh, đánh tiếng chuông ngân nghe thanh thoát, còn người mới tu thô tháo, đánh nghe chát chúa khó chịu. Bởi vậy, hành động thô tháo của mình làm người ta đánh giá mình không hay.

Giờ thiền, tụi con phải ngồi đủ hai tiếng. Trong Thanh qui Thầy để hai giờ, nếu tụi con ngồi chừng tiếng rưỡi xả tức là nói được mà không hành được, đó là thiếu sót lớn.

Điều thứ hai: Về ngôn ngữ tụi con phải dè dặt, ăn nói đàng hoàng, đừng phát ngôn bừa bãi. Người khác nhìn vào, nghe những lời mình nói, họ đánh giá sự tu hành và tổ chức của mình không tốt. Bên Công giáo, người ta nói năng cư xử rất lễ độ, không có tánh cách ngang ngạnh. Trong đạo của mình, sự giáo dục cũng còn thiếu sót, nhiều khi nói chuyện với nhau thiếu lễ độ. Tụi con nên tập có lễ phép. Khi người ta nhìn thấy cử chỉ, hành động, cách cư xử của mình, người ta biết đây là tổ chức có qui củ, nề nếp đàng hoàng, tu hành chân chánh. Còn nếu không khéo, người ta đến học với mình mà lại chê cười thì không tốt.

Hồi xưa Thầy đi họp ở Vũng Tàu, trong buổi họp có chư Tăng Ni và những vị Linh mục. Chư Tăng Ni rất đông, nhưng khi phát biểu ý kiến không có đường hướng, lý luận không chặt chẽ. Còn khi Linh mục hay Ma xơ đứng dậy phát biểu, ý kiến rất vững vàng, khôn khéo. Vậy mới thấy, Phật giáo mình thiếu sự giáo dục cẩn thận, chín chắn từ lúc mới vào đạo, nên có những điều hời hợt lôi thôi, dễ bị người ta coi thường.

Điều thứ ba: Về ý, tụi con phải luôn an hòa, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ huynh đệ. Đừng bao giờ có ý ganh tị, hiềm hận hay bực bội với ai. Chúng ta phải tập sao cho thân khẩu ý thể hiện được đạo đức chân thật. Nói đạo mà ba nghiệp dở thì không giáo hóa được ai.

Bây giờ các tôn giáo bạn muốn tới học tập với mình, tụi con nghĩ do ảnh hưởng điều gì? Không phải vì tụi con tu hay họ đến học tập, mà vì người ta thấy Thiền tông có cái hay. Các nước phương Tây cũng sang Trung Quốc và Nhật Bản học Thiền. Bây giờ ở Việt Nam, mình tu theo Thiền tông, họ nghĩ gần, dễ tới học hơn, nên xin vào tập tu. Đó là vì họ quí Thiền tông, một đường lối tu không kỳ thị tôn giáo, lại có hướng cao siêu thoát tục.

Mấy năm nay sách thiền Thầy ra nhiều, họ cũng có đọc và tin tưởng, nên xin tới học, hi vọng sẽ lượm lặt được vài điều hay. Người ta cũng nhìn mình với con mắt có cảm tình, mong mỏi mình có bước tiến tốt để họ nương theo. Như vậy, trách nhiệm tụi con không phải nhỏ, vì các Xơ học với Thầy ít mà học với tụi con nhiều, vô ra, ăn uống... đều chạm mặt với tụi con, nên phải dè dặt giữ gìn từng lời nói và hành động. Nói lời nào ra lời ấy, đừng ăn nói lôi thôi. Phải luôn vui tươi, nói cười nhẹ nhàng, cẩn thận.

Bên Tăng có một Linh mục ở Sài Gòn xin tập tu, Thầy hứa qua Tết cho lên. Như vậy, hai bên Tăng, Ni đều có người đến học tập. Họ học tu với mình nên phải rất cẩn thận. Trách nhiệm tụi con lớn lắm, không phải nhỏ, do đó tất cả phải dè dặt.

Kế đó nữa, Thầy nhắc thêm, tụi con đừng phản bội mình. Khi đi xuất gia, có ai nghĩ vào chùa lâu lâu rồi trở chứng này nọ không? hay là mình quyết tu sau này thành người lương đống của Phật pháp, tiến tới giải thoát để cứu độ mọi người? Xuất gia là quyết tâm tu thoát ly sanh tử, nhất là những người còn trẻ, dám bỏ hết niềm vui và sự nghiệp thế gian để vào đạo là cả một hi sinh lớn lao. Đã quyết bỏ cái tầm thường để cầu điều siêu xuất mà tu một thời gian lại trở chứng này nọ, như vậy có phản bội sở nguyện ban đầu hay không? Đó là điều thứ nhất, đừng phản bội chí nguyện ban đầu của mình.

Thứ hai, đừng phản bội người chịu trách nhiệm lo lắng hướng dẫn mình. Người chịu trách nhiệm hướng dẫn bao giờ cũng trông đợi tụi con tu trở thành người hay, người tốt, có kết quả đàng hoàng. Lên đây tu mới có hơn hai tháng, mà có người “la lên” được rồi. Tụi con phải cố gắng không được chần chờ, phải nỗ lực chuyên tu. Đã chuyên tu thì mọi việc xảy ra chung quanh, hay dở, tốt xấu coi như trò chơi, không quan trọng, nên dồn hết tâm lực vào sự tu. Tu được là tụi con đi đúng, thực hiện đúng theo người hướng dẫn. Nếu tụi con tu không được, để mất thời giờ vô ích, là tụi con đã phản bội lại công người lo lắng rồi.

Thứ ba, đừng phản bội cha mẹ. Khi tụi con đi tu, ai cũng hứa hẹn: “Con sẽ ráng tu sau độ ba má.” Người nào cha mẹ mất rồi cũng thầm hứa nỗ lực tu để cầu cho song thân được siêu thăng, hay là hứa với anh chị, tu để đem lợi ích cho nhiều người. Như vậy, ở gia đình, cha mẹ anh em đều trông chờ tụi con tu có kết quả tốt, chớ không ai trông chờ con cháu mình mai mốt xách gói về để tóc ra đời, có ai trông chờ điều đó không? Cha mẹ thân quyến luôn trông chờ con em mình tu được kết quả, để mình nhờ lây công đức đó.

Những người không biết đạo, thấy con em đi tu thì bực bội, cho rằng ích kỷ, tiêu cực... Vậy khi tụi con tu có kết quả chính là câu trả lời thực tiễn, cho họ thấy mình đã làm lợi ích cho bao nhiêu người. Nếu không cố gắng tu, tụi con đã phản bội sự trông chờ của cha mẹ anh em phải không? Hồi trước ở nhà, mình đã chê thế gian phàm tục không đáng, rồi vào đạo cũng lẩn quẩn chạy theo phàm tục thế gian. Như vậy mình chỉ là người nói suông, chớ không làm đúng theo sở nguyện, mong ước của mình, đáng tiếc cho một đời tu!

Tụi con nhớ gìn giữ, để không trở thành người phản bội mình, phản bội Thầy Tổ, phản bội cha mẹ, anh em. Tất cả tụi con phải khéo nhớ và gìn giữ đừng để sai chạy, sai chạy là thiếu sót lớn. Đó là lời Thầy nhắc nhở, tất cả cố gắng.

Ngày 14-5 Giáp Tuất (22-6-1994)

Tụi con thường nghe trong kinh chữ “Ba-la-mật”, nghĩa giản đơn là “đến bờ kia”. Bờ kia là bờ nào? Phật thường dụ chúng ta đang ở bên bờ sanh tử mà muốn qua bờ Niết-bàn hay bờ giác ngộ bên kia, gọi là bờ kia. Bên này là bờ sanh tử, bên kia là bờ giác ngộ, ở giữa là dòng sông lớn, đó là dòng sông ái dục, đã cuốn trôi không biết bao nhiêu người ra biển cả. Chúng ta hiện nay có phần thức tỉnh, muốn tìm đến cứu kính giác ngộ. Hiện mình muốn tìm là đang còn đứng ở bờ sanh tử. Muốn sang bờ giác ngộ giải thoát cần phải có thuyền. Thân này ví như con thuyền dưới bến, nếu không có thuyền cũng khó qua bờ kia, nghĩa là nếu thân này hoại cũng khó tu cho giác ngộ.

Trong khoảng từ bờ này qua bờ kia, là dòng sông nước chảy xiết. Nếu chúng ta bước xuống thuyền, xô ra khỏi bến rồi ngồi chờ, nó tự qua bờ bên kia được không? Muốn qua bờ bên kia của một con sông lớn nước chảy xiết, mình phải vận dụng tận lực chèo bơi. Nếu thả trôi thì con thuyền đưa mình đi tới đâu? Nó ra tuốt ngoài biển rồi chìm. Như vậy, tuy xuống thuyền mà không chịu chèo bơi, rốt cuộc cũng chìm trong biển sanh tử, không đến bờ kia được.

Trên đường tu, tụi con phát tâm xuất gia giống như người bên bờ sanh tử đã bước xuống thuyền. Nhưng nếu chỉ phát tâm xuất gia, cạo tóc ở chùa, thậm chí có tỉnh đôi phần, mà không nỗ lực tinh tấn tu hành thì dầu ở chùa mười năm, hai mươi năm cho đến cả đời cũng chỉ là ông thầy chùa, không thể tiến tới cứu kính giác ngộ. Cũng như xuống thuyền rồi lại thả trôi, nó có qua bờ kia không? Hay là ra ngoài biển? Đó là hình ảnh hết sức cụ thể, nếu chúng ta lười, cứ ngồi đó chờ nước trôi thì không bao giờ đạt mục đích tới bờ kia, dù chúng ta có thuyền.

Cho nên tụi con nhớ, không bao giờ mình vào chùa rồi cứ thả trôi mà được thành Phật. Muốn được thành Phật phải trải qua bao nhiêu năm, bao nhiêu kiếp cần cù cực khổ, tinh tấn miên mật. Cũng như vậy, muốn tới bờ bên kia an lành thanh tịnh, chúng ta phải vận dụng sức lực của mình bơi chèo, đưa con thuyền đi. Khi tới bờ bên kia, lên bờ rồi liền bỏ thuyền lại. Cũng vậy, đạt tới chỗ cứu kính rồi, thân này có hoại mình cũng được an lành, giải thoát sanh tử.

Giải thoát sanh tử tức là ra khỏi, không mắc kẹt trong vòng trói buộc luân hồi nữa. Chúng ta nương thân này làm phương tiện đưa mình ra khỏi vòng sanh tử, nhưng hiện tại cái thân của mình đòi hỏi toàn là chuyện sanh tử. Như con mắt hay đòi nhìn hình sắc đẹp, căn mắt vô thường đuổi theo sắc trần vô thường, hai cái đó đi trong sanh tử. Tai là vô thường, âm thanh cũng vô thường, tai đuổi theo âm thanh. Rồi mũi đuổi theo mùi, lưỡi theo vị, thân đuổi theo xúc chạm... tất cả cái mình đuổi theo, thân căn và trần cảnh đều là vô thường sanh diệt. Nếu chúng ta cứ muốn thỏa mãn nhu cầu của nó sẽ không bao giờ thoát khỏi sanh tử. Cũng như chiếc thuyền, đi theo hướng gió, gió thổi đâu trôi dạt theo đó. Muốn nó đi đúng hướng, mình phải khắc phục, bơi chèo, hướng nó đi đúng mục đích.

Vậy nên người tu phải có ý chí, có nguyện lực sâu mạnh mới đi tới cứu kính, nếu không có ý chí và nguyện lực sẽ không bao giờ đạt được kết quả. Nên các vị Bồ-tát, mỗi vị mỗi hạnh nguyện riêng, khi thành Phật có cõi nước riêng. Như vậy, muốn đạt được chỗ mình muốn phải phát nguyện mạnh để thôi thúc mình. Lập trường và ý chí phải vững thì đời tu mới tới nơi tới chốn. Người nào tu khi thì hăng hái lúc lại thả trôi, sẽ không bao giờ đạt đến kết quả. Kết quả là do sự nỗ lực và cố gắng bền bỉ của mình.

Giả sử tụi con xuống miền Tây, từ bờ bên này con sông lớn muốn qua bờ bên kia, bơi xuồng khó hay dễ? Phải gắng sức bơi một hai tiếng đồng hồ mới qua tới, không phải dễ dàng, nếu thả trôi thì bị nước cuốn. Do đó, khi tu phải phát nguyện mạnh mẽ vững vàng. Nếu mình không bị lay chuyển, không thối chí thì con đường đạt đạo chắc chắn sẽ đến, chỉ có mau hoặc chậm, gần hay xa thôi.

Do đó, Thầy mong tất cả tụi con, từ lớn tới nhỏ đã phát nguyện đến Thiền viện rồi, phải cố gắng tinh tấn, đặt cái tu lên trên hết, không có gì quan trọng hơn nữa. Vì mọi việc bên ngoài mình đã xếp lại, không ngó ngàng tới, chỉ mỗi việc lớn là tu. Cái gì làm trở ngại đường tu đó là phiền não, trói buộc. Nên tụi con phải mạnh mẽ gan dạ, đừng thối chí, cố gắng thành đạt sở nguyện của mình, quyết tâm cầu giải thoát. Nếu còn lơ lửng hay chậm chạp yếu đuối thì khó đạt kết quả.

Thầy nhắc cho tụi con nhớ, trên đường tu không có gì nặng nhọc, chỉ là “chế tâm nhất xứ” thôi. Lúc nào tâm tụi con ở yên một chỗ thì không có chuyện gì để nói, còn nói lao xao lộn xộn là tâm đang chạy. Như thế, muốn tu có kết quả, phải nhìn lại mình để hạn chế đừng cho tâm chạy lung tung. Muốn vậy, lúc làm công tác hay ngồi chơi, phải nhìn lại mình luôn luôn. Nếu còn ồn quá là tâm chưa thuần, chưa được kềm chế kỹ. Vậy nên, tụi con phải tu cẩn thận, đừng để lôi thôi, nếu không chẳng những thiệt thòi cho chính mình mà còn làm người chung quanh coi thường, cả hai đều bất lợi.

Mong tất cả tụi con lúc nào cũng cố gắng thực hiện cho được sở nguyện của mình, đừng để tu tới già rồi lẩn thẩn lôi thôi không ra gì, uổng một đời vô ích.

Ngày 29-5 Giáp Tuất (7-7-1994)

Điều kiện tu hành ở đây, nếu nói theo người thích buông lung thì khắt khe, không được tự do, còn người quyết chí tu lại thấy đây là phương tiện giúp mình dễ tu. Vừa rồi có người hỏi Thầy một câu trong lúc giảng ở Thường Chiếu. Hỏi rằng: “Tại sao lúc trước Thầy cất thất cho Tăng Ni nhập thất chuyên tu, bây giờ cất Thiền viện Trúc Lâm, Thầy cũng nói Trúc Lâm chuyên tu?” Họ không hiểu hai chỗ chuyên tu đó đồng nhau ra sao, khác nhau thế nào? Cái nào cũng chuyên tu, mà một cái thì sống tập thể, một cái nhập thất một mình.

Bây giờ Thầy giảng giải cho tụi con biết, mai kia có ai hỏi, tụi con giải thích rõ ràng.

Thầy thấy tụi con nhiều năm lăng xăng lộn xộn, không có lúc nào yên tĩnh chuyên tu nên không thấy được mình, Thầy mới tạo điều kiện cho tụi con nhập thất, chuyên làm một việc xoay nhìn lại mình, tìm cho ra cái gì lâu nay nghi ngờ. Như vậy, ở trong thất là ở riêng một mình, chuyên làm một việc đó thôi, không làm việc gì khác, tu đó là chuyên tu riêng biệt. Nó có lợi lớn là tất cả thời giờ chỉ dồn vào một việc tu, nhưng thời gian chuyên tu đó có hạn định chỉ ba đến sáu tháng hoặc một, hai năm.

Nhập thất có cái lợi là khi ở ngoài chúng ta bị động nhiều, vào đó ngồi yên mới thấy mình kỹ, biết rõ mọi tâm bệnh, gắng chinh phục nó nên tiến nhanh. Nhưng chỉ một thời gian rồi mãn thất lại tiếp tục lăng xăng theo công việc bên ngoài, thành ra không bảo vệ lâu bền chỗ tiến của mình. Trong thất tu có kết quả tốt, nhưng ra ngoài không có hoàn cảnh thuận tiện nuôi dưỡng lâu dài.

Còn ở Thiền viện Trúc Lâm không phải chuyên tu cá nhân riêng biệt mà là chuyên tu tập thể cùng với huynh đệ nên bước tiến chậm hơn, vì không dồn tất cả thời gian trong sự tu mà còn có công việc chút ít, thí dụ xuống bếp nấu cơm, cuốc rẫy trồng khoai... Tuy có làm việc nhưng vẫn trong phạm vi của mình, không có chuyện lăng xăng bên ngoài. Nếu tụi con khôn ngoan, lợi dụng thời gian làm việc cũng tu, luôn nhớ quay lại mình, thì không thiệt thòi gì. Nếu tụi con dại khờ, khi làm cứ phóng tâm, kể chuyện này chuyện kia cho bà con cười vui tức không được an ổn. Tụi con ở trong khuôn viên độc lập, không như những nơi khác có kẻ này người kia lai vãng, nên khi làm chỉ luôn nhớ lại mình, rất dễ chế ngự. Như vậy ngồi thiền và lao động đều là chuyên tu.

Chuyên tu này có hai cái lợi:

Lợi thứ nhất, mình vừa có thời gian ngồi tu ở trong Thiền đường, cũng có thời gian lao động ngoài trời có nắng có sương, con người ít ốm yếu bệnh hoạn.

Lợi thứ hai, mình chuyên tu trong tập thể mà vẫn yên được, cái yên đó mới thật là yên. Còn ngồi một mình yên, khi ra bị động không yên được, như vậy chỉ tu trong tịnh. Cho nên ở đây chuyên tu là dồn hết thời giờ tụng kinh ngồi thiền, rồi trong giờ lao động nếu tụi con cũng biết dừng nữa thì cả ngày tụi con cũng chuyên tu mà tránh được bệnh hoạn. Có lao động có ngồi thiền, hai cái đó giúp máu lưu thông, thân thể mạnh khỏe, như vậy cuộc sống lâu dài không bị trở ngại. Lại nữa, mình tu, huynh đệ mình cùng tu, ai cũng biết suy xét đúng đắn như vậy thì khi ở chung mười, hai mươi người vẫn yên tịnh, sau này đi ra ngoài không bị xáo trộn. Còn mấy đứa ngồi trong thất, tới lúc ra ngoài nếu không khéo cái yên tĩnh không còn nữa.

Bởi vậy, Thầy muốn tụi con tu ở đây, một là khỏe mạnh để sự tu được lâu dài, hai là tu tịnh trong động. Nếu tụi con ứng dụng được, sau này gặp những cái động khác không bị trở ngại. Ở đây không hạn định một, hai, ba năm. Tụi con cứ nuôi dưỡng mãi tới khi nào thành công tốt đẹp mới tính nữa, còn ai yếu đuối hay nhát sợ thì có cửa mở sẵn, muốn rút lui lúc nào cũng tốt. Tụi con quyết chí tu, tuy chậm mà tiến mãi, lâu ngày cũng có kết quả.

Đó là hai chỗ khác nhau, nhập thất tu là dồn hết thời giờ, trong khi tu không có ai làm bận rộn, thấy mau tiến nhưng khi bước ra cũng mau thối. Ở đây chuyên tu tập thể tuy tiến chậm, mà tiến rồi khó thối. Sống với mười người mười ý, có thuận nghịch đủ thứ, nếu trong thuận nghịch vẫn bình an thanh tịnh, sau này ra gặp cảnh nghịch không có lạ nữa. Đó là tiến một cách bền bỉ, khi ra ngoài không bị trở ngại. Đây là chỗ nhắm của Thầy.

Hiểu vậy rồi, tụi con tu làm sao giờ ngồi thiền, sám hối phải rất thanh tịnh, rồi giờ lao động cũng thanh tịnh luôn, đó là tuyệt hảo. Còn nếu giờ lao động không được thanh tịnh là thiệt thòi, một ngày xem như bị mất mấy tiếng. Nói như vậy để tất cả hiểu rõ về công tác và cuộc sống trong Thiền viện.

Thầy cũng thường nhắc tụi con, đứa nào đã quyết chí tu, xin vào đây được rồi, làm sao cho ngày đến đây và ngày rời nơi đây, tụi con phải có những bước tiến, không nhiều thì kha khá cũng được. Còn khi ở ngoài dở trăm phần trăm, vào đây rồi về cũng trăm phần trăm dở thì không tốt. Ngày trước mình có những cái dở, vào đây một thời gian khi trở lại phải có những bước tiến cho Thầy Tổ huynh đệ trông thấy sự tu của mình có kết quả. Vậy mới tốt chớ còn nguyên vẹn như cũ là không hay.

Vì vậy, ở đây Thầy tạo điều kiện có vẻ khắt khe để tụi con khép mình vào trong đó, nhờ khép mình nên tụi con dễ tiến. Nếu muốn đòi tự do chỉ càng mất mình, tu không tiến. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Buổi thỉnh nguyện này Thầy nhắc mấy điều, tụi con cố gắng thực hành cho tròn sở nguyện phát tâm xuất gia của mình.

Câu chuyện buổi chiều

Tụi con có nghe tin Thiện Phát tịch chưa?

- Dạ, có nghe.

- Nghe hồi nào?

- Dạ, nghe hồi sáng.

- Rồi tụi con có xúc động không?

- Dạ, có.

- Xúc động nhiều không? hay nghe rồi cũng như chưa nghe? Đó là con ngựa bị đánh tới da rồi đó. Tới da mà có tỉnh hay chưa tỉnh? Tụi con nhớ chuyện bốn ngựa không? Ngựa đánh tới da mới chịu đi, như vậy cũng hơi lì! Nghe một người thân mất, mình tỉnh, nhớ, rồi ráng tu là ngựa hay, còn người thân mất chẳng nhúc nhích gì tức không hay rồi!

- Thưa, hồi hôm này chắc Thầy mất ngủ?

- Cũng hơn một tiếng sau mới ngủ được, vì tới mười giờ tối Thường Chiếu mới lên báo tin. Họ hỏi quàn quan tài ở đâu? chôn chỗ nào?... Thầy phải trả lời cho họ. Vừa là xúc động, vừa là quá giờ nên khó ngủ.

Ngày xưa Thầy dạy ở Phước Hòa - Trà Vinh thì Thiện Phát là Tăng sinh Sơ đẳng, học với quí Thầy ở đó. Cho tới khi Thầy dạy Trung đẳng ở Phật học viện Huệ Nghiêm, y cũng lên học. Lúc ra Chân Không y đến ở một thời gian nữa, nên sống gần Thầy khá lâu. Vì hiền lành quá nên nói năng không hoạt bát, không làm Phật sự nhiều, nhưng tánh tình rất tốt, vừa hiền vừa giữ qui luật nghiêm chỉnh. Vì vậy, y mất cũng đáng tiếc. Thiện Phát là học trò lâu năm đồng cỡ với Phước Hảo, Đắc Pháp. Trò đi trước Thầy. Khi thấy người ta đi Thầy cũng phải nghĩ tới mình, trò đã đi rồi, Thầy còn lại phải lo phần Thầy, đâu có chần chờ được.

Ã

Bây giờ Thầy có câu hỏi này, tụi con trả lời thử xem. Nếu có những thức ăn ngon mà người ta báo trước rằng, chị ăn thức đó sẽ bị bệnh vì thức ăn có chất độc, nhưng người ấy thích quá cứ ăn. Rồi tới người khác, cũng thức ăn đó, cũng được báo trước rằng nếu ăn vào sẽ bị bệnh, người đó nghe rồi không ăn. Vậy hai người này, đố tụi con ai khôn hơn ai?

- Dạ, người sau khôn hơn.

- Nếu biết ăn ngon miệng một chút mà sanh bệnh hoạn thì người tránh không ăn là khôn. Còn biết ăn rồi sẽ bệnh mà cứ cắm đầu ăn là chưa được khôn. Tụi con nhìn lại thế gian xem. Có những cái người ta bảo là khổ mà cũng cứ lủi vô. Nói gần nhất, như phái nữ theo thói thường tuổi vừa lớn thì có gia đình. Những người có đôi bạn, có con cái rồi, họ báo cho biết có gia đình khổ lắm. Nhưng người ta vẫn cứ lập gia đình, như vậy có khôn không? Lại có người nghe báo vậy nên tránh, không bị kẹt, chẳng hạn như tụi con, có khôn hơn không?

Đó là cái khôn tuy nhỏ mà cũng rất lớn, vì nhờ mình biết tránh nên không bị đùm đeo, không bận bịu con cái, tụi con muốn đi tu thì đi không có gì ràng buộc. Những người lỡ vô cuộc rồi, có con cái, thức tỉnh biết là khổ, muốn đi tu lại không được. Như vậy, biết khổ mà vẫn lao đầu vô, tới chừng khổ quá muốn tránh cũng không được.

Đó là việc làm của người không thông minh. Người sáng suốt biết đó là khổ, một phen tránh là dứt hẳn, sau này không còn kẹt trong cái khổ đó nữa. Đó là vấn đề thường. Còn việc quan trọng hơn, tụi con có biết rằng mỗi khi giận hay buồn ai thì chướng ngại cho sự tu hành không?

- Dạ, biết.

- Biết phiền não làm chướng ngại sự tu hành, nên không giận không buồn, đó là người khôn. Còn biết là chướng ngại mà cứ giận cứ buồn, như vậy là dại. Trong tụi con, dại nhiều hay khôn nhiều?

- Dạ, dại nhiều.

- Tu hành mà sao dại khờ vậy? Mình tu phải sáng suốt chứ! Biết cái nào dở và tai hại phải tránh liền, tại sao biết là hại mà vẫn ôm ấp? Người ta nói mấy cô thức tỉnh mới đi tu, có ai nói mấy cô si mê đi tu đâu? Nếu bảo đó là sức mạnh của tập nghiệp thì có đúng không? Mình đã tỉnh mới đi tu đâu thể đổ thừa như vậy. Nếu là sức mạnh của tập nghiệp thì làm sao chuyển nổi. Nếu chuyển không nổi tức là đầu hàng, rồi thua luôn sao? Cho nên tụi con phải nhớ, thấy cái dở, biết rõ ràng mà vẫn chưa chịu bỏ là điều đáng trách. Trách vì mình si mê. Nếu sáng suốt, khi biết dở không nên ôm ấp nữa. Còn ôm ấp là còn mắc kẹt, còn bị chướng ngại.

Bởi vậy, khi tu đòi hỏi tụi con phải có trí tuệ, phải sáng suốt nhận định chín chắn, biết cái nào hại phải từ bỏ, biết cái nào lợi cho sự tu hành phải cố gắng vươn lên. Như vậy tu mới tiến. Biết hại mà cứ bám vào thì tu rất chậm, rồi than tôi ở chùa mười năm, hai mươi năm tu sao không tiến. Không tiến là tại sao? Tại mình cố giữ những điều không đáng giữ.

Muốn trên đường tu được nhẹ nhàng thanh thoát, mỗi bước đi là mỗi bước tự tại, giải thoát thì những gì làm chướng ngại, nặng nề tụi con phải vứt bỏ hết. Được thế, tu ít mà kết quả nhiều. Còn nếu dung dưỡng những điều xấu dở, tuy tu hành nhọc nhằn mà kết quả chẳng bao nhiêu. Hiểu vậy rồi, tụi con phải nhớ để tu. Ví dụ như muốn xuống bờ hồ vác một khúc củi lên chùa, phải đi tay không mới vác lên được, chớ gánh theo thùng nước mà muốn vác củi lên làm sao được. Mình có nhẹ nhàng thì mai kia mới làm được việc cho đạo, còn nặng nề trì trệ quá, sẽ không làm lợi ích cho mình, cho người.

Bởi vậy tụi con nên ráng tu, lúc nào cũng phải có trí tuệ, bao nhiêu nghiệp chướng muôn đời hiện ra liền tiêu diệt hết, đừng để nó làm chủ. Nếu để nó làm chủ, rồi làm những việc sai quấy, sau sẽ hối hận khổ đau. Khổ đó do đâu mà ra? Là do thiếu trí tuệ, thiếu can đảm. Hiểu vậy, tụi con phải gan dạ và sáng suốt. Sáng suốt, gan dạ thì trên đường tu tụi con sẽ tiến.

Ã

Thầy mới làm một bài thơ. Thơ này không có đạo lý, tụi con nghe thử coi. Bài thơ tên Hoa Quì Dại.

Đây là hoa quì dại
Chỉ mọc ven rừng hoang
Nép mình lề đường cái
Làm giậu chống kẻ gian.
Cuối thu nụ không sái
Đua nhau trổ rực vàng
Mặc người khinh rừng dại
Cốt tô điểm non sông.
Vui mục đồng thường hái
Chồn chuột luôn náu mình
Che chở cho muôn loại.

Tụi con hiểu bài thơ này thế nào?

“Đây là hoa quì dại, chỉ mọc ven rừng hoang”. Tụi con đi ra ngoài, thấy nó mọc trong rừng, nép mình bên lề đường, đó là vị trí khiêm nhường. Rồi “làm giậu chống kẻ gian” tức là hàng rào ngăn ngừa ăn trộm. Vị trí nó đứng ven rừng hoang, bên đường cái, làm hàng rào phải không? “Cuối thu nụ không sái” nghĩa là đúng tháng 9 nó trổ hoa, thấy hoa trổ biết sắp hết mưa, là cuối mùa thu, cũng giống như hoa cúc trùng dương, mồng 9 tháng 9. Câu này nói về thời tiết.

Giờ đây có vẻ hơi người một chút “Đua nhau trổ rực vàng, mặc người khinh rừng dại”. Hoa nở rực hết một lượt, mặc người ta chê là hoa rừng, hoa dại. Đó là không màng đến lời khinh chê. “Cốt tô điểm non sông, vui mục đồng thường hái.” Nó chỉ cốt làm đẹp thêm cho non sông và chơi đùa với mấy chú mục đồng thôi. Chỉ mục đồng mới thích hoa dại, mấy người sang đâu ưa phải không?

Hai câu sau: “chồn chuột luôn náu mình”, chồn chuột ở trong đó, “che chở cho muôn loại”, không phải chỉ có chồn chuột mà thỏ, ve, kiến... chúng đều được nép mình dưới đám hoa quì dại này. Mấy đứa nghĩ sao? Hoa này ví như ai? Cho tụi con có quyền hiểu tự do.

Trong bài thơ có chia ra từng phần. Một là vị trí của hoa quì dại, nó thường ở ven rừng, bên lề đường cái, làm rào giậu. Khả năng của nó là nở hoa đúng mùa, không sai thời tiết. Chức năng của nó là tới thời thì nở, mặc người ta chê hoa rừng hoa dại, có nói gì thì hoa vẫn nở, chỉ cốt làm đẹp non sông. Nó luôn gần gũi, thân thiện với mấy chú mục đồng. Tuy là loài hoa đồng cỏ nội như vậy, mà lại có nhiều chúng sanh núp bóng phải không? Nào chồn, chuột, thỏ, kiến, dế... núp dưới bóng nó.

Ã

Sao, lúc này tu tiến bộ nhiều ít? Đứa nào kha khá kể việc tu hành Thầy nghe coi! Hôm rày Đạo tu có giỏi không?

- Dạ, ráng mà chưa kịp.

- Còn Tịnh Thường tu giỏi không?

- Dạ, còn dở lắm.

- Dở sao, kể Thầy nghe coi? Ngồi hai tiếng ổn chưa?

- Dạ, còn ráng, còn chịu đựng.

- Còn Hạnh Dũng tu sao? là kiện tướng chưa?

- Dạ, bệnh hoạn con bớt. Còn về tâm con vẫn bình yên, không dở không hay.

- Bây giờ, nếu so với nhau thì hiện có đứa kha khá, có đứa mới được được, có đứa ráng bò lết; nhưng so lại những năm về trước, thì tụi con tu có khá hơn không?

- Dạ, có.

- Nhiều ít?

- Dạ, nhiều.

- Trong tâm của tụi con tiến ra sao nói Thầy nghe coi?

- Dạ, hồi trước ở dưới kia, con lăng xăng lộn xộn. Còn lên đây, làm thì làm, không lo nhiều nên tâm an ổn.

- Vui nhiều hay buồn nhiều?

- Dạ, vui nhiều.

- Không có gì buồn hả?

- Dạ!

- Bây giờ, giả sử ngày mai kia Thầy con sắp tịch, nghe con tu hành rất tinh tấn, rất tốt lành, Thầy con buồn hay vui?

- Dạ, vui lắm.

- Nếu con đi về lo cho Thầy con, không trở lên đây được, Thầy con vui hay buồn?

- Dạ, buồn.

- Thấy cái nào có lợi, làm cho người lớn được vui nên ráng làm, không phải hầu hạ một bên mà người lớn vui đâu. Già thì bệnh chết, không ai tránh được điều đó. Người ta cứ nghĩ khi người thân bệnh sắp lâm chung phải có mặt mình, nhưng nếu mình có mặt mà không sáng suốt về đạo lý, không thanh tịnh trong thân tâm, dù cho Thầy hay Sư bà của tụi con nghe vậy cũng không vui. Tụi con nên biết, đền ơn Thầy Tổ không gì quí hơn là tu hành cho tiến bộ, sáng suốt, thanh tịnh. Đó mới thật là đền ơn. Còn tụi con cứ nơm nớp lo Thầy mình bệnh làm sao, Sư bà bệnh thế nào, rồi tu không được thì cả hai đều thiệt thòi, phải không? Lo mà không làm gì được thật là uổng công vô ích. Tụi con thà mất một bên, được một bên, mà bên được đó Thầy Tổ ai cũng mong đợi. Đó là quí.

Tụi con hiểu rõ việc làm của mình, biết người lớn tán thành hoan hỉ thì nên cố gắng làm cho được, đừng vì lẽ trong lòng bận rộn nghĩ tới ơn, tới nghĩa rồi tu hành không được, đó là trở ngại, làm cho người lớn buồn. Hiểu như vậy tu hành mới tiến.

Ã

Tu thiền có hai chặng phải vượt qua:

Một là loạn tưởng. Ngồi thiền nhớ chuyện này chuyện kia làm cho tâm mình rối bời không yên. Khi bớt loạn rồi tâm tạm yên, lại bắt đầu qua ngủ.

Giai đoạn thứ hai là ngủ. Bệnh ngủ khó trị lắm, ráng nỗ lực tối đa thì vượt qua, nếu không bệnh này kéo dài làm mất thời giờ. Tụi con khéo vượt qua hai chặng này, cho đến chừng nào tụi con “À!” một tiếng là thứ thật. Tụi con chịu “À!” không? Đố tụi con tại sao có “À”? Điều này dễ lắm nhưng nhiều khi tụi con không hiểu.

Trong nhà thiền, khi bắt đầu tu là phăng tìm cho ra cái gì mình đã quên. Biết mình có cái quí báu nhưng từ lâu bỏ quên. Chư Tổ thường nói “tức tâm tức Phật” hay Phật tánh, nhưng mình không biết ở đâu. Bất chợt lúc nào đó, tâm tụi con thanh tịnh, bừng sáng thấy được cái chân thật sẵn có của mình. Giống như người có món đồ quí, giấu kín thời gian lâu, bận chuyện này chuyện nọ rồi quên, giờ không biết ở đâu, người đó muốn nhớ lại thì phải làm sao? ngồi suy nghĩ hoài có nhớ được không?

- Dạ, không.

- Phải ngồi lặng yên, buông hết, bất thần nhớ lại, liền “À” chạy lại lấy. Vậy tiếng “À” là nhớ ra cái mình đã sẵn có. Cho nên nói “À” là tiếng ngộ. Ngộ là nhớ lại cái đã có mà quên, nên trong nhà thiền rất quí tiếng “À”. Bữa nào tụi con “À” giùm Thầy một tiếng nghen! Chớ ngồi im lìm hoài sao? Bữa nào nói: “À! tôi thấy rồi”, đó là một bước tiến trên đường tu. Mình có của quí giấu cất không biết ở đâu, lòng rối rắm buồn, chợt nhớ ra chạy lại lấy, lúc đó làm sao? Lòng vui vẻ, phấn khởi, không có gì ngăn cản được. Cái vui đó là cái vui suốt đời, vui khi mình thấy Đạo, như nụ cười hàm tiếu của đức Phật còn mãi.

Bây giờ tụi con có cố gắng vui một lát rồi cũng hết, còn cái vui kia thì muôn đời. Có nó, mình khỏi trầm luân sanh tử, còn gì quí bằng. Vàng ngọc chỉ giúp mình sống an ổn vui tươi trong mấy chục năm, còn được cái vui đó muôn đời hết sanh tử luân hồi. Bởi vậy, khi nào tụi con thấy rồi “À!” một tiếng, cười hoài, thiên hạ chửi cũng cười. Còn chưa thấy thiên hạ chửi không chịu nổi, phải không? Các con phải cố gắng tu, hết lăng xăng thì mới “À” được, chuyện ấy là lẽ thật. Sở dĩ bắt buộc tụi con ở một chỗ, bớt nói chuyện, đừng suy nghĩ việc này việc kia, đó là để lòng tụi con lắng lặng rồi thấy được cái thật nơi mình.

Thôi ráng tu, Thầy mong bữa nào tụi con “À!” một tiếng.

Ã

Thiện Phát là học trò của Thầy nhiều năm. Y không sắc sảo như những vị khác, rất hiền từ, hệch hạc, vui vẻ, không thắc mắc cau có với ai. Có những lúc Nhật Quang nhập thất, y làm Trụ trì Thường Chiếu một năm. Sáng vo quần, vác cuốc đi công tác, chúng theo làm thì tốt, không thì thôi, thấy như là không có uy đối với chúng.

Lúc gần tịch, Thiện Phát ở bệnh viện. Chú Thị giả thuật lại cho quí thầy nghe, ngày y sắp tịch chú bưng cơm lại mời ăn, y cười rồi ăn, làm cái gì, đưa cái gì cũng cười, không nói gì với Thị giả. Tới giờ y hấp hối, có Phật tử tới thăm cũng thấy cười như vậy. Y cười một lát rồi đi. Đem về Thường Chiếu để vào quan tài chưa khằn nắp, những người đến thăm giở ra xem, thấy y vẫn như cười. Trước lúc đưa đám mưa dầm dề, tới giờ đưa mưa tạnh. Khi hạ huyệt, có vầng mây cứ quay quay ở trên làm cho mọi người mát mẻ, ai cũng thấy. Như vậy cũng là điềm tốt. Một vị tu thiền trước khi ra đi được vui vẻ là tốt. Tụi con muốn ra đi như vậy không?

- Dạ, muốn.

Cái chết thường làm người ta lo sợ, hoảng hốt. Mình tu sao tới lúc chết vẫn cười. Bao nhiêu đó cũng vui phải không? Tâm không hoảng hốt thì không ai có thể dẫn đi bậy, nếu tâm cuồng loạn, hoảng hốt sẽ đi vào đường xấu. Vậy lúc bình thường tụi con tập tu làm sao cho tốt, đều đặn, đúng như những gì Thầy dạy thì khi nhắm mắt tụi con sẽ cười. Nếu bình thường tu không tốt, không đúng như Thầy dạy, e rằng khi nhắm mắt không được hay.

Đời tu đâu phải chỉ trong cuộc sống mấy chục năm là hết. Mấy chục năm chỉ là một chặng ngắn ngủi trên con đường dài vô tận. Mình phải lợi dụng mấy chục năm này để gây nhân tốt cho lâu dài, đó là khôn. Còn nếu trong chặng ngắn mấy chục năm này mà làm tội lỗi, gây điều hung ác thì họa lây cho mấy chục kiếp, đó là dại.

Tụi con nghĩ khi mình được tu là một phước lớn trong đời của mình, hay là vô phước?

- Dạ, đại phước!

Biết phước lớn thì đừng coi thường giờ tu hành, phải quí trọng nó, bởi vì càng tu thì càng tiến. Gần đây Thầy rất lo, thấy có nhiều vị lớn tu hành cũng đạo cao đức trọng mà trước khi ra đi lại bị hôn mê, thật tội! Cho nên Thầy nghĩ, tu làm sao đến giờ phút chót mình ra đi phải tỉnh táo, sáng suốt, vui vẻ. Đó là bằng chứng thực tế của sự tu hành. Nếu cả đời tu mà kết quả lờ mờ thật là uổng phí.

Bởi vậy, đứa nào có phước duyên được tu hành, phải ráng tận lực làm cho duyên lành đó tăng trưởng, đừng để lui sụt mất mát. Có ai bảo đảm mình sống tới sáu mươi tuổi mới chết? Bốn mươi, năm mươi tuổi hoặc ít hơn cũng có thể chết. Cái chết không cố định, sẽ đến bất cứ lúc nào. Bởi vậy, khi còn khỏe, tỉnh táo phải cố gắng tu. Mọi việc bên ngoài, tụi con khỏi bận rộn, lo lắng, chỉ còn có một việc tu. Vậy mà không lo tu, lại còn vướng mắc những chuyện thị phi nho nhỏ làm gì. Tụi con nghĩ như vậy là khôn hay dại?

- Dạ, là dại.

- Ừ, vậy là không khôn. Giờ nào tụi con cũng phải quí tiếc, đừng để trôi suông. Tụi con có hai trách nhiệm rất lớn. Trách nhiệm thứ nhất là tu sao cho tâm mình yên định, trí tuệ sáng suốt, đó là từ định rồi tới tuệ. Muốn được định tuệ thì trước phải giữ giới. Giới là những điều răn, những điều trong Thanh qui có nói. Tụi con ráng giữ những điều đó làm mực thước buổi đầu, để tâm mình yên tĩnh.

Đừng bận lòng những chuyện đâu đâu, chuyện thị phi nho nhỏ không đáng. Nó là gió thoảng qua tai rồi mất. Cái quan trọng của người tu là giải quyết vấn đề sanh tử, còn vướng mắc những chuyện tào lao là không khôn ngoan, uổng một đời tu. Đó là điều Thầy nhắc tụi con phải nhớ. Nếu tụi con giữ tâm trong sáng, lúc nào cũng sống an lành, thì khi ngồi thiền tâm sẽ được yên định. Bữa nào có huynh đệ nói móc một hai câu nghe bực bội, giờ ngồi thiền có yên không?

- Dạ, không.

- Không yên, như vậy tụi con mới thấy cái duyên để mình tiến là do tránh bớt hơn thua. Từ chỗ hơn thua phải quấy buông rồi, đường tu rất dễ. Nếu ai nặng nề câu chấp sẽ khó tu, đó là phần giới. Khi tâm không dính, không bận ngồi lại dễ yên. Tâm yên định thì trí tuệ sáng suốt, sáng gọi là giác, đó là phần tự giác. Tụi con tự giác rồi, mai kia ra khỏi Thiền viện mới đem những điều nghe, thấy, biết đúng chân lý chỉ dạy cho Phật tử, đó là giác tha.

Vậy bổn phận của tụi con là phải ráng tu để có đủ tự giác, giác tha. Nếu không, đi tu mà không biết mình như thế nào. Chưa biết rõ mình thì dạy ai, dạy cái gì? Tụi con phải nỗ lực tu, những ngày tháng ở Thiền viện coi như tiêu cực không làm lợi cho ai, nhưng chính cơ hội này tạo duyên tốt cho tụi con tu tiến. Nếu tiến được khi ra khỏi Thiền viện tụi con mới làm lợi ích cho người. Bây giờ tụi con không tiến thì mai kia làm sao ích đời lợi đạo. Nhiều khi ra ngoài, nay tổ chức hành hương chỗ này, mai đi đám chỗ kia, rốt cuộc rồi những Phật sự đó chỉ là tướng sanh diệt tạm thời, không phải cứu kính giải thoát, mà người tu bây giờ hay mắc kẹt cái đó.

Thầy muốn tụi con phải thật sự giải thoát, rồi dạy người tiến đến chỗ giải thoát, đó là bổn phận chánh của người xuất gia.

Ã

Một năm tụi con được chia mấy bộ đồ?

- Dạ, không nhất định, khi nào cần thì tụi con xin.

- Ở đây, tụi con chỉ sống đúng theo Thanh qui không có gì phải lo hết. Chỉ có Quản chúng, phó Quản chúng, Thủ bổn, Tri sự phải lo sắp đặt công việc, còn tụi con khỏe quá chừng, đâu có gì để lo. Lâu lâu làm Tri khố một lần, qua Tri khố rồi thôi. Còn Tri khách chỉ lo cho khách, ngoài ra có chuyện gì tụi con đáng phải lo đâu. Như vậy, chỉ vài người đại diện lo cho tất cả được yên tu, nếu không chịu tu thì thiệt thòi, chẳng những thiệt thòi đời này mà còn nhiều đời nữa. Cơ hội này tụi con tu không được mai kia thì sao? Đời mạt pháp được môi trường tốt như vầy phải ráng tu. Thầy thấy mình nợ chúng sanh nhiều quá. Có nhiều Phật tử xa gần đến thăm, những người già, lớn tuổi có nói sau khi chết sẽ trở lại gặp Thầy để được độ tu, nên Thầy nợ hoài.

Người xưa nói thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Cảnh quan và khí hậu ở đây không ai chê. Cảnh và khí hậu là địa lợi, thiên thời là gạo cơm đủ ăn không đói. Bây giờ tụi con chỉ cần nhân hòa là đủ, nhân hòa là sống đúng lục hòa. Trong ba cái hòa này kiếm một cái cũng khó, mà ở đây có đủ cả ba. Thiền viện này Thầy làm đâu phải qui mô, mà ai đến cũng khen đẹp và chụp hình. Có mấy cuốn sách quảng cáo Trúc Lâm. Hôm Võ Văn Tường báo Giác Ngộ đến chụp ảnh Thiền đường có tụi con ngồi trong đó. Chỗ của mình ra đời muộn màng nhưng được quan tâm nhiều. Ai tới cũng hỏi từ đây về sau Thầy làm gì, Thầy nói, không làm gì hết, chỉ giảng dạy cho Tăng Ni tu có kết quả. Thầy đang trông đợi nơi tụi con.

Ở đây, không ai tặng biếu gì riêng nên khỏi mang ơn riêng, cũng không có danh lợi gì, chỉ còn chuyện tu. Vậy mà không yên ổn tu thì thôi. Bánh kẹo, vật dụng ai cho đưa Tri khố hoặc Thủ kho nên khỏi có bệnh tư hữu. Tinh thần Thiền viện khác hơn các nơi. Có những chuyện nhỏ tụi con chưa thấy hết. Giả sử, người này được thân nhân cho đồ vui vẻ đem đi cất, còn người kia không có ai cho sẽ buồn, đến khi không có xài thấy chị kia đi đâu, lén mở đơn lấy. Như vậy có đồ riêng làm cho người ta khởi tâm tham không tốt. Còn ở đây, người nào cũng có bao nhiêu đó, đâu có gì phải tham.

Giả sử được người ta tặng nhiều quá có dư, đem cho huynh đệ, rồi ân nghĩa ràng buộc. Cho rồi có ân nghĩa, thân mến, khi người ta chơi với người khác lại buồn tức, đủ thứ chuyện, sanh ra nhiều bệnh. Ở đây, không có gì dư để cho, nên không gây ơn gây nghĩa. Tụi con thấy như là việc thường. Thật ra, đó chính là việc lớn. Nhìn lại các Phật học đường, ai cũng có riêng tư nên luôn có người giàu người nghèo, quí vị lớn cũng vậy, không khỏi hai việc đó.

Bây giờ, tụi con sống với huynh đệ đúng lục hòa rồi, sau có ra làm Phật sự sống với đại chúng mới có tình. Còn ai cũng có bệnh tư hữu thì thật kỳ! Tụi con nghĩ xem, nếu ở trong chúng, người mặc đồ đẹp kẻ mặc đồ xấu thì chênh lệch nhau quá. Nếu lam lũ thà lam lũ hết cả năm mươi người. Ở đây, mấy đứa có lam lũ không?

- Dạ, không.

Thầy lo cho tụi con đầy đủ cơm no áo ấm. Thầy làm gì cũng theo kinh nghiệm. Hồi xưa, khi còn học ở Ấn Quang, đến tháng Tết nghỉ học, Thầy lên Đà Lạt chơi. Lúc ấy thầy Mãn Giác trụ trì Linh Sơn. Thầy tiếp đãi tử tế lắm, cho ngủ phòng Trụ trì, nhưng chăn nệm mỏng, khuya lạnh không thể ngủ được, lạnh từ xương sống lạnh lên, suốt đêm không chợp mắt. Giả sử không có nệm e không chịu nổi. Bây giờ, tụi con ngủ đều có chăn nệm dày. Thầy chủ trương không nuôi chúng thì thôi, nuôi phải tạo điều kiện đầy đủ, để khổ sở quá cũng khó tu.

Ã

Qua năm mới tụi con buông hết đừng giữ, cái gì đến với mình đều hỉ xả, đó là một năm vui; còn nếu không chịu hỉ xả, năm đó buồn hoài. Bao nhiêu đó tụi con đủ tu chưa?

Ni chúng một năm qua vui hay buồn? Vui là quyền lợi của mình, phải không? Vui thì khỏe mạnh, tu hành tinh tấn, hết khổ sầu. Đó là điều ai cũng muốn. Chỉ cần mình buông hết, những gì đến với mình đều buông xả, không quan trọng. Mai đây người này chết, người kia chết, ôm giận hờn làm gì. Xả hết thì vui tròn một năm, phải không?

Thầy chúc tụi con tròn một năm vui, không có gì buồn. Tội gì ôm ấp buồn phiền mất thời gian, bởi vì có gì đáng buồn đâu. Buồn nhất là mình tạo nghiệp ác đọa ba đường dữ. Nay bỏ hết, tinh tấn đi từ phàm lên Thánh, buồn sao được! Thật ra, chuyện tu hành đơn giản không có gì xa xôi, không có lý thuyết cao siêu. Tu vậy có thực tế không?

- Dạ, thực tế.

- Thực tế an vui mà không chịu làm, như vậy là khôn hay dại?

- Dạ, dại.

Đời người ngắn ngủi, mình phải vui và đem nguồn vui đó giáo hóa cho người hết khổ, còn buồn dàu dàu hoài làm sao dạy người ta hết khổ được. Muốn dạy người tu, mình phải vui lên, bỏ hết những phiền toái. Ngày nào cũng tu đều đều như vậy, nội tâm mình thảnh thơi nhẹ nhàng, kiểm lại mỗi ngày sẽ có tiến. Tất cả những điều hơn thua không có giá trị gì. Những thứ oan trái khổ đau không có thật mà xem nó quan trọng là khờ dại. Giả sử mai kia có ai chỉ vào mặt mình mắng chửi, chỉ cười thôi, đó là thứ thật. Còn nghe người ta nói bóng nói gió cũng giận, đó là thứ giả. Chỉ vào mặt mình mắng mà vẫn cười, ai nói gì cũng không bận tâm, tu là phải như vậy. Nhiều khi chúng ta tu trên hình thức, đi đứng trang nghiêm, ăn nói đàng hoàng, chững chạc mà động tới thì buồn phiền. Đó là giả hiệu, chưa phải thứ thật.

Ã

Thầy nói Thầy không đi giảng mà ngày nào cũng giảng, người này người nọ đến thăm. Biết đâu năm nay Thầy lang thang nữa, đi Hà Nội hai mươi ngày, về còn ở Thường Chiếu vài ba ngày. Có thể Thầy sẽ đi Nam Dương. Có một ông Phật tử người Trung Quốc mời Thầy dự lễ Phật Đản tại tháp Phật giáo Borobudur lớn nhất ở bên đó, vào tháng sáu. Thầy không biết nói tiếng ngoại quốc mà người ta mời Thầy nói chuyện với người ngoại quốc. Biết đâu cuối năm lại đi Úc. Giờ Thầy còn khỏe đi chỗ này chỗ kia, sau già ở một chỗ không đi đâu hết.

Bây giờ, chưa biết tụi con tu ra sao mà uy tín Thiền viện Trúc Lâm lan tràn từ thành thị đến thôn quê, người ta biết từ cái tên cho đến số người tu. Cho nên tụi con khi tu phải ráng tránh những điều sơ sót, những lỗi lầm không đáng.

Thứ nhất là không nói chuyện tào lao. Cái gì đáng nói thì nói, không đáng thì thôi. Nói tào lao nhiều khi gây sự hiểu lầm hoang mang đủ thứ. Tụi con tập cho quen, sau tự nhiên có tư cách. Mai kia đi ra, nói đây là quí cô Thiền viện Trúc Lâm, cũng xứng đáng. Còn nói chuyện bừa bãi quá sẽ thiếu cẩn thận, dè dặt. Bây giờ tụi con ở đây được huấn luyện kỹ, nghe Thầy nhắc đi nhắc lại mỗi ngày mỗi tháng, tư cách tụi con phải chững chạc hơn, nghiêm chỉnh hơn. Thân đi đứng đàng hoàng, miệng nói lời đáng nói, ý nghĩ điều hay, còn chuyện dở bỏ đi. Đó là tụi con khéo tu ba nghiệp. Nếu ba nghiệp khéo tu, tự nhiên là người mẫu mực, nội tâm cũng dễ an. Tâm mình xao xuyến, ngôn ngữ bừa bãi, dễ vấp nhiều lỗi lầm sau phải hối hận. Khi hối hận thì tâm xao động, bất an.

Điều thứ hai, sống trong huynh đệ tụi con đừng bao giờ có ác cảm, thù hiềm nhau, dù hiềm khích nho nhỏ cũng đừng có. Vì trong Lục hòa có khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, nghĩa là mình phải vui. Lúc nào cũng hòa vui trong cái thanh tịnh không hơn thua, tranh cãi, chớ đừng đứa này nhìn đứa kia tị hiềm đố kỵ, dù chưa nổi bật cũng đã ngầm gây chia rẽ rồi, đó là điều không tốt. Chia rẽ thì hết hòa khí trong chúng. Biết rằng không ai giống ai một trăm phần trăm, nhưng huynh đệ ở đây đồng lý tưởng quyết tu, đó là chỗ giống nhau cao cả hơn hết. Chúng ta vì cái cao cả bỏ qua những điều xấu dở nhỏ mọn. Được vậy tụi con sống an vui, hòa nhã. Còn nghe ai đó nói một câu không vừa ý nhớ hoài, thấy mặt không muốn nhìn, ngó ngang ngó dọc thì không được.

Sống trong chúng phải yêu thương vui hòa, đừng có chiến tranh lạnh, tuy không bùng nổ mà cứ ngấm ngầm mãi cũng khó tu. Trong đây tụi con có chiến tranh lạnh không? Chỗ này là nơi mình chiến đấu với ma quân chớ không phải chiến đấu với huynh đệ. Tất cả những thứ giận, phiền, ghét nhau chính là ma quân, phải chiến thắng, đừng nuôi dưỡng nó. Nuôi dưỡng nó, chiến tranh lạnh hoài là nuôi ma quân. Ma quân thắng tức là tụi con lui sụt, thối Bồ-đề tâm. Phải làm sao ở trong chúng mấy chục người, mình vẫn có tình thương quí, tuy không ai giống ai nhưng vẫn thương, hỉ xả hết, không hờn không trách.

Tụi con nhớ, mình tu là đi sâu trong từng tâm niệm, niệm dấy lên liền bỏ. Khi mình hiềm khích ai, những niệm đó bỏ dễ hay khó? Giữ những niệm này sẽ làm trở ngại, tạo cái chướng trong sự tu. Cho nên tụi con phải khôn ngoan, mọi việc qua đều xả hết, không có gì quan trọng bằng đạt được lý tưởng tu hành của mình. Đó là điều trên hết, còn hơn thua, phải quấy, thương ghét chỉ là chuyện nhỏ nhặt tầm thường không đáng kể. Đừng vì việc nhỏ mà bỏ việc lớn. Đó là tụi con khéo tu. Nếu không, uổng công ở Thiền viện Trúc Lâm năm năm, mười năm, khi ra được người ta hoan nghênh quá chừng, lại thấy cô này liếc cô kia, cô kia háy cô nọ, làm trò cười cho thiên hạ, không phải tinh thần đạo đức.

Bởi vậy, người ta hoan nghênh chừng nào, Thầy càng sợ chừng nấy, vừa sợ vừa lo. Nếu được người ta quí trọng mà tự mãn hài lòng là không tốt. Khi họ hoan nghênh, mình phải có điều kỳ đặc hơn bình thường mới được. Kỳ đặc đó không phải bảo tụi con làm cái gì lạ, chỉ là sống hết sức đơn giản, hòa thuận, vui vẻ và buông xả hết mọi cái xấu xa.

Hôm qua, có một cô người Úc nói chuyện với Thầy, cô Từ Tĩnh thông dịch. Bà nói người Việt Nam có cái hay là hồi xưa Mỹ, Úc qua đây giết hại, bây giờ thái bình, người Việt thấy người Mỹ không thù, gặp người Úc cũng không ghét. Đó là cái rất hay. Thầy liền nói, chính là chịu ảnh hưởng Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dạy không nên ôm ấp hận thù. Khi người ta có lỗi lầm mình rầy, mình đánh, khi người không làm lỗi nữa phải tha thứ không oán hờn. Nhờ không oán hờn nên người Việt Nam cởi mở. Dù ngày xưa ai hành hạ khổ đau mấy đi nữa, bây giờ ta cũng bỏ qua, xem như là bạn. Đó là tinh thần cao thượng của người Việt Nam do chính Phật giáo nung đúc. Phật giáo đã nung đúc người dân Việt Nam, chẳng lẽ Phật giáo không nung đúc được Tăng Ni sống cởi mở, hỉ xả với nhau sao?

Người tu phải có một thái độ bình tĩnh điềm đạm. Huynh đệ có điều gì không bằng lòng nhau cũng chỉ nói nhẹ nhàng, từ tốn, khi qua rồi buông hết. Dù cho có những điều bất bình cũng bỏ, không nên chứa chất trong lòng. Như vậy mới thấy sự cao thượng của người tu Phật, cũng là tạo cho mình cái duyên dễ tu, nếu không thì bực người này hờn người kia, chúng bốn mươi người giận hết hai mươi người, tâm làm sao yên.

Hồi nãy có mấy vị Linh mục đến thăm Thầy, có vị hỏi: “Thưa Thầy công chuyện của Thầy rất đa đoan mà tôi thấy dường như Thầy thảnh thơi không bận rộn; còn chúng tôi khi lãnh trách nhiệm, bận rộn mất ăn mất ngủ. Xin Thầy chỉ cách gì được thảnh thơi như vậy?”

Thầy nói: “Đâu có chi lạ, khi muốn làm việc gì thì trước tôi sắp đặt, sắp đặt xong rồi thực hành. Tôi không lo sợ làm cái đó thất bại hay thành công, chỉ làm hết khả năng hết bổn phận, còn được hay mất là tùy duyên. Bởi tùy duyên nên tôi không lo. Còn người khi làm muốn phải được, tính mưu này kế kia cho thành công, lỡ thất bại thì khổ sở. Tôi làm tròn bổn phận, tận lực hết khả năng, còn chuyện thành bại là tùy duyên. Đó là thứ nhất. Điều thứ hai, khi sắp đặt rồi, tới giờ ngày đó tôi làm, không phải bận bịu ôn đi nghĩ tới lăng xăng lộn xộn, nên rất khỏe. Thứ ba, chính nhờ tu thiền nên tôi phần nào làm chủ được tâm mình. Điều gì đáng lo thì lo, việc không đáng tôi bỏ. Lúc cần suy nghĩ thì nghĩ, không cần nghĩ thì thôi, thành ra thảnh thơi.”

Tu làm chủ được là khi cho phép tâm nghĩ thì nghĩ, không cho thì thôi. Ngồi chơi hẳn là ngồi chơi, không cho cái gì lộn xộn trong đầu. Vậy là tụi con thảnh thơi. Như Thầy từ thất lại đây không tính nói gì với tụi con, nhớ đâu nói đó, chỉ tùy duyên. Vậy mới khỏe, còn lo nghĩ quá đầu óc rối, đầu óc rối thì tu hành mỏi mệt.

Đừng có tâm tự mãn, phải thấy mình như người đi trên băng, dè dặt cẩn thận mới được. Tự mãn là bệnh, còn tự tin thì tốt. Tin rằng tu là sẽ tiến, quyết tâm tu Tam Bảo sẽ không bỏ mình. Đừng lấy việc học nhiều kinh luận làm tự mãn, tự mãn không tốt.

Ã

Khi tụi con tu, bắt ngồi thiền nhiều quá, tụi con thấy khổ nhiều ít?

- Dạ vui! Không khổ.

- Sao bắt ngồi đau chân mà không khổ? Người ta vào Thiền viện thấy quí thầy quí cô, họ có những cái nhìn khác nhau. Hồi sáng có Phật tử nói, mấy cô ở đây như ở cảnh tiên, mấy cô là tiên cô. Có người lại nói, mấy cô ở đây hoài không được đi đâu hết, như ở tù. Tụi con nghĩ lời nào có lý hơn. Tiên hợp lý hay ở tù hợp lý? Tụi con kinh nghiệm bản thân, cái nào hợp lý hơn?

- Dạ, tụi con chịu làm Phật, không chịu làm tiên.

- Tụi con không chịu làm tiên hả? Người ta hay nói cảnh đẹp là cảnh tiên. Thấy ở đây đẹp cho là cảnh tiên. Thật ra, tất cả cảnh dù đẹp mấy, mà con người cứ đấu tranh với nhau cũng không tiên chút nào. Nếu như cảnh không đẹp mà nội tâm hòa vui với nhau thì đây chính là thiên đường rồi. Vì vậy trong sự tu, cảnh chỉ trợ lực ít thôi, nội tâm mình là chủ yếu. Làm sao nội tâm tụi con lúc nào cũng an vui không buồn phiền hờn giận, không bực bội với nhau, đó là được an lạc. Nếu tụi con buồn phiền, dù ở cảnh tiên hoa nở rực rỡ nhưng cũng như lò lửa. Tu là như vậy, không phải do cảnh bên ngoài mà được an ổn vui tươi, chính do nội tâm mình nhiều hơn.

Cho nên tự tụi con phải khéo buông xả. Cái nào thuộc về phiền não thì buông để tâm mình thanh thản. Cảnh yên, tâm thanh thản, tụi con sống ở đâu cũng an lạc. Còn được ở ngoài mà không được ở trong là chưa đủ; được trong không được ngoài cũng tốt, không sao. Chớ tin cậy bên ngoài quá không tốt. Cho nên tu không phải là đi tìm cảnh thuận mới tu được. Cảnh chỉ giúp một phần, trọng tâm là phải gột sạch những gì làm chướng sự an ổn vui tươi của mình.

Không phải chỉ quí cô ở đây mà các Phật tử cũng nên tập như vậy. Khi gặp cảnh chướng buông đi đừng giận. Tôi hay hỏi mấy cô ở đây tu khó hay dễ, có nhiều người nói khó. Tôi nói ngược lại, tu dễ. Bây giờ tôi giả sử có ai nói nặng các Phật tử một câu, vừa nghe hơi khó chịu, quí vị buông cho nó nhẹ nhàng. Biết rằng lời nói qua rồi mất, có thật đâu, buồn giận làm chi. Nhớ vậy rồi cười, tu như thế là khó hay dễ? Còn người dễ nổi giận, làm người khác buồn, phải suy nghĩ đủ thứ chuyện, kéo dài bao lâu mới hết?

Cứ nhớ lời nói qua rồi mất, cười thôi, mặc ai nói gì thì nói. Đó là biết tu, để lòng mình an ổn, không gây hận thù với ai. Nếu mình chấp lời nói, hơn thua với họ, gây oan trái rồi bày mưu tính kế để trả thù trả oán, tạo một chuỗi dài mười năm hai mươi năm khó chịu với nhau. Đó mới là khó tu! Còn tu buông xả rất dễ. Buông rồi nhẹ nhàng, họ không buồn mình, mình cũng không tức họ, hai bên đều hòa vui. Đó là tu. Vậy mà nhiều người không chịu tu như vậy.

Giả sử, ở trong gia đình làm ăn có được mất, khi được mình vui, khi mất mình buồn. Khi làm ăn thất bại, ngồi gác tay lên trán rầu hoài, có trở lại thành công được không? Thua keo này bày keo khác, không thèm buồn. Vậy là yên trong lòng. Biết đâu cái này thua cái khác lại thắng, cứ vui mà sống. Cuộc đời không bao lâu, lo rầu hoài vô ích. Nghĩ vậy là biết tu, nên không bệnh không khổ. Nếu không biết tu cứ bệnh khổ hoài, tối ngày lo được lo mất, ngồi than trời trách đất, lòng không an. Biết tu rồi mọi chuyện tùy duyên, nếu có lỡ thất bại thì thôi, làm lại cái khác, chớ đừng ngồi buồn, vô ích.

Vậy, người buông đi và người ngồi buồn hoài, ai khôn hơn ai? Đừng làm người dại chi cho uổng một đời, đã buồn còn sanh bệnh hoạn khổ đau, thấy ai cũng bực. Vậy là làm khổ cho mình, cho người. Buông đi sống thanh thản làm ăn. Chết còn không buồn, được mất buồn làm chi, nhớ như vậy là tu.

Khi ngồi thiền những tâm niệm lăng xăng buông nhẹ nhàng, không còn nghĩ đến được mất hơn thua, tâm mình an thì gương mặt buồn hay vui? Tu đem lại nguồn vui chân thật, lòng mình thanh thản, tự nhiên gương mặt tươi. Lúc nào suy nghĩ chuyện được mất hơn thua thì nó rối rắm, sanh bực bội, dễ quạu dễ tức. Bởi vậy, người nào tu hay, nhìn gương mặt tươi vui, còn người nào gương mặt dàu dàu chắc tu không khá!

Ã

Tụi con làm đủ mọi công tác, không xao xuyến nghĩ chuyện gì khác ngoài việc làm của mình, đâu cần phải kềm giữ. Làm việc một mình tu rất dễ, khi có hai ba người lại trở nên khó. Nếu làm thinh hoài thì buồn, nên phải bày chuyện nói, bày ra rồi hứng, kéo hết chuyện này đến chuyện kia, chuyện năm trên năm dưới gì cũng lôi ra hết. Phải làm sao cả giờ làm việc đều chăn trâu kỹ, được vậy trâu mau thuần thục. Còn hay quên chăn thì trâu lâu thuần. Giờ ngồi thiền chỉ có giới hạn chừng mực, nên giờ ở ngoài tụi con phải khéo chăn. Lúc đầu chăn hơi khó, khi thuần thục sẽ dễ. Điều gì cần phải suy nghĩ để làm thì suy nghĩ, không cần thì thôi, đâu có gì bận bịu.

Tụi con nhớ, người tu nếu chưa thấy được ông chủ phải khéo vận dụng trí tuệ Bát-nhã. Khi gặp cảnh hay người làm phiền mình, cứ dùng trí tuệ Bát-nhã thấy rõ có gì đâu mà phiền! Thí dụ, có những niệm mạnh quá buông không được, nhìn lại xem đó là niệm gì. Gặp cảnh cho là quan trọng nên duyên theo, bây giờ nhớ cảnh đó không thật. Còn với người thì rõ năm uẩn đều không, có gì đâu phải bận bịu. Cảnh không thật, người cũng không thật. Cảnh và người không thật thì đâu có dính mắc mà nói buông không được.

Chỉ tại không vận dụng trí Bát-nhã, nếu vận dụng trí Bát-nhã thì không có gì khó buông. Thân mình nay mai cũng tan nát, không có gì quan trọng. Buông dễ thì tu mới mạnh, còn buông khó là tu yếu, bị giằng co lôi kéo hoài. Bởi vậy người tu ba mươi năm đầu thấy núi sông không phải là núi sông, sau mới thấy núi sông là núi sông. Còn tụi con thấy núi sông là núi sông thật hoài, có vận dụng trí Bát-nhã chưa? Hóa ra học qua rồi mất tiêu, lại sống với tâm chúng sanh. Nay biết sống với trí tuệ Bát-nhã, thấy gì cũng chỉ cười.

Hôm qua có ông nha sĩ ở Úc về thăm Thầy. Ông nói, khi coi kinh Kim Cang Bát-nhã thấy không có gì thật hết, cuộc đời này không có gì thật, kể cả ông ấy nữa. Nhìn cho thật kỹ thì thời gian cũng không thật, vì thời gian chỉ là một giả định. Trái đất quay đâu có gì thật. Tất cả không thật, tại sao mình chấp? Người ta là cư sĩ còn nói như vậy. Cho nên tụi con tu, khéo dùng trí Bát-nhã liên tục thì mọi phiền não đều rơi rớt hết.

- Thưa Sư ông, con xem trong kinh có dạy: Còn quán là còn nương theo lời Phật dạy, nên con không quán nữa. Như vậy có đúng không?

- Tụi con không nghe Sư ông nói có đầu có đuôi. Sư ông nói, nếu ai đã thấy được Ông chủ rồi thì khỏi dùng quán, nếu chưa thấy phải quán để dứt phiền não.

- Những lúc con quán thì buông vọng tưởng rất dễ, sau con coi trong kinh thấy nói như vậy nên hơi nghi ngờ.

- Tụi con không đặt đúng chỗ! Sử dụng đúng chỗ mới có hiệu nghiệm. Chừng nào thấy núi sông là núi sông mới thôi, còn nói núi sông không phải là núi sông thì còn phải tu nữa.

Người xưa gọi cửa Thiền là cửa Không – không môn. Cửa Không là Bát-nhã. Tu Thiền là tu bằng trí tuệ Bát-nhã, chớ không phải tu bằng lòng tin, nên nói là cửa Bát-nhã. Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói phẩm đầu là Bát-nhã, vì Ngài ngộ ở kinh Kim Cang. Từ đó mới thấy Bát-nhã rất hệ trọng. Tụi con chưa nhận được Ông chủ nên phải sử dụng Bát-nhã quán chiếu để thấy rõ cuộc đời, bản thân, không có gì phải chấp phải dính. Không chấp dính nên được tự tại. Sở dĩ bỏ khó vì nghĩ: “câu nói đó nặng lắm”, nhớ hoài. Bây giờ dùng trí Bát-nhã: “câu nói đó qua rồi mất”, tự nhiên nhẹ nhàng. Tụi con hay đánh giá nó nặng mấy ký, thành ra mang nó nặng nề. Khó là tại mình mê lầm, cố chấp, rồi bám vào những gì bên ngoài cho là thật: thân thật, giá trị mình thật, cái gì cũng thật hết, đưa tới cố chấp. Cố chấp thì đau khổ.

Nếu tụi con xóa hết mê chấp thấy không có gì quan trọng, chỉ được hòn ngọc quí là việc tối trọng yếu của đời mình. Hiểu vậy, tụi con nhàn nhã, dù không nói tiên, nhưng tự nó cũng là tiên. Nếu mê chấp thì tiên lâu lâu cũng nhớ hồng trần, mà muốn về thăm hồng trần thì phải từ giã cảnh tiên.

Ở đây, tụi con chăn trâu suốt, nhớ sử dụng kiếm Bát-nhã. Có đứa nào không có kiếm Bát-nhã không?

- Dạ, đứa nào cũng có sẵn.

- Nếu sẵn thì phải sử dụng, thường mài không để nó lụt. Bởi nó lụt nên cắt không đứt. Biết sử dụng kiếm Bát-nhã, trên đường tu sẽ không có gì trở ngại. Đứa nào kiếm Bát-nhã lụt quá phải nhớ mài, bằng không nhiều sợi dây cắt không đứt. Tu đơn giản vậy thôi, sở dĩ có rắc rối là tại người ta không chịu buông.

Đúng ba năm Thầy xả cảng cho mấy đứa, thử coi bao nhiêu người đi, bao nhiêu người đăng ký không đi.

Mai mốt có mấy Xơ đến tập tu với tụi con. Thấy họ cũng tha thiết ngồi thiền, nghe nói có một, hai người lạy Phật, đọc Bát-nhã Tâm Kinh đến bài Sám hối cũng khóc. Vậy là có chủng duyên với Phật pháp. Tụi con tụng có khóc không?

- Dạ, lần đầu tụng cũng chảy nước mắt.

- Khóc có hai trường hợp: một là nghe lời Phật Tổ dạy trúng bệnh mình nên khóc, hai là nghe rồi mình nhớ lại đã phạm lỗi nhiều quá nên khóc.

Không biết tụi con khóc thuộc về cái nào. Nếu cảm lời Phật Tổ, đó là có duyên lành, còn phạm tội lỗi nhiều quá là khóc hối hận, khi xưa mình tạo tội, nghe lại lời Phật Tổ dạy mình thấy khổ đau. Cho nên khóc không phải một chiều một mặt, tuỳ theo duyên của mỗi người khác nhau.

Giá trị ngồi thiền ở chỗ lóng lặng vọng tưởng. Hết vọng tưởng đâu phải mất mình. Tất cả những tham, sân, si bệnh hoạn đều bắt nguồn từ quên tánh giác. Dẹp hết những cái đó thì tánh giác hiện bày, lúc ấy không muốn thành Phật cũng là Phật. Nếu không hiện bày dù ham làm Phật cũng không được, vì còn mê, không giác làm sao làm Phật. Hiểu vậy, mới biết tại sao tu mình phải ngồi thiền, phải buông xả những niệm xấu. Vì đó là gốc của phiền não, hễ theo nó là quên tánh giác.

Ví dụ bữa nào tụi con đang chuẩn bị làm món bánh ngon, lúc đó tụi con lo làm bánh, có còn nhớ niệm thân bất tịnh nữa không? Hay chỉ nhớ làm bánh sao cho khéo cho ngon, quên cái tu đúng như lẽ thật. Trái lại, khi tụi con ngồi thảnh thơi một mình, tâm tư lóng lặng mới thấy được lẽ thật, nào là Thập nhị nhân duyên, Tứ đế...

Cũng vậy, người đời chạy theo dục lạc thế gian, không bao giờ biết mình có tánh giác, biết thân này không thật. Khi rủ nhau đi nhậu, tiệc tùng, thì đâu biết thân này không thật. Chỉ khi ngồi thức tỉnh mới biết. Tụi con cũng vậy, ngồi nhắc chuyện năm trên năm dưới rồi cười chơi, lúc đó còn nhớ mình không? Những cái làm xao lãng sự tu hành phải xả bớt, phải hạn chế, để tâm tư mình thanh thản nghiền ngẫm giáo lý Phật. Càng thấm sâu mới thấy siêu thoát. Còn không, tu mà giống hệt người thế gian, lo ăn, lo mặc, cười giỡn cho vui.

Phải có thời giờ ngồi trầm tĩnh. Không cần tụi con phải ngồi thiền dưới gốc cây. Ngồi đây nhìn núi non không trầm tĩnh sao, lựa là phải ngồi gốc cây? Nhiều khi tụi con có những cái cầu kỳ. Lẽ thật thì cứ sống với lẽ thật. Nếu tâm mình yên, ngồi đâu cũng an ổn tốt đẹp, không cần lựa chọn chỗ thích hợp. Tu không phải suy nghĩ theo quan niệm của người thế gian. Ví dụ, bác sĩ bảo cần ngủ tám tiếng, trong đây ngủ có năm tiếng, có phải là trái với qui định của họ không? hay là siêu thoát hơn? Nếu tụi con ngồi chơi một mình mà tâm thanh tịnh, đó là nguồn an lạc, lựa là phải nói cười mới vui. Tâm hồn an lạc thanh tịnh thì ngay đây là Cực Lạc. Chỉ có ngồi ủ rũ rầu lo mới là bệnh. Tu phải khéo, trên đường đạo phải thật sự tỉnh giác, bước đi vững vàng.

Nhiều khi Thầy ngồi ngẫm lại cuộc đời thấy tức cười. Con người chúng ta như mấy vách đất, trong là bộ xương, giống như cái sườn cây lấy dây cột lại, rồi lấy đất đạp nhuyễn tô lên, đó là da thịt. Vách tường ngoài muốn dễ coi quét vôi lên. Mình cũng như vậy. Thân này hít vào thở ra, chẳng ở không chút nào, tưởng ngồi chơi chớ thật là làm hoài, đâu có gì sung sướng. Một lát đói, một lát khát. Vậy mà cho là cuộc sống có giá trị, thấy cũng tức cười. Con người cứ quay theo cuộc sống. Thí dụ muốn ăn cho thật ngon nên phải cực, phải tốn, hôm nay vô, ngày mai ra. Còn ăn rau luộc chấm tương thì khỏe, thảnh thơi mà không chịu, vì bị lệ thuộc nơi lưỡi. Làm cả ngày cực khổ, chiều ăn một bữa ngon là hết trơn, cũng chỉ vì một chút cảm giác ngon của cái lưỡi. Nếu ăn đơn giản thì đâu phải cực khổ.

Bởi vậy, thương người không phải ta đem của ra bố thí giúp đỡ mà phải giúp họ thoát mê lầm.

Giả sử, có người hay ăn hàng, xài bậy, rượu chè, không biết tiết kiệm nên thiếu trước hụt sau, tụi con thấy thương đem lại một, hai trăm ngàn giúp, giúp được bao lâu, giúp làm sao đủ? Chỉ làm sao nói cho họ hiểu được đạo lý, tự họ hạn chế, tự sửa đổi thì mới hết khổ. Mình không cho gì, nhưng đó là kế lâu dài nhất. Chúng ta hay nghĩ, người ta khổ đem lợi giúp cho họ hết khổ, chắc gì! Chỉ có đem lời Phật dạy cho người ta hiểu thật sâu, tự họ giải lấy, tự họ chuyển hóa, đó là chân thật nhất, gọi là bố thí pháp, quan trọng hơn. Hiểu vậy mới thấy giá trị người tu.

Thầy sở dĩ có chút phước là vì Thầy hay bố thí pháp, ngày nào cũng vậy không nhiều thì ít, một ngày hai hoặc ba thời. Bởi vậy, tưởng Thầy ở không chớ đâu ở không. Câu chuyện Thầy thường kể với Phật tử là “Ông trưởng giả có bốn người vợ”. Hồi sáng có nhóm Phật tử Sài Gòn lên, yêu cầu Thầy nói chuyện. Nếu nói lý thuyết họ khó nhớ, nên Thầy dẫn câu chuyện đó kể, thấy họ cười cười, Thầy biết chuyện này họ đã nghe rồi, nhưng Thầy cứ kể. Xong, Thầy giải thích nghiệp là sao, tại sao nghiệp không mất. Giải rồi họ nói: “Con có nghe chuyện này rồi, bây giờ nghe Thầy nhắc lại rất là thấm.”

Chuyện cũ nhưng mình khéo giải thích làm người ta thấm thêm. Nhiều khi ngại, sợ người ta nghe rồi nói lại bị trùng, nhưng kể thì cứ kể, miễn khéo chút thôi. Thiếu gì chuyện Thầy kể cho tụi con nghe lặp đi lặp lại hoài, nhưng cần vẫn cứ kể.

Ã

Lễ Phật Đản ở Indonesia kéo dài khá lâu. Mỗi chùa làm một bữa, vì bên đó Tăng Ni ít mà Phật tử cũng không nhiều, cho nên họ dồn qua chùa này làm xong rồi qua chùa kia, luôn một tháng trời. Bởi vậy, đi dự lễ Phật Đản hoài.

Ở Indo, bắt buộc mọi người dân đều phải có đạo. Có năm tôn giáo, Hồi giáo mạnh nhất, chiếm 80% dân số, còn lại là Ấn giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành và đạo Phật. Đạo Phật chỉ có 2%. Tuy vậy họ vẫn cho Phật giáo giảng trong trường Đại học, cho giờ phát thanh trên đài. Phật giáo chia làm ba: Nam tông là đa số, Bắc tông cũng được kha khá và Mật tông. Ba phái hợp lại, lễ nào cũng có ba nhóm. Những vị Nguyên thủy tu thiền Minh Sát Tuệ, không tu thiền như mình.

Khoảng đầu tháng 9, sẽ có phái đoàn Indonesia đến thăm Trúc Lâm. Ông Silvie mời Thầy qua Indo, Thầy có đến hãng của ông. Ông Silvie qui y bên đó, ở Việt Nam có chú Phật tử làm cho ông là đệ tử của Thầy. Ông tìm hiểu về sự tu hành của quí thầy, hỏi cách tu thiền. Nghe chú đó giới thiệu đường lối tu của Thầy, ông thích rồi mời Thầy qua Indo, còn mời qua chỗ tháp Phật Borobudur ở một đảo khác. Từ đó qua tháp khoảng sáu tới bảy trăm cây số đi bằng máy bay.

- Thưa Thầy, Thầy qua đó khánh thành?

- Đâu có! Tháp đó có từ thế kỷ 16, thời gian sau núi lửa phun phủ hết, sau có người khảo cứu lại, đào lên. Bây giờ họ đang tu bổ, về phần chánh đã xong chỉ còn phần phụ. Mỗi năm đều tổ chức lễ Phật Đản tại đó.

Dự lễ Phật Đản rồi, ông Silvie đưa Thầy đi chơi đảo Bali. Đảo này là chỗ du lịch thế giới, đẹp lắm! Khách sạn tại đó thật sang. Bà chủ là Phật tử, ăn ở chẳng những bà không lấy tiền, còn cúng dường thêm nữa, thành ra lần này về đủ cất hai cái thất cho tụi con. Thầy đang tính cất hai cái thất, một cái cho Ban chức sự, một cái cho chúng thay phiên.

Lần này đi chơi thôi, không giảng gì hết, vì đâu có quen với ai. Tiếng Indo nói lanh lắm vì không có dấu. Chữ họ cũng lấy gốc chữ La tinh. Nước mình bị Pháp thuộc chưa được một trăm năm, nhưng sau đó lại bị nội chiến. Còn Indo hồi xưa bị Hà Lan cai trị ba trăm năm, Nhật cai trị ba năm. Từ năm 1945 trở về sau không còn chiến tranh nữa, nên phát đạt hơn mình. Người định cư ở đó bắt buộc phải nói tiếng Indo, dù người Hoa hay người gì cũng nói tiếng Indo, vì có trên một trăm giống dân, nếu nói loạn thì ai hiểu cho nổi. Tất cả bảng hiệu đều bằng tiếng Indo, không được viết tiếng Anh hay tiếng Hoa gì hết. Thầy không biết tiếng ngoại quốc, có khi ông Silvie đến thăm Thầy, lạy ba lạy rồi đi. Thầy không nói gì với ông, ông không nói gì với Thầy. Khi nào có mấy người thông dịch giùm mới nói chuyện được.

Bên đó có chùa người Hoa đang xây cất, mời Thầy đến dự lễ Phật Đản, sau lại mời giảng một thời. Rồi ông Silvie dẫn đi xem chùa ông cất giữa thành phố cao đến tám tầng, rộng lớn lắm, mới xây xong tầng thứ tư thờ Phật, còn bốn tầng kia chưa xong. Tượng Phật nặng mười tấn đồng, cao bảy thước, ngồi trên toà sen rộng bảy thước. Chỉ một tượng Phật số tiền tính bằng cái chùa của Thầy, còn bao nhiêu thứ nữa ông đang chuẩn bị làm. Lại có hai phòng giảng mỗi phòng chứa khoảng năm trăm người.

Trúc Lâm so với chùa người ta không thấm vào đâu, nhưng nhờ có núi và hồ, có cảnh đẹp thiên nhiên nên ai đến cũng thích. Cũng vậy, tụi con sau này được người ta mến quí không phải vì giỏi văn chương chữ nghĩa, mà vì có đạo đức. Mỗi cái đều có nét riêng của nó. Người ta học cao có bằng cử nhân, tiến sĩ hoặc làm được cái gì đó nên người đời hoan nghênh. Mình không có bằng cấp cao, cũng không làm gì nổi tiếng, nhưng nhờ có tu, có đạo đức, vậy mà bền. Phật dạy: “Chỉ có mùi hương đức hạnh là ngược gió bay đi khắp muôn phương.”

Hôm Thầy sắp về, có hai nhà báo đến phỏng vấn Thầy, một người làm việc cho tờ nguyệt san, người kia bán nguyệt san. Họ xin hỏi Thầy chừng hai ba chục câu, có câu hỏi về đời Thầy, rồi cuối cùng là: “Hiện giờ Thầy muốn cái gì?” Thầy trả lời với họ rằng:

- Hiện giờ tôi còn muốn một điều là tất cả Tăng Ni dưới sự hướng dẫn của tôi, mỗi người tu hành được trí tuệ sáng suốt, đức hạnh đầy đủ. Sau khi tôi nhắm mắt họ thay tôi duy trì Phật pháp, thắp sáng ngọn đèn Thiền tông.

Hôm sau lại có phái đoàn khác hỏi:

- Theo Thầy nghĩ, tương lai Phật giáo như thế nào?

Vì Thầy thấy người hỏi là Phật tử, nên nói:

- Phật giáo tương lai sẽ sáng sủa hơn.

Câu trả lời này có tính cách chủ quan. Giả sử có người ngoại đạo hỏi câu đó, Thầy phải nói làm sao? Khi đó Thầy sẽ trả lời như vầy:

- Tương lai Phật giáo như thế nào là tùy theo sự tu hành và học hiểu của Tăng Ni, tín đồ Phật giáo. Nếu Tăng Ni và tín đồ hiểu Phật pháp sâu, tu hành chân chánh thì Phật giáo sẽ phát triển hưng thạnh, còn nếu Tăng Ni lôi thôi không thông giáo lý, Phật tử cũng không hiểu Phật pháp, Tăng Ni và tín đồ tu hành không ra gì thì Phật pháp suy.

Thầy trả lời như vậy là nói chung, dù bên Phật giáo hay đạo nào cũng vậy. Nếu người lãnh đạo và tín đồ không hiểu đạo lý, hạnh kiểm không tốt thì đạo đó suy, phải không?

Lại có người hỏi Thầy:

- Thầy nghĩ gì về thế kỷ 21?

Thầy trả lời họ rằng:

- Nếu nói tới thế kỷ 21 thì tôi hơi lo.

Hỏi:

- Tại sao Thầy lo?

Thầy nói:

- Hiện giờ khoa học tiến quá nhanh mà đạo đức con người theo không kịp. Bước vào thế kỷ 21 như vậy là tai họa về sau. Ví như có người kém đạo đức, đầu óc bất bình thường không tự chủ mà trong tay có sẵn khí giới thì mọi người xung quanh đều phải lo.

Rồi họ hỏi tiếp:

- Bây giờ chúng ta phải làm gì?

Thầy trả lời:

- Hiện giờ chúng ta phải ý thức được điều đó, cố gắng nâng đỡ đạo đức cho tiến nhanh theo kịp, sao cho đến thế kỷ 21 đạo đức, khoa học và kỹ thuật quân bình thì đó là kế lâu dài.

(Nghe Hòa thượng kể, một cô trong chúng hỏi:)

- Thưa Thầy, những câu người ta hỏi có thâu băng cassette không?

- Người ta quay phim. Họ hỏi nhiều lắm, tới mấy chục câu. Mấy câu hỏi là lạ thì Thầy nhớ, mấy câu hỏi thông thường về giáo lý Thầy quên rồi.

Ở Indo người ta chịu hỏi Thầy hơn là nghe giảng, vì khi hỏi có thông dịch nói lại liền, lời gọn tập trung vào chỗ họ thắc mắc, không có tánh cách lý thuyết dài dòng. Còn mình giảng lý thuyết dông dài, họ phải chờ nghe dịch lại cho hết ý, bị xao lãng hết. Bởi vậy, Thầy nghĩ phải nói làm sao cho thu hút hơn, bữa chót Thầy nhắm hai điểm: một là sao cho hấp dẫn hơn, hai là quảng cáo ông Tổ mình một chút. Khi giảng Thầy nói: “Hôm nay tôi sẽ giới thiệu với quí vị một ông vua Việt Nam đi tu làm Tổ phái Thiền Trúc Lâm.” Thầy kể sự tích vua Trần Nhân Tông, tới bài kệ, Thầy cho ông thông dịch viết chữ Hán lên bảng cho mấy người biết chữ Tàu ghi. Giảng bữa đó thiên hạ có chú ý.

Cuộc đời mình đâu có ai biết trước ngày mai. Năm rồi Thầy có nói đi Hà Nội, Indo gì đâu. Chỉ lo trả hai cái nợ: một là đi Úc, như Thầy đã hứa với Phật tử; hai là chùa Phước Hậu, nhà phía tây hư chưa sửa. Thầy đi về có tiền cho họ sửa nhà tây lại. Ngang đây hết nợ ở nhà luôn.

Phật tử ở đời đa đoan công việc mà còn có được lòng tin, những người nhàn hạ thảnh thơi như tụi con lại thiếu lòng tin thì thật hổ thẹn. Đây chỉ mới nói đủ lòng tin thôi, chưa nói tới chuyện khác. Nhiều khi mình nghĩ, chỉ rảnh rang tu mới có kết quả. Thật ra, tu có kết quả quan trọng ở ý chí quyết liệt, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải nỗ lực, trường hợp nào cũng phải cố gắng, chớ đừng đợi rảnh rang.

Sáng sáng Thầy đi một vòng thấy hai ba người làm hoa kiểng, vừa làm vừa nói chuyện, Thầy hơi tiếc thời giờ. Lẽ ra khi làm phải “tỉnh tỉnh”, dễ thấy đạo hơn. Tụi con nhớ, mình có cảnh tốt, duyên tốt rồi, phải nuôi dưỡng nó. Cảnh tốt mà không chịu nuôi dưỡng, để phí phạm thì uổng.

- Dạ, đôi khi tụi con cũng quên.

Người làm hoa kiểng quên, người chặt củi có quên không? Tụi con ráng luôn sống trong cái tỉnh đó. Mình có được thắng duyên thì phải sử dụng thắng duyên của mình mới tiến nhiều. Người ta là cư sĩ đa đoan công việc mà còn cố gắng tu và tin được điều đó, huống nữa tụi con. Nếu tụi con thấy mình còn khiếm khuyết chỗ nào phải chỉnh sửa lại.

Hôm trước Thầy dạy để tâm mình thanh tịnh, tụi con có chịu để tâm mình thanh tịnh không? Mấy đứa học có thực hành được không? hay là để tâm rong ruổi xóm làng chơi? Thầy đi nhiều nơi về, xét lại thấy rõ thời này tu là phải học. Thời đại này ai cũng có trình độ văn hóa khá. Họ hiểu đạo lý tương đối kỹ càng, mình dốt quá kẹt lắm, không giáo hóa ai được. Tụi con còn trẻ, mai kia đi ra đương đầu với thiên hạ phải có đủ hai mặt: kiến thức và đạo đức. Nếu chỉ có đạo đức thì không đủ trình độ giáo hoá; còn có kiến thức mà không đạo đức dù nói hay người ta cũng không tin. Như vậy, thiếu mặt nào cũng sẽ trở ngại cho sự truyền bá.

Hiện nay, từ thôn quê đến thành thị kiến thức được mở mang, người dân cơ bản phải có trình độ trung học. Tu sĩ là người hướng dẫn, phải có trình độ bằng hoặc trên mức đó. Hồi xưa, quí Hòa thượng mình ở vùng quê đều là vị thầy hướng dẫn cho dân, không có Hòa thượng nào dốt, phải không? Dốt sao dạy học hoặc làm thầy thuốc được. Vì vậy người ta quí người tu là ở chỗ mình có khả năng làm thầy họ cả hai mặt, còn dốt quá họ sẽ cười. Nếu người có lòng ham học đạo tới mà mình không đủ điều kiện để dạy họ thì cũng khó. Ví như người ta đến, mình bảo họ ngồi thiền đi, không cần lý giải gì hết, họ đâu có chịu. Phải có sự hiểu biết rõ ràng tại sao phải ngồi thiền, ngồi thiền như vậy có lợi ích gì cho mình, cho người, họ mới chịu thực hành.

Bữa trước có một Phật tử Indo hỏi Thầy:

- Mục đích ngồi thiền để cho tâm yên định, sáng tỏ, ngoài ra còn lợi ích gì về đạo đức nữa không?

Thầy nói rằng:

- Mình ngồi thiền tâm yên định thì dừng được các phiền não, tham sân si. Dừng được tham sân si tức tránh được tội lỗi. Đồng thời, tâm yên định thì trí sáng suốt. Từ sự sáng suốt đó thấy mọi người mê lầm nên mình thương và khởi lòng từ bi muốn giúp cho họ cũng được sáng suốt. Lòng từ phát khởi do không còn tham sân si. Từ bi này đầy đủ công đức, giới luật và trí tuệ, đem lại lợi ích lớn cho người, chớ đâu phải mình sáng suốt an lạc rồi thôi, mọi người ra sao mặc họ.

Trí tuệ và từ bi không tách rời, nếu trí tuệ mà không có từ bi là trí tuệ khô cằn, còn nếu từ bi mà không trí tuệ là từ bi si. Tại sao vậy? Bi mà si, thương người nhưng không đem lại lợi ích cho người, chỉ thêm đau khổ. Ví như có nhiều người tu, thấy ai đó mới tới chùa không người thân, cô đơn, nên thương xót an ủi, rồi thương luôn. Cái thương đó làm cho người ta kẹt dính, như vậy có trí tuệ hay không? Trong giới tu sĩ của mình có bị mắc kẹt vào cái đó không?

- Dạ, có.

Ban đầu người ta mới tới còn bỡ ngỡ, mình thương, săn sóc lo lắng, rồi họ có cảm tình với mình. Phải sáng suốt, có trí tuệ để thấy rõ phải thương thế nào là đem lại lợi ích và giải thoát cho người. Nếu tình thương đem đến sự trói buộc thì không nên. Chẳng những thế nhân mà tu sĩ cũng hay có lối thương si mê đó. Đó là từ bi mà thiếu trí tuệ. Tụi con nhớ chưa?

- Dạ, nhớ.

Có nhiều người xuất gia thấy trẻ con mồ côi tội nghiệp đem về nuôi, rồi thương như con. Như vậy là trói buộc, là từ bi si mê. Bởi vậy, tụi con nên sáng suốt, đừng bao giờ từ bi đi tới si như vậy, đó là bệnh. Bệnh đó thì hết tu, không thể nào giải thoát được. Giải thoát nghĩa đơn giản nhất của nó là sao? Là không bị trói buộc. Trói buộc là nghĩa của chữ “triền phược”. Mở hết trói buộc là giải thoát. Có đứa nào nói “tôi tu không cầu giải thoát” không?

- Dạ, không.

Ai tu cũng cầu giải thoát mà cứ trói buộc hoài giải sao nổi, dù trói nhiều hay ít cũng là trói buộc. Cho nên có niệm gì trói buộc là cắt ngay, tự mình cắt chớ không phải để người khác cắt cho mình. Người khác cắt có những cái phiền. Mình thích trói mà người ta cắt thì mình tức. Mình bị trói để người ta phải cắt, người ta cũng bực. Cả hai đều không khỏe, không vui. Vậy nên trong khi tu thấy cái gì trói buộc là cắt ngay, để cho tất cả thời giờ quí báu của mình lúc nào cũng thanh tịnh, sáng suốt. Đừng tự mình trói buộc rồi nói tu không thảnh thơi, không hết khổ.

Thầy hỏi tụi con, độ rày khoảng một hai tháng có đứa nào rơi nước mắt không?

- Dạ, có.

Rơi nước mắt vì chuyện gì? Tụi con đọc bức thơ của ngài Động Sơn gởi cho mẹ, để thấy tâm hồn của mình tuy đi tu cũng còn bị trói buộc. Đối với tụi con, người thân thiết nhất là mẹ cha, kế đó là anh chị. Bây giờ tụi con hiếu thảo đem lại lợi ích cho người thân bằng cách nào? Bằng cách nhớ thương hay là ráng tu cho tâm hồn thanh thoát, đạo lý thấu suốt để độ cha mẹ? Độ được cha mẹ mới là nguyện vọng của mình, còn ngồi nhớ thương, suy nghĩ về cha mẹ chỉ làm tâm bi lụy. Lại muốn về làm chút đỉnh gì cho cha mẹ, tưởng đó là có hiếu, nhưng hiếu thảo của người xuất gia không phải như vậy.

Có những đoạn sử nói về các vị Tăng có hiếu với mẹ cha, nhưng mỗi đoạn nói mỗi khác. Như chuyện ngài Hoàng Bá, khi đi tu Ngài nghĩ: “Cần phải dứt bỏ ân tình, quyết tâm đạt đến vô vi, mới là báo ân chân thật.” Nhiều năm Ngài không về nhà. Bà mẹ ngày đêm thương nhớ đứa con xa, khóc đến mờ đôi mắt. Bà lập một quán trà bên đường, tiếp đãi chư Tăng hành cước bốn phương, và mời chư vị về nhà, đích thân bà rửa chân, cúng dường. Vì trên chân ngài Hoàng Bá có một vết sẹo, bà muốn nhân khi rửa chân có thể tìm ra ai là người con yêu của mình. Một hôm, Ngài về thăm, cũng được bà mời đến nhà, nhưng khi rửa chân Ngài chỉ đưa bàn chân không sẹo, nên bà không phát hiện ra Ngài. Trong lúc bà làm những việc đó, Ngài kể chuyện đức Phật vượt thành xuất gia, hi vọng thân mẫu nhân đây thâm tín Tam Bảo, an tâm trong quãng đời còn lại. Ngài Hoàng Bá liên tiếp hai phen trở về nhà, thấy tình thương của mẹ quá sâu đậm nên không cho bà biết tung tích, chỉ âm thầm hướng dẫn bà tu hành, rồi tiếp tục vân du.

Lần sau cùng, Ngài vừa rời khỏi nhà thì có người hàng xóm phát hiện ra, liền báo cho bà biết đó là người con trai mà bà đang trông đợi. Nghe xong, bà tức tốc chạy theo, đến bờ sông lớn thì thuyền của Ngài vừa rời bến, bà hoảng hốt nhảy theo, chẳng may rơi xuống sông chết chìm. Ngài Hoàng Bá trông thấy tình cảnh mẹ bị hụt chân chết chìm, đau buồn quay trở lại. Đứng trước di hài của mẹ, Ngài cảm động rơi nước mắt, nói: “Một người con xuất gia ngộ đạo, cửu tộc được sanh thiên; nếu không được sanh thiên thì chư Phật nói dối.” Khi làm lễ hỏa táng mẹ, người trong làng đều thấy thân mẫu của Ngài ở trong khói bay lên hư không.

Trong kinh Phật nói, người con ngộ đạo cha mẹ được sanh thiên. Tụi con tu mà được như vậy mới là hiếu thảo. Người tu phải thấy được cái gì nên làm, cái gì không. Mình cũng tu nhưng còn yếu, nên chỉ nhìn thấy những cái gần, không thấy xa. Ngài Hoàng Bá quyết tâm tu hành, mẹ Ngài sanh một người con ngộ đạo, nên được phước sanh lên cõi trời. Nói vậy để tụi con thấy trách nhiệm của mình, ráng tu ngộ đạo để độ thân quyến. Như chuyện ngài Tông Diễn, nhờ ngộ đạo mẹ Ngài được phước sanh thiên. Bởi vậy, người xuất gia tu hành đắc đạo thì chuyện cứu độ cha mẹ được bảo đảm.

Bây giờ, giả sử như ba má tụi con sáu mươi, bảy mươi tuổi, nếu về nuôi dưỡng, an ủi được chừng năm mười năm. Còn mình tu đạt đạo rồi cứu cha mẹ, nếu sanh thiên thì mấy ngàn năm, sau đó còn tạo duyên độ nữa. Nói vậy để tụi con hiểu trách nhiệm của người tu là gì. Đừng nghĩ rằng mình lo cơm cháo cho cha mẹ là đền ơn, đền ơn đó chỉ chút xíu thôi không đáng kể. Chúng ta được đạo rồi, cha mẹ an vui sung sướng lâu dài, đó là kế lo xa. Người tu là người thấy xa.

Nói vậy cho tụi con hiểu, người nào có cha mẹ già rồi, không nuôi được đừng buồn. Trừ lúc cha mẹ không còn ai lo, mình có bổn phận phải lo. Còn có người lo rồi mình ráng tu hành, nếu có người nuôi, mình về nuôi nữa thành ra thừa. Làm không ra tiền làm sao nuôi, chỉ phụ họ cho có mặt vậy thôi, trong khi chuyện tu không tới nơi tới chốn, rốt cuộc cả hai đều thiệt thòi, mình không làm được bổn phận của mình, việc của người ta mình lại làm.

Bởi vậy, người tu phải chăm sóc cha mẹ về tinh thần; anh chị, em út ở nhà lo phần vật chất.

Mỗi người lãnh một phần, người nào lo được cho cha mẹ thì có phước. Mình gắng tu thấy đạo rồi hướng dẫn cha mẹ về mặt tinh thần. Bây giờ mình về nhà họ đẩy cho mình, không thèm biết bổn phận, họ không có phước, mình cũng tổn giảm vì không có thời giờ tu tới nơi tới chốn, hai bên đều thiệt thòi. Hiểu vậy mới có gan chịu đựng. Không hiểu vậy, tụi con cứ nghĩ người tu bất hiếu, không gần gũi chăm lo cho cha mẹ, rồi than trách buồn rầu. Sở dĩ thấy bất hiếu là vì mình không hiểu rõ, nếu mình ráng tu ngộ đạo cha mẹ được hưởng phước sanh thiên không nghi ngờ. Người xưa đã thực hiện, một là ngài Hoàng Bá, hai là ngài Tông Diễn, có bằng chứng cụ thể.

- Thưa Thầy, khi tu có niềm vui con lại nhớ thương cha mẹ cực khổ cả đời rồi cũng chẳng được gì. Đường trước mịt mờ không biết sẽ đi về đâu!

- Nếu mình tu có niềm an lạc, vừa nhớ cha mẹ thì cố gắng tu thêm, vì mình đắc đạo sẽ độ cha mẹ không nghi ngờ. Tại mình không khéo chuyển niệm, đừng ngừng ở chỗ nhớ cha mẹ, phải nghĩ đây là cơ hội để mình đền ơn cha mẹ, nên cố gắng vươn lên. Nhiều khi tụi con hiểu lầm, nghĩ mình về nuôi cha mẹ năm bảy tháng trước khi cha mẹ mất để đền ơn. Mình ráng tu mới thật là đền ơn.

Qua câu chuyện Tổ Hoàng Bá, chúng ta thấy như Ngài lơ là đối với mẹ. Nhưng nhờ Ngài tu đắc đạo nên thân mẫu được sớm về cõi trời. Đây mới là chân thật báo hiếu. Bây giờ mình không dám lơ là như vậy, nhưng cũng phải nguội lạnh một chút. Còn nồng nàn quá, ngồi đây mà nhớ má hoài thì tu không tiến được, đời tu không ra gì, không lợi ích cho cha mẹ.

Trong sử kể, có một ông thầy đi tu, đọc lâu Thầy quên tên, ở Trung Hoa. Ông tu rất tinh tấn, nhưng bà mẹ trước làm tội đọa địa ngục. Khi ông tinh tấn tu, ngục tốt nói: “Bà này có đứa con tu tinh tấn lắm, đừng nên hành phạt.” Bà mẹ đỡ khổ nên rất mừng. Thời gian sau, ông thầy bị thối tâm và phạm giới, ở dưới địa ngục, ngục tốt đánh đập bà quá chừng. Bà xin ngục tốt về nhắc con ráng tu, để bà bớt khổ. Đêm đó bà về báo mộng: “Lúc trước con tu tinh tấn, mẹ đỡ khổ ở địa ngục, bây giờ con tu bê bối, phạm giới nên họ hành hạ mẹ quá!”

Ông thầy nghe vậy giật mình hoảng hốt, từ đó về sau nỗ lực tu hành.

Bây giờ tụi con thấy ở thế gian, giả sử có người không tốt bị láng giềng coi thường, sau đó con họ lên làm Tỉnh trưởng, hàng xóm có dám khinh nữa không? - Không. Nhưng đứa con làm Tỉnh trưởng một thời gian rồi ăn hối lộ, ở tù thì người ta lại khi dễ cha mẹ. Ở trên thế gian, con được danh dự thì mọi người quí cha mẹ, khi nó suy sụp, tất cả đều coi khinh. Dưới địa ngục cũng thế. Hiểu vậy, lúc nào tâm hồn tụi con hơi sa sút phải ráng vươn lên, ráng tu cho ngộ đạo mới có thể giúp cha mẹ được.

Ã

Hôm nay Thầy nói một điều rất gần. Ví dụ tụi con có chuyện gì vui, cười ào lên, có gì buồn khóc sướt mướt, đó là buông thả theo cái vui và buồn, nếu như vậy đâu có gì hay hơn người đời. Bây giờ muốn hay hơn thiên hạ thì vui cười vừa phải, cười hàm tiếu thôi; buồn cũng hạn chế, hơi buồn buồn thôi. Đừng để người ta nói Ni cô mà cũng rơi nước mắt, sau này không nhắc nhở dạy bảo ai được!

Nhờ hạn chế sau thành quen dần, còn buông thả, sau này cùng người thế tục không khác. Nhà Phật gọi là tiết chế. Người biết kềm chế thì đạo đức tăng, nếu thả lỏng sẽ thành buông lung. Có ai buông lung mà thành công không? Càng buông lung thì càng sụp đổ, tụt xuống; ai tinh tấn nỗ lực sẽ vươn lên, được thành tựu. Tu không tinh tấn thì không kết quả, ngàn năm vẫn đứng một chỗ. Người có nhiều cái dở nhờ tinh tấn gỡ lại nên cũng tạm được. Cho nên người tu phải tinh tấn. Kể cả ở thế gian, học muốn thi đậu mà lười biếng quá làm sao đậu nổi. Phải thức khuya dậy sớm học hành kỹ thi mới đậu. Đó là thi đậu để làm cô tú, cậu tú cực mười phần, bây giờ mình tu làm ông Thánh, ông Hiền phải cực một trăm. Cô tú cậu tú đâu có ai bái, tụi con tu thành Thánh Hiền, người ta lạy, nên phải vượt hơn trăm phần, mới xứng đáng.

Nói đến tu là nói điều phi thường, không phải nói cái tầm thường. Người tu nếu vẫn sống theo lối tầm thường thì không được, nên nói: “trần lao huýnh thoát sự phi thường”, nghĩa là thoát khỏi trần lao là việc chẳng phải thường. Muốn ra khỏi trần lao phải là con người gan dạ làm điều phi thường. Như ở thế gian lớn lên phải có đôi bạn, ấy là bình thường. Nay tụi con vượt qua, cũng là tỏ cái phi thường của mình.

Đi tu làm người phi thường phải ráng phi thường thật sự, vậy mới xứng với lòng tin, và sự kính cẩn của Phật tử. Nếu tu cũng bình thường như họ thì đâu có gì đáng quí kính. Ngoài đời có những người học cao tới tiến sĩ, thạc sĩ người ta đâu có lạy. Mình tu vì vượt trên cái tầm thường, họ không làm nổi, nên cảm phục kính lễ. Bởi vậy, nếu người tu không khác với thế gian sẽ làm người ta mất lòng tin cậy.

Vậy muốn cho khác tục phải làm sao? Người đời có gia đình mình không có, người ta ăn mặn mình ăn chay, người ta để tóc mình cạo tóc, đó là khác với thế gian. Mấy cô gái đang tuổi mười tám, mười chín bảo cạo đầu có dám cạo không? Vậy mà tụi con dám làm, đó là phi thường, nên người ta nể tụi con. Vậy, những cái phi thường đó tụi con khéo giữ, ở hình thức cũng như tâm hồn. Ngoài thế gian khi có những nỗi lo buồn, người ta kiếm người này người nọ chia buồn, phụ hóa giải. Mình tu rồi đâu cần ai phụ hóa giải, cái hay dở tự mình giải quyết. Không cầu ai thì đâu cần bạn bè, cứ tự giải quyết lấy, vì mình là dũng sĩ mà.

Trong bài Sám hối hồi trước có câu: “đơn đao đột nhập vô thượng giác”, phải cầm đao đi thẳng một mình, không có người thứ hai. Người nào muốn lên bờ giác phải đi một mình, đi hai ba người, người này kéo người kia, nhảy không nổi. Nhảy lên bờ giác không nổi, rớt tụt ở dưới. Bởi vậy, ai muốn lên bờ giác phải gan dạ một mình xông lên, không để người thứ hai níu kéo. Lên không nổi, thì suốt đời hành đạo mà không có kết quả.

Về hình thức, tụi con làm được mấy cái phi thường đáng khen: không có gia đình, ăn chay, cạo tóc, và mặc đồ nhuộm. Nhưng mà bốn cái này thuộc về hình thức, thấy khó mà dễ. Bây giờ thiếu gì người theo mốt này mốt kia, cạo đầu trọc. Hôm trước Thầy có thấy một cô người Mỹ cạo tóc, như vậy cạo tóc không phải phi thường rồi, người đời cũng có thể làm được. Chỉ có nội tâm mình không vướng mắc là không ai bằng, ít người làm được. Nội tâm bị vướng mắc chỉ có mình gỡ, không ai gỡ được.

Tu là phải gan dạ. Hình thức bên ngoài người đời làm cũng được, cư sĩ cũng mặc áo nhuộm, ăn chay, lại có những người ưa kiểu lạ cạo tóc như mình. Chỉ có điều hơn là mình không có gia đình. Vậy cái phi thường của người tu là ở nội tâm. Nội tâm lúc nào cũng phải sáng suốt, tỉnh táo, nếu có tâm niệm không hay phải đuổi nó đi, như vậy mới được an ổn, xuất trần. Tâm mình trong sạch không tham gian, không có niệm xấu xa... Đó là điều mà người đời làm chưa được, trên hình thức họ có thể bắt chước nhưng nội tâm siêu xuất thì họ chưa làm nổi.

Khi ngồi thiền có hai cách: một là trong tâm có niệm nào cũng buông xả hết, hai là có gì uất lòng thì quán xét: “Cái này là vô nghĩa, cuộc đời là ảo mộng, mọi cái đều trở thành không, đeo đẳng làm gì.” Như Thầy rồi sẽ chết, tụi con cũng chết, mang thân này rồi chết, không lo vượt thoát thì uổng một cuộc đời.

Tất cả tụi con ngồi thiền ngày đêm sáu tiếng đồng hồ để trị cái gì? Trị cái tâm. Giả sử đang ngồi nhớ chuyện chị em vui buồn gì đó, tuy không phải tham sân si nhưng có niệm khởi liền buông. Đó là trị cái tâm vọng, không cho làm mất thời giờ của mình. Mình làm chủ hoàn toàn, điều này thế gian không làm được. Nếu thế gian làm không được, mình làm cũng không được thì đâu có hơn ai. Cho nên tụi con phải làm được việc phi thường đó. Đi xuất gia là khó, mà làm được việc xuất trần càng khó hơn nên người ta quí, quí ở đạo đức chớ không phải hình thức.

Bởi vậy tâm mình cần phải trong sáng, những vọng niệm vừa dấy khởi phải bỏ liền, đó là tu. Ngồi thiền mà cứ nhớ chuyện này chuyện kia, những chuyện không đâu là thất bại, bị vọng tưởng lôi. Không làm chủ được thân tâm thì làm chủ cái gì? Không làm chủ được thì không thật có mình. Đó là vấn đề lâu nay nhiều người không biết, cứ ngỡ rằng theo đuổi dục lạc thế gian cho thỏa mãn là hơn hết, ai không thụ hưởng là thiệt thòi. Nhưng thật ra người hưởng dục lạc thế gian nhiều chừng nào, bệnh hoạn, chết sớm chừng nấy. Như vậy là chạy theo cái chết, ý muốn được sống dai lại đi tìm cái chết, những người này tự mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó do si mê mà ra.

Nên người tu không phải hành xác vô ích, mà là tập khắc phục. Thí dụ ai cũng thích ăn ngon, nhưng bây giờ tạm ăn chay lạt, đơn sơ cũng sống có chết chóc gì đâu. Nếu ăn như vậy mà chết thì không nên, nhưng hiện nay người ta lại tán thán ăn chay sống dai. Ở miền rừng núi có nhiều ông bà già ăn uống rất đạm bạc mà sống tới trăm tuổi hoặc hơn. Còn ở thành thị nhất là mấy ông hưởng thụ quá, không bệnh này cũng tật kia, lại càng chết sớm, không thể nào thọ. Như vậy để thấy rằng tất cả những thứ hưởng thụ chỉ làm tiêu hoại thân này sớm thôi, không đem lại cái gì siêu thoát. Người đời mê muội chạy theo, không làm chủ được thân. Thân đòi cái gì liền thỏa mãn cái đó, rồi chuốc lấy tai họa.

Người tu khi định làm cái gì phải thực hiện cho được, dầu cơ thể này có phản đối, mình vẫn thắng nó, làm chủ nó. Bằng chứng cụ thể là việc ngồi thiền, không ai bỗng dưng ngồi được hai ba tiếng đồng hồ, nhưng mình tập mãi rồi ngồi được. Tập được hai tiếng, khi hứng có thể ngồi đến ba bốn tiếng đồng hồ không trở ngại. Vượt qua những cái khó là một điều rất cần thiết. Dần dần làm chủ được thân này rồi, trong tâm những cái tạp nhạp cũng dễ bỏ được.

Khi làm chủ được thân tâm mới biết rõ mình. Hiện giờ nói mình mà không thật biết là cái gì. Nếu mình là thân này thì thời gian sau nó bại hoại; nếu là tâm, một lát giận một lát thương, buồn, ghét, không biết cái gì là mình. Thành ra, nói mình mà không biết thật là cái gì. Chẳng lẽ giận là mình, hay thương, buồn là mình? Mình đâu phải mấy chục thứ như vậy. Lại những thứ đó chợt có chợt không, nếu mình là nó thì mình cũng khi có khi không.

Bởi vậy, tu Phật là phải chinh phục, khắc chế nội tâm, bản thân, mới thật làm chủ, mới có thể ra đi tự tại. Khi còn sống mình cũng được tự tại, cái gì muốn thì làm không thì thôi. Thí dụ có người chọc giận, mình không giận thì thôi, khác với thế gian, chỉ cần nghe vài tiếng trái tai là có thể giận, vì chưa làm chủ được mình. Như vậy ngồi thiền đau chân khổ sở có ý nghĩa tự khắc phục mình. Nếu khắc phục được sớm thì mình là kẻ chiến thắng sớm. Khắc phục được là chiến thắng, ngược lại là chiến bại.

Mấy vị mới về đây lúc đầu ngồi hai giờ không nổi, nhưng cố gắng ngồi rồi cũng quen, qua được hai giờ ngồi tự tại hơn, ngồi hoài không tê chỉ hơi nóng thôi. Lúc đầu ngồi cay đắng lắm, từ một giờ đồng hồ đến hai giờ là khó. Con người ta đau khổ nhất là lúc gần chết, khi sắp lâm chung mọi bộ phận trong cơ thể từ từ tan rã, làm cho người ta đau đớn vô kể. Nếu mình làm chủ không được, rên rỉ, nhào lộn, khổ sở vô cùng. Bây giờ mình ngồi thiền, tập chịu đựng những đau đớn, chừng đó mình mới làm chủ được. Nên các vị Thiền sư gần chết cười thôi, không có gì quan trọng, còn người thế gian thấy khổ đau dồn dập.

Tụi con hiểu những điều nho nhỏ này, trong khi tu không ngán, không thắc mắc sao mình ngồi nhiều khổ quá, ở nơi khác chỉ ngồi mười lăm phút rồi đi kinh hành, đi rồi ngồi nữa rất khỏe, còn mình ngồi một hơi dài quá. Nên phải hiểu ý nghĩa ngồi thiền mà ở đây cố gắng thực hiện.

Về chuyện ngồi thiền bản thân Thầy kinh nghiệm qua, nếu mình ngồi mười lăm hoặc ba mươi phút xả đi kinh hành, tuy rằng đi trong chánh niệm, nhưng khi đi công phu nhẹ hơn lúc ngồi chăn kỹ. Nếu mình ngồi được một hai tiếng hết đau chân rồi, lúc đó mới thấy yên lặng thâm sâu, còn mới ngồi một chút liền đi e khó đạt cứu kính. Muốn thấy tột cứu kính, nhận cái chân thật chính mình phải có thời giờ ngồi lâu và lắng lặng được tâm niệm, chừng đó biết rất sâu. Biết được cái đó rồi thấy đời rất vui, không có gì làm phiền hà mình hết, sống tự tại giữa cõi trần. Nói qua như vậy, tụi con hiểu được ý nghĩa, ngồi thiền sẽ mạnh mẽ hơn.

Ã

Hôm nay Thầy hỏi tụi con hai câu:

Câu 1: Trong khi ngồi thiền tụi con dụng tâm thế nào?

- Dạ, ngồi thiền khi nào có vọng tưởng con liền biết có vọng, khi nào bị hôn trầm con ráng chấn chỉnh.

- Tại sao khi có vọng tưởng con buông, không theo nó?

- Dạ, vọng tưởng là cái không thật, do tưởng mà ra.

- Đó là đề tài Thầy sẽ nói chuyện bữa nay.

Nói đến ngồi thiền, ai cũng thắc mắc ngồi làm gì mà im lìm như vậy? trong khi ngồi sẽ làm gì ở nội tâm? Đây, Thầy nói rõ ràng cho tất cả nghe để biết cách dụng công. Lâu nay mình buông thả sáu căn: mắt, tai... chạy theo sáu trần: sắc, thanh... Bởi vì lo chạy ra, nên cái gì ở bên ngoài thì biết, còn bản thân mình lại không biết. Trái lại, người tu đạo, quay ngược trở vào để tìm biết mình.

Hiện tại khoa học tìm kiếm những thứ bên ngoài, bay lên các ngôi sao ở tít mù để biết trên đó có gì... Nhưng đặt câu hỏi lại: “mình là gì”, không ai trả lời được. Như vậy, chỉ biết bên ngoài không biết mình. Ngược lại đạo Phật chủ yếu là biết mình. Muốn biết mình phải quay lại. Thầy thường ví dụ như cây đèn pha, sáng ở phía trước thì bản thân mình không sáng, nếu rọi ngược lại tức không sáng phía trước. Ngồi thiền là một phương tiện để thu nhiếp sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý soi lại bên trong. Tuy nói rằng bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều tu được, nhưng khi đi đứng ít nhiều cũng phóng ra theo chỗ thấy nghe, còn khi ngồi thiền thân yên định, không bị thấy nghe chi phối, dùng hết tâm lực phản quan lại. Muốn phản quan, ban đầu tạm dùng hơi thở, hít vô thở ra rõ biết, đó là một phương tiện bắt mình xoay trở lại, lâu lâu thấy niệm khởi liền buông. Như vậy là mình soi lại nội tâm, không phóng ra ngoài.

Khi mình phản quan lại, thấy có hai vấn đề then chốt:

Vấn đề thứ nhất, khi soi lại mình sẽ thấy rằng mạng sống nương nơi hơi thở, thở ra không hít vào là chết, mà hơi thở là vô thường, không bền chắc nên sự sống của mình cũng rất mong manh. Thân này do đất, nước, gió, lửa hợp thành. Gió là cái thường trực giữ cho mạng sống còn, nếu thở ra không hít vào thì tắt thở chết. Như vậy mạng sống thật là ngắn ngủi, như sợi chỉ mành.

Vấn đề thứ hai, mình nghĩ điều lành hoặc điều dữ đều là tâm mình. Khi nghĩ điều lành cho đó là tâm mình, vậy khi nghĩ điều dữ là tâm ai? Nghĩ lành dữ, tốt xấu, phải quấy... trăm thứ, chẳng lẽ trăm thứ nghĩ đều là tâm mình? Lâu nay cứ chấp chặt cái suy nghĩ là mình, nhưng bây giờ mới thấy cái suy nghĩ thật là tạp nhạp. Lấy cái tạp nhạp làm mình, chịu không? Lại nữa cả trăm thứ tạp nhạp dấy lên, vừa nhìn lại liền mất, như bóng hiện ra, phản quan soi xét lại không có gì thật. Nó không thật mà lâu nay mình chấp là tâm mình, rồi hơn thua phải quấy, cống cao ngã mạn, đó là gốc phiền não.

Như vậy, một là chấp thân, giờ soi lại thấy thân tạm bợ thoạt còn thoạt mất; hai là chấp tâm, phản quan liền thấy tâm niệm chợt có chợt không. Cả hai đều không thật, thân không thật, tâm không thật. Vậy có gì thật không? Đó là một vấn đề rất to lớn mà thế nhân ít ai nghĩ đến.

Con người cứ bám vào thân này cho là thật nên tìm mọi thứ thỏa mãn cái thân này. Hoặc có người khá hơn, bám vào tâm, rồi cái gì mình nghĩ cũng cho là chân lý, ai nghĩ khác cho là sai. Đó là những điều cố chấp gây đau khổ cho nhau mãi mãi. Hai chấp này đều vô lý, thân tâm là giả mà mình lại cố chấp. Thí dụ như ra chợ người ta bán một rổ rau ngon, mình lại mua. Người ta nói ba ngàn, mình trả giá hai ngàn, họ chưa chịu bán, có ai lại mua ba ngàn, giận không? tại sao giận? Vì nghĩ rau ngon mình mua về ăn bổ dưỡng mà người đó giật cái ngon của mình. Chấp thân này thật nên thấy món ăn bổ dưỡng cũng thật, rồi giận hờn nhau. Đó là chấp về thân.

Nay nói chấp về tâm, chúng ta nghĩ chuyện gì đều cho là phải, ai nghĩ khác đi gọi là sai, nhưng người nghĩ khác kia cũng lại cho họ là đúng, hai cái đúng đối chọi nhau. Vậy nên ở gia đình sanh cãi lộn, ra ngoài xã hội thì tranh hơn tranh thua, vì ai cũng đúng hết. Bây giờ biết cái suy nghĩ là vọng tưởng không thật, không thật nói đúng sai làm gì! Nên Thầy thấm nhất câu trong kinh Phật dạy: Người biết tôn trọng chân lý khi nghĩ điều gì chỉ tuyên bố rằng “đây là suy nghĩ của tôi”, đừng nói “suy nghĩ của tôi là đúng”. Nếu nói tôi nghĩ đúng là không biết tôn trọng chân lý. Ở thế gian này, nếu ai cũng quan niệm: “đây là cái nghĩ của tôi, người khác có cái nghĩ của họ”, thì không có gì để đấu tranh. Trái lại nếu mình nói “suy nghĩ của tôi là đúng”, người kia cũng nói “suy nghĩ của tôi là đúng”, hai cái đúng sẽ chọi nhau.

Như vậy, tôn trọng chân lý là khi mình nghĩ, biết đó là cái nghĩ của mình, người khác nghĩ đó là cái nghĩ của họ, chớ không nói ai đúng ai sai. Thông thường ai cũng cho mình là đúng, không ai chịu mình sai. Có khi nào cãi lộn nói “tôi sai tôi cãi với chị” đâu! Hai cái đúng đụng nhau rồi cãi lộn. Vậy mới thấy, do chấp thân, chấp tâm mà thế gian đau khổ. Nếu người ta biết rõ thân này là duyên hợp hư dối, tâm là những niệm giả dối không thật, rõ hai cái đó nên không cố chấp, thì còn khổ đau không?

- Dạ, không còn khổ.

Hiểu vậy tức là mình tự giác ngộ. Lâu nay chỉ chạy ra ngoài, biết ở ngoài không biết ở trong, tưởng thân thật, tâm thật, si mê giành giật, hơn thua, chống đối. Biết phản quan, thấy thân tâm không thật là điều chủ yếu của người tu thiền. Thức tỉnh mới rõ thân tâm mình. Nhưng thấy rõ như vậy chưa phải là cứu kính, còn phải biết chinh phục nữa. Bởi vì tâm niệm tuy không thật nhưng là chủ tạo nghiệp, thân mình làm lành làm dữ cũng do ý nghĩ mà ra, miệng nói lành nói dữ cũng do ý nghĩ mà ra. Ý nghĩ tuy không hình tướng mà lại chỉ huy cả thân và miệng, tạo nghiệp lành dữ, làm nhân dẫn đi sanh tử triền miên.

Bây giờ muốn dứt sanh tử luân hồi phải làm sao? Không chạy theo nó, phải cho nó lặng đi, nên vừa dấy niệm liền buông, đến chừng không còn một niệm nào thì tự tại thảnh thơi. Khi không còn niệm thì thấy trời mây, cây cối, nghe mọi âm thanh, ngửi tất cả mùi hương, nếm tất cả vị mà không có niệm hơn thua, ngon dở, tốt xấu... Đó là lúc mình an ổn, hết tạo nghiệp, đến khi nhắm mắt được tự do, tự tại.

Trọng tâm tu chỉ đơn giản như vậy. Khi ngồi thiền vọng tưởng tốt hay xấu đều buông bỏ. Vì khởi niệm tốt, làm việc lành, được sanh cõi lành, nhưng cũng còn sanh; khởi tâm xấu, làm việc dữ, sanh vào cõi khổ cũng là sanh. Hai niệm này dừng thì cái chân thật hiện tiền, đó mới là cái bất sanh bất diệt, giải thoát sanh tử. Đây là chủ yếu của việc ngồi thiền.

- Thưa Thầy, mấy đứa con tu giống như leo núi.

- Ờ phải rồi! Núi này cao cả ngàn mét, không phải thấp. Bởi vậy chuẩn bị đôi chân cho vững, phải ném hết những thứ dính mắc cho nhẹ. Chân mạnh nhưng cũng phải buông hết, tay không leo mới nổi, còn nhiều dụng cụ tạp nhạp quá đi không nổi, leo một chút đổ mồ hôi ngồi quị xuống. Thầy thường nói, tu thật đơn giản vô cùng, tu là buông xả. Người ta cứ nghĩ tu là thêm này kia, nhưng ngược lại, tu Phật là buông bỏ.

Thầy thí dụ: Có người ăn trộm, cờ bạc, uống rượu, á phiện, đủ thứ xấu, bây giờ người xấu ác đó muốn trở thành lương thiện thì sao? Chịu khó bỏ rượu chè, cờ bạc, ăn trộm, bỏ hết những cái đó, gọi là người tốt. Bỏ hết chớ đâu có thêm gì. Không thêm gì mà trở thành người tốt. Cũng vậy, cái xấu căn bản nơi con người là tham, sân, si, thêm chi tiết nữa là mạn, nghi, ác kiến, hờn giận đủ thứ. Mình mang đầy, bây giờ chịu khó bỏ bớt. Tham, sân, si bỏ hết thì thành Thánh ngay. Lâu nay muốn làm Thánh lại không chịu bỏ phàm, đó là điều hết sức lầm lẫn. Hiểu rồi tu Phật rất dễ, chỉ là bỏ hết.

Thí dụ có người muốn leo lên ngọn núi cao, lấy cái giỏ to, bỏ đá sỏi nặng trĩu xách theo, một lát nặng quá leo không nổi. Người khác thấy vậy khuyên cái gì không cần bỏ bớt. Người này leo được một đoạn ngồi thở dốc, người kia bảo bỏ bớt nữa, chừng nào bỏ hết rồi đi mới tới nơi. Như vậy, chỉ cần bỏ thôi! Tụi con xét kỹ mới thấy mình thật là ngu si, muốn làm Thánh mà không chịu bỏ cái phàm. Phàm hết liền là Thánh đâu cần thêm gì. Nên Thầy nói tu Phật hết sức dễ, chỉ có một chữ bỏ. Giả sử trong túi mình đầy những thứ tạp nhạp, thấy thứ gì không cần thì quăng bỏ, dễ ợt! Nhưng không hiểu tại sao cứ tiếc bỏ không đành. Nếu khi leo núi mệt, có người đưa mình một giỏ nặng nhờ xách phụ, mình từ chối là phải. Còn việc buông bỏ đâu có gì trở ngại, mà vẫn không chịu buông.

Phật nói si mê là chỗ đó, cứ khư khư giữ cái làm khổ mình, vô lý không? Bây giờ hỏi tất cả tụi con, nóng giận làm khổ mình, vậy mà bảo bỏ có chịu không? Hay nói “tánh tôi nóng lắm” để tìm cách bào chữa. Thật là si mê! Tu Phật rất đơn giản không có gì huyền bí lạ lùng, đó là lẽ thật, nhưng ít ai thấy. Tất cả đã hiểu được chuyện ngồi thiền, hiểu tu Phật, Thầy không cần giảng nhiều.

Ã

Người ta thường nói thế gian trước vui sau khổ, người tu trước khổ sau vui. Thầy không đồng ý. Tại sao? Người tu trước khổ sau vui chỉ đúng một phần. Nếu khi tu đem hết nghị lực, nhẫn nại cố gắng tu để tiến lên, lúc đó khổ, khi tiến lên được rồi là vui, đó là hợp lý. Nhưng còn có những người tu, vô chùa ăn chay, thức khuya dậy sớm thấy khổ, nhưng họ tu lơ lơ là là thì sau có vui không?

- Dạ, không.

- Vậy đâu hẳn ai tu cũng trước khổ sau vui. Nếu tu lơ là, trước khổ sau cũng khổ. Người thế gian trước vui sau khổ, cái đó hẳn đúng chưa? Cũng chưa hẳn. Có những người sống theo dục lạc thế gian, lúc còn thanh niên trẻ trung chạy đuổi theo dục lạc, đó là vui, khi lớn lên nghèo đói, bệnh tật liên miên, chừng đó khổ. Đó là trước vui sau khổ. Nếu người thế gian lúc đầu biết sống nề nếp, đàng hoàng, rồi cũng có tâm hạn chế, trong cuộc sống không bị dục lạc lôi kéo, học hành thành tài rồi cuộc sống giàu sang vui sướng, vậy đâu có khổ. Nên nói một chiều là không được.

Bây giờ trở lại vấn đề người tu trước khổ sau vui. Đúng với ý nghĩa tu tinh tấn, luôn luôn quyết chí, nhiệt tình thì trước khổ sau vui là hợp lý. Nói người thế gian trước vui sau khổ, người tu trước khổ sau vui, hai cái vui này có đồng nghĩa nhau không?

- Dạ, không.

- Vui thế gian là vui tạm bợ, được đó rồi mất, cười đó rồi khóc, không có cái vui toàn vẹn. Còn người tu lúc chịu khổ cực cần mẫn tu hành, nhọc nhằn gọi là trước khổ. Từ cần mẫn quyết tâm đó lần lần vươn lên, qua khỏi khó khăn, tâm nhẹ nhàng thanh thoát nghe vui lâng lâng trong lòng, vui đó có khổ bên cạnh không?

- Dạ, không.

- Nếu được vui đó là vui hoài, vui thanh thoát, nhẹ nhàng, chẳng những trong thời gian mình tu tập, mà khi tiến lên đạt đến Niết-bàn, cái vui đó vô cùng vô tận. Thế gian được cái vui nằm trong giới hạn, làm được quan chức hoặc giàu sang chỉ vui trong một thời gian rồi cũng bại hoại, còn người tu là tìm cái vui vĩnh cửu. Muốn được cái vui này đâu phải dễ dàng. Thế gian tìm vui bằng công danh lợi lộc còn phải trầy da tróc vẩy, mình tìm cái vui muôn đời, nhẹ nhàng thảnh thơi mà cứ mãi đùa chơi đâu có thể được.

Bởi vậy, muốn tìm cái vui vĩnh cửu tụi con phải gan dạ, chấp nhận mọi khó khăn, vượt qua hết rồi, sau được vui thường hằng. Như vậy cái giá phải trả cho niềm vui này là phải trải qua nhiều năm tháng chua cay mới được, không phải là thường. Ở thế gian muốn được cái gì lớn cũng phải trăm cay ngàn đắng, được rồi còn sợ mất. Tụi con được niềm vui này rồi không sợ mất, không ai cướp được, không ai dùng quyền thế mà lấy được, vui đó mới thật là vui. Nếu mình tìm vui để rồi mất hoặc để người khác cướp được, cái vui đó không bảo đảm. Còn niềm vui muôn đời không ai động phạm tới, mình trọn quyền hưởng, cái vui đó mới xứng đáng, vui kia không thể sánh bằng. Như vậy, tụi con thấy tương lai của người tu là đen tối hay sáng rỡ?

- Dạ, sáng rỡ.

Tương lai sáng rỡ, vậy hãy cười đi! Hiện tại mình hơi nhọc nhưng tương lai đẹp sáng. Vậy phải nỗ lực và vui từ bây giờ, đâu đợi tới đó mới vui. Ví dụ, có người bảo tụi con đi tới địa điểm đó sẽ tặng cho hòn ngọc quí, khi lên xe hoặc trên đường đi có vui không?

- Dạ, vui.

- Đâu phải đợi đến lúc nắm hòn ngọc trên tay mới vui. Khi mình khởi sự đi, biết tới đó sẽ được hòn ngọc quí, là đã vui trong lòng rồi. Bởi vậy Thầy nói, người nào tu mà quyết tìm cho được cái đẹp đẽ cao quí thì kết quả đang sẵn chờ người đó. Mình đang đi tới chỗ tốt đẹp an ổn có gì buồn, chỉ những người không biết hướng đến điều đó mới buồn. Con đường tụi con đi là con đường thênh thang cao đẹp, vậy mà có những người đang đi trên đường đó lại khóc, lạ lùng thật! Đã chọn hướng đi quí đẹp, tại sao đi trên đó lại khóc?

Vậy nên tụi con phải luôn thanh thoát vui tươi, dầu gặp chông gai hoặc vấp té, mình cũng đứng dậy cười, đâu có gì phải thối chí. Ngày mai kia sẽ đẹp đẽ. Chỉ có ai không rõ tương lai của mình mới buồn bực, chán nản, khóc lóc. Bởi vậy tụi con thấy ai bệnh hoạn hay gặp việc bất như ý ngồi khóc, tụi con nói: “Sao khờ dại vậy, con đường sáng rỡ của mình không lo đi, buồn khóc mất thời giờ, uổng quá! thật là khờ dại!” Nhắc cho tụi con thấy con đường mình chọn rất tươi đẹp, vui vẻ mà đi, lúc nào gương mặt cũng phải hân hoan, cười hàm tiếu hoài, không được ủ rũ.

Ã

Có gia đình nọ gặp hoàn cảnh khổ, khổ quá sức tưởng tượng của họ, họ đến kể Thầy nghe. Thời tọa thiền khuya, còn mười lăm phút nữa xả, Thầy chợt nhớ lại vấn đề đó, phát ra mấy câu. Thầy đặt là Bài học của cuộc đời.

] Ngày nay bạn thương mến tôi. Vâng, tôi cám ơn bạn. Song ngày mai kia tôi không dám nghĩ đến.

] Thế gian dành cho chúng ta khá nhiều điều bất như ý. Chúng ta phải khéo tu để vượt qua những bất hạnh này.

] Những thay đổi đau lòng luôn đến với ta. Khi chúng đến, ta nên cười chẳng nên khóc. Vì đó là qui luật của thế gian.

(Thiền viện Thường Chiếu 18.8 Bính Tý - 30.9.1996)

Bây giờ Thầy giải thích cho tụi con nghe.

“Ngày nay bạn thương mến tôi. Vâng, tôi cám ơn bạn”. Bấy nhiêu đó để thấy tình đời. Ngày nay là người thân, quí mến mình nhưng đừng nghĩ mai kia họ vẫn còn thương yêu, quí mến. Nếu mình nghĩ như vậy mai kia họ thay đổi, mình đau lòng chịu không nổi đòi tự tử. Cho nên phải biết: “Song ngày mai kia tôi không dám nghĩ đến.” Điều đó để dành, ngày mai sẽ trả lời. Bởi vậy, đừng bao giờ nghĩ mai kia sẽ như thế này, thế nọ, hoặc nghĩ cuộc sống rất an ổn.

Qua kinh nghiệm bản thân Thầy, hồi xưa, lúc Đ.H ở trên núi học kinh Viên Giác, nó khóc, nói: “Con chưa bao giờ được học hiểu như vầy, con mừng quá! Đời con đã mãn nguyện.” Sau này xuống Thường Chiếu, Đ.H xách gói theo thầy khác, còn muốn rủ N.Q và nhiều người đi nữa. Như vậy thì sao? Ngày trước Đ.H quí Thầy, nhưng ngày nay đã đổi thay, ai lường trước được. Kế đó đến N.T, N.T hồi trước Thầy dạy đâu làm đó, ai cũng thấy nó vâng lời và trung thành, nhưng rồi đến một ngày nó nói ngược lại Thầy. Nếu mình quan niệm sống trước sau như một thì sẽ đau lòng trước sự đổi thay. Riêng Thầy cười thôi.

Như vậy, tụi con thấy đây là bài học chua cay, nhưng bài học này ai cũng phải học thuộc lòng. Đó là ý nghĩa thứ nhất. Gần đây, nhiều người bị chua cay còn hơn Thầy nữa. Như có người trước là cột trụ của gia đình, bất thần gặp đối tượng dễ thương liền thay đổi hết, cả nhà chới với. Như vậy, làm sao tin được ngày nay thương mến mình rồi mai kia cũng vẫn thương mình. Cho nên phải dè dặt, sống trong đời đừng lầm lẫn mà đau khổ. Nếu mình không tin tuyệt đối vào người nào thì có gì đau khổ đâu. Thầy biết vậy, nên ai đối xử tốt, xấu đều cười. Đó là một bài học, giúp cho mình bớt khổ.

Câu thứ 2: “Thế gian dành cho chúng ta quá nhiều điều bất như ý”. Ở thế gian này đâu phải mọi việc đều như ý chúng ta. Cái này bất mãn, cái kia không bằng lòng. Như vậy mình phải làm sao? “Chúng ta phải khéo tu để vượt qua những bất hạnh này”. Nghĩa là chúng ta tu để chuẩn bị lúc gặp những điều trái ngang, gian khó đến, mình qua một cách dễ dàng, không nhọc nhằn khổ sở, đó là khéo tu.

Người tu là người hiểu sâu cuộc đời, nên khi gặp việc bất như ý mình sẵn sàng chấp nhận, vui vẻ chịu đựng không than trời trách đất, rên rỉ tại sao bất hạnh cứ đến với mình. Đừng cần suy nghĩ tính toán gì thêm, chỉ nhờ tu mà vượt qua mọi chướng nạn. Như vậy, khi gặp điều bất hạnh, không phải cầu xin để được qua khỏi, mà phải gan dạ, hiểu thấu đáo đạo lý để tự vượt qua. Lâu nay Thầy thấy có nhiều người gặp cảnh khốn khổ, ngày đêm cầu Phật, van xin. Phật làm sao giúp được điều này, phải không? Mình phải can đảm, biết rõ những cảnh nghịch sẽ thường đến với mình. Nó đến mình cười thôi.

Câu chót: “Những thay đổi đau lòng luôn đến với chúng ta”. Tụi con thấy những thay đổi đau lòng luôn đến với tụi con không? Bản thân mình, những người thân thiết, luôn luôn thay đổi. Nói gần nhất là sự thay đổi bản thân, mới hồi nào trẻ bây giờ sắp già rồi, lại hay đau yếu, những thay đổi mình không muốn luôn luôn tới. Mình đâu muốn người thân chết nhưng rồi họ cũng bệnh, chết. Mà đâu phải chỉ một người, cha mẹ, anh em, Thầy Tổ, ai rồi cũng phải tới chỗ đó.

Khi nó tới mình phải sao? “Khi chúng đến, ta nên cười, chẳng nên khóc”. Tại sao không khóc? “Vì đó là qui luật của thế gian”. Nó vô thường như vậy, khóc làm gì. Hiểu vậy, mai kia tụi con mới bớt khổ. Nếu không nghĩ vậy thì khổ về Thầy Tổ, cha mẹ, anh em hoài. Chuyện đó có ai tránh khỏi không? Không tránh khỏi, khi gặp mình cười thôi.

Cuộc đời là như vậy. Người học đạo biết rõ thế gian như thế, nên hoàn cảnh trái nghịch nào đến cũng có đủ khả năng chịu đựng. Người sống tưởng tượng cuộc đời này tươi đẹp, vui sướng, tới lúc va chạm thực tế chới với, đau khổ. Nên người tu phải sáng suốt, thấy tường tận cuộc đời, mình sẽ vui trong cuộc sống. Người thân quay lưng đi hết, còn một mình ta cô đơn thầm lặng cũng tốt, mình sẵn sàng chấp nhận mà. Nếu thấy người này người kia đi, mình ở lại, buồn khổ muốn chết theo, đâu ích lợi gì!

Cuộc đời với bao bất hạnh đang chực sẵn ở phía trước, nhìn kỹ tụi con sẽ thấy nhan nhản trước mắt, nhiều chớ không phải ít. Mình không muốn bệnh mà cứ bệnh, nếu bệnh không nguy hiểm còn đỡ, bệnh nguy hiểm liền lo sợ hoảng hốt. Làm sao khi bệnh tụi con vẫn thản nhiên, đó là tụi con tu thành công. Còn bệnh khóc sướt mướt là tu chưa có kết quả. Tụi con được như vậy sẽ có một cuộc sống rất tự tại.

Chúng ta nên biết rõ cuộc đời, đừng tưởng tượng mai kia hạnh phúc, mốt nọ sung sướng. Đến khi gặp điều bất hạnh, chừng đó mới vỡ lẽ ra rồi thối chí nản lòng. Khi tu không nên đòi mọi việc đều như ý, nghĩ rằng mình tu muốn gì được nấy, đó là tu tham chớ không phải tu thật. Muốn gì cũng được toại nguyện thì lấy gì mà tu?

Thầy ngẫm lại thấy đức Phật thật quá hay. Phật có đủ thần thông biến hóa mà nhiều khi Ngài mang bát đi bộ bao nhiêu cây số, không thèm vận dụng thần thông. Ngài có thể nhập định mọi bệnh đều tan, mà rồi cũng đau lưng bảo ngài A-nan đấm lưng giùm, khi gần tịch lại bị kiết lỵ.

Thành ra, Phật hiện thân như tất cả chúng ta. Ngài cũng chấp nhận sanh, già, bệnh, chết, nhưng có cái khác là Phật giác còn mình mê. Mình gần chết rất đau khổ, còn Phật sắp tắt thở nếu có người hỏi pháp Ngài cũng nói, độ sanh đến hơi thở cuối cùng. Chúng ta cứ lo lắng sợ chết hoài, quên cả đạo lý, đó là cái dở.

Ã

Thầy đâu có cấm tụi con cười, nhưng cười hàm tiếu thôi, đừng cười ha hả mất tư cách. Có người nói chuyện tếu làm cho người ta cười, nhưng nhiều khi chính họ cũng khổ nhờ mình cứu. Bởi vậy cười vừa chừng thôi, điều hòa cuộc sống, không quá vui hay quá buồn. Tụi con không phải là những người làm hề cho thiên hạ, mà là người chỉ dẫn đạo lý. Một lời, một câu nói của mình giá trị thua kém Phật chừng năm mươi phần trăm thôi. Nếu mình nói cười không có chừng mực, người ta sẽ mất tín tâm. Thầy muốn tụi con mai kia xuất thế ai cũng làm được việc đạo, Thầy không muốn tụi con sau này chỉ làm hề cho thiên hạ. Vui cười có khi cũng lại khóc, còn thấy được chân lý mới là cứu kính.

Phật không dạy mình cười nhiều. Phật dạy, giờ rảnh vào trong rừng ngồi thiền, nếu hội họp thì bàn đạo lý chớ không nói tào lao. Phải chi Phật dạy tụi con vui cười mà Thầy ngăn lại là trái với Phật. Ham vui chỉ mất thời giờ, còn làm cho tâm loạn. Khi nào tụi con vui cười nhiều, vô ngồi thiền tâm khó sáng suốt tỉnh táo. Vậy nên phải khéo sống trong đạo lý, gặp cảnh thuận nghịch gì mình vẫn là mình. Đừng gặp cảnh thuận liền mừng, vui theo điều thuận, khi nghịch tới khổ đau theo cái nghịch. Trước cảnh nào cũng bình thản, cười nhẹ nhàng, cười mỉm chi là tốt.

Ã

Trong quyển Bước Đầu Học Phật, tụi con đọc thấy Thầy có nêu ra những vấn đề đi cúng, nhưng chưa đề cập đến Nhị thời khóa tụng. Vấn đề này Thầy đã viết đăng trong tập Kỷ yếu năm 1986. Bây giờ đến lúc phải nói rõ. Bởi vì, mình không biết thì thôi, ai sao mình vậy, mình biết rồi, thấy cái đó sai mà không nói là có tội. Cho nên Thầy phải nói, thiên hạ có phản đối mình cũng cười thôi. Đây là lẽ thật, không trái đạo lý đâu mà sợ. Thầy nói vì muốn tăng giá trị Tăng Ni, đúng ý nghĩa của người xuất gia. Thầy không muốn Tăng Ni bị coi như đang làm một cái nghề không tốt, mượn cửa Phật để sanh nhai.

Tại sao Thầy lấy đời Trần làm tiêu chuẩn? Thật ra trong nước mình không có ông vua nào đi tu, chỉ có vua Trần Nhân Tông là gan dạ dám bỏ ngai vàng đi tu. Ông vua mà đi tu, tức nhiên sự tu là cao siêu vượt thoát chớ không phải việc tầm thường dưới đất, phải không? Nếu ở dưới đất thì những danh dự thế gian Ngài có hết rồi. Điều đó càng nâng giá trị của người tu lên. Đi tu không phải là đi tìm kế sanh nhai, chính vì sự giải thoát cao siêu. Như vậy là Thầy nâng giá trị của Tăng Ni, đâu có làm tổn thương ai. Thầy không hề chỉ trích cá nhân, chỉ nói chung chung.

Nhị thời khóa tụng bắt nguồn từ nhà Thanh bên Tàu. Ngày xưa ở Trung Hoa, nhà Thanh cai trị, Quốc sư Ngọc Lâm vâng mệnh Vua soạn ra hai thời khóa này và bắt Tăng Ni tụng. Vì thời quân chủ chuyên chế lệnh nhà vua ra không ai dám cãi, còn ở Việt Nam mình đâu bị ai bắt buộc mà cũng làm theo, thật là dở. Như vậy để thấy rằng, việc làm chúng ta sai lầm qua một thời gian quá dài nay sửa lại. Cái sửa này người ta nói mới nhưng thật ra rất cũ. Sửa lại theo khuôn mẫu Phật có cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, còn cái kia mới có khoảng trăm năm. Như vậy cái kia là mới, còn chỗ Thầy muốn sửa lại chính là trở về cội gốc.

Tụi con nên tập có cái nhìn thấu đáo. Làm gì phải biết việc làm của mình phát nguồn từ đâu, nắm vững rồi phăng tìm manh mối rõ ràng. Đừng nhắm mắt làm theo, phải tìm cho tận nguồn gốc những gì đức Phật đã từng chỉ dạy, biết rõ việc Ngài đã làm. Mình tu Phật, phải hướng theo điều Phật làm, Phật dạy, chớ hướng theo cái khác.

Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ 3 đã có chùa, có Tăng, có kinh sách, cho tới thế kỷ 19 có ai tu theo hai thời khóa tụng đâu. Như vậy mà chư Tổ ngộ đạo rất nhiều. Từ cuối thế kỷ 19 tới bây giờ tu hai thời khóa tụng, thật khó kiếm một người ngộ đạo. Ngày xưa mới xuất gia, Thầy cũng phải theo luật đó, vô chùa trước phải học thuộc hai thời khóa tụng. Tối tụng Tịnh độ, khuya Lăng Nghiêm. Khi học xong, Thầy đi dạy ở chùa Phước Hòa, Trà Vinh, nghiên cứu kỹ mới thấy tu như vậy không phải. Thấy vậy mà không biết tu đường nào, không có ai chỉ cho mình một lối đi.

Lúc đó Thầy có làm bài thơ “Kẻ Mù”, giờ Thầy quên mất lời chỉ nhớ ý. Thầy diễn tả mình như một kẻ mù bị nhốt trong bốn vách tường bít kín, không biết đi đâu, lẩn quẩn trong đó ra không được, rất là đau khổ. Mình thấy đó là sai nhưng làm sao sửa? bây giờ hỏi ai? Các vị Tôn túc của mình dạy đâu có gì khác hơn. Bởi vậy Thầy rất buồn. Đến khi ở Phương Bối Am dưỡng bệnh, có thời gian rảnh rỗi nghiên cứu thiền, Thầy ứng dụng tu, thấy có đường lối rõ ràng, nhìn lại Phật không xấu hổ, vì mình làm đúng như Phật dạy. Lâu nay Phật dạy một đường mình làm một ngả.

Bây giờ tụi con đi đám có chư Tăng Ni tụng vang rân, người ta thấy là lễ lớn. Phật nói tiếng động là mũi nhọn, khi ngồi thiền có một tiếng động mạnh tụi con nghe nhói liền. Tiếng động trở ngại cho tâm yên tĩnh, khi tới mấy chỗ ồn ào đó làm sao tâm mình an định được. Tâm không an định làm sao tiến tu? Không lẽ chỉ lo tập cho giọng tốt, tiếng hay để hấp dẫn Phật tử. Vậy thì cuộc đời tu ra cái gì?

Nếu ngay lúc này Thầy biết mà không nói, mai kia làm sao? Sau này chắc không ai để ý và nghiên cứu hai thời khóa tụng phát xuất từ đâu, cứ vô chùa là tụng và cúng, thầy làm sao trò làm vậy. Thầy nghĩ rằng thời gian không lâu nữa Thầy đi, bây giờ còn sống Thầy nói rõ cho mọi người biết. Thiên hạ có rầy thì rầy Thầy, đến thời tụi con mọi người sẽ thông cảm hơn. Bây giờ nếu Thầy không nói, sau tụi con nói, thiên hạ rầy, tụi con đâu dám mở miệng. Vậy nên Thầy phải nói trước cho mọi người nghe quen, sau tụi con phụ họa theo không sợ. Đó là lý do Thầy phải nói rõ.

Ã

Người ta không chịu ngộ chớ không phải không thể ngộ. Phật dạy: “Mạng sống trong hơi thở.” Tụi con luôn nhớ “mạng sống trong hơi thở”, ai khen cũng mặc, ai chê chẳng màng, thời giờ đâu mà cãi lẫy. Thấy như vậy là giác. Khi tụi con hằng nhớ, biết mạng sống trong hơi thở, đó là cái thấy đúng lẽ thật. Thấy đúng lẽ thật là trí tuệ, trí tuệ phá ngu si. Thấy mạng sống mỏng manh trong hơi thở nên không tham, đó là phá được tham. Sống trong hơi thở, thiên hạ chửi mình chỉ cười không bực bội, đó là phá được sân. Chỉ cần thấy như vậy, tụi con phá được cái gốc tam độc, thật là đơn giản.

Hít vô thở ra thấy được như vậy là tụi con đã giác, còn gì nữa mà không chịu ngộ. Luôn luôn nhớ, thấy như vậy thì còn gì nữa để tìm! Biết cái chết chực một bên, thở ra không hít vô là mạng chung, có còn phiền não ngu si nữa không? Trí tuệ phá si mê, phá tham, sân. Tụi con nhớ như vậy là phiền não tan hoang, đó là tu giải thoát.

Ã

Tụi con ngồi đây thấy hoa đẹp, đó là hoa cột con mắt, hay con mắt trói hoa? Thấy hoa đẹp đi không được là bị cột, phải tìm cho ra manh mối cái gì cột mình.

Hoa là hoa, không cột ai. Mắt thấy là thấy, cũng không trói hoa. Cột là tại thích cái đẹp. Cũng như chỗ người ta đang xào nấu, mùi thức ăn có cột vào mũi mình không? Hai cái đâu có cột với nhau, tại mình thích ăn ngon, mình ưa muốn nên bị cột, đi không đành. Như vậy sự trói buộc đó không phải do ngoại cảnh hay các căn, chỉ tại tham, sân, si. Giả sử, khi người ta nói nặng, nghe qua mình đâu có cột. Cột là do phân biệt “nói như vậy là nặng”, rồi nổi sân lên chửi lại, rốt cuộc thân tâm đều bị cột. Tụi con hết tham, sân, si thì không bị cột, nếu còn sẽ bị trói buộc hoài. Cho nên tu phải dẹp tham, sân, si mới giải thoát được.

Trong ba món tham sân si, sân là cái dễ dẹp nhất, tụi con dẹp được chưa? Sanh lên cõi trời là hết sân vì không có gì trái ý. Sân dễ trị nhất, vậy mà tu bao nhiêu năm nay vẫn chưa hết sân, buồn không? Người ta làm trái ý, kêu tên mình chửi, mình vẫn cười thản nhiên. Cười mỉm chi đừng cười gằn, cười gằn là cười quạu. Nếu họ chửi thêm cũng cười. Không phải mình chọc tức người ta, tại mình thấy nó không quan trọng, không dính gì với mình.

Có hai trường hợp: Một là mình có lỗi nên người ta phiền, nếu mình biết rõ mà vẫn thản nhiên thì không bao giờ sửa lỗi được. Hai là mình có lỗi nhưng không biết, họ có phiền đành chịu. Nếu người kia buồn mà dám nói cho mình hay thì phải sửa, còn biết làm như vậy người ta buồn phiền mà vẫn thản nhiên là không tốt.

Phiền não nhiều khi làm mình thay hình đổi dạng, khi vui khi buồn. Chừng nào còn tham sân si là còn đổi mặt đổi mày, hết mấy chú đó mới khỏe. Thường nhớ lại, biết nó không tốt liền dừng, chỉ tại không nhớ thôi. Khi nổi sân ít nhớ lắm. Lỡ nổi sân la rồi biết mình có lỗi liền hối cải; còn tìm lý lẽ để che hoặc bào chữa, sợ mất mặt là chưa được. Gặp người nhỏ chưa biết tu có lỗi thì mình dạy nó, nếu mình la tức là mình sân, mắc phải lỗi người tu mà còn sân. Giả sử như mấy cô, mấy thầy ở đây làm lỗi, Thầy biết, kêu lại rầy, đó là vì sống không đúng với tinh thần đạo lý nên rầy. Còn nếu quát la giữa mọi người là Thầy có lỗi, tu mà còn nóng quá.

Ã

Có Phật tử tới hỏi Thầy:

- Thưa Thầy, Thầy nói tu là chuyển nghiệp, có thật chuyển được không?

Thầy trả lời:

- Tu nhất định là chuyển được nghiệp. Lâu nay mình lầm lẫn cho rằng chuyển nghiệp nghĩa là mình làm tội ác, rồi sau đó tu, tội sẽ hết. Ngày xưa mình đánh chửi người ta, bây giờ mình tu không cho người ta đánh chửi mình, như vậy có công bằng không? có đúng nhân quả không? Nếu chuyển như vậy thì thật là sai.

Bây giờ chuyển như thế nào? Ví dụ hồi xưa mình ở địa vị cao có quyền thế, hiếp đáp những người thấp hơn, hoặc có khi nói nặng, mắng chửi nên họ căm hờn. Thời gian sau mình hết quyền thế, còn người mà mình khinh bỉ hiếp đáp lại có quyền cao hơn, có cơ hội họ trả thù. Nhưng do lúc đó mình hiểu đạo, thức tỉnh tu hành, biết tất cả ngôn ngữ hành động đều hư dối không thật, không có gì quan trọng. Ngày xưa mình mắng chửi, nhục mạ người ta đau khổ, căm hờn bao nhiêu năm, bây giờ họ trả lại y như vậy, có khi hơn nữa, nhưng mình biết là giả dối không thật nên chỉ cười.

Nợ trước là phải trả, nhưng hồi mình gây tạo làm họ khổ trăm phần, bây giờ trả lại, nhờ biết tu mình khổ có một phần. Như vậy là chuyển mà vẫn trả. Nếu mình không trả thì không có nhân quả, trái với giáo lý nhà Phật. Còn nếu mình trả y nguyên thì tu làm chi! Hồi xưa mình làm người ta khổ, bây giờ mình cũng khổ y như vậy thì tu có ích gì. Trước mình làm việc ác đó, mình và họ đều mê, cho nên họ khổ bao nhiêu mình thích thú bấy nhiêu. Bây giờ họ trả lại mình, họ cũng thích thú nhưng mình không khổ vì họ. Đó là tu chuyển nghiệp ngay trong hiện đời.

Lại có một người khách khác tới chùa, ông thầy Tri khách tiếp chuyện. Họ khen Thiền viện Trúc Lâm đẹp, ông Tri khách liền nói:

- Quí vị thấy chùa Trúc Lâm đẹp, đó là cái xác của Trúc Lâm, chưa phải hồn của Trúc Lâm.

Ông Tri khách nói như vậy mà không giải thích, thành ra ông khách ôm lòng thắc mắc, chưa biết cái gì là hồn của Trúc Lâm. Bất thần ông hỏi một thầy khác:

- Thưa thầy, cái gì là hồn của Trúc Lâm?

Ông thầy kia đáp thật thà:

- Thầy Viện trưởng là hồn Trúc Lâm.

Ông khách không bằng lòng, tìm đến Thầy hỏi. Tụi con thấy khó cho Thầy chưa? Nếu Thầy nói người trả lời sai, tức phủ nhận người gần Thầy chưa thấu đáo. Nếu nói trúng thì chưa hài lòng Thầy. Nên Thầy trả lời:

- Thầy đó nói rất hợp lý, bởi người thế gian thường quan niệm chủ nhà là linh hồn tạo nên sự nghiệp. Thầy đó tưởng Phật tử là người mới đến với đạo, hiểu theo nghĩa thông thường, nên mới chỉ thầy Viện trưởng là linh hồn Trúc Lâm. Đúng ra, phương pháp tu là linh hồn.

Ông khách nói:

- Thưa thầy, nói như vậy con cũng chưa bằng lòng, vì linh hồn là cái không có tướng, không sanh diệt, nếu hồn Trúc lâm là tướng sanh diệt, con không thể chấp nhận.

Thầy trả lời tiếp:

- Đó cũng là nói theo lẽ thường. Thầy sẽ nói hồn Trúc Lâm phát xuất từ đức Phật Thích-ca. Đức Phật xuất gia và tìm ra chân lý, Ngài giác ngộ và đi truyền bá, đó là cái hồn. Không phải chỉ nơi đức Phật, mà chư Tổ cho đến Tổ Trúc Lâm Yên Tử, bây giờ tới Thầy cũng đem hồn đó truyền cho mọi người. Cái đó không phải chỉ có nơi con người, mà bàng bạc khắp cả muôn loài, mọi nơi. Nghe gió thổi thông reo cũng là hồn Trúc Lâm, thấy mây bay cũng là hồn Trúc Lâm, tất cả đều là hồn Trúc Lâm.

Thầy nói vậy ông khách mới chịu. Vậy tụi con biết hồn Trúc Lâm chưa? Để mai kia người ta hỏi trả lời cho đúng, bằng không gặp người hiểu đạo chút chút, họ bẻ lại. Bởi vậy, tụi con tu có tư cách một tu sĩ thanh tịnh, tu hành nghiêm mật đàng hoàng, đó là phương pháp tu Trúc Lâm chớ không phải hồn Trúc Lâm. Mai kia tụi con nhận ra nơi mình có cái bất sanh bất diệt, chẳng những riêng mình mà tất cả đều có, đó là tụi con biết được hồn Trúc Lâm. Hồn Trúc Lâm vĩnh viễn không bị vô thường chi phối.

Phật pháp không khó hành. Sở dĩ thấy khó vì tất cả chúng sanh chạy theo hình thức thế gian quen rồi, bây giờ nói điều cao siêu vượt ngoài thế tình thì hơi hoảng. Thí dụ Thầy nói nhà kiểu này kiểu kia có hình ảnh dễ thấy, còn nói hồn Trúc Lâm không biết lấy đâu mà dò tìm. Khó ở chỗ không có hình thức, ngôn từ để bám víu, nhưng tu rồi sẽ thấy dễ. Đây chính là mục tiêu đời tu.

Ã

Chúng sanh mê lầm, khi nghe thì biết, qua rồi lại quên nên phải nhắc hoài. Các vị Thiền sư nói đi nói lại đâu có nhiều, đúng như câu của ngài Lâm Tế: “Phật pháp Hoàng Bá không nhiều.” Không nhiều mà học hoài chẳng hết.

Tụi con nghĩ mình có phước hay là vô phước?

- Dạ, đại phước.

- Đại phước cũng là đại bị rầy phải không? Tu không bị rầy thì không tiến. Phải luôn được rầy, được nhắc mới tiến. Tụi con thường nghĩ mình hay, đâu ngờ cũng có nhiều cái dở, lâu lâu hé mòi dở bị khẻ, khẻ cho cái dở mòn đi. Thật ra, tu không có người nhắc nhở lâu tiến lắm.

Hôm trước Thầy nghe kể, M.C ở V.C ra ngoài núi nhập thất rồi sau lên ở trên chú T.L, lâu ngày nhớ V.C đi về thăm. Mấy cô thương, kẻ cho này người cho kia xách đem về. Trước kia M.C có nguyện tu hạnh nhẫn nhục, nguyện vậy nhưng không ai đụng chạm gì hết. Kỳ này nó đem một mớ đồ đạc lỉnh kỉnh về, kể cho mấy vị ở trên đó nghe, em T.L mắng cho một hơi, nói chỉ có bao nhiêu đó mà kể lể này kia. Mắng một hồi M.C nổi sân lên. Như vậy có nhẫn nhục không?

Nếu người ta thử mà cho mình biết, chắc không nổi sân đâu, vì không biết nên nổi sân. Bởi vậy, khi người ta thử mình, mình biết thì tu không hay, người ta thử mình không biết mà qua được mới hay, mới là thứ thật. Lâu lâu có những trường hợp bất trắc một chút, hoặc có những sự thể không bình thường, mình vẫn bình an tự tại, đó là thứ thật. Nếu gặp sự thể bất thường rồi mình bất bình thường luôn, tức không phải thứ thật. Tụi con thì sao? Nếu họ bất bình một, mình sẽ bất bình hai để trả lại cho xứng, phải vậy không? Như vậy cả hai bên đều bất bình thường cả. Nên tu rất dễ cũng rất khó. Nhưng thật tình không có gì khó. Nếu bây giờ người ta khen tụi con đẹp, tụi con thấy đó là thây thúi thì lời khen đâu có giá trị gì. Nếu người ta chê thây thúi, cũng đâu có giá trị gì. Tại sao nghe người ta chê mình giận?

Bao nhiêu người thế gian cứ lo ăn lo mặc, đáo để cũng chỉ là một thây thúi mà thôi. Đó là cái mê chấp muôn đời của con người, có thân rồi cứ lo gìn giữ. Khi ngồi lại, thấy rõ từng lóng xương, gân cốt, vậy mà cho là quí. Tại sao quí? Tại vì mê. Người nào càng quí thân mình, người đó mê càng nặng, từ quí thân sanh ra bao nhiêu thứ chấp trước. Nếu mình thấy thân mình không ra gì thì đâu có tham trước. Đó là tu.

Người ta nói tu phải vận dụng công phu nhiều. Theo quan niệm Thầy không phải vậy. Phải nhìn cho thấu đáo, thấy lẽ thật, tu ít mà đạt kết quả nhiều; còn vận dụng công phu nhiều mà không thấy lẽ thật cũng không có ích, tu nhiều càng chấp thêm. Ví dụ người ta ngồi thiền hai giờ, mình ngồi bốn giờ, có ai chọc liền nói: “Tôi tu hơn mà còn khi dễ hả?” Vì nghĩ mình hơn mà bị khi dễ nên nổi tức. Nếu mình có trí thì ai nói hay nói dở gì cũng là trò huyễn hóa thôi, không nghĩa lý gì.

Thầy đi nhiều nơi rồi thấy tức cười, có nơi đối với mình rất tốt, đi có lọng che thật long trọng, mấy lúc đó Thầy mắc cỡ chỉ nhìn xuống. Còn đi không có lọng mình thong dong nhìn trời nhìn mây. Thành ra, người ta càng quí chừng nào mình càng xấu hổ chừng ấy. Vậy chớ cũng có nhiều người hãnh diện lắm, được người ta công kênh, quí trọng tưởng như hay. Nên tụi con nhớ, trên đường tu không phải được người ta khen là mình đã hay thật đâu. Hay dở chỉ mình biết, nên có ai khen không vui, chê không buồn. Nếu không biết sẽ bị lệ thuộc điều khen chê của thiên hạ, buồn vui hoài. Người này vừa ý thì khen, ngươi kia không thích lại chê.

Bởi vậy, trong cuộc sống đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng như ý. Như ở đây năm mươi người, có được bao nhiêu người thật tình mến mình? Nói thật tình mến chớ không phải xã giao, chừng bao nhiêu người? Năm mươi người kiếm chừng mười người không ra. Vì không mến thật tình nên cái gì mình làm không vừa ý họ dễ bực, dễ chê. Cũng vậy, sống chung năm mươi người, tụi con thật tình mến được chừng bao nhiêu người? được một hai người không? Bởi vậy con người không thật tâm thương mến nhau, chẳng qua là gượng thôi, gượng mà thương, gượng mà hòa. Có khi muốn cho ai đó vui, nói ngọt ngào một chút cho được lòng người ta.

Tốt nhất là xử sự bình đẳng, vì ở đây ai cũng cùng một lý tưởng, cùng một ý chí. Tìm một người giống mình hoàn toàn để thương e không có. Thương như vậy thì lựa chọn quá, mà lựa chọn nhiều sẽ có thương nhiều, ghét nhiều. Nên làm sao sống quân bình, không thương nhiều, không ghét nhiều, tự tại, hòa vui. Huynh nào cũng là người tốt, nhưng còn đang tu tập nên có nhiều tập khí, thành ra có những lúc dở. Chính mình đôi khi tốt, có khi cũng dở, không ai tránh khỏi những điều sai lầm. Biết vậy ta sẽ thông cảm, thương yêu hòa thuận nhau, cùng lo tu tập.

Thật ra, tụi con chỉ lo chuyện tu, còn việc phải quấy... bên ngoài nên gác ngoài tai. Thấy như là ích kỷ mà có ích kỷ không? Mình lo việc mình cho xong, chừng đó muốn nghe thì nghe, như Bồ-tát Quán Thế Âm, nghe người ta than khổ Ngài đến cứu. Còn bây giờ, tu chưa ra gì, nghe than cũng không cứu được, chỉ tăng thêm phiền não. Mặc ai làm gì làm, mình ráng lo tròn bổn phận, coi như mình tiêu cực, nhưng đó là cái khéo của người tu. Lúc mình chưa có khả năng cứu được ai, nghe nhiều sanh bực bội, không lợi người lại trở ngại cho mình. Thầy cho tụi con nghe khi nào tụi con cứu được người. Tất cả chúng sanh khổ, tụi con nghe tới cứu độ họ. Còn bây giờ chưa đủ khả năng, coi như điếc là tốt.

Như vậy, cùng một việc mà chặng này phải, chặng khác không phải. Các vị Bồ-tát nếu không nghe tiếng than khổ của chúng sanh, làm sao khởi tâm từ cứu độ, cho nên phải nghe. Tụi con thấy Thầy hiện nay nên nghe hay không nên nghe?

- Dạ, nên nghe.

- Nghe để rầy phải không? Nghe để rầy chớ chưa phải cứu độ. Biết đâu rầy là cứu độ!

Ã

Tụi con ở đây, y báo này là của những ai đang có mặt. Tất cả chúng sanh cộng nghiệp nên có mặt trong cõi Ta-bà này. Có nhiều chuyện tụi con chưa bằng lòng nhưng thật ra cái nào cũng hay. Nếu tụi con biết tu, mọi cách xử sự xung quanh mình, bị rầy nhắc, bị chê rất tốt giúp cho mình nhớ để tu, như vậy cái gì cũng tốt. Còn không hiểu đạo, ai nhắc nhở, chê bai liền buồn, buồn rồi tức trong bụng, ngay đó bị trở ngại rồi. Nên nói, mình được rầy, được chê, được trách, chớ không phải là bị. Chỉ ai ngăn trở sự tu hành của mình mới buồn, còn ai khuyến khích mình tu phải mang ơn. Ví như mình bỏ tụng kinh, bị rầy, là tốt hay xấu?

- Dạ, tốt.

- Vậy thì đừng nên buồn. Nếu thả cho tụi con tự do thì trong người hơi nhọc nhọc một chút liền bỏ ngồi thiền, bỏ tụng kinh, nên phải rầy, nghe như là khó, thật ra đó là duyên tốt để tụi con tiến. Nếu ai nuôi tụi con, thả cho làm gì thì làm là tốt hay xấu? Bởi vậy chỗ này nghiêm nhặt, vì Thầy muốn tụi con không mất thời giờ trong lúc tuổi còn trẻ. Vì còn trẻ đủ ý chí, sức khoẻ, nghị lực, phải cố gắng tu, tới chừng già khọm có muốn làm cũng không được, uổng cuộc đời!

Thời gian này tụi con đủ khả năng để vươn lên, nên Thầy phải khó, phải kềm chế cho tụi con yên ổn tiến tu. Có khi nào mình tụng kinh ngồi thiền đều đặn nghiêm chỉnh mà bị rầy đâu. Giờ người ta ngồi thiền mình không ngồi, bị rầy là phải. Hiểu vậy trên đường tu không bị phiền não. Đừng nên nói: “Ở dưới kia tôi ngồi thiền cũng được, không ngồi thiền cũng không ai rầy, ở đây bị rầy hoài.” Lên đây, bỏ ngồi thiền bị rầy là cơ hội tốt để mình tiến, phải mang ơn. Rầy nhiều giúp mình tốt nhiều. Tụi con lâu lâu kiểm lại thấy mình còn một hai tật, phải không?

- Dạ, phải.

- Có những tật hơi nhẹ, có những tật nặng. Nhẹ thì rầy sơ sơ, nặng rầy mạnh một chút, nhờ vậy tật xấu lần lần giảm. Nếu để thong thả tự do quá sẽ buông lung. Chừng nào “thõng tay vào chợ” chừng đó cho tự do, chưa tới đó chưa được tự do. Hiểu như vậy, tụi con ráng tu. Thôi Thầy đi về.

 

MỤC LỤC

00 Trang bìa

01 Lời đầu

02 Thỉnh nguyện Tăng

03 Thỉnh nguyện Ni

04 Mục lục

 

THÍCH THANH TỪ

PHỤNG HOÀNG

CẢNH SÁCH

Tập 2

(Tái bản lần thứ nhất)

DL 2006 - PL 2550

 

Lời đầu

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hòa thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hòa thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi.

Cuối Đông Nhâm Ngọ - 2002.

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 14-1 Ất Hợi (13-2-1995)

Phần thỉnh nguyện, toàn chúng có tinh thần biết lỗi ra sám hối, khỏi đợi người khác chỉ. Như vậy rất tốt, đáng tán thán.

Tôi mong tất cả trong chúng luôn nhớ rằng chúng ta ở đây mang trọng trách khôi phục Thiền tông Việt Nam. Hiện giờ Thiền viện có nhiều, những huynh đệ mới đông cả trăm nhưng chưa thấm nhuần đạo lý nên không thể trông cậy được. Những người có khả năng, đáng tin tưởng, hiện đang có mặt ở Trúc Lâm, tôi mong rằng mai kia sẽ thay thế tôi làm những trách nhiệm nặng nề. Bởi vậy, tôi nhắc nhở toàn chúng ý thức trách nhiệm của mình. Nếu ngày mai chúng ta có duyên tốt khôi phục Thiền tông Việt Nam được sáng sủa, phát triển rộng, đó là túc duyên của mình. Nhưng không phải mình ngồi chờ túc duyên đến, mà mỗi người chúng ta đều phải nỗ lực ngay từ bây giờ.

Tôi có sở nguyện muốn khôi phục Thiền tông Việt Nam từ năm 1970. Đến bây giờ trải qua bao nhiêu năm, từ chỗ không có gì mà tôi cố gầy dựng, từ chưa có người hiểu Thiền là gì, tôi cố gắng làm cho một ít người hiểu. Đến nay đã có rất nhiều người hiểu được. Tôi xem đây là một trách nhiệm của tôi.

Từ số không mà nay chúng ta đã có đủ cơ sở, vậy phải ráng làm sao tạo dựng cho mình có một nền tảng đạo đức vững chắc. Nền tảng đạo đức đó gốc ở chỗ phải sáng đạo. Sáng đạo tức là thấy được cái chân thật của chính mình, nhận cho ra cái thật của mình chớ không phải chỉ nói suông hay tưởng tượng. Cái thật đó không đến với chúng ta qua lý luận. Chúng ta chỉ sáng ra khi tâm tư mình thanh tịnh. Cho nên tất cả trong chúng phải dồn hết tâm lực tu hành. Mọi chuyện phiền não, hơn thua không đáng đều bỏ qua hết, chỉ để tâm chuyên chú buông xả vọng tưởng và các duyên ràng buộc.

Vọng tưởng không phải bỗng dưng có, mà nó theo duyên sanh khởi. Nếu mình duyên cái gì bên ngoài thì vọng tưởng theo đó dấy lên. Vì vậy chúng ta phải buông hết các duyên bên ngoài, đừng để bị lôi dẫn, trong tâm mới dễ thanh tịnh. Cho dù cố dằn ép ở trong mà ở ngoài mình cứ theo đuổi hoài cũng không bao giờ dẹp nó được. Cho nên người biết tu phải gỡ bỏ những duyên lôi kéo bên ngoài. Những thứ dính mắc vì tập khí cũ khi vừa dấy khởi chúng ta phải bỏ ngay. Phải thấy rõ những thứ giả dối hư ảo không thật để đừng bị lôi cuốn.

Nhiều người cho rằng tu khó, nhưng thật ra không khó. Tu rất dễ, rất thảnh thơi, nhưng chúng ta thấy khó vì kẹt vào thói quen cũ. Như tôi thường ví dụ: Với một người ghiền rượu và một người chưa ghiền, khi tôi kêu bỏ rượu đừng uống, thì ai khó ai dễ? Đối với người chưa ghiền rượu, nói đừng uống rượu là chuyện như chơi không có gì khó. Nhưng đã lỡ ghiền mà bảo đừng uống rượu là chuyện rất khó.

Như vậy khó là do huân tập lâu ngày thành nhiễm sâu, bây giờ buông khó. Nếu chúng ta không huân tập thì buông dễ ợt, vừa nói buông liền sạch. Nên trong sự tu, không phải người giỏi người dở, mà sai khác gốc ở chỗ huân tập đã sâu dày hay nhẹ mỏng. Người mỏng buông mau sạch, còn người dày phải buông lâu mới sạch.

Lại còn khác nhau ở chỗ cương quyết và không cương quyết. Như tôi thường nói, cùng năm bảy người ghiền rượu, bây giờ biết rượu hại muốn bỏ, người nào cương quyết thì bỏ được, ai yếu đuối không thể bỏ. Bỏ không được là vì ý chí yếu đuối, không can đảm, nên biết là hại, là dở mà bỏ không được. Còn người kia cũng ghiền như vậy, nhưng ý chí kiên quyết thì bỏ được.

Đó là điều tôi muốn nhắc cho đại chúng biết, chúng ta tu được hay không là do ý chí cương quyết hay không cương quyết. Đừng nghĩ rằng trên đường tu mọi việc đều như ý, không có chuyện đó. Được cái này sẽ không ổn cái kia, nhưng nếu chúng ta cương quyết thì dầu trường hợp nào cũng thắng được, cũng đi đến nơi đến chốn. Đừng nói khó rồi không chịu tiến bước, đó là yếu đuối.

Tôi trông đợi toàn chúng ở đây. Những người tôi cho lên đây đều là người tôi tin tưởng. Bởi tin tưởng nơi mấy chú nên đặt nhiều kỳ vọng, nghĩ rằng mai kia mấy chú có đủ khả năng, về phụ lo cho Thiền viện Thường Chiếu và cũng để duy trì mở rộng Thiền viện Trúc Lâm. Sau này, Thường Chiếu và Trúc Lâm không còn là hai nữa, mà cùng chung một đường lối, một hướng đi và cùng những người từ đây ra chung vai gánh vác.

Vừa rồi Nhật Quang thưa với tôi:

- Công chuyện dưới này quá bề bộn, phần con bệnh hoạn một mình lo không xuể. Xin Thầy sắp người thế cho con nghỉ một thời gian.

Tôi trả lời:

- Bây giờ chưa có ai thế chú được. Ở Thường Chiếu toàn chúng nhỏ, còn Trúc Lâm tôi mới thành lập có một năm. Năm đầu còn nhiều việc rộn ràng chưa được rảnh để chuyên tu, đến năm thứ hai bớt công tác ở ngoài mới khép vô sự tu hành. Cũng phải đôi ba năm nữa mới có người thế, chớ bây giờ đâu có!

Nhật Quang thưa:

- Như vậy lâu quá!

Tôi nói:

- Lâu cũng phải chịu thôi chớ làm sao mau được.

Nhật Quang cũng muốn lên trên này để được tu, nhưng hiện không có người thế. Bao giờ có người tôi tin tưởng có khả năng, đối với đạo không còn lệch lạc nữa, tôi mới dám cho về dưới thay thế Nhật Quang. Ở đây chỉ khách du lịch đến, còn dưới kia là chỗ truyền bá rộng rãi vì gần thành phố, nhiều người tới lui, trên phương diện mở mang rất thuận lợi. Vì vậy đừng nghĩ rằng lên đây rồi ở đây mãi mãi. Một ngày nào đó, chúng ta cũng phải thay phiên về gánh vác công chuyện ở dưới.

Do đó, tôi trông mấy chú từng ngày chớ không đợi đến tháng đến năm. Mong sao mấy chú mỗi ngày khéo gạn lọc mình, bớt duyên bớt cảnh, tu hành đến nơi đến chốn, để một ngày nào khi cần thì có người thay thế. Như vậy trách nhiệm quá nặng nề chớ không đơn giản. Mấy chú ở đây không phải chỉ nghĩ mình tu đến chừng nào chết thôi. Không phải vậy! Mình tu để chính mình thấy được đạo, thật thấy chớ không phải tưởng tượng, biết được hướng đi không chút nghi ngờ để hướng dẫn cho những người sau. Đó là gánh vác một trách nhiệm lớn. Đây là nhân duyên Phật pháp vận hành chớ không phải ý kiến cá nhân tôi.

Như tôi đã nói hôm Tết, ở đây dù sao đi nữa cũng là cơ hợi tốt để mấy chú ráng tu. Mấy chú tiến được rồi mai kia có thể làm Phật sự lớn lao thay thế cho tôi. Tôi nghĩ hiện nay chỉ một mình tôi, nhưng sau này sẽ có cả trăm người chớ không phải là một nữa. Nên tôi mong đợi mấy chú cố gắng tu hành, đừng bỏ phí thời giờ, đừng vì chuyện nhỏ mà xao lãng bổn phận chánh yếu của mình.

Mong rằng trong chúng từ lớn tới nhỏ ai cũng ý thức được mình có trọng trách rất lớn để cố gắng tu. Mọi sự nhỏ nhoi không đáng bỏ qua hết, chỉ làm cho tròn một việc đó thôi. Như vậy mới xứng đáng, mới không uổng phí một đời tu của mình.

Ngày 1-2 Ất Hợi (1-3-1995)

Hôm nay thỉnh nguyện chỉ có một người thấy có những lỗi vi tế nên ra sám hối, ngoài ra tất cả đều được thanh tịnh. Đó là điều đáng mừng, trong chúng mỗi ngày tu hành mỗi tiến.

Chúng ta tu có hai phần: hình thức và nội tâm.

Về hình thức, tôi nhắc chung cho tất cả, chúng ta phải khéo giữ gìn oai nghi tế hạnh, từ cách đi đứng, nói năng, lúc nào cũng phải dè dặt để ngôn ngữ mình nói ra không có lỗi lầm, không bị người ta thấy thô. Hành động cũng vậy, đi lại hoặc lên lầu, xuống gác... đều phải nhẹ nhàng, êm ái đừng để huynh đệ phiền hà. Đi đứng chậm rãi, nếu có đi nhanh cũng nên nhẹ nhàng bình thản, đừng có những tướng đi vội vã coi không hay.

Về oai nghi, hành động, mỗi vị đều phải ráng tự kiểm, dè dặt đừng để thô tháo người ta cười. Bởi vì đối với người tu, nhất là tu thiền, người ta hay nói tâm an thì các hành động được nhẹ nhàng, từ tốn, không hấp tấp. Ngược lại, nếu hành động hấp tấp, không nhẹ nhàng, người ta thấy tâm mình cũng chưa yên ổn. Thân và tâm liên hệ với nhau. Cho nên tất cả phải ráng dè dặt.

Về phần nội tâm, chắc ai cũng thấy, tuy tu nhưng vọng tưởng khó trừ diệt, nếu có cũng chỉ diệt được phần nào, chớ sạch hết thì chưa có ai. Từ xưa tới giờ, người tu làm những Phật sự như cất chùa chiền... tuy là vất vả nhưng dễ được, dễ thấy. Ví dụ chúng ta làm từ thiện hoặc cứu trợ nạn lụt thì vận động Phật tử... mười bữa nửa tháng là làm xong công tác, kết quả thấy cụ thể. Hoặc giả như cất chùa xây tháp, mình cố gắng làm một năm hay hai, ba năm cũng rồi, công việc thấy tiến triển mỗi ngày. Chỉ có sự tu mới thật là khó, tuy năm, mười năm nhìn lại vẫn thấy chưa có gì thay đổi, chưa có gì đặc biệt.

Bởi vậy, gần đây giới tu sĩ chúng ta đa số đều thích làm Phật sự hơn ở yên tu. Vì ngồi tu xem trầm lặng quá, không thấy được kết quả cụ thể nên ít ai chịu làm. Nay ở đây chúng ta can đảm quyết tiến tu, mỗi người phải nhìn lại mình thật tường tận, thấy rõ từng hành động hay hoặc dở, từng lời nói thô tháo hay nhẹ nhàng, rồi nhìn rõ từng niệm, niệm khởi liền biết, không bị lôi dẫn. Việc làm này hết sức tế nhị, tuy như là mình không tu mà thật ra rất có công phu.

Vừa rồi tôi giảng về Tổ Bát-nhã-đa-la tức là Tổ thứ 27 Ấn Độ. Một hôm vua Hương Chí hỏi Ngài:

- Tôi thấy các thầy đều tụng kinh, tại sao Tôn giả không tụng kinh?

Tổ đáp:

- Tôi thở ra chẳng tiếp các duyên, hít vào không ở trong ấm giới, thường tụng thứ kinh này trăm ngàn muôn ức quyển.

Quí vị thấy tụng kinh đó là kinh gì? Lời này cho chúng ta hiểu thêm tinh thần người tu thiền. Bởi vì người tu chúng ta đối với sáu căn luôn luôn dè dặt cẩn thận, khi tiếp xúc với sáu trần không để dính kẹt. Đó là không kẹt ở ngoại cảnh. Rồi đối với nội thân, chúng ta không chấp năm uẩn này thật, luôn thấy là huyễn ảo, nên không mắc kẹt ấm giới. Thân và cảnh rỗng rang, đó là trọng tâm Phật dạy. Người tu thật tỉnh thật giác phải tiến đến chỗ này.

Như vậy, chúng ta muốn tất cả ngoại cảnh không có điều gì cột trói mình được thì tâm đừng chạy theo cảnh, đó là thở ra chẳng tiếp các duyên. Đối với nội thân, chúng ta thấy rõ thân này là tướng duyên hợp hư ảo không có gì thật, không phải thật mình, nay mai sẽ bại hoại không thể nào giữ được. Biết rõ như vậy cho nên không chấp thân là ngã, đó là không kẹt ấm giới. Trong ngoài không dính không kẹt hằng được tự tại, giải thoát. Đây là gốc của sự tu hành.

Nếu hằng nhớ hằng tu như vậy thì con đường giải thoát đối với chúng ta sẽ không xa. Tuy nhiên không phải thấy hiểu mà liền được, chúng ta phải huân tập hằng ngày, gỡ bỏ tất cả những thói quen dính mắc, lúc nào cũng thấy rõ thân và cảnh đúng như thật, không kẹt, không cố chấp. Như vậy sự tu hành mới có thể đạt kết quả tốt. Nếu tu mà cảnh tốt cảnh xấu bên ngoài đều kẹt, còn thân mình thì luôn luôn thấy có ngã, thấy là thật, quí... tức không bao giờ tiến tới chỗ giải thoát được.

Hôm nay tất cả chư Tăng tu hành về hình thức tọa thiền thấy có tiến, về lỗi lầm cũng giảm bớt, nhưng phải làm sao khi đi đứng nằm ngồi đối với sáu trần không dính kẹt, với nội thân không chấp trước, đó mới là cái gốc, là chỗ tựa của mình. Mong tất cả ráng tinh tấn để đạt được kết quả. Đó là chỗ mong mỏi của tôi.

Ngày 13-2 Ất Hợi (13-3-1995)

Kỳ thỉnh nguyện này tôi thấy toàn chúng đa số đều được thanh tịnh, chỉ có một vài lỗi nhỏ. Đó là điều đáng mừng. Tôi xin nhắc cho toàn chúng những điều cần thiết.

Điều thứ nhất là trong chúng mỗi người phải ráng lập ý chí mãnh liệt tu hành, đừng để giờ tu của mình biến thành giờ ngồi trong hang quỉ, rất đáng tiếc. Ngồi trong hang quỉ nghĩa là sao? Ngồi gục lên gục xuống, tối tăm, không sáng suốt, trong nhà thiền gọi là ngồi trong hang quỉ. Vì vậy, chúng ta phải nỗ lực cố gắng đừng để những ma chướng hoặc ma ngủ lôi dẫn, bắt mình phải lệ thuộc, làm giờ tu không có lợi bao nhiêu. Đây là điều rất thiết yếu.

Đa số những người tu bị ma ngủ dẫn là do thiếu quyết liệt, thiếu sức tinh tấn. Nếu chúng ta tinh tấn, quyết liệt thì ma ngủ không thể thắng được mình. Muốn vậy, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm.

Quí vị nhớ Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa chỉ cần được một người thôi. Người đó tôi gọi là “chàng dũng sĩ chặt tay” quên mình cầu đạo. Một con người như vậy thì sự tu hành mới không thối chuyển. Còn chúng ta đến với đạo quá nhẹ nhàng, tùy hỉ, không lập chí quyết liệt nên khó thắng được cái chướng giải đãi của ma ngủ. Nhờ dám chết để cầu đạo nên khi ngài Huệ Khả dụng công tu, liền được ngộ. Chỉ cần được một đệ tử dám chết để cầu đạo mà đèn Thiền truyền mãi đến bây giờ, cả ngàn năm Phật giáo Thiền tông không mất.

Người quyết chí chết sống vào đạo là một gương sáng cho chúng ta. Có một người như vậy, đạo pháp sẽ được lâu dài bền bỉ. Còn dầu chúng ta ở một trăm người mà ai cũng vào đạo với tánh cách cầu an, tu nhè nhẹ, chỉ mong có phước để dành đời sau thì sẽ không bao giờ tiến được đến nơi đến chốn. Cho nên khi chúng ta vào đạo, tu thiền cần phải nỗ lực cố gắng.

Ở đây tu không nặng về hình tướng. Thí dụ giờ tụng kinh ở các chùa, đánh chuông mõ tụng vang rân nên ít buồn ngủ. Còn chúng ta ngồi yên tĩnh kiểm soát lại mình, không có gì để nghe ngóng duyên theo, nên cơn buồn ngủ dễ đến. Vì vậy trong khi tự kiểm soát mình, phải lập chí cho vững, phải mãnh liệt lên, đừng để yếu đuối, lơ là, đó là cớ trở thành mê muội.

Trong khi ngồi nếu hơi mơ mơ một chút liền chấn chỉnh, tỉnh táo lên. Để mơ màng một lát sẽ gục. Giả sử người giám thiền đánh một cái, giật mình thức dậy, một lát để mơ mơ lại gục nữa. Cho nên bị đánh như vậy là phải chấn chỉnh mở mắt, ngồi nhìn thẳng cho mạnh mẽ khả dĩ mới thắng được, còn để mơ mơ hoài không bao giờ thắng được con ma ngủ. Không thắng ma ngủ thì ngồi chỉ là khổ thôi chớ không có kết quả.

Vì vậy quí vị phải ráng lập chí quyết liệt, đừng có lơ mơ, lôi thôi. Tôi yêu cầu quí vị giám thiền, nếu đi giám thiền thấy người nào, một là nửa chừng đi ra không có lý do chính đáng, hai là ngồi gục cổ ngủ thì cứ ghi sổ giùm tôi. Để coi những người đó có ý chí quyết tu không. Vào đây tu mà để con ma ngủ làm chủ hoài cũng không có lợi ích gì. Vì như tôi đã nói, thắng được buồn ngủ là do ý chí quyết liệt, còn thua là tại yếu đuối.

Tuy nhiên tôi cũng thông cảm cho một số mấy chú từ hai lăm tuổi trở xuống, đó là tuổi mê ngủ. Nếu mấy chú dưới tuổi hai lăm khả dĩ còn tha thứ, trên tuổi đó mà cứ để ma ngủ làm chủ là do yếu đuối, giải đãi, không quyết chí. Như vậy những người này phải bị tôi quở rầy nhiều và nếu nhiều lần không bớt có thể dời chỗ, vì ở đây cũng không có lợi gì. Tôi xin nhắc thật rõ như vậy. Nếu quí vị tu mà không làm chủ, không cố gắng, để cho ngủ sa đà, người khác tới nhìn thấy cười chê, làm sao tin quí thầy ở đây tinh tấn tu hành! Đó là điều không tốt.

Tôi khuyên quí vị ngủ nhiều phải tự cố gắng tỉnh táo lên. Biết rằng buồn ngủ là bệnh chung, nhưng cố gắng thì vượt qua được, còn không cố gắng tức bị nó dẫn, đó là dở. Vậy chúng ta phải ráng vươn lên, đó là yêu cầu thứ nhất của tôi.

Thứ hai, trong lời mở đầu của bản Thanh qui có nói chúng ta phải tập sống đạm bạc. Nhưng thật tình tôi thấy ở đây chúng ta chưa thật đạm bạc, trái lại nhiều khi còn hơi phung phí. Các đồ vật dùng có nhiều người xài một cách cẩu thả, làm cho hư hao rồi quăng bỏ, làm tiêu phí của Tam Bảo, không tốt.

Toàn chúng nên hiểu rằng người tu là người sống đơn giản và tiết kiệm, vì sợ tổn phước tổn đức, tu hành khó tiến. Đã sợ tổn phước, tổn đức thì của đàn-na thí chủ cúng dường mình phải xài đúng nơi đúng chỗ và đúng giá trị của nó. Đừng xài nửa chừng quăng bỏ làm hao tổn của tín thí, đồng thời mình cũng tổn phước, sự tu hành khó vươn lên được. Vì vậy ai tu cũng phải khôn ngoan tiết kiệm từng chút phước. Nhờ phước đó mà mình vượt qua được các chướng, chớ tu không có phước khi gặp điều chướng nạn mình không làm chủ, không vượt qua được, nó kéo mình tuột xuống, đời tu không tới đâu.

Cho nên chúng ta phải sống đơn giản, đạm bạc, đừng phung phí quá trớn. Dù biết rằng Thiền viện không thiếu nhưng mình vẫn gìn giữ cẩn thận. Thí dụ như một chiếc áo rách, chúng ta nên vá lại để mặc, chớ không phải mỗi lần rách là quăng bỏ, vì ở thế gian bao nhiêu người vẫn mặc áo rách. Rách mà vá đi vá lại càng tốt, vì người tu đơn giản, đạm bạc người ta càng quí kính chớ người tu sang trọng quá không hay. Vậy nên trong chúng phải biết để xài tiết kiệm. Gìn giữ của Tam Bảo tức là gìn giữ cho chính mình, đừng nên phung phí rồi tổn phước. Ai cũng muốn mình tu hành dễ tiến, nếu thiếu phước ắt khó tiến được.

Như vậy, sự tu đòi hỏi phải có ý chí và phước đức mới có thể tu đến nơi đến chốn. Đó là hai điều tôi mong toàn chúng ráng nhớ đừng quên. Có khi Phật tử thương giúp cho chúng ta được đầy đủ, rồi quí vị tưởng như mình khá giả, lại mặc tình phung phí. Đó là điều tổn phước. Giả sử mình có dư thì làm những Phật sự khác, thiếu gì công việc để làm. Thí dụ trong Viện nếu mỗi tháng có dư dả thì lấy tiền đó mua băng sang cho Phật tử nghe, hoặc in sách in kinh cho Phật tử đọc, vậy còn có phước, chớ mình phung phí là tổn phước.

Hôm nay tôi nhắc cho tất cả trong chúng gìn giữ đừng để tổn phước rồi sự tu hành không tiến được. Mong tất cả cố gắng!

Ngày 30-2 Ất Hợi (30-3-1995)

Hôm nay tôi nhắc lại phương pháp tọa thiền cho người mới tu. Quí vị nghe rõ và nhớ kỹ để chỉ dạy cho người sau.

Như tôi thường dạy, nếu người mới tu nên quán sổ tức và tùy tức, là hai phương tiện ban đầu. Chúng ta tu thiền theo lối phản quan tự kỷ. Thường ngày sáu căn phóng ra ngoài đuổi theo sáu trần, càng đuổi theo sáu trần càng quên mất mình, nên ngài Trần Thái Tông nói chúng ta là khách phong trần, lang thang mãi quên mất gia hương. Nay đếm hơi thở, theo hơi thở là những phút giây xoay lại mình, đó là trở về gia hương chớ không có gì lạ. Chạy theo sáu trần là lang thang làm khách phong trần, biết xoay trở lại là trở về gia hương của mình, về chỗ an lành. Đếm hơi thở là phương tiện đầu xoay sáu căn soi sáng trở lại mình. Mấy chú thấy đếm hơi thở xem như tầm thường, nhưng thật sự đối với người mới tu rất có giá trị.

Trước tiên, tôi dạy hít vô cùng, thở ra sạch, ba lần như vậy rồi đếm từ một đến mười, trở lại đếm từ một đến mười nữa. Nhớ từng con số nên tâm không buông lung phóng chạy. Đó là bước đầu của người mới tu. Khi nào thuần thục, không đếm lộn nữa tức là tâm đã yên được phần nào, chừng đó mới giảm sổ tức, chỉ còn tùy tức, nghĩa là theo hơi thở hay chú tâm vào hơi thở vô ra. Trước làm hai việc: đếm và theo hơi thở; bây giờ bỏ đếm chỉ còn theo. Đến khi nào theo hơi thở có kết quả tốt và tỉnh, tức là đã tự điều hòa được hơi thở, lúc đó tôi dạy buông vọng tưởng.

Tất cả niệm khởi gọi là vọng tưởng, đừng theo hoặc buông đi. Đó là phương tiện biết vọng không theo. Đến chặng thứ ba này, chúng ta buông hơi thở, chỉ để ý xem chừng niệm khởi, nên sự tu không chỉ giới hạn trong những giờ ngồi thiền, mà mở rộng ra trong mọi sanh hoạt hằng ngày. Trường hợp nào, ở nơi đâu cũng tu được, tu rất nhẹ nhàng. Đó là đi thẳng vào Thiền tông.

Các Thiền sư, từ Tổ Huệ Khả đến các vị Tổ ở Việt Nam, đều thực hành đường lối biết vọng không theo. Chừng nào vọng tưởng đã lặng, chừng đó không còn buông vọng, cũng không nói là vọng nữa, tự tâm yên ổn trong sáng. Tới đó, trong mười mục chăn trâu là không còn trâu để chăn, rồi từ từ chăn cũng mất luôn. Đó là đường hướng của tôi chỉ dạy, căn cứ theo Tổ Huệ Khả: “Tìm tâm không thể được.” Chư Tổ Việt Nam cũng dạy quán chiếu soi lại mình như vậy, nên tôi lấy đó làm tiêu chuẩn để dạy người mới tới.

Nhiều lúc trong khi đang ngồi tu, quí vị buông vọng tưởng, bất thần nhớ lại câu gì đó ngày xưa học mình nghi, nay bỗng dưng hiểu rõ, sáng được. Người ta cứ tưởng do mình nhớ hoặc nghi mà phát ra, chớ kỳ thật là nhờ buông xả, tâm được yên, nên khởi nghĩ về cái gì thì sáng được cái đó.

Tăng chúng ở đây phải biết và nắm vững, để chỉ dạy cho người bước đầu. Nếu ai đã thuần thục, từng tham cứu nơi này nơi kia thì chỉ dạy buông vọng tưởng hoặc sống với thể thanh tịnh, vừa có máy động đừng theo, tới đó không bắt buộc nữa.

Như vậy, chúng ta tu có đường hướng rõ ràng, không phải mạnh ai nấy tu. Nên hôm nay tôi nhắc cho toàn chúng nắm vững, biết đường lối chủ trương của mình.

Ngày 13-3 Ất Hợi (12-4-1995)

Hôm nay tôi có vài vấn đề nhắc nhở trong chúng.

Tôi biết rằng tất cả quí vị đến đây đều là những người quyết tâm tu hành để đạt đạo, chớ không phải tu cho có chừng. Tuy nhiên là con người ai cũng có bệnh, nên trong khi tu có những lúc không được an ổn dễ sanh ra giải đãi, ngồi thiền không được trọn thời hoặc bỏ khóa tụng... Đó là do nội chướng hoặc ngoại chướng sanh ra. Tuy vậy, trong lời nói đầu bản Thanh qui, dù cho nội chướng hay ngoại chướng chúng ta đều vượt qua, không để nó lôi kéo mình.

Vậy nên trong khi tu, quí vị thấy những gì làm ngăn trở chướng ngại phải ráng vượt qua chớ đừng để thua. Ngồi thiền phải ngồi cho mãn giờ, tụng kinh phải đi cho đủ, trừ một hai trường hợp Tri sự nhờ làm công tác vô trễ. Toàn chúng phải giữ đúng thời khóa, vì đây là căn bản của sự tu. Tôi mong mỏi chúng giờ nào cũng là giờ tu, chớ không phải tu theo thời khóa là đủ. Nhưng vì trong chúng muốn có chừng mực thì phải đặt ra thời khóa, còn những thời gian khác mỗi người thức tỉnh tự tu. Thời khóa là căn bản, nếu chúng ta bỏ qua là thiếu sót. Mong rằng tất cả trong chúng ý thức được sự tu hành phải ráng giữ đúng thời khóa.

Kế đến, tôi nhắc lại điều thứ tám trong phần phụ của Thanh qui: “Phải tiết kiệm tài sản của Thiền viện bằng mọi cách, không nên phung phí quá đáng.” Tôi thấy trong chúng có một vài sơ sót. Ở đây có phước, mọi nhu cầu được đầy đủ nhờ Phật tử thấy chủ trương đường lối tu hành của mình thích hợp nên hưởng ứng giúp đỡ. Khi chúng ta xài đồ đạc, từ quần áo cho tới kem đánh răng, bàn chải... phải ráng gìn giữ đừng để phung phí. Có nhiều khi mình không khéo để sơ sót bị chó mèo tha đi, uổng phí của đàn-na thí chủ.

Dù chúng ta có đủ cũng xài một cách tiết kiệm, đừng nên phí. Trong nhà đạo gọi là kiệm đức, nghĩa là nhờ mình tiết kiệm mà công đức được tăng trưởng, còn không biết tiết kiệm sẽ làm suy giảm công đức của mình. Công đức giảm thì trên đường tu dễ sanh ra nhiều chướng. Vì vậy quí vị ráng dè dặt đừng để công đức của mình bị suy giảm.

Đến mục thứ hai, tôi xem là quan trọng, nhắc hoài, mà nhiều khi trong chúng vẫn quên. Hiện giờ chúng ta đang ở Thiền viện Trúc Lâm, tên gọi này tôi lấy từ Trúc Lâm Yên Tử, một hệ phái của Thiền tông Việt Nam do vua Trần Nhân Tông sau khi đi xuất gia lập ra. Ngài hiệu Trúc Lâm Đại Đầu-đà, ở núi Yên Tử. Tôi kiểm từ đầu, từ khi Thiền tông vào Việt Nam cho tới đời vua Trần Nhân Tông mới có Trúc Lâm Yên Tử là hệ phái do một Thiền sư Việt Nam đứng lên chủ xướng thành lập. Cho nên hệ phái đó được xem là thuần túy Phật giáo Việt Nam.

Các vị Thiền sư trước ở hệ phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, hệ Vô Ngôn Thông hoặc Thảo Đường. Các hệ phái đó đều tiếp nối những dòng thiền từ Trung Hoa. Sơ tổ Trúc Lâm Đại Đầu-đà đã hòa hội các phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và luôn cả Lâm Tế thành hệ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nay vì muốn gần gũi dân tộc Việt Nam nên tôi lấy hệ phái Trúc Lâm Yên Tử làm tiêu chuẩn để tất cả Tăng Ni ở đây tu hành. Như vậy, chúng ta có tiêu chuẩn, có hướng đi rõ ràng để tu và hướng dẫn người sau.

Khi thành lập Thiền viện Trúc Lâm, tôi nhắm đến hệ phái thiền Việt Nam Trúc Lâm Yên Tử. Tại sao vậy? Vì chúng ta là người Việt Nam, tu hành ở trên đất nước Việt Nam, chúng ta biết được đạo và biết được đường lối tu là nhờ ơn chư Tổ. Các ngài từ trước đến giờ truyền đăng tục diệm, mồi đèn nối đuốc, tới ngày hôm nay chúng ta mới biết đường mà tu. Tuy chúng ta tu theo Phật, nhưng đức Phật đã nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm làm sao chúng ta biết để học. Chính nhờ chư Tổ tiếp nối lần lần, từ Ấn Độ đến Trung Hoa và Việt Nam truyền bá đến ngày nay. Chúng ta biết được đường lối tu hành nhờ chư Tổ Việt Nam chỉ dạy.

Như vậy, chúng ta tu gốc từ đức Phật, kế là chư Tổ Việt Nam. Nhưng Phật giáo Việt Nam hiện giờ nhìn lại các chùa tu Tịnh độ, hay tu Mật chớ không chuyên tu Thiền. Phật giáo Việt Nam đã có từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 19, các vị nổi danh đều là Thiền sư. Như vậy gốc Phật giáo Việt Nam là ở trong nhà thiền.

Ngày xưa từ đức Phật cho đến chư Tổ đều lấy tọa thiền làm căn bản, mà tọa thiền là phản quan tự kỷ tức soi sáng lại chính mình. Quí vị nhớ ba vô lậu học Giới Định Tuệ là gốc của người xuất gia tu hạnh giải thoát. Giới là nhờ chúng ta cố gắng giữ giới mà được công đức, thành tựu đức hạnh người tu. Định là do chúng ta thiền định mà tâm được lóng lặng, an vui. Rồi từ đó trí tuệ sáng lên, là Tuệ. Như vậy Giới Định Tuệ tự mình tu chớ không trông cậy bên ngoài. Vậy mà lâu nay chúng ta tu, cứ thích cầu tha lực, không chịu quay lại mình.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy đường lối tu thiền là gốc của đạo Phật, là nền tảng không thể nào lay chuyển được. Chúng ta tu nếu cứ theo hai thời khóa tụng là nghiêng về tha lực. Còn phản quan tự kỷ là nhắm thẳng vào tự lực, tất nhiên phải nhọc nhằn, khó tu nhưng kết quả thiết thực hơn.

Khi mấy huynh đệ tự soi sáng lại mình, còn vọng tưởng biết còn vọng tưởng, còn phiền não biết còn phiền não, bớt tham sân si biết bớt tham sân si. Mình tự thấy rõ ràng nên tiến tới đâu rõ tới đó. Ngày xưa tánh tình nóng nảy, tham lam, bây giờ tu nhìn lại thấy có giảm tham lam nóng nảy. Ngày xưa trong tâm đủ thứ phiền não, bây giờ nhìn lại thấy đã bớt. Ngày xưa vọng tưởng liên miên, giờ nhìn lại cũng thưa dần. Như vậy, chúng ta tự kiểm soát, biết được mình tu thành công hay là không, có tiến hay không tiến, đời tu của mình được chứng minh cụ thể. Cho nên bây giờ người trí thức Tây phương khi nghiên cứu đạo Phật đều hướng về tu thiền.

Hiện nay chủ trương của tôi nhắm hai mặt:

Thứ nhất, Phật giáo Việt Nam đừng nô dịch văn hóa Trung Hoa nhiều. Nên các bài kinh tụng tôi đều dịch ra chữ Việt, để mình phát âm và tụng đúng như tiếng Việt.

Điều thứ hai, tôi thấy rằng Thiền tông là cội gốc của Phật giáo Việt Nam mà bây giờ đã bị quên lãng nhiều, nên tôi cố gắng gầy dựng lại. Hiện nay chúng ta nói Phật giáo Việt Nam nhưng vào chùa chỉ thấy hai thời khóa tụng bắt chước theo Phật giáo đời Thanh ở Trung Hoa, kinh sách đa phần là chữ Hán. Như vậy, chưa có cái gì là Phật giáo Việt Nam. Cho nên ở đây tôi cố gắng góp nhặt những tài liệu Phật giáo đời Trần, đời Lý và tất cả những đời sau này còn sót lại, chuyển thành nền văn hóa Phật giáo Việt Nam, gọi là đường lối tu hành của chư Tổ Việt Nam, tạo nên một bộ sách, để sau này khi nói tới Phật giáo Việt Nam chúng ta sẽ có chứng cứ cụ thể trình ra cho mọi người biết.

Như vậy việc làm của mình ở đây không phải là chuyện nhỏ. Thấy như chỉ có một nhóm hay một người chủ trương, nhưng nếu làm thành công thì sau này Phật giáo Việt Nam có chỗ đứng thực tế, bằng không chỉ nói tên rỗng Phật giáo Việt Nam mà thực chất từ đường lối tu cũng như sách vở, ngôn ngữ phát âm đều bằng tiếng Hán, đó là một điều thiếu sót lớn.

Sự việc này tôi không dám nói với những vị Tôn túc ở các nơi, vì các ngài lớn, tự có đường lối riêng. Tôi chỉ chủ trương thầm lặng, tự mình cố gắng làm, đồng thời nhắc nhở chúng cố gắng tu. Chừng nào chúng ta làm được, tu được thì lấy đó làm căn bản, mai kia trong Giáo hội thấy cần, chừng đó mình phụ giúp cho Giáo hội có chỗ đứng vững chắc về tinh thần Phật giáo Việt Nam. Còn bây giờ, trong khi đang làm, nội bộ chúng ta chỉ cố gắng tu, cố gắng thực hành không lơ là, cũng không khoa trương điều gì.

Bởi vậy, tôi nhắc chúng phải lưu tâm nhiều các bài tôi giảng. Vì khi đã nói mình ứng dụng tu theo đường lối các Thiền sư đời Trần thì những gì hay của Phật giáo đời Trần mình phải hiểu và thấm nhuần. Như học qua ngài Trần Thái Tông có những bài kệ rất hay, tôi bắt chúng cố gắng học. Đã có ai học thuộc bài nào chưa? Như hai câu kệ mà tôi rất thích:

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Hai câu thật là thấm thía! Chúng ta mãi lâu xa làm khách phong trần, bỏ quê hương đi lang thang trong dòng luân hồi muôn kiếp. Càng đi mỗi ngày càng xa cách quê hương vạn dặm. Cũng vậy, nếu trên đường sanh tử chúng ta cứ chạy theo sáu trần không thôi thì càng ngày mình càng xa với chỗ chân thật, với bản lai diện mục của chính mình.

Sáu căn phóng theo sáu trần chính là lang thang trong luân hồi sanh tử. Còn bây giờ trở về quê hương của chính mình là những giờ phút tự soi sáng lại, tìm cho ra cái chân thật. Đó là những giờ tọa thiền soi sáng lại, không cho phóng chạy ra ngoài nữa. Nhìn lại mình mới thấy thân là hư dối, cuộc sống tạm bợ vô thường, và nhận ra nơi mình có cái chân thật. Đó là chúng ta đang đi lần trở về quê hương. Như vậy, chỉ hai câu đó đã thấy một con đường dài sanh tử không cùng tận nếu mình phóng ra; còn khi biết quay lại thì con đường trở về quê hương mỗi ngày một gần.

Vua Trần Thái Tông tuy là cư sĩ mà những câu Ngài dạy rất thâm trầm. Vậy nên khi học quí vị phải hiểu và nhớ, để mai kia ai hỏi Phật giáo đời Trần có gì hay, mình dẫn từng người. Như vua Trần Thái Tông, người đề xướng ban đầu có những điểm gì ưu chúng ta kể lại, kế đó Tuệ Trung Thượng Sĩ, rồi đến vua Trần Nhân Tông tức Trúc Lâm Đại Đầu-đà... phải hiểu và nhớ. Thay vì nhớ những chuyện nhảm nhí, chúng ta nhớ những bài thơ, bài kệ đó, hay biết mấy! Mấy chú ráng học chút ít chữ Nho và thuộc những bài thơ bài kệ rất thâm trầm đó, để làm giềng mối trong việc tu hành của mình, cũng như trong sự giảng dạy cho người sau. Học rồi cũng như không thì uổng công tôi, không có kết quả.

Giả sử mấy chú không thuộc nhiều cũng phải dẫn được ít câu làm chứng tinh thần và đường lối của các ngài. Nếu học rồi lại quên, đem chuyện bên Đông bên Tây ra dẫn chứng, trong khi chúng ta tu theo hệ phái Trúc Lâm mà không biết đường lối Trúc Lâm, đó là sơ sót lớn. Ở đây tôi đã tuyên bố Thiền viện Trúc Lâm tu theo đường lối Thiền tông đời Trần, đương nhiên mấy chú phải nắm vững những điều tôi cố tình chỉ dạy trong mỗi buổi giảng. Cho nên học rồi phải ôn đi ôn lại, đừng học sơ sài rồi bỏ qua, kiếm quyển sách mới đọc, như thế làm sao hiểu được đường lối tu của mình? Mấy chú nên lưu ý nhận định cho chín chắn để nắm vững đường lối tu.

Ngày nay mấy chú có mặt ở Thiền viện Trúc Lâm này, mai kia tôi tịch rồi, Thiền viện Trúc Lâm tu như thế nào, đường lối ra sao, mấy chú phải nắm vững, thực hành cho có kết quả mới có thể truyền bá và chỉ dạy cho người. Nếu mình ở Thiền viện Trúc Lâm, tu theo hệ phái Trúc Lâm Yên Tử, mà không biết gì về Thiền Trúc Lâm, cũng không biết Thiền Việt Nam, gặp đâu tu đó, mai kia có ai hỏi, yêu cầu dạy, biết dạy thế nào? Do vậy tôi cần nhắc kỹ để tất cả hiểu rõ đường lối chủ trương của mình.

Khi tôi lấy Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử làm nền tảng căn bản cho tất cả Tăng Ni ở đây tu, trước phải có tư liệu sách vở để hướng dẫn. Nên tôi cố gắng soạn dịch đầy đủ các tư liệu đời Trần, đem ra giảng dạy trong mỗi kỳ học nửa tháng để tất cả nắm vững đường lối tu của hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Quí vị học và tu có kết quả sau mới có thể giảng dạy cho người.

Lời tôi nhắc tất cả phải chú ý, bởi vì hệ phái Trúc Lâm Yên Tử có giá trị đặc biệt của nó, vừa có giá trị tinh thần là đường lối chủ trương tu thiền Việt Nam, vừa rất thâm trầm, so với các Thiền sư Trung Hoa thấy không thua kém. Vậy trong chúng lưu tâm nghe cho kỹ, mai kia chỉ dạy lại cho đàn em có chứng cứ căn bản. Tôi nhắc nhở, tất cả cố gắng học hành!

Ngày 28-3 Ất Hợi (27-4-1995)

Hôm nay tôi nhắc cho toàn chúng biết mục đích của Thiền viện. Đây là những chuyện đã nói nhưng sợ lâu rồi quí vị quên.

Mục đích của Thiền viện tôi chia ra làm hai chặng, một gần và một xa. Chặng gần coi như phụ, còn chặng xa là chánh. Thiền viện chúng ta lập ra với mục đích là làm sao để cho chư Tăng chư Ni tu hành có kết quả. Tôi thường nói với mấy chú, theo chủ trương của tôi, muốn làm cho Phật pháp hưng thạnh, không phải tổ chức khéo, cũng không phải đông người mà là có người tu sáng đạo. Vì tôi đọc sử từ trước đến giờ thấy Phật giáo hưng thạnh là nhờ có những vị Tăng ngộ đạo truyền bá. Như đọc lại sử Thiền sư Việt Nam, quí vị thấy toàn là những vị ngộ đạo, cho nên các ngài truyền bá được sâu rộng, dù gặp hoàn cảnh không thuận cũng chuyển thành thuận.

Ví dụ như đời Lê Hy Tông, Vua ra lệnh đuổi hết Tăng Ni về rừng, không cho ở thành thị. Ngài Tông Diễn do đã thấy đạo nên can đảm tự thân đến cảnh tỉnh nhà vua, cứu vãn Phật pháp trong cơn nguy khốn. Vua Lê Hy Tông từ khi thấu hiểu đạo lý, thu hồi lệnh trước cho Tăng Ni trở về chùa cũ, tùy duyên giáo hóa. Như vậy, không phải nhiều người, cũng không phải tổ chức khéo, mà chỉ một người thấy được đạo rồi chỉ cho người khác biết được tường tận điều hay, lẽ thật thì cải hóa tâm hồn họ.

Như vậy trọng tâm gìn giữ Phật pháp là phải có người thấy đạo. Do đó, tôi chủ trương ở đây chúng Tăng tu được sáng đạo mới thôi. Đó là để duy trì Phật pháp được lâu dài. Tôi không chủ trương tổ chức khéo và đông, nên quí vị thấy những Phật tử qui y rồi về tự tu, tôi không bắt buộc họ phải tới lui. Ngoài lá phái qui y cũng không bắt buộc họ có giấy tờ gì của Thiền viện. Đó là tôi không muốn nặng về tổ chức, chỉ muốn tạo duyên cho mọi người hiểu đạo tu.

Chư Tăng Ni ở đây nếu có năm mười người tu thấy được đạo, đó là thành công của mình. Được vậy tôi tin rằng Phật pháp sẽ còn lâu dài, không thể bị xoay chuyển hoặc mất mát. Vì thế, những việc làm của tôi đều nhắm thẳng vào sự tu, không phải chỉ chuyện truyền bá bề rộng. Ngày mai Phật pháp còn được hưng thạnh chính là nhờ sự tu của Tăng Ni.

Đó là tôi nói chung, còn riêng Thiền viện chúng ta lấy danh nghĩa Trúc Lâm Yên Tử, quí vị cũng thấy mục tiêu tôi nhắm là muốn làm sao cho Phật giáo Việt Nam được rực rỡ lên. Muốn được sáng, được rực rỡ, không có nghĩa là tổ chức đông, tổ chức tốt mà là chúng ta phải thấy đạo, chỉ được lẽ chánh cho tất cả mọi người cùng biết, cùng tu, đó là đạo đức được sáng. Nếu chúng ta tổ chức khéo mà đi đường tà thì càng làm cho mọi người vô minh tăm tối thêm chớ không lợi ích gì.

Chúng ta chủ trương khôi phục Thiền tông Việt Nam đời Trần thì phải làm sao cho có đủ lẽ thật. Khi người ta thấy mình ngồi thiền, không hiểu mình dụng công thế nào, nên tôi dùng bài Sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông cho tất cả Tăng Ni tụng mỗi tối. Ai cũng biết đó là bài sám hối của vua Trần Thái Tông. Như vậy, chúng ta hướng trở về Phật giáo đời Trần có chứng cứ cụ thể không nghi ngờ.

Thứ hai là chúng ta phải có những tư liệu, hình thức về văn hóa Phật giáo đời Trần, để người ta thấy mình đang nghiên cứu và tu theo Phật giáo đời Trần. Những sách vở đời Trần còn lại chúng ta phải hiểu, phải thâm nhập, như vậy mình mới đề xướng ra được. Đời tôi chỉ là mới khai mào chớ không phải kết thúc, chính đời của mấy chú sau này mới kéo dài, làm sáng tỏ thêm. Như vậy chúng ta phải nghiên cứu văn hóa đời Trần, nhất là những bài các vị Thiền sư đã chỉ dạy. Học hiểu rồi chúng ta mới có thể giải thích cho những người khác hiểu. Đó là chỗ thiết yếu.

Kế nữa, chúng ta ứng dụng tu cho có kết quả. Khi tôi sách tấn tu, có nhiều chú cũng hiểu lầm, muốn đi kiếm chỗ riêng tu rút cho mau ngộ đạo. Nhưng nếu ngộ đạo ở nơi khác thì có phải là tiếp nối đường lối của Thiền viện Trúc Lâm không? Như vậy lòng tin của Phật tử đối với mình sẽ không đủ, khó làm Phật sự. Do đó, tôi thúc đẩy, nhắc nhở là cốt cho quí vị đừng bỏ thời giờ trống vô ích, lúc nào cũng phải tỉnh sáng, lúc nào cũng phải cố gắng tu chớ không bắt người này người kia kiếm chỗ riêng để ngồi tu rút. Tu rút như vậy đến chừng tôi chết quí vị không biết nối pháp ai, không biết tiếp tục cái gì.

Phải hiểu cho thật rõ để làm không sai. Một là chúng ta sám hối sáu căn để người ta thấy rõ đường lối của mình đi theo hướng Phật giáo đời Trần. Hai là những văn bản đời Trần chúng ta đọc và phiên dịch giảng giải được. Ba là chúng ta tu cho có kết quả tốt thì mai kia mới có thể duy trì hoặc khôi phục được nền Phật giáo Việt Nam. Nếu chúng ta làm được ba điều đó thì Thiền viện Trúc Lâm sẽ làm cột trụ cho Phật giáo Việt Nam mai kia. Vì vậy mấy chú phải hiểu được mục đích của tôi để cùng thực hiện.

Bây giờ nhìn cho kỹ mấy chú sẽ thấy các duyên của mình đang rất thích hợp, cả Trung, Nam, Bắc nhiều người hưởng ứng theo đường lối tu của mình. Chẳng những Trung, Nam, Bắc mà cả nước ngoài nữa. Gặp cơ hội tốt, đủ duyên lành đưa đến mà mình không cố gắng làm cho được thì thật uổng, không xứng đáng là Tăng sĩ Việt Nam. Nên tôi mong tất cả phải hiểu và cố gắng thực hiện.

Làm được việc này là đạt được mục đích gần của Phật giáo Việt Nam hoặc đường lối tu của Thiền viện Trúc Lâm. Còn mục đích xa hoặc cứu kính thì tôi chủ trương chúng ta phải đi đến chỗ sanh tử tự tại. Tôi nói sanh tử tự tại mà không nói giải thoát sanh tử, quí vị thấy hai điều đó có khác không? Nói giải thoát sanh tử thì không khéo mình lại lạc qua Nhị thừa, bởi vì tu gấp gấp để dứt hết mọi mầm sanh tử cho mình được giải thoát. Như vậy một đời này giải thoát tức là nhập Niết-bàn, nhập Niết-bàn rồi yên phận, bỏ mặc chúng sanh.

Chúng ta học Thiền Sư Trung Hoa, ngài Từ Minh nói: “sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, nghĩa là khi sanh ra giống như mùa đông lạnh lẽo mà được đắp chiếc chăn ấm, như vậy sanh ra thích không? Rồi “tử như cởi áo hạ”, mùa hạ nắng nóng nực đổ mồ hôi, mặc hai ba lớp áo, bây giờ cởi ra cho nhẹ mát, thích không? Như vậy sanh thích, tử cũng thích, nghĩa là sanh tử tự tại. Mà sanh tử tự tại rồi mình tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, đến khi nào công đức viên mãn gọi là tự giác, giác tha tròn đủ, chừng đó thành Phật.

Chúng ta không đòi nhập Niết-bàn cho yên phận mình, bỏ mặc chúng sanh thế nào cũng được. Đó là hiểu rõ mục đích của mình. Muốn được sanh tử tự tại tất nhiên trên đường tu chúng ta phải cố gắng nỗ lực chớ không lôi thôi được.

Sanh tử tự tại gồm hai phần: thân và tâm.

Về phần thân, chúng ta phải gan dạ, chịu đựng. Chính ngồi thiền đau chân cũng là một sự gan dạ, tập cho mình làm chủ được, tức là tự tại. Mình làm chủ không được là không tự tại. Những đau nhức chúng ta vẫn vượt qua không bị cản trở, đó là mình đã làm chủ được nó. Hiện tại còn khỏe mạnh, mình làm chủ nó từ từ, đến khi nhắm mắt mình làm chủ hoàn toàn, không vì đau nhức mà loạn tâm loạn tưởng, không vì đau nhức mà hoảng hốt sợ sệt. Đó là gốc của sự làm chủ. Vì vậy tôi khuyên mấy chú phải cố gắng. Đừng vì một hai cái đau hoặc khó chịu mà mình lại yếu đuối thua nó, không hay.

Thứ hai về nội tâm. Làm chủ nội tâm là biết rõ các thứ hư ảo không thật, đừng bao giờ để nó lôi kéo mình. Nếu bị cái hư ảo lôi kéo thì nhất định theo nghiệp đi trong đau khổ. Còn nếu làm chủ được thì tất cả những tâm niệm điên đảo không có gì quấy nhiễu được mình; khi chết những niệm hoảng sợ, lo âu, vui buồn không thể lôi dẫn mình đi theo nghiệp.

Tuy nhiên, chúng ta đừng vì thấy thân tâm giả dối tạm bợ rồi đòi đến chỗ an lạc giải thoát riêng. Chỉ cần sống trong cõi trần mà không bị xao xuyến loạn động, tự tại đến, tự tại đi để làm lợi ích cho chúng sanh. Cái đó mới là thiết yếu, tôi gọi là sanh tử tự tại. Bởi vì mình tu một đời không bao giờ thành Phật, chỉ có thể được tự tại trong sanh tử rồi tạo đầy đủ công đức sau này mới thành Phật. Đó là con đường của Thiền tông chủ trương. Vì vậy tôi gọi là mục đích sâu xa, còn làm sống dậy Phật giáo Việt Nam là mục đích gần.

Vậy quí vị hiểu cho rõ đường hướng chủ trương của Thiền viện. Trong khi tu chúng ta vừa cố gắng tu, vừa cố gắng làm chủ hoàn toàn thân tâm, rồi luôn luôn nhớ đến chúng sanh. Đừng nghĩ chỉ tu cho được phần mình thôi, trái lại nên nhớ mình phải làm lợi ích cho tất cả chúng sanh hiện tại và nhiều đời về sau. Vì lẽ đó tôi mới khuyên phải ráng đi cho đúng đường, đúng hướng. Điều gì chúng ta thấy thích hợp, đủ cơ duyên tốt phải nắm lấy cơ hội đó để làm cho nó tăng trưởng, đừng vì chỗ tiêu cực riêng tư mà quên mất việc lớn, làm cho tâm niệm hèn yếu, không có lợi cho Phật pháp sau này. Đó là điều cần yếu tôi xin nhắc cho toàn chúng hiểu.

Tôi nhắc thêm vài việc trong chúng. Những vị có trách nhiệm dài ngày thường bận rộn là hương đăng, tri khách, thư ký và chuyên viên máy móc. Quí vị dù có đa đoan công việc bao nhiêu, mỗi người cũng phải ráng tu. Sự tu mới là trọng tâm, là bề sâu của mình. Nếu chúng ta làm được chuyện bên ngoài mà thiếu phần tu tức là thiếu sự thâm hậu, mai kia mình không đủ tư cách để lãnh đạo chúng Tăng hoặc hướng dẫn Phật tử.

Vì vậy, người nào ở đây tôi cũng muốn tu cho được, đừng vì công tác của mình mà giảm bớt sự tu. Ngoài giờ làm việc, tới giờ tu quí vị cũng phải ráng đừng để thiếu, như vậy tự lợi lợi tha mới tròn đủ. Nếu được việc cho chúng mà sự tu bị thiệt thòi, lâu ngày sẽ đâm ra mệt mỏi, buồn nản; thấy mình tu không tiến, không bằng huynh đệ, tự nhiên thối tâm rồi có những tư tưởng lung tung.

Vậy nên tôi nhắc những vị có trách nhiệm nặng phải cố gắng làm sao sắp xếp công việc cho gọn, đừng để sự tu hành bê trễ.

Ngày 14-4 Ất Hợi (13-5-1995)

Hôm nay tôi có vài lời nhắc nhở chúng. Trong chúng được sống trong một khung cảnh tương đối thanh tịnh, đa số không bị lỗi lầm, chỉ có một vài trường hợp đặc biệt thôi, như vậy chứng tỏ sự tu hành của chúng có những bước tiến tốt. Tuy nhiên tôi thấy cũng còn một vài cái yếu đuối, như lúc khí hậu không tốt trước ngày mưa, hoặc qua một trận gió, có một số người bệnh.

Tôi kể lại cho mấy chú nghe: Hôm đi về Thường Chiếu, mấy ngày liền tôi không được nghỉ ngơi, lại đi đây đi kia liên miên nên rất nhọc. Về tới đây gặp mấy ngày sắp mưa, khí hậu thật khó chịu. Hôm tôi về mệt, nằm trên cái ghế ở ngoài, tới chiều nghe toàn cơ thể đau rêm hết, theo thông thường thì chắc phải đánh gió cạo gió, nhưng tôi làm thinh không nói. Tới tối tôi biết là cảm nặng nhưng cũng im lặng.

Đến giờ ngồi thiền tôi mặc thêm chiếc áo lạnh, lúc xả thiền thấy rơm rớm mồ hôi. Sau khi xả thiền ra tập lộc lô song quan thấy đỡ, nhưng cái cổ còn đơ. Tôi ngủ, sáng dậy ngồi thiền tiếp, bắt đầu ngồi thiền khi thở ra tôi tưởng như đuổi hết mọi bệnh hoạn ra ngoài. Sau khi xả thiền, tôi tập lộc lô thêm một lần nữa. Đến sáng thấy tỉnh táo bình thường trở lại. Như vậy nếu tôi yếu đuối thì bệnh rồi. Vì sẵn mấy ngày đi nhọc nhằn, về gặp khí hậu không tốt nên dễ bị cảm, nhưng ráng cố gắng rồi cũng vượt qua.

Mấy chú nhớ trong thời thiền của mình, lúc bắt đầu ngồi và khi xả thiền, chúng ta có ba lần hít thở. Khi hít vô tưởng như máu huyết lưu thông khắp châu thân, tôi khi hít vô thấy máu chạy đều hết. Khi thở ra tưởng như bệnh hoạn phiền não theo hơi thở ra ngoài, tôi khi thở ra cũng thấy như bao nhiêu bệnh chạy ra hết. Ba lần thở như vậy rồi tới lộc lô nữa, thắng được cơn bệnh.

Ở đây có mấy người bị bệnh, vậy mà mấy chú chưa có khả năng thắng nó. Mấy chục năm nay tôi không hề cạo gió. Khi nào khó chịu, tôi ráng ngồi thiền, ngồi tăng giờ hoặc là sau khi xả thiền ra lộc lô thật kỹ, tôi thấy có kết quả rất tốt. Còn nghe đâu có mấy chú tập yoga sao mà tới gân cốt bị sai lệch lung tung vậy. Đó là không bệnh mà chuốc bệnh vào.

Môn lộc lô tôi đã tập và thấy có hiệu quả mới dạy cho mấy chú, mấy chú không chịu tin, lại tin bên ngoài hơn. Lối tập này thông dụng, nhẹ nhàng, ở đâu tập cũng được và có thể đuổi được cơn bệnh do gió nhập vào mình. Vậy nên tất cả chịu khó một chút, những lúc khí hậu bất thường, trong người khó chịu thì ráng ngồi thiền thêm, nhất là phải mặc đồ ấm nhiều nhiều để ngồi cho ra mồ hôi. Khi xả thiền thở ra mình tưởng bệnh hoạn theo đó ra, đồng thời tập lộc lô song quan.

Mỗi khi xả thiền ra tôi đều tập lộc lô, năm mươi lần mỗi động tác. Như vậy, đầu hôm xả thiền lộc lô một lần, sáng xả tập lộc lô một lần nữa, nếu cần thì tập thêm vài chục cái. Tôi thấy điều hòa như vậy cuộc sống rất tốt.

Mỗi buổi sáng có hai ba tiếng đồng hồ lao động, mấy chú được phơi nắng, vận động cho máu huyết lưu thông nên chuyện tập tạ nặng nề không cần, chỉ tập những thứ vừa nhẹ thôi. Chỉ những vị làm việc trong nhà như Hương đăng, Tri khách, không hoạt động ở ngoài nhiều, cần phải tập những thứ mạnh để cho máu huyết lưu thông. Biết như vậy là mấy chú sống điều hòa. Đừng nên tập quá sức, nhiều khi muốn cho khỏe trái lại thành bệnh, đó là không tốt.

Vậy tôi giảng cho toàn chúng hiểu rồi, phải gan dạ một chút; bằng không hơi bệnh là kêu đánh gió, cạo gió, trùm mền rồi thành đau luôn. Còn mình gan, ráng chủ động cho nó tan đi tức hết bệnh. Do gan dạ lần hồi mình thắng hết. Cho nên những năm ở Chân Không, tôi dám nói rằng tôi cho bác sĩ về hưu khỏi làm việc, bởi vì mấy năm đó tôi không bao giờ bị cảm, chỉ khi về Thường Chiếu khí hậu hơi khắc nghiệt, không thích hợp với cơ thể nên tôi thường bệnh.

Lên đây, mấy chú thấy một hai năm rồi tôi không có bệnh, do biết điều hòa chớ không phải sẵn tuyệt hảo. Cơ thể tôi là cơ thể bệnh, hồi xưa tôi đã từng nằm viện vì bệnh phổi, sau này lại bệnh tim. Như vậy mấy chú thấy tôi là người bệnh chớ đâu phải người khỏe, nhưng do khéo điều hòa, khéo tu hành nên từ thân bệnh trở thành khỏe mạnh, đó là cái khéo của mình. Do đó nếu hiện nay ai chưa được mạnh lắm nên ráng điều hòa, rồi sẽ khỏe mạnh an ổn.

Những điều tôi dạy là đã kinh nghiệm qua chớ không phải nói suông. Còn mấy chú đọc trong sách, nhiều khi người ta kinh nghiệm ở một địa phương nào đó khác với mình, lấy chuyện người ta ứng dụng cho mình chưa chắc đã tốt. Bởi vì mình ở trong hoàn cảnh khác, họ ở hoàn cảnh khác, lấy kết quả tốt của họ làm kết quả của mình e không đúng. Vậy nên mấy chú phải dè dặt. Đó là lời nhắc nhở để trong chúng ý thức tu hành cho được lâu bền không có bệnh hoạn.

Có một điều dở của mấy chú là khi tu có người bị chứng mất ngủ mà không trình cho tôi biết. Nếu làm thinh ai biết được! Bị mất ngủ ảnh hưởng đến sự tu nhiều lắm, lại không nói cứ âm thầm chịu, đó là không tốt. Ví dụ như ngồi thiền, mấy chú bị mất ngủ là vì trụ tâm ở trên nên khó ngủ, chớ không phải tại làm công tác. Vì vậy, khi nào trụ tâm ở trên khiến cho mất ngủ phải đến thưa hỏi: “tại sao con lên đây tu lại bị mất ngủ”, tôi mới biết để chỉ cho. Còn mấy chú cứ làm thinh, ai tu trật trúng gì cũng không nói cho tôi biết, đó là một cái dở.

Bây giờ tôi chỉ rõ cho mấy chú thấy, khi nào ngồi thiền chăm chỉ quá, tuy vẫn thấy rõ có niệm hoặc không niệm, nhưng hơi thở phải xuống đến bụng dưới. Cần ngồi thẳng người lên, nghe hơi thở ra vô ở bụng dưới. Chúng ta có thể nhắm mắt lại cũng được, nhất là buổi thiền tối. Nếu mình kềm quá trong giờ thiền tối dễ bị mất ngủ. Chỉ cần biết hơi thở ra vô ở bụng dưới sẽ ngủ lại được không có gì khó. Đó là chúng ta khéo điều hòa.

Tôi có mặt ở đây là để hướng dẫn cho mấy chú. Khi nào trật, trúng phải thưa trình, chớ cứ lặng lẽ tôi tưởng hay hết rồi, đâu biết mấy chú làm sai. Cái sai đó do mình không khéo điều hòa, lâu ngày thành bệnh, đó là một sơ sót. Bây giờ thử điều lại, buổi tối ngồi thiền nếu thấy khó ngủ có thể nhắm mắt cũng được, ngồi thẳng người, hít vô thở ra, nhớ hơi thở ở bụng dưới chớ đừng tập trung ở trên. Nhớ như vậy tự nhiên tâm mình không trụ trên đầu nữa. Tuy không trụ tâm trên đầu nhưng niệm khởi mình đều biết. Như vậy sẽ trị được bệnh mất ngủ, không có gì lạ.

Đó là tôi dạy để mấy chú có thể ngủ được. Giờ tối là giờ khó ngủ nên phải điều hòa hơi thở ở bụng dưới; còn ban ngày hoặc buổi sáng thì khỏi, vẫn nhớ ở trên để không bị hôn trầm. Lối tôi chỉ là để trị bệnh mất ngủ, khi ngủ được rồi mà vẫn tiếp tục thì ngồi thiền ngủ mê man, nên phải tùy lúc để sửa đổi chớ không cố định. Nếu theo một lối làm hoài sẽ thành thói quen, mất ngủ thì mất ngủ luôn, còn ngủ lại ngủ quá nặng. Cho nên chúng ta phải linh động, khi mất ngủ trị theo mất ngủ, lúc ngủ được rồi phải sử dụng theo cách bình thường. Đó là cái khéo trong khi tu.

Ngày 27-4 Ất Hợi (26-5-1995)

Thỉnh nguyện đã xong, tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng. Thấy trong buổi thỉnh nguyện, có những người vì lý do này lý do nọ hiểu lầm nhau hoặc chưa thông cảm nhau. Vậy từ đây về sau, làm việc gì cũng cẩn thận dè dặt đừng để hiểu lầm, sanh ra những chuyện không vui, chướng ngại đường tu. Một hai việc nhỏ mình không ẩn nhẫn được, sẽ đi tới cái lớn, làm cho chúng ta thối Bồ-đề tâm hoặc trở ngại con đường tiến tu của mình.

Do đó, tôi khuyên toàn chúng, mình phải thấy cái quan trọng nhất của đời mình là tu để giải thoát sanh tử. Đó là điều không thể quên, không một giây phút nào lơ là. Còn mọi chuyện phải quấy, hơn thua, đúng sai chỉ là chuyện tạm bợ không có giá trị thật. Phải nhớ lý tưởng của mình mà bỏ qua mọi việc thì trên đường tu mới không bị chướng ngại.

Bây giờ tôi nhắc thêm cho toàn chúng, có một số người phê bình quí thầy tu thiền dường như hơi ngã mạn. Điều đó tôi nghiệm lại có lý. Tại sao? Bởi vì người tu thiền luôn tự tin nơi mình có Phật, Phật ở nơi mình chớ không phải ở đâu khác. Tự tin thì tốt, nhưng lòng tự tin quá mạnh không khéo lại thành tự tôn. Tự tôn tức là coi mình cao hơn mọi người. Đó là điều lầm lẫn, dễ trở thành bệnh. Khi có bệnh tự tôn rồi, bệnh thứ hai dễ xảy ra là bệnh sân. Thấy mình cao nên ai động tới nổi sân liền. Đó là bệnh của những vị tu thiền hay mắc phải. Tự tin là điều hết sức cần thiết trên đường tu, nhưng không khéo lại thành tự tôn, ngã mạn, dễ sanh ra sân hận. Điều này tôi thấy chư Tăng ở đây có thể vấp phải.

Vì vậy tôi nhắc cho tất cả, chúng ta tu phải nhớ tâm hạnh của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Nghĩa là tự tin mình có tánh giác thì cũng tin người khác có tánh giác, cho nên không dám khinh người. Vừa có niệm khinh người là đã trái với đạo rồi, bởi vì trọng tâm đạo Phật là vô ngã. Cái ngã của thân tứ đại, ngã của các tâm sở buồn, thương, giận, ghét... là cái ngã hư ảo không thật, nếu mình nương nơi đó để khởi tâm tự cao ngã mạn là bệnh.

Chúng ta phải thấy ngay nơi mình có tánh giác, đồng thời tất cả chúng sanh khác cũng có tánh giác như mình, cho nên đối với ai mình cũng kính, cũng quí. Đừng thấy chỉ ta đây là giác, còn tất cả các người là mê. Như hôm rồi tôi đã nói, ai ai cũng có tánh giác mà họ quên, cho nên mình thương, nhắc giùm cho họ nhớ. Thương nhắc chớ không phải khinh, không phải coi thường.

Chúng ta được diễm phúc nhớ trước một chút, kẻ nhớ trước nhắc người còn quên, đó là tâm từ bi của Bồ-tát. Bồ-tát định nghĩa hết sức rõ là hữu tình giác, giác hữu tình. Chính mình là một chúng sanh, bây giờ thức tỉnh, biết mình có tánh giác, không còn quên nên gọi là hữu tình giác. Sau đó chỉ cho những chúng sanh đang có mặt cũng được tỉnh giác, đó là giác hữu tình. Vậy trọng tâm của Bồ-tát là lấy tự giác, giác tha làm nền tảng thiết yếu, còn những chuyện cứu giúp bố thí đều là phương tiện nhỏ.

Chúng ta đọc kinh Pháp Hoa thấy ngạc nhiên, cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh không làm điều gì lợi ích cho người, không thấy cho ai cơm ăn áo mặc, mà gặp ai cũng bái bái: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Thái độ đó dường như tiêu cực, không thực tế. Nhưng hiểu thấu đáo được ý nghĩa tự giác giác tha rồi, chúng ta mới thấy đúng là Bồ-tát làm việc bổn phận của mình.

Chúng ta bây giờ tu, tôi không tuyên bố mình tu hạnh Bồ-tát, nhưng thật tình chúng ta đang tìm cho ra, phát minh cho được tánh giác. Khi nhận ra được tánh giác rồi, tất cả công tác của mình không gì hơn là chỉ cho mọi người cùng biết được tánh giác. Như vậy dù không tuyên bố hạnh Bồ-tát, nhưng chúng ta đã làm đúng hạnh Bồ-tát.

Nếu chúng ta tu chỉ nghĩ phước báo nhân thiên lo làm cái này, cái kia cho thiên hạ, đó là quả báo sanh diệt, chưa phải cứu kính. Tại sao vậy? Dù chúng ta tạo được phước nhiều như núi như biển, đó cũng là phước vô thường sanh diệt. Chỉ có tánh giác bất sanh bất diệt là điều cao thượng quí báu tột cùng. Chúng ta nhận ra được, chỉ cho người, đó là điều hơn hết.

Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: Dù cho đem bảy báu đầy dẫy tam thiên đại thiên thế giới bằng số cát sông Hằng ra bố thí cũng không có phước bằng người thọ trì được bốn câu kệ. Đó là so sánh phước báo hữu lậu với tánh giác thường hằng. Cho nên hạnh Bồ-tát là đưa người tới chỗ giác ngộ chớ không phải chỉ làm những việc phước báo nhân thiên. Tất cả chúng ta tu phải ráng nỗ lực nhận cho ra nơi mình có tánh giác. Nhận thật sự chớ không phải lờ mờ mang máng. Chỗ này nhà thiền gọi là kiến tánh.

Tánh không phải là một cái gì có hình tướng để thấy, nhưng nói theo thế gian cái gì mình thấy rồi thì không quên, còn cái gì mình hiểu, dù là hiểu mang máng hoặc là hiểu rõ, nếu có người khác nói điều gì hay lạ hơn mình có thể khởi nghi ngờ. Chỉ khi chúng ta thấy rõ ràng là xanh là đỏ thì dù có ai nói khác đi mình cũng không bao giờ nghi, vì đã thấy. Bởi vậy, kiến tánh là thật sự nhận ra cái chân thật nơi mình. Dù cho ai nói trời nói đất, nói nghiêng nói ngửa, mình cũng tự nhiên, không hề thối tâm hay nghi ngờ, chúng ta gọi đó là kiến tánh.

Như vậy tất cả công phu tu của chúng ta đều dồn trong một việc: làm sao chính mình nhận ra được cái chân thật của mình, sau đó ứng dụng tu, đồng thời chỉ cho người khác tu. Đó là trọng tâm của người xuất gia, làm trách nhiệm bổn phận kẻ bước trước chỉ cho người đi sau. Cho nên nhà thiền hay dùng câu: “truyền đăng tục diệm”, nghĩa là trao truyền ánh sáng giác ngộ cho nhau.

Phải luôn nhớ mình có tánh giác, người khác cũng có tánh giác, chỉ chúng ta túc duyên sâu nên được sớm tỉnh biết, người khác túc duyên cạn mỏng chậm biết hơn chúng ta. Đừng bao giờ tự cao mà khinh chê người. Nay chúng ta có bổn phận khơi dậy cho người khác biết, đó là một trách nhiệm, không nên có tâm tự cao ngã mạn chê người này, khinh người kia, chỉ trích người nọ. Đó là điều không tốt, là bệnh.

Khi chúng ta chê bai, chỉ trích người khác chính là tô điểm bản ngã mình. Nói người này dở, người kia xấu, tức là muốn nói ta hay. Bởi ta hay mới thấy những kẻ kia dở. Cho nên khi có chê bai, chỉ trích, mạt sát những người khác là đã đề cao bản ngã của mình lên.

Vậy quí vị lưu ý, chúng ta tu thiền nhưng không ngã mạn, tu thiền nhưng không chấp ngã, không đưa tới tâm nóng giận. Chỉ khi nào thấy mình cao, ai chạm tới mới nổi sân. Quí vị kiểm lại có sân không? Phải biết đó là hiện tượng của bản ngã.

Tôi kiểm tra lại, thấy trong chúng Tăng có bệnh đó, nên nhắc quí vị ráng tu để đừng nóng giận. Nóng giận là từ bản ngã ra chớ không gì lạ. Nếu tự coi mình như bùn đất chắc không nóng giận bao giờ. Sở dĩ nổi nóng là vì thấy mình cao, thấy mình hơn. Cho nên yêu cầu trong chúng phải thấy rõ gốc bệnh của mình là do tự tin thái quá.

Tuy nhiên chúng ta vẫn tự tin, tin mình có Phật và người khác cũng có Phật, như lòng tin của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Đừng chỉ tin mình có Phật còn người khác không có, rồi khinh người ta, sanh ra tự tôn, ngã mạn, sân hận, trái với đạo lý.

Chúng ta tu cao hoặc thấp, nhất là tu thiền, lấy cái gì làm thước đo? Lấy bát phong để đo. Bát phong là: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Lợi là tài lợi, khi được chúng ta vẫn thản nhiên; còn mừng quá cười vui lên là đã động rồi. Suy là gặp những hoàn cảnh không tốt, làm cho suy hao, nghèo khó, mình cũng không buồn bực, than thở. Hủy là người ta làm nhục mà mình vẫn cười, không sân giận. Dự là khen, lúc được người ta khen ngợi, được danh dự, địa vị, chức tước, mình vẫn không bị động tâm. Xưng là tán thán bao nhiêu chúng ta cũng coi thường. là bị chê hiềm, chỉ trích, mình vẫn tự tại. Sau cùng là gặp cảnh khổ mình vẫn an nhiên, khi được vui (lạc) mình cũng tự tại.

Đó là cái thước đo. Bây giờ quí vị kiểm lại, xem trong tám gió mình được mấy gió thổi không động? Chúng ta tu thiền cao tới cỡ nào đi nữa mà mấy ngọn gió đó thổi còn bị động cũng chưa phải thứ thật. Tôi lấy đây để nhắc cho tất cả. Không phải chúng ta lý luận hay gọi là tu cao. Chỉ khi nào thật sự sống được, tất cả cảnh đến vẫn an nhiên tự tại, đó mới thật là người đã hiểu và hành. Hai điều này phải theo nhau. Nhiều khi chúng ta lý luận giảng cho Phật tử xem như thánh thiện lắm, nhưng lúc gặp việc mình cũng khổ cũng lạc như ai, được khen thì vui, bị chê buồn bã, đó là tu chưa tới đâu.

Hôm nay tôi nói rõ để quí vị kiểm tra lại, tự thấy mình rồi xấu hổ hết tự cao, ngã mạn. Nhiều khi chẳng tự biết mình, cứ nghĩ mình tu cao lắm, rốt cuộc lại là bệnh.

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 15-6 Giáp Tuất (21-7-1994)

Thỉnh nguyện kỳ này trong chúng ít lỗi lầm, đồng thời có những lỗi nhỏ cũng biết thành tâm sám hối, đó là tinh thần tự giác cao. Mong rằng trong chúng, mỗi người tự cố gắng, làm sao càng ngày càng tiến, không phải chỉ trong việc ngồi thiền mà tiến cả về oai nghi, đức hạnh và tâm hồn mỗi ngày mỗi trong sáng hơn. Nếu chỉ tiến một mặt, các mặt kia không tiến cũng chưa tốt. Đó là nhắc nhở chung kỳ thỉnh nguyện này.

Bây giờ Thầy nhắc nhở chúng vài điều.

Điều thứ nhất, thời gian tới đây cất xong ni đường thứ hai thì có chỗ cho Ni chúng ở ổn định. Tụi con vào đây tu là tự nguyện, không phải bị bắt buộc. Vào đây tu là niềm phấn khởi hoan hỉ của mỗi người, được vào nơi Thầy gọi là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Tụi con được dự vào, tức có một phần đóng góp sau cùng, điều đó rất tốt. Nếu tụi con không khéo, nhiều khi làm người ngoài hiểu lầm là bị ép vào khuôn khổ ngoài ý muốn của tụi con.

Khi có huynh đệ hoặc Thầy Tổ đến đây thăm, tụi con vui vẻ, bình tĩnh, đừng cười la to, mừng trong thanh thoát chớ đừng giòn giã quá, thấy đạo lực của mình còn yếu người ta cười. Nếu ai trông chờ để nghe những việc bên ngoài còn dở hơn nữa. Khi có người thân vào thăm, tụi con nên có tư cách nghiêm trang, tề chỉnh, vui tươi, đừng quyến luyến theo hoài làm người ta về không được, lại thấy tội nghiệp, sau đó thúc người này người kia đến thăm. Mỗi khi người ta tội nghiệp tụi con thì niềm hãnh diện khi được vào đây bị mất rồi phải không? Hóa ra tụi con bị khép vào trong khuôn ngoài ý muốn.

Đó là tâm lý tụi con phải nên dè dặt, hiểu cho rõ việc làm và cuộc sống của mình, đừng làm gì sai để người ta hiểu lầm. Gần đây có người thân H.A. tới thăm mà H.A. xin miễn tiếp, đó cũng là đáng khen. Còn như nghe người quen đến thăm liền phấn khởi chạy ra, đó là cái yếu.

Ở đây tụi con quyết chí tu, tâm hồn luôn thanh thản, nhẹ nhàng, giảm bớt mọi duyên trần, để sự tu của mình chóng tiến, đền ơn Thầy Tổ sau này. Vậy nên mỗi đứa ráng cẩn thận, làm sao để ai tới thăm cũng cảm thấy rằng tụi con đang tu với tâm niệm trong sáng, thanh tịnh, vui trong cuộc sống này, chớ không phải ép buộc sống trong hoàn cảnh này. Đó là điều Thầy muốn nhắc cho tụi con nhớ.

Thầy từng nói với tụi con, Thiền viện đang để ngỏ chớ không đóng. Chỉ một niệm không thích ở đây, xin đi Thầy cho liền. Nếu có ai cảm thấy không kham thì đến xin: “vì con hết duyên ở đây, cho con đi nơi khác”, Thầy gật đầu liền, không một lời ngăn trở, vì cửa để ngỏ mà! Như bên Tăng có thầy T.N. có công lớn ở đây, hôm rồi đắp y lên thưa: “Thưa Thầy, con thấy ở đây nhọc nhằn quá, khó tu, vậy Thầy cho con đi nơi khác.” Thầy bảo: “Ờ! trong bản Thanh qui tôi có nói: Nếu vị nào không muốn ở đây, xin phép ra đi tự do, không có điều kiện gì hết. Tôi hoan hỉ cho chú đi.” Đó là những người có công, Thầy còn không ngăn, không khuyên một lời, đừng nói là người không có công. Vì vậy ở đây Thầy nói để ngỏ, muốn đi thì được đi, còn ở phải an vui tu tập chớ không buồn phiền.

Tụi con hiểu kỹ đường hướng và chủ trương của Thầy – cả hai mặt. Về mặt đời sống, Thầy bảo đảm lo cho tụi con đầy đủ an ổn, không để bị thiếu thốn. Tụi con xét kỹ lại từ ăn, mặc... có gì thiếu thốn không? Như vậy phần đời sống không bận lo một chút gì. Kế đó là phần tu hành, thời giờ tu của tụi con tương đối dư không thiếu. Một tháng có hai kỳ học, nhắc tới nhắc lui để tụi con tu. Vậy, đứng về mặt vật chất và tinh thần, tụi con đều đầy đủ, còn gì mà buồn? Nếu có buồn là do những phiền não cỏn con vương vấn đâu đó làm cho buồn thôi.

Trong A-hàm có một bài kinh, đức Phật dạy: “Nếu một người ở với thiện tri thức, ăn mặc dư dả nhưng không được học đạo thì nên xá chào mà đi. Còn ở nơi nào tu học đủ, ăn mặc thiếu, phải nên cố gắng nhẫn nại xin ở để tu.” Như vậy, Phật dạy nơi nào có tu học đầy đủ là chỗ mình nương ở để tu. Còn nơi nào sung sướng mà không có tu học cũng không nên thừa nhận.

Ở đây, sự tu và học rất đầy đủ, còn việc ăn mặc không đến đỗi thiếu thốn, đó là duyên tốt để tụi con tiến tu. Buổi sáng tụi con phải lao động một buổi, hơi mệt, nhưng đó là cơ hội cho tụi con sống với thiên nhiên. Sống ngoài trời có nắng gió, cơ thể mình khỏe bền. Nếu cứ dồn trong nhà kín hoài một ngày nào tụi con sẽ thành bệnh. Thầy muốn tụi con có cả hai mặt, về tu thì ở yên trong Thiền đường, còn về hoạt động thì ở ngoài trời. Tụi con có thời giờ sanh hoạt bên ngoài, hít thở không khí, tiếp xúc với trời đất, vừa lao động cho máu huyết lưu thông, tốt cả hai mặt tu tiến và có sức khỏe.

Hiểu như vậy thì làm việc không phải khổ nhọc gì hết. Chúng ta sống sao cho điều hòa thân này. Nếu mình chiều nó ăn ngon ngủ kỹ, nó sẽ khỏe hay bệnh? Ăn nhiều, ngủ nhiều sẽ mập, mập quá là bệnh nhiều, phải không? Một ngày nào đó trăm thứ bệnh sẽ xảy ra. Dung dưỡng thân là làm cho nó bại hoại sớm, chớ không giúp nó sống dai. Tụi con nên hiểu rõ, đó là kinh nghiệm của người đi trước. Sống đúng với tinh thần Thiền viện, tụi con sẽ được an ổn khỏe mạnh vui tươi, tu hành thanh tịnh.

Ngày 27-10 Giáp Tuất (29-11-1994)

Hơn ba tháng nay Thầy đi vắng, ở nhà mấy đứa con tu hành tiến bộ tới đâu, tu có gì hay kể cho Thầy biết.

Bây giờ Thầy nói cho tụi con nghe tinh thần của người sống trong Thiền viện, sau đó Thầy sẽ kể chuyện ở nước ngoài đang có những nhu cầu gì đối với Phật pháp.

Trước hết nói về tinh thần Thiền viện, Thầy biết tu không phải năm bảy tháng, một hai năm mà tiến được nhiều. Mình tu cả đời nên Thầy không đặt thời hạn, chỉ trông mong tụi con mỗi ngày mỗi mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, đó là tốt rồi.

Thầy đã từng nói với tụi con, người vào đây tu Thầy đặt hai trọng điểm. Trọng điểm thứ nhất phải sống đúng tinh thần lục hòa, vì Thầy nhìn trong giới Tăng sĩ bây giờ ít có nơi nào giữ được lục hòa, kể cả các Thiền viện dưới kia cũng khó giữ được. Thầy thấy lục hòa là trọng điểm mà tất cả Tăng Ni phải có. Thiếu lục hòa Tăng Ni sẽ sống rời rạc, sống trong tranh đấu. Lục hòa là nền tảng của Tăng. Chữ Tăng có nghĩa là hòa hợp chúng, muốn hòa hợp phải lấy lục hòa làm gốc, thiếu lục hòa là thiếu đức tánh Tăng sĩ Phật giáo.

Đó là chỗ then chốt mà lâu nay Thầy thấy các chùa mình không thực hiện được. Giả sử tụi con tu chưa sáng đạo nhưng sống đúng tinh thần lục hòa, thì ngày mai tụi con ở đâu tu hành, sống với huynh đệ cũng hòa hợp, làm Phật sự dù nhỏ cũng tốt. Hiện nay tụi con thấy có hai người hợp tác là có đụng độ với nhau, phải không? Sở dĩ đụng độ nhau là do không hòa. Vì vậy, đối với Thầy, phải thực hiện lục hòa cho được.

Thực hiện lục hòa phải vừa thô vừa tế. Về thô là những hình thức đồ đạc, ăn ở. Phần tế là tâm niệm, ý thức, phải luôn luôn xả ngã để sống hòa với chúng. Nếu tụi con làm được điều đó, mai kia Thầy tịch rồi, tụi con ra gánh vác Phật sự mới được, còn không có lục hòa không làm việc lớn được. Tại sao vậy? Vì một cá nhân không thể làm được việc, phải cần nhiều người, nếu không ai hòa với ai làm sao làm được. Dù cho có tài mấy mà cá nhân cũng chẳng được gì. Nên Thầy thấy muốn mai kia làm Phật sự được tốt đẹp, ngay bây giờ phải biết sống theo tinh thần lục hòa, trên huynh dưới đệ phải biết nhường nhịn, tha thứ và thông cảm với nhau.

Đồng thời về phần vật chất tụi con thọ dụng mọi thứ đúng theo tinh thần Thiền viện, đừng ai hơn kém ai. Sở dĩ sống không hòa nhau, trái ý chống chọi nhau có khi vì kẻ này nhận phần lợi nhiều, kẻ kia được ít, sanh chống đối nhau, đủ thứ chuyện từ nhỏ tới lớn. Cho nên sống hòa là thiết yếu. Chừng nào Thầy tịch rồi chưa biết sao, chớ bây giờ còn sống, Thầy bảo đảm tụi con không đói, không thiếu. Như vậy tụi con cứ yên lòng tu, đừng lo gì, đừng bận tâm nhờ người này, người kia giúp.

Ngày xưa Thầy đã thấy rõ nhiều trường hợp ở trong chùa, người nào có cha mẹ hoặc huynh đệ anh em khá giả được gởi tới giúp, còn người nào cha mẹ, anh em nghèo thì không được giúp; hoặc người có duyên được Phật tử thương giúp, người nào ít duyên không được giúp. Vì vậy trong chùa xảy ra cảnh kẻ hơn người thua, kẻ dư người thiếu đủ thứ chuyện. Nhiều khi cũng xảy ra chuyện ăn cắp, ăn trộm. Thật đáng buồn!

Do đó Thầy chủ trương tất cả tụi con sống bình đẳng, có gì chia đều nhau, không ai hơn ai kém. Mọi thứ như nhau thì đâu có gì nghĩ xấu cho nhau. Thầy muốn gây cho tụi con tinh thần hòa thuận, tất cả đều sống đồng nếp như nhau, đó là điều tốt. Tụi con nghĩ, mình tu cần gì khác nữa đâu, chỉ làm sao có cơm ăn áo mặc, đủ no đủ ấm, được an ổn để quyết tâm tu giải thoát sanh tử.

Ở đây Thầy tạo đủ điều kiện để tụi con tu tập, làm sao trong đời này tiến được, có phần giải thoát thật sự, không bị trói buộc. Thỉnh thoảng có một hai đứa dại khờ tự trói buộc mình rất là tội nghiệp. Thầy muốn tụi con thực hiện được lý tưởng giải thoát. Đã giải thoát được tình cảm ruột thịt từ cha mẹ, anh em, bây giờ vào đạo nếu còn bị trói buộc bởi tình cảm huynh đệ là không tốt. Gỡ bên này, cột bên kia cũng vậy thôi. Tụi con gan dạ đã cắt đứt được những trói buộc của gia đình, một khi vào đạo thì cắt hết duyên để trọn theo sở nguyện của mình, tiến tới giải thoát sanh tử. Đừng mở đầu này, cột đầu kia, quanh quẩn rốt cuộc không tu tới đâu. Ở đời không ra đời, tu đạo không ra đạo, uổng đi một kiếp sống, lại bận tâm Thầy phải lo.

Ở đây Thầy muốn dành cho tụi con phần đặc biệt chuyên tu, đứa nào cảm thấy không kham nổi thì rút lui nhường chỗ cho người khác. Bao nhiêu người xin không được, chẳng lẽ vô đây cứ mở với cột hoài, không tiến để uổng đi một đời, lại chiếm một chỗ của người khác. Thầy khuyên tụi con phải quyết tâm, dù cho có bệnh hay những thói quen làm mình trở ngại, một khi tụi con quyết tâm tu hành thoát ly sanh tử thì sẽ vượt qua. Chỉ vì thiếu quyết tâm nên thực hiện không được.

Tụi con ở đây không bị việc bên ngoài quấy rầy, chỉ còn một việc yên tu, sống theo nề nếp để thực hiện lý tưởng giải thoát sanh tử. Nếu đứa nào quyết tu như vậy ai rầy Thầy chịu cho, còn tụi con làm cái gì sai nhắc hoài không chịu bỏ, đó là tại thiếu quyết tâm. Biết rằng chúng sanh người nào cũng có tật xấu, thói này hoặc thói nọ, nặng hoặc nhẹ. Nếu không có tật xấu thì đâu cần tu. Vì có lỗi nên ráng tu, đã biết dở rồi phải quyết tâm khắc phục, vượt qua nó, đừng để thua. Như vậy tụi con tu mới được.

Ngoài ra trong chúng ai có thân bệnh, bệnh gì cứ khai rõ ràng sẽ có thuốc men uống, đừng làm thinh chịu bệnh hoạn. Có bệnh phải khai để mua thuốc uống, đến thầy thuốc trị. Còn ai bệnh kinh niên lâu năm ở đây không dám nhận, vì cứ đi trị bệnh hoài sẽ không có thời giờ tu. Không phải Thầy sợ và ghét người bệnh, chỉ vì Thầy muốn mọi người tới đây đều có thời gian tu. Nếu có một người bệnh chở đi bệnh viện thì phải cử hai người theo nuôi, cứ như vậy hoài làm sao chúng yên tu. Cho nên, những bệnh vừa phải, tụi con ráng vượt qua, còn bệnh kinh niên thì tụi con phải khéo ổn định đừng để kéo dài mãi không hay, đồng thời cũng đừng để vì bệnh mình mà huynh đệ không tu được. Thầy nhắc chung cho tất cả tụi con tự ý thức. Thật ra, khi có bệnh, nếu tụi con khéo tu sẽ vượt qua được hết, còn vụng tu qua không nổi. Đó là kinh nghiệm bản thân Thầy, không phải Thầy nói suông.

Tụi con thấy Thầy là người khỏe mạnh hay bệnh hoạn? Trước năm 1961 Thầy nằm bệnh viện Đồn Đất vì bệnh phổi, sau này thì bệnh tim. Bệnh phổi và tim, mà ngót một trăm ngày vừa qua ở xứ người, nay đi đây, mai đi kia, giờ giấc khác, ăn ở khác..., Thầy vẫn khỏe mạnh. Nếu Thầy không nỗ lực tu thì thành phế nhân rồi. Chính nhờ cố gắng Thầy vượt qua bệnh hoạn, trở thành người mạnh khỏe làm Phật sự.

Đó là phần của Thầy, tụi con ngày nay cũng vậy, dù cho có bệnh hoạn cũng phải hết sức tinh tấn, bệnh hoạn mới qua. Chúng ta sợ chết thì cái chết càng đến sớm. Không thèm sợ chết nó hoảng chạy xa. Nên phải gan dạ liều chết mà tu, ngày nào đó mình sẽ thắng nó, đó là điều Thầy đã kinh qua và thành công. Nếu tụi con không sợ bệnh, không sợ khó, không sợ đau chân, tụi con sẽ thành công. Còn như ngồi thiền đau chân quá muốn rút lui thì không bao giờ thành công được.

Ở đây Thầy tạo điều kiện cho tụi con tu, có cái gì quá đáng không? Như ở chùa Vạn Phật bên Mỹ, chỗ ngài Tuyên Hóa, một ngày ăn một bữa, ngủ thì ngủ ngồi, suốt đêm chỉ ngồi không nằm, khổ hạnh như vậy mà người ta vẫn tới tu. Còn ở đây đâu có khổ hạnh, ăn ngày hai bữa, buổi chiều uống bột, ngủ cũng được sáu tiếng đồng hồ một ngày, đêm năm tiếng, thêm một tiếng ngủ trưa. Ăn ngủ vừa chừng, còn lao động ba tiếng, chỉ có ngồi thiền ba thời, mỗi thời hai tiếng, cũng không nhiều lắm.

Thầy sắp xếp vừa phải, tụi con tu đều đều không lui sụt, chính mình được lợi ích, những người chung quanh nhìn thấy cũng quí kính, đến học hỏi. Gây được lòng tin nơi Phật tử, sau tụi con làm Phật sự dễ dàng, chớ Thầy để tụi con thong thả quá, sau không làm được gì hết. Ngày mai tụi con có uy tín với mọi người là nhờ ngày nay Thầy khép vào khuôn khổ.

Vì thấy có những lợi ích lớn lao như vậy nên Thầy phải lo kềm chế gìn giữ. Vậy tụi con phải ráng lên, chớ có lôi thôi. Chính nhờ cố gắng mà lý tưởng giải thoát mới đạt được, thả trôi không được lợi ích gì. Ở các nơi, tối tụng kinh, khuya trì chú, sáng ra đi đây đi kia mất thời giờ. Còn ở đây tụi con không bị mất thời giờ, ai khôn thì lợi dụng lúc công tác cũng tu. Như vậy Thầy cố gắng tạo cho tụi con đủ điều kiện để thực hiện lý tưởng tu hành, còn nỗ lực tu tập là phần tụi con. Thầy tạo khuôn mẫu kềm chế giúp tụi con, nhờ cái khuôn đó mà tụi con cố gắng lâu ngày sẽ thuần thục, mai kia dù ở đâu đều có nếp sống lục hòa đàng hoàng.

Điều đầu tiên tụi con ráng thực hiện cho được là lục hòa, kế đó là phải ráng tu, thâm nhập lý thiền, sáng tỏ ý đạo, như vậy, tụi con mới đủ tư cách gánh vác được việc lớn. Nếu thiếu một trong hai điều quan trọng đó cũng khó duy trì chánh pháp. Nên hôm nay Thầy nhắc tụi con ý thức trách nhiệm. Từ trong nước đến nước ngoài, người ta đều chú mục đến mình, phải ráng làm sao cho xứng đáng với lòng mong đợi của họ, đúng như tinh thần Thầy tuyên bố với quần chúng, đây là lý tưởng tối hậu của Thầy.

Vừa rồi Thầy đi nước ngoài, tới đâu người ta cũng hỏi: “Tại sao Thầy thành lập Thiền viện Trúc Lâm?” Thầy trả lời: “Thiền viện Trúc Lâm là lý tưởng tối hậu của Thầy. Trong những năm cuối đời còn lại, Thầy sẽ đem hết sức hướng dẫn Tăng Ni tu, khi Thầy nhắm mắt họ sẽ thay Thầy tiếp tục lo Phật sự sau này.” Như vậy Thầy có quảng cáo tụi con chưa? Tụi con là những người Thầy tin tưởng, mai kia sau khi Thầy tịch, sẽ là người thay thế để lo Phật sự. Ai cũng tin như vậy và quí mến lắm, cho nên gần Tết về sau, tụi con thấy họ về thăm liên miên.

Tất cả hi vọng Thầy đều đặt ở tụi con. Nếu tụi con tu hành không tiến là hi vọng của Thầy mất đi, không đúng như sự mong đợi. Nên tất cả phải nỗ lực, luôn luôn tỉnh sáng đừng để vô minh phiền não che mờ, mất đi thời gian quí báu của mình.

Không biết Thầy còn sống bao lâu, Thầy muốn trong thời gian này ai cũng tu hành đắc lực, để khi Thầy nhắm mắt rồi, tụi con có thể làm được việc này việc nọ. Những Thiền viện trước đây không thể thực hiện được đúng như ý Thầy muốn. Chỉ có nơi sau cùng này đủ điều kiện, Thầy có thể thực hiện đúng tinh thần lục hòa, thực hiện đúng những điều cần thiết cho tụi con tu học. Trong những năm chót, các điều cần dạy Thầy dạy hết cho tụi con. Trách nhiệm của Thầy bây giờ nặng hơn hồi xưa, vậy tinh thần tu hành của tụi con cũng phải mạnh mẽ, tiến hơn hồi xưa, không thể chần chờ.

Những năm trước ở Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu khó khăn, Thầy cho Tăng Ni hát ca nghêu ngao trong đồng ruộng. Quá vất vả nên có chút vui cho quên đi nỗi cực. Bây giờ hoàn cảnh thuận lợi, tụi con không còn nhọc nhằn như ngày xưa, nhọc bây giờ chỉ là nhọc... ngồi thiền. Có đứa nào ngán ngồi thiền không? Tụi con ngồi chừng nào thấy thích mới được. Có vị cư sĩ tới thăm Thầy nói: “Con ngồi thiền như ăn thức ăn, thiếu ngồi thiền buồn.” Người ta cư sĩ còn ghiền ngồi thiền, nếu Tăng Ni tới giờ ngồi thiền mà ngán là trái rồi, nên tụi con phải tinh tấn tu. Cái gì cũng do tập mà quen, ngồi thiền có kết quả tụi con sẽ thấy có niềm vui trong sự tu.

Đúng ra tu thiền không phải chỉ ngồi, mà đi, đứng, nằm, ngồi đều tu. Hiện nay tụi con giờ lao động chưa được như lúc ngồi thiền, nên Thầy bắt ngồi nhiều, chớ nếu đi lao động cũng giống như ngồi thiền thì đâu cần ngồi nhiều. Tụi con cam kết với Thầy giờ lao động cũng giống như ngồi thiền được không? Không ai dám cam kết thì phải ráng ngồi thiền sáu tiếng mỗi ngày. Nhờ ngồi nên mới an ổn, dứt các duyên bên ngoài, còn đi làm thấy việc này nghe lời nọ, tâm duyên theo thì đạo lực sẽ yếu. Khi ngồi mọi điều cắt đứt hết, giúp cho mình tiến nhanh hơn nhiều.

Người nước ngoài bây giờ thích tu thiền. Kỳ này Thầy tới đâu họ cũng giới thiệu Thầy là Thiền sư Việt Nam, buộc lòng Thầy phải giảng Thiền Việt Nam, đồng thời Thầy giải thích cho họ hiểu Thiền là gì. Người ta nghe, hiểu Thiền là nguồn gốc của đạo Phật. Chư Tổ Việt Nam ngày xưa là những vị tu Thiền đạt đạo, nhưng về sau này nước nhà loạn lạc, các chùa Việt Nam phai mờ nguồn gốc Thiền tông. Cho nên từ nay về sau, không những mình tu cho mình mà còn có nề nếp vững chắc để từ từ khôi phục lại Thiền tông Việt Nam. Đó là trách nhiệm hết sức nặng nề, không phải nhỏ.

Nếu Thầy chủ trương khôi phục Thiền tông Việt Nam mà những người tu theo Thầy đều yếu đuối, thì chuyển nổi không? Đời Thầy không làm xong, trông cậy vào đời các con. Tụi con quyết tâm tu trăm người, giả sử Thầy giỏi một trăm phầm trăm, tụi con mỗi đứa chỉ cần bằng Thầy hai mươi phần trăm, một trăm đứa hợp lại cũng hơn Thầy. Thầy mong rằng sau này Thiền tông Việt Nam sẽ sống dậy mạnh mẽ, mà Thiền viện Trúc Lâm là gốc. Nó là gốc thì những cái rễ phải thật bền chắc, sâu xa. Thầy mong mỏi tất cả tụi con đều ý thức được việc đó, phải ráng tu.

Thầy công khai tuyên bố chuyển Phật giáo Việt Nam hay làm sống dậy Thiền tông đời Trần, đời Lý. Đó là trách nhiệm rất nặng. Đời Thầy chắc làm được một phần tư hay một phần tám thôi, còn dài về sau là phần tụi con. Nếu tụi con không gan dạ, cố gắng thì phần kế tiếp Thầy ra sao? Tất cả phải ý thức rõ trách nhiệm của mình. Thầy nói cho những người nước ngoài biết đường lối chủ trương của Thầy như vậy, ai nấy đều hoan nghênh và cho là hợp lý. Còn trong nước Thầy không dám nói nhiều, vì nói, các ngài cho là Thầy chống đối Tịnh độ, không tốt. Thầy chỉ nói sơ sơ trên giấy tờ và bài vở thôi, chưa công khai giảng nói như ở nước ngoài.

Như vậy để tụi con hiểu chủ trương đường lối của Thầy là làm sống dậy Thiền tông Việt Nam. Vậy đòi hỏi ở tụi con hai phần. Một là phải thâm nhập được lý thiền. Thứ hai, phải sống đúng tư cách của người xuất gia gương mẫu, người ta tin tưởng thì mới chuyển hóa họ được. Do đó Thầy bắt buộc hơi nhiều điều. Ở các Thiền viện, Thầy cũng bắt phải kềm chế lại cho Tăng Ni tu thật đúng đắn để mai kia người ta có thể tin tưởng nơi mình.

Thầy tuyên bố rồi, nếu tụi con làm lẹp xẹp không ra gì người ta sẽ cười cho.

Đây là trọng trách rất nặng chớ không phải thường. Trọng trách đó hầu như Trúc Lâm phải gánh vác, là đơn vị đi đầu. Tụi con phải thấy trách nhiệm của mình để chu toàn. Hiện giờ ráng tu thâm nhập được lý thiền, đồng thời phải đủ tư cách làm người mẫu mực. Nếu thiếu hai điều này tụi con không làm được gì. Muốn thành tựu tốt đẹp phải tinh tấn tu hành, có đức hạnh tốt. Làm được hai việc đó mới đúng nghĩa xuất gia.

Thầy ép tụi con mang trọng trách cũng không ngoài lý tưởng tụi con. Vậy những người có mặt ở đây đều phải có trách nhiệm. Ngày nay còn ở trong chúng đông đảo, sống chung nhau là cơ hội cho tụi con thấy được những sơ sót và lỗi lầm của mình để sửa và bỏ. Sau này các con lớn lên ra trụ trì nơi này nơi nọ, không ai dám chỉ lỗi cho, làm sao biết mà sửa. Nên đây là thời gian tốt để tụi con tự sửa lỗi mình.

Hôm qua có chú cư sĩ ngoài Bắc vô xin Thầy hai việc: Thứ nhất, xin người ra ngoài Trúc Lâm Yên Tử trụ trì, chùa đang sửa sang lại. Nếu có người họ sẽ đem xe vô đón, giấy tờ họ lo hết. Thầy từ chối vì mới lập Trúc Lâm một năm, đâu có người để cử. Thứ hai, bây giờ tại Quán Sứ có một lớp học tu thiền, người trong thành phố và người ở xa cũng lặn lội tới dự. Không có Tăng Ni, chỉ có đạo hữu Phụng hướng dẫn. Như vậy nhu cầu trong nước cũng đòi hỏi.

Trong và ngoài nước đều qui hướng về mình mà mình thiếu người. Nên những năm còn lại Thầy hết lòng dạy dỗ, tụi con phải ráng tu, có đức hạnh, sống đúng nội qui. Như vậy, mai kia mới có người gương mẫu để gánh vác Phật sự lớn lao này. Tụi con có trách nhiệm nặng phải tự mình rèn luyện, chuyển sửa những xấu dở, đừng nghĩ ở đây sao khó quá, cái gì cũng khuôn mẫu, không như những chỗ khác thong thả tự do, muốn ăn thì ăn muốn ngủ thì ngủ. Khép mình trong khuôn mẫu là điều tốt.

Qua Tết sẽ có một số vị trong tôn giáo bạn vào tập tu. Nếu tụi con ngồi thiền không ra gì còn người ta ngồi hai tiếng thì sao? Bây giờ nhiều người đang hướng về Thiền. Đường lối tu của mình tuy khó khăn nhưng người ta lại thích. Hướng tu của mình vừa tự lợi vừa lợi tha, đúng vào lúc người ta cần. Quí vị đó tới đây sống chung tu hành với mình, nếu họ thấy Thanh qui một đường chúng ta làm một ngả sẽ đánh giá tổ chức mình ngay. Cho nên, tất cả phải chân thành sống đúng Thanh qui, không nên lôi thôi. Tụi con sống theo đúng Thanh qui chẳng những có lợi cho sự tu mà còn tập cho mình có nề nếp, đạo đức lâu bền. Vậy nên tụi con phải cố gắng giữ gìn ngôn ngữ hành động nghiêm chỉnh, đàng hoàng.

Chúng ta tu cho mình, lại có trách nhiệm gầy dựng Thiền học Việt Nam cho xứ sở, tu để có khả năng hướng dẫn Phật tử trong nước và ngoài nước, tu để làm mẫu mực cho những người tới tập tu với mình. Thật là quá nhiều bổn phận! Vậy, tụi con ráng nhớ trách nhiệm của mình mà nỗ lực tiến tu.

Ngày 13-11 Giáp Tuất (15-12-1994)

Phần thỉnh nguyện đã xong, giờ đây Thầy nhắc nhở trong chúng. Tụi con có lỗi ra sám hối, được đại chúng chỉ dạy để sửa. Nếu thỉnh nguyện chân thành, biết lỗi sám hối chừa hẳn, hoặc được chỉ lỗi để sửa, tụi con sẽ tiến bộ, tu hành tinh tấn, bởi vì không ai không có lỗi, chỉ có chịu sửa hay không thôi. Nên trong nhà Phật đặt sám hối tức là ăn năn hối cải vào hàng quan trọng. Phật biết chúng sanh ai cũng có bệnh, biết sám hối chừa cải là quí, rồi từ đó về sau thành người tốt tu hành; còn nếu mình có bệnh mà không sửa chừa tất sẽ lui sụt. Đó là lời nhắc nhở chung về sám hối.

Kế đây Thầy nhắc tụi con biết tất cả những mong ước và hi vọng của Thầy gởi gắm nơi tụi con. Thầy đã nói rất nhiều lần rồi. Tụi con hiểu được cuộc đời là vô thường, đau khổ, nên quyết chí xuất gia vì mục đích giải thoát sanh tử, đó là sở nguyện chánh. Phần nhiều các nơi, kể cả những Thiền viện của mình cũng không đủ điều kiện thực hiện sở nguyện tụi con, vì có nhiều vấn đề phức tạp hoặc là lo lắng việc này việc nọ, sự sắp xếp không được ổn định.

Ngày nay Thầy thấy những thiếu sót đó nên lập Thiền viện Trúc Lâm để tụi con đủ điều kiện thực hiện lý tưởng giác ngộ giải thoát. Ở đây tụi con cứ làm tròn bổn phận như trong Thanh qui đã qui định sẵn. Tụi con đều có ý chí quyết liệt tu hành, nên sống một cách đạm bạc. Nếu mình sống dư dả thừa thãi, người thế gian sẽ phê bình. Vì vậy chúng ta sống lúc nào cũng cần kiệm, đạm bạc, nếu có dư giúp lại những chỗ thiếu, chớ không sống một cách thừa thãi dư dả quá, không tốt.

Tụi con sanh hoạt theo Thanh qui không được trái giờ giấc, giờ nghỉ thì nghỉ, giờ tu lo tu, giờ lao động đi lao động, tự chăn lấy tâm mình, mọi việc chu toàn phần mình. Đừng lo áo rách làm sao sắm, hay là ít hôm nữa đi đâu không có tiền, bệnh làm sao có thuốc... Thầy bảo đảm lo hết, không để tụi con đói rét, không để tụi con bệnh không có thuốc thang. Tất cả những gì tụi con cần đều có để đời sống được yên ổn, ngoài ra các việc lo lắng của người đời tụi con không phải bận tâm.

Ở đây tụi con chỉ có chuyện lo tu là trên hết, giờ giấc tu hành phải đủ, nề nếp giữ cho tốt. Thầy đã nhắc nhiều lần, ở đây không những tụi con tu với nhau mà còn phải làm gương cho những người khác tới tập tu, nên ráng giữ giá trị tư cách của mình. Có những người đạo khác tới tu với mình năm ba tuần, trách nhiệm tụi con không đơn giản nên phải có tư cách. Khi người ngoại quốc tới, tụi con có lễ độ, biết quí trọng người lớn, muốn tặng biếu ai, hoặc nói với ai điều gì nên xin phép trước. Đừng tỏ vẻ thiếu lịch sự, người ta cười mình.

Không nên đùa giỡn vui chơi như những nơi khác. Ngày xưa ở Viên Chiếu, sống trong rừng lao động cực nhọc, Thầy cho ca hát. Còn ở đây cấm tuyệt không cho hát vì hoàn cảnh đã khác. Thầy khó, không phải làm cho tụi con khổ, mà cốt giúp tụi con nhiếp tâm, dè dặt, sống có lịch sự có nề nếp chớ không phải kềm chế để thành cây khô vô ích đâu. Tụi con gắng tu mai kia làm gương mẫu cho người. Thầy trông cậy ở tụi con, nếu các con hiểu đạo mà tư cách hành động không hay, người ta sẽ khinh cười. Học, tu và có đức hạnh, cả ba cái đều đầy đủ không thiếu sót, tụi con mới thực hiện được điều Thầy mong đợi.

Ở đây cực và khó hơn chỗ khác, đừng vì sự cực và khó đó mà tưởng là khó tu, chính hai điều này giúp cho tụi con dễ tu hơn. Tụi con không bận tâm việc gì, không bị khách khứa làm nhiễu loạn, không có chuyện vui buồn đem tới, chỉ có một việc tu. Nếu tụi con dồn hết tâm lực tu năm bảy năm tất sẽ tiến được, còn để buông lung chạy theo bên ngoài làm sao tiến?

Thầy đã cảnh cáo tụi con nhiều lần rồi, tuổi thọ của Thầy không còn dài, không thể chờ tới mười năm, hai mươi năm nữa, chỉ năm bảy năm thôi. Thời giờ ít lắm rồi, ráng tu sao cho tiến bộ. Tụi con tự làm tròn bổn phận mình, đừng tưởng có Thầy ở gần tụi con tu từ từ cũng được. Vì thời gian quá ngắn ngủi nên tất cả ráng giữ gìn. Bao nhiêu người đang trông vào chúng ta, làm không ra trò gì là một lỗi lớn.

Các mặt tu, học và hạnh kiểm tụi con đều phải giữ đúng qui củ để trở thành con người mẫu mực. Ai đến với mình lúc ra về cũng có tâm quí mến, đừng để người ta cười. Thầy đã nói đây là lý tưởng tối hậu của Thầy, nếu Phật tử tới đây không thấy có gì xứng đáng hết thì điều Thầy trông đợi nơi tụi con không thành. Vậy tất cả tụi con, từ lớn tới nhỏ đều phải ý thức rằng mình có trách nhiệm rất nặng, lo kềm chế, gìn giữ cho sự tu ngày càng tiến. Làm sao ba đến bảy tháng có phát minh hay.

Thầy cấm không được làm thơ, vì làm thơ tâm dễ xao xuyến, trừ khi ngộ rồi mới được làm. Nhưng ngộ mà viết hoài không dừng cũng thành bệnh nữa, làm một hai bài để trình thôi. Làm thơ hoài là bệnh chớ không phải vì tu tâm sáng suốt có văn chương hay. Như Thầy biết các vị xưa, khi ngộ rồi thích quá cầm bút viết hoài không thôi, tưởng vậy là hay nhưng bị chư Tổ quở, phải bỏ đi ngủ một giấc dài mới hết. Làm thơ kệ nhiều trở thành chướng ngại cho sự tu hành, cần phải cẩn thận.

Từ hành động không thô tháo, tâm niệm không buông lung, lời nói cẩn mật, ý niệm không lơi lỏng, sự tu tụi con sẽ tiến. Nếu đứa nào cũng dồn tâm ý trong việc tu thì đôi ba năm tụi con tiến bộ, còn thả trôi rất khó tiến. Vì vậy lên đây tất cả khả năng, tinh thần, sinh lực tụi con đều dồn trong việc tu, không bận bịu cái gì khác. Thầy tạo hoàn cảnh thuận tiện, tụi con đủ điều kiện để làm việc đó. Đừng nên quan tâm điều gì ngoài bổn phận của mình.

Tụi con tu được thì mọi ơn đức đều trả được, nếu không tu, dù thương cha mẹ, kính mến Thầy Tổ đều không đền được chút ơn nào. Chỉ có tu là đền đáp đủ tất cả những gì người chung quanh mong muốn trông đợi mình; làm tròn bổn phận là không cô phụ lòng tốt của người lớn, thân bằng và của thí chủ.

Thầy có lời nhắc nhở, tất cả nên cố gắng.

Ngày 1-12 Ất Hợi (1-1-1995)

Thỉnh nguyện vừa rồi, ai có lỗi dù lớn dù nhỏ đều tỉnh giác ra trước chúng sám hối. Đó là tinh thần tự giác cao, đáng khen. Nhưng còn thiếu phần chỉ lỗi giùm, không ai chỉ ai hết. Nếu thật không có lỗi là tốt, còn có mà không chỉ là điều thiếu sót. Vậy mong rằng trong chúng nếu có lỗi lầm, Ban chức sự không thấy mà tụi con thấy, trong buổi thỉnh nguyện nên chỉ giúp cho nhau. Vì tất cả chúng ta người phàm, không ai tránh khỏi tội lỗi, nhưng có lỗi biết sám hối chừa bỏ là chuyển từ phàm thành Thánh. Có lỗi mà không dám nhắc nhở nhau là điều thiếu sót, làm cho sự tu hành khó tiến. Vậy trong chúng hãy nhắc nhở cho nhau nhiều hơn nữa.

Gần một năm nay, Tăng Ni tu hành ở các Thiền viện có chút ít tiến bộ, qua sự trình bày thấy có bước tiến đáng mừng. Thiền viện Trúc Lâm thành lập chưa đầy năm cũng đã có những bước tiến đáng kể. Đó là điều vui, có tu có tiến, chắc chắn như vậy. Quả thật những người nỗ lực chuyên tu có những bước tiến rõ ràng.

Vậy, trong chúng muốn có cơ hội tu hành tiến triển để bước lần trên con đường giải thoát hãy ráng nỗ lực hơn. Tu tiến rồi tụi con sẽ bước những bước dài và xa. Nếu tụi con chần chờ sẽ chậm trễ, trong khi huynh đệ đang có những bước tiến đáng mừng, Tăng cũng như Ni. Tại sao người ta tiến được mà mình không tiến, lỗi tại ai? Do vì không cố gắng. Vậy trong chúng mỗi người phải nỗ lực hơn. Trong đôi ba năm có sự tiến bộ, đó là niềm an ủi Thầy nhận được từ chư Tăng Ni trình lên.

Kế đây Thầy nhắc thêm, trong mục đầu của bản Thanh qui nói: Phải có thái độ dứt khoát, kiên quyết, dù khó khăn chướng ngại bên ngoài đến hay từ trong thân tâm ra, mình đều vượt qua. Đối với người tu, chướng ngại bên ngoài còn dễ gỡ hơn chướng của nội tâm hay chướng bản thân. Nội tâm là phiền não chướng. Thân là báo chướng. Thân dễ sanh bệnh hoạn, do bệnh hoạn chúng ta thối chí, trở nên yếu đuối, đó gọi là báo chướng. Tâm thì có vui, buồn, thương, ghét làm chướng ngại. Các chướng này phải ráng vượt qua. Khi hết những chướng bên ngoài và chướng bên trong, tụi con sẽ đầy đủ công năng và công đức để đi trên con đường giải thoát. Nếu bị chướng nội tâm hay bản thân sẽ dễ thối tâm và đường tu của mình cũng theo đó mà thối chuyển.

Vậy mỗi người đều phải tự kiểm điểm, nếu thấy có gì chướng phải cắt đứt, đừng để nó ngăn trở chúng ta. Trên đường tu ai cũng phải cố gắng, không ai thảnh thơi mà bỗng dưng ngộ đạo được. Người xưa tu đạo dồn hết thân tâm coi như người chết, do đó các ngài mới ngộ, chớ đâu có tu chơi chơi mà ngộ đạo.

Bởi vậy, tu phải tập cố gắng nỗ lực, gồm có hai phần: cố gắng chống những chướng duyên bên ngoài và nỗ lực loại bỏ chướng duyên bên trong; trong ngoài loại bỏ hết tự nhiên thân tâm thanh tịnh. Đó là người khéo tu, biết đường đi. Nếu lôi thôi chần chờ thì tới già, chết không có kết quả gì. Thầy mong tất cả ý thức rằng tu là đi trên con đường giải thoát, muốn đạt được mục đích cuối cùng tụi con phải cẩn thận dè dặt, luôn kiểm điểm lại mình, tỉnh táo sáng suốt trước mọi hoàn cảnh, đừng để nó làm trở ngại mình. Đó là người sáng suốt trên bước đường tu.

Ngày 14-12 Giáp Tuất (14-1-1995)

Thầy nhiều lần nhắc nhở, chúng ta chưa là Thánh nên ai cũng có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm mà biết sửa thì từ từ trở thành hay, tốt. Biết lỗi sám hối là điều đáng khen, đáng mừng chớ không phải xấu dở. Vì vậy tụi con khi có lỗi, biết sám hối, chừa bỏ là tốt. Mong rằng tất cả trong chúng, mỗi người đều cố gắng tu hành và gìn giữ, lỗi lầm ngày càng giảm bớt, để thân tâm được an lạc.

Tất cả tụi con đều quyết chí tu cầu giải thoát, nhưng trong khi tu cũng có nhiều trở ngại hay lúc làm việc có những cái chướng. Nay Thầy nhắc nhở cho tụi con hiểu rõ ràng về sự tu hành. Trong đạo Phật, muốn được giải thoát phải nhìn tường tận lại mình, từ chuyên môn gọi là “phản quan tự kỷ”. Nhìn tường tận nơi mình, biết rõ cái gì là thật, cái gì là giả. Trước hết phải biết cái giả thì mới nhận chân được cái thật nơi mình. Tụi con kiểm điểm lại thấy tâm và thân mình cả hai cái đều không thật mà hiện nay chúng ta đang mắc kẹt hai cái đó.

Đạo Phật lấy vô ngã làm nền tảng giải thoát. Sở dĩ chúng ta chấp ngã là vì thấy thân này hoặc tâm suy nghĩ phân biệt là thật, là tâm mình. Cả thân tâm đều không thật mà chúng ta luôn luôn chấp thật. Đó là nền tảng si mê, là vô minh. Còn thấy tâm thật, thân thật thì sanh tử muôn đời không bao giờ dứt. Muốn dứt sanh tử phải dứt tạo nghiệp, còn thấy thân tâm thật là còn tạo nghiệp. Vì vậy Phật nói vô ngã, không thấy thân thật, cũng không thấy tâm thật. Vậy mà lâu nay chúng ta chấp cái hư giả cho là mình. Do chấp như vậy nên luôn tạo nghiệp, đi trong luân hồi.

Chúng ta quyết tâm tu giải thoát sanh tử, trước hết phải thấy rõ thân, tâm sanh diệt hư dối không thật. Đây là nền tảng sự tu. Thân tâm không thật nên không còn chỗ để chấp trước và ái nhiễm. Chúng sanh mất thân này liền chụp thân khác, đều do vì chấp thân, mất nó tưởng như mất mình. Hoặc chúng ta chấp tâm phân biệt suy tính cho là tâm mình, nên theo niệm dấy khởi tạo nghiệp, làm nhân luân hồi sanh tử. Thân và vọng tâm là gốc sanh tử, vì vậy phải luôn nhớ thân tâm này không thật. Học trong kinh Kim Cang Phật dạy hai cái đều hư dối giả tạm, vậy mà mình vẫn thấy thật như thường. Đó là học mà không thấm.

Hồi xưa, trong khi Thầy học và tu ở Chân Không, Phật dạy giả mà mình thấy không giả; đọc Bát-nhã: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” làu làu mà thấy “có” chớ không phải “không”. Bệnh chúng ta là chỉ thuộc danh từ mà không thấm ý nghĩa. Ý nghĩa đó phải đem hết tâm tư quán chiếu mới thấy được. Cho nên sau này lúc chuyên tu, Thầy phát hiện ra được cái giả của thân, đối với thân này không còn lầm nữa. Còn tụi con nói giả là nói theo lời Phật, quán theo lời giảng của Thầy chớ không thật thấy.

Thầy phát minh ra sao tụi con nhớ không? Thường mình phân tích thân năm uẩn hay tứ đại này là giả, lối phân tích đó dùng lý trí chớ không thấy lẽ thật. Nhưng rồi một hôm Thầy nhận ra lẽ thật đó, mới thấy thân này là giả không chối cãi được. Thân do tứ đại hòa hợp thành nhưng phải mượn tứ đại bên ngoài để tồn tại. Mượn bằng cách nào? Lỗ mũi chúng ta hiện đang thở nghĩa là đang mượn không khí bên ngoài đem vô. Hít là mượn, thở ra là trả. Chúng ta sống đây chỉ là sự mượn trả đều đặn, nếu ngưng lại chết liền. Như vậy là thật hay giả?

Nếu thân thật thì không phải mượn, tự nó tồn tại. Còn cái này mượn rồi trả, mượn không trả là chết, trả không mượn cũng chết, trả mượn gọi là sống. Vay mượn tức không phải thật là mình. Một lát mượn tách nước rồi trả. Một lát mượn chén cơm cũng trả. Một ngày kiểm lại, toàn là tìm đủ điều kiện để mượn đất, nước, gió, lửa đem vô rồi trả ra. Mượn trả, mượn trả, chỉ có cái mau cái chậm thôi. Gió thì mượn trả liền, nước vài tiếng đồng hồ trả, đất ngày sau trả. Cứ như vậy, sự sống mình là cái gì? Sự sống chỉ là sự vay mượn đều đặn. Sống bằng vay mượn làm sao thật được! Nếu mượn trả đều đặn, suôn sẻ là sống mạnh khỏe, hạnh phúc, còn trục trặc thì chở đi bệnh viện!

Như vậy cuộc sống mình là gì? Thử định nghĩa lại “sống” là gì? Tụi con kiểm xem tất cả mọi người đang sống chỉ là mượn trả mà không ý thức được điều đó, lại hiểu lầm về các công dụng phụ. Như ăn là mượn đất mà không ngon thì nuốt trọng nên phải có chút gì đó cho ngon, nuốt vô đầy bao tử rồi trả. Nhờ có chút vị ngon để mượn trả hăng hái một chút. Khi ăn ngon phải nhớ mình ăn là mượn vô tạm rồi trả chớ không phải còn hoài.

Tụi con nhớ từ hồi nhỏ đến lớn, đến già cũng mượn trả, tới lúc trả không mượn là chết. Như vậy suốt cuộc đời giá trị ở chỗ nào? Vay mượn mà giá trị gì! Chỉ có mượn trả đều đều, ở đâu có đủ điều kiện mượn trả là chỗ văn minh. Mượn mà trả không được là khổ sở, hoặc trả không có mượn cũng khổ. Cả hai đều khổ. Nếu mình bám vào thân hư dối này thì cuộc sống không có nghĩa lý gì hết. Cái thân tạm bợ chấp là thật mình, đó là si mê đáo để! Cơm nước, không khí ở ngoài, hễ mượn đem vô liền nói của mình. Hiểu vậy rất là lầm!

Trong kinh thường nói, sống trong thế gian này do duyên hợp mà còn, duyên ly tán thì mất. Khi Thầy ngồi lại nghiệm thấy rõ sự sống trong vay trả, biết rõ ràng như vậy thấy cuộc sống mình bớt quan trọng đi, không còn nghĩ mình ăn, mình uống, mình làm này làm kia, chỉ là mượn và trả. Đồ mượn thì dở dở cũng được không cần tốt, đâu có gì quan trọng. Chỉ là chút cảm giác ở lưỡi, vậy mà đồ ngon thì thích, đồ dở không ưa. Chưa chắc đồ ngon bồi bổ tốt. Thí dụ thuốc uống không ngon nhưng giúp ích cơ thể, ăn chiên xào thấy ngon chưa chắc gì không gây bệnh.

Như vậy, hiểu rõ cuộc sống là vay mượn tạm, không có gì quan trọng. Đừng lệ thuộc vào lưỡi, vào mùi vị, là thắng được cảm giác, làm chủ lấy mình. Người đời thích ăn ngon nên phải làm lụng cực khổ. Các cảm giác đó chẳng có gì bền lâu, đều là mượn trả. Nhớ như vậy tụi con giảm bớt sự lệ thuộc vào cảm giác, không bị nó lôi đi.

Đó là Thầy chỉ cho tụi con thấy thân này không thật. Rõ ràng là như vậy. Nếu mình nhận chân được lẽ đó, nhìn lại thấy cuộc đời thật tức cười. Mấy chục năm mượn trả rồi lần hồi hoại luôn, đất lại về đất... Hiểu được lẽ đó rồi thấy cuộc sống không có gì quan trọng, vậy mà người ta suốt đời chạy theo cảm giác, ăn, mặc, ngủ... không thể có tinh thần siêu xuất, chỉ lăng xăng với những cái rất tầm thường tạm bợ của thân.

Thầy thấm thía câu chuyện Phá Táo Đọa.

Ở làng nọ, dân chúng thờ ông Táo trong đền rất linh, cầu xin cái gì cũng được, nên người ta làm gà vịt liên miên để cúng. Khi ngài Phá Táo Đọa đi qua đó, thấy dân chúng giết hại chúng sanh nhiều quá, Ngài hỏi, dân làng nói:

- Ông Táo ở đây linh lắm, cầu gì cũng được nên chúng tôi tin tưởng.

Ngài cầm cây gậy gõ lên bếp ba cái, bảo:

- Dốt! Bếp này chỉ do đất nung thành. Thánh từ đâu đến, linh từ đâu lại mà giết hại sinh vật như thế?

Sư lại gõ ba cái, ngay lúc đó bếp vỡ vụn rơi xuống. Dân chúng sợ hãi:

- Thế nào Hòa thượng cũng bị vật chết!

Nhưng rồi Ngài không sao cả. Đi một đoạn đường, Ngài thấy một người mặc áo xanh quì ở giữa đường trước mặt, bèn hỏi:

- Ông là ai?

Trả lời:

- Tôi là thần Táo. Nhờ ơn Hòa thượng nhắc nhở mà tôi được tỉnh, sanh lên cõi trời. Nay đến đây xin tạ ơn Hòa thượng.

Ngài nhắc nhở cái gì? Ông Táo nhờ đất nước gió lửa hợp thành. Khối đất đó linh thiêng là do thần thức của người nương dựa vào, gọi là quỉ thần hay thần Táo, rồi tác oai tác quái. Ngài chỉ nhắc do đất nước gió lửa hợp thành, vậy linh từ đâu mà đến. Vị thần giật mình hiểu rõ, chỉ là gá với đất nước gió lửa chớ không có gì thật nên bếp tự vỡ vụn. Biết rõ, buông nó là thoát kiếp thần Táo.

Tụi con nhớ mình đang gá cái gì đây? Cũng từ đất nước gió lửa mà thành, vậy mà tưởng là thật mình. Như tụi con thấy người ta giết heo xẻ bụng ra để trên thớt. Nếu nhìn bằng con mắt sáng suốt thì da thịt con heo đó là hôi tanh, nhưng tại thèm ăn nên thấy ngon, không thấy sự thật ghê gớm, máu tanh hôi hám. Đối với thịt súc vật, thịt của mình có khác không? Nhìn thấy tường tận da thịt của mình cũng như da thịt con heo, con bò vậy thôi. Đem tất cả bộ phận của con người để ra ngoài, tụi con ưa không? Khi nó tạm ổn trong thân lại lầm mê ưa thích nó!

Chúng ta đang gá tứ đại mà cho là mình rồi chấp chặt, mất thân này, chụp thân khác nên bị luân hồi sanh tử. Biết rõ tứ đại này không thật, không phải mình, là thức tỉnh, thoát khỏi trầm luân. Ông Táo khi thức tỉnh, rõ cục đất không phải mình liền sanh về cõi trời.

Biết thân không thật là một bước tiến, không còn đọa trong ba đường khổ, không đi trong lục đạo luân hồi, nhưng chưa phải là cứu kính. Phải thấy tâm này không thật nữa. Ngày nay nghĩ vầy, mai nghĩ khác, lăng xăng lộn xộn, chợt thế này, chợt thế kia. Nó là bóng, chạy theo sáu trần, duyên theo bóng sáu trần, không thật. Lâu nay chúng ta chấp nó là thật rồi hơn thua phải quấy đủ chuyện, lẩn quẩn trong đó hoài, thật là khổ sở.

Tuy vọng tâm là cái bóng không thật nhưng chúng ta chấp nó nên nó có khả năng tạo nghiệp. Ví dụ như mình khởi nghĩ đi cuốc một vồng khoai, đào đường mương, nghĩ vậy rồi đứng dậy đi lấy cuốc, lên vồng khoai, đào đường mương. Cái nghĩ không có hình dáng thật thể nhưng làm theo nó thì có luống khoai, đường mương thành hình, ai cũng thấy cụ thể. Bởi vậy, mọi việc chúng ta làm, thiện ác, tốt xấu đều gốc từ ý nghĩ mà ra.

Ý nghĩ là nhân, làm ác làm thiện là quả, quả đó là nghiệp nên nói nghiệp quả. Nghiệp lành, nghiệp dữ đều từ ý nghĩ mà ra. Khi tụi con còn ôm ấp những ý niệm tốt xấu, phải quấy, hơn thua thì có thể bình an được không? Khen chê, giận ghét đều do nghĩ tốt, nghĩ xấu mà ra. Có khen chê giận ghét thì tâm lăng xăng thật là bất an. Tâm bất an là điên đảo vọng tưởng, mà mình chấp thật.

Người đời chấp phải quấy hơn thua nên khổ nhiều, tạo nghiệp đi trong luân hồi, tụi con buông hết các thứ tâm đó tự nhiên được an ổn. Nếu một phút ngồi chơi không nghĩ gì hết, lúc đó có mình không? Những thứ tâm hư dối tạo nghiệp hư dối là chướng, là sanh tử luân hồi, không thật. Tu là sống với cái không hư dối, an ổn, thanh tịnh. Trong lúc ngồi chơi hay ngồi thiền, không nghĩ tốt xấu, phải quấy gì hết, trong lặng bình thản. Tụi con có một hai phút nào vậy không?

Như thế, khi không suy nghĩ mình vẫn hiện tiền. Cái suy nghĩ làm sao nói là mình được. Nếu lúc suy nghĩ là mình thì khi không suy nghĩ sẽ không có mình, nhưng thực tế, không suy nghĩ tụi con ngồi thảnh thơi tự tại. Suy nghĩ dấy lên thì có thương buồn giận ghét đổi mặt hoài hoài làm mình mệt. Khi chúng ta không nghĩ suy, tính toán gì, tai vẫn nghe mắt vẫn thấy như thường, đó là lúc mình tự tại an nhiên.

Như vậy, nơi mình cái thân tạm bợ giả dối, biết là giả dối, cái suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần cũng tạm bợ giả dối. Biết giả dối không theo là tụi con đã tỉnh. Lúc ấy mình vẫn nghe thấy, vẫn hiểu biết, đó là sống với cái thật. Cái thật hiện tiền hằng tri hằng giác đó có động không? Cái gì động là tướng sanh diệt, cái không động thì không sanh diệt. Giữa cuộc sống này, mượn trả là động, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần, nắm bắt cái này, bỏ chụp cái kia lăng xăng là động. Còn cái hằng thấy hằng nghe, biết, không lấy, không bỏ, làm sao nói động được.

Như vậy ngay nơi chúng ta có cái không sanh tử mà mình cứ bám vào sanh tử rồi đeo đẳng khổ sở. Thân này là bại hoại sanh tử, suy nghĩ là sanh tử, hai cái đó chúng ta cứ đuổi theo bám chặt, còn cái không sanh tử lại bỏ lơ. Tụi con nếu biết rõ cái không sanh tử hiện tiền, sống với cái đó ắt không có chuyện gì cãi vã với huynh đệ, ngồi thản nhiên ngắm mây trời chơi. Nếu tụi con không mắc kẹt nơi thân tâm thì ngồi chơi hay quét nhà, quét sân một cách tự nhiên, không có gì phiền muộn để phải nói, phải nghĩ. Vậy tụi con cả ngày có phút nào là không tu? Còn hiện nay tụi con chạy theo cái này cái nọ, dù nói là tu nhưng thật tu rất ít.

Bây giờ biết rõ, không bị cái giả lôi kéo, không lệ thuộc nó thì cái thật hiện tiền, không cần phải nói sống với cái thật.

Như vậy, ngay nơi thân tâm này biết cái gì giả cái gì thật tự nhiên tụi con đã có đường đi, không uổng một đời vô nghĩa. Bao nhiêu người ở thế gian sống lo cung cấp nuôi dưỡng thân tứ đại này, rốt cuộc nó cũng bại hoại. Nuôi dưỡng cái bại hoại thì có ý nghĩa gì? Bây giờ, biết đó là bại hoại nhưng mình vẫn nương nó, tạo điều kiện để trở lại cái không bại hoại, đó là biết tu, là sáng suốt, cuộc sống có lối đi.

Tu phản quan có nghĩa xoay lại tìm ra chính mình chớ không phải bắt bóng. Người đời tự cho mình sống thực tế, lo giữ thân này cho tốt đẹp, nhưng thân này ít chục năm rồi hoại, kiếm thân khác lại cũng hoại, đó là bắt bóng. Chúng ta ngay nơi thân bại hoại khéo nhận ra cái không bại hoại, sống an nhiên tự tại, đó là con đường sáng suốt bất sanh bất diệt người tu đang hướng về.

Nếu tụi con nghĩ mai kia mình cất chùa to, thâu đồ đệ nhiều, làm được việc này việc nọ thì dường như rất tốt, nhưng cũng là đi trong sanh diệt. Tu là vượt ngoài hai cái sanh diệt của thân tâm, sống một cách tự tại trong cái bất sanh bất diệt. Từ đó, hướng dẫn cho người khác cùng đi con đường bất tử này. Đó là cứu kính tột cùng của người tu, còn hình thức chùa chiền bổn đạo... chỉ là phương tiện. Quan trọng là sống với cái chân thật. Tụi con hiểu rồi sống đúng không lầm lẫn, đường tu của mình mới có giá trị chân thật, nếu không chỉ đua nhau tạo những hình thức đẹp. Ví dụ như Thầy cất chùa cao lắm trăm năm cũng hoại, còn cái chân thật nơi mình không bao giờ hoại.

Vậy nên tụi con ráng tu ráng tỉnh, phải nhớ thân này đang sống bằng vay mượn, nhớ tâm suy nghĩ hơn thua là bóng không thật. Luôn luôn nhớ như vậy, lần lần thắng nó, gọi là tỉnh, còn quên là mê. Khi quên, nói “ăn món này ngon bổ lắm nè, ăn món kia thì mình sống dai…”, vậy là giống như người thế gian không hơn không kém. Như vậy mê và giác ở đâu? Ở gần một bên, nhớ đúng là tỉnh giác, nhớ sai là mê. Đâu phải giờ lạy Phật, tụng kinh, ngồi thiền mới tu. Trong khi làm bếp, quét sân tụi con hằng nhớ, đó là tu. Tu như vậy thường xuyên, còn những giờ kia giúp mình tỉnh giác mạnh hơn thôi.

Thật ra giờ nào cũng là giờ tu. Trong chúng nếu tất cả đều thực hành như vậy thì không có gì lộn xộn, không hề bị rầy, không ai phiền não với ai. Sở dĩ tụi con còn phiền não chút chút là vì mình nhớ hơn thua phải quấy. Thấy người làm quấy tức liền sanh phiền não, chớ không biết rõ niệm hơn thua phải quấy là giả dối không thật. Tâm thản nhiên tự tại thì tụi con thảnh thơi suốt ngày, trên đường tu không bị trở ngại.

Hôm nay Thầy nói rõ để tụi con gỡ những điều chấp trước. Lâu nay tuy hiểu mà chưa tường tận, hoặc hiểu rồi nhưng chưa sống được, bây giờ phải sống đúng như thật. Được vậy, đời tu tụi con sẽ có giá trị.

Ngày 27-12 Giáp Tuất (27-1-1995)

Ngày thỉnh nguyện cuối năm, mỗi người thấy được lỗi lầm của mình đều ra thành tâm sám hối, đó là điều rất tốt. Tất cả đều tự ý thức những khuyết điểm của mình, cố gắng sửa đổi tu hành thì điều khuyết dở đó từ từ sẽ thành hay và tốt. Một khi tụi con biết đó là lỗi, ráng gìn giữ đừng cho tái phạm. Là con người ai cũng có lỗi, khi biết mình quấy nên gắng sửa, đừng để một lỗi nhỏ cứ tái phạm hoài, vô tình mình hứa suông, không tiến được. Cho nên, thấy lỗi là tốt, nhưng sửa lỗi lại cần thiết hơn. Thấy lỗi không sửa thì lỗi đó không bao giờ hết. Vì vậy thấy lỗi tụi con ráng sửa, đừng coi thường lỗi nhỏ, cứ phạm hoài không tốt. Đó là điều Thầy nhắc chung cho tụi con.

Qua một năm tu hành, tụi con kiểm nghiệm lại bản thân chắc có những bước tiến, dù không nhanh nhưng vẫn có. Bởi vì trên phương diện tu hành, nếu được thúc liễm một nơi và tu hành đều đặn thì ít nhiều cũng có tiến không nghi ngờ. Nhưng tiến vượt bậc hay chậm chạp là tùy theo khả năng, phước duyên của mỗi người. Thầy tin rằng tụi con bền bỉ nỗ lực tinh tấn tu hành tất sẽ có kết quả, không hổ thẹn mình đã làm một tu sĩ Phật giáo mà không tròn bổn phận. Tụi con ở trong khuôn khổ hơi bó buộc một chút, nhưng chính đó là phương tiện giúp cho mình tránh duyên bớt cảnh, có đủ thời giờ để nỗ lực tu. Nếu không có hoàn cảnh tốt đó, tụi con va chạm, xúc sự nhiều sẽ có những điều phiền hà, điên đảo.

Do đó ở đây cố gắng tối đa để giúp tụi con có thời giờ thúc liễm thân tâm, nghiền ngẫm đạo lý, xoay nhìn lại mình. Đó là gốc của sự tu hành, cũng chính là nền tảng giải thoát. Thầy mong tụi con qua một năm mỗi đứa kiểm lại có chút ít tiến bộ, đây là niềm vui để năm tới tụi con hay hơn. Tu càng lâu càng thấm, càng thuần thục. Vậy Thầy mong rằng tất cả tụi con đều cố gắng để có những bước tiến tốt và vượt bậc hơn những năm đầu.

Bây giờ Thầy có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Trước hết là nhắc nhở về hình thức. Ở đây ngồi thiền có khi chúng đông, hơi nồng, nếu không mở cửa sổ, ấm quá dễ bị ngủ gục, nên ban đêm chúng ta vẫn mở cửa sổ chừa cửa lưới, ban ngày cũng vậy, khi nào nắng mới treo màn. Tụi con nhớ các vị Tỳ-kheo ngày xưa ngồi dưới gốc cây tu đâu có sợ gió. Chính nhờ ở ngoài trống khoảng khoát nên ít buồn ngủ. Thường ngồi trong mùng dễ buồn ngủ lắm vì ấm chừng nào buồn ngủ chừng ấy, có gió mát lành lạnh, ngồi tỉnh táo hơn. Nhiều đứa dè dặt quá, sợ gió, đi đóng cửa lại làm cho trong chúng bị ngủ gục, trở ngại sự tu.

Tu là phải làm sao tạo cái duyên để mỗi ngày sức mạnh tinh thần càng tăng. Nếu tu ban đầu mạnh lần lần yếu đi, rồi trở thành người bạc nhược, không còn sức gượng vươn lên được, đó là uổng một đời tu. Tất cả chúng ta có phước lớn, có duyên lành nên mới ở trong đạo làm người xuất gia tu hạnh giải thoát. Nay được đến nội viện sống yên ổn tu, đó là điều kiện quá tốt để tụi con vươn lên. Trong hoàn cảnh này không vươn lên nổi thì làm sao đời tu tụi con đến nơi đến chốn?

Tụi con quyết tâm tu luôn luôn phải nhớ những điều thiết yếu này:

- Điều thứ nhất là ngày tháng qua, tuổi đời chồng chất, từ nhỏ trở thành người lớn rồi già, vô thường đuổi gấp từng giờ, cho nên mỗi khi nhớ chuyện gì bâng quơ, tụi con nên nghĩ vô thường nay mai không lường được, đâu rảnh nghĩ quanh quẩn. Nhớ vô thường, tụi con cố gắng vươn lên.

- Điều thứ hai là tụi con nhớ tới bản nguyện của mình. Mỗi người đi tu đều có ý chí và phát nguyện mạnh nên mới xuất gia. Đã có ý chí và bản nguyện thì luôn luôn phải nhớ tới nguyện của mình, tu hạnh giải thoát để độ cha mẹ, thân nhân và chúng sanh. Nguyện vọng đó vô cùng to lớn, không thể nào chần chờ, không thể nào để mất thời giờ vô ích được. Nhớ như vậy để cố gắng không quên, không lùi.

- Điều thứ ba, mình đi tu một ngày là sống nhờ một ngày. Tỳ-kheo có nghĩa là khất sĩ, hay nói cách khác là ăn mày của thí chủ để nuôi thân, ăn mày chánh pháp của Phật để nuôi giới thân tuệ mạng. Như vậy chúng ta luôn luôn là kẻ nợ của thí chủ, kẻ nợ của Phật pháp. Nợ của thí chủ là mỗi ngày chúng ta nhận thức ăn của họ giúp, nợ chánh pháp là từ Phật Tổ đến Thầy luôn luôn khuyến khích dạy dỗ tụi con tu hành. Như vậy tụi con có bổn phận đền ơn Phật, Thầy Tổ, đền ơn đàn-na thí chủ, không thể nào chần chờ. Phải thấy mình có trách nhiệm rất nặng, cố gắng vươn lên chớ không thể nào thả trôi.

Tụi con nhớ, người tu là người chèo thuyền vào biển khổ. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao cho chúng sanh hết khổ. Muốn chúng sanh hết khổ thì tụi con phải ráng tu, tự mình giải hết các phiền não nghiệp chướng bản thân, rồi mới cứu khổ cho người. Nếu trong thời gian này được yên ổn tu, tự tâm tụi con không giải tỏa được những buồn phiền u uẩn chứa chất ở trong thì mai kia tụi con ra Viện, phải đương đầu với mọi việc phức tạp, làm sao tụi con yên ổn, làm sao có sức mạnh vươn lên được? Vì vậy trong thời gian yên ổn tu hành, mọi việc đều không bận tâm, tụi con nên nỗ lực tiến tu, đừng phí thời giờ vô ích. Đó là bổn phận tụi con phải làm, không lôi thôi được.

Thật tình nếu đi sâu trong đạo pháp, tụi con sẽ thấy Phật pháp cao siêu không thể lường biết được. Những gì thế gian cho là quí thật ra là tạm bợ, một thời gian sẽ bị bại hoại rồi mất. Chỉ có chánh pháp của Phật mới thật cao quí, siêu thoát, đưa chúng ta từ mê lầm tới giác ngộ, từ con người sanh tử tới giải thoát.

Tụi con có được phước duyên sống trong Phật pháp. Có phước duyên như vậy thì không được buông tâm chểnh mảng, để tâm chạy quẩn quanh mà phải dồn hết nghị lực, đem hết tâm vào sự tu hành. Phải làm sao trong đời này nếu không giác ngộ hoàn toàn, ít ra cũng phải giải thoát phần nào, như vậy mới tròn bản nguyện của mình, xứng đáng giá trị người tu. Nếu mình tu sơ sài, lơ là chỉ uổng một đời không đi đến đâu.

Tất cả tụi con từ lớn tới nhỏ phải luôn ý thức những điều Thầy nhắc. Một là nhớ vô thường đuổi gấp, không thể chần chờ được. Hai là nhớ chí nguyện của mình từ ban đầu, vì lý do gì đi tu, đã đi tu phải làm tròn bản nguyện. Ba là nhớ ơn Phật Tổ, ơn thí chủ, làm sao đền được ơn đó xứng đáng bổn phận người xuất gia, đừng nghĩ mình đi tu để được yên thân, ai khổ mặc ai. Điều thứ tư, thấy Phật pháp là cao quí, cứu mình hết mê lầm, hết sanh tử, được cái cao quí đó rồi, mình nhận, sống trọn vẹn rồi đem cái quí đó chỉ dạy cho mọi người.

Đó là bốn điều Thầy nhắc tất cả tụi con, phải ý thức và nhận rõ, đừng bỏ quên uổng mất thời giờ.

Ngày 13-2 Ất Hợi (13-3-1995)

Hôm nay Thầy nhắc cho tụi con các chứng bệnh và chỉ những thứ thuốc để người nào có bệnh thì dùng thuốc mà trị.

Bệnh thứ nhất Thầy gọi là bạn bè. Bệnh này kiểm tra lại Thầy thấy các nơi chỗ nào cũng có. Đặc biệt Thiền viện Trúc Lâm này Thầy chủ trương phải dứt bệnh đó. Tụi con thử nghĩ, nếu thân với người khác phái bị trói buộc một trăm phần trăm thì đối với bạn bè cùng phái mà thân, ít nhất cũng bị trói buộc bảy mươi phần trăm.

Tụi con phát nguyện tu hành, trong buổi lễ xuất gia và khi cạo tóc quí Thầy thường nhắc: Ở thế gian gia duyên bận bịu nên không tinh tấn tu hành được, xuất gia mọi duyên được sạch, tu hành mau giải thoát. Chúng ta tránh duyên trói buộc thế gian nên đi tu, khi vào chùa rồi vô tình hay cố ý lại tạo duyên trói buộc mới, như vậy là không làm đúng mục đích và sở nguyện của mình. Tụi con nên biết, khi bị trói buộc rồi phiền não cũng theo đó sanh, không bao giờ an ổn.

Thầy từng nói, thời gian Thầy ở đây với tụi con không dài lắm, cho nên ngày nào còn có mặt Thầy nên cố gắng tu, đừng để những trói buộc cản trở sự tu tập của mình. Đến chừng Thầy trăm tuổi, chỉ mong tụi con đủ khả năng đủ điều kiện để làm Phật sự, làm lợi ích cho người, nhất là truyền bá Thiền tông Việt Nam. Vì sở nguyện đó Thầy không muốn một ai ở trong đây còn những trói buộc phàm tình, nên Thầy dứt khoát chủ trương không có bạn bè thân thiết. Nếu có bạn bè trói buộc sẽ trở ngại đường tu. Giả sử ở đây mười, hai mươi năm cũng không có kết quả gì, uổng mất một chỗ dành cho người tạo duyên trói buộc vô ích, trong khi những người khác chờ chực xin vào tu không được.

Trói buộc đâu phải một mình mình, thêm một người thứ hai cũng bị trói buộc. Nếu không gỡ cho dứt, không sắp xếp thì sẽ thêm những cặp khác. Đó là bệnh thâm căn cố đế của con người. Bởi vậy tụi con phải biết cái khó của Thầy, dứt khoát không dung dưỡng những thứ phàm tình này. Đối với tụi con là người có chí xuất trần, phải gỡ không để bị trói buộc. Nếu bị trói buộc thì chúng ta chỉ có tu cái đầu chiếc áo còn tâm niệm không tu.

Do đó phải dứt khoát. Ai có những ý niệm trói buộc phải cởi, phải cắt. Nếu để đó tụi con sẽ phạm lỗi lớn là trái với sở nguyện xuất gia ban đầu. Lỗi lớn thứ hai là phiền Thầy tốn công tốn của mà không có kết quả trên đường tu. Đó là hai điều tụi con phải tránh.

Bây giờ muốn dứt được bệnh thâm căn cố đế đó phải làm sao? lấy thuốc gì để trị? Tụi con nhớ ngài Huyền Giác có nói câu: “Thường độc hành, thường độc bộ, đạt giả đồng du Niết-bàn lộ.” Mình tu hạnh giải thoát phải đi một mình, bước một mình. Những người như vậy là “đạt giả”, là thấu suốt, cùng tiến lên đường Niết-bàn. Không thể trên đường giải thoát mà hai ba người nắm tay nhau đi.

Tụi con muốn tu tiến phải dứt khoát không để bị trói buộc vì bạn bè, vì tâm luyến ái. Như vậy mới giải thoát sanh tử, làm lợi ích cho chính mình và cho mọi người. Muốn trị được bệnh đó thì vừa có niệm thương mến người này, trói buộc người kia, liền nhớ mục đích mình tu là giải thoát sanh tử, nếu có trói buộc là ngược với giải thoát. Lấy giải thoát trị bệnh trói buộc. Vì muốn giải thoát nên phải dứt mọi dung dưỡng trói buộc. Đó là thuốc trị bệnh trói buộc về bạn bè luyến ái.

Thứ hai là trên đời này ai cũng có bệnh tư hữu. Tư hữu là có của riêng, ai cũng muốn mình có của riêng. Người Phật tử cũng ưa như vậy, nên cúng gì cũng muốn cúng riêng. Bệnh này xảy ra rất nhiều, chùa nào cũng thế, có thầy có cô được cúng dường rất sung túc, còn có thầy, cô khác lại khô rang. Quen bệnh tư hữu tức là muốn có của riêng, ai cũng có Phật tử riêng, tài sản riêng.

Tụi con thử nghĩ, ở trong chúng bốn mươi, năm mươi người, người này có của nhiều hơn người kia, người kia thấy so bì, rồi tìm cách làm sao cho có như người ta. Bằng cách này cách nọ chiều chuộng Phật tử để họ giúp cho. Người này sắm đồng hồ, người kia cũng sắm, người này có máy cassette, người kia cũng muốn có; đua nhau sắm mà không làm ra tiền tự nhiên phải chiều chuộng Phật tử để họ mua cúng. Như vậy làm cho sự tu hành của mình trở thành yếu đuối và kẹt trong lợi dưỡng. Đó là điều không tốt.

Bây giờ ở Thiền viện Trúc Lâm Thầy chủ trương lục hòa. Trong lục hòa, cái cuối cùng là lợi hòa đồng quân, đó là phá tan tư hữu, cái gì cũng chia đồng nhau, không được hơn kém. Ví dụ ở đây mỗi người được ba đôi vớ, đứa nào có người cho thêm một đôi hoặc tự đan một đôi là vô tình phá vỡ tinh thần lục hòa. Có một người khác hơn thì mọi người sẽ đua theo, cứ như vậy mà so bì. Đó là bệnh tư hữu, đua nhau về hình thức vật chất. Khi hình thức vật chất nặng, tinh thần đạo đức theo đó mà giảm kém.

Bởi vậy, Thầy ra lệnh Quản chúng phải nghiêm nhặt đừng để phá lục hòa. Nếu lục hòa mất, sự tu hành sẽ suy giảm, yếu đuối., vì ai cũng nặng về vật chất, có của tư phải gìn giữ. Người không có thì đòi hỏi, nhiều khi đòi hỏi không được lại móng tâm trộm cắp, sanh ra những hư dở trong chúng. Vì vậy Thầy quyết tâm thực hiện cho được lục hòa.

Đây là bệnh lâu đời của nhiều người, bây giờ muốn sửa trị hết sức khó. Nên tụi con thấy ở đây dường như những cái hơi chi li, nhỏ nhặt cũng bị rầy bị nhắc, vì Thầy muốn thực hiện cho được lục hòa. Tụi con ở đây đói có cơm ăn, rách có áo mặc, tất cả mọi thứ không thiếu không dư. Dư mất công giữ, thiếu mất công tìm cực khổ; không thiếu không dư khỏe biết mấy! Chỉ có một việc yên ổn tu, đừng mong muốn gì khác thì tụi con thật nhẹ nhàng, không bận tâm, không lo lắng.

Tụi con nên dồn hết sức, hết tâm lực trong một việc tu, đừng nghĩ phải sắm cái này mua cái kia. Nếu áo rách đến Tri sự xin cái khác, vớ rách đem đến Tri sự xin đôi vớ khác, khỏe biết chừng nào, không có gì là xấu xa. Như thế tốt cho tụi con, cho tập thể mình. Không vậy, có ai đó tự ý xin gia đình hoặc xin bạn bè gởi tới, rồi có dư, sanh tâm nhìn ngó nhau, đây là điều không thể chấp nhận. Thế nên Thầy ra lệnh, ai cho cái gì đều trình Quản chúng nhập kho, người đó thiếu thì xuất trong kho cho, chớ không được nhận riêng tư. Nhận riêng tư thành thói quen cũng như các nơi khác, không hơn không kém.

Sở dĩ chư Tăng chư Ni ở các nơi không hòa hợp với nhau là tại sao? Vì thiếu lục hòa, người này đố kỵ người kia, người kia tranh giành người nọ, do đó tinh thần lục hòa bị mất đi. Khi tụi con sống ở ngoài chị này giàu, chị kia nghèo, nhưng vào đây rồi Thầy muốn ai cũng như nhau, không giàu, không nghèo, không dư, không thiếu, để tụi con an ổn tu hành. Mỗi mỗi đều nghĩ đến sự tu thôi, không bận bịu, không lo lắng gì cả. Thầy muốn tụi con dồn hết tâm lực vào sự tu, muốn tụi con sống trong tình huynh đệ bình đẳng.

Về mặt vật chất, chúng ta không bị trở ngại, sống chung không có ghét bỏ nhau vì tranh hơn tranh thua. Đó là điều Thầy muốn tất cả tụi con phải làm được. Dù một vật nhỏ mà không đồng nhau, có hơn có khác cũng không nên. Ai thiếu hoặc hư cái gì đem trình Tri sự xin cái khác. Nếu Tri sự không đáp ứng được, cho Thầy hay hoặc thưa trong những buổi thỉnh nguyện, chẳng hạn như: “con rách đôi vớ, xin nửa tháng Tri sự không cho”, Thầy sẽ rầy hoặc nhắc. Nếu tụi con không chịu xin, âm thầm gởi thư chỗ này chỗ nọ xin là không tốt, làm trái nội qui ở đây. Đó là điều Thầy nhắc tất cả tụi con phải nhớ.

Bệnh này cũng trầm trọng, thâm căn chớ không phải bệnh thường. Muốn trị bệnh này tụi con phải nhớ đây là bệnh tư hữu, muốn hết tư hữu là phải xả. Ngày xưa Phật tu trước hết làm hạnh Bồ-tát, xả thân, xả của cải... sau mới thành tựu đạo quả. Tụi con nếu còn có ý riêng tư, phải tập tánh hỉ xả, buông bỏ tất cả, không có gì quan trọng. Có cơm ăn, áo mặc, sống như vậy quá đủ, chỉ lo gìn giữ sự tu hành không để bị thối chuyển.

Bệnh thứ ba là thị phi. Nghĩa là ngoài giờ tụng kinh ngồi thiền ra, hai ba người ngồi lại nói người này phải, người kia quấy, chỉ trích linh tinh, đó là bệnh. Bệnh này rất nặng. Ngày xưa chư Cổ đức có nói: “điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan”, chỉ khối sắt biến thành vàng ngọc dễ hơn khuyên người ta đừng nói thị phi. Như vậy, thị phi là bệnh hết sức khó chữa, nhất là bên phái nữ tụi con.

Khi chúng ta nói lỗi người này, chỉ trích người kia, chê người nọ, tâm mình an không? Hay là nó đang chạy lui về quá khứ, chạy góc này, góc kia? Bởi thế, người hay nói thị phi tâm thường dao động, chao đảo, bất an. Vậy phải ráng bỏ tâm thị phi, ngôn ngữ thị phi. Chỉ nên nghĩ hiện giờ tu hành ra sao, có bệnh gì để chừa bỏ. Biết được khuyết điểm của mình để tu sửa, đừng lo chuyện của người.

Ở đây ai có lỗi thì Ban lãnh chúng có bổn phận nhắc. Nếu Thầy thấy, Thầy nhắc và dạy, còn tụi con chỉ có một chuyện ráng nỗ lực tu. Bao nhiêu thời giờ là để tụi con tu, không phải để bàn tán vô ích. Bởi vì những chuyện đó càng bàn tán càng tăng phiền não chớ không có lợi gì. Muốn tu có kết quả, mọi cái chướng đó tụi con phải bỏ, đừng nên giữ. Đó là điều hết sức khó, tụi con ráng tập, ráng tu.

Muốn bỏ bệnh thị phi phải dùng thuốc gì? Dễ lắm, chỉ dùng tâm hiện tại thôi. Mọi cái quá khứ vị lai của ai không màng tới, sống với hiện tại thôi. Ngay nơi đây, mình thấy, nghe, sống; còn cái gì qua rồi thôi, không chứa chấp, không lưu giữ. Kéo lôi quá khứ lại chỉ thêm phiền hà loạn động, bây giờ tụi con sống ngay niệm hiện tại này là đủ. Nếu sống tâm hiện tại, tụi con không còn phiền não, tự nhiên hết thị phi. Nên muốn trị bệnh thị phi thì phải sống với niệm hiện tại. Chỉ niệm hiện tại này là “nhất niệm vạn niên”, tất cả thứ khác đều buông bỏ, như vậy tụi con mới tiến.

Bệnh thứ tư là tật đố, nghĩa là thấy ai có gì hơn mình thì ganh ghét, châm biếm, nói nặng nói nhẹ để cho người ta bực bội. Đó là bệnh tật đố, người nào cũng có. Ai thua mình thì khinh khi, sanh ngã mạn, ai hơn mình liền ganh ghét sanh tật đố. Bệnh này rất khó trị.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Khi thấy người bố thí, mình vui vẻ trợ giúp sẽ được phước rất lớn.” Có thầy Sa-môn hỏi rằng: “Phước ấy có hết không?” Phật dạy: “Thí như lửa của một cây đuốc, vài trăm ngàn người đều đem đuốc đến mồi lửa để nấu ăn hay thắp sáng, cây đuốc kia vẫn như cũ. Phước người bố thí cũng như thế.” Như vậy mới thấy công đức tùy hỉ ngang bằng công đức người bố thí, mà phước người bố thí không bị chia sớt.

Tại sao tùy hỉ nhẹ quá mà phước lớn như vậy? Người làm lành phải ra công ra của, còn người tùy hỉ chỉ có một niệm, đâu ra công của gì mà được phước bằng người kia? Bởi vì người bố thí bỏ đi lòng tham, người phát tâm tùy hỉ dứt được tâm tật đố. Tật đố là cố tật rất khó chừa. Người có bệnh tật đố khi mình dở không làm được việc, bị chê, thấy người khác làm được việc bèn gièm pha, nói này nói nọ, khiến cho họ buồn chán không làm nữa.

Tâm tật đố không tốt, tụi con phải biết dè dặt. Khi nào có niệm chê trách, gièm siểm người hơn mình, đó là tâm tật đố đang hiện ra, phải dừng lại, phát khởi tâm tùy hỉ. Nếu có ai làm việc tốt cho chúng, mình vui tùy hỉ thì cũng được phước như vậy. Tật đố làm gì cho người ta phiền não, mà mình lại tổn phước! Như vậy, muốn trừ tâm tật đố phải lấy pháp tùy hỉ để trị.

Tóm lại, bốn bệnh trên sẵn có nơi con người từ lâu đời lâu kiếp, gọi là thâm căn cố đế. Nay muốn trừ bỏ để tu hành cho được trong sạch phải y bốn pháp:

- Nếu là bệnh cặp bè bạn, tụi con dùng mục đích giải thoát để tự nhắc nhở mình.

- Nếu bị bệnh tư hữu phải dùng tâm buông xả trị. Thái tử Tất-đạt-đa hồi xưa bao nhiêu của cải còn bỏ, ngày nay mình chưa có đòi cho có, giữ làm gì, phải xả.

- Nếu bị bệnh thị phi phải dùng ngay một niệm hiện tại, mọi việc trong quá khứ hay ở đâu đó đừng lôi kéo trở lại, sanh phiền não.

- Nếu sanh bệnh tật đố nhớ dùng pháp tùy hỉ để trị.

Tụi con nhớ dùng thuốc trị bệnh, lần lần bệnh sẽ dứt. Nhưng phải uống cho đúng mức, đừng uống cầm chừng không hết bệnh. Nếu tụi con hằng dùng thuốc, hằng tu như vậy, Thầy hi vọng sẽ tiến và đạt kết quả trên đường tu. Tất cả chớ có chần chờ! Mong tụi con cố gắng!

Ngày 30-2 Ất Hợi (30-3-1995)

Toàn chúng có tinh thần tự giác sám hối để sửa lỗi, cố gắng tu hành, đó là điều tốt.

Hôm nay Thầy có ít lời nhắc nhở chúng. Trước khi nhắc nhở, Thầy nói sơ lại chuyện chùa Vạn Phật ở bên San Francisco của ngài Tuyên Hóa. Chuyến đi Mỹ vừa rồi Thầy không tới đó, nhưng quí vị đi về có kể lại Thầy nghe.

Ngày trước người Mỹ lập một bệnh viện tâm thần trên một ngọn núi tốt. Làm xong rồi, các kỹ sư tìm mạch nước không ra. Nếu người bệnh lên đó ở đông mà không có nguồn nước để xài thì bệnh viện không thể hoạt động được. Các kỹ sư đành bó tay tìm không ra mạch ngầm. Vì không có nước nên muốn bán cũng không ai dám mua. Cuối cùng Hòa thượng Tuyên Hóa vận động mua, cả bệnh viện như vậy chỉ có một đồng bạc. Người ta bán tượng trưng, cho không được vì nguyên tắc phải bán. Hòa thượng mua rồi dẫn người đi đào giếng, chỉ chỗ nào cũng có nước. Điều này khiến cho mọi người rất tin tưởng Hòa thượng.

Hòa thượng về đó lập chỗ tu hành, vừa tọa thiền, vừa tụng kinh, niệm Phật, trì chú. Tu cũng miên mật lắm, đặc biệt là không nằm ngủ. Ngồi thiền rồi chừng nào ngủ ngồi tại chỗ ngủ luôn, không có nằm. Ngày ăn chỉ một bữa đúng ngọ, sáng và chiều không ăn. Vậy mà vẫn có rất đông người tới tu, mới thấy rằng người quyết tâm thì không sợ khó, không sợ khổ. Mọi người bên Mỹ đều tán thán đó là nơi tu hành chân chánh. Hòa thượng cũng đi giảng các nơi, người ta quí mộ lắm.

Như vậy để thấy rằng chỗ chuyên tu của người ta vừa ăn rất ít, ngày một bữa, vừa là ngủ ngồi, mà người ta còn dám thực hiện ở xứ văn minh. Chúng ta ở đây tối được nằm dài ngủ mấy tiếng đồng hồ, ngày ăn tới hai ba bữa cũng còn thấy thiếu. Đó là chỗ dở của mình. Cho nên Thầy nói để tụi con hiểu sự tu hành cần đặt nặng ý chí, đừng nghĩ rằng phải ăn ngủ nhiều mới đủ sức khỏe. Ở đây Thầy rất dung hòa chớ không cực đoan.

Bây giờ Thầy dẫn câu chuyện trong kinh A-hàm để nhắc nhở chúng. Câu chuyện này Thầy kể nhiều lần, nhưng chỉ thiểu số được nghe, đa số chưa nghe.

Trong kinh, đức Phật kể: Có nhà vua, một hôm ra lệnh cho người tử tù đi qua một con đường. Vua cho bày những trò vui, nào là ca hát, ăn uống, sắc đẹp, nào là những trò chơi vui lạ thích thú dọc hai bên đường. Ông đưa cho người tử tội một dĩa dầu đầy, bảo đi từ đầu đường này đến cuối đường kia, không để rơi một giọt dầu nào sẽ tha cho tội tử hình, ngược lại nếu đổ một giọt sẽ bị chém đầu. Được nhà vua ra lệnh như vậy, anh liền bưng dĩa dầu đầy đi từ đầu đường này đến cuối đường kia.

Trong khi những trò vui chơi đúng với sở thích bày ra đầy hai bên đường, anh chàng tử tù đi có dám ngó qua ngó liếc lại nhìn những cái đẹp, cái lạ đó không? Hay chỉ chăm chú nhìn vào dĩa dầu không dám lơi lỏng, để mong đi tới cuối đường được khỏi tội tử hình? Giả sử tụi con ở trường hợp đó sẽ xử làm sao? Luôn luôn biết sau lưng mình có chú lính cầm gươm bén, chỉ cần sơ sẩy đổ một giọt dầu là bị chặt đầu ngay, thử hỏi còn lòng dạ nào ngó những điều hay lạ thích thú chung quanh.

Đó là câu chuyện thí dụ, bây giờ đức Phật hợp pháp: Anh chàng tử tội đó là chúng sanh hiện nay. Chúng ta đang bị treo án tử hình, dài thì sáu mươi đến tám mươi năm, ngắn thì ba mươi, bốn mươi năm, có người chỉ mười mấy năm hoặc ba bốn năm, ai cũng bị tuyên án tử hình. Còn tất cả trò vui ở hai bên đường là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bày ra chung quanh.

Sáu trần thật hấp dẫn, nhưng nếu chúng ta biết sợ chết thì khi bưng dĩa dầu đi, mình không dám lơi lỏng. Dù cho có thứ hấp dẫn mấy đi nữa cũng không dám để ý tới, chỉ dồn hết tâm lực vào dĩa dầu.

Chàng tử tội là chúng ta, còn dĩa dầu là pháp tu mình đang ứng dụng. Pháp tu dạy chúng ta luôn luôn phải tỉnh giác, đừng dính với sáu trần. Dính sáu trần là quên pháp tu. Cũng như vậy, mình ngó xung quanh thì quên dĩa dầu, mà quên dĩa dầu để bị đổ là chú lính chặt đầu ngay. Chú lính dụ cho quỉ vô thường, lúc nào cũng chực sẵn chặt đầu mình, không phải đợi đến cuối đường. Chúng ta thử kiểm lại một năm bao nhiêu người chết có phải toàn người già không? Có người già chết, có người trẻ đau chết hoặc bị tai nạn chết. Vô thường đến bất cứ lúc nào.

Tụi con có chú lính đứng bên cạnh rình không? Vậy mà tụi con thường nhớ chú lính cầm gươm bén đứng sau lưng mình chực sẵn, hay nhớ những chuyện tào lao bên ngoài? Do nhớ dĩa dầu, sợ chú lính nên tâm không chạy bậy. Bây giờ dĩa dầu không nhớ, chú lính cũng quên luôn, cho nên dính với sáu trần, nghe ca lắng tai nghe, thấy đẹp chú mắt nhìn, biết ngon để ý tới, cho nên dĩa dầu tụi con bị đổ hoài, chú lính đả thương mấy phen rồi phải không?

Tất cả những cám dỗ không ngoài sáu trần, còn pháp tu đưa mình tới giải thoát sanh tử nên nói khỏi tội tử hình. Chúng ta đủ điều kiện để khỏi tội tử hình mà cũng đủ điều kiện bị tử hình. Điều kiện bị tử hình là quên pháp tu và quên chú lính vô thường. Điều kiện khỏi tội tử hình là nhớ dĩa dầu và nhớ chú lính cầm gươm đang đứng sau lưng.

Nay tụi con muốn cho mình không bị bệnh phóng đãng, lơi lỏng chạy đây kia, thì lúc nào cũng phải nhớ pháp tu của mình, nhớ kiếp sống vô thường đâu có gì lâu bền chắc chắn. Hôm nay còn, ngày mai chưa chắc an ổn. Vì vậy mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm nhớ vô thường đuổi gấp, cố gắng tu đừng để bị sáu trần cám dỗ làm cho xao lãng. Nếu bị sáu trần lôi cuốn, xao lãng pháp tu thì quên chú lính vô thường, từ con người muốn thoát sanh tử trở lại lao vào sanh tử.

Trên đường tu ai cũng có quyền giải thoát sanh tử tùy theo tâm niệm của mỗi người. Nếu người vào đạo quyết tu giải thoát, ghi nhận rõ đường lối tu hành rồi đem hết tâm tư thực hành, nhớ vô thường luôn luôn chực sẵn bên mình, lơi lỏng là chết, do đó không để tâm buông lung chạy theo ngoại cảnh. Đôi khi tụi con thấy đời sống bình an vui vẻ, chợt quên chuyện tu, quên đi vô thường, tâm chạy theo cảnh, rồi trầm luân muôn kiếp.

Vì vậy, khi tu tụi con phải luôn nhớ cuộc đời hết sức tạm bợ, sanh ra trên đời này dẫy đầy đau khổ. Nếu chúng ta chần chờ thả trôi thì có ngày cái khổ sẽ đến, chừng đó mình giải quyết không kịp. Vậy nên luôn nhớ tinh tấn tu không lười trễ, không dám lơi lỏng phút giây nào. Đó là điểm chủ yếu của người quyết tu giải thoát. Nếu khởi tâm buông lung lơi lỏng thì trên bước đường giải thoát không tiến lên được.

Đây là lời Thầy nhắc lại cho tụi con nhớ. Kinh Phật đã dạy như vậy để chúng ta biết mà gắng tu cho được giải thoát. Hãy cố gắng tinh tấn, đừng bỏ quên, đừng lơi lỏng! Dầu cho đời này chưa đi đến cuối đường nhưng cũng đi được nửa đường hoặc hai phần ba đường chưa hề đổ một giọt dầu nào, tu như vậy có thể bảo đảm sẽ đạt được mục đích giải thoát không nghi.

Ngày 28-3 Ất Hợi (27-4-1995)

Hôm nay Thầy nhắc toàn chúng một điều cần thiết. Khi tu nếu tụi con có những điều lạ, bất thường phải cho Thầy hay, hoặc tu có gì trục trặc, đừng e ngại, nói Thầy biết để Thầy sửa cho. Vì ở đây Thầy là người trực tiếp chỉ dạy tụi con, nếu có gì trục trặc không thưa, có gì hay không nói, Thầy biết đâu mà dạy. Chẳng hạn đến thưa: “Con tu như vầy, ngồi không yên tại lý do gì?” Cần nói rõ Thầy biết để Thầy chỉnh, tránh các bệnh do dụng công tu mà phát khởi. Hoặc khi tu thấy được cái gì hay, cũng cho Thầy biết để Thầy khuyến khích hoặc kềm chế đừng đi quá trớn. Đó là điều rất thiết yếu.

Nếu tụi con lẳng lặng không thưa không trình, nhiều khi mỗi người tu mỗi cách, một lúc ở đây loạn xạ, không biết tu cái gì, tu theo ai. Bởi vậy, phải có đường lối cụ thể, khi ứng dụng tu phải trung thành với đường lối đó. Đừng nên cái nào cũng bắt chước, cái nào cũng học, rốt cuộc không có đường lối tu gì hết, đó là điều không tốt.

Do đó, ở đây giả sử có vị nào tới nói chuyện, tụi con cũng nghe để học hỏi kinh nghiệm, nhưng đường lối của mình vẫn phải rõ ràng, tu có gì trục trặc phải thưa với Thầy, có gì tiến triển tốt nên trình Thầy biết. Như vậy là tụi con trung thành với đường lối tu của Thầy. Ngược lại, nếu tu lơ mơ không có kết quả gì, rồi khen chê... là không tốt, không làm đúng sở nguyện của Thầy. Thầy đã từng nói với tụi con nhiều lần, thời gian Thầy còn có mặt không dài, tất cả những gì Thầy muốn làm đều đã dồn hết vào Thiền viện Trúc Lâm này để lo cho đến nơi đến chốn.

Hiện nay Thầy đang lo dịch một số tư liệu đời Trần để giảng dạy, rồi tạo điều kiện in ra sách để có tư liệu Phật giáo Việt Nam, đó là trách nhiệm thứ nhất của Thầy. Kế đó là trách nhiệm hướng dẫn tụi con tu tập. Sau hết là tuy Thầy đã đi trước tụi con nhiều, nhưng đối với Thầy chưa phải là xong việc, nên Thầy cũng phải cố gắng tu, làm sao đến khi nhắm mắt Thầy có thể làm chủ được phần nào, không hổ thẹn mình là người đi trước.

Thầy thường thí dụ, người tu giải ngộ hoặc chứng ngộ giống như người ở xa muốn đi lên núi. Nếu chúng ta ở dưới miền Tây muốn lên ngọn núi Bà Đen, nghe lời người chỉ đường đi qua khỏi Sài Gòn, tới khoảng Trảng Bàng ngồi trên xe đã thấy núi. Như vậy chúng ta nhìn thấy núi nhưng đã biết tường tận chưa? Lúc ấy mình chỉ mới thấy dáng núi xanh ở xa xa chớ chưa rõ tường tận. Đó là Thầy thí dụ cho những người giải ngộ, thấy nhưng chưa tới. Kế đến tiếp tục đi tới chân núi, đó là dụ cho những người chứng ngộ. Rồi phải có thời giờ đi từ chân núi lên đến tận chóp núi, chừng đó mới gọi là người xong việc. Cho nên đừng nói ngộ là rồi.

Chúng ta tu từ chỗ không biết gì, nay thấy biết được là đã tiến bộ. Từ thấy biết một cách sơ sài, chúng ta ráng tu cho tới khi thấy được tường tận. Trong nhà Phật dùng chữ kiến tánh rất rõ nghĩa. Kiến tánh là thấy được bản tánh, chữ thấy đây không phải thấy bằng mắt mà là nhận ra như chuyện trước mắt, không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc này mình đã đến tận nơi, thấy rõ ràng ngọn núi, tuy vậy vẫn chưa là người tới chóp núi, còn phải dày công nữa.

Cho nên Thầy thường nói, Thầy hiểu được đường lối tu nhưng việc làm của Thầy chưa phải là xong. Vì vậy, trong khi hướng dẫn chúng và sưu tập tài liệu để giảng dạy, Thầy còn có bổn phận phải ráng tu, làm sao khi còn sống được an vui khỏe mạnh, lúc nhắm mắt được tự do. Do đó trách nhiệm của Thầy rất nặng. Thầy không có thời giờ nhiều, mỗi ngày Thầy đi hai vòng quanh Viện là để cho có sức khỏe và trông chừng các việc, cũng để tất cả mọi người chung quanh đây thường thấy Thầy mà cố gắng tu, chớ không phải Thầy rảnh rỗi, vì còn bao nhiêu việc cần phải làm.

Nay tụi con biết rõ đường lối và việc làm của Thầy, tất cả nên cố gắng, ráng giữ làm sao trong thời gian ở đây, ai cũng nỗ lực tinh tấn đúng theo nề nếp Thầy đã đặt sẵn. Sống được như vậy là hay tốt rồi, còn thêm gì hơn quá sức tụi con thì Thầy không dám đòi hỏi.

Sở dĩ Thầy buộc tụi con phải sống theo lục hòa là vì Phật dạy lục hòa là gốc của Tăng. Chữ Tăng tiếng Phạn là Sanga, dịch là hòa hợp chúng, tứ chúng hòa hợp lại là Tăng. Như vậy, sống hòa hợp với nhau gọi là Tăng. Tụi con nhìn lại các nơi có được sự hòa hợp không? Hay mỗi người đều có hướng đi riêng, có của cải riêng, không ai hòa hợp với ai. Nhiều khi còn cãi lẫy, chỉ trích nhau, cho tới chùa này không vui với chùa kia... Đó là làm tinh thần hòa hợp Tăng bị giảm sút.

Hiện nay tụi con chưa dạy ai, chưa hướng dẫn được ai thì chính tụi con phải có tinh thần hòa thuận, trên dưới đều có hướng đi chung. Chẳng hạn như hồi nãy có người giữ đồng hồ mà không trình, chuyện đó nhỏ xíu thôi nhưng là cái mầm không tốt. Ở đây tất cả chúng không ai có đồng hồ. Mọi việc đều có giờ giấc, tới giờ nghỉ, giờ làm, lúc tu... đều đánh kiểng báo. Chỉ thực hành đúng là được rồi, có đồng hồ làm gì cho mất công giữ. Đã có người lo rồi, mình đừng để ý nữa, như vậy tự nhiên được yên ổn.

Cái đồng hồ là nhỏ, không đáng, nhưng nó là của riêng, tư hữu. Từ chỗ tư hữu đó tụi con sẽ so bì với nhau: “chị đó có, mình không có”, sanh ra những đòi hỏi không đáng. Cho nên từ chuyện nhỏ tụi con đều phải giữ gìn bình đẳng như nhau.

Ở đây đời sống dường như là khô khan, nhưng nhờ vậy không bị mắc kẹt tình cảm huynh đệ, từ từ tụi con sẽ thấy sống như thế là an ổn. Cái khô khan đó thành tựu rồi, tự nhiên tụi con có lòng từ bi vô hạn. Vì nếu còn thương một số ít người, tình thương đó sẽ bị hạn chế trong phạm vi nhỏ. Còn mình đối với ai cũng đều là huynh đệ, thương như nhau, không dính người này kẹt người kia, tới khi tâm thanh tịnh mới khởi lòng từ bi bình đẳng thương hết chúng sanh được.

Nếu sống ướt át kẹt ở một hai người tức đang ở trong trói buộc, là gốc của phiền não, làm sao khởi được lòng từ bi để có tình thương rộng lớn? Chính nhờ cái khô khan bước đầu đó, tụi con phát triển được lòng từ bi. Nếu được thương mến chiều chuộng, tụi con mới thấy vui, đó là vui trong trói buộc, gốc của đau khổ chớ không phải vui trong đạo thuần túy. Cho nên ở đây Thầy bắt tụi con sống rất khô khan, nghĩa là làm hết bổn phận của mình trong giờ công tác, tụng kinh, tọa thiền, đúng như Thầy sắp đặt. Đó là tốt rồi, còn làm thêm được gì thì tùy khả năng.

Tụi con phải hiểu rõ đường lối chủ trương của Thầy để cố gắng thực hiện cho được. Thầy đang trông đợi tụi con tu chớ không muốn tụi con mất thời giờ vô ích. Bước đầu là phải thực hiện được những gì Thầy sắp xếp. Kế đó tụi con vươn ra khỏi những chuyện tầm thường. Nếu bước đầu tụi con không làm được thì những nguyện vọng cao xa ngày mai chỉ là ảo tưởng, dù ở đây một trăm năm cũng không có lợi gì.

Đây là lời Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng!

Ngày 27-4 Ất Hợi (26-5-1995)

Qua tinh thần thỉnh nguyện, lúc này Thầy thấy trong chúng khá tốt, ít phạm lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Hôm nay Thầy chỉ nhắc vài điều.

Điều thứ nhất: T.T. sám hối nhưng vì bệnh tiếp tục xin dùng thức ăn trái thời. Thầy gọi là “xin” chớ không phải “sám hối”. Tại sao vậy? Vì sám hối là chừa bỏ, nay chưa bỏ được thì chỉ xin phép chúng cho dùng trái thời, lý do trị bệnh. Tụi con nhớ, khi nào sám hối là ngang đó không phạm nữa, còn tiếp tục làm thì không nói sám hối.

Điều thứ hai: Theo như trong bản Thanh qui, chúng ta quyết tâm tu theo tinh thần của ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà, gọi là sống đạm bạc. Gần đây tụi con thấy mình có ăn uống đạm bạc không? Đa số là không, như vậy mình có lỗi gì? Đó là điều Thầy muốn nói cho tất cả tụi con hiểu. Chúng ta tu đúng ra là nguyện sống đạm bạc từ ăn mặc, nghỉ ngơi..., mọi thứ vừa phải, hơi thiếu thiếu chớ không cho dư. Nhưng gần đây ở Thiền viện, Phật tử cúng liên miên, ăn uống đầy đủ, thành ra không đạm bạc chút nào. Nếu căn cứ theo bản Thanh qui, vậy là nói và làm không như nhau.

Bây giờ Thầy nói cho tụi con hiểu, Phật tử thương chúng ta, nhất là ở Thiền viện Trúc Lâm, khép mình trong khuôn khổ để tu, không có một chút tài sản riêng tư, ngoài những bữa cơm chánh không có gì khác. Như các nơi, Tăng Ni có tiền bỏ túi, cần gì thì mua dùng nên người ta không thương nhiều. Còn ở đây Phật tử thương mình thiếu thốn, sợ sanh bệnh nên xa gần đều tìm tới cúng dường. Nếu Phật tử đến cúng dường, chúng ta có vẻ thờ ơ hoặc từ chối, người ta sẽ buồn. Tụi con thử đặt mình vào tâm trạng người cúng, nghe ai tu hành tốt mình thương, muốn giúp đỡ mà họ lại từ chối, tụi con sẽ hiểu cái buồn này.

Cho nên chúng ta sống thế nào vừa tu được, vừa gây thiện cảm với Phật tử, gieo duyên với họ, để mai kia mình ra làm Phật sự được mọi người ủng hộ. Nếu chúng ta nghĩ mình chỉ tu thôi, rồi chối từ tất cả duyên của những người đến giúp mình, họ sẽ cho là chúng ta tự cao ngã mạn không cần ai, đó cũng là cái chướng, mai kia ra làm phật sự không được. Vì vậy, trong Thanh qui Thầy ghi “sống đạm bạc”, nhưng Phật tử đến cúng Thầy cũng vui vẻ nhận.

Khi người ta nhiệt tình đem vật thực hay tiền bạc tới cúng, mình hoan hỉ, điều đó làm cho thí chủ vui, như vậy Phật sự của mình mới vuông tròn. Nếu mình làm cho họ buồn nản, mất lòng tin là không tốt. Do đó, tụi con nên hiểu kỹ, mình không bao giờ đòi hỏi, nhưng với hảo tâm người ta cúng thì phải nhận.

Trong kinh A-hàm, Phật dạy: Có lần chư Tăng đến một nơi nọ an cư, vùng đó dân chúng ủng hộ, cúng nhiều quá đến nỗi chư Tăng ăn không hết, thừa thãi, buộc lòng Phật bảo đổ ở dưới để chư Tăng đi qua. Phải nhận cho người ta vui chớ không được từ chối, nên Phật bảo làm như vậy để thí chủ thấy phẩm vật họ đem đến chúng Tăng nhận hết.

Đó là hoàn cảnh quá đặc biệt, còn chúng ta ở đây chưa đến nỗi dư quá như vậy, chỉ đủ ăn, thư thả một chút thôi. Tuy trong Thanh qui Thầy nói sống đạm bạc mà ở đây thỉnh thoảng có những bữa ăn ngon, là do lòng thương của Phật tử, không phải Thầy vận động. Nếu người ta có lòng thương nghĩ đến Tăng Ni mà mình làm mất cảm tình, mất lòng tin, tức là gieo duyên không tốt.

Cho nên khi nào tụi con làm bếp hoặc làm Tri khố, có ai cúng dường phải nở nụ cười hoan hỉ, còn bực bội là gieo duyên không tốt. Cũng đừng bao giờ than: “Chúng tôi ở đây thiếu thốn quá!” Cả hai thái độ đó đừng bao giờ có. Nếu người đem vật thực đến cúng dường, nghe tụi con thố lộ những lời đó họ sẽ thối tâm, vô tình tụi con tạo duyên “khô rang”, mai mốt không ai giúp. Tụi con ráng cẩn thận dè dặt, ai đem tới giúp mình ít nhiều đều hoan hỉ nhận. Cho nên khi Thầy thấy người ta chở bắp cải đến cúng, để ở nhà khách đã hơi khô khô mà hai bên nội viện chưa lấy là Thầy rầy ngay. Người ta gởi đến với lòng thành, mình phải nhận cho họ vui, đừng bày trước mắt không đem cất người ta buồn.

Thầy có trách nhiệm nên phải nói rõ cho tụi con hiểu, đừng nên lộ ra những hành động, lời nói làm Phật tử buồn lòng, trong khi họ có tâm tốt đối với mình. Những thái độ chúng ta biểu hiện ra bên ngoài nói lên sự tu của mình.

Đến đây Thầy nhắc thêm về sự tu thiền. Chúng ta không chỉ ngồi yên một chỗ tu, mà trong hoạt động cũng tu. Nếu ngồi yên mới tu thì thiệt thòi trong khi hoạt động. Cho nên mình làm sao khi ngồi yên tu, hoạt động cũng vẫn tu. Hai thời đó không khác nhau mới hay. Tụi con thấy ngồi thiền hai tiếng đồng hồ là nhọc nhằn khổ sở hay quí báu? Ngày xưa, ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:

- Đến đây tính cầu việc gì?

- Thưa, con đến cầu Phật pháp.

Mã Tổ nói:

- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?

Ngài Huệ Hải lễ bái, thưa:

- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?

Mã Tổ nói:

- Chính nay ông hỏi ta, là kho báu của ông, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Nói như vậy Mã Tổ cho rằng nơi chúng ta ai cũng có kho báu. Ngồi thiền là quay lại tìm kho báu nhà mình. Kho báu mình có mà giờ đây bị bụi đất phủ lấp, bây giờ ngồi lại đào xới tìm cho ra. Như vậy thời gian chúng ta bới tìm là giờ quí hay thường? Nếu kiếm ra được kho báu, mình là ông trưởng giả, nên giờ phút đó rất quí.

Ngoài đời, người ta đi làm việc được số tiền kha khá, họ còn sợ mất sở nên phải đi đúng giờ, làm rất siêng năng. Nay chúng ta đang tìm kho báu, kho báu này chắc chắn có sẵn, chỉ cần bươi hết rác thì sẽ thấy nó. Như vậy giờ bươi rác để bày ra kho báu là vàng ngọc, chúng ta đâu có lôi thôi được. Vậy mà nhiều khi ngồi thiền lại trông kiểng xả thiền. Mình biết kho báu đã gần được thì còn muốn đốt đèn cố bươi tìm cho mau thấy. Chúng ta tìm được kho báu, làm Phật sướng biết chừng nào, quí gấp trăm gấp ngàn lần kho báu thế gian. Như vậy, giờ ngồi thiền là giờ phi thường, quí vô cùng, đừng nghĩ là tầm thường.

Khi tụi con ngồi dẹp bỏ rác để bày châu báu ra, nếu ai đánh kiểng sớm lẽ ra tụi con buồn. Đang làm việc trọng đại như vầy mà cho nghỉ sớm uổng quá. Đừng bao giờ ngồi chờ kiểng, vì đó là giờ tìm kho báu, nếu chờ thì đâu còn nghĩa tìm kho báu nữa, lại giống như làm thuê làm mướn trông mau hết giờ. Đây là làm cho mình, mình biết gần tới nơi ai biểu nghỉ đâu có chịu.

Bây giờ kiểm điểm lại, tụi con làm thuê cho ai, hay là đang tìm kho báu của mình? Thầy giàu sẵn đâu cần làm mướn cho Thầy, chính tụi con làm cho bản thân mình. Đó là chuyện trọng đại tụi con tự phát nguyện không phải do Thầy xúi giục. Tự tụi con muốn tìm cho ra kho báu nhà mình, nên phát nguyện vào chùa. Thấy tụi con phát nguyện mạnh, sợ lâu ngày xao lãng, tìm không được uổng cả cuộc đời, Thầy buộc lòng tạo duyên cho tụi con tới đây, bảo bọc và khuyến khích tụi con dành hết thời giờ tìm cho ra. Thầy chỉ bảo hộ cho tụi con tìm, không phải thuê tìm cho Thầy, nhớ như vậy! Bảo hộ nhắc nhở là trách nhiệm của Thầy, còn nỗ lực là việc của tụi con. Tìm được kho báu tụi con lấy ra xài chớ Thầy không xài của tụi con được.

Hiểu cho thật kỹ, khi ngồi tu mới vui với việc mình đang làm. Lâu lâu có người tìm được kho báu thích thú la lên, hoặc có người báo thấy dấu hiệu gì, hoặc gặp chút đất ướt... chứng tỏ đã đào gần tới kho báu rồi. Tất cả phải cố gắng đừng để Thầy kêu mới đào, không hối thúc thì ngồi nghỉ. Đó là việc của chính tụi con.

Thầy chỉ có hai trách nhiệm: Bảo hộ cho tụi con yên ổn ngồi đào, và nhắc nhở khi thấy tụi con mỏi mệt: “À, gần tới rồi, gắng đào sẽ được.” Phần chủ yếu là tụi con phải nỗ lực, hăng hái. Kho báu tụi con sẵn có, chắc chắn có. Trong khi đào, thỉnh thoảng có một hai dấu hiệu, biết đã gần đến mà không rõ còn bao xa, tụi con hăng hái đào sẽ được kết quả tốt, chắc chắn không nghi, vì Phật Tổ có nên chúng ta có. Phật Tổ được, Thầy lóe thấy được, tụi con đào sẽ được. Cái gì mình làm mù mờ, không có bằng chứng mới e ngại; còn trước mình Phật Tổ đã được và hiện tại Thầy cũng được phần nào, tụi con nỗ lực chắc chắn sẽ được.

Đó là điều hết sức cao cả và quí báu. Tụi con thấy ở thế gian, người ta đi bòn từng chút vàng, có khi nguy hiểm mà cũng đi làm. Còn mình ở đây có kho vô tận, không nguy hiểm gì hết, ngồi đào xới một mình, không ai rầy rà giành giật, lại còn được cho cơm ăn áo mặc, thiếu gì cho nấy. Như vậy quá tốt rồi, chỉ gia công làm việc cho mình mà không chịu làm thì dại khờ cỡ nào? Phải chi làm cho ai đó nên họ lo, còn ở đây làm cho mình mà người ta phải lo phụ. Thầy khuyến khích, sách tấn, còn Phật tử đem lương thực đến cúng, cần gì đều chu cấp đầy đủ. Đào cho mình mà ai cũng giúp đỡ, khuyến khích, dỗ dành. Vậy mà không chịu đào!

Nếu tụi con lơ là không nỗ lực là khôn hay dại? Thầy nói rõ cho tụi con hiểu đó là việc quan trọng của mình. Người khác tuy biết nhưng làm chưa được, nay thấy mình đang làm họ ủng hộ, mình phải ráng làm cho được, vừa lợi mình mà mọi người cũng hoan hỉ. Nếu mình lơ là, bản thân uổng đi một đời, thiên hạ cũng mất lợi lạc. Do đó, việc làm này vừa lợi mình lợi người, hết sức quan trọng, tụi con phải nỗ lực.

Giờ ngồi thiền là giờ vàng ngọc chớ không phải thường. Một phút qua là mất đi một phút quí báu. Ở ngoài người ta làm có tiền họ mừng, còn đối với chúng ta giờ ngồi thiền rất quí, phải vui thích hơn cả người được tiền! Tụi con hiểu vậy rồi, khi sửa soạn đi ngồi thiền cảm thấy hoan hỉ, không phải làm việc không công vô ích. Nếu người ta bắt mình làm một việc vô ích, mình mới chán nản uể oải; đằng này, làm ích lợi cụ thể cho mình sao không chịu hăng hái? Hiểu cho thật kỹ, rồi tụi con cố gắng làm cho được.

Hôm nay Thầy nhắc nhở cho tất cả nhớ. Kho báu tìm được rồi sẽ thành trưởng giả chớ không phải con ông trưởng giả!

Ngày 13-5 Ất Hợi (10-6-1995)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay thấy toàn chúng chỉ có lỗi nhỏ không có gì quan trọng, chứng tỏ tinh thần tu hành có tiến bộ, lỗi lầm mỗi ngày có giảm thiểu. Đó là điều đáng mừng.

Bây giờ Thầy nhắc vài điều. Tất cả người tu cũng như người thế gian, thường do thời tiết hoặc ăn uống không hợp với cơ thể sanh ra bệnh. Những bệnh đó tuy nặng nhưng dễ trị, chỉ có bệnh buồn bực là khó trị. Tụi con thường kinh nghiệm, khi nào bực bội chán nản thấy người mệt liền. Bệnh này uống thuốc không hết. Nếu cơ thể hơi suy nhược, thêm bệnh buồn chán tự nhiên sẽ thành trầm trọng, thuốc gì trị cũng không lành. Bởi vậy người tu nếu khéo một chút, giả sử cơ thể có chừng ba mươi đến bốn mươi phần trăm bệnh, tụi con có thể vượt qua được. Nếu tu không khéo, có những chuyện buồn rầu ôm ấp trong lòng, bệnh từ ba mươi bốn mươi sẽ tăng lên sáu mươi bảy mươi, nhiều khi cả trăm phần trăm nữa.

Vì vậy Thầy nhắc tụi con, người biết tu phải dẹp hết các thứ buồn phiền, chán nản, bực bội, bởi vì việc hơn thua, phải quấy, tốt xấu ở trong huynh đệ không có gì quan trọng hết. Cái quan trọng hiện giờ tụi con đang lo là đào lấy kho báu. Thầy nhắc lại ý kỳ trước, biết dưới đất có kho báu, nay bị người đổ bê tông bao bọc chắc quá nên phải đục từng chút, lần lần nó bể hết, kho báu mới bày ra. Khi tụi con tin tưởng vào kho báu mình đang tìm, giả sử có ai đi ngang chọc ghẹo, nói nặng nói nhẹ, tụi con không nên để ý tới, coi như trò chơi. Việc quan trọng mình phải đạt được là đào đem kho báu lên, ngoài ra mọi thứ đều không đáng kể. Như vậy mới là người biết dồn hết khả năng sức lực vào việc đáng làm.

Lúc mình đang đào, nếu có người tới nói lời trái ý liền bực tức buồn phiền rồi buông cuốc, như vậy cả đời cũng không đào được cái gì. Khi tụi con biết chắc có kho báu và dồn hết vào một việc, bảo đảm sớm muộn gì cũng thành tựu. Ngược lại, còn lăng xăng bên ngoài, chưa dồn hết tâm lực thì khó mà có kết quả được.

Ở thế gian người ta làm cả đời để sắm đồ quí hoặc cất nhà, mua xe. Do công khó cực khổ mới tạo nên nhà cửa, xe cộ, hoặc những món đồ quí trong nhà, nên trong lòng thường sợ mất. Cái nhà thì sợ cháy, sợ sập, xe cộ sợ hư, đồ quí sợ ăn cắp, lúc nào cũng lo sợ. Còn kho báu của tụi con tìm được rồi có sợ ai ăn cắp hay giành giật không? Nếu mọi người đua nhau tìm của báu như chúng ta thì có hại gì cho thế gian không? Người thế gian khi được của báu, thường sợ người trộm cắp, sợ kẻ ghét ghen, còn của báu này không bị tranh giành cũng không bao giờ mất.

Như vậy, so hai trường hợp: cả đời lo sự nghiệp thế gian và cả đời lo tìm kho báu nhà mình, cái nào quí hơn? Dù cho người đời được thỏa mãn ước nguyện về vật chất, ước nguyện đó không bao giờ thật sự thỏa mãn, cũng không tin tưởng được lâu dài. Trái lại, tụi con khi làm xong việc mình rồi thì bảo đảm trăm phần trăm. Cũng như Thầy tuy chưa lấy trọn kho báu như Phật Tổ, nhưng một chút đó không ai giành được, xài mãn đời không hết.

Như vậy tụi con mới thấy, cái của mình tìm lại được không thể mất, nếu có ai bắt chước mình còn mừng hơn. Ở thế gian khi đi buôn hoặc làm cái gì có tiền, thường sợ người khác bắt chước, sợ mất sở, mất bạn hàng; còn chuyện này ai đua làm, mình càng mừng. Đây là một việc làm trọn vẹn, nhận được rồi không mất, không ai có thể giành giật với mình, nếu có người muốn bắt chước lại càng tốt. Một việc làm hữu ích cho mình và người khác như vậy mà tụi con không cố gắng thật là phí uổng.

Cuộc sống chúng ta chỉ có mấy mươi năm, thời gian làm việc tốt và quí báu không nhiều, nếu tụi con không khéo, để cho những chuyện vui buồn chen vào sẽ không đủ thời giờ để làm việc. Vì vậy, biết việc này cao quí, cả cuộc đời mình phải tìm cho ra thì mọi cái tầm thường không quan trọng tụi con phải gác qua một bên, được vậy mới mau thành tựu. Đời tu muốn đạt được kết quả, đừng để những chuyện lăng xăng chi phối, đến khi già nhớ lại buồn và hối tiếc là mình đã phí thời giờ.

Đời tu cao cả biết bao! Có nhiều người già muốn tu mà không tu được, nên họ cúng dường lễ bái tụi con. Ở thế gian có ai lớn tuổi mà lễ bái người nhỏ tuổi không? Bây giờ tụi con tu, người ta thấy quí, họ không làm được như tụi con nên họ lễ bái. Điều đó càng khích lệ mình phải ráng làm tròn hơn nữa.

Tụi con thấy tất cả người đời làm cái gì cũng muốn được lợi, hưởng lợi. Còn ở đây chúng ta làm việc cho mình, lợi hưởng trọn vẹn mà người ta lại quí mình. Nếu tụi con tu đắc đạo cũng đắc đạo cho mình, vậy mà Phật tử đem cơm gạo đến cho tụi con ăn để tu. Tụi con làm một việc cả thiên hạ đều quí, như vậy là chọn đúng hay sai? Nếu sai chắc không ai ngó ngàng đến. Làm việc không ý nghĩa thì dù cho mình chết cũng chẳng ai để ý tới; còn đây là việc hi hữu rất có nghĩa lý nên nhiều người ủng hộ. Khi mình đang làm chưa được kết quả gì, người ta vẫn thương quí lo lắng, đủ thấy rằng việc làm của tụi con hết sức quan trọng và cao thượng.

Tụi con đừng để cho những thứ tầm thường vô nghĩa lý phá hoại sự cao cả của mình.

Gần đây, tụi con thuần thục theo nề nếp Thiền viện nên sống hòa vui và ít phiền não. Ít phiền não thì ít ai than thở bệnh hoạn, ít có ai gương mặt dàu dàu thở dài.

Đó là điều Thầy muốn nhắc cho tụi con, đường tu là con đường hết sức có ý nghĩa. Rất nhiều người đang mong mỏi, muốn thực hiện mà chưa được nên tán dương phù trợ cho mình làm để họ bắt chước. Vì vậy tụi con phải cố gắng tận tâm tận lực làm cho được việc, vuông tròn sở nguyện của mình, đồng thời những người thương quí mình cũng thỏa mãn, đạt được sở cầu. Nếu chúng ta lơ là, đến ngày trăm tuổi cũng không tới đâu. Đó là hủy hoại đời mình vô ích, cũng phụ lòng mong cầu của những người đang trông chờ mình.

Vậy nên tụi con ráng tu, chính là tu cho tụi con, lại còn giúp người thân, người thí chủ phát tâm theo. Đó là tự lợi và lợi tha. Không đợi tụi con tu thành Phật Tổ rồi sau mới dạy người, chỉ cần hiện tại tụi con làm được là người ta đã phát tín tâm rồi. Ngược lại, nếu ở đây mười, hai mươi năm cũng như thuở xưa không tiến thêm một bước nào, không có cái gì hay, thì những người trông đợi tụi con sẽ thất vọng và chính tụi con cũng không được gì, đó là tổn hại cho cả hai. Mong tất cả tụi con cố gắng.

Câu chuyện buổi chiều

Tu thiền mới nhìn qua thấy như vừa khổ vừa tiêu cực: tu không được nói cười nhiều, không làm việc từ thiện xã hội, cứ ngồi im lìm giờ này qua giờ khác như tượng gỗ. Sự thật, tu thiền là khám phá ra con người thật của mình. Ở đời người ta khám phá vũ trụ, hành tinh này, hành tinh kia; mình ở đây ngồi im lặng để khám phá ra mình là cái gì. Người khám phá được cái gì mới lạ gọi là phát minh, còn khám phá ra mình là cái gì, đó là mục tiêu của người tu thiền. Cho nên ngồi lặng lẽ mà lúc nào cũng tỉnh sáng để thấy rõ chính mình, đó là trọng tâm tu.

Bình thường quí Phật tử làm công kia việc nọ, mắt thấy cảnh, tai nghe âm thanh, lưỡi nếm hương vị, cứ lo chạy theo mấy cái đó mà quên mất mình. Tu thiền cốt quay lại mình, dừng hết những cái bên ngoài. Lúc bận rộn lăng xăng khó thấy niệm khởi, khi ngồi thiền nhờ quay lại mình thấy rõ từng niệm khởi.

Ã

Bây giờ hỏi quí Phật tử, ngày mồng 9 tháng giêng là ngày cúng sao giải hạn, quí vị có đi chùa không? Quí vị cúng sao để làm gì? có phải để cầu bình an không? Chuyện đó giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Phật tử vào chùa cúng sao, tụng kinh rồi đọc tên của mình xin thần thánh chứng minh để gia hộ bình an. Giả sử, cúng sao rồi ra đường có người nói trái ý, mình la hét, đánh mắng họ thì có bình an không? Như vậy, an không phải là ở cúng sao, chỉ cần tu cho tâm lặng lẽ, sáng suốt thì được bình an. Bỏ năm mươi, bảy mươi ngàn đồng cúng sao, về nhà có ai nói trái ý, mình la hét om sòm, gia đình có bình an không? Cầu như vậy là không đúng lẽ thật, muốn bình an phải ngay nơi tâm mình.

Trong kinh nói tâm mình có ba thứ độc là tham, sân, si. Bây giờ Thầy đổi lại là si, tham, sân. Đây là ba thứ độc, chúng hại mình không phải ở đời này mà ở vô số đời khác nữa. Ba độc này còn hại hơn ba con rắn độc, nên Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

- Nếu trong thất các ông có ba con rắn chui vào, các ông nằm ngủ có yên không?

- Dạ, không yên.

Phật hỏi:

- Làm sao mới yên?

Các vị Tỳ-kheo trả lời:

- Khi nào đuổi ba con rắn ra hết mới yên.

Như vậy, chúng ta có ba độc trong người thì không bao giờ có sự bình an. Muốn bình an phải đuổi ba con rắn độc ra, không chịu đuổi ba con rắn độc mà cứ lo cầu an thì không thể được. Đó là một vấn đề phải khéo sáng suốt, nhận định chín chắn. Người ta bảo phải nhẫn nhịn để đuổi nóng giận. Thường khi bị ai chọc giận, quí vị nhẫn, một lần, hai, ba lần, rồi không chịu nổi nữa, nổi nóng la lên. Đó là nhẫn mà còn có chừng mực.

Bây giờ Thầy chỉ cách đuổi rắn sân một cách nhẹ nhàng. Nếu quí Phật tử làm gì quấy hoặc tội lỗi, người thân hoặc người không thân chỉ lỗi cho thì nên giận hay nên cám ơn?

- Dạ, nên cám ơn.

Mình có lỗi, người ta chỉ lỗi cho mà còn giận, như vậy có đạo đức, có biết phải quấy không? Người tu phải biết việc phải quấy, ai chỉ cái dở cho mình và nói lẽ thật thì phải cám ơn, sám hối và chừa bỏ. Luôn luôn biết và nhớ như vậy thì con rắn sân đã đuổi ra được. Nhất là người nhỏ hơn mình chỉ lỗi, mình vẫn không sân mới hay. Với người lớn thì dễ, chớ người thấp hơn chỉ lỗi, mình không tự ái mà còn cám ơn mới là thứ thật. Đó là bước thứ nhất.

Bước thứ hai, nếu mình không có điều sai quấy mà người khác xác định mình có lỗi, phải làm sao? Trường hợp này hơi khó. Nếu xét kỹ mình không lỗi, không quấy mà người ta nói mình quấy thì lời nói đó sai. Lời nói sai tức người đó không sáng suốt, nghĩ sai, vậy thì chấp làm chi. Thí như vào bệnh viện tâm thần, có những người gặp mình cứ chửi. Mình không giận, chỉ thương họ. Nếu có người giận la lại, người này cũng bệnh tâm thần giống như người kia. Khi người nghĩ và nói bậy, mình sân với họ thì mình cũng bậy luôn. Chỉ nên thương người đó đã nghĩ sai, nói bậy, như vậy sẽ không giận tức và được an vui. Mình sáng suốt, thấy người ta sai quấy đáng thương, còn ăn thua với họ thì mình cũng sai luôn.

Quí Phật tử, khi chúng ta quấy có người chỉ lỗi, mình nên sửa và cám ơn họ. Còn trường hợp mình không lỗi, người ta nói có lỗi, mình nên thương họ chớ không giận hờn. Nếu vậy, cái sân có còn không?

- Dạ, không còn.

- Vậy là quí! Như vậy Phật tử đã đuổi được con rắn hổ lửa rồi. Muốn cầu bình an phải dẹp mấy cái độc đó, đem lại sự bình an cho mình và người. Trong gia đình có bất hòa là tại sao? Tại người này sân, người kia cũng nóng rồi cãi nhau hoài. Nếu trong gia đình mọi người không nóng nảy, biết hối cải lỗi lầm của mình và tha thứ lời nói sai quấy của người khác thì gia đình đó sẽ bình an. Mình và gia đình bình an, đó là thật sự cầu nguyện, chẳng nguyện ở đâu mà nguyện ngay nơi mình. Sao quí vị cứ tìm cầu ở đâu xa xôi, chẳng chịu tìm cầu nơi chính mình? Mình chính là nhân tạo ra sự bất an mà không biết. Hiểu vậy là biết tu.

Trong ba con rắn, năm nay tôi chỉ dạy đuổi một con thôi, còn hai con, năm tới tôi sẽ dạy đuổi, mỗi năm dạy đuổi một con. Nếu đuổi hết ba con rắn, quí Phật tử tuy chưa phải Thánh cũng là bậc Hiền. Tu là như vậy. Ngồi thiền rất tốt, nhưng trước phải đuổi ba con rắn độc xong ngồi mới yên, còn ba con rắn đó ngồi không thể yên. Đang ngồi chợt nhớ hồi nãy có người nói nặng mình, bực tức ngồi không yên. Đuổi ba con rắn độc ra rồi tu pháp môn nào cũng được. Muốn về Cực Lạc thì niệm Phật vãng sanh, còn tu thiền cũng dễ được an định.

Ã

Gá thân mộng, dạo cảnh mộng”, thân này chỉ là tạm nương gá, sống ở đời cũng như dạo qua các cảnh trong mộng. Người thấy thân thật và cảnh thật, ra đi rất khó. Vì thấy thật nên sắp chết thương người thân, tiếc tài sản ra đi không đành; còn biết nó là mộng, khi ra đi chỉ cười.

“Mộng tan rồi, cười vỡ mộng”, tụi con thấy được vậy thì cuộc đời sẽ đơn giản. Thân mộng, cảnh mộng, khi bỏ thân này ra đi là tan mộng, vỡ mộng, vui vẻ mà đi.

“Ghi lời mộng, nhắn khách mộng”, Thầy viết bài kệ đó là ghi những lời trong mộng.

“Biết được mộng, tỉnh cơn mộng”, câu này Thầy đắc ý nhất. Thí như tụi con ngủ mê, thấy cảnh này cảnh kia, khi biết nói “đó là cảnh mộng” tức tỉnh cơn mê. Thân này là mộng, biết được mộng thì hết mộng, không khó khăn gì.

Tụi con nhiều khi tu có tiến bộ một chút, ra ngoài thấy cảnh thật, thân thật rồi phiền não lại len vào. Nếu thấy thân mộng và người mộng thì có gì phiền não! Những thứ hơn thua, phải quấy là trò chơi, không có nghĩa lý gì. Người ta có chửi, mình cũng nằm ngủ khò. Giả sử bây giờ có ai chửi tụi con, tụi con vào nằm ngủ được không? Chắc là không ngủ yên được, trằn trọc suốt đêm, đó là do thấy thân thật, nên mọi hành động, ngôn ngữ đều thật hết. Chúng ta phải dùng trí tuệ thấy hành động và ngôn ngữ hư dối, không thật thì mới hết phiền não.

Không có Thiền sư nào thấy cuộc đời này thật hết. Ví dụ, ngài Vạn Hạnh thấy thân như điện chớp... Nói đi nói lại cũng phải dùng trí tuệ chân thật để nhìn kỹ, thấy tường tận cuộc sống là hư dối. Tụi con còn nhỏ, mới mấy chục năm chưa thấm mùi đạo nên thấy thân là thật. Còn Thầy thấy thân là mộng lâu lắm rồi chớ không phải đến bảy mươi tuổi mới thấy. Tụi con khéo ứng dụng đúng lời Phật dạy, đó chính là tu, không phải giờ ngồi thiền mới tu mà lúc đi đứng nằm ngồi cũng đều nhớ lẽ thật. Tu trong mọi hành động là thường nhớ được lẽ thật.

Nếu thấy thân là mộng, dù có ai chửi bới hay nói nặng đều không giận. Bản thân không có giá trị thì lời nói đâu quan trọng gì. Biết vậy sự tu hành sẽ không bị trở ngại. Còn thấy thân thật, khi người ta làm nặng, mình làm nhẹ thì chịu, ngược lại không vui; người ta được khen mình bị chê cũng buồn. Cái gì cũng buồn tất phiền não nảy sanh, dễ thối tâm Bồ-đề, trái lại thấy gì cũng như như sẽ không thối tâm Bồ-đề. Cuộc đời là huyễn có gì đâu mà buồn, giận. Sở dĩ người ta phiền não, khổ đau là tại chấp mình thật, hết chấp thì còn chuyện gì buồn. Cho nên học kinh điển đầy bụng, nếu không ứng dụng được, phiền não vẫn phiền não, ứng dụng được sẽ thảnh thơi nhẹ nhàng. Nên học giáo lý chỉ là nhắc đi nhắc lại cho tụi con thấm.

Các vị Thiền sư nói, giống như Phật dạy. Đức Phật thấy các pháp duyên sanh như huyễn, không có gì thật nên Ngài sanh tử tự tại, còn mình thấy thật nên sống chết không được tự do. Vì thấy thân thật nên sợ bệnh, chết, sợ người khinh bạc, sợ tai nạn, sợ bị chê cười... đủ thứ sợ nên khổ. Lo sợ là nhân đau khổ. Nay thấy nó không thật còn gì đâu mà lo sợ. Không lo sợ nên không khổ. Tụi con phải khéo tu. Mỗi tháng Thầy dạy hai lần cũng như vậy, nhắc hoài mỗi ngày cũng bấy nhiêu đó, không có gì lạ. Học trò đi học ôm cặp vô trường nghe dạy nhưng không hành, học là để dành, còn mình nghe thấm rồi ứng dụng, đó là học để tu.

Tu khỏi thi cử gì hết, đứa nào tu được thì đậu, đứa nào tu không được là rớt chớ không có thi. Ai nghe lời Phật Tổ dạy khi gặp duyên xúc cảnh tự tại thản nhiên là đậu. Nếu không được vậy, dù có thuộc lòng và trả bài đúng cũng chưa đậu. Đó là chủ trương của Thầy rõ ràng. Mấy đứa nghe, biết rồi ứng dụng tu, không cần thuộc lòng từng câu từng chữ, chỉ cần hiểu rõ để ứng dụng, khéo sống, đó là biết tu. Làm sao đi tới đi lui lúc nào cũng tươi như hoa, dù đau bệnh rên hừ hừ vẫn tươi không héo, rên mà tươi chớ không phải rên mà héo, vậy mới hay. Còn tu mà buồn rầu, ngồi đâu bí xị đó là không tốt, là triệu chứng bất thường. Người ta nói, Thầy nói chuyện hay cười quá, cười cũng là thói quen của Thầy! Cái cười đó đâu có thiệt thòi, thấy cuộc đời không nghĩa lý gì, không có chi quan trọng nên cười hoài.

Cũng như có vị Thiền sư tới Thiền viện, ông nói cười vui quá làm ồn trong chúng. Thầy Tri sự thưa Hòa thượng: “Có vị Thiền khách mới tới nói chuyện làm ồn trong chúng.” Hòa thượng gọi ông lên hỏi có phải vậy không, ông thưa: “Dạ, phải.” Hòa thượng nói: “Sao ông không có oai nghi vậy?” Ông bạch Hòa thượng rằng: “Bạch Hòa thượng, cuộc đời là mộng, mà con muốn sống mộng vui hơn là mộng buồn!” Nghe vậy Hòa thượng chỉ lắc đầu cười. Tụi con thấy người xưa như vậy đó, vui trong cái thấy được lẽ thật chớ không phải vui trong nói cười náo động.

Ã

Ai đến đây cũng nói cảnh này giống cảnh tiên, nhưng mấy cô tiên ở đây lâu lâu lại muốn xuống trần tục phải không? Do khởi tâm quyến luyến trần tục nên xách gói đi. Bởi vậy ở đâu mãi người ta cũng không bằng lòng. Đó là tâm trạng của Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhập Thiên thai rồi lại nhớ trần tục trở về. Đến khi muốn trở lại Thiên thai không được. Tại sao vậy? Vì về trần tục rồi quên đường lên Thiên thai. Cũng như vậy, ai quyến luyến trần tục rồi, trở lại tu hành không được.

Bởi vậy tụi con phải gan dạ. Người xưa quyết tâm tu, ở núi non, sống rất đạm bạc, mấy mươi năm không chán, luôn luôn nhìn lại mình thấy chỗ nào khuyết, chỗ nào ưu. Nếu khuyết còn thì chinh phục, đâu có rảnh để nhớ bà con, thân bằng quyến thuộc. Tụi con tu không chịu lo điều phục mình nên cứ nhớ anh em bà con, rồi nó thúc mình đi thăm người này, người kia. Cái lỗi là tụi con nuôi dưỡng nó, nên nó có sức mạnh lôi tụi con đi. Nếu nhớ liền bỏ thì không có gì lôi được.

Thí như ở đây khởi nhớ Huệ Chiếu, bỏ liền thì đâu bị nó dẫn. Còn cứ nhớ Huệ Chiếu bây giờ như thế nào, không biết mọi người có khỏe không... rồi bị nó kéo đi dài dài. Nên kỳ rồi Thầy dạy, thấy cảnh chỉ thấy cảnh thôi. Tụi con có xen niệm thứ hai, thứ ba không?

- Dạ, có.

Vậy nên tu lâu mà không ra gì, ngồi thiền cứ nhớ chùa, nhớ Thầy, huynh đệ, nhớ những người làm mình vui, buồn, rồi chạy lung tung. Nếu tụi con kiểm soát chặt chẽ, niệm khởi liền buông thì không có niệm nào lôi kéo tụi con hết. Bởi vậy, tụi con khéo tu đàng hoàng chắc chắn có kết quả tốt. Như năm rồi, tối thiểu được ba người cười và khóc trong khi nhập thất. Chỉ vì có đến hai, ba niệm, không chịu một niệm nên khó ngộ được. Tụi con phải cố gắng. Người ta được thì mình cũng phải được.

Trong khi tu chỉ quyết một niệm tu thôi, đừng tính chuyện về giảng kinh hay dạy tu thiền cho người này, người kia. Mình chưa xong lấy gì mà dạy, muốn dạy cho người, việc mình phải giải quyết xong. Vậy nên mọi ước muốn đó phải gác qua một bên. Tụi con tu được rồi, mở miệng là Phật pháp, ai đến thì dạy tu thiền, khỏi nghĩ ngợi xa xôi. Người tu có đạo đức chân thật thì ở xa mấy người ta cũng tìm tới, còn cứ xách gói đi giảng hết nơi này đến nơi nọ, thao thao bất tuyệt, mới giảng người ta nghe, giảng lâu rồi người ta thấy nói được làm không được nên chán không muốn nghe. Bởi vì giảng xuống ai chọc giận nổi tức lên, ai làm hơi trái ý cũng giận, thì lời giảng của mình đâu còn giá trị gì. Đó là chỗ người ta đánh giá người tu.

Thầy muốn tụi con đứa nào cũng phải gan dạ. Gan cùng mình mới dám lên đây, nhưng phải gan thêm chút nữa là dám bỏ những điều khó bỏ. Lên đây được cảnh đẹp, mát mẻ, ăn uống tạm đầy đủ, không thiếu thốn gì, chỉ còn có nỗ lực tu. Vậy mà cứ ngồi mơ chỗ này tưởng chỗ kia, Thầy nếu có kính thần thấy được, Thầy lôi ra đánh đòn ngay. Cứ nghĩ những chuyện ở đâu phí thời giờ vô ích!

Phải quyết gạt bỏ những chuyện đâu đâu không phải mục đích mình nhắm. Đừng sợ không học rồi sau lỡ thành Phật không biết thuyết pháp. Đức Phật tu không học với ai, nhưng khi thành Phật nói gì cũng là pháp. Pháp ở chỗ mình tu ngộ đạo, còn pháp mình học được là pháp mượn. Bây giờ có nhiều đứa sợ mình dốt rồi thuyết pháp không được. Thuyết pháp không được là vì mình vay mượn của người khác, chớ dốt mà tu được thì nói ra lời gì cũng là đạo, biết sao nói vậy có gì không được!

Trong khi ứng dụng tu, tụi con chỉ chết sống trong sự tu thôi, đừng mơ tưởng ước ao gì bên ngoài, như vậy sẽ có kết quả. Chết sống trong một việc mới thành công. Ở đây nhiều người xách gói chạy đông chạy tây có thành công đâu. Đi một lúc rồi bơ vơ phiền muộn. Ở đây, giờ, tháng, năm này, cứ một niệm tu thì có ai rầy. Nếu chăm chỉ lo tu không buồn giận ai, niệm khởi buông bỏ, còn có chuyện gì để nói? Ngồi nói líu lo cả buổi là chạy theo niệm, lôi chuyện này, chuyện kia ra tán dóc hoài. Nếu niệm khởi mình dừng lại thì còn gì để nói. Như vậy, khi tụi con nói líu lo là Thầy biết không sống với hiện tại. Nếu tụi con muốn tu, phải chết sống với niệm hiện tại này.

Những niệm nhớ cha nhớ mẹ phải bỏ, vì nhớ cũng không làm gì được, khi nào ba má bệnh cho hay thì về thăm. Nếu nhớ cha mẹ không nỡ rời thà ở nhà nuôi, đi xuất gia làm gì? Vì nghĩ đến cái cao siêu hơn cuộc đời nên đi tu để độ cha mẹ. Khi cha mẹ già yếu, ở nhà có anh em nuôi dưỡng cơm áo, còn mình lo về tinh thần. Xưa có câu: “Người tu đạt đạo cha mẹ được sanh thiên.” Độ cha mẹ là ở chỗ đó, nên đừng để niệm dẫn đi đây kia lăng xăng. Như chuyện ngài Hoàng Bá và Hòa thượng Cua đã chứng minh. Cho nên thương cha mẹ không gì hơn là ráng tu. Nếu ở đây mà cứ nghĩ, ba má mình già quá rồi không biết nay thế nào, lo lắng nghĩ suy như vậy không có lợi gì cho ba má, cũng không có lợi cho mình.

Tụi con phải thực tế, quyết tâm và có lập trường làm việc gì ra việc đó thì mới thành công. Nếu không, tu mười năm, hai mươi năm cũng không ra gì. Rồi khi lớn lên ra lãnh chùa, không có tiền, ai bảo bói cũng bói, lâu ngày làm tào lao đủ thứ. Nếu tụi con tu đâu đó đàng hoàng, có kết quả, dù ở núi non người ta cũng tìm tới học. Bởi vậy, mỗi khi tụi con có chuyện phiền hà với nhau, Thầy chỉ trách là chăn trâu không kỹ nên mới có phiền não. Nếu nó vừa ló đầu ra biết liền thì đâu có sanh chuyện.

Ở đây, Thầy tạo duyên cho tụi con chăn trâu kỹ, không cho tiếp khách, không cho ra ngoài nhiều, nên thấy tù túng, nói Thầy khó quá. Khó hay là thương? Phải xác định cho rõ thì việc làm tụi con mới có ý nghĩa. Nhiều khi tụi con ngỡ rằng ai cho mình thong thả, tự do là người thương mình, còn bó buộc tức không thương. Thầy muốn tụi con sống một ngày xứng đáng một ngày, một tháng xứng đáng một tháng, ngày nào ở đây là ngày đó quyết tâm tu. Nếu tụi con tự tạo duyên để bận tâm, đó là dại khờ trái với sự sắp đặt, lo lắng của Thầy. Nhớ như vậy tụi con tu sẽ thành công.

Thầy thấy những người quyết tâm tu trong thời gian nhập thất có kết quả rõ ràng, không phải ba tháng, mà bốn mươi chín ngày cũng có kết quả tốt. Mấy hôm nay được tin đó, Thầy rất vui. Tụi con tu tiến Thầy mừng, chớ xìu xìu hoài Thầy không vui. Người ta nhảy vọt được, tụi con sao lại không? Trong sự tu không ai giỏi hơn ai, chỉ là biết sử dụng thời giờ chăn trâu cho miên mật, đừng để hao phí vô ích, đó là khôn ngoan và thành công.

Có một người, Thầy không nói tên, hồi xưa có gia đình và một đứa con. Lúc còn cư sĩ nghe Thầy giảng kinh Lăng Nghiêm, về nhà chú quyết tâm đi tu. Người bạn không vui nhưng cũng không giữ được. Chú lên đây xuất gia, đứa con gởi người khác nuôi. Người bạn có chồng khác, đứa con gọi điện lên cho chú hay để về giải quyết, chú cũng không về. Như vậy là gan cùng mình. Người bình thường nghe xót ruột chạy gấp về giải quyết, còn chú này nhất định tu, chết sống không đi. Hôm được nhập thất bốn mươi chín ngày, chú cũng “khóc cười”. Người quyết tâm tu chết sống tất thành công, dù cho trước ở ngoài đời có những niệm thế gian ràng buộc, khi tu dứt khoát không ngó lui sẽ có kết quả khả quan. Nhiều khi từ bé đi tu thanh tịnh, nhưng nếu thả trôi hoài cũng không tới đâu. Thanh tịnh là tốt mà phải can đảm quyết tử thì mới có kết quả.

Thầy nói hoài, Thầy không sống đời, chỉ còn thời gian năm năm nữa Thầy buông hết, tụi con ráng tu. Thầy tạo điều kiện cho tu, nếu tụi con lơ là, khi Thầy theo Phật, khóc cũng vô ích, rồi lúc xuống núi ra sao? Phải quyết tâm tu, nỗ lực, can đảm, cái gì làm mình mất thời giờ thì bỏ, chỉ một việc tu thôi. Tu không có gì lạ, chỉ lo chăn trâu, chăn cho thật cẩn thận đó là tu thành công.

Ã

Hôm qua có mấy người bà con đến thăm. Có người cô hỏi Thầy:

- Bạch Thầy, sao con càng tu nó càng phá công việc của con?

- Như vậy cho ngộ sớm chớ có gì đâu mà phiền! Bởi vì mình tu là phải sửa bỏ những tật xấu như nóng giận, bây giờ có người chọc giận, mình nổi nóng là chưa khéo tu. Nếu người ta chọc giận, mình không nóng là thành công. Tu phải có thử thách, nhờ thử thách mới tiến bộ, như học trò đi học cuối năm phải đi thi. Nếu mình vượt qua được thử thách là thi đậu lên lớp. Như vậy khi tu gặp khó khăn là cơ hội tốt để mình vươn lên.

Giả sử Thầy nói tu hạnh nhẫn nhục mà người ta tới bái xá hoài, đâu có gì để nhẫn. Lâu lâu phải có người đến chửi một chút. Nếu có người chửi mà Thầy vui tươi không đổi sắc mặt là thành công. Bởi vậy, tu là phải có thử thách, đó là cơ hội tốt để tiến lên, đừng buồn hay sợ. Không nên nói, sao mình tu hiền lành mà cứ bị phá hoài. Phá là thử mình đó, ai được thử mới mau tiến. Biết đâu những người chọc mình là Bồ-tát thử coi mình tiến nhiều hay ít, đâu phải người phá hoàn toàn là xấu.

Ã

Mấy hôm nay Ni chúng tu tiến bộ nhiều không? Người ta thường nói: “Người tu tiến được, gió thổi không bay.” Gió thổi không bay thì có cãi nhau không?

Bây giờ nhắc cho Ni chúng và luôn cả Phật tử, mình tu cho mình hay cho ai? Nếu tu cho mình có phải ích kỷ không? Có những Phật tử đến hỏi Thầy: “Sao Thầy để cho quí thầy, quí cô ngồi tu hoài, không làm gì cho xã hội hết, như vậy có ích kỷ không?” Thầy thí dụ, những em học sinh còn nhỏ, đi học từ tiểu học đến trung học rồi đại học, cứ cắm đầu học cho giỏi là có tội ích kỷ không?

- Dạ, không.

Vì muốn cho đất nước ngày mai giàu mạnh nên bây giờ các em cố gắng học, khi có khả năng giỏi sẽ làm lợi cho đất nước. Cũng như vậy, muốn cho tương lai đạo pháp sáng sủa, tốt đẹp, bây giờ Tăng Ni phải ráng tu cho có đức hạnh, mai kia ra truyền bá mới có lợi. Nếu bây giờ tu sơ sài, sau ra làm Phật sự, khởi tham sân si thì có đạo lực không? Như vậy Tăng Ni ở một chỗ tu là tiêu cực hay tích cực?

Tụi con sau lớn ra làm Trụ trì, phải có đạo đức mới dạy Phật tử tu được. Muốn có đạo đức, nay phải kềm chế nhắc nhở, mai kia mới làm người hữu dụng được. Như vậy, tụi con cũng như Phật tử hiểu rõ ý nghĩa mình ngồi một chỗ tu không phải là ích kỷ. Mai này Thầy cho người lớn đi hết, đâu có giữ hoài, để chỗ cho người khác tới tu. Bởi vậy, bây giờ là lúc kềm chế ở một chỗ để tu, ai khôn ngoan cố gắng nỗ lực tu hành trong thời gian này, quí từng ngày không phí uổng.

Đi tu là nguyện tự giác giác tha. Bây giờ đang giai đoạn thứ nhất là tự giác, ngày đêm quyết tâm ngồi tu cho được định, trí tuệ sáng, đó là tự giác. Như vậy ngồi thiền buông bỏ vọng tưởng là định, dấy niệm là động. Lặng là định, định phát sanh trí tuệ. Muốn có định tuệ, vọng tưởng lặng xuống thì trí tuệ sáng. Tụi con phải nguyện không phiền não. Hôm nào tụi con buồn phiền huynh đệ, lúc ngồi thiền yên không?

- Dạ, không.

Ngồi thiền vọng tưởng cứ trào lên hoài, không định được thì làm sao có trí tuệ? Bởi vậy tụi con tập, khi huynh đệ làm trái ý, hãy tự nghĩ: “Chắc gì mình không làm trái ý người khác. Người ta làm trái ý mình thì giận, còn mình làm trái ý người ta sao không tự trách?” Trên đời đâu có ai giống ai, không phải như khuôn đúc. Ở nhà cha mẹ sanh ba bốn đứa con tâm ý đâu giống nhau, huống là tụi con ở gia đình khác, cuộc sống và cách giáo dục khác, tâm ý làm sao giống được. Người biết tu thì phải bỏ qua những cái khác đó cho hòa nhau. Tụi con hiểu nghĩa hòa là đồng hay hòa là sao?

Thời đức Phật có các vị Tỳ-kheo tranh chấp với nhau, Phật khuyên không chịu bỏ, Ngài đi vào rừng, rồi tới thất của ba vị Tỳ-kheo Tiên-tỳ-la, Nan-đề và A-na-luật. Đức Phật hỏi:

- Các ông ở chung như vầy có phiền não với nhau không?

Các vị trả lời:

- Dạ không, chúng con luôn luôn xả cái ý riêng để hòa nhau, người nào cũng biết xả là hòa.

Tụi con ở đây cũng vậy, đừng chấp cái suy nghĩ của mình. Thầy thấy có những người, chấp cho ý mình là đúng, huynh đệ nói khác liền giận. Khi người ta nói khác mình, nên tự xét lại ý mình chưa chắc là đúng. Ý khi nghĩ như vầy, khi nghĩ khác, chắc gì đúng, nên xả bỏ ý riêng của mình, như vậy là hòa. Hòa là xả riêng tư để sống chung với nhau, chớ không phải đồng là hòa.

Việc tu của tụi con muốn tiến, trước hết phải giới hòa đồng tu, ngăn ngừa phiền não. Giữ giới rồi sanh định, phát tuệ. Ví dụ, có người ở thế gian giữ năm giới, hôm nào đó thấy của người ta, khởi lòng tham đi ăn cắp. Lúc về ngồi niệm Phật hay tọa thiền có yên không? Hay cứ nghĩ, mình chứa đồ đó người ta có biết hay không? người ta có bắt mình không? Ngồi nhớ như vậy hoài làm sao yên. Đó là tại mình không giữ giới nên tâm không định, thì làm sao phát sanh trí tuệ. Nên phạm giới là không tu được. Vì vậy, đầu tiên là giữ giới. Giới hòa mấy năm nay tụi con có hành được chưa? Thuộc rồi còn phải hành cho được.

Tu không phải là mong tưởng ngày mai mình thành Thánh, tu là phải thực hành cho được những gì Phật dạy. Mình ứng dụng được thì sau này sẽ có kết quả, còn ngồi mong thành Phật mà không chịu thực hành lời Phật dạy, có thành được không? Có nhiều người mơ ước được thành Phật, nhưng không chịu sửa những cái xấu dở của mình, cũng giống như mấy đứa học trò, không chịu học bài mà đến kỳ thi muốn đậu, chuyện đó không bao giờ có.

Hằng ngày không chịu tu lại cứ mơ Phật về xoa đầu, thọ ký thành Phật, chuyện đó không thể có.

Bây giờ tụi con hằng ngày nhớ những kinh điển Phật, Tổ dạy, những gì Thầy thường nhắc, ứng dụng triệt để thì thành công, khỏi mơ ước gì cả. Nếu không thực hành, dù mơ ước mấy cũng không được. Bởi vậy, nói tu là hành, thực hành cho được những gì mình học. Như đức Phật dạy bỏ tam độc, khi con rắn sân vừa khởi lên liền dừng, không để tới giận đỏ mặt, con rắn hổ lửa nổi lên thì không cứu được.

Trên đường tu tụi con phải gan dạ, cố gắng thực hiện cho được lý tưởng giác ngộ giải thoát của mình mới xứng đáng đời tu. Đã phát nguyện hi sinh một đời để cầu giác ngộ, độ chúng sanh, đó là mục tiêu phải làm cho được. Không phải chùa to, Phật lớn, đệ tử nhiều là xứng đáng, mà phải giác ngộ độ chúng sanh. Phật là giác, đệ tử Phật mê thì không được. Phải giác mới xứng đáng là đệ tử Phật.

Kể cả Phật tử cũng phải như vậy nữa, nếu không giác hoàn toàn thì giác phần nào, biết cái này tội cái kia phước, biết cái nào tà, cái nào chánh, rành rẽ không lầm lẫn, đó là giác. Chớ ai bày gì làm nấy là mê không phải giác. Tu theo Phật mà mê là không được.

Ã

- Sao, lúc này tụi con tu có đại hoan hỉ không?

- Dạ, hoan hỉ.

- Có thật không? Bây giờ Thầy hỏi, tụi con tu thiền như vậy để được cái gì?

- Bạch Thầy, tất cả thời đều không có chỗ được!

- Tại sao không có chỗ được?

Thôi, để cho tụi con ngẫm đó! Bây giờ Thầy nói chuyện khác. Sáng này Thầy dẫn một phái đoàn ở Nha Trang có quí thầy, quí cô vào thăm. Họ nói nơi đây thật là lý tưởng. Còn ông cư sĩ là bác sĩ Dư nói: “Con nguyện sau khi chết, con trở lại sớm để đến đây tu.” Qua những lời nói đó, tụi con thấy nơi đây có đủ thắng duyên tu hành, nhiều người khao khát, tụi con ở đây năm mười năm nếu không xứng đáng thật là xấu hổ. Đó là điều Thầy nhắc cho tụi con nhớ trách nhiệm của mình.

Thầy nói rõ cho tụi con biết, đây là lý tưởng tối hậu của đời Thầy, tạo duyên cho Tăng Ni tu được, khi Thầy theo Phật có những Tăng Ni tiếp tục thế cho Thầy. Như vậy, trách nhiệm của tụi con nặng không? Việc to lớn như vậy, không có đứa nào ở đây mà trách nhiệm nhẹ hết. Bởi vậy, tụi con phải dồn hết vào một việc tu, còn chuyện huynh đệ được mất phải quấy là trò trẻ con không đáng bận tâm, dù cho ai nói hơn thua gì đều bỏ qua hết. Bây giờ cái quan trọng của tụi con là làm sao để mai kia gánh vác được những việc Thầy đang làm.

Mới hôm qua Thầy nhận được điện thoại. Có một Phật tử trong đoàn Thái Tuệ hôm trước lên cúng dường, về dưới hai hôm rồi ngồi thiền tới nay chưa xả. Ông viết giấy để ở ngoài, dặn con cái đừng động để cho ông ngồi. Mấy đứa con sợ quá gọi điện thoại cho Thầy, hỏi Thầy như vậy có sao không. Thầy hỏi: “Thấy gương mặt ông thế nào, có tỉnh táo không?” Nó nói: “Ba con ngồi thẳng bon giống như vách núi, gương mặt hồng.” Thầy nói: “Không sao đâu!”

Tụi con thấy cư sĩ mà ngồi tới ba ngày rồi, không biết khi nào mới xả. Người cư sĩ nhiệt tình tu vẫn có kết quả tốt. Tuy nhiên ngồi ngày này qua ngày kia không phải là chủ trương của Thầy. Thầy chủ trương ngồi hai tiếng thôi, nhưng người ngồi lâu như vậy là sức định mạnh, nếu không định không bao giờ ngồi được như vậy. Như tụi con thấy, mình ngồi hai tiếng đồng hồ ra, còn có nhu cầu này kia, đây ngồi ba ngày không có nhu cầu gì hết. Có nhiều vị cư sĩ gởi thư trình kết quả tu hành, Thầy thấy rất mừng. Thầy mừng vì người cùng tu với mình có được kết quả tốt. Cho nên tụi con ráng làm mẫu mực cho họ, đừng để họ làm mẫu mực cho mình, đừng để mình tu kém họ thì không thể làm thầy hướng dẫn họ được.

Như bây giờ ở Phan Thiết có nhóm Phật tử thành lập đạo tràng, ở Phan Rang nhóm Phật tử bác sĩ Dư vừa xin phép Thầy lập đạo tràng. Như vậy từ từ ở các nơi mở đạo tràng tu thiền. Ở thành phố có hai đạo tràng Thái Tuệ và Tuệ Tâm. Còn ở xa, như ngoài Bắc có đạo tràng Trúc Lâm Quán Sứ, mỗi chủ nhật có khoảng hai trăm người đến sám hối tọa thiền. Đạo tràng Tuệ Đức cũng có khoảng trăm vị sanh hoạt mỗi tuần. Đó là duyên tốt mở mang Phật pháp, một mình Thầy đâu có làm hết được. Nếu tụi con tu không ra gì thì phí công Thầy, lại làm mất cơ hội tốt để mở mang Phật pháp.

Trở lại vấn đề hồi nãy Thầy hỏi tụi con. Ngồi thiền cầu cái gì? Tụi con trả lời chưa ổn, bây giờ Thầy nói cho tụi con nghe. Mình ngồi thiền không mong cầu bất cứ một cái gì bên ngoài. Nếu có cầu bên ngoài là thiền ngoại đạo. Tại sao vậy? Vì trong nhà Phật có nói: Ngoài tâm cầu Phật không thể được. Phật ở tự tâm, không ở bên ngoài. Tại sao Phật ở tự tâm? Vì Phật là giác, là trí tuệ, mà trí tuệ từ đâu tới? Trí tuệ từ tâm mình chớ không từ đâu tới. Nếu từ ngoài tới thì không phải là mình. Như vậy mới hiểu tại sao mình ngồi thiền cho có trí tuệ.

Trong nhà Phật có ba môn: Giới, Định, Tuệ. Tâm yên rồi có trí tuệ sáng suốt. Tại sao? Vì đã bao nhiêu đời kiếp, thấy thân duyên hợp tạm bợ này là thân thật của mình, tâm suy nghĩ hơn thua, phải quấy, tốt xấu đó cũng là tâm của mình. Như vậy là mê, thật đáng thương! Xem trong kinh Phật dạy, rồi mình xét kỹ lại trong thân này, những lóng xương ráp lại là sườn, gân là dây cột ráp các xương, ở ngoài tô đắp bằng máu thịt, bao bọc bởi lớp da, không có gì thật. Khi hết duyên thân bại hoại. Nếu nó là mình, khi nó bại hoại là mình mất sao?

Tâm nghĩ hơn thua phải quấy chợt có chợt không, khi nhìn lại cái hơn thua phải quấy đó thấy rõ chỉ là bóng, đâu phải thật mình. Lâu nay người ta mê muội cho đó là thật mình, rồi chấp chặt cái suy nghĩ của mình là đúng, ai nghĩ khác liền cãi. Cái nghĩ không phải thật mình, mình nghĩ cũng chưa chắc gì đúng. Hôm nay ở hoàn cảnh này nên nghĩ như vầy, ngày mai hoàn cảnh khác mình nghĩ khác. Có những việc mình chưa từng nghĩ, nó vẫn tới, việc mình tính toán kỹ càng, chắc trăm phần trăm lại không tới. Thí dụ như trời kéo mây mờ mịt, tụi con nghĩ sắp mưa, đi đậy đồ, nhưng lát sau gió thổi mây tan hết. Có khi không nghĩ mưa, bất chợt lại mưa ào ào. Như vậy mình nghĩ không chắc đúng, mà lại bám vào đó tranh hơn thua là khờ dại.

Bởi vậy, ngồi thiền cốt cho tâm lăng xăng lặng xuống, tâm hơn thua phải quấy dừng, dừng rồi thì tâm chân thật hiện đầy đủ không thiếu. Cái đó mới thật là mình. Bây giờ Thầy thí dụ, nếu tâm suy nghĩ là mình, lúc không suy nghĩ tốt xấu, phải quấy, là không có mình, phải không? Như hiện giờ tụi con ngồi chơi nhìn mây nhìn núi, tâm không nghĩ gì hết, lúc đó có mình không?

- Dạ, có.

Cái thầm lặng đó không bao giờ rời mình, vậy mà mình cứ nhận lấy cái lăng xăng, thật là mê muội đáng thương! Thế nên đức Phật dạy mình ngồi thiền lắng vọng tình để cái chân thật hiện ra. Cũng như mặt gương khi có bóng này bóng kia, mình theo bóng quên gương, khi không bóng mặt gương hiện rõ ràng. Gương không đổi dời, không phải khi có khi không, chỉ có bóng kẻ qua người lại là lúc có lúc không. Gương lúc nào cũng hiện tiền, nhưng vì bận nhớ bóng nên quên gương, chừng nào hết bóng mới nhớ tới gương.

Cũng như vậy, tâm chân thật của mình là tâm giác, tâm Phật, luôn hiện tiền, nhưng do những vọng niệm cứ khởi lên hoài nên chạy theo phải quấy, thương ghét, giận hờn cả ngày. Dừng lặng hết bóng thì cái thật hiện tiền. Cái thật từ đâu tới? Sẵn có nơi mình, nên nói không có cái gì được. Vì mình có mà quên, bị vọng tưởng chi phối, nay dừng hết vọng tưởng thì cái thật sẵn có hiện tiền. Đó là trọng tâm tu.

Nếu chúng ta chạy theo thân sanh diệt, tâm sanh diệt, thì sẽ luân hồi từ kiếp này sang kiếp nọ. Đời này được quả tốt lại chạy theo hơn thua phải quấy nên đời sau xấu hơn một chút, đời sau theo hơn thua phải quấy, quả xấu hơn chút nữa. Phật dạy thân người khó được, nay được thân người mà vì mê lầm nên đi xuống mãi. Hiện giờ dừng lại, làm chủ hoàn toàn thì ngay đời này giải thoát, thảnh thơi.

Khi tụi con không suy nghĩ gì hết, lúc đó có buồn không?

- Dạ, không.

Ngồi đây nhớ nhà, nhớ cha mẹ, anh em mà không được gặp mới buồn, còn ngồi thản nhiên tự tại không có một niệm nào hết thì an lạc, thảnh thơi. Như vậy, trọng tâm tu không cầu cái gì hết, chính là lặng những vọng tưởng lăng xăng tức tánh giác hiện tiền. Khi đó gọi là ngộ chớ không tìm kiếm đâu xa. Như vậy đạo ở đâu?

- Dạ, ở nơi mình.

Ừ! Đạo là chân lý hiện hữu nơi mình mà mình quên. Tầm đạo không phải chạy lên non lên núi mà là quay lại mình, phủi hết những vọng tưởng, bụi bặm, nhà Phật gọi là trần lao. Phủi hết trần lao thì tánh gương hiện nên gọi là đại viên cảnh trí. Đó là một lẽ thật, không khó, không phải ở đâu xa. Người ta cứ tưởng ngồi thiền để thấy hào quang hay bay bổng đi đây đi kia. Đó là trò chơi nguy hiểm, nhiều khi bay đi rồi trở về không được cũng khổ. Bởi vậy ngồi thiền cốt lặng hết những điên đảo vọng tưởng, nhận được cái chân thật nơi mình.

Trong nhà Phật có nói rõ hai thứ trí. Học kinh, đọc sách để hiểu biết rộng rãi là hữu sư trí. Kiến thức rộng là kiến thức vay mượn chớ không phải của mình. Chỉ khi nào tâm lặng, trí sáng ra, đó là vô sư trí, là cái thật của mình. Những nhà bác học khi nghiên cứu một vấn đề chưa ai biết, họ dồn hết tâm lực vào đó, lâu ngày bỗng nhiên sáng lên, chạy mừng la. Cái đó có ai dạy đâu, vì dồn hết tâm lực vào một việc, tâm hết lăng xăng nên trí vô sư hiện. Họ nghiên cứu vấn đề nhỏ thì sáng vấn đề nhỏ, chúng ta tu là nghiên cứu vấn đề lớn. Con người là vấn đề lớn nhất trong vũ trụ.

Sống trong vũ trụ mà không biết mình là gì thì vô nghĩa, quay lại tìm cái gì thật nơi mình là vấn đề tối trọng yếu. Dù chúng ta có bao nhiêu sự nghiệp, bao nhiêu của cải mà không biết mình là gì thì cuộc sống cũng trở thành vô nghĩa. Phải quay lại tìm cho ra cái thật nơi mình, đó là trên hết. Nên vấn đề mà người tu đang thực hiện là trọng đại chớ không phải tầm thường. Người ta thấy mình ngồi yên lặng lẽ như vậy cho là tiêu cực, yếm thế, nhưng thật là mình đang nghiên cứu, tìm tòi một vấn đề tối trọng, khi phát minh ra rồi sẽ chỉ cho mọi người biết họ có cái thật mà quên. Đó là ý nghĩa thâm trầm của việc tu, nhất là tu thiền.

Ã

Mấy hôm nay tụi con có đọc quyển sách “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi” chưa? Tụi con có sợ người ta rầy Thầy không?

- Dạ, thưa không.

Hiện nay người tu Phật, nào trống, chuông, mõ, kèn, chạy theo âm thanh, sắc tướng đủ thứ làm sao tâm lặng lẽ được. Tâm không lặng lẽ làm sao thấy được lý thật. Nếu Thầy sợ nói ra mích lòng, cứ để như vậy, biết cái đó là sai mà không nói thì cũng như hùa theo, nên buộc lòng phải nói. Biết nói là có đụng chạm nhưng Thầy chấp nhận, ai la thì la, miễn Thầy chỉ được cái gì Thầy thấy hay, đó là trách nhiệm của Thầy, còn nghe hay không là quyền của người ta. Mình tu có đường lối hẳn hoi chớ không phải làm việc vô nghĩa.

Hôm qua có Silvie ở Indonesia đến thăm Thầy, đi với hai người Nhật. Lúc gần về Silvie thưa với Thầy là ở bên Đài Loan có Hòa thượng Tinh Vân muốn mời Thầy qua bên đó giảng thiền. Hôm trước có Pháp sư Huệ Hải là đệ tử của Hòa thượng Tinh Vân qua đây, tham quan các Thiền viện mình, có ý mời Thầy qua đó, Thầy không dám nhận.

Ở đây, Thầy lo cho tụi con tu hành đến nơi đến chốn. Tụi con tu được rồi dạy Phật tử tu, đó là điều chủ yếu. Tụi con nên biết là mình đang ở trong hoàn cảnh rất thuận trên đường tu, phải ráng tinh tấn, chớ để uổng phí thời gian. Bởi vì Tăng Ni là người hướng dẫn Phật tử, nếu Tăng Ni tu không được lấy ai hướng dẫn? Không có người hướng dẫn thì không thể có đạo đức. Hiểu vậy rồi, tụi con mới thấy trách nhiệm của mình không nhỏ, trái lại rất nặng nề. Do đó tụi con phải sáng suốt tu hành, đừng bao giờ để phiền não xen vào làm trở ngại sự tu, uổng đi một đời mà cũng uổng công của Thầy.

 

MỤC LỤC

00 Trang bìa

01 Lời đầu

02 Thỉnh nguyện Tăng

03 Thỉnh nguyện Ni

04 Mục lục

 

THÍCH THANH TỪ

PHỤNG HOÀNG

CẢNH SÁCH

Tập 3

(Tái bản lần thứ nhất)

DL 2006 - PL 2550

 

Lời đầu

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết – như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hòa thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hòa thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi.

Cuối Đông Nhâm Ngọ - 2002.

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 13-5 Ất Hợi (10-6-1995)

Người tu chúng ta cần đem hết khả năng, nghị lực để thực hiện cho được điều chúng ta nhắm đến, tìm cho ra kho báu nhà mình. Như vậy mới đền được những công ơn to lớn.

Cha mẹ sanh ra chúng ta đời này thật là hữu ích chớ không phải vô ích. Nếu chúng ta chạy theo danh lợi cho tới ngày thân này bại hoại thì cũng không làm được điều gì thật sự đáp đền công ơn cha mẹ. Chỉ khi chúng ta tìm được kho báu nhà mình mới thật là giúp cho cha mẹ. Cho nên hồi xưa chư Tổ thường nói: Nếu người con tu hành đắc đạo cha mẹ sẽ sanh thiên. Câu chuyện ngài Hoàng Bá, và gần đây ở Việt Nam có ngài Tông Diễn là hai bằng chứng cụ thể nói lên điều đó.

Như vậy, chúng ta tu đạt đạo là đã đền ơn đầy đủ cho cha mẹ rồi. Cho nên hồi xưa sau khi đức Phật thành đạo, Ngài về chỉ cần khuyên cha mẹ tu hạnh cư sĩ, thọ trì Tam qui Ngũ giới, đó là đã đền ơn cha mẹ. Lúc Ngài đắc đạo, mẹ Ngài cũng được sanh lên cõi trời Đao-lợi. Trong các công ơn, ơn cha mẹ là số một. Nhờ tu chúng ta đền được công ơn cha mẹ, đó là bậc đã sanh thành ra thân này.

Kế đó là ơn Thầy Tổ, người chỉ cho mình một con đường đi tới nơi tới chốn, đạt được mục đích cứu kính. Đó là người tạo cho mình một cơ hội tốt đẹp trên con đường đạo đức, trên con đường giải thoát. Công ơn này rất lớn. Chúng ta tu đạt được đạo rồi, làm lợi ích cho chúng sanh, đó là đền ơn Phật Tổ, đền ơn quí Thầy.

Thứ ba là ơn đàn-na thí chủ, những người ủng hộ chúng ta tu hành. Nhờ đàn-na thí chủ ủng hộ, đời chúng ta được an ổn, no ấm. Khi mình tu được rồi, chỉ lại cho họ, đó là đủ đền ơn. Còn nếu chúng ta tu lừng chừng không ra gì, thì ba công ơn đó không bao giờ đền được.

Kế đó là ơn xã hội, ơn quốc gia. Nhờ trong nước mọi việc được an ổn, bình yên, an ninh trật tự, mình tu hành dễ dàng, không có gì trở ngại. Đó cũng là công ơn giúp cho mình được yên ổn tu. Khi chúng ta đạt đạo rồi cũng là đền được ơn này.

Như vậy, Tứ trọng ân chỉ đền được khi chúng ta tu có kết quả. Nếu chúng ta tu không ra gì thì không ơn nào đền được. Không đền tức là tự phản bội mình và cũng phản bội những người lo cho mình mọi việc gần xa. Cho nên tôi nghĩ rằng người quyết tâm tu lúc nào cũng đặt mình trong điều kiện chỉ có tiến chớ không bao giờ thối. Tiến đây không phải là có ngày đi bảy tám chục cây số, có ngày ngồi chơi. Tiến là đi đều đặn mỗi ngày, bước nào vững bước ấy.

Chúng ta đi đừng mong mau tới. Điều cần thiết là phải tạo điều kiện cho mình đủ sức, vững chân. Chân vững, sức bền ngày nào cũng bước đều thì càng đi càng gần đến đích, còn mong mau tới là triệu chứng bất thường, lười biếng, không phải con người bền chí. Chúng ta có đi tức có đến, chỉ có đi chậm thì đến chậm, đi nhanh sẽ đến nhanh. Đừng ngồi đây trông ngày tới đích, chẳng ích lợi gì.

Trong khi tu cũng vậy, chúng ta không trông đắc đạo, mà phải xét kỹ những gì Phật Tổ dạy, quí Thầy dạy, thấy đúng rồi thực hành. Mỗi ngày mình đều ứng dụng và thực hành bền bỉ lâu dài, tự nó đưa đến kết quả. Còn tu năm ba tháng thấy sao chưa đắc đạo liền muốn đi đến chỗ khác để tu. Tới chỗ khác năm ba tháng cũng chưa đắc đạo lại chạy chỗ khác nữa. Thế rồi mai kia ai nói gạt có cách tu nhanh lắm liền chạy theo, một thời gian sau trở thành ngoại đạo, nguy hiểm cho cả đời mình.

Bởi vậy, người tu phải giống như người trồng cây. Trước hết tìm hiểu xem cách trồng cây đó như thế nào, sau đó ươm giống trồng xuống đất, rồi thường xuyên tưới nước, bón phân, coi chừng sâu bọ... Cứ săn sóc đều đặn đúng pháp thì cây sẽ lớn, một ngày nào đó trổ hoa kết trái. Ngược lại ngồi trông cây mau lớn mà không chịu bón phân, tưới nước, có hoa trái được không?

Chúng ta làm việc gì cũng phải xét thật kỹ từ đầu tới cuối. Phải có một cái nhìn thực tế chớ đừng ước mơ không đâu. Người tu hay có bệnh ước mơ thế này, mơ ước thế nọ mà không chịu bắt tay làm, rốt cuộc không đi tới đâu hết.

Cho nên chúng ta phải vững vàng, mỗi một việc làm mình đều hiểu rõ ý nghĩa, cách thức. Tỉ dụ như trồng cây cứ hai ngày tưới một lần, đừng bỏ sót, vài tháng bón phân một lần theo đúng chu kỳ chừng mực. Chúng ta chăm sóc đúng cách tất nhiên cây sẽ lớn, ra bông, kết trái. Đừng ngồi không trông chờ, nghĩ sao cây lâu có trái quá rồi sanh ra buồn nản, muốn trồng cây khác. Cứ vậy suốt đời không bao giờ thành công.

Vậy nên tôi mong rằng toàn thể đại chúng mỗi người ý thức được việc mình đang làm là việc tối quan trọng. Đã là tối quan trọng thì mọi thứ tầm thường hoặc các chướng nhỏ chúng ta đều bỏ qua, để cố gắng làm một việc cho tới nơi tới chốn. Đó là điều thứ nhất cần nhớ.

Thứ hai là tôi muốn trong chúng mọi người khi bắt tay vào làm việc gì phải làm đến nơi, làm cho thành công, đừng bỏ dở nửa chừng. Muốn vậy phải biết cách thức làm đúng và bền chí lâu dài sẽ thành công.

Thứ ba, trong nhà Phật thường nói câu chữ Hán: “nhất bộc thập hàn”, một ngày nóng, mười ngày lạnh; nghĩa là bữa nay thì hăng hái làm thôi là làm, rồi ngày mai thả trôi. Đây là điều nên tránh. Chúng ta phải cần mẫn mỗi ngày, từng bước, từng bước đều đặn tiến lên không dừng, đó là điều tôi mong mỏi. Thấy ai tinh tấn quá tôi cũng e dè, bởi vì ngày nay họ tinh tấn, biết đâu mai mốt lại thả trôi. Chỉ nên bước đều đặn, tuy chậm nhưng đều là tốt. Nói chậm là đối với những người trẻ, còn ai già phải bước nhanh hơn một chút mới mong theo kịp mấy người trẻ.

Đó là lời nhắc nhở và mong mỏi của tôi. Quí vị nhớ để cố gắng tu.

Ngày 26-5 Ất Hợi (23-6-1995)

Thỉnh nguyện hôm nay có những điểm ưu là quí vị có lỗi đều tự giác ra sám hối hoặc thấy người khác có lỗi mình cũng gan dạ chỉ cho, như vậy là rất tốt.

Giờ đây tôi nhắc nhở chung cho toàn chúng biết rõ lập trường, hướng đi mà tôi đã tuyên bố lâu nay. Tôi từng tuyên bố với chúng ở dưới Thường Chiếu rằng thành lập Thiền viện Trúc Lâm là lý tưởng tối hậu của đời tôi. Vì lúc đó chưa có Thiền viện trên này nên tôi đã tuyên bố ở dưới như vậy. Lý tưởng tối hậu đó là gì? Với số tuổi hơn bảy mươi của tôi, công tác lo cho chúng lo cho đạo không còn được bao nhiêu ngày, mà tôi phải đứng ra thành lập Thiền viện Trúc Lâm, phải đảm đang một công việc nặng nề, bề bộn như vậy là bởi lý do nào?

Chẳng qua là vì tôi muốn tạo duyên tốt cho Tăng Ni tu đến nơi đến chốn. Trải qua bao nhiêu lần tôi thành lập các Thiền viện kia chưa được như ý, giờ đây Thiền viện Trúc Lâm này rất đúng với sở nguyện của tôi. Ở đây vừa là khí hậu mát mẻ, vừa là khung cảnh yên tĩnh và rộng rãi, sắp đặt dễ dàng. Tôi nghĩ rằng nơi này có thể tạo đủ duyên lành cho chúng tu hành, tiến tới được chỗ đáng tin cậy để hướng dẫn người sau. Cho nên khi khởi công tôi đặt ba điểm trọng yếu phải làm.

Điểm thứ nhất, phải xây dựng một cơ sở có hình thức một Thiền viện rất là Việt Nam. Bởi vì chúng ta là người Việt Nam, sanh sống trên đất Việt, khi tu hành tự nhiên chúng ta phải thừa kế những tinh ba của tổ tiên để lại. Chúng ta phải làm sao thể hiện cụ thể những tinh ba đó cho mọi người thấy biết. Nên trên hình thức tôi cố gắng thực hiện một ngôi chùa có nét văn hóa Việt Nam và có đầy đủ điều kiện cho Tăng Ni tu. Trải qua hai năm về phần cơ sở tương đối đã ổn. Đó là phần thứ nhất tôi đã làm được.

Phần thứ hai, tôi chủ trương phải gầy dựng lại, khai thác những điều cao quí của các bậc Tôn túc ngày xưa tu hành đạt đạo. Chúng ta là con cháu sau này cũng phải đạt được những cái người xưa đã đạt. Muốn được như vậy nhất định mình phải nương theo lời dạy của các ngài. Vì vậy phần kinh sách hoặc những Ngữ lục của chư Tổ ngày xưa tôi cố gắng tìm, và dịch giải cho quí vị hiểu để tu. Mục đích của tôi là phải làm sao có được một nền tảng Phật giáo Việt Nam cụ thể, đó là nền tảng văn hóa thật sự của Phật giáo Việt Nam. Chúng ta phải nắm vững đường hướng và lối đi của các vị trước.

Tôi thường nói với mọi người, chúng ta muốn tu theo Phật, trước hết phải tìm hiểu thấu đáo chỗ tu và đạt đạo của Phật. Kế đến, chúng ta phải hiểu được sự truyền bá của chư Tổ từ Ấn độ sang Trung Hoa đến Việt Nam. Việt Nam là đoạn chót, nơi chúng ta ra đời, chúng ta thừa kế, tự nhiên chúng ta phải nắm cho thật vững chớ không thể nào chỉ nói suông, nói cho có lệ. Do đó tôi sắp đặt phải làm sao thời gian đầu là xây dựng cơ sở, kế đó là phần văn hoá. Các Ngữ lục cũng như thi tụng của chư Tổ từ đời Lý, Trần cho tới đời Lê, Nguyễn có được bao nhiêu tôi đều góp nhặt và sẽ đem giảng giải cho người sau khỏi hiểu lầm.

Đó là việc thứ hai tôi phải làm cho được. Việc đó hiện giờ chúng ta đang làm.

Phần thứ ba là phải đem những lời hay của Phật và của các vị Thiền sư Việt Nam ra cho Tăng Ni ứng dụng tu có kết quả tốt, đó mới đầy đủ.

Như vậy, phần thứ nhất là hình thức cơ sở, phần thứ hai là văn hóa từ các Tổ truyền lại và phần thứ ba thực hành những lời dạy từ Phật đến Tổ. Nếu chúng ta thực hiện ba điều đó được vuông tròn thì Phật giáo Việt Nam mới có cơ đứng vững. Nếu chúng ta chỉ được hai phần đầu, tức là cơ sở và văn hóa, còn phần thứ ba không thực hiện được thì không thể gầy dựng hoặc tạo điều kiện cho Thiền học Việt Nam sống dậy được.

Phần thứ nhất là phần của tôi và Phật tử cũng như chư Tăng chung lo, bây giờ nó đã thành hình. Phần thứ hai, văn hóa, là phần tôi đang làm, đang giảng dạy. Còn phần thứ ba là phần của ai? Đó là phần của tất cả Tăng chúng và Ni chúng chớ không phải của tôi nữa. Tôi chỉ là người nhắc nhở, chỉ dạy mà thôi, còn thực hiện được hay không là do quí vị.

Nếu hai phần đầu có hay đẹp mấy mà phần thứ ba không có kết quả thì người ta còn tin Phật giáo Việt Nam do mình chủ trương đề xướng là đúng hay không? Chắc chẳng ai tin, vì mình nói hay nhưng không làm được. Không làm được thì nói ai tin! Bởi vậy phần thứ ba tuy sau cùng lại là quyết định tối hậu không thể thiếu.

Tôi mong rằng tất cả chư Tăng hiểu được lẽ đó, thấy được trọng trách của mình để mỗi người cố gắng tu, cố gắng thực hiện cho được những điều hay từ đức Phật truyền dạy mãi đến chư Tổ Việt Nam. Chúng ta ứng dụng được, có kết quả thì mới xứng đáng là người kế thừa, sau này có thể làm sáng tỏ nền Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Còn nếu chúng ta cứ lơ là cho qua ngày tháng, chờ đến ngày trăm tuổi, thật uổng một đời!

Vậy nên tất cả chư Tăng phải nỗ lực, cố gắng thể hiện cho được những điều mình đã học, thực hành cho được những gì đã hiểu, đừng có lơ là bỏ qua. Tất cả mọi thứ trên thế gian chỉ là trò ảo mộng, không có gì quí, chỉ đáng quí nhất là con đường giải thoát, Phật Tổ đã vạch ra, mình phải tiếp bước cho được. Đi cho đến nơi mới xứng đáng là người tu Phật, đừng nên lơ là, bỏ dở nửa chừng, uổng đi một đời. Đó là lời tôi nhắc nhở toàn chúng.

Ngày 13-6 Ất Hợi (10-7-1995)

Thỉnh nguyện hôm nay toàn chúng chỉ một vài người phạm lỗi, đa số đều không có lỗi lầm gì, như vậy rất tốt. Chúng tinh tấn tu hành thì mọi việc đều được an ổn.

Tinh tấn là mình tạo công đức cho chính mình. Chúng ta ngồi thiền nếu thiếu tinh tấn thì có thể từ một tiếng đồng hồ tiến lên hai tiếng nổi không? Chắc không bao giờ tiến nổi, bởi vì vừa nghe đau liền muốn xả cho khỏe, mà muốn xả cho khỏe tức là không có sức tinh tấn. Cho nên đối với tất cả những điều khó làm, nếu chúng ta thiếu tinh tấn sẽ không bao giờ làm được. Do đó tinh tấn giúp chúng ta tăng trưởng công đức tu hành.

Từ chỗ tu hành yếu ớt, nhờ sức tinh tấn sự tu lần lần cứng cỏi, mạnh mẽ lên. Chẳng hạn khi chúng ta ngồi thiền hơi nhọc nhằn, buồn ngủ, lúc ấy phải nỗ lực, nhìn thẳng, cố gắng lên mới vượt qua được. Nếu cứ thả trôi, ngủ gục tức không bao giờ tiến. Vì vậy trong lúc tu hành, nếu chúng ta muốn tiến, muốn vươn lên thì phải đầy đủ nghị lực và tinh tấn. Nhờ đó, chúng ta từ một con người thấp kém, xấu xa tiến lên thành người hay tốt, cao siêu.

Lại nữa, muốn được thiền định và trí tuệ cũng nhờ tinh tấn mà nên. Tất cả chúng ta có bệnh lười biếng, giải đãi. Đó là bệnh thả trôi, mặc kệ tới đâu hay đó, không chịu nỗ lực. Nó đưa chúng ta đến chỗ lui sụt, hư xấu. Chỉ có người tinh tấn mới là người thắng trận.

Tôi thường ví dụ người tu giống như người chèo thuyền ngược nước, ngược gió. Nếu chúng ta không nỗ lực chèo, nó sẽ trôi lần ra biển. Đã ở trên dòng nước ngược thì phải nỗ lực vô cùng. Hình ảnh ngược nước, ngược gió, tôi ví dụ như sự tu hành trái với thói quen của bản thân. Thí dụ người thế gian lớn lên có gia đình, sống theo thế tục, đó là thuận theo dòng đời. Còn quí vị ở đây, có những người còn trẻ chưa lập gia đình, vào chùa xuất gia sống hạnh tu sĩ, đó là ngược với dòng đời. Ngược dòng rất khó, cay đắng như người bơi ngược nước, phải cố gắng tối đa mới khỏi bị cuốn trôi ra biển.

Kế đó là ngược gió, tức là trái với thông tục, thói đời. Thông thường, người ta cứ khuyến khích mình chạy theo tham sân si, khuyến khích mình thụ hưởng dục lạc. Nay chúng ta không theo lối đó là trái với thông tục, với thói quen của thế gian. Những ngọn gió thế gian thường đùa chúng ta trở lại, nhưng mình phải vươn lên tiến tới không lùi. Đó gọi là đi ngược gió. Hai sức đẩy này dồn dập, lôi cuốn chúng ta từ trong bản thân cho tới ngoại cảnh, nếu không có sức gan lì, cố gắng e khó vượt qua.

Cho nên, chúng ta tu phải can đảm, chịu đựng rồi mọi thứ sẽ qua. Đừng nghĩ sao mà khổ quá. Phải nỗ lực, cố gắng, gan dạ mới thắng được các ham muốn, cám dỗ, nhất là những người trẻ tuổi. Cho nên nói tới tu là phải nói tới tinh tấn. Có tinh tấn mới thắng được các thứ chướng của bản thân và ngoại cảnh. Ai thả trôi sẽ có ngày bị nước cuốn ra biển khơi.

Như vậy, tinh tấn là sức mạnh cần yếu của người tu. Phải cố gắng vượt qua các thói quen, nghiệp chướng của bản thân, đó mới là sức mạnh phi thường. Mỗi người phải nỗ lực cố gắng thì sự tu mới tiến, con đường giác ngộ mới rõ ràng, sáng sủa được. Đó là tôi nhắc nhở chung, mong tất cả cố gắng.

Ngày 13-7 Ất Hợi (8-8-1995)

Trong thời thỉnh nguyện hôm nay, toàn chúng đều thấy được những sai sót của mình, can đảm ra giữa chúng sám hối. Đó là điều đáng khen ngợi. Tôi thường nói tất cả chúng ta chưa có ai là Thánh, tự nhiên sẽ có nhiều sai sót, lỗi lầm. Mỗi lần có lỗi lầm đều can đảm sám hối, từ đó về sau mình dễ chừa bỏ, đó là cái hay, cái tốt của người tu. Thấy trong chúng ai có lỗi lầm đều thành tâm sám hối, tôi rất mừng.

Kế đây tôi xin nhắc nhở chúng một điều. Trong kinh Duy-ma-cật, đức Phật dạy: “trực tâm thị đạo tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng là đạo tràng. Đạo tràng là chỗ thờ Phật, chỗ tu hành; chúng ta giữ tâm ngay thẳng, chân chánh thì trước mặt chúng ta có Phật, là tu hành tinh tấn. Nếu tâm ta quanh co, tà vạy, trên đường tu sẽ khó tiến được, bởi vì tất cả đạo đức nằm ở chỗ chân thật.

Đức Phật khi đi tu gọi là đi tầm chân lý, tức là tìm lẽ thật. Muốn tìm lẽ thật thì nội tâm mình phải chân thật, nếu tâm quanh co tà vạy ắt khó thấy được lẽ thật. Cho nên muốn tiến đến chỗ đạt đạo, mỗi người phải khéo giữ tâm ngay thẳng, chân thật. Đó là gốc của đạo đức, là gốc của sự đạt đến chân lý.

Đức Phật dạy như vậy, nghĩa là có trực tâm thì thấy đạo tràng luôn ở trước mắt, còn thiếu trực tâm không thể nào thấy đạo tràng được. Dầu chúng ta ngồi trước bàn Phật ở trong đại chúng nhưng nếu tâm chúng ta tà vạy thì cũng không thấy Phật, không thông cảm với đại chúng. Do đó, khi đã phát nguyện xuất gia, chúng ta phải xả bỏ hết mọi thứ phàm tục, hư dối của thế gian để tìm cái chân thật, nhất là cái chân thật cứu kính.

Vậy tất cả chúng ta nên nuôi dưỡng một tâm chân chánh, ngay thẳng mới có thể tiến tới chỗ cứu kính chân thật. Bằng ngược lại đường tu khó có kết quả tốt. Vậy mong toàn chúng phải luôn giữ gìn tâm ý ngay thẳng, chân thật để đời tu của mình sớm có kết quả mỹ mãn.

Tôi thường nói với tất cả chúng rằng đời tôi không có gì bí mật hết. Bởi vì những gì tôi thấy biết, tôi làm gì, tôi đi đâu đều công khai, không hề giấu giếm. Do tâm thật thà ngay thẳng đó mà trên đường đạo tôi thu thập được nhiều kết quả tốt. Nếu tôi quanh co, tà vạy có lẽ đời tu của tôi không có gì sáng sủa. Quí vị đã nhìn thấy lẽ đó rồi nên ráng tập, ráng ứng dụng.

Gần đây tôi thấy giới tu sĩ của mình miệng nói một đàng tâm ở một ngả. Dạy người không được nói dối, mà chính mình lại nói dối. Có người gặp Phật tử than chùa thiếu, chúng đói, mà tiền đem gửi ngân hàng. Nghe những lời đó tôi cảm thấy khó chịu, không chấp nhận được. Tôi nghĩ người tu là người hướng dẫn, dạy dỗ Phật tử, nếu chúng ta không chân thật thì không biết hướng dẫn họ đi đâu, dạy dỗ họ cái gì?

Do đó tôi mong chư Tăng ở đây mai kia muốn dạy dỗ Phật tử, trước tiên phải là người đạo đức, chân thật. Sở dĩ tôi được chỗ này chỗ kia tiếp tế là do tôi chưa bao giờ than với ai về sự thiếu hụt, về chuyện hết gạo... Tôi cứ lặng lẽ lo cho chúng, được tới đâu làm tới đó, có bao nhiêu nuôi Tăng Ni bấy nhiêu, chớ không hề kêu than xin xỏ ai, cho nên người ta tưởng tôi giàu. Rồi quí vị thấy, chính nhờ tôi ngay thật thành ra tôi giàu thật, phải không? Bây giờ muốn cái gì được cái ấy, tôi không mưu mô, tính toán gì cả.

Như khi thành lập Thiền viện Trúc Lâm, tôi nghĩ sẽ nuôi từ sáu, bảy chục cho tới một trăm chúng, nên lúc xây dựng tôi sắp đặt nhà cửa theo như dự định. Khi xong xuôi rồi tôi lại thầm nghĩ, mình nuôi số chúng như vậy mà trên đây toàn là thông, chúng lấy gì ăn? Nên kỳ rồi đi chơi về có chút ít, tôi nghĩ để dành nuôi chúng được năm ba năm. Tôi lo tính như vậy nhưng bây giờ kết quả lại khác. Như quí vị biết, nhờ Phật tử và du khách tới lui, chùa mình bây giờ có một số lương phạn tạm sống được khỏi phải lo. Tôi đâu có dám tính trước việc đó, nhưng nhờ lòng ngay thật của tôi mà mọi việc đều như ý.

Lúc trước tôi nghĩ tất cả những gì tôi đi ra ngoài có được là để dành nuôi chúng thôi, vì mình ở đây không có một khoản tài chánh tự túc nào hết. Nhưng bây giờ những khoản không tính trước mà có được tôi đem làm Phật sự khác, như trùng tu chùa Phước Hậu, Phật Quang... Như vậy quí vị thấy tôi không than, không tính toán, chỉ nhờ lòng thật thà, ngay thẳng, mà làm cái gì Tam Bảo cũng gia hộ khiến cho muốn ít lại được nhiều, hoặc là chưa dám mong, nó đã xảy đến đúng như ý mình.

Đó là tôi dẫn chứng cho chúng thấy, nhờ chân thật, tất cả những dự tính đều được thành tựu; nếu thiếu chân thật thì mọi thứ mong cầu khó được toại nguyện. Cho đến ngày nay, từ việc tu hành cho đến các Phật sự tôi làm có được kết quả gốc từ tâm chân thật mà ra. Câu Phật dạy “trực tâm thị đạo tràng” quả là một lẽ thật không nghi ngờ gì. Vậy mong toàn chúng sớm lấy đó làm tiêu chuẩn tu hành để có thể đạt kết quả tốt như sở nguyện, từ việc tu cho đến con đường làm Phật sự.

Ngày 28-7 Ất Hợi (23-8-1995)

Tinh thần thỉnh nguyện hôm nay rất tốt, người có lỗi tự giác ra sám hối, hoặc huynh đệ nhắc nhở giùm. Bởi vậy ai còn nhiều xấu dở mỗi lần thỉnh nguyện được nhắc tới nhắc lui, lâu ngày sẽ giảm bớt lỗi lầm đi. Nhờ bớt lỗi lầm nên đạo đức tăng trưởng, đạo đức tăng thì trí tuệ mới sáng. Nếu chúng ta tu mà xấu dở không biết sửa, không biết chừa làm sao đạo đức được tăng trưởng, cho dù cố gắng bao nhiêu cũng không thể có trí tuệ sáng suốt. Đó là lẽ thật. Vậy nên toàn chúng nhờ được nhắc nhở mà sự tu hành càng thêm tinh tấn, đạt kết quả tốt. Đó là tinh thần buổi thỉnh nguyện.

Bây giờ tôi nhắc chúng một vài điểm.

Thứ nhất, tôi tin chắc tất cả chúng ở đây đều là người quyết chí tu hành mong sớm đạt đạo; không có ai đến đây với tinh thần yếu đuối muốn nương nhờ cửa Phật để được yên thân. Đã quyết chí tu, đương nhiên mỗi người phải tự ý thức bổn phận của mình để nỗ lực, cố gắng tu. Tuy nhiên cái bệnh của chúng sanh là khi mới phát tâm thì rất mạnh nhưng một thời gian sau phai lạt dần, khiến cho sự phát tâm bị xao lãng đi.

Khi mới vào đạo quyết chí tu mạnh trăm phần trăm, sau một thời gian sự tu suy giảm, yếu lần xuống tám mươi, bảy mươi phần trăm, có khi chỉ còn năm, sáu chục phần trăm, đó là lẽ thường, ai cũng có. Bởi vậy hồi xưa tôi có nói với chúng Tăng ở Phật học đường rằng: Người nào mới phát tâm tu hành cũng thấy như mình là Thánh hết, nhưng tu một thời gian rồi trở lại phàm, không còn Thánh nữa. Đó là tại tánh chất yếu đuối của con người, cái gì lâu cũng sanh khinh lờn rồi không còn ý chí mạnh như buổi đầu.

Đức Phật luôn nhắc chúng ta mỗi sáng nên rờ đầu một lần. Rờ đầu để nhớ mình đã cạo tóc, xuất gia. Những điều gì có tánh cách phàm tục không có quyền nghĩ nhớ, không có quyền làm. Đó là điều tôi nhắc cho chúng nhớ. Sáng nào ta cũng phải rửa mặt, sờ đầu để thấy cái đầu mình trọc khác hơn thế gian, nhớ mình là người tu, khác người thế tục. Nhớ như vậy để nuôi dưỡng ý chí cao thượng, bằng không nhiều khi tu lâu ý chí suy giảm.

Chúng ta phải đặt Phật quả là mục tiêu cuối cùng của đời mình. Như vậy trên đường tu lúc nào cũng nỗ lực, tinh tấn chớ không giải đãi. Trong Thiền viện chúng ta, ai cũng phải theo đúng thời khóa căn bản. Ngoài ra các giờ khác cũng phải tu, nhưng đó là sự tu nhẹ nhàng, tự mình ý thức trách nhiệm lấy.

Trong sự tu tập, quyết tâm là yếu tố quyết định, có thể san bằng mọi chướng ngại. Ngày xưa tôi đọc sách của Đại sư Thiên Thai Trí Giả dạy ngồi thiền, nếu người nào có u nhọt ở đâu đó trong cơ thể, Ngài dạy trụ tâm ngay chỗ u nhọt đó lâu ngày nó sẽ tan, khỏi phải dùng thuốc cũng được. Sau này tôi mới biết rõ, mình trụ tâm nơi nào thì máu tụ lại nơi đó, nó nóng lên, lần lần những tế bào hư sẽ bị loại đi, u nhọt tan mất. Vì vậy nếu tu khéo sẽ trị được bệnh của mình, chớ không phải không trị được.

Ở Nhật Bản có một vị Thiền sư, đang ở trong chúng bất thần bị phát bệnh cùi, nổi đầy người. Ngài thấy nguy hiểm cho chúng nên từ giã Hòa thượng và đại chúng đi về cất am ở riêng. Sau đó Ngài quyết chí ngồi thiền chết sống chẳng màng. Ngồi mãi như vậy trải qua một thời gian bỗng nhiên Ngài sáng được lý đạo. Sáng đạo rồi, từ từ bệnh cùi của Ngài cũng tan luôn. Như vậy, nếu quyết chí chết sống tu hành thì có thể thắng được những căn bệnh trầm kha, nguy hiểm.

Quí vị nhớ trong sử, Tổ Tăng Xán gặp Tổ Huệ Khả khi toàn thân đang bị bệnh ghẻ lở. Khi nghe Tổ Huệ Khả khai thị một câu, Ngài liền ngộ. Từ đó bệnh thuyên giảm dần, ghẻ lở cũng hết. Vậy mới thấy được đạo đức tu hành là phi thường, chẳng phải tầm thường. Nhiều khi huynh đệ không có được cái tâm tin sâu, hiểu chắc, hễ chớm bệnh là thối tâm, mất tinh thần, đó là chỗ yếu. Chúng ta cứ giữ vững tinh thần tu, chết sống gì cũng được. Chuyện chết sống thật ra cũng là trò chơi thôi.

Trong chúng nếu ai nấy đều quyết tâm tu thì những trở ngại chút ít về bản thân như bệnh hoạn, đau nhức, hay những chướng ngại của ngoại cảnh đều có thể vượt qua. Chúng ta phải cương quyết vượt qua hết những thứ đó, đừng để nó làm mình khó chịu, sanh ra suy yếu rồi thối tâm. Dù có cưng chiều, lo lắng cho thân này bao nhiêu, một thời gian rồi mình cũng phải chết, mà kết quả tu hành không ra gì. Thà chúng ta quyết chí tu, dù có chết cũng chết trong tinh tấn, đó là sức mạnh để đời sau mình tiếp tục không lui sụt. Đây là điều tôi nhắc nhở toàn chúng, khi tu phải gan dạ, quyết tâm, đừng nên yếu đuối. Được vậy, sự tu hành sẽ có kết quả chắc chắn không nghi.

Kế đến, tôi nhắc chúng về một chướng ngại người tu cần phải vượt qua. Đây là bệnh của con người chớ không riêng một cá nhân nào, bệnh ái dục. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Nếu có cái thứ hai bằng ái dục thì khắp thế gian không ai tu được.” Phật đã thấy ái dục là trở ngại lớn của người tu, nhất là những người trẻ tuổi. Tuổi trẻ là cơ hội tốt để tu, vì còn đang dồi dào khí lực, đủ trí tuệ sáng suốt, cơ thể đang mạnh khỏe, nên sự tu hành có thể vươn lên rất nhanh, nhưng cũng dễ sa vào ái dục. Đó là cái gốc trở ngại, nếu vượt qua được rồi thì mọi thứ khác mình đều qua dễ dàng, không khó nữa.

Tôi thấy ở thế gian, không chỉ ngày nay mà cả ngày xưa, có những người không có gia đình vẫn sống tới già, dù họ không biết đạo, không tu. Còn chúng ta cả ngày sống với đạo, bao nhiêu tư tưởng điên đảo, rối loạn buông xả hết, dục sẽ không có cơ hội sanh trưởng. Ái dục xuất phát từ tưởng. Có lần ngài A-nan với một huynh đệ đi khất thực, người bạn thấy cô gái đẹp, ông si mê quá, phải cầu ngài A-nan cứu giúp. Ngài A-nan bảo quán thân bất tịnh và các cách chế ngự khác nhưng không có hiệu quả. Cuối cùng vị ấy tự kiểm điểm một hồi và khám phá ra ái dục từ tư tưởng sanh. Do thấy rõ như vậy, vị ấy dừng dục tưởng, không còn bị quấy rầy nữa.

Vậy là chúng ta biết được gốc bệnh, nếu khởi tưởng ái dục ắt nó làm cuồng loạn; còn nếu không khởi tưởng tự nhiên nó không thể lôi kéo mình được. Biết vậy quí vị luôn nhớ gìn giữ tư tưởng của mình, đừng nghĩ bậy, đừng có những niệm hướng ra nơi này nơi kia, tâm ái dục dần dần bình lặng. Khi nó bình lặng thì mình vượt qua không khó khăn gì.

Ái dục không những có giữa những người khác phái, mà đồng phái cũng có. Cho nên trong chúng ráng dè dặt, cẩn thận, đừng thân thiện quá rồi sau gây ra những điều không tốt, chướng ngại sự tu. Quí vị phải hằng nhớ đến chí nguyện ban đầu của mình để luôn quyết tâm tinh tấn.

Đó là lời tôi nhắc nhở, mong tất cả quí vị thông cảm cho.

Ngày 13-8 Ất Hợi (7-9-1995)

Người ta thường nói, trên đường tu phải thường nhiếp tâm, tinh tấn, không thì dễ gặp các ma chướng, ma sự. Đó là những loài ma chúng ta đã từng nghe nói như là tử ma. Gọi là tử ma, ma chết, vì họ không được siêu hoặc họ làm quỉ thần. Khi thấy chúng ta tu hành họ hay phá phách. Điều đó ngày xưa tôi rất nghi, tôi nghĩ rằng lẽ ra quỉ thần thấy người tu thì ủng hộ để cho có phước, sẽ được mau sanh thành người hoặc sanh lên các chỗ tốt hơn. Cớ sao họ lại phá người tu?

Sau này đọc kinh tôi mới hiểu. Vì ma lúc nào cũng muốn bè phái nó đông, cho nên thấy người tu nó phá. Nó muốn hướng dẫn cho sai lầm để đi theo con đường tà, đi vào nhóm ma, để quyến thuộc nó càng ngày càng đông. Điều này cụ thể như ở thế gian có những người hút xì ke, ma túy. Khi hút, chích họ cũng không bao giờ để yên cho những bạn bè xung quanh. Họ rủ người này, xúi người kia cùng hút chích với họ. Đã lỡ xấu rồi, họ cũng muốn người khác xấu như họ.

Do đó nên biết rằng tâm ma là tâm tà vạy. Nó muốn cho bè bạn nó ngày càng đông, uy thế càng lớn nên hay phá người tu. Vì vậy chúng ta tu phải ráng cẩn mật. Ma phá được chúng ta là do nội tâm chúng ta không chánh, nếu nội tâm mình chánh thì ma không phá được. Nên nhắc nhở trong chúng phải ráng dè dặt, tu hành cẩn mật đừng để tâm buông lung.

Nhiều khi ở đây chúng ta tuyên bố cố gắng tu hành miên mật, không đi đây đi kia để mất thời giờ, cũng không có thời giờ trống nghĩ ngợi lung tung, cho nên ma thấy cũng hơi ngại, nó lại càng cố tình muốn phá mình. Vì vậy quí vị ráng tu cho chín chắn để tất cả những thứ tà vạy không thể phá được. Đó là điều thứ nhất tôi nhắc nhở trong chúng đừng có coi thường.

Điều thứ hai, khi mình tu có nội ma cũng nguy hiểm lắm. Thật ra nếu nói thẳng, nội ma còn mạnh và nguy hiểm hơn cả ngoại ma. Sở dĩ ngoại ma phá phách chúng ta có hiệu lực cũng gốc từ nội ma mà ra. Nội ma là gì? Tức là những tâm tham luyến ái dục, chạy theo ngũ dục, làm cho ma dễ lôi kéo, hướng dẫn mình. Các thứ ngũ dục là tài, sắc, danh, thực, thụy, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nếu chúng ta còn đắm mê một món nào trong những thứ đó đều là cái cớ để ma hướng dẫn mình. Vậy nên chúng ta tu luôn luôn phải chiến đấu với nội ma và ngoại ma.

Chiến đấu với nội ma là mình phải canh chừng vọng tưởng, khởi niệm liền buông bỏ, đừng chạy theo. Dù là lúc lao động, lúc đi chơi cũng phải cẩn mật như vậy. Người xưa nói rằng: Người tu giống như quân lính gìn giữ thành lũy trong lúc chiến tranh, lúc nào cũng phải chăm chăm, thấy rõ.

Tôi nói chăm chăm ở đây không phải kềm chăm chăm mà là phải tỉnh, phải thấy rõ từng tâm niệm không hề lơ là, đó là điều cần yếu. Nhờ chúng ta thấy rõ nên mới có thể dẹp nó được, còn nếu bỏ quên lửng nó sẽ dẫn mình đi. Vọng tâm rất nguy hiểm, nhiều khi chúng ta ngồi thiền nó không dẫn chạy được, đến lúc dạo chơi hoặc cười đùa với huynh đệ, nó liền phóng chạy, buông lung. Vậy nên phải ráng dè dặt, cẩn mật mới chiến thắng được nó.

Vấn đề kế đến tôi muốn nhắc nhở toàn chúng nên lưu tâm là chúng ta ở đây tu theo Thiền tông, nhưng có một số người hay hiểu thiền theo nghĩa không được hay. Ví dụ như có một hai cái lóe sáng nho nhỏ rồi lầm tưởng mình ngộ đạo, muốn bắt chước các Tổ Trung Hoa nói trên trời dưới đất hoặc nói những lời thô bạo không được nhẹ nhàng. Điều đó không đúng. Bởi vậy, đa số người tu Tịnh độ cứ phàn nàn mấy vị tu Thiền hay nghênh nghênh ngang ngang, không có tư cách. Đấy là một tai họa.

Tại sao là họa? Quí vị nên biết, hiện giờ ở trên nước Việt Nam chúng ta, mấy chục ngàn ngôi chùa chỉ có vài nơi biết tu Thiền, còn tất cả đều tu Tịnh độ. Những người tu Tịnh độ chân chánh luôn luôn đặt giới luật làm trên, lấy oai nghi, giới luật, nghiêm trang tề chỉnh làm mẫu mực. Cho nên những Phật tử thuần thục theo học quí thầy chân chánh rất quí giới luật, oai nghi. Rồi họ thấy một số người tu Thiền cứ nghênh nghênh ngang ngang, họ coi những người đó là không đủ giới luật, đức hạnh. Dầu mình nói hay họ cũng không tin. Đó là cái khó của chúng ta trong hoàn cảnh hiện tại.

Bởi vậy chư Tăng chúng ta khi tu cần có đủ hai mặt. Về phần tâm phải thông suốt, về phần giới luật oai nghi chúng ta cũng phải gìn giữ. Có đủ hai phần đó, mình giáo hóa không ngại.

Chúng ta không thể nào bắt chước các Thiền sư Trung Hoa. Bởi vì ở Trung Hoa trải qua các đời, từ đời Đường qua đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã thấm nhuần đường lối tu thiền, nên những ngôn ngữ bất thường, hành động kỳ lạ của các ngài người ta hiểu được. Chúng ta ở đây hoàn cảnh hơi khác, mình tu thiền nhưng phải làm sao cho có sự gần gũi để Phật tử có thể chấp nhận dễ dàng. Chúng ta không thể nào có thái độ nghênh ngang, gây trở ngại cho mình và cũng trở ngại cho sự hoằng hóa. Đó là điều tất cả phải hiểu, phải cảm thông.

Quí vị cũng nên biết Thiền sư Việt Nam chúng ta không hề đánh, hét, không có thoi, đạp.

Các ngài chỉ dùng những lời nói để cho người ta sáng, thấy được đạo, chớ các ngài không làm các hành động lạ. Mà giả sử có làm những hành động lạ trong lúc đối cơ như Mã Tổ Đạo Nhất ở Trung Hoa, thì trong sử vẫn thường nói Ngài đi như trâu, nhìn như cọp, tức là đi một cách vững vàng, đều đặn, chậm rãi, không có vẻ bất thường như muốn chạy, muốn nhảy; còn nhìn như cọp, cọp luôn luôn nhìn thẳng chớ không ngó liếc hai bên. Ngài cũng như vậy, đi đứng đều nghiêm trang tề chỉnh, trừ một hai trường hợp đối cơ, Ngài mới dùng những thủ thuật đặc biệt thôi.

Lại như Tổ Lâm Tế nổi tiếng hay đánh hét, nhưng bình thường hằng ngày oai nghi Ngài rất đĩnh đạc. Bởi vậy trong hội Tổ Hoàng Bá, chính Thủ tọa Trần Tôn Túc cũng phải khen ngợi tư cách, thái độ của ngài Lâm Tế, mới giới thiệu lên Tổ Hoàng Bá.

Qua bao nhiêu đó quí vị cũng thấy người thấu suốt rồi, khi sống luôn có những tư cách mẫu mực, trừ lúc đối cơ muốn giúp người khác sớm được ngộ, quí ngài mới dùng những thủ thuật kỳ đặc thôi.

Chúng ta hiện nay chưa được như các Tổ mà mình tưởng như đã bằng, đó là điều lỗi lầm.

Chúng ta phải luôn luôn sống khiêm tốn, cung kính những người tu trước, dầu tu Tịnh độ hay Thiền tông, ai tu trước mình cũng đều cung kính, để bỏ cái tật nghênh ngang. Nếu quí vị nghênh ngang, người ta sẽ nói tu thiền cống cao ngã mạn. Người nào không biết nể ai, coi như không có ai trên mình hết, xem thường Phật, Tổ, xem thường những người tu trước sẽ bị tổn phước, tổn đức. Vì vậy quí vị phải ráng dè dặt, đừng có thái độ nghênh ngang như vậy không tốt. Phải nghiêm chỉnh, đàng hoàng, lời nói, hành động phải đi đôi, không được nói một đàng làm một ngả người ta thấy chê cười. Đó là điều rất quan trọng.

Quí vị thấy chư Tổ ngày xưa ở Việt Nam, lúc nào tu cũng kinh điển song song với Thiền, nhất là đời Trần. Đây gọi là Thiền Giáo đồng hành, hai cái này không thể rời nhau. Bởi vì Việt Nam là một nước nhỏ, văn hóa không bằng Trung Quốc, người tu phải có trình độ văn hóa để mọi người trong xứ biết và mến phục. Nếu dốt thì không làm gì được. Như vua Trần Thái Tông, Ngài chẳng những lo việc nước mà khi rảnh rỗi thì xem kinh, học chữ Nho cho giỏi, nên những bài về Thiền học Ngài viết rất hay, nhờ vậy mới truyền bá được. Rồi tới Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng thế, vừa biết rõ đạo lý, vừa có những áng văn chương hay, nên khiến người ta nể phục.

Ngày nay nếu chúng ta dốt quá, kinh không biết, sử cũng không rành, rồi cứ nói càn, nói bậy, làm sao người chung quanh tin được. Cho nên chúng ta cần có một vốn liếng căn bản, vừa hiểu Phật pháp, vừa biết diễn tả những gì mình hiểu cho người khác thông cảm. Đó là điều hết sức cần thiết, đừng coi thường. Có nhiều chú không biết, mới hiểu được chút ít, rồi bỏ hết không chịu học hành. Đến lúc ra ngoài, người ta hỏi gì nói cũng không được, chừng đó mới khổ. Lúc ấy muốn học lại, không có ai dạy. Vậy nên mấy chú phải ráng, sao cho nội tâm mình thanh tịnh, hành động bên ngoài nghiêm trang, có đủ lời lẽ để diễn tả cho người hiểu được cái hay của đạo. Được như vậy là quí. Tôi thấy một số chú nhỏ có bệnh khinh thường này, ăn nói nghênh ngang, cứ tưởng mình như Tổ. Nếu hiểu chưa tới nơi mà có thái độ đó là tổn phước, gây trở ngại trên đường tu.

Tôi nhắc trong chúng ráng cẩn thận. Mình tu cốt phải thông suốt đạo lý, tức là phải ngộ, dù ít dù nhiều, hoặc tiểu ngộ hoặc đại ngộ, đó là cái gốc. Nhưng khi ngộ rồi mình phải có thái độ bình tĩnh, sáng suốt, nghiêm trang, có đủ tư cách một người tu chân chánh, vậy sau mới có thể giúp người.

Ngày 28-8 Ất Hợi (22-9-1995)

Hôm nay thỉnh nguyện thấy toàn chúng có ít lỗi lầm, đó cũng là một tiến bộ đáng mừng của chúng.

Kế đây tôi nhắc lại câu chuyện hôm rồi mình đã coi trong cuộn phim. Quí vị có nhớ lúc Thái tử ngồi tu dưới cội bồ-đề, tới đoạn thấy có người ở ngoài, rồi Thái tử nắm tay người đó... Nhớ không? Người đó là người nào vậy? Tôi nhắc lại cho quí vị nhớ để biết sự tu hành tới chỗ cứu kính như thế nào.

Trong cuộn phim đó, đạo diễn có sơ suất là đáng lẽ lúc Thái tử ngồi dưới cội bồ-đề thì quân ma kéo tới bao vây, khủng bố Ngài trước, và sau khi chúng tan rồi mới tới mấy cô thiếu nữ đến để dụ dỗ Ngài. Nhưng trong phim lại thấy trước là thiếu nữ cám dỗ rồi sau mới tới quân ma khủng bố. Đó là sai thứ tự trong lịch sử.

Và đây tôi nói rõ cho chúng hiểu. Thái tử tu trải qua bao nhiêu năm gian khổ, gặp mọi hoàn cảnh khắc nghiệt, tới phút cuối cùng ở dưới cội bồ-đề vẫn còn thấy hiện ra những cảnh kinh khủng. Trước hết, ma hiện đủ thứ, nào là đầu trâu mặt ngựa, binh khí đầy dẫy. Chúng tới bao vây Ngài, bảo Ngài phải về, đừng tu nữa, tu không thể nào thành đạo được. Khi ma khủng bố như vậy, Phật dùng cái gì để trị nó? Đó là điều chúng ta phải hiểu cho thật rõ. Gần đây có nhiều người tập tu thiền, hoặc ở thất tu một mình, nghe nói ma phá rồi sợ. Nghĩ mình tu phải có cái gì trị ma, cho nên học thần chú, bùa trị ma, hoặc học bắt ấn trị ma. Đó là cái lối của người tu Phật sau này.

Trở lại đức Phật chúng ta, lúc đó Ngài có tụng chú gì không? Ngài có bắt ấn đánh ma không? - Ngài chỉ lấy định tâm để hàng phục. Dù cho ở bên ngoài có những hình ảnh ghê tởm, kinh khiếp khủng bố mình, nếu chúng ta nhất tâm an định, mặc nó làm gì cũng không sợ, thí chính sự nhất tâm an định làm cho ma không hại mình được, phải tự xấu hổ rút lui. Đó là điều thiết yếu. Bởi vậy chúng ta thấy lúc đó Phật chỉ nhiếp tâm thiền định thôi, chớ không làm gì hết.

Tới đoạn thứ hai là ma nữ. Trong sử ghi lại, lúc ấy có một số mỹ nữ hiện ra, trong đó có người giả Da-du-đà-la, tới nhắc nhở, khêu gợi, tình tứ như thuở nào. Đó là nó muốn làm cho Ngài động tâm. Sự khủng bố của ma tuy có uy lực mạnh nhưng nếu liều chết nhắm mắt lại, tĩnh tâm thì ít động niệm. Tâm dễ động nhất là khi ma dùng mỹ nữ, hiện những người thân yêu của mình nhắc nhở, làm sống dậy những cái ái thuở trước, làm cho tâm dễ xao xuyến, loạn động. Đó là cái thuật rất sâu. Ma khủng bố tưởng như nguy hiểm nhưng chưa phải sâu, sự thử thách sau mới sâu hơn. Cho nên ma nữ tới sau chớ không tới trước.

Bọn ma nữ dùng mọi thuật quyến rũ cốt lôi cuốn tâm Ngài, làm Ngài khởi lòng yêu mến, bị ái nhiễm rồi quên sự tu hành. Lúc đó Ngài dùng cái gì trị? Ngài không nhiếp tâm nữa mà chỉ nói: “Chúng bây là bọn giặc ma giả dối, những hình ảnh hư ảo. Hãy đi, đừng hòng quyến rũ ta!” Ngài nói vậy, chúng xấu hổ bỏ đi hết. Đó là cái gì? Đó là trí tuệ. Cho nên trong kinh A-hàm, Phật thường nói: “Ta dùng cây cung Thiền định và mũi tên Trí tuệ dẹp phá ma quân.” Quí vị nhớ kỹ điều này.

Khi ma khủng bố làm cho mình kinh hoàng thì phải nhiếp tâm thiền định. Khi ma dùng những thứ hấp dẫn để quyến rũ, lường gạt, mình phải sáng lên, thấy rõ sự giả dối, tạm bợ của nó, thấy đúng rồi thì nó tự tan hết. Vậy chúng ta tu theo Phật phải nhớ hai điểm đó để ứng dụng.

Ví dụ bây giờ mấy chú đi đâu gặp các cô thiếu nữ, họ tỏ vẻ quyến luyến, thương yêu, chừng đó nhiếp tâm không nổi thì phải làm sao? Tất nhiên là phải quán rồi. Dùng trí tuệ Bát-nhã quán thân này như huyễn, không có thật, là hư ảo. Phải luôn luôn quán để chặn tâm ái chớ làm thinh không được. Vì vậy cái gì thích hợp với bệnh của mình phải dùng cho đúng, trị nó mới hết, nếu không biết dùng thì bệnh hoài không dứt được. Đó là tôi nói cho thấy hai chặng quan trọng trước.

Kế đến hai chặng sau. Khi Ngài đang ngồi yên tức là qua lần thử thách rồi, bỗng dưng thấy một người là hình ảnh của Ngài ở bên ngoài. Ngài đưa tay nắm người đó. Hai người nắm tay, rồi người ngoài tan đi, khi đó trên đầu Ngài phát hào quang sáng, sáng đó là ngộ đạo. Đây là hình ảnh tượng trưng, chớ sự thật không phải như vậy. Bởi vì khi mình tu, tâm đã thanh tịnh, vượt qua hết những chướng ngại rồi, tới lúc phát tuệ sẽ nhận chân được con người muôn thuở của mình.

Chúng ta đang sống đây ai cũng bám vào thân tứ đại làm thân mình, bám vào suy gẫm tính toán làm tâm mình. Nhưng thực tế hai cái đó biến chuyển vô thường, là thứ bại hoại, không thật. Phật đã nhận chân được lẽ đó nên Ngài mới đi tu. Đi tu là cố tìm cho ra cái chân thật. Chúng ta vì bám vào cái vô thường, sanh diệt, nên thân này hoại, tiếp tục mang thân khác, cứ thế mà trầm luân sanh tử khôn cùng.

Bây giờ muốn thoát khỏi sanh tử không gì hơn là tìm cho ra con người chân thật của mình, con người đó không bị sanh diệt, vô thường chi phối. Cho nên thoát ly sanh tử là gốc của sự tu. Thường ngày mình quán thân này vô thường, quán nhân duyên, quán giả hợp. Thân này do duyên hợp, hợp rồi tan, sanh rồi diệt, không phải thật. Đó là đứng về thân. Còn về nội tâm thì những niệm nghĩ suy, những tính toán là tướng sanh diệt, chợt có, chợt không, không có thật thể.

Vì vậy mình biết rõ ở ngoài là thân, ở trong là tâm, hai thứ này đều là tướng sanh diệt, theo nghiệp để tạo thiện, ác, đi trong luân hồi, cõi lành, cõi dữ mãi mãi khôn cùng. Dù cho sanh lên cõi trời cũng là cảnh sanh diệt. Cho nên đối với Phật, Ngài thấy ở cõi trời vẫn chưa hết khổ, chỉ khi nào dứt được sanh tử mới hết khổ.

Như vậy trong chúng ta, ngoài cái thân sanh diệt và tâm sanh diệt, vẫn còn cái thật thể bất sanh bất diệt. Nhưng chúng ta lâu nay không biết, chỉ biết có hai tướng sanh diệt thôi. Bởi vậy chúng ta ngồi lại tu luôn luôn thấy thân này không thật, nhớ từng hơi thở, từng nhịp tim, từng mạch máu chuyển động không dừng nên mới còn, nếu nó ngừng chuyển động thì chết, chớ không có gì thật hết. Rồi những tâm niệm chợt dấy lên, chợt mất đi cũng không phải thật là mình.

Lặng hết những sanh diệt đó, thể bất sanh bất diệt hiện tiền. Khi chưa lặng cái đó cũng sẵn có, nhưng tại mình mê, chấp cái sanh diệt là mình cho nên quên. Bây giờ hết mê, hết chấp cái sanh diệt thì cái bất sanh bất diệt hiện tiền. Bởi vậy mình tu là cốt nhận ra cái chưa từng sanh diệt đó. Lục tổ Huệ Năng đã nói trắng ra với người đầu tiên hỏi đạo Ngài.

Khi ngài Huệ Minh thưa: “mong cư sĩ vì tôi nói pháp”, Lục Tổ bảo:

- Ông đã vì pháp mà đến đây thì nên dứt sạch mọi duyên chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông nói.

Huệ Minh im lặng giây lâu. Tổ bảo:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

Một câu nói đó đầy đủ vô cùng. Bản lai diện mục tức là mặt thật muôn đời của mình. Nó chỉ hiện ra khi nào tâm nghĩ thiện, nghĩ ác dừng. Thái tử khi ngồi dưới cội bồ-đề, tâm Ngài không bị xao xuyến bởi những cái khủng bố, quyến rũ, tâm an định, tự tại nên con người thật của Ngài hiện ra. Thấy được con người thật gọi là giác ngộ, là thành đạo. Hiểu như vậy mình mới thấy Thiền tông là cốt tủy của đạo Phật chớ không thể nói khác hơn được. Còn nếu không hiểu vậy thì tưởng như nó xa lạ, khác thường.

Như vậy, chuyện tu của chúng ta không phải là chuyện tầm thường thế gian. Người thế gian không biết con người chân thật, bám chặt thân hư dối và tâm vọng tưởng cho là mình, tạo nghiệp đi trong luân hồi. Người tu biết mình có cái chân thật rồi, nghĩ lại thương xót tất cả thế gian đang bị mê muội, kéo lôi trong vòng sanh tử. Vậy nên chúng ta phải làm sao thoát ly sanh tử để cứu giúp họ, đó chính là lòng từ bi. Đây mới là việc lớn, còn tất cả việc thế gian hay việc Phật sự chưa có việc nào lớn hết. Chỉ có việc chính mình giác ngộ, thoát ly sanh tử rồi chỉ dạy cho người giác ngộ, ra khỏi sanh tử mới là việc lớn của người tu.

Khi xem cái gì chúng ta phải hiểu thấu đáo những hình ảnh, thì việc xem của chúng ta mới có giá trị. Nếu chỉ coi cho vui thôi thì không có ích gì. Đây là tôi muốn nói rõ cho tất cả hiểu để ứng dụng tu theo đúng tinh thần của đức Phật.

Giờ tới phần sắp đặt việc chúng. Ngày mai tôi giao cho Thông Bản lãnh đạo một nhóm lên tụng Tam qui, Ngũ giới cho Phật tử. Đây là một việc làm mới trong Thiền viện, cũng có thể mới trong Phật giáo Việt Nam mình, cho nên mấy chú phải cẩn thận một chút. Bởi việc làm này có thể về dưới kia người ta bắt chước làm theo, nên đây là mở đầu quan trọng.

Trước khi tụng tôi sẽ có mặt để nói ít lời cho họ hiểu ý nghĩa. Dạy người khác làm mà họ không biết ý nghĩa thì cũng chỉ gượng làm theo thôi, chớ họ không hiểu, không thích việc đó. Nên tôi cũng nói sơ ý nghĩa cho họ hiểu, rồi bắt đầu tụng. Thâu băng đàng hoàng để về dưới đó cho quí Phật tử biết.

Sở dĩ tôi làm điều này là do hai động cơ thúc đẩy. Thứ nhất là Phật tử của mình thật đông, nhưng qui y xong về họ không biết gì nữa. Làm lễ qui y rồi thì thôi, tưởng như vậy là xong việc, rốt cuộc Phật tử không biết tinh thần tu hành ra sao, tu như thế nào. Nếu ở gần, được quí thầy giảng dạy thường thì biết chút ít, còn những người ở xa như Tân Châu, Hồng Ngự... lên Thường Chiếu qui y, rồi về dưới cả một hai năm không lên lần nào, rồi không biết gì hết.

Thứ hai nữa, gần đây chúng ta thấy ngoài Bắc có nhóm Trúc Lâm; trong Nam, ở thành phố có hai nhóm: Tuệ Tâm và Thái Tuệ, mỗi nhóm cả trăm người. Họ cũng tu theo mình, mỗi tháng hay mỗi tuần họp lại tại chùa tụng kinh, ngồi thiền, nghe băng để tìm hiểu, trao đổi thêm với nhau. Nhưng chúng ta không có chương trình gì để cho họ tu, bởi vậy tôi thấy cũng có trách nhiệm. Khi họ tụ hội lại như vậy, mình phải có một đường lối hướng dẫn cụ thể. Trước hết phải tụng Sám hối, tụng Ngũ giới làm căn bản, rồi sau đó mới tọa thiền, nghe băng, trao đổi ý kiến với nhau, như vậy hay hơn. Do đó tôi mới soạn thảo chương trình này để tụng hằng nửa tháng hay hằng tháng cho tất cả hiểu.

Tôi không chịu tụng có vẻ ê a nhiều, vì tụng giới là một sự khẳng định mạnh mẽ, thệ nguyện mà, thệ không làm cái này, thệ không làm cái kia. Thành ra mình phải tụng rõ ràng, chậm rãi mà cứng rắn chớ không phải yếu ớt. Đó là ý tôi, nói cho quí vị hiểu.

Ngày 13-8 nhuần Ất Hợi (6-10-1995)

Hôm nay thỉnh nguyện, trong toàn chúng chỉ thiểu số có vài lỗi. Những người có lỗi cũng có lý do chánh đáng. Vậy cho thấy rằng tinh thần tu hành trong chúng đã tiến bộ nhiều. Kế đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng để cố gắng tiến lên.

Chủ trương của tôi lâu nay là phàm làm việc gì phải có kết quả, chớ tôi không chịu làm chỉ để làm thôi. Cho nên tất cả mọi công tác từ nhỏ tới lớn tôi đều chú ý tạo điều kiện làm sao cho việc làm đó có kết quả, vì tôi chủ trương mình không thể nào bỏ công làm một việc vô ích. Thà không làm, làm thì phải có kết quả tốt.

Hồi còn nhỏ tôi hay nghe các vị lớn tuổi nói: “Phàm nhân bá nghệ hảo tùy thân.” Lại có người nói: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.” Hai câu đó quí vị thấy nghĩa ngược nhau. Một câu thì nói người có một trăm nghề là cơ hội để tùy thân, tới đâu gặp việc gì mình cũng sống được hết. Câu thứ hai nghĩa là làm một nghề mà chuyên thì sẽ tốt đẹp cho thân mình sau này. Trong hai câu đó, từ lâu rồi tôi đã chọn một câu. Quí vị nghĩ tôi chọn câu nào? Câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, chớ tôi không chịu câu kia.

Tại sao vậy? Bởi vì tôi chủ trương làm cái gì phải làm cho đến nơi đến chốn chớ không thể làm nửa chừng rồi bỏ dở. Mình biết rất nhiều mà không có cái gì giỏi, không có cái gì dùng được thì cái biết đó chỉ tạm bợ thôi, không đưa tới kết quả tốt. Cho nên làm việc gì cũng phải đi tới tột cùng con đường của mình. Nên lúc đi tu tôi có nguyện: “một lần cạo tóc là không bao giờ để tóc lại”, nghĩa là mình đã chọn con đường này rồi thì không thể nào thay đổi ý kiến nữa.

Khi ở trường, tức tại Phật học đường chùa Ấn Quang, có quí thầy học trước tôi hai năm như thầy Bửu Huệ, thầy Thiền Tâm và một số thầy khác nữa. Đến lúc ra trường, hai thầy có nguyện là không làm Phật sự mà xin nhập thất mười năm. Vậy là ra trường rồi quí thầy về quê nhập thất. Tôi thấy nể quá. Ngược lại lớp chúng tôi thì vừa học, vừa đi giảng, làm tứ tung. Cho đến cuối năm 1966 tôi xin nghỉ, nhập thất. Nhớ lại hai thầy nhập thất mười năm mà chưa thấy có gì kỳ đặc, tôi nghĩ mình nhập thất chuyến này chắc cả hai ba chục năm không biết có ra gì không? Nên tôi tuyên bố với Phật tử, tôi nhập thất không có hạn kỳ. Khi nào thấy có gì hay, mới, tôi sẽ mở cửa ra để dạy thêm, bằng không cứ tiếp tục nhập cho đến chết.

Khi nghe tôi tuyên bố như vậy, ai nấy cũng tưởng tôi nhập thất chắc lâu lắm. Không ngờ năm 1968, tức năm Mậu Thân, tôi khởi sự nhập thất từ rằm tháng 4 tới tháng 7, năm đó nhuần hai tháng 7, tới ngày 21 tháng 7 nhuần thì tôi sáng được lý Bát-nhã.

Từ đó tôi mới coi lại tất cả kinh lâu nay học mà còn nghi, đọc tới câu nào hiểu câu ấy rõ ràng, cho nên tôi rất vui, vui luôn cả hai ba ngày. Rồi tôi đem tất cả sách thiền ra đọc. Hồi xưa tôi đọc không hiểu gì hết, bây giờ đọc tới đâu hiểu tới đó. Ngang đây tôi thấy có một con đường mới, cho nên tôi cố gắng tra khảo, nghiên cứu. Khi gặp cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của ngài Khuê Phong, tôi càng nắm vững tinh thần Thiền hơn. Sau đó tôi mới tin rằng Thiền tông có thể hiểu và thực hành được. Cho nên tới ngày 8 tháng 12 tôi mở cửa ra. Nhiều người cho rằng: “Tuyên bố dài quá chắc nhập không nổi, ngán nên mở cửa ra sớm.” Nhưng họ không ngờ thời gian nhập thất tuy ngắn mà đã có kết quả.

Khi xét lại tôi mới thấy rõ: trọng tâm sự tu của mình là ở chỗ quyết tâm. Đã không tu thì thôi, nếu tu phải quyết tâm sống chết thì thời gian sẽ rút ngắn hơn rất nhiều, còn tu mà không quyết tâm thì thời gian có thể kéo dài. Bây giờ chúng ta tự kiểm điểm lại, nhiều người xem tu như là cái nghề vậy, cứ làm những chuyện bình thường như đi cúng, tụng kinh rồi thôi, chớ không quyết tâm tu hành sống chết. Vì vậy suốt cả đời tu rất lâu mà không có kết quả.

Bởi vậy tôi muốn trong chúng làm việc phải có quyết tâm. Việc gì mà quyết tâm cũng đều có kết quả tốt. Sống trong cuộc đời này, trên mọi lĩnh vực, người nào làm việc gì mà không quyết tâm, chỉ làm cầm chừng lấy có thì khó mà tiến nổi. Việc tu hành của chúng ta do chúng ta chọn lựa để tiến lên, để làm suốt đời, đây là một việc rất khó, khó hơn tất cả. Nếu không quyết tâm, làm sao thành công được? Vì vậy, chúng ta quyết chọn con đường này rồi phải nỗ lực sống chết, sẽ có kết quả chắc chắn không nghi ngờ.

Ngày 13-9 Ất Hợi (5-11-1995)

Hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Những lời này là tôi chứng kiến sự thật trong lúc đi về Thường Chiếu.

Kỳ này về, đầu tiên là gặp T.L. ra đảnh lễ, xin tôi giới thiệu cho được ở lại Thường Chiếu tu. Tôi nói rõ rằng T.L. là người đã lớn chớ không còn nhỏ, mấy lần rồi tôi sắp đặt mà không được. Bởi vì T.L. đã hai ba phen bỏ đi, đi rồi trở lại, tứ tung như vậy tôi làm sao giới thiệu được. Năn nỉ quá chừng tôi cũng cương quyết không nhận lời. Đó là một sự kiện cụ thể cho toàn chúng thấy, mình tu mà không có lập trường, nay vầy mai khác, nay muốn ở đây, mai thích ở chỗ khác, rốt cuộc không có chỗ dung thân. Đó là một cái phiền do mình không có lập trường.

Kế đó tôi thăm các vị nhập thất bên Ni. Có một cô tôi miễn kể tên, khi thưa trình sự nhập thất lạy tôi khóc quá chừng, trình với tôi rằng:

- Hồi sắp vô thất, con cứ đinh ninh là con nhập thất trong vòng một tuần lễ rồi sẽ chết, bởi vì con ở ngoài vừa bệnh tim, vừa huyết áp cao, lại bị đau bao tử. Ba bốn bệnh, cứ nay mệt, mai mệt hoài. Tới phiên nhập thất, con nói thôi kệ, cứ vô chừng tuần lễ rồi cho nó chết. Bởi vậy khi nhập thất con nghĩ mình chết chớ không sống. Một, hai ngày đầu cũng bình thường. Đến ngày thứ ba, thứ tư gì đó, tim nó quạt lên mạnh quá, ngộp thở. Con nghĩ rằng thôi chấp nhận chết. Mọi lần ngồi thiền con ngồi hai tiếng, bữa đó tính cho nó chết luôn nên ráng ngồi hơn hai tiếng rồi tới ba tiếng, bỗng nhiên cả người mồ hôi ra ướt áo hết. Lúc đó tâm được yên, nghe bệnh mệt mất tiêu. Đến chừng xả thiền ra thì tất cả bệnh không còn.

Thường chúng ta vừa nghe có bệnh là sợ, không có ý chí để vượt lên. Còn cô ấy là Ni mà gan dạ liều chết, chấp nhận chết cho nên sống được. Nghĩa là qua được cơn chết thì sống, đó là một bằng chứng hết sức cụ thể. Khi nỗ lực, liều chết tu, người ta sẽ vượt qua hết bệnh hoạn, cũng có thể dễ thấy đạo. Trong chúng, ai cũng có ý chí liều chết mà tu, tôi nghĩ rằng sẽ có những bước tiến vượt bậc. Bởi vì có khi bệnh không nhiều mà mình cứ quan trọng, tưởng đâu nặng lắm, rồi bị ám ảnh, do đó không dám tu vì sợ tu nhiều bệnh thêm. Cứ như vậy thành lui sụt hồi nào không hay.

Vì vậy, khi gặp những cơn bệnh ngặt nghèo mình phải tu quyết tử, nếu tâm vững mạnh liền thắng, còn tâm yếu tự nhiên bị thua. Khi đã vượt qua được, chẳng những hết bệnh mà còn sáng được đạo lý nữa. Vậy nên tất cả phải có lập trường cho vững, ý chí kiên quyết thì trên đường tu bảo đảm sẽ vượt qua các khó khăn, còn yếu yếu khó mà qua được. Chúng ta phải thấy thân này không ra gì, sẵn sàng xả bỏ bất cứ lúc nào. Hễ mình chấp nhận chết nó lại không chết, còn sợ chết thì sẽ chết. Cho nên cứ gan dạ can đảm coi thường, chúng ta sẽ vượt qua các bệnh, lại thêm trí tuệ sáng suốt.

Tôi nghĩ rằng mọi người đều có khả năng giác ngộ chớ không riêng ai, nhưng khả năng đó chỉ dành cho những người có ý chí quyết tâm, còn những người yếu đuối khó mà đạt kết quả. Vì vậy, chúng ta ai ai cũng nên nhìn cho thật kỹ, thấy cho thật rõ đường lối tu, đồng thời mình phải quyết tâm liều chết mà tu thì trên đường tu sẽ có kết quả tốt, không nghi ngờ chút nào. Người nữ còn có thể làm được những việc tốt đó, huống nữa mình là nam nhi, ý chí quả quyết mà lại thua kém hay sao? Đó là lời nhắc nhở của tôi.

Ngày 28-9 Ất Hợi (20-11-1995)

Hôm nay thỉnh nguyện, trong chúng những vị có lỗi lớn hoặc nhỏ đều biết để ra sám hối. Đó là tinh thần tự giác tốt. Giờ đây tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Thuở xưa Tổ Bá Trượng có nói: “Thấy bằng với thầy còn kém thầy nửa đức. Thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao.” Quí vị nghe câu đó mới thấy tinh thần nhà đạo lúc nào cũng mong mỏi những người đệ tử bằng hoặc giỏi hơn mình, để gìn giữ sự nghiệp, đường lối, hướng dẫn chỉ dạy cho người sau được đầy đủ, trọn vẹn hơn. Đó là cái mong mỏi của người lớn.

Ở đây, tôi lúc nào cũng nghĩ rằng trong mấy mươi người hiện có mặt, mỗi vị có mỗi tài riêng, đức riêng và chỗ hiểu đạo lý riêng. Những cái riêng đó đều quí. Người có tài giúp cho Thiền viện được nhiều việc tốt, người có đức giúp cho Thiền viện được nhiều người quí kính, người tỏ sáng hiểu được đạo lý thì làm cho Thiền viện mình được mọi người tin tưởng noi theo. Cho nên lúc nào tôi cũng mong mỏi trong chúng có những người tu đạt đến chỗ tỉnh giác đáng mừng, đáng quí, nói cách khác là “À” được, để mình đủ điều kiện hướng dẫn người sau.

Tuy nhiên, tôi cũng nói lại, trong chúng người tài phần nhiều có một hai bệnh lớn. Luôn luôn người giỏi có bệnh tự cao khó mà tránh được, vì thấy mình làm được, người khác làm không được cho nên cống cao, ngã mạn, thấy mình hơn người. Ngược lại người khác thấy người đó có tài hơn mình, đôi khi họ sơ ý đụng chạm, mình thấy như khinh khi, lấn lướt mình. Do đó mà không vui, bực bội với nhau. Vì vậy có tài chừng nào càng phải khiêm tốn nhiều chừng nấy mới tránh làm người khác phiền não, bực bội.

Còn có đức là điều quí, không làm tăng trưởng ngã mạn. Mình luôn luôn dùng đức để cảm hóa người khác. Nếu nói có đức mà lại chê người này, trách người kia, là làm cho đức của mình giảm đi. Người có đức lúc nào cũng đem điều hay, tốt, an lạc lại cho mọi người, chớ không bao giờ làm cho người ta phiền não, vì như vậy làm mình bị tổn đức.

Người có trí sớm tỉnh, sớm giác là một điều quí báu. Mình tỉnh mà thấy người khác chưa tỉnh thì phải thương. Nhưng thương cũng có hai cách, một là tạo duyên để người khác tiến, đó là cách thương tốt. Hai là thương rồi muốn họ có cái nhìn, cái thấy giống như mình, nhưng căn cơ trình độ họ chưa tới, bắt họ giống như mình không thể được. Người tỉnh ngôn ngữ nói khác, người mê ngôn ngữ nói khác, bây giờ người tỉnh muốn người mê ăn nói giống mình, hành động giống mình thì đó là họa. Vì người kia chưa tỉnh không thể nào làm giống mình được.

Cho nên, ở khía cạnh nào cũng có cái hay và cái dở, mình biết rồi thì phải nhìn đủ mặt. Khi mình có tài, có đức, có sự tỉnh giác thì phải có cái nhìn tường tận hơn, đừng để gây ra sự vui buồn cho người chung quanh không tốt. Một vườn hoa, nếu chỉ có một đóa hoa sẽ không bao giờ thành vườn hoa được. Muốn thành vườn hoa đẹp phải có nhiều hoa, tuy có những đóa kém phần rực rỡ nhưng nó cũng góp phần tô điểm vườn hoa.

Cũng vậy, chúng ta đừng nghĩ chỉ có mình ta là được việc, còn người khác làm không được, hay chỉ mình ta có đức hạnh còn mọi người không ra gì. Phải nhìn cho thật kỹ, thấy những người ở đây đều là những đóa hoa, dù to hay nhỏ, dù đẹp hay xấu cũng đều tô điểm cho Thiền viện mình trở nên phong phú, quí báu. Đừng nên khinh thường một người nào, trái lại tất cả phải có tinh thần đoàn kết, kẻ giỏi hướng dẫn người dở, ai có đức thì dìu dắt người kém đức, kẻ tỉnh nhắc nhở người mê. Làm sao cho mọi người ở trong Thiền viện này đều phát triển được những điều hay, đẹp, tăng trưởng đạo đức chân chánh, đó là điều mong mỏi của tôi.

Tôi đã từng nói với quí vị, cuộc sống này không phải bao giờ cũng như ý mình hết. Có khi gặp những cảnh tốt thuận hợp. Có khi gặp cảnh xấu trái ý. Cảnh tốt là thuận, mà thuận thì tiến chậm; cảnh xấu là nghịch, tuy nghịch lại giúp tiến nhanh. Nếu chúng ta biết tu, nhờ nghịch cảnh chúng ta mới thấy được mình còn tham, sân hay không. Cái gì cũng thuận hết thì những thứ tham sân đó chìm ẩn trong tàng thức mình đâu thấy.

Bởi vậy ở trong chúng rất có lợi, khi mình có chỗ dở, gặp những phản ứng của người chung quanh, mình mới biết để sửa. Còn ở riêng muốn làm gì cứ làm, nói gì cứ nói, không có ai chống trái nên không biết chỗ yếu của mình. Ở trong chúng, có những cái rất hay để mình học, lại có những cái rất dở để mình ngừa tránh. Như vậy, mọi thứ nếu biết học đều là bài học hay cho chúng ta.

Đừng nghĩ rằng tại sao trong chúng còn có kẻ dở này, người dở kia; cũng đừng đặt câu hỏi tại sao lại có người không ưa hay chống đối mình. Cứ nghĩ là trong chúng các duyên thuận hoặc nghịch đều là cơ hội tốt để đưa mình tiến lên. Cũng đừng nghĩ người này xấu với mình, người kia ác với mình..., nghĩ như vậy là sai lầm. Gần đây tôi thấy trong chúng có cái mầm không được hòa lắm, nên tôi phải nhắc cho quí vị nhớ.

Kế nữa, tôi chỉ cho quí vị thấy rõ ý nghĩa đời tu của mình. Chính con người có đạo đức, có trí tuệ thì mới làm lợi ích cho Phật pháp mai sau. Cái chùa hay Thiền viện không thể làm lợi ích cho người được. Có lợi ích hay không là do khả năng của người lãnh đạo. Giá trị Phật pháp nằm ở nơi con người, còn chùa hay Thiền viện đẹp thì du khách tới viếng chơi, chớ không có làm lợi ích gì. Vì vậy người nào hay, tốt là người sẽ làm lợi ích cho đạo mai kia, chớ đừng nghĩ lãnh chùa lớn là lợi ích cho nhiều người.

Tôi lấy tôi làm bằng cớ. Hồi ở Huệ Nghiêm, qua hai năm tôi dạy trường Vạn Hạnh, tiền lương mỗi giờ dạy năm trăm đồng, tôi dạy hai năm, góp nhóp được hai chục ngàn đồng. Khi rời Huệ Nghiêm lên núi tu, hai chục ngàn đồng đủ cất một cái thất bằng lá dừa và xây được một hồ nước đủ cho tôi xài. Bao nhiêu đó đối với tôi là hạnh phúc lắm rồi. Một cái thất lá, một hồ nước nhỏ, mình tự sống tu. Vậy là khi tôi ra khỏi Phật học viện, gia tài chỉ bấy nhiêu thôi. Từ đó tôi cố gắng tạo duyên tốt để tiến tu, và nhờ tôi tu được nên sau này mới làm Phật sự, xây dựng Thiền viện...

Những cái đó không ai ban cho tôi, cũng không ai chia cho tôi. Thầy tôi không có chùa nào hết, cả đời Người chỉ lo hoằng pháp lợi sanh. Chùa Phước Hậu, Hòa thượng Hoằng Phú làm Trụ trì. Chùa Phật Quang là của Hòa thượng Hoằng Tâm. Còn Hòa thượng Viện trưởng chỉ ở nhờ để làm Phật sự, cả lúc làm việc ở Ấn Quang cũng vậy. Nên khi Hòa thượng tịch rồi, không có cái gì để trao cho đệ tử hết, chỉ dạy cho đệ tử hiểu đạo tu, ngày nay tôi kế thừa được cái đó. Kế thừa đạo lý nơi thầy để học tu, nhờ học tu nên bây giờ làm được các Phật sự.

Như vậy, tất cả quí vị đừng nghĩ mai kia mình sẽ có những gì bằng hoặc hơn thiên hạ, mà nên nghĩ mình phải làm sao có đạo đức thâm hậu, phải làm sao tỉnh giác trọn vẹn. Hai cái đó có đủ rồi thì quí vị không muốn chùa cũng có chùa, không muốn làm Phật sự lớn cũng được làm. Còn nếu hai cái đó chưa có thì dầu muốn bao nhiêu cũng không được. Nếu ai đó cho ngôi chùa thật to mà đạo đức mình không đủ, trí tuệ không sáng thì chùa to đó rồi cũng để váng nhện đóng, chớ không có lợi gì.

Vì vậy trên đường tu tất cả đều phải nỗ lực, cố gắng làm sao cho mình có đạo đức, có trí tuệ, để mai kia cầm ngọn đuốc sáng soi đường cho người mê ra khỏi đau khổ tăm tối, đó là trọng tâm, là mục đích của mình. Như vậy, ở đây chúng ta bắt đầu tổ chức thành một ngôi Thiền viện với tư cách là khôi phục Thiền tông Việt Nam, một việc làm vừa mới, vừa lớn lao. Khôi phục Thiền tông của đất nước không phải là chuyện một cá nhân làm được, mà phải có sự đóng góp của nhiều bàn tay, nhiều công sức mới thực hiện được.

Chúng ta có cơ hội tốt, đủ duyên lành tụ hội lại một nơi thì chúng ta phải ráng, kẻ góp công, người góp sức để tô điểm, xây dựng cho ngôi Thiền viện được bền lâu. Đây là của chung tất cả chớ không của cá nhân ai, chúng ta phải làm sao cho ngôi Thiền viện này luôn sáng sủa, vững bền, đó là mình gầy dựng được cái nền Phật giáo Việt Nam lâu dài. Đừng nghĩ mai kia tôi chết rồi, cái này của người này hoặc của người kia, đừng bao giờ nghĩ như vậy.

Ngày nay chúng ta ở đây là cơ hội tốt để cùng gầy dựng lại nền tảng Phật pháp đã suy lụn, làm cho nó được vững bền, tốt đẹp. Đây là một sự đóng góp chung, quí vị cứ nhớ như vậy mà cố gắng tu, cố gắng làm sao để mình là một người góp phần lớn lao cho sự nghiệp Phật pháp mai sau. Nhớ như vậy là tốt, chớ còn nhớ cái gì riêng tư là không hợp đạo lý.

Vậy mong tất cả trong chúng, ai cũng có cái nhìn như vậy. Thấy chung, lo chung để làm được Phật sự chung, đừng nên riêng rẽ. Phật giáo đã chia rẽ lắm rồi, nếu ngày nay chúng ta cũng còn tâm niệm chia rẽ nữa thì quá tệ. Cho nên tôi mới đề ra lục hòa là muốn cho toàn chúng sống trong tình đoàn kết, hòa hợp, trên dưới như một, để chung lo Phật sự lớn. Vậy trong toàn chúng ai cũng phải nhớ mình là một viên gạch, một hòn đá để xây dựng ngôi nhà Phật pháp mai sau. Đừng nên thấy mình là một ngọn núi riêng, không tốt, không có lợi ích cho nhiều người.

Một điều nữa cần nhắc thêm, ở Thiền viện nếu tu ít, lâu ngày dễ sanh phiền não, tôi thấy rõ như vậy. Cho nên mỗi người phải nỗ lực tu, để từ trên xuống dưới sự tu hành đều được đầy đủ, không bê trễ. Bởi vì trọng tâm của mình ở đây là tu, còn việc bên ngoài là hình thức phương tiện thôi. Thật ra, sự lo lắng của tôi, không phải là chuyện đói no, ấm lạnh, vì tôi thấy Phật tử rất thương mình, không bỏ mình đói, nên tôi chỉ lo làm sao cho chúng ở đây tu được. Vì tôi đã tuyên bố đây là lý tưởng tối hậu của tôi, nếu toàn chúng tu không ra gì thì lý tưởng đó mất, không còn giá trị.

Hơn nữa, bây giờ nhu cầu Phật sự của mình ngày càng lớn, chớ không giới hạn như lúc trước. Khi nhu cầu đòi hỏi, Phật sự càng lớn thì người tu chúng ta phải làm sao có đạo đức, trí tuệ đáng tin, để mai kia mình đưa vai gánh vác. Còn nếu mình tu không ra gì mà nhu cầu đòi hỏi nhiều quá, phải cho ra làm thì thế nào cũng hỏng việc.

Ngày xưa trong nước mình chỉ có mấy Thiền viện thôi, nhưng bây giờ chỗ này chỗ kia mời, nhất là ngoài Bắc, Phật tử cũng muốn mình ra dạy họ. Như vậy nhu cầu Phật sự rất lớn, nếu trong chúng tu không được thì mai kia làm sao đáp ứng nổi. Bởi vậy tôi mong tất cả trong chúng từ trên xuống dưới ai cũng phải tu thật cẩn mật. Nhờ tu cẩn mật quí vị mới có những bước tiến mạnh và vững, để khi tôi nhắm mắt, có thể thay thế làm được những việc gần xa.

Số chúng hiện nay khoảng bốn mươi. Trong số đó phải có mười hoặc trên mười người đáng tin cậy. Nếu trong bốn mươi mà chỉ được một, hai người thì không làm nổi việc gì. Vậy ai cũng phải hạn chế đi lại để có thời giờ tu, không nên thả lỏng quá, chính cái thả lỏng làm mình thiệt thòi. Ngày nay còn sức khỏe, còn tu được mà thả trôi, tới mai kia già yếu rồi muốn tu, tu cũng không được. Vậy nên, mỗi người phải tiết kiệm thời giờ để tu hành. Đó là lời tôi khuyên nhắc, tất cả nên lưu ý cố gắng.

Ngày 13-10 Ất Hợi (4-12-1995)

Hôm nay thỉnh nguyện thấy toàn chúng không có lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Chúng ta tu mỗi ngày mỗi tiến, cho nên những sai sót, lỗi lầm mỗi ngày mỗi giảm bớt, đó là lẽ thật. Vậy nên tất cả đều cố gắng tu hành, đừng để lỗi lầm sống trở lại nữa. Đó là điều tôi mong mỏi.

Kế đến, tôi xin nhắc nhở toàn chúng.

Trong chúng gần đây tôi thấy nhiều người còn nóng lắm. Nóng giận là một bệnh rất nguy hiểm. Trong ba món tham, sân, si thì si là số một, tham là số hai, sân là số ba. Cái si rất thâm trầm, nó chìm lặng ở trong thâm tâm ít ai thấy. Cái tham hiện rõ hơn, còn sân rất là bồng bột, cháy bỏng, nó dấy khởi thì nguy hiểm sẽ kèm theo, không thể lường trước được. Bởi vậy, cái sân tuy không sâu, nhưng lại nguy hiểm.

Sở dĩ tôi nói không sâu, vì như trong kinh Phật dạy, người sanh cõi trời Sắc giới thì không còn sân nữa, chỉ còn tham và si. Sân chỉ có ở cõi Dục giới của chúng ta. Tại sao nó có ở Dục giới? Vì trong cõi Dục này có hai lý do làm mình dễ sân. Một là do tham, mình muốn cái gì mà bị ai ngăn trở không đạt được ý muốn thì nổi sân lên. Hai là do bản ngã, chúng ta thấy mình cao, mình lớn, cho nên ai động tới là nổi sân.

Có nhiều vị than “tánh tôi nóng quá”. Than như vậy thấy cũng đáng thương, nhưng sự thật đừng nói tánh nóng, phải nói có thói quen nóng, vì thói quen là do mình tập. Thường người lớn ở trong gia đình lúc nào cũng dễ nổi nóng hơn người nhỏ. Như con có làm gì sai thì cha mẹ la rầy, chớ cha mẹ làm sai con đâu dám la. Như vậy mình chỉ nóng với người dưới chớ không nóng ngược lên người trên. Cũng thế, đối với người không có địa vị hoặc địa vị ngang mình hay thấp hơn mình, họ làm trái, mình dễ nổi nóng. Còn với người địa vị cao, có quyền thế hơn mình, họ làm trái mình đâu dám nóng.

Như vậy cái nóng đó tôi gọi là nóng coi mặt chớ không phải nóng thật, đã không thật thì không gọi là tánh. Nói tánh không chánh xác. Vì tánh là cái sẵn có không đổi dời được, như nói lửa có tánh nóng thì tất cả lửa đều nóng, nước có tánh mát thì tất cả nước đều mát, cái đó không hề thay đổi.

Vọng tâm chúng ta không như vậy, với người thấp hơn nó dễ sân, với người cao hơn thì ít sân. Như vậy, sân có kèm theo chấp ngã. Khi nào thấy ngã mình cao, ngã mình quan trọng thì dễ nổi sân, ai chạm tới, mình tóe lửa liền. Vậy tất cả nên xét kỹ cái ngã này không thật, chỉ là tướng duyên hợp hư dối. Chúng ta thấy rõ rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, cho nên giả sử có ai nói hay làm điều gì xúc chạm đến bản ngã của mình, mình chỉ cười thôi, “cái thứ không quan trọng, có gì đâu mà bảo vệ”. Nghĩ vậy tự nhiên bớt sân.

Ở đây chúng ta không tham cầu gì, cho nên lý do thứ nhất ít xảy ra, nhưng lý do thứ hai vì bản ngã còn nhiều. Đó là tôi nói nguyên nhân của sân. Bây giờ tôi nói đến tai họa của sân.

Khi chúng ta nổi sân lên, lời nói và hành động của mình không thể kềm chế được, mình nói mà không lường được tai họa của nó, không nghĩ thốt ra sẽ làm người ta buồn bực như thế nào. Vì vậy mới sanh ra nhiều chuyện, người này buồn trách người kia, hoặc phản đối rồi nổi nóng với nhau. Lúc nóng giận thì lời nói không thể kiểm soát được.

Kế đó là hành động, ở thế gian khi nổi sân hành động phát ra thô tháo rõ rệt, còn ở trong đạo, biết tu nên hành động nhẹ nhàng hơn. Thí dụ ở ngoài nổi giận là xăn tay áo muốn thoi đánh nhau, còn chúng ta trong chùa nổi giận thì mặt đỏ, miệng nói lời thô, tay chân múa may, không được bình tĩnh. Như vậy cũng là những hiện tượng xấu, người khác thấy dễ bất mãn.

Người tu chúng ta dù chưa được quả Thánh, nhưng ít ra cũng phải dằn nóng giận, tham lam và si mê. Nóng giận là cái nổi, mình cần kiểm tra nó thường xuyên, vừa có liền buông bỏ. Ở thế gian có ai dùng ngôn ngữ, hành động lấn hiếp, mình chống cự, phản đối lại để được thắng họ thì thiên hạ khen. Còn trong đạo đối với người tu, dầu mình phải trăm phần trăm mà bị người ta chửi hoặc đánh, nếu mình chửi lại, đánh lại chưa chắc được ai khen, trái lại người ta còn đánh giá mình ngang với kẻ thế gian kia.

Chỗ hơn của người tu là nhẫn được, nhịn được. Người ta chửi mình, mình im lặng. Người ta đánh mình, mình không la lối, tức giận, đó là thắng. Như vậy mọi người mới thấy mình tu đàng hoàng đứng đắn, không còn nóng giận, không có hơn thua. Với cái nhìn thế gian, không chống trả là thiệt thòi, nhưng thật là mình có sức an nhẫn mãnh liệt, chịu đựng nổi cơn nóng giận và chiến thắng được điều trái tai gai mắt. Không có gì làm cho mình phải bực tức, đó chính là sức mạnh phi thường của người tu.

Từ xưa đến nay người ta hay nói nhẫn là nhục, nhưng thật ra trong đạo không phải vậy. Nhẫn là chiến thắng, đó là chiến thắng mình. Trong kinh Pháp Cú có câu: “Thắng vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.” Khi cơn phẫn nộ vừa dấy lên, mình thắng được nó, đó là một chiến thắng lớn lao chớ không phải thua thiệt, nhưng người đời không biết điều này. Đối với người tu, mỗi khi gặp trường hợp trái nghịch, cơn phẫn nộ nổi lên, lúc đó mình dìm nó xuống và bình tĩnh được, đó là mình đã thắng, trên đường tu đã bước một bước khá dài. Nếu để một trận lôi đình nổi lên thì tất cả công phu tu đều tiêu tan.

Bình thường chúng ta ăn ở hiền lành, nói năng đạo đức, tới khi nổi sân la hét lên thì những người chung quanh không còn thấy mình là người đạo đức nữa mà là người nóng giận, hung dữ. Bởi vậy tu khác người thế gian, người thế gian nổi giận la hét người ta còn bỏ qua, tha thứ được, chớ người tu mà nóng giận la hét ít ai tha thứ. Nổi nóng chứng tỏ mình còn nông nổi, cạn cợt, đạo đức chưa thâm hậu.

Vậy nên đã tu, tất cả quí vị phải ráng kềm chế, chiến thắng cơn phẫn nộ nơi mình. Những điều trái tai gai mắt chúng ta xem thường, bỏ qua, đừng nổi cơn giận tức la hét, sanh ra những chuyện lôi thôi, người khác nghe thấy, đánh giá tập thể của mình không có giá trị gì. Đó là điều tôi thường hay nhắc, tất cả phải ráng thực hiện cho được.

Tôi rất thông cảm với người có trách nhiệm nhiều, vì lo lắng nhiều nên dễ nổi sân. Mình muốn bảo vệ công tác hay tập thể của mình mà có ai làm trái ngược lại dễ nổi tức lắm. Tôi nhớ hồi ở Huệ Nghiêm, mấy chú gọi tôi là ông ác. Vì tôi cố tình giữ làm sao cho Phật học đường - lúc đó có hơn ba trăm Tăng - luôn luôn tốt đẹp, học hành tiến tới và cuộc sống được đầy đủ đạo đức. Cho nên việc gì họ làm trái nghịch lại thì tôi dễ nổi giận.

Có một lần tôi giận run. Hôm đó có hai chú đi học trường Bồ-đề về, ngồi ăn cơm với nhau. Trong bàn có bốn năm người, không biết cãi nhau cái gì đó, một chú cầm chén cơm quăng ngay vô đầu chú kia xối máu ra. Nghe vậy, chiều tôi họp chúng, giận phát run lên. Bực mình vì ở thế gian còn chưa có hành động như thế, mà trong đạo lại cư xử thô lỗ đến vậy, làm sao chịu nổi. Tôi tuyên bố: “Tội này không dung được, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải rời khỏi Phật học viện.”

Tôi tuyên bố xong, chiều lại có một số chú lên cầu xin tha thứ. Tôi nói không thể tha thứ được, nhất định phải phạt như vậy, phải ra khỏi chúng. Một số khác nói: “Bây giờ thời buổi hỗn loạn, Thầy đuổi nó đi, rồi nó theo phe này nhóm kia, sau trở lại đánh Thầy thì sao?” Tôi nói: “Tôi chấp nhận hết! Việc làm của tôi là vì đạo, ai xử cách nào cũng vui. Nhất định trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải ra khỏi chúng!” Nên người ta nói tôi là Ông Ác. Tôi không thể chịu nổi trong một tập thể tu hành mà quá tệ như vậy.

Hồi xưa gặp việc như vậy thì nổi nóng, đến lúc lên Chân Không tu rồi, tôi nói đó là cái ngu của tôi, một trong ba cái ngu tôi thường kể. Bởi vì khi gặp việc xấu, dở mà mình nổi giận run lên thì đó là ngu. Bình tĩnh cũng nói được, đợi gì phải nổi giận! Nếu xử phạt, không cho người đó ở thì mình cứ tỉnh táo bình thường mà nói. Bình tĩnh là tốt, còn nổi giận run lên, người ta đánh giá sự tu hành của mình yếu đuối. Dù việc làm phải mà nổi sân cũng thành quấy, nên tôi nói là ngu. Chuyện rất phải mà mình nổi nóng thì cũng chưa phải.

Cho nên trong chúng, dù ở hoàn cảnh nào, người có trách nhiệm nặng hoặc nhẹ, hay chỉ là một chúng thường, tất cả đều phải luôn luôn dè dặt, đừng để cơn sân nổi lên. Nhất là ở Thiền viện này, nơi người ta cho là đầy đủ điều kiện lý tưởng để trở thành một vị Tăng đáng quí đáng mến.

Vì vậy tất cả phải cẩn trọng tối đa, đừng nóng giận, làm mất tư cách của người tu, đó là điều tôi nhắc toàn chúng. Ai có bệnh nóng nảy phải ráng hạn chế đừng để nó phát triển, cũng đừng cho nó dấy động. Giữ gìn như vậy lần lần tập thể mình sẽ càng ngày càng tốt. Vậy mong tất cả cố gắng tự kềm chế mình, những điều không hay ráng giữ đừng để xảy ra.

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 26-5 Ất Hợi (23-6-1995)

Qua buổi thỉnh nguyện, đa số đều tự giác cao, biết được lỗi lầm của mình ra chúng sám hối. Vậy là rất tốt.

Hôm nay có điều Thầy thấy cần phải nhắc nhở. Tụi con sống trong Thiền viện, đang tu và làm mọi công tác trong Thiền viện, có khi thân của mình sống nơi đây mà tâm lại ở chỗ khác. Ở đây Thầy tạo duyên cho tụi con không bận bịu, nếu ở đây lại bận lo nơi đâu, tự nhiên tâm không an và tu không tiến. Giả sử có những trường hợp cha mẹ ở xa già bệnh, có lẽ tụi con nghe tin đó xao xuyến lắm. Bây giờ Thầy đặt câu hỏi lại: Nếu tụi con nghe cha mẹ già bệnh, ở đây cứ lo lắng thương nhớ..., có làm được gì cho cha mẹ không? Nếu lo nghĩ mà được việc cũng nên lo, còn nghĩ nhớ mà không giải quyết được gì, cứ ôm ấp trong lòng mãi chỉ là uổng công vô ích. Điều gì mình làm được nắm chắc trong tay mới lo nghĩ để làm, điều làm không được nên buông bỏ, đừng bận tâm.

Trách nhiệm người tu không như trách nhiệm người thế gian, chỉ lo cho cha mẹ có cơm ăn áo mặc. Tụi con ở đây tu, đem về cho cha mẹ niềm vui là kết quả tốt của sự tu hành, đó là cái vui lâu dài. Đừng ở đây mà lo nghĩ rồi tâm xao xuyến, như vậy đối với cha mẹ, mình không làm được điều lợi ích mà việc thực tế mình đang tu cũng không có kết quả. Đó là phí thời giờ quí báu một cách vô ý nghĩa. Cho nên tụi con phải ráng xét cho thật kỹ, cái gì lo nghĩ mà làm được cho người thì nghĩ, còn không làm được nên bỏ.

Như vậy, đối với cha mẹ già bệnh còn không nên lo nghĩ nhiều, huống là những chuyện thế gian với người này người nọ, nếu tụi con quan tâm suy nghĩ là tự giết chết thời giờ quí báu của mình. Cho nên khi nào nhớ điều gì ngoài trách nhiệm của mình, tụi con phải tự quở rầy: “Mình sống nơi đây mà để tâm chạy đi đâu? Sống ở đây một ngày một giờ là quí báu như vàng ngọc, tại sao bỏ phí vô ích?” Cứ rầy quở như vậy tâm tụi con lần lần yên ổn, chớ thả cho đi một hồi rồi mới kéo về muộn màng lắm, không có kết quả lại mất nhiều thời giờ vô ích.

Tụi con phải luôn nhớ chuyện tu của mình là việc làm hết sức cao cả quí báu. Chúng ta không để nó mất một cách vô ích, cũng không đổi nó với một giá không xứng đáng. Bởi vậy, khi có điều gì thoáng qua trong tâm, tụi con muốn theo nó, liền nhớ và tự quở trách: “đây là điều không đáng, vô nghĩa, không nên nghĩ nhớ”, rồi buông. Luôn sống trong thực tế, làm tròn bổn phận hằng ngày. Giờ tu, học, công tác, luôn giữ tâm an ổn thanh tịnh, không để thời giờ luống qua.

Người đời khi đi học tới lúc thi cử đâu dám thả trôi. Việc gì thấy phí thời giờ vô ích họ không dám làm, lo dồn hết vào việc học để thi đậu. Còn bây giờ đối với tụi con, việc đang làm cao quí hơn cả sự học thế gian, vậy mà để cho cái tầm thường chen vào làm ngăn trở, đó là điều hết sức phí phạm. Do đó tụi con phải cẩn thận gìn giữ tâm mình, đừng để xao xuyến loạn động. Tất cả thời giờ là giờ tu, tất cả thời giờ là giờ tỉnh giác chớ không phải giờ bỏ phí vô ích. Đó là điều thiết yếu.

Tụi con đã hi sinh một cuộc đời, đi tu là chuyện khó làm mà tụi con làm được. Bây giờ tới chuyện thứ hai là tu làm sao cho có kết quả để khỏi cô phụ chí nguyện ban đầu, phụ công cha mẹ, Thầy Tổ giáo dưỡng, kỳ vọng nơi mình. Nên tụi con phải cố không để tâm xao lãng, đừng cho nó chạy nơi này nơi kia. Phải ráng kềm chế quở rầy cho được an ổn, được vô sự thì sự tu mới tiến, mới có kết quả như sở nguyện. Không khéo hết năm này sang năm khác, năm bảy năm cũng đứng một chỗ, không tiến chút nào. Cha mẹ, Thầy Tổ trông đợi, rốt cuộc tụi con tu chẳng ra gì. Như vậy là uổng công mình đã phát nguyện, cũng phụ ơn những người lo lắng cho mình.

Thầy mong tất cả tụi con gan dạ mạnh mẽ, làm sao một ngày tu là một ngày tiến, không đợi nhiều tháng nhiều năm. Ngày nào mình ở trong đạo đều xứng đáng là một người tu, đừng để phí. Những thứ vớ vẩn đâu đâu phải gạt qua một bên, làm cho được điều mình cần làm, không nên lôi thôi để luống qua ngày tháng. Đó là tụi con biết tu, xứng đáng là người quyết tâm cầu giải thoát, có lòng từ bi, muốn cứu độ chúng sanh để đền đáp bốn ân. Vậy mới đúng ý nghĩa người đi tu bỏ tất cả. Nếu không, bỏ tất cả vào chùa rồi lại phiền não các thứ nhỏ nhặt vô ích, những việc không đáng gì cũng vướng. Rốt cuộc mình cũng như người thế gian, đó là chính mình phản bội mình, không có lợi mà còn phí cả đời người.

Hôm nay thỉnh nguyện chỉ có một lỗi đáng nói là để tâm phóng đãng, ruổi rong vơ vẩn. Thầy nhắc chung để tất cả cố gắng kềm chế giữ gìn, sao cho ngày giờ ở đây là ngày giờ hữu ích cho tụi con, tháng nào năm nào cũng là năm tháng tụi con vươn lên, không đứng ở một chỗ chớ đừng nói lui sụt. Đó là đền ơn Thầy.

Ngày 13-6 Ất Hợi (10-7-1995)

Tất cả chúng trong đây đều quyết tâm tu hành để giải thoát sanh tử, cần có đầy đủ công đức. Công đức có được là do xả kỷ, tức là quên mình vì chúng, vì mọi người, và do tinh tấn, cố gắng tu tập.

Trước hết nói xả kỷ. Do mình giúp được người này, làm lợi cho người kia, nhờ đó được công đức. Nhưng khi giúp người, làm lợi cho người mình phải chịu thiệt thòi và bận bịu, phải hi sinh công việc của mình mới làm lợi cho người được. Vì vậy, tập xả kỷ có nghĩa là quên mình cầu đạo, chớ không phải vì bản ngã của mình mà cầu đạo. Đạo là đạo đức, có được nhờ quên mình, cho nên người xưa nói “xả thân cầu đạo”. Quên thân mình thì đạo đức mới phát triển được.

Bây giờ nói cụ thể, như trong Lục độ, pháp thứ nhất là bố thí. Muốn bố thí nội tài hay ngoại tài hoặc pháp thí, có cái nào không xả kỷ mà được? Thật ra lòng tham của chúng ta không biết bao nhiêu cho đủ, nay có của ngoại tài muốn giúp ai bớt khổ thì phải bỏ lòng vị kỷ của mình, chia sớt cho người khác, đó là xả kỷ. Thứ hai là nội tài, đem khả năng của mình ra giúp cho huynh đệ hoặc người khác, đó là quên mình, xả kỷ. Nếu ai ích kỷ quá sẽ không làm được việc đó. Thứ ba là bố thí pháp cũng vậy, muốn cho mọi người hiểu đạo, sống được đạo thì chúng ta phải chịu khó học và giảng dạy cho người ta hiểu. Không thể nào mình ngồi làm thinh mà người ta hiểu được. Tóm lại, việc bố thí, ngoại tài, nội tài, và thí pháp đều là tâm nguyện quên mình vì người.

Kế đến, trì giới là giữ giới của người tu, hoặc là giới Tỳ-kheo, Thức-xoa, Sa-di. Cố giữ các giới là bảo vệ đức hạnh. Đức hạnh tức là không làm cho người và vật khổ. Thí dụ giữ giới không sát sanh, giả sử muỗi cắn mình đau, phải giữ giới hay đập cái chát mới vừa lòng? Muốn giữ giới, lấy tay nhè nhẹ đuổi nó hoặc quạt cho nó đi. Đó là thí dụ chuyện nhỏ. Giữ giới là phải xả kỷ, không thể thỏa mãn lòng ích kỷ mà giữ giới được.

Nhẫn nhục có xả kỷ không? Người ta mắng mình, nói xấu mình, nếu không xả kỷ thì nổi sân đùng đùng và la hét. Phải luôn nhớ chúng ta tu có đức hạnh là do tinh tấn nhẫn nhục... Nhờ nhẫn nhục mà tăng trưởng công đức. Tụi con là người tu, giả sử có cư sĩ hay người ngoài tới nói chuyện, họ tỏ vẻ không bằng lòng, la lối và nói những lời nặng nhẹ. Khi đó nếu mình là người tu thật, muốn gìn giữ công đức thì phải nhẹ nhàng xả kỷ, để cho họ lấn lướt chút ít không sao, coi mình không ra gì cũng được. Không nặng bản ngã mới gìn giữ được công đức.

Như vậy mọi công đức gốc từ xả kỷ, không do ích kỷ mà có. Tất cả người tu cầu đạo giải thoát, phải luôn có tâm quên mình vì người. Đừng để khi nhớ lúc quên, sân si sanh khởi. Chúng ta dầu hiểu đạo tới đâu đi nữa, nếu còn sân si phiền não thì không ai tin được. Nên tụi con ráng gìn giữ đạo đức bằng sự quên mình. Đó là đạo đức đầu, nền tảng quan trọng nhất của người tu. Ai tu mà bo bo giữ bản ngã, đề cao bản ngã thì đường tu không đến đâu dù họ có thông minh hiểu nhiều Phật pháp. Vì vậy, tất cả tụi con nhớ, muốn tu có sức mạnh, được lợi ích lâu dài, muốn thực hành hạnh giải thoát thì phải xả kỷ. Đó là bước đầu đối với bên ngoài.

Bước thứ hai đối với bản thân, lúc nào cũng giữ hạnh tinh tấn. Tu mà không tinh tấn chẳng bao giờ đến nơi đến chốn. Như ngồi thiền, nếu không tinh tấn không ngồi nổi hai tiếng đồng hồ, mới một giờ hoặc một giờ rưỡi nghe mỏi nhức liền xả ra ngồi chơi. Như vậy lâu ngày thành thói quen không vươn lên nổi. Nếu tụi con có ý chí tinh tấn, khi nhức mỏi mình cố gắng vượt qua. Nhờ cố gắng lâu thành thói quen, vượt qua cái khó rồi ngồi lâu được như mọi người. Như vậy tinh tấn giúp mình vượt qua những khó khăn, giúp mình thành tựu những hạnh đang tu.

Từ công tác đối với đại chúng, tới bản thân tu hành nếu thiếu tinh tấn làm cái gì cũng khó vuông tròn được. Tinh tấn là gốc vươn lên. Hơn nữa, tu thiền định muốn đạt được trí tuệ, tinh tấn thật cần thiết. Nếu không có tinh tấn, một là gặp khó khăn nhọc nhằn mình dễ thối chí, hai là mỗi khi buồn ngủ thả trôi cho ngủ luôn. Người tinh tấn dù buồn ngủ đến mấy, chợt nhớ lại là gắng gượng lên, đừng để yếu đuối chìm luôn. Nên khi ngồi thiền hơi mê mê phải giật mình chấn chỉnh cho mạnh, mắt mở thật sáng để cố gắng vượt qua chỗ u minh của mình. Như vậy mới có thể vươn lên được, nếu thả trôi, mặc tình ngủ gục, cho ngủ gục không quan trọng gì thì tụi con không thể vượt khỏi chỗ tối tăm đó.

Tụi con phải nỗ lực tinh tấn tu hành, đừng chần chờ. Thế gian gọi là nhiệt tình, làm cái gì cũng sốt sắng, còn trong đạo thì phải tinh tấn. Tinh là chuyên ròng, tấn là gắng lên. Tinh tấn có khác với nhiệt tình ở ngoài thế gian. Ở thế gian, nhiều khi nhiệt tình trong cái hay mà cũng nhiệt tình trong cái dở. Hay dở thế nào? Ví như có người làm cật lực vẫn không kịp, không nổi, mình nhiệt tình tới giúp họ làm cho xong công tác, đó là nhiệt tình tốt. Còn có những người bệnh ghiền á phiện, xì ke làm công tác lơ mơ không nỗ lực cố gắng, kiếm không ra tiền, mà mình nhiệt tình giúp họ có tiền để hút xì ke ma túy, nhiệt tình đó chỉ là hại thôi.

Tinh tấn trên phương diện tu hành, đạo đức là cố gắng chuyên ròng để tiến lên chớ không có tạp nhạp như thế tục. Chữ tinh tấn dùng để chỉ cho người trong đạo lúc nào cũng chuyên tâm cố gắng tu, chuyên tâm cố gắng làm lợi ích cho đạo, cho mọi người. Tinh tấn để nỗ lực vươn lên, cứu giúp chúng sanh. Ai tinh tấn nhiều dễ vượt thắng ma ngủ và ma giải đãi, còn ai tinh tấn ít bị con ma giải đãi và ma buồn ngủ lôi. Đó là chuyện thật. Vì vậy khi nào buồn ngủ nhiều, trong người nhọc nhằn, tụi con dùng tinh tấn vươn lên, đừng thả trôi để cho ma hôn trầm muốn làm gì thì làm, kéo đi đâu thì kéo, không được! Đó là điều rất thiết yếu.

Tất cả tụi con tu, Thầy chỉ rút gọn có hai điều.

- Một là xả kỷ, tất cả những gì có tánh cách phạm tới bản ngã, mình đều bỏ qua. Vậy mới làm lợi ích được cho nhiều người.

- Hai là tinh tấn, làm tròn trách nhiệm tu sĩ của mình.

Nếu thiếu hai điều này khó tu tiến. Vậy mong toàn chúng nhớ và thực hiện cho được. Ai sân nặng phải xả kỷ nhiều, còn ai si nặng phải tinh tấn nhiều. Si dễ buồn ngủ nên phải dùng tinh tấn. Thầy thường gọi là cây roi tinh tấn, dùng nó quất thì con ma giải đãi buồn ngủ chạy đi mất. Nếu thiếu hai điều này tụi con không thắng được.

Thầy mong tất cả cố gắng, đừng chậm trễ bê tha, uổng đi một đời. Chúng ta có mặt nơi đây mấy chục năm, ráng làm cho được điều cần làm. Muốn vậy phải cố gắng, đừng lôi thôi. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Ngày 28-6 Ất Hợi (25-7-1995)

Kỳ thỉnh nguyện này ít lỗi, đa số là lỗi nhỏ không đáng kể, vì sự sơ suất không phải cố tình. Như vậy trên đường tu tụi con càng ngày càng quen với nếp sống Thiền viện, quen sống trong tinh thần Lục hòa. Được như vậy là đáng mừng.

Hôm nay Thầy nhắc thêm một điều cho tất cả hiểu rõ để ứng dụng tu. Tất cả người tu Phật, ai cũng nghĩ rằng mình tu cho hết khổ, tu để đến chỗ an vui. Đó là mục tiêu của người tu. Nếu chúng ta tu mà cứ lẩn quẩn trong vòng đau khổ thì sự tu không tiến.

Bây giờ làm sao cho hết khổ? Làm sao được vui? Đó là một vấn đề phải nhìn cho tường tận, biết cho rõ ràng mới giải thích được. Tất cả đau khổ của chúng ta từ mê lầm mà ra. Mê lầm cái gì? Mọi người ai cũng như ai đều chấp thân tứ đại này là mình, cho nó là thật, là quí, sang trọng... Vì chấp thân này thật, quí, sang trọng nên chạy theo nhu cầu đòi hỏi của nó. Như mắt đòi hỏi thấy sắc đẹp, tai thích nghe tiếng hay, mũi khoái ngửi mùi thơm, lưỡi đòi nếm vị ngon, thân ưa xúc chạm thích thú. Vì vậy năm căn dính với năm trần.

Tạo được duyên để thỏa mãn tất cả đòi hỏi ấy rất khó khăn, nhọc nhằn. Do đó ít có ai thỏa mãn trọn vẹn sự đòi hỏi của năm căn. Khi không được như ý họ lại buồn khổ, nhất là khi muốn hưởng thụ mà không được hưởng, hoặc ngược lại, điều mình không muốn lại tới. Thí dụ mình muốn thấy đẹp, toàn là cái xấu đến, muốn nghe hay lại nghe toàn những lời chát tai, muốn ngửi mùi thơm, toàn mùi khó chịu đến với mình... Những thứ mình muốn không được, còn bị ngược lại nữa, thế là khổ.

Như vậy, vì muốn hưởng thụ nên nỗ lực làm cho có là khổ rồi, nhưng cái khổ đó còn đỡ vì được thỏa mãn như ý. Còn muốn mà không được, ngược lại nhận toàn những thứ mình không ưa, cái đó càng khổ nhiều hơn nữa. Hai thứ khổ này, khổ mong cầu cho được và khổ trái ý mình đều gốc từ chấp thân mà ra. Đó là mê lầm. Do chấp thân thật, quí và sang trọng mà có khổ.

Kế đó là khổ về ý. Những điều chúng ta nghĩ tính, suy lường đều cho là tâm mình. Bởi cho là tâm mình nên chấp chặt. Có khi chúng ta lý luận theo nhận xét riêng của mình cho là đúng, nếu ai bác là sai liền buồn, sanh bực bội với nhau rồi khổ. Có khi chúng ta biết lý luận mình sai, nhưng vì chấp ngã nên không chịu nhận sai, cố cãi lại cho được, nổi gân cổ lên mà cãi, cãi đến chừng nào thắng mới thôi.

Do chấp ý niệm là đúng, là chân lý nên sanh bực bội khi có ai làm trái ý hoặc không đồng ý với chỗ hiểu của mình, không chịu phụ họa điều mình muốn, điều mình cho là hay. Vậy nên khổ. Tụi con kiểm lại xem có phải tất cả khổ là do chấp thân này thật, chấp ý niệm này đúng mà làm cho người ta cả ngày bị phiền não không? Ngoài hai cái chấp đó không có khổ.

Thật ra thân không thật, duyên hợp tạm có rồi sẽ tan hoại. Nay chấp là thật, quí, đó là mê lầm chấp thân. Tâm niệm là những tướng sanh diệt chợt có chợt không, như mây như khói, mà mình chấp thật rồi cố thủ, tạo nên những điều chống đối nhau, sanh ra thù hằn giận ghét. Đó là hai cái khổ do mê lầm chấp thân và chấp tâm mà ra.

Bây giờ muốn hết khổ, chúng ta phải làm sao? Vì mê là trái với giác, bởi mê nên khổ, nay muốn hết khổ chúng ta phải giác ngộ. Mê là tối, giác là sáng. Đi trên con đường tối tăm thì bao nhiêu đau khổ sẽ đến, đi trên con đường sáng suốt mọi đau khổ tiêu tan. Ví như đêm ba mươi không đèn đuốc, nếu tụi con phải băng qua một đoạn đường rừng chưa từng biết, chưa từng hiểu con đường dẫn đến đâu, tụi con có khổ không? Còn đi giữa ban ngày trời sáng, chúng ta thấy rõ con đường này đi về hướng nào, đến đâu đều biết rõ ràng nên không khổ. Bởi vì khi không thấy rõ ta sẽ tưởng tượng nào cọp, ma, rắn rít đủ thứ sợ. Trong sự tối tăm đó sanh ra bao nhiêu tưởng tượng sai lầm khiến chúng ta khổ, khổ vì ở trong chỗ tối tăm. Cũng vậy, do tụi con đang sống trong mê lầm, chấp thân tâm nên phát sanh bao nhiêu tưởng tượng. Nào là tưởng tượng hạnh phúc, tưởng tượng người ta ghét mình, có người rình rập giết mình..., bao nhiêu thứ tưởng dồn dập khiến chúng ta đau khổ. Một khi tụi con tỉnh giác mọi đau khổ sẽ hết.

Bây giờ giác như thế nào? Đầu tiên tụi con giác ngộ thân này do duyên tứ đại hợp thành, do ngũ uẩn hòa hợp mà có tức không thật. Do duyên hợp nên đủ duyên nó thành, hết duyên mất, đủ duyên hợp, hết duyên tan, không có cái gì thật, không có gì kiên cố cả. Đó là giác ngộ về tướng duyên hợp. Giác ngộ thân này là tướng vô thường nay còn mai mất, không có gì bảo đảm. Không ai dám chắc mình sống bao nhiêu tuổi rồi chết, chỉ tùy theo duyên hợp tan mà còn hay mất. Khi có việc bất thường xảy ra thì mất mạng như trở bàn tay. Do đó chúng ta biết mang thân vô thường này không bền.

Thân không lâu bền nên một ngày sống phải là một ngày hữu ích, một ngày có giá trị trong sự tu hành. Có giá trị là lợi lạc cho mình và người mai sau. Như vậy sống mới xứng đáng. Nếu chúng ta biết thân là vô thường rồi thả trôi, đó là vô ích, vô nghĩa, không có giá trị gì hết. Do vậy, khi biết thân này vô thường thì việc gì có lợi cho sự tu, hữu ích cho chúng sanh mới nên nhớ nghĩ. Còn điều gì trái với đạo lý và gây đau khổ cho mọi người phải dứt bỏ liền.

Giả sử trong huynh đệ có ai nói mắc mỏ mình một hai tiếng, tụi con biết điều đó không ích lợi trên đường tu nên chẳng quan tâm. Nếu mình cố chấp, nghe nói vậy sanh phiền não, khi ngồi thiền tâm không an, làm chướng ngại sự tu. Cho nên vừa nghe những lời nói khó chịu phải bỏ qua liền, biết đây là việc chướng đạo, bỏ không ôm chứa trong lòng. Đó là biết tu.

Nhờ biết được thân vô thường, thời gian chúng ta có mặt ở đây không bao lâu nên phải tu hành tinh tấn. Nhờ biết thân này duyên hợp hư dối, không thật, quí, sang trọng... nên dù có ai xúc phạm tới nó hay có những lời nói, hành động làm tổn thương, chúng ta vẫn coi như trò chơi. Chính bản thân là tạm bợ, giả dối, có gì đâu mà chấp. Nhờ mình thấy như thật, hay nói cách khác, nhờ giác ngộ thân đúng như thân, chúng ta không còn cố chấp. Không cố chấp nên không bị phiền não, được an vui thanh tịnh. Đó là nhờ giác mà bớt đau khổ, đem lại an vui cho mình. Người nào không cố chấp, không bị phiền não, nhất định tu tiến dễ dàng. Còn ai cố chấp, phiền não, dù tu mười năm, hai mươi năm cũng không tiến tới đâu.

Như vậy nhờ chúng ta giác, thấy đúng như thật về thân, tâm, tự nhiên đau khổ không còn. Nhờ không đau khổ nên khi nói chuyện với ai, hoặc gần gũi huynh đệ, mình nhắc nhở họ mới có giá trị, người ta mới tin, mới nhận được lẽ thật nơi chính họ và hết khổ. Như vậy do giác mà tụi con tự lợi, lợi tha được. Nếu tụi con mê thì phần tự lợi không có mà lợi tha cũng không, đời tu thành vô nghĩa.

Bây giờ Thầy nói giác ngộ về tâm. Tất cả tâm niệm, tụi con phải nhớ nó là vọng tưởng hư dối, không có gì thật. Đã không thật thì cố chấp làm gì. Khi chúng ta suy nghĩ, thường tưởng điều đó là đúng. Chấp đúng là theo sự tưởng tượng của mình, có thể đúng với thời đó, lúc đó, với quan niệm của mình, chưa chắc đúng với thời khác, lúc khác, với cái nhìn người khác. Cho nên thấy cái gì đúng biết là đúng với mình, nếu ai không chấp nhận chỉ cười bỏ qua, không buồn bực. Tụi con biết rõ tâm niệm, ý nghĩ mình là hư dối, không thật thì không chấp nó, đó là phá được buồn khổ về tâm.

Như vậy nếu tụi con giác ngộ thân này vô thường, giả dối do duyên hợp, biết rõ tâm này là bóng dáng chợt có chợt không, chợt sanh chợt diệt, không phải chân lý thì tụi con sống rất an lành, tự tại. Rồi một lúc nào đó, do học, nghe hoặc tu, tụi con nhận ngay nơi mình có cái chân thật, nơi mình không vắng thiếu chân thể an lành thanh tịnh. Nhận được cái đó rồi, từ đây về sau đường tu tụi con sẽ nhẹ nhàng thảnh thơi, không còn chướng do chấp thân tâm nữa, đó là điều hết sức quí.

Người tu nếu không giác ngộ, dù muốn làm lợi ích cho người cũng không bao giờ được. Chúng ta tự xưng là người truyền đạo, giáo hóa chúng sanh, nhưng truyền cái gì? giáo hóa cái gì? Chúng ta truyền đạo là truyền sự giác ngộ, chỉ cho mọi người cùng giác; còn giáo hóa là dạy cho chúng sanh biết cái gì là vô minh mê lầm, để họ thức tỉnh sáng suốt, thoát khỏi tối tăm. Như vậy mới gọi là truyền đạo và giáo hóa chúng sanh. Nếu chỉ nghĩ tu để đời sau có phước, đời sau sung sướng, thì sự tu đó không có gì để truyền, không có gì để giáo hóa.

Tất cả khổ đau phát xuất từ mê lầm. Muốn hết khổ đau, chúng ta phải giác ngộ. Tùy khả năng, thứ bậc mà giác ngộ thường và gần, rồi giác ngộ đến chỗ cao siêu hơn. Từ đó chúng ta thoát khỏi đau khổ, được nguồn an lạc tự tâm. Mình hết khổ, được an lạc mới mong giúp người, giúp chúng sanh hết khổ. Khi giác ngộ rồi, không những ngay đời này hết đau khổ mà mai sau thân này hoại đi cũng không còn đau khổ nữa. Đó là một điều quí báu cao thượng.

Chúng ta đi tu, hi sinh tất cả những gì thế gian theo đuổi, để thực hiện cho được nguyện vọng, mục đích đó. Đây là lý tưởng cao siêu, quí báu mà tất cả tụi con phải luôn nhớ để cố gắng thực hiện cho được. Đừng có làm mà không biết mình làm gì, tu mà không biết tu cái gì, cứ mơ mơ màng màng, nghe ai nói gì lạ cũng chạy theo, ai chỉ cái gì thích cái ấy. Như vậy là không đúng với tinh thần của người học đạo, tiến lên con đường giác ngộ. Đây là lời Thầy nhắc cho tất cả tụi con hiểu để ý thức được bổn phận trách nhiệm và con đường đi của mình.

Ngày 13-7 Ất Hợi (8-8-1995)

Tương đối hôm nay thỉnh nguyện có ít lỗi. Kế đây Thầy có vài lời nhắc trong chúng.

Ở trong chúng tụi con nên sống hòa nhau, ai sao mình vậy. Hay nhất là tụi con đừng đòi hỏi những gì quá đáng mà cũng đừng từ chối những gì đã có. Đòi hỏi là xấu vì muốn thỏa mãn nhu cầu bản thân của mình; từ chối coi như tốt, nhưng cũng đừng nên làm gì quá khác với người.

Thông thường lập dị có hai lối:

Một là lập dị bằng cách tỏ ra mình là người sang trọng, cho nên cái gì hơi bình thường không chấp nhận, đòi cho có vẻ sang. Đó là lối lập dị của người sang trọng.

Hai là lập dị tỏ ra mình tu kỹ, tu hay hơn huynh đệ, nên cái gì đầy đủ, hơi sang một chút đều từ chối, để cho người ta thấy trong chúng có cô đó tu nhiều hơn hết. Giả sử một người ba cái áo lạnh, cô đó chỉ mặc một cái thôi, mấy người kia ngủ nệm cô không nệm... Đó là cái lạ để cho thiên hạ chú ý.

Thầy từ ngày vào đạo tới bây giờ, ở chùa chúng thế nào Thầy thế ấy, không có gì khác hơn. Giờ chúng ngủ mình ngủ, giờ chúng thức mình thức, giờ tu lo tu, giờ học thì học, đều đặn trước sau như một. Nhờ vậy Thầy sống yên ổn, bền bỉ và làm được chút ít Phật sự. Năm rồi Thầy đi hết ba tháng, có chỗ Phật tử mời Thầy ngủ giường rất sang trọng, lại có nhà chật chội, họ trải nệm trên sàn gỗ Thầy cũng ngủ được. Người ta lo được tới đâu mình nhận tới đó. Đừng đòi sang khi người ta không có phương tiện, đừng đòi hèn khi người ta sống sang.

Ở đây Thầy đem hết tâm lo lắng sao cho tụi con yên ổn tu hành. Các nhu cầu cần yếu Thầy phải lo, không thể thiếu được. Tụi con cứ theo chúng mà sống, đừng nên làm gì khác người. Ví dụ như chuyện mền nệm. Mình xứ lạnh, nhất là mùa đông, trên cần có mền, dưới phải có nệm, nếu không gió lồng vào sẽ lạnh ngực, ngực lạnh thì lá phổi không tốt. Tụi con vì lý do muốn khổ hạnh mà để ngã bệnh nguy hiểm, đưa tới chỗ khó khăn trên đường tu mai kia.

Hồi trước lúc Thầy ở Thiền Duyệt thất, cũng vào mùa đông, Thầy có hai mền len và mấy cái áo lạnh. Khuya Thầy mặc hết mấy áo lạnh, đắp hai mền len mà ngủ không được, sau cô Thể Tịnh xuống thăm, thấy vậy may thêm cho một cái mền bông nữa. Từ đó về sau mới chịu nổi. Qua lần kinh nghiệm đó, sau khi được đất cất Thiền viện này, Thầy nghĩ những người tới ở đây làm sao phải đủ điều kiện ấm áp để yên ổn tu hành mới được, chớ không thì sanh bệnh, tu không tiến còn nguy hiểm cho bản thân. Bởi vậy Thầy chủ trương khi xây dựng xong, kể cả bên Tăng lẫn bên Ni, khi ngủ phải có mền nệm, mỗi người có ba áo lạnh đều nhau. Đó là bổn phận Thầy phải làm cho tròn. Mọi sắp xếp của Thầy đều đã có kinh nghiệm, tụi con cứ theo đó làm, đừng làm khác đi, không hòa với chúng.

Tụi con đang ở trong chúng phải sống có nề nếp chung, khi nào ra trụ trì rồi, muốn lập hạnh gì cũng được, ai muốn khổ hạnh tùy ý. Ngày nào còn ở trong chúng, ai sao mình vậy, ai ăn gì mình ăn nấy, ai ngủ thế nào mình ngủ thế ấy để có tinh thần chung. Ai tới thấy cuộc sống nhịp nhàng của mình họ mới tin. Nếu thấy người này kẻ kia khác nhau thì không hợp với chủ trương lục hòa Thầy đã đề ra. Cho nên tụi con phải dè dặt, sống khác nhau không khéo thành chia rẽ.

Nếu trong chúng ăn uống thiếu thốn mình ăn theo thiếu thốn, giả sử Phật tử cúng dường sung túc mình cũng tùy hỉ. Sống sao không thấy gì lạ hơn thiên hạ, đó mới hay. Nếu mỗi người mỗi ý thì không biết sống sao cho hòa. Trừ những trường hợp đặc biệt bệnh, bác sĩ bảo ăn thức riêng trị bệnh, còn những trường hợp không đến đỗi chúng ta phải sống tùy chúng cho hòa vui. Đó là lời Thầy nhắc chung cho tất cả hiểu.

Ngày 28-7 Ất Hợi (23-8-1995)

Hôm nay có vài vấn đề Thầy nhắc trong chúng.

Khi ngồi thiền, nếu nghe trên đầu có gì đè nặng, hoặc nghe tiếng vo vo bên lỗ tai, đó là vì ngồi kềm nhiều gồng mình, đầu hơi cứng nên như vậy, chớ không có gì lạ. Lúc đó tụi con buông xả thư giãn bình thường, một chút sẽ hết.

Khi nào tụi con vừa khởi tâm buồn ai, ghét ai, liền biết đó là phiền não, bỏ ngay. Các niệm buồn thương giận ghét đều là nhân của phiền não, hễ theo nó một hồi sẽ thành phiền não. Khi ngồi thiền, niệm vừa dấy khởi liền bỏ, đừng chạy theo nó không tốt, đó là vọng tưởng. Còn ngồi thiền buồn ngủ mà biết thì đâu bị giám thiền đánh. Ngồi ngủ gục lúc nào không hay nên Thầy cho giám thiền đi đánh cho tụi con tỉnh. Khi bị đánh phải mang ơn, nếu không mình chìm trong mê mờ, không biết đến bao lâu mới ra khỏi hang quỉ. Vì lý do tụi con ngủ, không sáng cho nên mới có giám thiền, nếu tụi con vừa ngủ liền biết, đâu cần giám thiền. Biết thì hết ngủ, ngủ thì không biết; ngủ là mê, mê tức không giác.

Thiền là trạng thái vắng bặt không niệm. Ngồi thiền thấy niệm khởi liền buông không theo vì đó là vọng tưởng. Công phu quá đơn giản nên khiến cho người mới tu dễ sanh buồn ngủ, dễ đi sâu vào hôn trầm. Cho nên giai đoạn đầu đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, là phương tiện để bớt buồn ngủ.

Nếu theo hơi thở nhè nhẹ dễ buồn ngủ, tụi con dùng tuệ quán. Khởi quán thân này do tứ đại hòa hợp mà thành. Phân tích ra từng phần trong người: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương..., tất cả chất cứng đều thuộc về đất. Rồi phân tích chất ướt là mồ hôi, máu, mủ, đờm, dãi, nước tiểu..., đó là nước. Động là gió, hơi thở vô ra làm các bộ phận trong cơ thể chuyển động. Hơi ấm là lửa. Trong người chúng ta luôn có hơi ấm, như hơi mình thở ra nóng hơn hơi hít vào, hoặc khi chúng ta xoa chà, một hồi ấm lên đó là lửa.

Như vậy tụi con ngồi phân tích đất nước gió lửa, phân ra từng cụm rồi quán trở lại. Cứ quán tới quán lui một hồi tỉnh queo. Cần quán thật kỹ, có việc làm để không buồn ngủ, ngồi yên một hồi dễ ngủ. Đó là phương tiện trị hôn trầm. Chừng nào hết hôn trầm, trở lại thấy niệm khởi liền buông chớ không quán như vậy nữa.

Khi ngồi thiền, tụi con phải chuẩn bị đâu đó chu đáo, vô Thiền đường rồi đến hết thời mới ra, trừ khi có việc bất thường bức bách. Mai kia có những người đến tập tu, tụi con là người mẫu mực, phải ngồi yên, điều phục và làm chủ cơ thể, không được mở cửa ra vô hoài làm động những người chung quanh. Ở các nơi, Thiền đường rất nghiêm chỉnh, tới giờ mới mở cửa, không ra vô bất thường. Tụi con cũng vậy, vào Thiền đường rồi hết giờ mới ra, nhất định không ra nửa chừng, ai trong bụng bất an thì xin phép ngồi tại đơn. Bởi vì cơ thể mình ưa nhõng nhẽo, đòi hỏi đủ thứ, ngồi một hồi nghe mỏi chỗ này, nhức chỗ kia, thúc giục mình phải bỏ cuộc đứng dậy đi.

Khi ngồi bị nhức nhối hoặc có gì lạ phải bỏ qua hết, chết sống gì cũng ngồi, tự nhiên dễ vượt qua. Nếu cứ chiều theo nó sau thành thói quen, thành tật rồi không làm chủ được mình, sanh ra những cái dở khác nữa. Nên phải tập gan dạ để làm chủ mình, rồi tụi con sẽ thấy an ổn. Thời gian tọa thiền phải ngồi êm ru.

Ngày xưa chư Tổ dạy ngồi như núi, như vách đá, không cục cựa, nhúc nhích. Đừng ngồi ẹo qua uốn lại hoặc cúi đầu ngước cổ, ngả tới ngả lui. Bởi vậy nhìn tướng một người ngồi thiền có thể biết tâm họ có an định hay không. Cho nên chúng ta ngồi phải tỉnh sáng, vững vàng, đâu đó hẳn hoi. Tập như vậy lâu ngày tụi con có dáng ngồi thiền tốt, vững, có thể làm chủ được mình. Đừng vì cảm thấy khó chịu đôi chút rồi sửa hoài. Sửa đến chừng nào mới hết sửa? Cái thân thường không an nên chúng ta phải khéo điều.

Khi bắt đầu tọa thiền phải ngồi cho vững, bắt chân lên đàng hoàng, nghiêng qua nghiêng lại coi bồ đoàn ổn chưa, ngồi yên tới giờ mới xả, không nên xả sớm hơn năm ba phút. Phải sống có kỷ luật cho quen. Từ kỷ luật đó, tụi con dần dần nói năng, làm việc có chừng mực điều độ. Đó là cái tốt của người tu, nếu thiếu kỷ luật là không tốt.

Mai kia tụi con lớn lên làm thầy người ta, phải mẫu mực mới được, chẳng lẽ dạy Phật tử một đàng mình làm một ngả. Khi làm thầy dạy người ta tu, họ tin tưởng trông vào hành động của mình, nên phải mẫu mực. Đó là điều Thầy nhắc tụi con. Mỗi đứa phải ráng kềm chế mình, khi nào có chuyện gì quá lắm mới xả đi ra, nếu cố gắng được phải ráng cho đúng giờ giấc, như vậy mới tốt. Đó là vấn đề thứ nhất.

Vấn đề thứ hai, khi có bệnh tụi con như thế nào? Ở đây, trong Thiền viện, Thầy chủ trương tụi con sống đúng tinh thần lục hòa. Lục hòa là ai cũng như nhau, theo nếp sống chung. Trong chúng, Thầy biết có đứa gia đình sung túc có thể giúp đỡ được, có đứa gia đình không có phương tiện giúp đỡ. Bởi vậy trong khi bệnh hoạn, có người đủ khả năng tự lo, có người không. Như thế sẽ có sự chênh lệch, tạo khoảng cách giữa người này với người kia. Nên ở đây Thầy chủ trương thuốc men chăm sóc đều do Thiền viện lo, không nhận từ người thân của tụi con cho riêng.

Khi tụi con bệnh tất cả đều do Thiền viện lo, ai cũng như ai, không phải người này được lo còn người khác không được. Gia đình tụi con nếu có ủng hộ sẽ nhập vào của chung. Như vậy tập cho tụi con sống hòa, không phải lo ngại gì hết. Khi khỏe tu hành và làm việc cho chúng, khi bệnh thì Thiền viện lo cho mình. Trừ trường hợp bệnh nặng không thể ở đây, phải đi nơi này, nơi kia thì Thiền viện không chu đáo được, còn ở tại chỗ Thiền viện lo hết.

Khi tụi con khỏe cùng lo việc chung, đến lúc bệnh huynh đệ lo lại, không có gì áy náy, e ngại. Mình sống rất thật thà, cùng vui, cùng khổ với nhau. Có thì cùng ăn, cùng hưởng, không có thì thôi. Đó là chủ trương của Thầy, Thầy muốn thực hiện cho được để tất cả tụi con yên tu, không lo “mình lỡ bệnh rồi làm sao đây” hoặc “cần báo gia đình biết để lo cho mình”. Đừng bao giờ nghĩ như vậy.

Nếu bệnh phải đi bệnh viện Đà Lạt cũng ở đây lo. Trừ một hai trường hợp phải đi thành phố, thân nhân hay gia quyến có giúp thì tùy; còn trong giai đoạn ở đây Thiền viện lo hết, đứa nào như đứa nấy, đừng ngại đừng e dè. Vì tiền của Viện là do Phật tử cúng, là của thí chủ. Giả sử tụi con được cha mẹ hay thân bằng cho, đó cũng là thí chủ thôi. Như vậy, tập làm sao thân quyến tụi con lúc nào cũng thấy tụi con là người chung trong Thiền viện chớ không phải người riêng của gia đình. Phẩm vật gì đem đến đều cúng chung chớ không riêng cho ai.

Vậy khi bệnh, tụi con đừng e ngại, lo nghĩ anh em cha mẹ có tiền giúp mình không? Hoặc nghĩ mai mốt mình bệnh không ai lo! Đừng lo những điều đó để yên lòng tu. Ngày nào tụi con còn ở đây cứ yên ổn tu, đừng có việc gì phải lo là tốt. Đừng để tâm bận bịu khiến sự tu hành bê trễ. Đó là điều Thầy muốn nói cho tất cả hiểu rõ.

Hôm rồi, Thầy nhắc tụi con phải lấy hạnh tinh tấn làm tiêu chuẩn để tự mình vươn lên. Không có vị Bồ-tát hay vị Phật nào lười biếng mà thành Bồ-tát, thành Phật được. Bồ-tát có hạnh tinh tấn để tự giác, giác tha, rồi từ đó tiến lên quả vị Phật, không có bê trễ, giải đãi. Cho nên tụi con phải tập tinh tấn, không phải giờ tu mới tinh tấn mà lúc nào cũng luôn tinh tấn.

Có ba thứ tinh tấn:

- Một là tất cả những niệm phiền não mình xả bỏ hết. Muốn buông xả phải gan dạ, tức có tinh tấn trong đó rồi. Nếu phiền muộn ai, muốn bỏ khó hay dễ? Bỏ cũng hơi tiếc! Vậy nên phải gan dạ cắt đứt hết mọi não phiền. Đó là tinh tấn, gan dạ bỏ những niệm phiền não ở nội tâm mình.

- Thứ hai là tinh tấn phá chấp. Chấp là kiến chấp, chấp chặt cái thấy như thế này là chân lý, ai nói khác không chịu. Nhưng sự thật đó là chấp chớ không phải chân lý. Ví dụ, mình kiểm nghiệm người ở chung với mình có năm bảy tật xấu, rồi kết luận người đó xấu. Sau có ai đó đến kể cho mình nghe vài đức tánh tốt của người đó, mình có chịu nghe không? Hay là khẳng định trong đầu người đó xấu, ai nói tốt mình không chịu?

Chấp cái nhìn của mình như vậy là không tốt, cần phải xả bỏ. Nếu thấy ai đó xấu nhưng khi người khác nói tốt về người đó, chúng ta vẫn nghe, nhờ vậy xả bớt ấn tượng xấu về người đó, đừng để lâu khó chịu không vui. Như vậy mình sống với huynh đệ mới thấy sự cảm thông, không khẳng định điều gì cả sẽ bớt cố chấp. Đó là Thầy nói chỗ chấp nhỏ, còn bao nhiêu cái chấp khác nữa. Bởi vậy người biết tu phải gan dạ bỏ những cố chấp, đừng ôm ấp trong lòng nhiều, trở ngại trên đường tu.

- Thứ ba là tinh tấn tu hành. Những việc nhỏ xíu mà tụi con tinh tấn cũng trở thành hay. Như lúc nghe kiểng thức chúng phải trỗi dậy liền. Đó cũng là một hình ảnh tinh tấn. Còn nghe rồi lăn qua trở lại, không nỡ hất cái mền ra là giải đãi, thiếu tinh tấn. Tụi con kiểm lại coi mình tinh tấn hay giải đãi. Tụi con phải tập tinh tấn. Thầy già rồi mà nghe tiếng kiểng là trỗi dậy liền không trễ nải. Hồi trước lúc Thầy còn ở Phật học đường cũng vậy, nghe đánh kiểng là trỗi dậy liền, không đợi mãn mấy hồi kiểng. Dậy liền mới kịp giờ, còn nướng thêm năm ba phút, tiếc giấc ngủ ngon thì không kịp, lên trễ. Lúc ấy Thầy làm trưởng liêu phải đi kêu những người lăn qua trở lại uốn mình chưa muốn dậy, thấy chẳng hay chút nào.

Tụi con phải tập tinh tấn ngay từ buổi đầu. Nghe kiểng thức dậy liền, tỉnh táo ra ngoài rửa mặt. Tụi con phải kiểm điểm lại, nếu có bệnh giải đãi phải sớm bỏ, lấy roi tinh tấn đánh nó không chần chờ. Nuôi bệnh giải đãi là điều xấu, làm cho việc tu hành trễ nải. Đứa nào còn bệnh này khó mong thành Phật lắm, tu tính nhiều năm mà không có kết quả bao nhiêu. Cho nên tinh tấn là điều cần thiết để tiến lên Phật quả. Đó lời Thầy nhắc, mong tụi con cố gắng.

Ngày 13-8 Ất Hợi (7-9-1995)

Kỳ thỉnh nguyện này trong chúng chỉ một hai người có lỗi. Chúng ta đang tu không ai tránh khỏi lỗi lầm. Cái quí là sau khi biết mình có lỗi, hoặc được Thầy hay huynh đệ nhắc nhở, ngay đó mình quyết sửa và cố vươn lên, không bao giờ tái phạm. Vậy là tụi con biết tu, sẽ ngày càng tiến bộ. Không nên mặc cảm mình có lỗi lầm rồi đời tu lui sụt, không ra gì. Biết lỗi để sửa bỏ, biết chỗ dở để ráng vươn lên, đó là sức mạnh của người tu.

Kế đây Thầy nhắc cho tụi con biết, người tu thường có hai chướng: một là chướng bên ngoài, hai là chướng bản thân.

Chướng bên ngoài, gần là huynh đệ đang chung sống với mình làm những điều không hợp, không thích ý mình, sanh ra chướng, đó là chướng nhỏ. Chướng lớn là hoàn cảnh xã hội. Bây giờ tụi con chỉ bị chướng nhỏ bên ngoài, như bị huynh đệ chung quanh hoặc ghét hoặc thương. Ghét là chướng đành rồi, còn thương có phải chướng không?

- Dạ, chướng.

Hai chướng ghét hoặc thương đó tụi con đều phải vượt qua, nếu không qua được là trở ngại trên đường tu. Ban đầu, do bất đồng ý kiến với huynh đệ nên phiền não. Từ phiền não sanh ra rối loạn, tọa thiền tụng kinh không yên, đó là trở ngại. Khi hoàn cảnh bên ngoài làm mình bực bội quá dễ sanh ra thối chuyển. Muốn tránh cảnh nên đi nơi này nơi kia, lăng xăng lộn xộn, làm thối Bồ-đề tâm. Đó là chướng nghịch.

Chướng thuận là huynh đệ thương, chiều mình, muốn gì được nấy. Bởi chiều chuộng lo lắng, lâu ngày tình cảm sâu đậm, rồi người lo và chiều đó thấy mình lệ thuộc vào họ nên làm cái gì họ cũng theo dõi, nói chuyện hay thân thiện với ai khác họ bực bội, vậy có chướng không? Từ thân đến thương, rồi luyến ái thành ra bệnh, trở ngại đường tu, lẩn quẩn tu không ra gì.

Hai điều này đều là chướng, tụi con cần biết cho thật rõ. Ở Thiền viện mười năm, hai mươi năm cứ ôm ấp bệnh đó thì không bao giờ tiến lên được, uổng đi một đời tu. Thương nhau lắm rồi đến ngày giận nhau cũng chia tay. Như ở ngoài đời có những người thương nhau, lập gia đình không có sự sắp đặt của cha mẹ, họ tự lựa chọn, vậy mà sau cũng ly dị. Tự mình lựa chọn mà cũng có những cái bất đồng. Ở trong chùa tụi con thân, thương nhau đến ngày nào rồi cũng chia tay, mỗi người một nơi. Kiểm điểm lại mười năm hai mươi năm ở chung tu hành cứ bị cột trói trong tình cảm, nên đường tu không tới đâu và tình cảm cũng không tới đâu. Rốt cuộc hai cái trở thành vô nghĩa. Như vậy phí đi một khoảng thời gian quí báu.

Thầy thường nhắc tụi con giữ tâm bình đẳng đối với tất cả mọi người. Đó là nói hơi quá đáng, nói chính xác hơn là giữ tâm vừa phải. Nếu thương người này mười thì người khác thương bảy tám, đừng thương người này mười, người khác thương một trăm. Thương quá có ngày sụp đổ! Cho nên mình đối với huynh đệ cùng sống chung tu hành, cùng chung lý tưởng, ai cũng đáng quí trọng, không trói buộc ở một người nào. Đó là người biết tu, khéo tu. Tự trói buộc chỉ làm hại đời tu của mình, lại không tốt cho tập thể. Vì vậy hai cái chướng của ngoại cảnh tụi con phải ráng vượt qua.

Chướng bản thân cũng chia làm hai:

- Trước hết là chướng về thân do bệnh hoạn yếu đuối làm trở ngại. Nếu thắng được nó là thành công lớn trên đường tu, vì mình đã vượt qua, làm chủ được thân mình. Nếu mình theo nó dễ sanh chán nản, thối tâm, không tu được bao nhiêu. Do đó cái chướng về thân tụi con phải dùng hai phương tiện này để nhắc nhở:

Một là trong kinh Phật dạy có thân thì có bệnh, không ai không bệnh, chỉ bệnh nhiều hay ít thôi. Có bệnh là đương nhiên, không phải riêng mình mà ai cũng mắc bệnh hết. Chúng ta không quan trọng nó thì sẽ vượt qua.

Thứ hai, bệnh là cơ hội tốt, là viên thuốc hay để cảnh tỉnh mình. Nó là hiện tượng chớm bại hoại của thân. Mỗi ngày nó đau nhức, mình nhớ thân này không ra gì. Nghĩ như vậy sẽ không bị nhiễm dục lạc bên ngoài, biết rõ nên không có gì dính mắc. Biết thân này là ung nhọt nên không tham gì hết, đó là thứ thuốc hay trị bệnh tham ái của ngã. Vì vậy tụi con nhân nơi bệnh nên biết tu. Biết thân này là đau khổ, nhớ tới bệnh thì bao nhiêu thứ dục lạc thế gian không bị đắm nhiễm. Bệnh là thuốc tốt, tụi con hiểu như vậy sẽ tiến trên đường tu. Không phải bệnh là cái cớ để tụi con lui sụt.

Kế đến là chướng nội tâm. Tâm vọng tưởng có khi nghĩ thế này, có khi nghĩ thế kia. Nghĩ hay dở, tốt xấu, đủ thứ. Khi biết tu mình kiểm soát nó, làm chủ nó. Nếu không tự chủ, vọng tưởng mạnh sẽ lôi mình làm những việc trái đạo lý. Nên Thầy dạy tụi con buông vọng tưởng. Niệm vừa dấy lên liền bỏ, không ai dại gì nuôi dưỡng cho thành bệnh, chấp này nọ mất thời giờ vô ích. Đừng buông lung theo những chuyện tào lao, dụm năm dụm ba lại nói, không có ích lợi gì. Đó là do tâm điên đảo dấy động xúi giục, nói những lời tạp nhạp vô nghĩa.

Do đó phải kiểm soát vọng tâm, đừng để nó lôi kéo tụi con đi những con đường không hợp đạo lý. Ai luôn biết kiểm soát, không để vọng niệm lôi kéo thì sẽ được an ổn. Còn người nào bị nó dẫn đi chỗ này chỗ kia, nói điều này điều nọ tất sẽ bị thiệt thòi, mất mát trên đường tu. Như ba bốn huynh đệ ngồi lại nói tào lao, có phải bị vọng tưởng dẫn không? Người nào đi đứng nằm ngồi đều quan sát lại mình thì không có gì dẫn.

Khi không có vọng tưởng vui hay buồn? Khi nói tào lao là vui hay buồn? Ngay lúc đó vui nhưng khi xét lại lỗi thì buồn. Nếu tâm tụi con an nhiên thanh tịnh, qua lại tự do có gì lỗi không? Đó là lẽ thật, chẳng những vui bây giờ mà vui mãi về sau nữa. Còn cái vui tào lao tới hồi biết lỗi hối hận không kịp. Nên tụi con luôn nhớ quán sát nội tâm, không cho nó dẫn dắt, lôi kéo, khiến làm những chuyện không hay. Từ không hay sẽ có lỗi, khiến tụi con cảm thấy buồn bực bất an. Chẳng những mình buồn, còn làm người xung quanh bực nữa, đó là chướng đạo.

Hôm nay Thầy nhắc để tụi con ráng tu, vượt qua hai chướng: ngoại cảnh và nội tâm. Đây là ngoại cảnh nhỏ chớ không phải lớn. Còn đối với thân tâm cũng vậy, khi có việc gì xảy ra, chúng ta nên nhân đó quán chiếu cho rõ để thấy tường tận thân tâm mình đừng để lầm, cũng không bị lệ thuộc vào nó. Đây là điều thiết yếu trong sự tu, không phải chỉ tu khi ngồi thiền. Luôn luôn thức tỉnh, đó là tụi con tỉnh giác.

Ngày 28-08 Ất Hợi (22-9-1995)

Thỉnh nguyện kỳ này ít lỗi, như vậy thấy chúng mỗi ngày mỗi tiến. Ban đầu lỗi nhiều nhưng dần dần giảm bớt, đến khi nào không còn lầm lỗi nữa mới thật là tốt.

Bây giờ Thầy nhắc nhở chúng tu hành. Trong bản Thanh qui Thầy có nói rõ, tu là phải nỗ lực không được chần chờ. Bởi vì ai tu cũng hướng đến mục đích giác ngộ, mong rằng một ngày nào đó gần hoặc xa sẽ được giác ngộ. Khi làm một điều gì nếu đã có mục đích, có chỗ nhắm thì việc làm đó tụi con phải nỗ lực, cố gắng. Nếu lôi thôi, chần chờ không bao giờ có kết quả.

Ví dụ như việc lao động hằng ngày của tụi con. Trồng cây, muốn cho cây tốt, tụi con cũng phải siêng năng chăm sóc. Khi nấu nồi cơm, phải coi chừng củi lửa cho tốt đều, cơm mới ngon. Những việc nhỏ muốn được kết quả trọn vẹn còn phải cố gắng và xem chừng, không lơ là, huống nữa tu là việc rất cao siêu, nếu tụi con lơ là làm sao đạt được kết quả?

Vậy nên tụi con lúc nào cũng phải quyết chí, không để tâm hồn mình phóng đãng, lôi thôi, chần chờ. Phải tự sách tiến cố gắng lên. Bởi vì đường tu lâu xa, dài ngày dễ sanh ngán rồi muốn thả trôi, rất uổng. Dù con đường xa mấy nếu tụi con cố gắng đi cũng sẽ tới. Còn thấy xa đâm ngán ngẩm rồi muốn buông xuôi thì không bao giờ đạt được kết quả mong muốn.

Vì vậy, tu là một việc làm phi thường vượt hơn thế gian. Nếu tâm tụi con lơ là và có ý niệm chán nản, tụi con không bao giờ đạt được kết quả. Cho nên tụi con phải cố gắng, phải chăm hẳm, không bao giờ lôi thôi. Đừng để tâm mình chạy theo chuyện tầm phào của thế gian làm mất thời giờ. Phải dồn hết tâm lực vào việc tu. Dù khó mấy mà mình nỗ lực cố gắng thì cũng đạt được kết quả, còn dễ mà lôi thôi cũng không ra gì.

Vậy nên trên đường tu, tất cả tụi con đều phải cố gắng, nỗ lực tối đa, quên hết những thứ tầm thường chung quanh mình, chuyên làm một việc cho đến nơi đến chốn. Được vậy, tụi con mới có thể thành công. Trong kinh dạy, tinh tấn là điều quyết định để được kết quả. Dù tu hạnh nào mà thiếu tinh tấn cũng không xong. Đó là điều thiết yếu nhắc nhở tụi con.

Ngày 13-08 nhuần Ất Hợi (06-10-1995)

Hôm qua có hai vợ chồng người Úc, có đi học thiền ở vài nơi và học với các Sư dòng Lâm Tế, tới đây xin gặp Thầy nêu vài câu hỏi, chú thông dịch dịch lại. Khi gặp Thầy, ông hỏi:

- Ở đây Thầy chủ trương dạy người tu như thế nào?

Thầy trả lời:

-Thầy chủ trương dạy Tăng Ni, Phật tử và tất cả người tu nhận ra con người chân thật của chính mình.

Ông khách vỗ bàn hỏi:

- Cái bàn này có Phật tánh không?

Thầy nói:

- Trong nhà Phật có chia ra hai phần: chúng sanh có Phật tánh, sự vật thì có Pháp tánh.

- Phật tánh của con và Phật tánh của Thầy đồng hay khác?

- Đứng về thể thì Phật tánh của ông, của Thầy và tất cả chúng sanh là đồng. Nhưng Phật tánh của Thầy là của Thầy, của ông là của ông.

Tụi con nghĩ câu này trả lời dễ hay khó? Nói là đồng nhiều khi mình có lỗi. Nếu đồng thì người tu cũng thành Phật, người không tu cũng thành Phật luôn. Câu này phải rất dè dặt, đồng là trên cái thể, còn phần riêng của mỗi người ai có phần nấy. Thầy ví dụ như có năm, bảy cây đèn đặt ở trong phòng, ánh sáng của năm bảy ngọn đèn đó đồng hay khác? Đứng về mặt ánh sáng thì đồng, đồng nhưng không phải một. Nếu nói một thì khi mình đem một cây đèn đi chỗ khác sẽ tối luôn cả căn phòng. Vì vậy đồng là trên ánh sáng, nhưng từng cây đèn thì khác. Nếu đem một cây đèn đi đâu thì ánh sáng sẽ có ở đó, còn trong phòng này chỉ bớt sáng một chút thôi.

Đó là câu người ta hỏi, Thầy kể lại cho tụi con hiểu để không lầm lẫn.

Bây giờ Thầy nhắc tụi con một điều. Lâu nay Thầy chủ trương “phàm làm việc gì phải đạt được kết quả của việc đó”.

Thấy trong tụi con có nhiều đứa làm thì làm mà không cố gắng đạt được kết quả. Nghe như là thiền vậy! Nhưng thật ra trong cuộc sống này, mỗi cá nhân làm việc gì đều được kết quả tốt thì xã hội đẹp biết chừng nào! Như người làm ruộng làm sao cho cuối mùa thu hoạch có nhiều lúa. Người làm rẫy tới thời vụ thu hoạch được tốt. Người đi học tới kỳ thi được đậu. Nếu ai làm trong ngành nào cũng đều thu hoạch kết quả tốt thì xã hội sẽ được tiến. Còn làm cho có làm, không có kết quả gì thì chỉ phí công, không lợi ích gì cho mình và người.

Như tụi con đây đang làm nghề gì? Làm nghề thầy tu phải không? Vậy phải tu làm sao? Tu để mà tu hay tu phải đạt kết quả? Nếu chưa thành Phật ít ra cũng thành Hiền, hoặc thành Thánh tăng. Phải tiến lên, chớ không thể tu cho có chừng. Làm một ngành nghề ngoài đời còn phải đến nơi đến chốn, không phí đi công sức của mình, huống là con đường tụi con đã chọn rất cao quí, siêu thoát, nếu làm không quyết chí, không liều chết thì khó đạt được kết quả.

Tụi con đừng mặc cảm, e rằng mình nghiệp chướng lâu đời quá dày, tu thì tu mà không mong gì sáng được đạo lý. Tụi con đừng nghĩ như vậy. Có quyết tâm thì sớm muộn gì cũng đạt được. Đạo lý không dành riêng cho ai.

Tất cả mọi người trên thế gian này, làm nghề gì mà có quyết tâm cũng sẽ giỏi và thành công. Nếu làm một cách lừng chừng, chỉ để có làm, không muốn tiến lên sẽ không bao giờ thành công trong nghề đó. Việc tu của chúng ta là một việc hết sức khó, khó nhất trên đời, nhưng ngày xưa Phật đã thành công, chư Tổ đã thành công và các bậc tiền bối đã thành công. Bây giờ chúng ta quyết tâm như các ngài, chúng ta cũng sẽ thành công.

Tụi con đọc trong sử thấy có nhiều vị rất tối tăm mù mịt, như thời đức Phật có ngài Châu-lợi-bàn-đặc học hoài một bài kệ không thuộc. Về sau Ngài được đức Phật chỉ dạy, quyết tâm tu cũng chứng quả. Ương-quật-ma-la chặt ngón tay chín trăm chín mươi chín người làm tràng đeo cổ, khi được Phật giáo hóa, quyết tâm tu cũng đắc quả. Như vậy người tối tăm dốt nát quyết tâm cũng thành tựu, người hung dữ quyết tâm cũng đắc quả, huống là chúng ta chưa đến nỗi như vậy, nếu quyết tâm thế nào cũng thành công. Chỉ có bệnh tu lừng chừng, tu để mà tu, không quyết tâm, người đó khó đạt kết quả.

Bởi vậy từ hồi nhỏ, khi Thầy quyết làm việc gì là làm tới nơi tới chốn. Lớn lên đi tu, Thầy làm cái gì chuyên một việc, làm phải thành công, không làm chỉ để làm. Đừng nên ban đầu vào chùa coi như hăng hái quyết chí lắm, ở chùa một thời gian rồi thả trôi, ai sao mình vậy, tới giờ thì tụng kinh, làm việc, chỉ theo lệnh bắt buộc chớ không có sự quyết tâm của mình. Nếu không có quyết tâm khó mà tiến được.

Bây giờ tụi con tới giờ sám hối, ngồi thiền phải chí quyết, giờ nào ra giờ ấy, làm cho xứng đáng với việc làm của mình, làm trong tỉnh giác chân thành. Sám hối phải chân thành sám hối, ngồi thiền phải tỉnh giác, chí quyết, chớ không phải làm vì bị bắt buộc. Tụi con tập như vậy, giả sử có buồn ngủ cũng sẽ thắng được nó. Ngồi là phải quyết tâm ngồi, sao cho sáng suốt, làm chủ được, không phải ngồi đợi hết giờ.

Tụi con nỗ lực thì đường tu sẽ đạt được kết quả, còn tu như bị bắt buộc hay kềm ép dù mười năm hai mươi năm cũng không ra gì. Có kết quả hay không là do quyết tâm của tụi con. Bởi vậy tụi con phải tập từ việc nhỏ tới việc lớn. Ví dụ việc nhỏ là trồng một vồng khoai lang cũng phải quyết tâm trồng cho có kết quả, trồng bắp phải có bắp ăn. Tụi con phải tập làm đâu ra đó, làm phải thành công, chớ đừng làm chỉ để làm, ra công mà không cần biết có kết quả hay không. Tập quen rồi thì ý chí quyết định đó sẽ giúp tụi con trong những việc lớn. Từ ý chí đó khi tu mới được thành tựu, còn lừng chừng không có kết quả gì hết.

Chính kinh nghiệm bản thân Thầy, do quyết tâm từ thuở nhỏ, Thầy đã chọn “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, sau này Thầy làm cái gì cũng làm đến nơi đến chốn. Nhờ thói quen đó mà trong việc tu hành, Thầy luôn quyết chí. Nhờ sự quyết chí đó công phu tu của Thầy so với nhiều thầy khác tuy không bằng mà vẫn có kết quả. Thầy nhắc cho tất cả tụi con hiểu rõ, để mỗi đứa tự tạo cho mình một ý chí quyết tâm. Ban chức sự chỉ là những người trợ duyên, còn cái chính là sự quyết tâm của tụi con, đừng để đợi nhắc mới làm, mới tu. Mỗi đứa đã có ý chí, quyết định rồi, tới giờ làm việc của mình, sẵn sàng làm một cách sáng suốt, tỉnh táo.

Khi ngồi thiền tụi con phải tỉnh, phải sáng. Nếu cảm thấy hơi mờ mờ liền chấn chỉnh sáng suốt lên, như vậy mới thắng được hôn trầm. Thiền là phải tỉnh sáng, “tỉnh tỉnh lặng lặng”. Đừng thả trôi yên yên ngồi ngủ. Thường ngày, khi tụi con suy nghĩ lăng xăng thì khó ngủ, khi không nghĩ gì hết ngủ ngon lành. Cũng vậy, ngồi yên quá một lát dễ buồn ngủ. Ngồi hơi yên phải giữ sự tỉnh sáng chớ không phải yên một cách lơ mơ. Tỉnh sáng mới có lợi ích, còn yên rồi gục lên gục xuống là đi trong hang quỉ. Cho nên tu phải cương quyết, không lôi thôi, chần chờ.

Đó là ý nghĩa Thầy nhắc, tụi con phải nỗ lực, cố gắng. Đừng nên làm chỉ để làm, làm là phải có kết quả, ngồi thiền giờ nào ra giờ ấy, không phải ngồi thả trôi. Tụi con có bệnh đó không? Thầy nhắc tụi con phải nhớ, giờ nào cho xứng đáng giờ đó, giờ tụng kinh ra giờ tụng kinh, giờ tọa thiền xứng đáng giờ tọa thiền, thì sự tu hành của tụi con sẽ có kết quả chắc chắn không nghi ngờ. Đó là lời nhắc nhở hôm nay.

Ngày 28-8 nhuần Ất Hợi (21-10-1995)

Thỉnh nguyện là ai có lỗi tự biết ra sám hối. Từ lỗi nặng đến lỗi nhẹ đều thành tâm sám hối chừa lỗi. Đó là điều hay của chúng.

Hôm nay Thầy nói vấn đề hơi khó hiểu một chút. Tụi con học kinh Kim Cang rồi, Thầy nhắc một điểm này trong kinh Kim Cang cho tụi con nhớ. Sau khi đức Phật trả lời về an trụ tâm rồi, Ngài trả lời về hàng phục tâm. Phật dạy đưa chín loài từ thai sanh, thấp sanh, đến hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng... vào Vô dư Niết-bàn mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao không thấy có chúng sanh được diệt độ? Thật ra tất cả chúng sanh đều không thật, chỉ là bóng dáng từ nội tâm dấy khởi.

Ở đây Thầy nói một khía cạnh khác hơn. Nếu thấy không có một chúng sanh nào thật được diệt độ, vậy mình thấy mình có thật hay không? Nếu chúng sanh không thật tức mình cũng không thật. Đó là ý nghĩa Phật dạy trong kinh Kim Cang. Chúng sanh có bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Bốn tướng đó làm cho chúng ta không đạt được chỗ cứu kính Niết-bàn.

Số một là ngã. Ngã là gì? Là ta, đó là ngọn núi to, ngăn trở chúng ta trên con đường đến Niết-bàn. Bởi vậy, khi tu tụi con thấy kinh Phật, giáo lý Phật chủ yếu là dẹp cái ngã, nên nói thuyết vô ngã. Nếu còn bám chắc vào ngã thì con đường giải thoát bị ngưng trệ.

Cái ngã hiện giờ chúng ta chấp là thân này. Thân này có quí không? Nó không có gì quí hết, chỉ là một khối da thịt nhớp nhúa, nay sanh chứng này, mai trở tật kia, rối loạn tơi bời, luôn luôn chực tan rã. Như vậy có gì là thật? Đã không thật mà cứ thấy ta đây là quí. Thèm ăn món ngon này, thích nghe tiếng nhạc kia, chỉ để thỏa mãn cái thân. Chúng ta nghĩ nó thật là mình nên cứ phải nô lệ vào nó, chạy theo sự đòi hỏi của nó, gọi đó là hạnh phúc, thỏa mãn.

Ví dụ tụi con được ăn bánh xèo, hai ba tháng sau không ăn thì thấy thèm. Tụi con tưởng tượng được ăn một bữa bánh xèo sẽ hết thèm. Nhưng ăn rồi vài tháng sau cũng muốn ăn nữa, đâu có hết thèm. Như vậy làm sao thỏa mãn hoàn toàn được! Ở đây lâu lâu tụi con muốn ăn chè trôi nước. Giả sử bữa đó phần mỗi người bốn viên mà mình được sáu viên, sau đó có còn thèm ăn nữa không? Thật ra lúc đó không còn thích ăn, ngán ngược ngán xuôi, nhưng vài tháng nữa lại thấy thèm.

Như vậy, con người không bao giờ thỏa mãn, nếu được rồi thời gian sau cũng đòi nữa. Nó đòi đủ thứ. Nên ai chạy theo những nhu cầu đòi hỏi của cơ thể này sẽ không được an ổn. Được cái này lại đòi cái kia không dừng. Cả một cuộc đời loay hoay tới chết không bao giờ được thỏa mãn.

Sở dĩ người ta giành nhau từng món ăn ngon, từng hình sắc đẹp đẽ... cũng do chấp chặt vào thân cho là mình, nên cái gì thích liền tìm cách thỏa mãn, không được thì sân hận đủ thứ. Với con mắt nhà đạo, những người như vậy gọi là tỉnh hay mê? Ai đuổi theo dục lạc say sưa là kẻ mê, phải không? Tụi con không muốn làm người mê, nên đi tu, nhưng nếu tụi con đi tu rồi mà còn xem trọng sở thích của người mê thì có đúng với nghĩa tu chưa? Đó là điều tất cả phải thấy rõ.

Chúng ta nhìn tường tận thân này không thật, cái ngã không thật, đó là tỉnh hay mê? Thân không thật thì những nhu cầu bồi đắp cho thân đâu có gì quan trọng. Sở dĩ người ta say mê đuổi theo đòi hỏi của nó là vì thấy thật. Nếu mình biết rõ thân này không thật thì những nhu cầu cũng tạm bợ, không có giá trị lâu dài. Thấy thân không thật nên mọi theo đuổi đều dừng. Như vậy tụi con có tu chưa? Tu là phải thấy nơi mình trước. Còn thấy mình thật, mình quí thì sự đuổi theo bên ngoài làm sao dừng được.

Người ở thế gian chỉ biết có thân này nên họ giành nhau từng món ăn, cái mặc, chỗ ở, có thể họ giết hại nhau nữa. Còn chúng ta tu, biết rõ thân không thật, cái ngã chấp thân cũng không thật, phải không? Như vậy là hữu ngã hay vô ngã? Nếu tụi con thấy vô ngã tường tận thì những cái lôi kéo mình chạy theo ngũ dục hay sáu trần đều dừng. Dừng là chỗ tu căn bản. Chớ nhiều khi tụi con cố gắng ngồi thiền tụng kinh mà không dùng trí tuệ Bát-nhã thấy rõ thân mình không thật, thì tuy tu mà tội lỗi khó dừng được.

Vậy nên phải vận dụng trí tuệ Bát-nhã, thấy thân này không phải là ta, chỉ là một mớ duyên hợp lại, đủ duyên thì còn, hết duyên liền hoại. Nhớ chắc như vậy thì trong cuộc sống tuy mang thân này, làm tất cả bổn phận, nhưng biết rõ nó không thật nên không còn gây tạo tội lỗi. Cho nên Phật chủ trương vô ngã làm gốc.

Kế đây nói về tâm. Tụi con cũng như tất cả mọi người, lúc suy nghĩ hay lúc phân biệt phải quấy, tốt xấu, hơn thua đều nói đó là tâm tôi. Nhưng tâm này có thật không? Nó không thật. Như vậy chấp xác thịt này làm mình là không đúng, vì thân tạm bợ hư giả không phải thật. Rồi chấp tâm suy gẫm phân biệt không thật làm mình, vậy mình là thứ hư dối sao? Biết thân tâm không thật, có được vô ngã chưa? Biết rõ như vậy là thức tỉnh, giác ngộ được lý vô ngã. Giác ngộ lý vô ngã thì phiền não không còn dấy động lăng xăng.

Sở dĩ ngày nay chúng ta bị phiền não lăng xăng là vì còn chấp thân và tâm. Chấp suy nghĩ của mình là đúng, mà người khác bảo sai nên tức giận, đôi khi đưa tới thù hằn, giết chóc. Vì vậy, chấp vọng tưởng làm mình là một cái họa. Hơn nữa khi khởi niệm phân biệt cái này đẹp sanh tham, cái kia xấu liền ghét... Vậy là tham, sân, si cũng từ phân biệt dấy khởi. Do chấp thân là mình, chúng ta đuổi theo sáu trần, giành giật với người, tạo biết bao tội nghiệp. Chấp tâm phân biệt suy nghĩ là mình cũng tạo nghiệp giận, thương, đố kỵ, thù hằn... Đây Phật gọi là chấp ngã, bệnh khổ muôn đời của chúng sanh.

Nên người tu phải sáng suốt, hiểu tường tận điều này. Thân và tâm đều không thật. Nó hư dối thì có gì là ta thật. Đó là chủ trương vô ngã của đạo Phật. Nếu thấy mình không thật tức mọi cái chấp theo đó rã tan. Mọi cái chấp hết thì trên đường tu không có gì chướng ngại, đường Niết-bàn bằng phẳng tiến tới một cách dễ dàng.

Trong kinh Viên Giác, đức Phật dạy Bồ-tát Văn-thù: Thế nào là vô minh? Vọng nhận tướng tứ đại làm thân, chấp cái duyên theo bóng dáng sáu trần làm tâm, đó là vô minh. Chúng ta tu theo Phật, biết nguồn cội của vô minh, gốc rễ của chướng ngại, phiền não, thì phải ráng mà bứng bỏ, trừ dẹp nó.

Ngã không thật thì nhân cũng không. Nếu phá được chấp ngã liền phá được chấp nhân. Nhân tức là người. Do thấy mình thật nên thấy người thật, sanh ra đối chọi, giành giật nhau. Mình và người đều không thật thì có gì đâu để tham lam, giận hờn. Vì nghĩ người thật nên thấy có người dễ thương, dễ ghét, có người đẹp hay xấu... Khởi thương ghét, đẹp xấu... như vậy có phiền não không? Vì chấp cái ngã mình là thật nên thấy ngã người khác cũng thật, đó là lý do khiến cho phiền não luôn quấy nhiễu.

Như vậy, biết thân tâm mình không thật là vô ngã, đối với người cũng không thật là vô nhân. Ngã không thật, nhân không thật thì chúng sanh cũng không thật. Chúng sanh là ai? Là con người, cho đến kiến, sâu... Nhiều người hoặc vật chung hợp lại gọi là chúng sanh. Nhỏ là phe nhóm, lớn hơn là tập thể, tôn giáo, quốc gia... Chúng sanh không có lỗi, chỉ do chấp nên thành sai. Thấy mình thật, người thật, phe nhóm mình thật, rồi bênh vực phe ta. Phe nhóm mình bị ai ăn hiếp hay bị thiệt thòi mình không vui. Đó là bệnh thâm căn cố đế.

Từ chấp thân, đưa đến chấp người, phe nhóm, tôn giáo, rộng nữa là quốc gia. Chấp chúng sanh cũng là gốc của phiền não. Nếu thấy chúng sanh thật thì phiền não tràn trề. Còn bây giờ, nếu thấy ta không thật, người không thật thì chúng sanh, phe nhóm, hay đảng phái, tôn giáo cũng không thật.

Đến thọ giả, tức là mạng sống con người. Ai cũng mong mình khỏe mạnh sống lâu. Nếu có người coi tướng, coi tay nói mình vài hôm nữa chết, liệu có phản ứng không? Mình sẽ cảm thấy sợ hãi nếu tin, ngược lại sẽ phản ứng giận dữ, cho là nói bậy, là trù rủa. Tại cái gì mà phản ứng như vậy? Tại nghĩ mình sống dai, thọ mạng còn dài, ai nói ngắn lại thì giật mình. Trên thế gian này mọi người sợ cái gì nhất?

- Dạ, sợ chết.

Con người cố bám giữ mạng sống, từ đó mọi lo âu, sợ hãi, sân hận dấy khởi. Vì vậy chấp thọ giả là gốc phiền não. Người ta sợ bệnh hoạn, tai nạn là vì sợ chết. Tất cả ngầm vì mạng sống mà bao nhiêu sợ hãi kéo tới. Vì vậy phải phá luôn ngã, nhân, chúng sanh và thọ mạng, mới hết bị chướng ngại trên đường tu.

Hiểu thấu điều này mới thấy ý nghĩa hết sức thâm trầm, bốn cái chấp đó làm cho chúng ta không giác ngộ được. Vậy nên nói đó là những ngọn núi cao ngăn lối Niết-bàn. Cho nên đức Phật luôn luôn chủ trương vô ngã. Vô ngã được rồi thì trên đường tu không có gì chướng ngại.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm đầu Lục tổ Huệ Năng nói về Bát-nhã, nghĩa là Ngài dạy Bát-nhã là bước đầu tiên. Bởi vì có trí tuệ Bát-nhã thì mọi chướng ngại chúng ta mới qua được. Dù ngồi thiền được lâu, sám hối nhiều, tư cách tốt mà cái ngã chưa bỏ thì trên đường tu vẫn chướng như thường. Nên cái chướng quan trọng là chướng chấp ngã.

Tất cả chúng ta phải thấy cho tường tận. Thân, tâm sanh diệt này đều là ảo ảnh, hư dối, không thật, chỉ tồn tại một giai đoạn rồi bại hoại. Chúng ta phải đi sâu, tìm cho được cái chân thật của mình. Nhưng muốn thấy được chỗ chân thật, trước phải thấy cái hư dối. Nếu chấp thân và tâm phân biệt suy nghĩ là thật, đó gọi là vô minh. Tất cả tụi con ở đây tu, đã thoát được vô minh chưa? Tuy tu mà vẫn vô minh. Chưa khỏi vô minh tức còn trong mù tối.

Thấy được thân và tâm phân biệt này hư dối, chính là cái thấy của trí tuệ Bát-nhã. Nếu còn tưởng hai thứ đó thật, là ta, đó là cái thấy của vô minh. Thật như trở bàn tay, đâu có khó, đâu có xa! Cũng thân này bên đây là vô minh, bên kia là trí tuệ. Từ đó chúng ta mới thấy vô minh là phàm phu, tạo nghiệp luân hồi muôn kiếp, trí tuệ là sáng suốt, phá tan nghiệp chướng và đi trên đường giải thoát. Cho nên giác ngộ rồi đưa tới giải thoát là như vậy.

Tuy nhiên, sẽ có nhiều người hỏi rằng: “Mình không thật, người không thật, cái gì cũng không thật, vậy còn cái gì?” - Còn cái biết tất cả không thật. Nếu không có cái biết đó thì ai biết tất cả không thật phải không? Như vậy rõ ràng quá, đừng lo mất.

Tụi con thấy ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả không thật, đó là trí tuệ Bát-nhã. Khi chúng ta thấy tất cả không thật, trí Bát-nhã liền hiện tiền, đó là giác ngộ, giải thoát. Bởi vậy Lục Tổ lúc nghe giảng kinh Kim Cang, Ngài liền bừng ngộ. Khi chúng ta nhận ra tất cả hư dối, không còn dính mắc nữa thì cái chân thật hiện tiền. Vì vậy Ngài nói: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ...”

Đây là trọng tâm sự tu. Tu thiền mà thiếu trí tuệ cũng trở ngại nhiều. Cho nên Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang là gốc tu thiền, và bài giảng đầu của Lục Tổ là bài Bát-nhã. Phá được bốn tướng, chúng ta mới bước vào cửa Niết-bàn, mới thấy được cái chân thật. Trong Bát-nhã không bao giờ nêu chỗ thật, chỉ nói cái giả thôi, nhưng khi nhận biết tất cả đều là giả, cái nhận biết đó có nằm trong hư giả không? Đó là ngầm chỉ, là chỗ khéo của kinh Bát-nhã. Vậy mới thấy ý kinh rất thâm trầm, trên đường tu chúng ta nếu không nắm vững được những điều này dễ bị thối chuyển.

Chúng ta tu bước đầu là phải thấy cho tường tận, đúng với lẽ thật, từ đó mới dễ tiến lên, thoát khỏi những cái chướng. Còn nếu chúng ta không thấy được như vậy, tu thì tu mà chướng vẫn tràn trề. Bởi vì còn thấy mình thật, thấy có ngã, cái gì trái ý mình, trái với sự ham muốn của thân liền bực bội, rồi trở thành chướng đạo.

Như vậy, khi tu chúng ta phải nắm vững cái gốc này, phải sống bằng trí tuệ Bát-nhã để xóa bỏ bốn tướng, sạch các chướng muôn đời của mình, bản ngã tan biến, chỉ còn một cái chân thật thôi. Được vậy, đường giải thoát không xa. Đó là lời nhắc nhở của Thầy, mong tất cả cố gắng thực hiện.

Ngày 13-9 Ất Hợi (5-11-1995)

Hôm nay trong chúng những người có lỗi đều tự thấy, ra sám hối, đó là điều tốt. Kể từ đây về sau, phần công tác xây dựng nặng đã hết rồi, chỉ còn công tác lặt vặt, toàn chúng nên làm việc đúng giờ, theo thời khoá đàng hoàng để giờ giấc tu hành không thiếu.

Bây giờ Thầy nhắc nhở thêm. Tụi con trong khi tu, nhiều đứa hay than gặp chướng ngại. Vậy chướng có mấy thứ? Có ba: báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Báo chướng là thân bệnh. Nghiệp chướng là tập khí nhiều đời còn sót lại mình phải vượt qua. Còn phiền não chướng là do những lời hơn thua, phải quấy với nhau rồi sanh ra bực bội.

Ba thứ chướng đó, tụi con phải thắng hết. Phiền não chướng dễ thắng nhất, phải không? Nhưng ở đây tụi con đã thắng trọn vẹn chưa? Dễ lắm, ai nói trái tai gì cũng bỏ qua, thấy người đó có vẻ khinh mình, cũng bỏ qua. Chỉ vì bỏ qua không được thành phiền não. Vì vậy tu là phải khéo buông xả, đừng chấp, lòng mình sẽ an nhiên thanh tịnh. Đó là thắng được phiền não chướng.

Nghiệp chướng là thói quen cũ, không phải chỉ riêng đời này mà có ở nhiều đời trước. Thí dụ như Thầy hồi xưa, ngồi chơi có cái tật hay bắt tréo chân. Khi ở Ấn Quang, Thầy ngồi chơi với huynh đệ, có ông Phật tử vô thấy nói: “Thầy tu sao ngồi tréo nguẩy?” Người ta phê bình ngồi như vậy không phải tư cách của người tu. Từ đó Thầy mắc cỡ không ngồi vậy nữa, nhưng lâu lâu quên cũng tréo chân ngồi.

Đó là những thói quen không phải chỉ ở đời này mà từ đời nào đó còn sót lại. Nếu mình nhớ thì sửa, khi quên lại mắc kẹt. Có những lúc quên, chúng ta làm mà không để ý, người khác thấy chướng mới nhắc cho, mình biết rồi phải sửa. Nghiệp chướng trong đời này, cái gì mới gây tạo thì mình nhớ nên ráng tránh, còn những thói quen đời trước, do quên nên làm thật tự nhiên. Vì vậy, nghiệp chướng rất khó trị.

Báo chướng càng khó hơn. Thật ra người tu hành tinh tấn mấy đi nữa, đến khi gặp bệnh hoạn cũng hơi chán nản, bệnh hoạn là báo chướng. Nếu bệnh hoạn mà không chán không nản tức thắng được báo chướng.

Trên đường tu ai cũng bị ba chướng này: phiền não, nghiệp và báo chướng. Vậy ở đây tụi con ráng, không có duyên bên ngoài nên phiền não vì bị chửi mắng không có; còn lời qua tiếng lại thì phải khéo tu, bỏ qua hết để thắng phiền não chướng. Đối với nghiệp chướng, khi nào mình lỡ làm điều gì sai mà không lưu tâm lưu ý, có ai nhắc phải sám hối. Đó là tập khí nhiều đời chớ không phải mới. Còn báo chướng tụi con phải gan dạ mới vượt qua được.

Ba cái chướng qua được rồi, tụi con sẽ tiến đến gần con đường đạo và đạt đạo không nghi ngờ. Muốn đời tu của mình đi tới chỗ cứu kính, tụi con phải ráng vượt qua ba chướng đó. Đứa nào biết khéo, biết khôn thì tu để dẹp phiền não, dẹp nghiệp chướng, dẹp báo chướng; chớ không phải tu là nuôi dưỡng phiền não, tập khí, và nuôi dưỡng thân này rồi làm chướng đạo.

Đó là ba điều Thầy nhắc, tất cả tụi con nhớ để ứng dụng tu, có lợi cho mình và cho nhiều người.

Ngày 28-9 Ất Hợi (20-11-1995)

Hôm nay Thầy nhắc tụi con một điều. Ở Thiền viện tụi con ý thức rõ nơi này tu nhiều chớ không phải học nhiều, cũng không giao thiệp nhiều như những nơi khác. Đã đặt nặng tu nhiều thì ở đây tụi con nên tập tánh ngay thẳng thật thà. Đức tánh này giúp tụi con có đầy đủ phước và đức nên tụi con dễ tu, dễ tiến. Nếu thiếu ngay thẳng thật thà, trên đường tu sẽ gặp chướng, lại còn tập cho mình nhiễm thói thế tục.

Tụi con thấy những người làm trong ngành ngoại giao cần phải bặt thiệp, nói năng khôn khéo. Nếu ai tiếp xúc với bạn hàng cũng phải khéo xã giao, chiều chuộng để được lòng khách, phải khéo lựa lời nên nói không được chân thật. Còn chúng ta ở trong giới tu hành thì khác, nên thật thà chất phác. Người tu nói ngay thẳng, thật thà, có ai chê ngu không? Mình ngốc nghếch quá người ta mới chê ngu, còn mình ngay thẳng thật thà, không ai chê ngu hết. Chính cái đó là dễ tu, lại tăng trưởng công đức.

Thật thà không chỉ ở ngôn ngữ mà cả nơi hành động nữa. Như Thầy thường nhắc, ở đây mỗi đứa được chừng ấy bộ đồ ngắn, áo tràng, y hậu và những vật dụng của Thiền viện cho tụi con xài. Nếu tụi con thật thà thì cho bao nhiêu xài bấy nhiêu, không tìm kiếm cách này cách kia để có thêm, vì kiếm thêm là mưu mẹo, thiếu thật thà, phải vậy không?

Điều Thầy vừa nhắc e rằng trong đây còn mắc kẹt nhiều lắm. Tụi con đừng thèm thêm một thứ gì, dù chỉ một miếng vải cũng không, cho bao nhiêu xài bấy nhiêu thôi. Tụi con nhớ trong luật Phật dạy, Tỳ-kheo tăng thì ba y một bình bát, Tỳ-kheo ni năm y một bình bát. Phật cho bao nhiêu giữ bấy nhiêu không kiếm thêm. Ở đây Thầy cho tụi con nhiều hơn, ngoài y, áo ra, những đồ lặt vặt cũng có nữa, như vậy đâu phải thiếu. Cho nên nếu có ai cho cái gì đều giao qua chúng hết, không lãnh một món nào, đó mới gọi là thật thà. Nếu có cái gì hơn và khác với huynh đệ là không thật thà. Người khéo giấu giếm, khéo che đậy để có cái khác hơn thiên hạ không đủ tư cách làm Thiền sinh Trúc Lâm.

Tụi con ở đây, khi áo rách không còn xài được thì đem đến Tri sự đổi, còn rách ít nên vá lại mặc. Thầy thấy có mấy đứa mặc áo vá cũng hay hay. Người tu mặc đồ rách dễ thương lắm, còn người tu mặc đồ đẹp là thích hợp hay thấy sang? Người xưa tự xưng mình là bần đạo, nghĩa là ông thầy nghèo, chớ không có ai xưng là phú tăng.

Trong Chứng Đạo Ca có câu:

Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,
Thật thị thân bần đạo bất bần.
Bần tắc thân thường phi lũ hạt,
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân.

Nghĩa là:

Cùng Thích tử, miệng xưng nghèo,
Thật là thân nghèo đạo chẳng nghèo.
Nghèo vì thân thường mặc áo vá,
Đạo ắt lòng mang vô giá châu.

Những câu đó đẹp làm sao! Thân nghèo là mặc áo vá. Bây giờ y không chằm vá nhưng mấy cái áo mặc đi lao động rách vá lại coi cũng dễ thương. Còn tu mà sang quá, đẹp quá là trái với bản ý của mình. Nhiều khi Phật tử cho Thầy đồ sang quá, Thầy mặc cũng mắc cỡ. Thầy đòi mặc áo rách mà không ai cho, chớ người tu mặc áo rách mới hợp “thân thường phi lũ hạt”.

Chỉ cần tâm mình chứa được hòn ngọc vô giá, đó mới là cái giàu của người tu. Có nhiều đồ đạc, của cải là giàu thế gian, trái với đạo. Đạo đức là nghèo về thân mà giàu tâm, tâm luôn chứa một hòn ngọc vô giá. Vậy tụi con phải nhớ, sống nghèo là nếp tốt của người tu, còn sống sang quá e không hay.

Như người ta ở ngoài có tiền là sắm chiếc xe tốt tốt để đi, phải không? Xe Thầy cũng tốt mà là của mượn chớ không phải của Thầy. Thầy chưa từng mua xe hơi, toàn đồ người ta cho. Như hồi ở Thường Chiếu, ông Toàn Thiện cúng chiếc xe Ladalat để chở đồ, sau này chú Thông Giải về, mua chiếc xe cũ đỏ đỏ. Trên đây không có xe, gia đình Hồng Đức cúng chiếc xe cũ hiện đang xài.

Thầy chưa từng bỏ tiền ra mua một chiếc xe nào cả. Nếu có tốt là do người ta cúng, chớ Thầy không dám sắm vì sợ việc làm của mình tổn phước. Mỗi khi Thầy xài hoặc sắm cái gì hao tốn của Tam Bảo, Thầy không vui.

Tất cả cái gì Thầy có là của Phật tử cúng, một là để nuôi Tăng Ni tu hành, hai là xây dựng lại các ngôi già-lam, còn phần thứ ba là giúp cho những người nghèo khổ như ở Tuệ Tĩnh đường. Đời Thầy chỉ có bấy nhiêu đó. Còn chuyện ăn mặc sang là do thí chủ cho, không mặc họ buồn, buộc lòng phải mặc. Mặc chưa rách cái này, họ lại cho cái khác, thành ra mặc đồ mới hoài.

Thật ra Thầy thấy mặc áo rách dễ thương lắm! Tụi con ở đây không đi đâu, cũng không có tiếp khách, nếu áo rách chút ít vá lại mặc thì thêm đạo vị, đâu có sao! Ngoài ra, giày dép, tất vớ, tất cả đồ hư rách, đem lại Tri sự đổi đồ mới cho. Như vậy là quá tốt. Ở đây tạo duyên cho tụi con không phải lo đói rách thiếu thốn, tất cả tụi con yên lòng.

Người giữ kho cũng không có quyền xài nhiều hơn tụi con. Người đó phải chịu cực, vừa lo tu cho mình, vừa phải giữ đồ đạc cho huynh đệ. Như vậy, tụi con chỉ yên ổn ngồi tu, đừng bận bịu suy nghĩ, tính toán, suy nghĩ tính toán càng thêm rối loạn, ngồi tu không yên. Thầy cố tình tạo đủ duyên cho tụi con yên tu mà trái lại tụi con cố tình tạo duyên bất an. Như vậy tụi con làm ngược lại điều Thầy muốn. Vậy phải ráng thật thà, cho bao nhiêu thì xài bấy nhiêu, hư rách đem lại Tri sự đổi.

Đó là nói tụi con thật thà về mặt đồ dùng. Còn về tiền bạc, nếu tụi con đi đâu, Thủ bổn đưa tiền cho, tụi con xài cái gì đáng, những thứ không quan trọng bớt xài, còn bao nhiêu đem về trình Thủ bổn, xin hoàn lại chúng. Nếu còn dư mà cố giữ là tham, là phạm giới thứ mười, không tốt. Giới thứ mười chỉ cho phép mình giữ tiền cho chúng, hay khi đi đâu cần có tiền trao đổi qua lại, chớ không được cất riêng. Hơn nữa, có tiền trong túi thì muốn mua sắm cái này cái kia, thêm cái họa loạn tâm, lại thiếu lục hòa.

Bởi vậy, nếu tụi con thật thà thì chúng xài bao nhiêu mình xài bấy nhiêu, cái gì hư rách đem đi đổi, không nghĩ thêm cũng không nghĩ bớt. Muốn thêm dù một vật nhỏ xíu cũng không nên, phải biết tự hổ thẹn. Còn bớt là vì nghĩ mình có nhiều quá, huynh đệ thiếu, muốn chia cho, cái bớt đó cũng bất hợp pháp. Ở đây không thêm cũng không bớt, có bao nhiêu xài bấy nhiêu để yên ổn tu hành. Giá trị của tụi con không phải nơi của cải nhiều mà do đạo đức thâm hậu, đó mới là chân thật.

Bởi vậy tụi con nên đem hết tâm tư dồn vào một việc tu thôi, không lo nghĩ gì về vật chất bên ngoài. Được như vậy thì đức tánh chân thật, ngay thẳng nơi tụi con sẽ thành tựu.

Ngày 13-10 Ất Hợi (4-12-1995)

Hôm nay Thầy nhắc nhở toàn chúng những điều cần thiết. Tụi con phải tập có ý chí mãnh liệt. Muốn có ý chí mãnh liệt phải giữ những điều rất bình thường. Hồi xưa lúc còn nhỏ, Thầy có đọc một quyển sách nói về luyện chí. Trong đó họ dặn mỗi ngày mình chỉ viết năm dòng nhật ký, làm sao suốt một tháng không thiếu ngày nào, đó là có ý chí. Việc này dễ hay khó? Một ngày chỉ viết có năm dòng thôi, hết sức dễ, mà một tháng chưa chắc gì đủ. Tại sao vậy? Vì khi hứng viết cả tờ, khi không hứng bỏ quên mất. Không có chừng mực, điều độ là không có ý chí. Người có ý chí luôn làm việc có chừng mực và điều độ.

Khi học được vậy Thầy thấy phải làm cho được những gì để lập chí. Thầy thường nói với tụi con, lúc ở Phật học đường, còn là Tăng sinh, Thầy không tu hơn huynh đệ chút nào, cũng không học hơn. Nghĩa là tới giờ tụng kinh Thầy tụng kinh, giờ học Thầy học, giờ ngủ Thầy tắt đèn ngủ, không thức thêm. Khi thức chúng, nghe kiểng Thầy trỗi dậy liền, không nán thêm một phút nào, bây giờ già cũng không thay đổi, dù có mệt cũng dậy, đã thành thói quen.

Nhờ đều đặn bền chí mà Thầy có sức chịu đựng dù gặp hoàn cảnh dễ hay khó. Nếu tụi con không tập như vậy, lúc thuận làm hăng say, lúc nghịch lại chán nản, thì chẳng có việc gì làm đến nơi đến chốn được. Trong cuộc sống này, không có công việc nào luôn xuôi chèo thuận gió. Có khi thuận, khi nghịch, lúc hài lòng, lúc bực bội trái ý, cho nên phải tập dù ở hoàn cảnh nào mình cũng giữ đều đặn bền bỉ trước sau như một. Đó là điều hết sức khó, thấy thì thường mà làm được không phải dễ.

Tụi con gắng tập làm sao trong sự tu học, cũng như giờ tụng kinh, quá đường..., giờ nào đúng giờ đó, không cần đi sớm cũng không đi trễ. Giữ đều đều như vậy là rất tốt, lâu ngày tụi con trở thành người đứng đắn đàng hoàng, có mực thước, còn làm việc vô chừng hoài trở thành không có nề nếp, không hay. Ngày nay tụi con còn là Thiền sinh ở Thiền viện, ngày sau sẽ làm thầy người. Làm thầy mà không có ý chí, không điều độ, chừng mực thì người học không có duyên tốt để tiến lên. Đó là lỗi thiệt thòi cho bản thân mình, lại thêm cái lỗi hướng dẫn người sau không có kết quả.

Tụi con ngay bây giờ phải tập, tới giờ tụng kinh lên tụng kinh, giờ ăn cơm đi ăn cơm, giờ nào đúng giờ đó. Không phải giờ kia quan trọng, giờ này coi thường, mà giờ nào cũng là giờ quan trọng hết. Thầy bây giờ tuy già rồi nhưng đi đâu Thầy cũng đúng giờ, luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng trước. Đó là Thầy tập lâu rồi thành quen.

Ngày nay tụi con còn nhỏ nên tập sống chừng mực, điều độ, đừng để sai chạy. Như Thầy sáng nào ngồi thiền rồi cũng ra tập thể dục không bỏ, tối xả thiền xong tập lộc lô đều đặn, nhờ vậy Thầy ít bệnh. Tụi con nhiều khi trong người khỏe thì sốt sắng, còn trong người mệt lăn qua trở lại muốn nằm, đó là giải đãi, nên tới giờ tụng kinh đi trễ. Bệnh trễ nải sau thành thói quen, rồi dần dần thiếu tinh tấn, không có đức độ. Mình không tinh tấn sau này làm sao dạy đệ tử tinh tấn được. Bởi vậy tụi con phải sáng suốt, sống điều độ, chừng mực, đừng nên khi thăng khi giáng không tốt, đó là Thầy nhắc điều thứ nhất.

Điều thứ hai là ở đây Thầy muốn tạo duyên cho tụi con giữ được mười giới cấm của Sa-di. Tụi con đa số là Tỳ-kheo, Thức-xoa rồi nhưng Thầy chỉ dạy tụi con giữ giới Sa-di thôi. Sa-di có hai giới mà trong chúng coi thường: giới ăn phi thời và giới nói dối.

Nhiều khi chia bữa lỡ gần tới giờ cơm, tụi con muốn để dành chiều ăn, như vậy là phi thời. Tuy điều này nhỏ, nghĩ đó là phần của mình, ăn lúc nào cũng được, nhưng Thầy bảo tụi con ráng giữ mười giới, tụi con phải cẩn thận tối đa. Món gì ăn được giải quyết liền, đừng để dành chiều. Giả sử chiều còn thức ăn, tụi con vẫn giữ giới không ăn. Ngày nay là Thiền sinh giữ được giới như vậy, mai sau tụi con làm thầy, dạy đệ tử giữ giới mới nên. Nếu chiều mình ăn, biểu nó giữ giới nó đâu thèm giữ, rốt cuộc thầy trò như nhau.

Nên tụi con tập ngay từ bây giờ, đúng giờ thì ăn, qua giờ không ăn, tập như vậy cho quen. Mới nghe như cố chấp nhưng chính cái đó là gương mẫu cho người sau. Nhất là ở đây, trong nội qui Thầy dạy như vậy mà tụi con để dành đồ bữa lỡ chiều ăn, nếu khách tới thấy mấy cô ăn chiều, họ nghĩ sao? Trong Thanh qui tối thiểu giữ được mười giới, bây giờ mấy cô chỉ giữ được chín giới, bỏ hết một giới. Đó là tụi con hơi khinh thường, khinh thường như vậy không tốt.

Phần ăn tụi con, nếu không muốn ăn, đem chia người khác, không được ăn sai buổi. Cho nên tất cả phải dè dặt. Tất cả ráng giữ gìn thì giá trị của mình tăng lên, người chung quanh thấy cũng nể. Nếu mình nói chiều không ăn, đến khi có thức ăn chị em kéo ra lai rai với nhau, như vậy người ta sẽ cười mình không có tinh thần giữ giới. Giới khinh mà coi thường quen rồi, thì giới trọng mình cũng coi thường. Cho nên khi đã quyết tâm giữ giới, dù giới khinh mình cũng ráng giữ cho tròn.

Trong Thanh qui, Thầy ghi giữ tròn mười giới làm căn bản, còn những giới trên nữa thì giữ bao nhiêu tốt bấy nhiêu, điều kiện nào giữ không được đành phải chịu. Thí dụ như trong Tỳ-kheo, những giới về y, bát... chúng ta không thể thực hiện thì đâu có giữ được. Cho nên mấy giới có thể giữ được mình phải ráng giữ.

Ở đây chiều và tối ngồi thiền. Chiều ngồi thiền nên sự tiêu hóa hơi chậm, không cảm thấy đói. Buổi tối cũng ngồi thiền, nếu chiều mình ăn nữa sẽ làm trở ngại cho việc ngồi thiền, một là nghe bụng nặng, hai là sanh buồn ngủ. Bởi vậy người tu thiền buổi chiều ăn uống hết sức đơn giản nhẹ nhàng, để cho sự tu hành không bị trở ngại, cũng vừa giữ đúng giới luật, tránh tội coi thường giới. Vậy nên giả sử chiều còn dư thức ăn, chúng ta cũng không ăn, chỉ uống một ít bột vừa phải, nhẹ nhàng, giữ sức khoẻ đủ để tu, đừng vì sự ăn uống làm người ta chê cười. Tụi con ráng tập tôn trọng giới luật, dù giới nhỏ mình cũng quí, giữ gìn.

Ở đây Thầy nói như vậy, đến khi tụi con về T.C. thấy chiều ăn như thường, sẽ thắc mắc: “Sao ở T.C. Thầy không rầy mà ở đây Thầy rầy?”

Tụi con nhớ câu chuyện ông Sa-di bị lỗi ăn trộm mùi hương hoa sen không? Ông Sa-di thắc mắc, sao mấy cô gái nhảy xuống hồ nhổ ngó sen làm tan nát cả hồ sen mà ông Thần không quở, còn mình đi ngang ngửi hương hoa một chút lại bị quở? Ông Thần nói rằng: Ví như một người mặc áo trắng, chỉ dính một đốm mực mọi người đều thấy. Còn người mặc áo đen dù dính cả chục đốm mực cũng không ai để ý tới.

Ở đây cũng vậy, Trúc Lâm được danh tiếng tốt là nơi tu hành thanh tịnh, giữ giới luật đàng hoàng, nếu mình phạm một giới nhỏ không đáng, cũng bị người ta đánh giá. Còn những nơi kia, buổi chiều phải làm lụng nên có lý do để ăn chiều, họ phạm ít ai để ý. Ở đây mình tôn trọng giờ tu, mong có đủ thời giờ để cố gắng nhiếp niệm, tất nhiên giới luật mình cũng ráng giữ cho thanh tịnh theo, cả hai bên đầy đủ như vậy là tốt.

Vì vậy, Thầy nhắc nhở toàn chúng, mỗi người phải tự kiểm điểm, tự thúc liễm mình, những điều không hay ráng giữ đừng để xảy ra, sao cho tập thể mình ai đến cũng đều quí mến, như vậy mới có giá trị. Hiện tại có giá trị thì mai kia Thầy tịch rồi, tụi con mới đủ tư cách ra lãnh đạo, mọi người trông đợi, tin tưởng. Nếu bây giờ tụi con không cố gắng, mai kia ra người ta coi thường, coi thường thì Phật sự rất khó làm. Vì vậy Thầy mong tất cả đều cố gắng, gìn giữ giới luật cho được thanh tịnh.

Thứ hai là giới nói dối. Nhiều người nghĩ rằng nói gạt chơi không sao, nên coi thường giới nói dối. Hậu quả đáng buồn là trong chùa nói dối nhiều quá. Tụi con có không?

- Dạ, có.

Như trong chùa tiền đầy túi, mà Phật tử tới lại than trong chúng thiếu thốn đủ thứ. Hoặc vì quyền lợi gì đó mà nói sai sự thật, đó là nói dối. Người ta hay gọi là thiện xảo phương tiện, nhưng cứ thiện xảo như vậy lâu ngày thành nói dối khá nhiều.

Như gia đình nọ có đứa con sắp thi tú tài, có một ông thầy bảo: “Đem tên nó lại đây, thầy cầu nguyện giùm cho.” Họ nghe ham quá đem tên lại nhờ cầu nguyện. Thầy ở gần nên biết ông thầy đó không siêng. Đến khi họ về, Thầy nói với ông ấy: “Sao không cầu nguyện cho họ?” Ông trả lời: “Nói cho vui chớ rảnh đâu mà cầu!” Như vậy có phải là nói dối không? Nói cho được lòng người mà không làm gì hết, đó là nói dối. Nếu nó rớt, nói thầy có cầu mà tại nó học dở; còn nó thi đậu là nhờ thầy cầu đó, chuyến này cúng cho thầy kha khá. Đó là lập công khéo léo mà không có công gì hết.

Vì vậy trong nhà đạo phải tập nói năng thật thà, đúng Phật pháp, cái gì có nói có, không nói không, cái gì làm được thì nói làm được, làm không được nói làm không được, đừng đánh lừa thiên hạ không tốt. Vì trong chùa cái xảo ngụy đó hơi nhiều nên Thầy dạy tụi con phải ráng thật thà.

Tụi con thấy có khi nào Thầy than với Phật tử Thầy thiếu cái gì đâu. Bởi vậy người ta nói Thầy giàu. Nhờ người ta nói Thầy giàu nên Thầy giàu luôn, chớ mình than nghèo suốt kiếp cũng nghèo. Vì vậy mình thật thà chẳng thiệt thòi gì, còn xảo ngụy lừa gạt thiên hạ rồi cũng không tới đâu, lại mang tội điêu ngoa xảo trá. Đó là điều cần thiết cho cuộc sống tu sĩ.

Thầy nhắc thêm một điều nữa. Bây giờ trời sắp sang đông, hơi lạnh, giờ ngồi thiền, tụi con đóng cửa phía có gió, còn bên không gió nên mở ra. Thuở xưa đức Phật ngồi thiền trong rừng, dưới cội cây hoặc trong đình miếu có kín đáo gì đâu, chính nhờ khí hậu mát mẻ, tinh thần sảng khoái người ta dễ đạt đạo. Đức Phật ngồi dưới cội bồ-đề, Ngài đã đạt đạo, còn tụi con nếu đóng cửa hết, ngồi trong đó ngộp, bực bội, không thoải mái làm sao mà đạt đạo? Cho nên chỉ đóng cửa bên gió là đủ ấm rồi.

Thầy ở đằng thất có một mình, đầu hôm hay buổi khuya Thầy ngồi thiền vẫn mở một cánh cửa sổ. Còn ở đây có một khoảng không gian này mà bấy nhiêu người, đâu có đủ không khí. Người này thở ra người kia hít vào, không sảng khoái thì tâm hồn làm sao sáng suốt được? Vậy nếu có hơi lạnh, tụi con ráng chịu, đừng tự ý đóng hết cửa. Ai cũng phải tôn trọng cái lợi chung, tụi con chỉ đóng một phía gió thôi.

Những vị sư Tây Tạng ở xứ lạnh gấp mấy lần mình mà họ ngồi ngoài trời, còn cởi áo nữa. Mình ở đây hai, ba lớp áo vẫn còn than lạnh thì đạo lực quá yếu. Ráng tập điều hòa đừng để lạnh hay nóng quá sanh bực bội khó tu. Đó là những kinh nghiệm nhắc cho tụi con biết.

Câu chuyện buổi chiều

Thầy đi ra ngoài nhà khách, thấy một người Mỹ đứng với một chú sinh viên, đó là cô giáo dạy Anh văn ở trường Đại học Đà Lạt. Cô Mỹ thưa:

- Thưa Thầy, con muốn hỏi thiền.

Thầy dẫn vô nhà khách nói chuyện. Cô ấy đạo Tin Lành, nói tiếng Việt khá, qua đây một năm rồi, giờ muốn học thiền.

Cô hỏi:

- Thiền là sao?

Thầy nói:

- Thiền không cần giải nghĩa, thiền là quay lại tìm hiểu con người mình đúng như thật. Trước hết phải biết rõ thân này. Thân này thật không? Thân này do duyên hợp, nói thực tế là do bốn thứ đất, nước, gió, lửa hợp thành. Chất cứng là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Bốn thứ đó bên trong, muốn cho nó tồn tại lâu dài phải nhờ bốn thứ bên ngoài: hít vô là mượn không khí trời đất, thở ra là trả; rồi ăn uống vô, trả ra... Tất cả cái đó mượn rồi trả, nếu mượn không trả được thì chết. Như vậy mạng sống này là thật hay giả? Nếu thật ắt không phải mượn, nếu đã mượn tức không phải thật. Vậy biết khái quát thân này là vay mượn.

Thầy hỏi cô Mỹ có đồng ý vậy không? Cô đồng ý. Thầy giải thích tiếp:

- Đó là biết về thân. Còn về tâm (cô cũng biết chữ tâm nữa), người thế gian nhận cái suy nghĩ phân biệt, khôn dại, phải quấy là tâm. Bởi nghĩ chúng là tâm mình, chấp cái suy nghĩ của mình là đúng nên ai nghĩ khác cho là sai hoặc ai đồng ý với mình thì thích, ai phản đối liền giận. Nhưng cái nghĩ có phải là mình chưa? Mình nghĩ hơn thua phải quấy cả trăm thứ, cái nào là mình? Chẳng lẽ mình là trăm thứ đó?

Thầy hỏi:

- Theo con nghĩ, mình là một hay là nhiều?

- Mình là một.

- Như vậy khi nghĩ cả trăm thứ thì mình ra sao? Cái nghĩ có phải là mình không?

- Không phải!

- Lại có khi mình đang ngồi chơi, không nghĩ gì cả, nếu cái nghĩ là mình thì khi không nghĩ không có mình sao? Như vậy, một là khi không suy nghĩ thì cái biết hiện tiền, vì mình hay nghĩ lăng xăng nên cái biết hiện tiền đó bị mờ đi. Hai là các suy nghĩ lăng xăng khi có khi không, còn mình lúc nào cũng hiện hữu, nên cái gì chợt có chợt không, không phải là mình. Thứ ba, nếu cái đang nghĩ là mình, khi quay lại tìm coi nó ở đâu, liền mất tiêu không còn tăm tích. Như vậy nó không có thật, không phải là mình. Qua ba điều trên xác định cái suy nghĩ không phải thật là mình.

Cô Mỹ chấp nhận. Thầy nói tiếp:

- Cái gì là mình thật? Thí dụ cái gương, nếu có bóng người hay vật trong gương, chúng ta lo nhìn bóng quên gương. Khi bóng người, vật không có thì gương hiện tiền. Vì cả trăm thứ bóng che mờ nên mình không nhớ mặt gương, bao giờ những cái bóng sạch hết thì mặt gương hiện tiền. Cũng như vậy, cái suy nghĩ lăng xăng không phải thật mình, nhưng vì mải mê theo những cái bóng đó nên quên mất mình. Làm sao cho mọi suy nghĩ dừng lặng, cái thật liền hiện tiền. Như vậy thiền là gì? Thiền là dừng hết những thứ lăng xăng để lòng yên tịnh, nhận ra cái chân thật hiện tiền.

Vậy thiền là trở về cái chân thật của chính mình. Có ba chặng:

Thứ nhất: biết thân giả tạm này không phải là mình.

Thứ hai: biết cái suy nghĩ không phải là mình.

Thứ ba: cái chân thật hiện tiền.

Không chấp vào hai cái giả trên thì cái thật hiện tiền. Như vậy, nói chung người tu Phật, nói riêng người tu thiền cốt nhận chân được lẽ thật về con người. Biết rõ mình, biết mình là cái gì, đó là biết cái chân thật. Nếu chúng ta không biết mình mà biết tất cả thứ bên ngoài thì cái biết đó trở thành vô nghĩa trên con đường tìm cầu giác ngộ.

Thầy nói vậy cô ấy đồng ý. Tụi con nghe quen thấy dễ hiểu, cô giáo Mỹ đó mới nghe mà cũng hiểu. Thầy dẫn cho đi một vòng chơi, thấy tụi con ngồi thiền, cô nói khi nào sắp xếp công việc xong sẽ xin vào đây tập tu. Như vậy mới thấy người Tây phương đang muốn học thiền. Cô ấy không trực tiếp hỏi Thầy mà hỏi người bạn dẫn đi: “Bây giờ biết đạo Phật rồi, mình nên đi nhà thờ nữa không?” Chú kia cởi mở trả lời: “Đi cứ đi, còn hiểu đạo Phật thì đem ứng dụng sống.”

Ứng dụng tu thiền là khi có vọng tưởng biết có vọng, khi có phiền não tham sân si biết có phiền não, rồi tự sửa đổi. Khi tâm thanh tịnh sáng suốt cũng biết rõ ràng. Bây giờ Thầy dạy Phật tử qui y năm giới, nhờ giữ tròn năm giới đời họ bớt khổ, gia đình và xã hội cũng bớt khổ. Hoặc là dạy cho họ biết nhân quả, trong cuộc sống nhân nào tốt thì làm, nhân nào xấu đừng làm, chắc chắn có kết quả tốt. Đó là lẽ thật.

Chúng ta tu đúng lẽ thật, dạy người khác tu đúng lẽ thật.

Hiện giờ mình tham sân si nhiều là tại sao? Vì mê lầm thấy thân này thật, cho cái suy nghĩ là thật. Chấp hai thứ đó nên giận hờn phiền não cả ngày. Chấp thân thật, ai ăn hiếp liền giận, chấp tâm thật, ai trái ý liền giận. Bây giờ biết thân và tâm không thật thì còn gì giận? Nếu tụi con biết thân tâm không thật, bảo đảm tụi con hết tham sân si. Do thấy không thật nên hết si, hết si tức hết tham, không tham liền hết sân. Tu hành kết quả thực tế rõ ràng như vậy.

Đạo Phật nói sự thật, đem chân lý lại cho con người, chớ không phải chỉ dạy mơ hồ. Như trong Tương Ưng Bộ có câu chuyện:

Một hôm có vị Thôn trưởng tới bạch Phật:

- Các vị Bà-la-môn thờ lửa, khi có tín đồ mạng chung, thường cử hành nghi lễ để đưa họ về thiên giới. Còn Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, có cách nào giúp cho toàn thể chúng sanh thân hoại mạng chung được sanh về cõi lành hay không?

Phật bảo:

- Này Thôn trưởng, nếu có người quăng tảng đá nặng xuống hồ nước sâu, rồi tụ tập quần chúng đông đảo đến chung quanh cầu nguyện cho tảng đá nổi lên, có được như nguyện không?

- Thưa, không.

- Nếu như có người bình sanh ưa sát sanh, trộm cắp... không từ nan bất cứ tội ác nào. Đến lúc thân hoại mạng chung, người ấy được số đông đến khen ngợi cầu nguyện cho họ được sanh lên cõi trời..., kẻ ấy có được như nguyện chăng?

- Thưa, không.

- Nếu lại có người đem dầu đổ xuống nước. Xong họ tụ tập một số đông người đến chung quanh chắp tay cầu nguyện cho dầu ấy chìm xuống đáy nước, người ấy có thể được như nguyện không?

- Thưa, không.

- Nếu như có người từ bỏ đời sống sát sanh, trộm cắp... không có tâm tham và sân, theo chánh tri kiến. Đến khi thân hoại mạng chung, bị một số đông người chắp tay nguyền rủa cho họ rơi vào ác đạo, thì người làm lành ấy có rơi vào cõi dữ không?

- Bạch Thế Tôn! chắc chắn là không rồi.

- Thế thì, ông đã hiểu bằng cách nào Như Lai giúp cho toàn thể chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi lành rồi chứ?

Như vậy, người có nghiệp thiện giống như dầu, dù ai ác ý nguyền rủa họ xuống địa ngục họ cũng không bị xuống; còn người nghiệp ác nặng giống như đá, dù các ông có lòng cầu nguyện cho họ được lên cõi lành cũng không được, họ nhất định bị đọa. Đó là sự thật.

Chúng ta phải nắm vững sự tu hành của mình, rồi đem dạy người ta tu. Người nào tu một chút là đỡ khổ một chút, tu nhiều đỡ khổ nhiều, tu bao nhiêu đỡ khổ bấy nhiêu. Tu mấy chục năm mà phiền não còn nguyên là tu không có kết quả. Phải hiểu tường tận đường lối tu. Thầy thường tìm hiểu lẽ thật chớ không chịu xưa bày nay làm. Tụi con phải gắng công thực hiện những lời Phật Tổ dạy cho có kết quả thiết thực, để đời mình chuyển hóa từ người tầm thường thành người đạo đức. Nếu không cố gắng tu mà cứ chờ chết cầu về chỗ này chỗ kia, thật là mơ hồ.

Ã

Hôm qua có mấy vị cư sĩ đến, Thầy nói chuyện đạo lý với họ. Người tu thấy thân này không thật nhưng người thế gian thấy thân này thật. Họ hỏi:

- Sao Thầy nói thân này không thật?

Thầy trả lời:

- Thân này do tứ đại hòa hợp, trong đạo Phật gọi là nội tứ đại, ở trong hợp thành thân, chất cứng là đất, ướt là nước, động là gió, nóng là lửa. Do bốn chất đó hợp lại thành, nên thân này không thật. Thân này tự nó hợp lại chưa bảo đảm được cuộc sanh tồn, nên phải mượn tứ đại bên ngoài. Quí vị ngồi đây lỗ mũi đang làm gì? Đang thở. Thở là mượn không khí, hít vô rồi trả ra. Nói ngồi chơi chớ có khi nào chơi đâu, phải làm việc đều đều. Đến khi nào trả ra không mượn lại được là chết.

Nếu nói thân thật thì không cần mượn, mượn tức không thật. Chúng ta mượn hơi thở vô ra thường xuyên, lát lại mượn tách nước, rồi trả ra, đó là mượn nước; mượn cơm, bánh mì, rồi trả ra, là mượn đất. Như vậy mượn đất nước gió lửa vô rồi trả ra. Cứ vậy cả ngày, suốt đời chỉ có mượn trả. Nói mình sống chớ sự thật là đang vay mượn. Khi ngưng vay mượn là chết. Nếu mượn trả suôn sẻ gọi là an vui hạnh phúc, còn bị trục trặc thì chở đi bệnh viện, như đem vô mà không trả ra được có chở đi cấp cứu không? Như vậy mạng sống con người, chẳng qua là vay mượn, mà vay mượn làm sao thật được.

Bởi vậy người tu Phật phải có trí tuệ thấy được lẽ thật của thân này là vay mượn tạm bợ nên không cố chấp, không cố chấp nên không tham ăn tham mặc... Do thấy thật nên tham đủ thứ, còn thấy không thật liền hết tham, hết sân. Vì muốn mà bị ngăn lại là nổi sân, nay hết tham thì không còn sân. Thấy thân không thật là trí tuệ, từ trí tuệ phá được si. Bỏ được tham, sân, si đó là phá ba độc.

Chỉ theo căn bản đó tu sẽ hết khổ đau, nên có câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là có trí tuệ thấy rõ năm uẩn không thật, liền qua hết thảy khổ ách. Thấy thân không thật nên không tham, không tham sẽ không nóng giận thì đâu có khổ. Khổ là do không có trí tuệ, thật đơn giản làm sao!

Nghe Thầy nói vậy, họ lại đặt câu hỏi:

- Sở dĩ người ta ham làm việc này nọ là để thụ hưởng, bây giờ biết thân giả, không tham nữa, do đó không ai muốn làm gì hết, xã hội đi xuống. Như vậy đạo Phật dạy người ta bi quan thối lùi phải không?

Thầy trả lời:

- Người tu theo Phật, thấy thân giả không yêu quí, không tham cho mình thụ hưởng nhưng có lòng thương mọi người, muốn giúp họ được ấm no hạnh phúc, thấy người ta khổ liền cứu. Bởi vậy Phật giáo Đại thừa có Ngũ minh:

1- Nội minh: là thông suốt kinh điển.

2- Nhân minh: là học các cách lý luận.

3- Y phương minh: là làm thầy thuốc trị bệnh cho người ta.

4- Công xảo minh: là có nghề nghiệp khéo để giúp người, thí như thấy người ta thất nghiệp, mình có nghề gì đó bày giúp cho người ta làm.

5- Thanh minh: là biết ngoại ngữ.

Như vậy đâu phải là không biết các nghề nghiệp, không học nghề thuốc và không biết ngôn ngữ nước ngoài... Biết tất cả để làm lợi ích cho chúng sanh. Nhưng người đời vì tham vật dục thế gian nên kiếm tiền thụ hưởng, còn người tu Phật vì lòng từ bi thương người nghèo thiếu, giúp cho họ có nghề, có tài để họ kiếm sống.

Đó là câu chuyện Thầy trả lời cho mấy vị cư sĩ đến thăm Thầy.

Ã

Hồi Thầy mới tu ở Phật Quang, có lần bị sốt rét. Hôm đó, có ông giáo viên ở lại chùa. Thấy Thầy bệnh ông hỏi:

- Thầy tu mà cũng bệnh sao?

Thầy hỏi lại:

- Ông tu có bệnh không?

- Không bệnh.

- Sao không bệnh?

- Ngồi thiền không bệnh. Tu mà bệnh thì tu chi!

Lúc đó Thầy nghĩ: “Thật ngộ quá! Người ta tu không bệnh, còn mình tu lại bệnh, vậy là dở quá rồi.”

Đó là lúc mới tu nên Thầy suy nghĩ cạn cợt như vậy. Thật ra, đạo Phật lấy trí tuệ làm căn bản, biết thân này tạm bợ, có sanh ắt có già, bệnh, chết. Mấy ông tiên nói không bệnh, không chết nhưng tới bây giờ còn ông nào không? Sanh, già, bệnh, chết là lẽ chung của con người, phải thấy rõ như vậy. Muốn không già bệnh là tham, muốn giữ thân này là si. Thân tạm bợ mong manh mà mình muốn giữ nó có phải là si không? Si là không trí tuệ, nên mới có ý niệm muốn giữ thân cho lâu dài không bệnh. Như vậy là không đúng lẽ thật. Tu không phải luyện tập cho thân không bệnh, cứ để tự nhiên khi nào bệnh đến thì đến. Ai có thân cũng đều có già, bệnh, chết. Bệnh có giúp tụi con không?

- Dạ, có.

Nếu mạnh hoài thì tu lơ là thả trôi. Lúc bệnh, nghĩ mình sắp chết nên ráng tu, vì Diêm vương đã gởi thư cảnh giác. Như vậy bệnh là cơ hội đánh thức chúng ta. Tu thiền không sợ bệnh, chỉ tùy duyên tu, khéo ngồi thiền, khéo tập thể dục thì thân ít bệnh. Người tu Phật là mở sáng mắt trí tuệ, trí tuệ là thấy đúng lẽ thật về con người và cuộc sống, chớ không phải cố duy trì một cái không thể duy trì. Ví như chùm bọt, dù cố tình bao bọc, giữ gìn rồi cũng tan nát. Người trí biết hòn bọt sớm muộn gì cũng nát nên không cố bám víu, còn kẻ ngu si cố giữ cho đừng tan.

Như vậy cốt lõi tu Phật là càng tu trí tuệ càng sáng. Không lầm không mê là trí tuệ, là tánh giác sẵn có. Nếu si mê thì dù có giữ thân này mười, hai mươi, hay một trăm năm cuối cùng cũng chết, chết rồi lại thọ thân khác, tiếp tục trôi lăn. Tụi con nhớ như vậy, để có ai hỏi: “các cô tu thiền sao lại bệnh”, biết trả lời cho ổn.

Ã

Mấy đứa ngồi thiền có thấy gì lạ không? Nếu có, phải nói cho Thầy biết. Hồi thời Tổ Đạo Tín, vị Tổ thứ tư ở Trung Hoa, có ngài Pháp Dung ở trên núi Ngưu Đầu. Ông chuyên tu thiền định, cứ ngồi hoài, khi chư Tăng tới cũng không thèm chào, người ta mới đặt tên Lại Dung, là ông thầy lười biếng. Khi Tổ Đạo Tín nhìn thấy trên núi có vòng khí lạ, nghi là có người kỳ đặc, Tổ tìm đến thấy ngài Pháp Dung ngồi trên tảng đá. Sau một hồi thăm hỏi qua lại, ngài Pháp Dung hỏi:

- Ngài biết Thiền sư Đạo Tín chăng?

- Vì sao hỏi ông ấy?

- Nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.

- Đạo Tín là bần đạo đây.

- Vì sao Ngài quang lâm tới đây?

- Vì tìm đến thăm hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng?

Pháp Dung chỉ phía sau, thưa:

- Riêng có cái am nhỏ.

Pháp Dung liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Sư giơ hai tay lên làm thế sợ. Ngài Pháp Dung hỏi:

- Ngài còn cái đó nữa sao?

Tổ Đạo Tín hỏi:

- Cái đó là cái gì?

Pháp Dung không đáp được. Một lát, Tổ Đạo Tín tới tảng đá Pháp Dung ngồi, vẽ chữ Phật. Ngài Pháp Dung nhìn thấy giật mình.Tổ Đạo Tín hỏi:

- Ông còn cái đó nữa sao?

Pháp Dung không trả lời được, bèn đảnh lễ cầu xin Tổ chỉ dạy tâm yếu. Trước đó, ngài Pháp Dung tu, cọp đến hầu, chim tha trái cây tới cúng dường; sau gặp Tổ Đạo Tín chỉ cho Thiền tông, Ngài tu một thời gian cọp không đến, chim cũng không tha hoa trái cúng dường nữa. Vậy không biết Ngài tu lùi hay tiến?

- Dạ, tiến.

Nếu tiến tại sao hồi đó cọp hầu, chim tha hoa trái cúng dường mà sau lại không tới nữa? Như vậy là tiến vì không còn khởi tâm, dù là tâm lành.

Đến câu chuyện thứ hai, ngài Đạo Ưng ở thất riêng, nhưng mỗi ngày vào tăng đường để thọ trai. Suốt một tuần lễ Sư không vào, ngài Động Sơn thấy lạ hỏi:

- Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?

Ngài thưa:

- Bạch Hòa thượng, mỗi ngày có thiên thần cúng dường.

Được chư thiên cúng dường còn ai hơn nữa, vậy mà ngài Động Sơn quở:

- Ông còn kiến giải. Ông rảnh chiều lại.

Chiều Sư đến, ngài Động Sơn gọi:

- Ưng am chủ!

Sư ứng thanh:

- Dạ!

Ngài Động Sơn bảo:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì?

Sau đó, ngài Đạo Ưng về thất ngồi yên lặng lẽ. Thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như thế mới thôi không cúng dường nữa.

Như vậy, trọng tâm tu thiền là dừng những niệm đối đãi thiện ác, tới chỗ không còn niệm. Vì còn niệm thiện, từ bi, thiên thần thấy nên tới cúng dường; khi hết niệm không tìm được, thiên thần thôi cúng dường.

Hai câu chuyện này cho thấy người tu thiền có nhiều tướng lạ không phải là hay, trái lại nên biết đó là ảo giác, cần phải dứt sạch. Tụi con nhớ ba môn học giới, định, tuệ, từ định phát sanh tuệ chớ không có hình bóng lạ nào bên ngoài tới. Định tức là dứt niệm, trí tuệ sáng lên, đó là đúng. Còn tụi con thấy hay nghe những thứ kỳ lạ bên ngoài, rồi mắc kẹt, đó là bệnh. Có những người ngồi tu, thấy Bồ-tát tới giảng kinh nghe hay quá, ngày mai lại nghe nói về quá khứ vị lai của người này người kia... Nghe thích quá rúng động tinh thần tưởng mình đã chứng đắc, nghe riết rồi nói lảm nhảm, dẫn tới bệnh điên.

Cho nên, tu thiền không có người hướng dẫn, hoặc có người hướng dẫn mà không chịu trình chỗ thấy nghe trong khi tu, tới chừng bệnh thì đã muộn. Từ buổi đầu, vừa có hiện tượng lạ phải trình ngay cho Thầy biết, để Thầy chỉnh lại kịp thời sẽ không có bệnh. Tu thiền của đức Phật là giác ngộ chớ không phải để biết quá khứ vị lai hay để có phép mầu nhiệm. Nếu cầu có phép lạ hoặc biết quá khứ vị lai là thiền ngoại đạo, không phải thiền Phật dạy. Giả sử tụi con ngồi thiền, bất thần đoán biết ngày mai sẽ có người thân đến thăm mình, ngày mai họ tới thật, tụi con có mừng không? Đoán trúng vị lai nhưng cái đó không phải thật.

Kinh Lăng Nghiêm có dạy về Ngũ ấm ma tế nhị vô cùng. Người tu thiền phải thấy rõ tâm mình còn động hay hết động, tâm mình thanh tịnh hay tán loạn. Nếu loạn động thì buông, không cho chạy theo sáu trần, đến lúc lặng hết niệm là định, trí tuệ sáng, thấy được lẽ thật hiện tiền, chớ không mong cái gì khác. Thấy có phép lạ khác thường là không đúng, dễ bị lầm lạc. Bởi vậy tu phải cẩn thận, khi thấy có gì lạ phải trình cho Thầy biết, đừng để nặng quá sau khó sửa, thành bệnh.

Tu thiền điên là do tâm thích sự mầu nhiệm, ưa các phép lạ. Như trong nhà Phật nói: “Phật cao một thước, ma cao một trượng.” Nó ở gần mình lắm, thấy tâm mình thích cái gì, chỉ khi tâm lặng thì hết thấy. Thí như tụi con tu thích có thần thông, nó làm cho có thần thông, nếu thích biết quá khứ vị lai, nó làm cho biết quá khứ vị lai, vậy tưởng như mình đã đắc đạo, song đó là cái dẫn chúng ta lạc đường tà, rất nguy.

Bởi vậy, hướng dẫn người tu cực lắm, tụi con tu sai một chút là Thầy có trách nhiệm. Nếu đứa nào tu sai thấy cảnh lạ mà không trình, Thầy không biết để chỉ dạy, tới chừng bệnh người ta nói “tu theo Thầy nay bị bệnh”. Mà thật Thầy không dạy như vậy, đó là lỗi tại ai? Rồi Thầy bị kết tội dạy tu thiền bị điên, vậy là ưng hay oan?

- Dạ, oan.

Chỉ vì đồ đệ không biết giữ gìn. Tụi con phải hiểu cho rõ để tu. Nhiều khi tụi con không hiểu, thấy một hai cái lạ rồi thỏa mãn, như mình ngồi thiền sáng quá tưởng đâu phát hào quang, thầm nghĩ ai tu cũng không bằng mình. Tu có hào quang là bệnh, tụi con phải hiểu cho thật kỹ. Đừng tu sai tụi con mới tiến tới chỗ cứu kính rốt ráo, nếu sai chạy là lạc đường tà. Nên phải rất cẩn thận.

Ã

Có một người khách nghe quí thầy nói chuyện thấy được nhiều cái hay, nhiều đạo lý siêu thoát, nên rất quí kính. Kế đó ông khách xin góp ý. Góp ý đầu tiên là tấm bảng “Nơi tôn nghiêm cấm chụp hình”, chữ “cấm” để màu đỏ. Ông nói: “Theo ý kiến tôi, nên để là ‘Chỗ tu hành xin đừng chụp hình’, còn ở đây ghi là cấm mà còn viết chữ đỏ nữa!” Tụi con thấy tế nhị chưa? Rồi ông ra ngoài mấy đám cỏ thấy để bảng “Cấm bước vào cỏ”, cũng góp ý đổi thành “Xin đừng bước vào cỏ”.

Tụi con thấy mọi người đến đây không phải chỉ nghe mình nói thôi, mà họ nhìn từng hành động, từng cử chỉ của tụi con, của những người tu ở đây, kể cả những điều mình viết. Họ nhìn rồi có những nhận định phê phán.

Bởi vậy tụi con phải cố gắng tu cho được nội tâm an vui. Giả sử Phật tử vào đây tập tu thấy có hai cô đang cãi lộn sừng sộ với nhau chắc Phật tử xách gói đi về. Cho nên tụi con tu lúc nào mặt mày cũng nên tươi vui, chớ khách lại đây thấy mấy cô ngồi bí xị quẹt nước mắt, chắc là xách gói về sớm. Tụi con phải hiểu, không phải mình cố gắng ngoài hình tướng, mà lúc nào cũng phải giữ tâm hồn trong sáng vui tươi. Tự lòng mình an ổn vui tươi đó là thứ thật, còn cố gắng ngoài hình tướng không phải thứ thật. Nhân việc người ta phê phán, Thầy nhắc cho tụi con luôn.

Ã

- Mấy cô cư sĩ hổm rày tới tu thấy được niềm vui hay có gì phiền não không?

- Bạch Hòa thượng, chúng con tu được an ổn. Đây thật là một nơi tu hành lý tưởng!

- Tôi nay tuổi đã xế chiều, mặt trời sắp lặn, nên khi thành lập Thiền viện Trúc Lâm tôi tuyên bố: “Đây là lý tưởng tối hậu của đời tôi, Tăng Ni ở đây ráng tu cho đàng hoàng. Bây giờ tôi còn nhắc nhở được, mai kia tôi đi rồi thì quí vị có đức hạnh ra làm Phật sự , nối tiếp ngọn đèn Chánh pháp.” Quí thầy, quí cô nghĩ đến lý tưởng tối hậu đó nên ráng tu. Tuy nhiên, lâu lâu có một hai chú Ma vương chọc ghẹo nên mặt mày không được tươi lắm chớ không đến nỗi nào. Do vậy mấy cô tới đây thấy việc tu an ổn và tổ chức chu đáo. Vì là lý tưởng tối hậu của đời tôi nên Tăng Ni ở đây ráng tu, còn Phật tử khắp nơi cũng ráng ủng hộ.

Quí Thầy lo cho Tăng Ni tu để kế thừa mai kia, còn quí Phật tử chỉ là tu trong gia đình nên quí Thầy không dành riêng thời giờ nhiều. Mấy cô biết tới tập tu là tốt. Hồi xưa tôi có tuyên bố một câu: “tôi là kẻ nợ Tăng Ni, nhưng ai biết đòi tôi trả, không biết đòi thì thôi”, vì nhiều chủ nợ quá nên trả không hết. Sau này tôi nói lại: “Tôi không những là kẻ nợ Tăng Ni mà còn là kẻ nợ của chúng sanh, nếu chúng sanh nào biết đòi tôi trả, không biết đòi thì thôi, chớ tôi không biết làm sao.” Vì sức tôi có hạn, có chừng mực nên nếu quí Phật tử, cư sĩ biết đòi thì lâu lâu chạy lên, còn không biết thì thôi, tôi đi rồi đừng có buồn. Đó là tôi nói rất thành thật.

- Kính bạch Hòa thượng, tụi con đi nhiều chùa rồi nhưng mà nguyện sẽ về đây mãi mãi.

- Về đây mãi mãi đâu có được, phải nhường chỗ cho người khác nữa chứ! Thay phiên nhau tu mới được lợi ích nhiều chớ cắm sào một chỗ không được.

- Bạch Hòa thượng, con không vào tu mà con thường đến thăm các cô.

- Như vậy, tôi là người chủ trương hướng dẫn Tăng Ni tu, còn quí Phật tử là người khuyến khích hộ đạo cho Tăng Ni. Tu có Phật tử thương ủng hộ, đó là trợ lực cho tôi, tốt quá rồi!

Ã

Hôm nay trời nắng, Thầy lại thăm nói chuyện một chút. Vừa rồi, có mấy người trình độ kha khá tới đây, thấy chư Tăng Ni ngồi im lìm, họ hỏi ngồi bao lâu. Khi biết mỗi ngày ngồi sáu giờ: chiều hai, tối hai, khuya hai, họ nói với Thầy: “Lúc này thời giờ là vàng bạc, một giờ làm ra bao nhiêu tiền, quí thầy quí cô ngồi im ru như vậy có phải tiêu cực không?” Đó là một câu hỏi Thầy thấy cần phải giải thích cho tụi con hiểu, để mai kia có ai hỏi, biết mà trả lời.

Họ hỏi:

- Ngồi như vậy có tiêu cực không?

Thầy nói:

- Không.

- Tại sao không?

Thầy không trả lời ngay mà hỏi lại:

- Khoa học tìm cái này, phát minh cái kia là tích cực phải không?

- Phải.

Thầy nói:

- Ngồi im lìm như vậy không phải là tiêu cực, trái lại rất quan trọng, cần thiết để soi sáng lại mình, biết được nơi mình cái nào giả cái nào thật, nói tóm lại là tìm cho ra con người thật của chính mình, hoàn toàn biết lại mình. Đó không phải là tiêu cực.

Nói vậy người ta vẫn chưa hiểu, Thầy lấy thí dụ: Có một người khi ai đó hỏi chuyện trên trời trên mây, đông tây nam bắc gì cũng biết rành rõ, mà hỏi lại nhà còn gạo hay hết, không trả lời được, vậy người đó tiêu cực hay tích cực? Còn người biết rành rẽ trong nhà hết rồi mới ra ngoài, người đó có tiêu cực không?

Thầy giải thích: Trong nhà Phật dạy, con người trên thế gian này danh từ chuyên môn gọi là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo là quả báo chủ, còn y báo là quả báo phụ. Mình biết tất cả cái phụ mà không biết cái chánh là không hợp lý, không bằng biết cái chánh rồi mới biết cái phụ. Ngày nay khoa học chế ra những đồ tốt, máy móc đủ thứ phục vụ con người, nhưng khi hỏi con người là gì lại không biết, vậy phục vụ cho ai? Cái chủ chốt là con người, nhưng quí vị có biết con người mình là gì chưa?

Các vị đó ngẩn ngơ, Thầy nói tiếp:

- Chắc quí vị cho cái thân này là mình. Nếu thân là mình thì tủi lắm, vì thân này là máu, thịt, gân, xương, khi có bộ phận nào hư thải ra ngoài có thấy gớm không? Vậy cái mình gớm là mình sao? Rồi đến khi chết nó sình lên. Chẳng lẽ mình là cái sình thúi tanh hôi đó sao? Ai cũng biết thân này là một mớ duyên hợp đủ thứ chung lại, không có gì hẳn là mình.

Nay nói gần nhất, thân này là của mình, nhưng trong đó nó thiếu cái gì, dư cái gì quí vị biết không? Nếu nó là của mình thì mình phải biết, thí như trong nhà chúng ta ở, cái bàn cái ghế nào hư mình đều biết vì đó là nhà của mình. Còn nói thân này của mình mà vi trùng đang xâm phạm đâu đó hoặc có những bộ phận hư đều phải nhờ đến bác sĩ xét nghiệm rọi hình mới biết. Như vậy nói của mình mà không biết gì về mình là không đúng lẽ thật.

Thầy nói vậy, họ nghe có vẻ hiểu.

Thầy lại hỏi tiếp:

- Kế đó quí vị nghĩ cái suy nghĩ là tâm, là thật mình phải không?

Họ gật đầu. Thầy nói:

- Cũng sai luôn! Tại sao cái suy nghĩ, hiểu biết làm được tất cả chuyện không phải là mình? Trước hết, quí vị xét thấy cái suy nghĩ đó là một hay là nhiều? Mình thì chỉ một, mà cái suy nghĩ lúc nghĩ tốt, lúc nghĩ xấu, phải quấy thương ghét đủ thứ. Vậy không lẽ mình là cả trăm thứ tạp nhạp đó? Thứ hai là khi ngồi chơi dưới gốc cây vài phút, ngó mây nhìn trời, không nghĩ suy gì hết, lúc đó vẫn có mình. Nếu nói suy nghĩ là mình thì lúc không suy nghĩ là không có mình, nhưng thực tế mình vẫn ngồi đó. Vậy thì cái nghĩ đâu phải là mình. Thứ ba là nếu nói suy nghĩ là mình, lúc đang nghĩ thử tìm coi nó ở đâu ra. Tìm lại nó mất tiêu, không thấy, như vậy nó chỉ là cái bóng. Lấy bóng làm mình là sai.

Như vậy cái suy nghĩ không phải là mình. Vậy cái gì là mình? Mới thấy thế gian sống trong mê lầm, cái không phải mình chấp cho là thật mình, rồi tìm đủ cách để bảo vệ, còn cái thật lại bỏ quên.

Khách nghe Thầy giải thích hiểu rồi không thắc mắc nữa, chào ra về.

Khi tụi con biết thân và cái suy nghĩ không phải thật mình là tụi con tỉnh rồi, phải không? Cái không phải mà tưởng là mình, đó là mê. Cái không phải mình, biết rõ là không phải và không chấp, đó là tỉnh. Nhưng mới tỉnh có phân nửa, tỉnh biết cái giả, nhưng chưa thấy cái thật. Cho nên ngồi thiền là soi sáng lại mình, biết rõ thân này là duyên hợp không thật, cái tâm lăng xăng cũng hư giả. Thấy rõ như vậy nên niệm dấy lên liền buông không theo, đến lúc rỗng lặng thì cái chân thật hiện tiền.

Hôm trước Thầy có thí dụ, khi gương có bóng, nhìn vô có nhớ gương không? Gương vẫn hiện tiền, nếu không có gương làm sao thấy bóng? Bóng từ gương mà có, nhưng chúng ta thấy bóng rồi lại quên gương. Chỉ nhớ gương khi nào không có bóng. Cũng như vậy tâm chúng ta trong sáng, biết rõ ràng, không dấy động, không sanh diệt, bao trùm hết, nhưng vì chúng ta chạy theo cái bóng sanh diệt nên quên mất chân tâm. Nay phải ngồi thiền, dừng hết vọng niệm lăng xăng, gọi là định, tâm lặng hết thì cái chân thật hiện tiền. Đó là tìm cái chân thật ngay nơi con người mình, gọi là giác ngộ.

Giác ngộ là quay lại tìm cho ra con người chân thật của chính mình, danh từ chuyên môn gọi đó là bản lai vô nhất vật. Như vậy mới có ý nghĩa. Ngày xưa, đức Phật nhận ra được cái đó nên giác ngộ. Cái đó không động, còn nghĩ suy là bóng sanh diệt chợt có chợt không mà lại có tác dụng, vừa dấy nghĩ là bắt miệng nói, thân làm, tạo nghiệp sanh tử. Cái bóng sanh diệt, tạo nghiệp sanh diệt nên có sanh tử. Nay tu là trở về cái hằng giác, hằng sáng không động như mặt gương. Không động thì không tạo nghiệp, không luân hồi sanh tử.

Ã

Người biết tu rồi luôn luôn phải thắng vọng tưởng. Vọng tưởng là thứ không đáng sợ. Đừng lo sao nhiều vọng tưởng quá, chỉ lo mình không sáng suốt để thấy nó. Biết vọng không theo, mỗi ngày vọng tưởng sẽ giảm dần. Vọng tưởng giảm tự nhiên tu tiến, nếu vọng tưởng không giảm sự tu không thể nào tiến bộ.

Vọng tưởng có hai loại: vọng tưởng lành và vọng tưởng dữ. Nếu nhớ những chuyện hơn thua phải quấy rồi buồn giận là loại vọng tưởng dữ. Khi suy nghĩ muốn làm việc từ thiện hay làm công quả chùa... là vọng tưởng hiền lành. Nhưng cả hai đều là nhân luân hồi sanh tử. Còn vọng tưởng là còn luân hồi, vọng tưởng lành thì đi đường lành là người, trời, a-tu-la. Vọng tưởng dữ liền đi đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Như vậy cái nào cũng dẫn chúng ta đi trong luân hồi.

Muốn không còn luân hồi trong lục đạo phải hết vọng tưởng. Ở đây có người nào muốn đi trong lục đạo luân hồi không? Nếu muốn tha hồ đi, còn ai không muốn luân hồi phải thắng vọng tưởng, tu cho lặng hết, tức là giải thoát sanh tử. Đơn giản dễ dàng quá, phải không? Không có gì khó hết mà làm hoài không được. Nó hết sức dễ mà làm không được thành khó.

Bởi vậy, tu hết ngày này qua tháng kia, ráng ngồi hai ba tiếng đồng hồ để tập làm chủ. Vì ở ngoài, nhiều khi chúng ta suy nghĩ, muốn dừng không được; khi ngồi thiền sáng suốt, vừa dấy nghĩ, biết liền bỏ. Cho nên người mới tu hay người tu bậc trung, kể cả bậc thượng đều nên ngồi thiền.

 

MỤC LỤC

00 Trang bìa

01 Lời đầu

02 Thỉnh nguyện Tăng

03 Thỉnh nguyện Ni

04 Mục lục

PHỤNG HOÀNG CẢNH SÁCH

 

THÍCH THANH TỪ

PHỤNG HOÀNG

CẢNH SÁCH

Tập 4

DL 2004 - PL 2548

 

Lời đầu

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết. Như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hoà thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hoà thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi.

Cuối Đông Nhâm Ngọ - 2002.

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 28-10 Ất Hợi (19-12-1995)

Kỳ thỉnh nguyện này, trong chúng ai có lỗi đều nhận thức rõ ràng ra sám hối, những người có lỗi mà không biết cũng đã được huynh đệ chỉ cho để chừa sửa, cố gắng tiến tu. Đó là điều rất tốt. Sau đây tôi có ít lời nhắc nhở chúng.

Vừa rồi quí vị có coi lại phim khánh thành Phật Quang chưa? Trong đó có bài ca vọng cổ nói về Thiền viện Trúc Lâm làm tôi thêm lo. Theo tinh thần bài ca đó, Phật tử tán thán Thiền viện Trúc Lâm, tán thán sự tu hành thanh tịnh của chư Tăng Ni. Ngày trước chúng ta lên đây tu, mọi người đều đinh ninh rằng mình chỉ lo cố gắng tu, không cần ai biết đến, cũng không cần ai khen ngợi. Như vậy việc tu của mình rất thầm lặng, yên ổn. Nhưng ngày nay, chúng ta tu chưa tiến được bao nhiêu mà Phật tử có những bài hát tán thán mình giữa quần chúng đông đảo, tự nhiên tôi thấy lo. Nếu lời tán thán đó không đúng sự thật thì vô tình người ta tưởng mình mướn, hay mượn Phật tử quảng cáo mình. Vì vậy khi nghe họ hát, tôi càng lo, chớ không mừng.

Thật ra, người Phật tử lúc nào cũng chân thành quí kính chư Tăng Ni. Nghe ở đâu tu hành đàng hoàng chân chánh, họ rất mừng, hoan hỉ tán thán. Những lời đó, người ta đặt ra để ca chơi thôi, không ngờ bây giờ một số Phật tử đem ra ca giữa quần chúng. Nên tôi thấy, nếu Tăng Ni ở đây tu hành không ra gì thì thật là một sự quảng cáo rỗng.

Bởi vậy, tôi mong tất cả chư Tăng ở đây, quí vị nên tự kiểm lại mình, nếu tu hành có chỗ nào yếu, chỗ nào lơ là, phải ráng làm sao phấn phát lên, đừng để chìm lặng. Vị nào còn có những hành động, tư cách thô tháo thì phải chỉnh sửa lại cho được tốt đẹp. Làm sao để những lời Phật tử tán thán chúng ta là một lẽ thật, không phải lời quảng cáo suông. Được vậy thì rất tốt, chúng ta không hổ thẹn khi được người khác tán thán. Tôi lo vì không biết Tăng Ni ở đây có xứng đáng với những lời khen đó hay không?

Hôm nay có toàn thể đại chúng ở đây, tôi nhắc cho quí vị tinh tấn tu hành, kiểm điểm lại mình, đừng để thiếu sót, đừng để bệnh giải đãi lấn át làm cho sự tu không tiến. Đó là điều tôi nhắc nhở tất cả. Ở đây sắp được ba năm rồi, khi nào tôi rảnh việc, bên Tăng cũng như bên Ni, mỗi tháng cho ba hoặc bốn người lên trình sự tu hành trong thời gian qua, để tôi kiểm lại coi quí vị tiến bộ thế nào. Vậy tôi mới yên lòng, chớ nghe người ta tán thán quá tôi rất ngại. Quí vị nhìn trong phim, khi họ ca bài Trúc Lâm thấy mặt tôi có hớn hở hay không? Tôi hơi méo méo một bên!

Kế đây, tôi nhắc lại một câu hỏi Phật pháp cho tất cả nghe. Hồi sáng tôi có tiếp một Phật tử ở Virginia, là huynh trưởng Gia đình Phật tử chùa Hoa Nghiêm. Trong khóa học huynh trưởng, huynh đệ trong đoàn có một hai điều vướng mắc.

Kỳ này về, y đem máy đến nhờ tôi giải thích giùm, thâu lại để đem về bên đó phổ biến cho anh em cùng nghe.

Y trình bày vấn đề:

- Học kinh Bát-nhã, được nhiều thầy chỉ dạy các pháp là không, không có thật. Bởi thấy các pháp không, không thật nên Bồ-tát mới qua hết khổ nạn. Mình tu nếu thấy được các pháp không thật thì sẽ dứt sạch phiền não...

Y đặt lại nghi vấn: Nếu các pháp không, không có thật thì trong đời này có cái gì quan trọng mà phải thành lập Gia đình Phật tử, phải xây dựng cho con em mình hay, tốt? Vì những lợi ích này có thật đâu! Rồi bỗng dưng y thấy học kinh mà dùng không được.

Tôi giải thích cho y nghe hai phần. Trước hết tôi định nghĩa rõ chữ không trong kinh Bát-nhã. Chúng ta đừng hiểu lầm không là không có gì hết hoặc không là đối với có. Không này là không có thực thể, không có tự tánh. Tại sao Phật nói các pháp không có thực thể? Vì căn cứ trên lý nhân duyên thì các pháp do nhân duyên sanh. Với trí tuệ, Phật thấy rõ như vậy.

Không có một sự vật nào tự hình thành, tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà có. Nhân duyên hoà hợp thì không có thực thể, không có chủ thể; nếu có chủ thể thì không có hoà hợp. Vì vậy, chữ không ở đây là ngay trong tướng hoà hợp biết nó không có chủ thể. Thí dụ như cái nhà này, mình đang ở trong nhà, nhưng biết cái nhà chẳng qua là do tất cả những thứ vật liệu đất, cát, gạch, ngói, gỗ, xi măng... ráp lại mà thành, chớ không có chủ thể cái nhà. Cho nên nói “sắc tức là không”. Không đó không phải là không ngơ.

Từ đó chúng ta hiểu được tất cả mọi hình sắc, sự vật đều không có chủ thể. Như thân mình, Phật nói là không. Không tức là không có chủ thể, chỉ do năm uẩn kết hợp mà thành. Nếu nó có chủ thể thì không đợi năm uẩn kết hợp. Như vậy thân người do năm uẩn hay tứ đại hợp, không có chủ thể, nên nó không thật. Muôn sự muôn vật trên thế gian này cũng vậy, cái gì có hình tướng đều do duyên hợp mà thành, duyên tan thì hoại, nên nói “sắc tức là không”.

Như vậy, không đó là không có chủ thể chớ đừng nói không ngơ. Ví dụ như vật này rõ ràng trước mắt, thấy được rờ được, làm sao nói là không. Cho nên phải hiểu chữ không đó là không có chủ thể. Tất cả sự thành, hoại, từ con người đến muôn vật đều theo duyên, mà đã theo duyên thì không phải chân thật. Nên nói các pháp như huyễn như hóa, không thật. Huyễn hóa nghĩa là tạm bợ chớ không phải là không ngơ, không có gì hết.

Tôi giải thích cho chú ấy hiểu nghĩa không trong Bát-nhã. Y nói rằng: “Muốn xây dựng một xã hội tốt, mà bây giờ mình biết các pháp duyên hợp không có thực thể, là hư dối, thì xây dựng cũng vô ích.”

Tôi bèn nói tiếp: Tuy mình đang sống với thân hư dối, cảnh hư dối, nhưng nếu muốn cho cuộc sống được an lạc, bình yên mình phải tạo những duyên tốt để đi tới an lạc bình yên. Còn nếu tạo duyên xấu sẽ đi tới chỗ khổ đau, khó chịu, bực bội. Dù cho những người đang có mặt ở đây biết rằng thân mình sẽ hoại, nhưng trong lúc còn sống ai cũng muốn được an lạc, bình yên. Muốn vậy phải tạo duyên tốt, đừng tạo duyên xấu.

Tôi thí dụ như mình muốn đóng cái ghế phải có gỗ, đinh, bào, đục... và người thợ mộc. Giả sử mọi vật liệu đều tốt mà ông thợ mộc vụng thì cái ghế đóng có tốt được không? Nếu thiếu một duyên thì kết quả không tốt. Bởi vậy phải tạo những duyên tốt. Muốn cho cái ghế hoàn bị tốt đẹp phải đủ các yếu tố: gỗ tốt, bào đục tốt và ông thợ mộc giỏi đóng cái ghế mới hoàn hảo.

Nói vậy để thấy rõ muốn cho xã hội tốt đẹp, chúng ta phải tạo nhân tốt. Nhân tốt đó là xây dựng con người tốt. Nếu nhân tốt không có thì kết quả xã hội sẽ không đẹp. Vì vậy, biết cuộc đời là tạm bợ mà đức Phật luôn luôn dạy chúng ta phải hướng dẫn, chỉ dạy cho những người chung quanh biết điều hay lẽ phải để thực hành, chừa bỏ điều xấu dở để thành những con người xây dựng xã hội tốt.

Tôi giải thích như vậy, nhưng y còn thắc mắc:

- Thưa Thầy, nếu cứ nhớ trong đầu mình cái gì cũng giả dối, như huyễn như hóa thì làm sao can đảm làm cái việc giúp đỡ người ta lâu dài?

Tôi trả lời: Đạo Phật dạy người tu phải đủ hai mặt trí tuệ và từ bi. Nếu chỉ có trí tuệ sẽ trở thành khô cằn, vô dụng, còn chỉ có từ bi sẽ trở nên mù tối. Cho nên trí tuệ ví như đôi mắt, còn từ bi như hai chân. Thân này muốn đi tới được nơi này nơi kia đúng mục tiêu mình nhắm thì hai cái đó không thể thiếu được. Nếu không có mắt, dù chân mạnh bao nhiêu đi một hồi không lọt hầm cũng rớt hố. Còn có con mắt sáng mà chân yếu cũng không đi đâu được.

Như vậy hai cái hỗ tương, thiếu một thì không thể thực hiện được đầy đủ công đức của người tu. Nếu chúng ta dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu sẽ thấy các pháp như huyễn như hóa, như mộng... Tuy nhiên, cái không thật đó không phải là không ngơ, vì tạm thời nó vẫn có.

Thí dụ, trong lúc mình ngồi chơi, có người bên cạnh đang ngủ nằm mộng, người ấy thấy mộng dữ nên vừa khóc vừa la. Biết họ đang nằm mộng rồi chúng ta mặc kệ họ khóc la khổ sở như vậy sao? À, phải lại gần kêu, đánh thức họ tỉnh dậy. Khi người ấy tỉnh thì những cái khổ trong mộng chấm dứt. Như vậy người có lòng từ bi, dù biết đó là mộng, nhưng thấy người ta khổ cũng không nỡ bỏ. Nếu mình cứ theo lý trí: “ôi, mộng mà! kệ nó, làm gì thì làm”, như vậy là thiếu lòng từ bi.

Cho nên với con mắt trí tuệ Bát-nhã, nhìn thấy các pháp duyên hợp, tạm bợ, không có thực thể, thân mình cũng như thân người đều tạm bợ; nhưng đối với người mê, thấy thân của họ thật, thấy cảnh thật, nên chuyện được mất trong đời làm họ đau khổ, chịu không nổi. Vì vậy mình phải cố gắng giải thích, hướng dẫn, tạo cái duyên cho họ bớt khổ. Khi bớt khổ rồi phải dạy cho họ thức tỉnh, biết cuộc đời là không thật. Đó là cứu họ trọn vẹn.

Nếu chúng ta chỉ an ủi người trong khi khổ mà không chỉ cho họ thức tỉnh thì cái khổ cũng không hết. Ví như thấy có người đang khóc la trong mộng, mình đứng gần đó nói: “cô đừng có sợ”, nói vậy người đó hết khổ chưa? Chỉ khi nào đánh thức họ dậy thì mới hết khổ. Như vậy, từ bi của đạo Phật là phải làm sao cho người ta tỉnh giác, thì mọi khổ đau theo đó mới chấm dứt; nếu chưa tỉnh giác, dù mình giúp thứ gì người ta cũng không bao giờ hết khổ đau. Đó là trọng tâm của đạo Phật.

Tôi giải thích tới đó y nghe mừng lắm, hiểu được ý nghĩa Bát-nhã, không phải thấy các pháp như huyễn rồi tha hồ muốn làm gì thì làm, ai khổ sao mặc họ. Trái lại, chúng ta vẫn lao mình vào cảnh khổ để giúp đỡ người. Đó mới đúng tinh thần đạo Phật.

Hôm nay sẵn dịp tôi kể lại cho chư Tăng nghe, những điều này rất thiết yếu trong sự tu. Nếu mình nhìn mọi sự thấy là thật, thân thật, cảnh thật, muôn vật thật thì không làm sao hết đau khổ được. Chắc chắn một trăm phần trăm! Phải thấy tất cả pháp không có thực thể, chỉ là duyên hợp tạm có. Không có gì duyên hợp mà bền lâu. Thân này tạm bợ còn mất tùy duyên. Một khi duyên nghịch hay duyên thiếu thì nó tự hoại, không thể giữ được.

Thấy và hiểu như vậy, tất cả chúng ta đối với người, mới có thể bỏ qua những điều trái ý, và đối với mình, bỏ qua những điều mình cho là thiệt thòi mất mát. Bằng không, cứ nhìn thấy huynh kia sao được ưu, mình không được ưu, hay người kia được khen còn mình bị chê hoài, đừng nghĩ như vậy mà buồn vô ích. Nên thấy các pháp không thật rồi tùy duyên xử sự, đừng để mắc kẹt.

Cho nên nói Bát-nhã là phá chấp, phá chấp tức hết khổ, đương nhiên như vậy. Đó là cái gốc tu hành rất cần thiết đối với người xuất gia. Quí vị thấy trong kinh Pháp Bảo Đàn, phần đầu Lục Tổ giảng là Bát-nhã, mới thấy Bát-nhã rất hệ trọng. Chính Thiền tông cũng gọi cửa Thiền là cửa Không. Chúng ta phải hiểu rõ tinh thần Bát-nhã để ứng dụng tu mới không bị trì trệ. Nếu bị mắc kẹt trong ngã và ngã sở, chỉ khiến sự tu tăng thêm phiền não chớ không hết khổ. Đó là tôi nhắc nhở cho tất cả nhớ.

Ngày 15-11 Ất Hợi (5-1-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, giờ đây tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Tôi thấy tất cả Tăng chúng ở đây, khi đã quyết tâm xuất gia, dù lớn hay nhỏ đều có chí nguyện tu để được giác ngộ, giải thoát sanh tử. Đó là một lý tưởng cao siêu, một con đường vượt trên thế gian. Đã quyết tâm đi con đường rộng lớn và có một lý tưởng cao cả vượt bậc, như vậy thì phải nhớ dè dặt. Tất cả những chuyện nhỏ bé, tầm thường đừng nên bận bịu.

Chúng ta tu, nhiều khi không trở ngại ở việc lớn mà lại vướng mắc việc nhỏ. Việc nhỏ là sống trong chúng có những điều không được như ý, hoặc kẻ này phê bình, kẻ kia chỉ trích gì đó, mình không làm chủ được rồi sanh bực bội, đi đến thối tâm. Chúng ta đi tu, mục tiêu cao cả là giác ngộ giải thoát, lại để những chuyện nhỏ, có thể nói là chuyện trẻ con làm cho mình bị thối chuyển trên con đường rộng lớn, cao cả thì thật vô lý. Vì vậy người nào để chuyện nhỏ làm trở ngại việc lớn là không được thông minh, sáng suốt. Người nào biết vì việc lớn bỏ qua những điều nhỏ mới gọi là người nhìn xa thấy rộng, biết nhắm thẳng mục đích mà tiến tới.

Trên đường tu, tất cả cái chướng nhỏ đều không đáng kể. Sự thật, lâu nay tôi đã từng nói với toàn chúng, mình tu không có gì gọi là chướng hết. Bởi vì trở ngại là những thử thách coi ý chí, đạo lực của mình mạnh hay yếu. Như vậy, chính nó là cơ hội để mình vươn lên, không phải là chướng. Nếu gặp trở ngại mình lùi bước mới thật là chướng.

Đối với người quyết tu thì không có gì là trở ngại, là chướng hết. Nhờ có thử thách, chúng ta vươn lên, đạt được mục đích tối thượng của mình. Như vậy mỗi người tự nhớ, tự xét, đừng vì những chuyện nhỏ mà làm hư việc lớn của mình, điều đó không hay. Nhất là trong chư Tăng, tôi thấy tuy tu nhưng sự nóng nảy hình như còn nhiều lắm.

Hôm qua, trong bài giảng “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của ngài Trần Nhân Tông lúc còn làm Thái thượng hoàng, có đoạn Ngài nói về tam đồ khổ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là từ tham, sân, si. Tôi cũng đã vạch ra cho mọi người thấy tham sân si là cái gốc làm chướng trên đường giác ngộ của mình. Không phải kẻ này hay người kia làm chướng, mà chính tham, sân, si mới là chướng.

Quí vị nhớ, sân là một điều không có giá trị gì. Thí dụ như có người nói mình là chó, là trâu, bò, nếu nghe câu nói đó mình vẫn mỉm cười bỏ qua, thì câu đó trở thành vô nghĩa. Còn nếu người ta nói mình là chó, là trâu bò, mình nổi sân lên thì câu đó trở thành có nghĩa. Tại sao có nghĩa? Bởi vì cái nhân của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là tham, sân, si. Nhất là sân, dễ tạo nghiệp ác, nổi sân là cái nhân để rơi ba đường ác. Nhẹ nhất là súc sanh.

Nếu người ta nói một tiếng chó mà mình nổi sân lên, tức là chấp nhận đi trên con đường súc sanh. Còn khi nghe người ta nói vậy chỉ cười thôi, thì lời nói đó như gió thổi qua rồi mất, không có giá trị thật. Như vậy chúng ta tu là cốt làm sao nghe những lời nói hư giả đó mình đừng bị dính kẹt thì sự tu mới tới chỗ an vui giải thoát được.

Ngày xưa, các vị Tổ, các vị Bồ-tát tu hành trải qua biết bao thử thách, có người xin cả thân thể, tay chân, đầu mắt mà các ngài còn sẵn sàng cho; nay chúng ta chỉ nghe một lời nói trái tai mà chịu không nổi, đó là dính mắc quá sâu quá đậm, tâm sân hận còn nhiều. Cho nên phải tự chinh phục mình, dẹp bỏ tham sân si, đó là cái gốc. Còn lời người ta nói, dù thô nặng mình vẫn coi thường, chỉ là tiếng nói qua tai rồi mất chớ không thật, không lâu bền. Do mình cố chấp nên tạo thành nghiệp, sanh trong đường xấu, đó là điều dại khờ trên đường tu.

Mong tất cả đại chúng ý thức được sự tu hành. Những điều thiên hạ cho là chướng, là nhục nhã, đối với mình chỉ là một trò chơi, một trận cười thôi, không có gì đáng để sợ. Được vậy, chúng ta mới đạt đến kết quả như chí nguyện của mình. Đó là lời nhắc nhở của tôi.

Ngày 28-11 Ất Hợi (18-1-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay những vị có lỗi rất nhỏ cũng biết thành tâm sám hối, đó là điều rất đáng quí. Đồng thời những người có lỗi mà không tự biết cũng được huynh đệ nhắc cho. Như vậy phần tự giác, giác tha được đầy đủ trong buổi thỉnh nguyện. Tôi mong tất cả chúng mỗi ngày trên đường tu mỗi tăng tiến hơn, tránh được những lỗi lầm, để bản thân mình càng đầy đủ đức hạnh và làm cho mọi người chung quanh thấy được tư cách đạo đức, nề nếp tốt mà phát tâm hướng đến Phật pháp.

Kế đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Qua lời Thông Giác trình hồi nãy, thấy rằng khi lãnh một trách nhiệm hay lo lắng Phật sự gì, nếu gặp những trở ngại, khó khăn nhiều lúc cũng dễ thối tâm. Đây là điều tôi muốn nhắc nhở chung cho quí vị hiểu.

Hồi xưa lúc còn là Học tăng, tôi cứ thắc mắc một điều. Khi Đức Phật đi tu, Ngài nguyện thành đạo để độ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi, đủ tất cả những loài thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, noãn sanh. Nhưng không biết tại sao khi Ngài tu gần thành Phật thì ma quỉ tới phá? Sao không để Ngài thành Phật độ cho thoát khổ mà lại phá Ngài? Người quyết tâm cứu mình mà mình lại phá thì thật là khó hiểu.

Sau này tôi đọc kỹ lại trong các kinh A-hàm, thấy có một bài kinh kể rằng, khi Đức Phật tu sắp thành đạo thì tất cả cung điện Ma vương rung động như sắp sụp đổ. Nó hoảng hốt tìm xét lý do thì biết vì Phật tu sắp thành đạo. Ma vương lo sợ, nếu Phật thành đạo rồi Ngài giáo hóa chúng sanh, người ta tu sẽ qua khỏi sanh tử thì không còn ai cho nó sai sử nữa. Do đó, Ma vương hoảng sợ tìm mọi cách phá Phật.

Qua câu chuyện đó tôi mới thấy rằng chúng ta ngày nay làm Phật sự cũng vậy. Khi nào có tà và có chánh, thì hai cái không dung hoà với nhau được, vì tà không chấp nhận chánh, chánh cũng không dung được tà. Khi người ta làm một việc sai, lại bảo mình phải hoà với điều sai đó tất không thể nào chấp nhận được, như vậy tự nhiên có sự hiềm khích, chống chọi nhau, không thể tránh khỏi.

Cho nên chúng ta đừng nghĩ chủ quan rằng mình làm việc tốt mọi người đều khen và kính mến. Chúng ta làm được việc tốt thì người tốt sẽ khen, họ mừng vui và giúp đỡ chúng ta. Ngược lại, người không tốt sẽ chống chọi, phá vỡ cái tốt của mình. Thí dụ như ở nhà quê, trẻ con xuống sông tắm, vừa tắm vừa vọc sình chơi. Có một nhóm lên trước mặc đồ sạch vô, thì nhóm trẻ còn dơ ở dưới nước móc bùn vẩy lên mấy người ở trên cho họ bị dính bùn dơ lại như mình. Đó là thái độ của con nít, nó không muốn ai sạch hơn mình.

Trong cuộc sống cũng vậy, chúng ta càng cố gắng trong sạch chừng nào thì những người không trong sạch sẽ chống đối mình, tìm cách làm cho mình dơ như họ. Nếu không được thì họ tìm cách chọc phá mình. Cho nên trên con đường hành đạo, chúng ta đừng tưởng mọi việc đều sẽ như ý, đừng nghĩ mình làm Phật sự tốt thì ai cũng chấp nhận và ủng hộ. Nghĩ như vậy là lầm!

Chúng ta phải chuẩn bị trước rằng, khi quyết tâm làm Phật sự, chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn và những điều bất như ý. Chúng ta phải chấp nhận, dầu khó khăn gian khổ mấy vẫn phải vượt qua, cương quyết đem thân này phụng thờ chánh pháp. Bởi vì chúng ta khơi sáng ngọn đèn chánh pháp thì tất cả điều tà sẽ chống lại, điều đó không nghi. Chuẩn bị tinh thần trước khi làm Phật sự và sẵn sàng chấp nhận hết những khó khăn, chúng ta mới yên lòng vượt qua được, bằng không mình dễ thối chí. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai là cần phải biết rõ, điều mình làm thuận với người này sẽ nghịch với người kia. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Từ xưa đến nay và trong tương lai, không bao giờ có một ai hoàn toàn bị chê, cũng không có một ai trọn vẹn được khen. Thí dụ như đối với mấy chú ăn trộm, ăn cướp, mình cứ nghĩ thiên hạ ai cũng chê ghét, nhưng khi nó đem tiền về thì vợ con thương và khen nó phải không? Nhờ nó trộm cướp mà cả nhà có tiền xài. Ngoài ra, kẻ trộm cướp cũng có đồng bọn trộm cướp ưa thích, khen ngợi. Như vậy kẻ xấu ác cũng có người thương, người hiền lành cũng có kẻ ghét.

Những việc mình chủ trương, được một số này hưởng ứng sẽ có một số khác phản đối, không bao giờ tất cả đều bằng lòng. Hiểu như thế khi bị phản đối mình chỉ cười thôi. À, đó là chuyện đương nhiên không sao tránh khỏi, sẵn sàng chấp nhận. Được vậy Phật sự của mình sẽ không thối chuyển. Nếu cứ ngỡ việc mình chủ trương là hay tốt, ai cũng phải hưởng ứng theo, đến lúc bị phản đối, đâm ra nản lòng thì Phật sự mình làm không được vuông tròn.

Trên đường tu tất cả chúng Tăng cũng vậy, chúng ta biết việc tu của mình là việc rất tốt, rất đáng khen, nhưng chỉ tốt với người ham tu thôi, còn những người không ham tu sẽ thấy chướng mắt trái ý nên chống đối, điều đó không nghi. Vì vậy, chúng ta sẵn sàng nghe chê, nghe chửi vẫn không nản lòng, xem đó là những thử thách, giúp chúng ta lập chí vững hơn chớ không phải là trở ngại cho mình.

Đó là tôi nhắc nhở riêng Thông Giác, cũng nhắc nhở cho toàn chúng biết để mai kia làm Phật sự không bị thối chuyển.

Ngày 28-12 Ất Hợi (16-2-1996)

Hôm nay là ngày thỉnh nguyện cuối năm, toàn chúng đã có những bước tiến đáng mừng và đa số đều không lỗi lầm. Một ít vị có lỗi cũng không phải hoàn toàn cố ý. Đồng thời những người sai sót đều được nhắc giữa chúng để biết mà sửa. Đó là có tinh thần tự giác để cùng tu với nhau.

Bây giờ tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng.

Tất cả chúng ta có duyên lành nên mới tụ hội một nơi để cùng tu, cùng học với nhau, đó là nhân duyên sâu dày mới được như vậy. Nhưng tất cả đều là những người đang tu nên vẫn còn có các điều xấu dở. Vì vậy Phật mới dạy chúng ta trong nửa tháng có buổi Bố-tát, đọc tụng lại giới luật của Phật để nhớ việc sai lầm của mình mà sửa. Ở đây thay vì Bố-tát, tụng giới, thì mỗi nửa tháng có buổi thỉnh nguyện. Trong buổi thỉnh nguyện có tụng đọc mười giới của Sa-di làm căn bản. Đồng thời chúng ta ứng dụng theo nội qui là nếp sống thích hợp với Thiền viện để mọi người trong chúng đều được đầy đủ đức hạnh.

Ngày nay là cuối năm, mọi cái dở năm rồi quí vị nhớ quyết tâm đừng tái phạm trong năm tới. Đừng nghĩ rằng năm nay sám hối vậy là xong, năm tới có lỡ xảy ra cũng được. Không phải vậy! Những cái dở của năm cũ tuy đã sám hối, nhưng tập khí đó vẫn còn ẩn náu ở trong, bây giờ chuẩn bị sang năm mới phải bỏ hết, xả hết, đừng nuôi dưỡng, chất chứa nữa.

Kế đó chúng ta chuẩn bị sang năm mới phải tu hành tinh tấn hơn, phải bước đi dõng mãnh, sáng suốt hơn. Mỗi năm qua, nếu chúng ta cứ đứng yên một chỗ hay giậm chân tại chỗ là không hay. Chúng ta phải tiến, tiến mãi. Bởi vì tuổi thọ của mình mỗi năm mỗi giảm, mất một tuổi là mất một phần sống, chúng ta không thể nào đứng y chỗ cũ. Nếu đứng y chỗ cũ thì đến ngày lìa đời, mình sẽ không tiến được bao nhiêu. Cho nên mỗi năm phải mỗi tiến, vậy mới kịp với thời gian, để khi sắp mãn cuộc đời này, những gì mình muốn làm đều đã làm được. Nếu tu chỉ để mà tu, không tiến chút nào thì uổng đi một đời.

Vậy tôi mong tất cả chư Tăng chuẩn bị qua năm mới, những cái xấu dở cũ đều phải bỏ hết. Mình biết nó là dở rồi thì phải bỏ, đừng nuôi dưỡng, đừng tiếp tục. Đồng thời chuẩn bị cho năm tới, những gì mình chưa đạt đến, chưa thấu suốt thì phải thấu suốt, phải đạt đến. Như vậy sự tu của chúng ta mới không uổng phí. Mong tất cả cố gắng.

Ngày 13-1 Bính Tý (2-3-1996)

Hôm nay tôi có vài vấn đề nhắc nhở trong toàn chúng. Trước hết tôi nhắc cho quí vị thấy tất cả chúng ta họp nhau một nơi để chung lo tu hành, đó là điều rất tốt. Họp nhau ở chung chúng ta cần phải hoà, vì lục hoà là then chốt mở cửa giải thoát.

Tôi đặt nặng lục hoà làm chủ yếu vì ở trong chúng năm mươi, bảy mươi người, nếu điều hoà được “như nước với sữa” theo lời Phật dạy thì không có vấn đề gì phải phiền não, nên sự tu hành tinh tấn. Nếu trong chúng thiếu hoà thì có phiền não, sự tu bị thối chuyển. Do vậy, lục hoà là bước đầu để chúng ta tiến đến an lành thanh tịnh nội tâm, từ đó mới đi tới trí tuệ sáng suốt giác ngộ. Khi chúng ta buồn giận, tâm trí sẽ mờ tối, không thể sáng được, bởi vậy hoà là thiết yếu.

Ở trong quí vị, mấy người nhỏ có thể đi tu vì một hoàn cảnh hoặc một trường hợp đặc biệt nào đó, còn quí vị lớn ai cũng ý thức trên đường tu của mình phải đi tới nơi tới chốn, do đã nhận định kỹ càng rồi mới phát tâm xuất gia. Quí vị đã chung họp lại đây và được tôi phân công mỗi người mỗi trách nhiệm, nếu mỗi người ở vị trí của mình đều làm tròn thì sanh hoạt chung của Thiền viện tốt đẹp vô cùng. Còn nếu chỗ này làm tròn mà chỗ kia tắc trách thì cũng đáng buồn, đáng lo.

Vì vậy chúng ta phải chung lo xây dựng cho mình và huynh đệ, mỗi người đều cố gắng làm tròn bổn phận của mình, tất nhiên tập thể cũng được tốt trọn vẹn. Chỉ cần một bộ phận nào đó không vuông tròn thì sẽ có những hư hao, tai hại chung. Cho nên ở trong chúng khi thấy huynh đệ nào làm tròn bổn phận của họ tốt đẹp phải nên quí kính và mang ơn người đó đã đóng góp lớn cho tập thể và đã gánh vác một trách nhiệm cho Thiền viện. Người có tinh thần biết chung lo thì chỉ mang ơn chớ không bao giờ khởi niệm đố kỵ. Nếu thấy ai làm được việc, mình buồn là trái đạo lý.

Ở trong đây, những phần trách nhiệm tôi giao, người nào cũng nhiệt tình làm tròn, có khi làm hơn nữa, tôi thấy đáng tán thán. Nhưng trong sự nhiệt tình đó thỉnh thoảng thấy bên này va chạm bên kia, vậy là không tốt. Vì thế, tôi mong rằng tất cả quí vị kể từ đây về sau, khi thấy người làm được việc cho Thiền viện phải coi đó là một sự hi sinh, là một cái ơn giúp cho chúng yên tu. Người đó vì công việc phải chịu thiệt thòi trong sự tu tập.

Thí dụ như Hương đăng, Tri khách, mỗi ngày phải tiếp khách liên miên, tự nhiên tâm cũng khó yên, khó định tĩnh. Như vậy là quí vị đã hi sinh lớn rồi, phải cẩn thận làm sao trong sự đối tiếp giữa đồng đạo với nhau khéo hoà thuận, vui vẻ thì mới có lợi cho mình và tập thể. Chúng ta phải biết vì sự giải thoát, vì lợi ích cho đạo mà bỏ qua những điều nhỏ nhặt, không đáng kể, khéo điều hoà cho cuộc sống an vui.

Điều thứ hai là tôi nghe nói một số người thấy ban Lãnh chúng còn trẻ tuổi nên không kiêng nể. Đó là điều sai lầm. Người tu không phải trọng ở tuổi lớn mà trọng nơi đức hạnh. Không phải trọng cái tài bên ngoài mà trọng cái đức trong đạo. Người nào đủ đức đủ hạnh, dầu thấy họ có vẻ như khờ khạo, chúng ta vẫn quí.

Thí dụ như Lục Tổ đâu phải là người có tài so với ngài Thần Tú, nhưng người ta vẫn quí Lục Tổ hơn ngài Thần Tú, đó là quí đạo đức chớ không phải quí ở tài học. Ngày xưa trong đạo có những vị tuổi rất nhỏ mà tu hành sáng, còn người tuổi lớn lại tu hành không sáng. Học luật Sa-di quí vị thấy có câu: “Sa-di thuyết pháp Sa-môn thính, bất trọng niên cao trọng tánh linh”, tức là người ta trọng chỗ thấy đạo, hiểu đạo hơn là người thọ giới cao, tuổi đời cao.

Cho nên ở đây quí vị phải hiểu cho thật rõ, tôi nhắm tinh thần đạo đức hơn là nhắm tài năng bên ngoài. Vì vậy, tôi thấy Thông Phương tu từ thuở nhỏ tới bây giờ, đã sống lâu trong đạo, thấm nhuần vị đạo rồi nên mới cho làm Quản chúng. Mặc dầu tuổi đời Thông Phương không cao nhưng tuổi đạo đã cao, dầu không lanh lẹ bên ngoài nhưng đã thấm nhuần đạo lý.

Như vậy, chúng ta phải quí trọng người lãnh đạo có đức và có trí tuệ. Đừng nghĩ rằng phải lớn tuổi hoặc học cao ngoài đời, mà phải nghĩ tới đạo đức sâu của người đó. Vì vậy những người tôi cử ra giữ trọng trách, không đặt nặng chuyện lanh lẹ, khôn ngoan mà cần phải có đạo đức thật, nhận hiểu giáo lý thâm sâu, đó mới là chỗ tôi tin tưởng.

Tháng năm nào quí vị còn ở Thiền viện thì đều được hun đúc, nhắc nhở để cố gắng tu, đó là trách nhiệm của tôi. Nhưng quí vị đừng lầm rằng ở đây tôi phải nhờ quí vị để được danh được lợi. Đừng hiểu lầm như vậy! Tôi chỉ nghĩ lập Thiền viện là để lo cho Tăng Ni tu. Tăng Ni tu được là mãn nguyện của tôi. Nếu mỗi khi ai có chuyện vui buồn liền xách gói bỏ đi thì chỉ thiệt thòi cho chính mình. Tôi lãnh trách nhiệm hướng dẫn quí vị, nếu quí vị có tâm tha thiết trên đường đạo thì tôi đem hết tâm thành trợ giúp, còn nếu quí vị không ưng tu, không muốn thực hiện lý tưởng của mình, ra đi thì tôi cũng đành chịu chớ không hối tiếc. Bởi vì bổn phận tôi đã làm tròn.

Như vậy nếu tự kiểm điểm thấy ở đây có lợi cho sự tu hành, quí vị cứ hợp tác chung lo để cùng nhau tu tập, và tôi có bổn phận phải hướng dẫn chu đáo. Nếu vị nào cảm thấy ở không có lợi ích mà chỉ sanh phiền não, muốn lui chỗ khác thì tôi cũng hoan hỉ, không trách cứ, cũng không bắt buộc điều kiện nào hết. Bởi vì bổn phận tôi phải làm cho tròn, còn chuyện trách nhiệm của quí vị tròn hay không là phần quí vị.

Lâu nay tôi thường nghĩ, người xuất gia có tâm nguyện hết sức tốt, nhất là những người đã có gia đình mà dám cắt bỏ tất cả để đi tu. Những người chưa có gia đình thì dám bỏ cha mẹ xuất gia, cũng đâu phải việc thường. Trước người ta có tâm tốt như vậy, tại sao vô tu một thời gian rồi lại chán bỏ đi, là do đâu?

Chính vì môi trường không tốt, sự hướng dẫn không tốt làm người ta thối tâm. Tôi trách người lãnh đạo, trách người có bổn phận đi trước không lo cho người đi sau. Bởi vậy tôi cố gắng tạo điều kiện làm sao có được một môi trường tốt, sao cho tròn bổn phận của người đi trước dìu dắt kẻ sau. Nay hai cái đó tôi làm tròn rồi mà quí vị cũng bỏ đi thì đó là duyên của quí vị chớ không phải lỗi của tôi, cho nên tôi không hối hận.

Như vậy nói cho tất cả hiểu rằng, lòng tôi chỉ muốn làm sao Tăng Ni tu được đến nơi đến chốn và mai kia ra làm Phật sự xứng đáng một vị Tăng. Đó là sở nguyện của tôi, chớ không phải tôi muốn nuôi Tăng chúng cho đông để có uy tín. Tôi không cần điều đó bởi vì đó là ảo tưởng, giả danh chớ không có thật. Thực chất là tôi lo cho đạo, muốn giữ mối đạo được bền lâu. Ngọn đèn trước gần tàn thì ngọn đèn kế phải tiếp nối, chớ để nó tắt ngúm làm tăm tối thế gian.

Tất cả quí vị nếu ý thức được chuyện của mình thì chung lo tu hành, hoà hợp nhau cùng làm Phật sự, để mai kia lợi ích cho Phật pháp. Lợi cho Phật pháp tức là nuôi dưỡng công đức của mình. Công đức lớn thì sau này mới dễ đạt đạo, còn tu lơ là sau không đi tới đâu.

Do đó, tôi nhắc tất cả luôn nhớ bổn phận của mình là phải cố gắng tu và xả bỏ cái ngã riêng tư, xả bỏ những hư danh hão huyền để đạt được đạo chân thật, vậy mới là cứu kính. Đừng mắc kẹt những cái nhỏ mà quên mất việc lớn, uổng một đời tu của mình. Quí vị đừng nghĩ rằng mình ở trong thất riêng là tu hay, nhiều khi do không có ai kềm chế, nên thong thả rồi có khi phóng túng, từ phóng túng hư đi một đời tu. Đó là lời tôi nhắc nhở toàn chúng.

Ngày 28-1 Bính Tý (17-3-1996)

Hôm nay toàn chúng thỉnh nguyện thấy có những lỗi nhỏ đều ý thức để sám hối, điều đó rất tốt. Đây tôi nhắc thêm cho tất cả nhớ tu.

Thời gian gần đây, nhìn qua trong chúng, tôi thấy tập khí là điều làm tôi thở dài. Bởi vì có nhiều người thông minh sáng suốt, nghe dạy liền hiểu, biết rõ ràng cái gì hay cái gì dở, nhưng tập khí sâu dày vẫn chưa bỏ được.

Nói đến tập khí, tôi muốn giảng rõ cho quí vị biết. Chữ tập là nhóm họp, khí là hơi. Thí dụ: Mình để cái khăn tay gần một món đồ thơm trong một thời gian rồi đem ra ngửi nghe có mùi thơm.

Cũng vậy, để cái khăn gần đồ hôi nó sẽ hôi. Sức huân tập của mùi thơm, mùi hôi càng lâu càng thấm nhiều. Tập khí của chúng ta không phải mới đời này mà đã huân tập từ nhiều đời. Tuy đời này biết đạo lý, biết tu hành nhưng thói quen cũ vẫn chưa bỏ được. Bình thường mình không thấy ở đâu, nhưng gặp duyên nó xuất hiện không lường trước được.

Thí dụ trường hợp của N.T ở V.C. Trước khi bỏ V.C đi lên chùa T.T, một hôm nó tới chỗ võng tôi đang ngồi, quì xuống chắp tay lạy ba lạy. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Bữa nay có chuyện gì mà con lạy Thầy?

Nó thưa:

- Con lạy Thầy xin nguyện từ đây về sau, nếu có lưu lạc ở đâu thì đời sau con cũng sẽ gặp lại Thầy, nhờ Thầy cứu con trở về chánh pháp.

Nó nói như vậy, tôi ngẩn ngơ không biết tại sao, thấy kỳ cục quá! Tôi mới nói rằng:

- Con đang ở đây tu tập theo Thầy, có gì đâu mà lo!

Nhưng sau đó ít bữa nó bỏ đi.

Như vậy mới thấy rằng tập khí của nó thuộc về Mật giáo, cho nên dù nó tu với mình, nghe, hiểu và thực hành, nhưng một lúc nào đó cũng quay lại với Mật giáo. Đó là cái tôi thấy không thể lường nổi.

Như câu chuyện trong kinh kể, ngài Ca-diếp là vị tu hành khổ hạnh nhất trong chúng của Phật, tức là đầu-đà bậc nhất. Một hôm thần Càn-thát-bà đánh nhạc cúng dường Phật, trên hư không trỗi nhạc thì dưới này ngài Ca-diếp đứng dậy múa. Một vị Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán rồi mà tập khí cũ vẫn còn trỗi dậy. Sau đó đức Phật mới giải thích: Ca-diếp thuở xưa có nhiều đời làm nhạc công nên bây giờ tập khí cũ vẫn còn.

Tôi thấy ngày xưa vậy, ngày nay cũng thế. Mỗi người trong chúng đều có một tập khí, một thói quen riêng, chẳng những đời này mà đã huân tập từ nhiều đời trước. Bây giờ nghe kinh, học đạo ai cũng biết rõ cái dở, cái hay nhưng gặp duyên thì không làm chủ được. Cho nên trong chúng, người nào nhiều tập khí là đáng thương, không phải đáng ghét. Còn bản thân mình, khi biết có tập khí gì đó, phải cố gắng mài dũa cho thật sạch thì mới tiến được.

Tôi nói gần nhất là sân, ai cũng biết nó tai hại. Mình có thể giảng dạy về cái sân cho người khác nghe, nhưng khi gặp việc trái ý mình vẫn nổi nóng như thường. Đó là tập khí cũ tích lũy bên trong chớ không phải bên ngoài, nên hiểu thì hiểu mà tập khí chưa phải hết. Do đó người tu phải rất cẩn thận. Tuy rằng mình có hiểu đạo, lóe thấy được chân lý nhưng tập khí không phải dễ bỏ, vậy nên mỗi người phải ráng tu hành chín chắn. Mỗi khi thấy mình có gì sai sót liền sửa, lâu ngày nó mới sạch.

Tôi rất tán thán việc ở trong chúng, vì khi ở thất riêng, tập khí của mình không ai thấy, không ai nhắc, làm sao biết để sửa? Nhờ ở trong chúng nên những gì mình xấu mà chưa tự biết, hay khi quên, nó bộc lộ ra, người khác thấy được liền chỉ cho mình. Nhờ vậy mà chúng ta sửa đổi, bào gọt từ từ cho mỏng, có ngày mới hết; còn sống riêng tư không bao giờ hết tập khí. Đừng tưởng sống trong chúng là thiệt thòi, khó tu. Chính nhờ sống trong chúng mới biết được những cái hư xấu của mình để sửa, trở nên người tu hành chân chánh.

Như vậy, chúng ta đừng bao giờ tự đắc mình là người thanh tịnh, tâm hồn không còn bợn nhơ. Đừng bao giờ tự đắc như vậy! Tôi thấy tập khí con người rất nặng nề, không đơn giản. Có người khi trình bày chỗ nhận được tưởng chừng họ tiến bộ đáng kể lắm, nhưng lâu lâu, gặp duyên gặp cảnh những cái cũ vẫn còn. Biết vậy, phải ráng luôn luôn tự cảnh tỉnh mình, vì tập khí không thể lường nổi, nay thấy tốt, ngày mai gặp duyên chưa chắc đã tốt. Do đó, cố gắng vừa khiêm tốn vừa cẩn thận tu tập cho có kết quả, đừng tưởng mình đã thành công trên đường tu, đến khi sai sót hiện ra hối hận không kịp.

Hôm nay tôi nhắc cho toàn chúng ý thức được sự tu hành của mình vẫn còn nhiều gay go lắm. Mỗi người ráng cẩn thận, phải vui mừng biết ơn khi có ai nhắc nhở lỗi lầm, nhờ đó mình càng ngày càng vươn lên. Nếu không được nhắc nhở, chúng ta ngày càng lún sâu trong vũng bùn tập khí, khó bề ra khỏi.

Ngày 13-3 Bính Tý (30-4-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, tất cả quí vị có lỗi đều tự nhận biết ra sám hối. Những điều mình không thấy nhờ huynh đệ chỉ cũng thành tâm sám hối. Đó là thực hiện đúng tinh thần tự giác, giác tha. Thỉnh nguyện xong, tôi có ít lời nhắc nhở cho quí vị.

Tất cả chúng ta là người tu, nhất là tu hạnh xuất gia cầu giải thoát sanh tử thì chắc rằng trong lòng ai cũng muốn cố gắng tu làm sao cho được giác ngộ, giải thoát. Trong khi tu chúng ta nhớ thật kỹ đừng lầm lẫn, mình tu là phải khéo trừ dẹp những niệm xấu dở của bản thân, đừng để nó hoành hành, đó là điều thứ nhất. Thứ hai là chúng ta phải làm sao có sức mạnh làm chủ, không để những gì bên ngoài hoặc bên trong làm chủ mình, tức là đừng đầu hàng, đừng chịu thua nó.

Muốn làm chủ thì phải nỗ lực tọa thiền để có sức mạnh dẹp bỏ các thói quen, tư tưởng. Bình thường mình dẹp không được nhưng lúc tọa thiền có sức mạnh hơn. Thiền định là sức mạnh để dẹp tan những vọng niệm và thói quen xấu có sức lôi cuốn. Khi chúng ta làm chủ được, những chuyện bên ngoài vừa xâm phạm mình liền thấy, liền biết. Ngược lại, không làm chủ thì không thể thấy kịp, không biết kịp, đó là do sức tu còn yếu.

Cho nên tất cả chúng ta phải nhớ hai việc: buông xả vọng niệm, dứt bỏ những nghĩ suy không hợp đạo lý, trừ sạch đám giặc bên trong; đồng thời phải có sức làm chủ để chiến thắng những thử thách, cám dỗ bên ngoài, khi nó tới mình không bị xao xuyến. Đó là những điều rất quan trọng, người tu phải nắm vững và thực hiện được, mới mong thành tựu chí nguyện của mình là giác ngộ và giải thoát. Đây là điều tôi cần nhắc cho toàn chúng biết rõ.

Ngày 13-5 Bính Tý (28-6-1996)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay trong chúng ít ai có lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Càng ngày thấy chúng càng sống thuần thục, chỉ còn có những phiền não vi tế trong nội tâm. Mỗi người cố gắng tiêu trừ nó, làm sao cuộc đời tu hành của mình mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày đều được tăng trưởng thanh tịnh, đừng để nảy sanh phiền não làm trở ngại đường tu của mình và chướng ngại cho người khác.

Vừa rồi đi Indonesia, tôi thấy có một Phật tử thật đáng quí. Đó là ông Silvie, người bảo lãnh tôi qua bên đó. Ông là cư sĩ tại gia, bận đủ thứ việc trong công tác làm ăn mà rất nhiệt tình lo cho Phật pháp. Bất cứ lúc nào, chùa nào có Phật sự là ông bỏ hết để đi làm. Ông thường nói với những người xung quanh rằng ông sợ Phật pháp mất đi. Bởi vì ở Indonesia, hồi thế kỷ 16 Phật giáo gần như là quốc giáo, mà bây giờ chỉ còn lại hai phần trăm dân số là Phật tử. Cho nên lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ.

Hôm đó chủ nhật, ông lên thăm tôi, đi bằng xe hơi, dọc đường thấy người Công giáo đi nhà thờ, già trẻ bé lớn đủ cả, nhất là lớp trẻ đi càng đông, ông than với tôi: “Chùa chiền chỉ có mấy ông bà già đi, còn nhà thờ thì lớp trẻ cũng đi, coi chừng Phật giáo Việt Nam sẽ đi tới chỗ suy đồi như Phật giáo Indonesia!”

Người cư sĩ mà nhiệt tâm lo cho đạo như vậy, tôi thấy thật là cảm động. Nhưng tôi nói cho ông biết: Chủ trương của tôi không phải là thu hút Phật tử đi chùa đông, cũng không phải truyền bá ra ngoài cho rộng, mà phải làm sao cho Tăng Ni tu đến nơi đến chốn, phải nhận ra được cái chân thật của mình, nói cách khác là thấy được đạo, đó là gốc Phật giáo không mất. Ví dầu mình có tổ chức hay, dùng mọi thuật quyến rũ người ta đi chùa nhiều, nhưng nếu Tăng Ni tu không ra gì thì cũng khó giữ mối đạo lâu dài. Cho nên chủ trương của tôi là tạo duyên cho Tăng Ni tu được, sáng được đạo. Như thế tôi tin rằng Phật giáo không mất.

Tại sao tôi tin như vậy? Vì thời đức Phật tuy số lượng Tăng, Ni và Phật tử người Ấn Độ không đông, nhưng những vị xuất gia đa số đều chứng quả A-la-hán, nên Phật giáo còn truyền mãi đến ngày nay. Cho nên chúng ta muốn duy trì Phật pháp thì mỗi người phải ráng tu, làm sao thấy rõ chánh pháp, nhận ra được cái chân thật của chính mình thì mới duy trì Phật pháp lâu dài. Vì vậy mong tất cả chư Tăng hiểu được ý đó mà cố gắng, trong thời gian mình còn khỏe, còn đủ điều kiện tiến tu đừng để phí thời giờ vô ích.

Tôi tin rằng ai quyết tâm tu và buông hết những thứ lăng xăng nhỏ nhít chung quanh thì sẽ có kết quả tốt không nghi ngờ. Tôi thấy từ bản thân mình có kết quả rõ ràng như vậy. Cho nên trong Thanh qui tôi dẫn ba điều kiện theo tinh thần ngài Trúc Lâm, mà điều kiện đầu là phải dứt khoát. Nghĩa là khi quyết tu thì mọi việc buông hết, chỉ làm những việc trong đạo do Thiền viện giao cho mình, còn bao nhiêu chuyện lăng xăng nghĩ ngợi về gia đình, xã hội... phải gạt qua một bên, chuyên tâm làm một việc, nhất định sẽ có kết quả.

Những năm tôi còn học và đi giảng, thật ra công chuyện rất nhiều, mỗi tháng tối thiểu cũng viết ba mươi lá thư trả lời cho Phật tử, rồi còn đủ thứ chuyện khác nữa. Đến khi nhập thất, tôi nghĩ rằng đời mạt pháp mình cứ quyết tâm tu chớ không mong gì có kết quả. Nhưng khi tôi buông hết mọi việc, quyết tâm nhập thất, chết sống ở trong đó không nghĩ tới chuyện gì khác, thì chỉ sau ba tháng tôi thấy có kết quả rõ ràng.

Như vậy từ kinh nghiệm bản thân tôi thấy rõ: Ai quyết tâm tu thì đời mạt pháp cũng có kết quả như đời chánh pháp. Nếu đời chánh pháp mà mình không cố gắng tu cũng không đi tới đâu. Bởi vậy, trọng tâm của sự tu là phải quyết tử. Nghĩa là chết sống trong việc tu, mọi việc phải gác qua hết, chỉ dốc sức tu thôi thì chắc chắn có kết quả. Đừng ngồi tu mà cứ lảng vảng trong đầu chuyện gia đình, xã hội, bạn bè..., dầu cho tu bao lâu cũng không có kết quả.

Đó là kinh nghiệm của bản thân tôi và tôi thấy mục tiêu duy trì chánh pháp là như vậy. Cho nên tất cả chư Tăng phải hiểu được ý đó và cố gắng thực hiện cho được. Chúng ta muốn lo cho chánh pháp lâu dài thì chính mình phải tu cho được, đó là điều căn bản không sai chạy. Vậy mong tất cả chúng Tăng nỗ lực tu hành.

Ngày 12-6 Bính Tý (26-7-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay đa số có lỗi nhỏ không đáng kể, cũng đều biết thành tâm sám hối, nói lên lòng tự giác cao.

Kế đây tôi nhắc chúng về đường lối tu. Chúng ta tu hành phải có mẫu mực, không nên xem thường.

Chúng Tăng hay có cái bệnh là quan trọng việc gì lớn, còn việc nhỏ thường không để ý. Thí dụ như ngồi thiền có ba phần: nhập, trụ, xuất. Khi nhập thì dễ, còn khi xuất ở đây dường như chưa thống nhất, kẻ nhanh, người chậm, kẻ làm thế này, người làm thế kia... Tôi cũng đã chỉ nhiều lần rồi nhưng chưa chắc làm đúng.

Nay mai sẽ có hai vị Linh mục lên đây xin tập tu với mình. Nếu họ thấy xả thiền mỗi người mỗi kiểu, họ biết học theo ai? Thầy Quản chúng chỉ, rồi xuống thấy những người ngồi trước mặt hoặc kế bên mình, người xả kiểu này, kẻ xả cách kia, họ biết bắt chước ai. Cái đó hơi nguy. Những gì tôi nghiên cứu đem ra dạy quí vị không phải là bỗng dưng làm theo xu hướng nhất thời. Đó là điều tôi đã kinh nghiệm đưa ra ứng dụng. Giờ tôi nói dài dòng một chút.

Trước hết kể chuyện ngày xưa, lúc còn ở Ấn Quang tôi đi dạy, đi giảng rất nhiều. Vào khoảng 1960, 1961 tôi dạy ở chùa Pháp Hội, Hoà thượng Viện trưởng triệu tập các vị Trụ trì về đó để học khóa Như Lai Sứ Giả. Có chừng sáu mươi, bảy mươi vị tham dự khoá học. Trong mùa an cư chư Tăng khép mình tu hành trú dạ lục thời, nghĩa là ngày đêm sáu thời tụng niệm. Khi tôi dạy là gần cuối mùa hè, nhìn lại thấy thầy nào thầy nấy mặt xanh mét, mắt hơi đục đục. Tôi biết đó là hiện trạng không tốt, nếu tu như vậy sẽ đi tới phế nhân chớ không đạt kết quả gì.

Tôi nhớ có một bài kinh A-hàm kể rằng: Một hôm vua Ba-tư-nặc đi đến thăm Phật. Khi tới ngoài cổng, Vua thấy có hai chú Sa-di đang thong thả đi thiền hành, vua Ba-tư-nặc xá chào hai vị, nhìn thấy vị nào da dẻ cũng bóng láng và rất tươi. Khi vào trong, ông đảnh lễ Phật thưa: “Bạch Thế Tôn, chư Tăng ở đây ngày ăn có một bữa, ngủ ít, thức nhiều mà tại sao những vị đó lại tươi tắn đẹp đẽ, da dẻ bóng láng như vậy?” Đức Phật trả lời rằng: “Do chư Tăng tu thiền được an định nên cơ thể hiện ra những tướng tốt đó.”

Qua câu chuyện đó, tôi nghĩ người xưa tu hành càng ngày càng tươi tắn khoẻ mạnh, tại sao bây giờ càng tu da dẻ càng xanh xao, con mắt lờ đờ không sáng. Như vậy mình tu có đúng lời Phật dạy hay không? Không khéo đường tu của mình tới chỗ kiệt quệ rồi thành phế nhân. Nếu tu mà thành phế nhân thì tu làm gì? Đó là một dấu hỏi lớn tôi đặt ra trong lúc còn đang làm việc và tu học theo nếp cũ, tức tu Tịnh độ, niệm Phật, tụng kinh.

Trường hợp thứ hai như Hoà thượng Trí Minh bây giờ còn sống, lớp của Ngài cũng gần với Hoà thượng Viện trưởng. Chúng tôi thường nghe Hoà thượng Viện trưởng khen nức nở: Hoà thượng Trí Minh học kinh Lăng Nghiêm Trực Chỉ thuộc lòng hết chánh văn, học đâu nhớ đó, vừa thông minh, ham học lại vừa ham tu. Nhưng tới chừng Hoà thượng Trí Minh nghỉ học thì kiệt lực, không làm gì được nữa hết. Năm đó Hoà thượng về ở một cái thất nhỏ gần Thủ Đức. Tôi nghe quí Hoà thượng khen ngợi nên tìm tới thăm. Thấy Hoà thượng ở trong thất lá, tự nấu cơm ăn. Đến lúc nói chuyện, tiếng nói Ngài khàn khàn ở cổ không nghe rõ được. Suy kiệt đến mức ấy. Từ đó về sau Hoà thượng thành phế nhân luôn, không làm được gì nữa.

Như vậy chúng ta mới thấy, ham tu ham học là đức tánh hết sức tốt, vậy mà không khéo trở thành phế nhân. Khi thành phế nhân rồi thì sự tu học của mình không làm lợi ích gì cho ai được. Vì vậy tôi kinh nghiệm kỹ, thấy rõ nếu mình cứ tu theo đà đó, tụng kinh, niệm Phật và giảng dạy nhiều sẽ đi tới kiệt quệ. Mà quả nhiên, trường hợp tôi cũng như vậy.

Lúc đó tôi tu học đều đặn và đi giảng dạy khá nhiều, đến tối vẫn theo chúng tụng kinh. Tới năm 1961 tôi bệnh phổi. Khi bệnh rồi, tôi nghĩ đời mình tới đây là tàn, không làm được gì nữa. Tôi vào bệnh viện Đồn Đất trị ba tháng, thấy bớt ra viện. Ông bác sĩ người Pháp dặn cứ mỗi hai tháng trở lại xem bệnh, đồng thời cho thuốc chích và uống thường xuyên.

Sau đó, tôi được thầy Nhất Hạnh cho đất cất thất gần Phương Bối Am. Tôi nghĩ mình bị bệnh phổi, sống gần chúng có thể nguy hiểm cho người khác, nên nhất định không ở trong chúng, lên Phương Bối Am tịnh dưỡng. Tôi nhờ Phật tử ở Bến Tre cất cho cái thất, thầy Nhất Hạnh đặt tên giùm là Thiền Duyệt thất.

Thật ra, những năm đó đâu có bổn đạo nhiều, chỉ có vợ chồng Như Thông lúc ấy làm dược sĩ bán thuốc, lâu lâu lên ủng hộ. Mỗi lần lên, y cho tôi bánh mì khô và ít hộp sữa. Buổi sáng tôi khuấy một ly sữa chấm bánh mì khô ăn, không có gì khác. Trưa có dì Thợ đằng Phương Bối, tôi gửi tiền cho dì mua thức ăn nấu giùm bữa cơm trưa. Chiều uống ly sữa. Đứng về mặt bồi dưỡng thì không có gì đáng kể.

Từ đây tôi nhất định nghiên cứu cuốn Lục Diệu Pháp Môn của ngài Trí Giả đại sư, lúc trước ở Ấn Quang tôi đã dịch ra, nay đem nghiên cứu, ứng dụng tu. Mới tu tới Sổ tức, Tùy tức thôi. Ngày ngồi thiền, đêm ngồi thiền liên miên như vậy. Tôi lấy sự tu để trị bệnh, nguyện rằng một khi ra khỏi nhà thương thì không trở lại lần thứ hai. Thuốc men ngang đó không có ai chích nên cũng bỏ luôn. Không chích, không uống thuốc rồi cũng không trở về khám bệnh lại.

Tôi cố tình ứng dụng tu thiền. Tu được hơn một năm, thấy trong người khỏe lại. Đến lúc ở Phương Bối không được nữa, tôi trở về ở nhờ chùa Linh Sơn - Vũng Tàu ba tháng, trong một cái cốc nhỏ. Rồi Như Thông với ông Minh Đạo cho cái thất lá ở An Dưỡng Địa. Tôi về ở đó cũng chuyên tu thiền thôi, qua hai năm thấy khỏe hẳn, không đi tái khám nữa.

Lúc đó Hoà thượng Giám đốc và Hoà thượng Viện trưởng kêu tôi: “Bây giờ Thanh Từ khỏe rồi, về Ấn Quang tiếp dạy với quí Thầy.” Tôi thưa: “Giờ con tuy khỏe nhưng con không thể sống chỗ ồn ào nổi. Nếu quí Hoà thượng đặt cho một lớp học ở ngoài này thì con có thể làm được.” Quí Ngài đồng ý, do đó cất Phật học viện Huệ Nghiêm. Tôi mời thêm thầy Bửu Huệ, thầy Thiền Tâm, hai vị về hợp tác làm việc và dạy.

Năm 1964, tôi khởi sự dạy ở Huệ Nghiêm, Dược Sư, dạy luôn đằng Vạn Hạnh, dạy liên miên. Phổi yếu mà tôi làm việc như vậy. Trong suốt thời gian đó về sau tôi vẫn ngồi thiền. Ban ngày giảng dạy, khuya và tối ngồi thiền. Như vậy mãi đến 1968 tôi lên Chân Không tu thiền luôn. Bấy giờ phổi tôi hoàn toàn lành mạnh, trong khi vẫn giảng dạy không dừng.

Thế là thấy kết quả rõ ràng, nếu mình không khéo tu sẽ đưa tới chỗ bệnh hoạn, phế nhân. Còn khéo tu thì có thể chuyển bệnh hoạn trở thành mạnh khỏe để làm Phật sự. Từ đó tôi thấy lợi ích cụ thể của việc tu thiền nên nhất định theo hướng này. Tuy nhiên tôi chưa phăng tìm ra manh mối, đường lối tu nên rất dè dặt, vì mình không có được một vị lớn đi trước hướng dẫn, mà phải mò mẫm trong kinh điển tự tu. Có người dọa: “coi chừng tu thiền điên”, nhưng tôi thấy rõ là nhờ tu thiền sức khỏe được tăng thêm, đồng thời tâm trí ngày càng sáng suốt hơn. Bởi vậy tôi tuyên bố nhập thất.

Năm 1966 tôi ra Vũng Tàu cất Pháp Lạc thất. Năm đầu không tu được gì bởi vì phải dọn rừng, ban ngày làm, ban đêm tu. Lúc đó chỉ một mình nên tôi tự nấu nướng lấy. Có người quen ở dưới chợ cứ một tuần đem đồ ăn lên một hai lần. Mấy Phật tử cho tiền, tôi đưa cho họ mua thức ăn.

Buổi sáng tôi cũng ăn bánh mì khô với một ly sữa rồi đi phát quang cây cỏ, bụi rậm. Tới mười giờ vô tắm rửa, nấu cơm. Có hai bếp dầu (réchaud), một cái nấu cơm và một cái nấu canh. Bởi ở một mình, lại không có thời gian nên hai ba thứ rau, hoặc cà rốt khoai tây gì đó, tôi cứ gọt xắt rồi bỏ vô nồi, đổ thêm nước, nêm muối mẳn mẳn, vừa làm canh, vừa làm kho luôn. Mỗi bữa có một món duy nhất vậy thôi.

Chiều tôi xem Đại tạng kinh, tìm hiểu những lời Phật dạy để phăng mò cho biết đường tu. Bởi vậy lúc đó đâu có gọi “Thiền thất”, chỉ đặt là “Pháp Lạc thất”, tức là vui với chánh pháp chớ chưa vui với thiền. Tu một năm trời như vậy, đến năm thứ hai mới có một ít người lui tới. Bà Bảy với mấy cô ra ở dưới am Dương Chi, họ nấu cơm giùm đem lên mỗi bữa trưa. Từ đây tôi mới bắt đầu nhập thất. Tháng tư nhập thất tới tháng bảy ra, chỉ có ba tháng.

Khi còn làm Tri tạng ở Ấn Quang tôi thường xem Tạng kinh, nhất là những bộ nói về thiền. Nhưng càng đọc tôi càng bí, không hiểu các ngài dạy gì. Chỉ hiểu các cuốn Lục Diệu Pháp Môn, Tọa Thiền Chỉ Quán, còn qua tới Thiền ngữ thì chẳng thể hiểu nổi, thấy các ngài nói cái gì đâu đâu, không chỉ thật cho mình. Bởi vậy khi nhập thất, tôi không có đường lối tu cụ thể, chỉ lấy Lục Diệu Pháp Môn làm chuẩn để tu.

Ban đầu tôi sổ tức. Khi thấy không còn lộn hay quên gì nữa, tôi qua tùy tức, theo hơi thở vô ra rất có kết quả. Sau đó, tôi chuyển sang chỉ. Trong sách dạy dừng tâm ở đầu mũi, hoặc dừng ở trán hay ngực. Tôi dừng ở đầu mũi để thấy hơi thở vô ra. Giai đoạn này bị ngủ gục, không thể nào kềm nổi. Tôi chỉ còn niệm Phật, sám hối chớ không biết làm sao. Tu chỉ không được làm sao tu quán, thành ra Lục Diệu Pháp Môn tôi chỉ tu tới chừng đó.

Rồi tôi tu qua Tứ niệm xứ. Trước hết quán thân bất tịnh. Tôi quán ba mươi sáu vật trong thân, quán tới quán lui cho đến một hôm tôi gớm muốn ói, nhớ tới thân là rùng mình. Trong sách có dặn kỹ, khi có triệu chứng đó thì dừng không quán bất tịnh nữa. Nếu quán bất tịnh nữa có thể tự tử. Bởi vậy tôi dừng, chuyển sang quán tịnh.

Quán tịnh tức là tưởng xẻ trước trán ra bày một chút xương. Quán xương ban đầu đục, lần lần thành trong, rồi đến phát hào quang sáng. Đó là thành công quán tịnh. Tôi cũng y vậy làm theo. Xẻ ở trán quán ít bữa đau nhức chịu không nổi. Tôi lại tưởng xẻ ở sống mũi, quán một thời gian nhức lỗ mũi chịu không nổi. Tôi bèn tưởng xẻ xương ngực quán, nghe tức ngực không thể tiếp tục.

Như vậy Lục Diệu Pháp Môn bị dừng, qua quán bất tịnh cũng kẹt. Quán thân bất tịnh không được thì làm sao quán thọ, tâm, pháp?

Bởi vậy tu thật là khổ sở. Tôi thấy đường lối tu của mình có lẽ bế tắc. Cho nên mỗi sáng mỗi tối tôi lạy Phật sám hối. Tôi sám hối đơn giản lắm, chỉ quì trước bàn thờ Phật khóc, nói: “Con nghiệp chướng sâu dày, nay xin thành tâm sám hối, xin Phật cho con nghiệp chướng tiêu trừ.” Tôi lạy khóc kể lể chớ không biết nói gì nữa. Thầy không có, bạn cũng không, đành chịu. Kinh sách mình nắm vững mà tu không được, tu tới đâu kẹt tới đó. Do đó tôi ráng lễ Phật sám hối. Trong vòng ba tháng thì một chuyện xảy ra, hư thực không thể lường.

Một đêm nọ, tôi ngủ mộng thấy đi vào một ngôi chùa rất cổ, có thể giống như chùa Trung Hoa hay chùa Phước Hậu hồi chưa sửa vậy. Tôi bước vô nhà Tổ thấy có hai vị. Vừa thấy, tôi liền biết đây là Tổ sư Huệ Khả, đây là Tổ sư Tăng Xán. Tổ Huệ Khả mặt hơi vuông, đầu tóc ngắn, còn Tổ Tăng Xán mặt tròn tóc dài như một tháng chưa cạo. Tôi thấy rõ, nhớ hình dáng tới bây giờ vẫn không quên. Tôi liền chạy kêu Trụ trì: “Hai Tổ ngồi trên này, Trụ trì đâu mà không trà nước gì hết?” Tôi vừa kêu thì hai vị đứng dậy bước ra rồi đi thẳng.

Giật mình thức dậy, tôi chắc mình cũng có duyên với chư Tổ, nhất là Tổ Huệ Khả. Bởi vậy thấy Tổ tôi nhớ rất rõ. Chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho có một tượng đội mũ ở ngoài, dáng đội mũ thì không giống Tổ, nhưng gương mặt vuông vuông rất giống.

Sau đó, tôi tiếp tục cố gắng sám hối và ngồi thiền, hết cái này đổi cái kia. Có hôm tôi đổi qua tu thoại đầu, cũng đắc lực lắm. Lúc đầu đặt câu hỏi: “trước khi cha mẹ chưa sanh mình là cái gì” rồi ngồi tu. Trước đây tôi có dịch cuốn Tham Thiền Yếu Chỉ của ngài Hư Vân nên nắm vững lắm. Tu như vậy đến một hôm đề không được nữa. Nó cứng như đá, như cây, kỳ cục lạ lùng! Rồi tôi cứ ngồi trơ trơ, đề thoại đầu mãi không lên. Quí vị thấy, thật là cay đắng! Cuối cùng tôi xả ra khóc, rồi lạy Phật chớ không biết làm sao!

Một đêm thứ hai tôi nằm mộng, thấy Tổ Huệ Khả hẳn hoi. Ngài lại nói một bài thơ, nghe không biết bài thơ gì mà câu chót là: “Không bình không trắc.” Rồi tôi giật mình thức dậy. Khuya buổi đó tôi ngồi thiền, ngẫm nghĩ tại sao “không bình không trắc”? Tôi ngồi yên, vừa đặt câu hỏi như vậy, tự nhiên sáng được lẽ đó. Sáng được lẽ đó rồi, tôi cười hoài ba ngày, không biết nói gì. Sau đó tôi đem các kinh sách trong Tạng ra đọc, nhất là cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự(*). Ngang đây tôi mới hiểu rõ những gì chư Tổ nói, thấy được lý Thiền tông.

Bởi vậy, khi mình quyết chí tu, dù hiện tại không gặp pháp tu thích hợp thì long thần hộ pháp cũng gia hộ trợ giúp. Với quyết tâm của mình, mọi việc làm đều có kết quả. Vậy nên tôi mới nói: Đừng than mình sống thời mạt pháp. Hãy nghĩ dù chúng ta ra đời gặp Phật mà tu lơ là, lôi thôi thì tuy là thời chánh pháp kết quả tu hành cũng giống như thời mạt pháp. Còn bây giờ là thời mạt pháp, nhưng nếu mình quyết tử để tu thì cũng có thể chuyển như thời chánh pháp không khác. Tôi cương quyết nói như vậy vì đó là điều tôi thấy rõ ràng.

Từ khi đọc cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, tôi mới thấy rõ những gì Tổ chỉ và nắm vững được đường lối tu thiền. Chư Tổ chỉ dạy hết sức đầy đủ tại sao mình không biết tu! Giờ biết rồi không thể làm thinh tu một mình, nên tôi xả thất ra lập Thiền viện.

Hồi nhập tôi có nói: “Tôi nhập thất kỳ này không có hạn kỳ, không có thời gian, không biết chừng nào ra.” Bởi vì tôi nghĩ mình tu thời mạt pháp, nghiệp chướng sâu dày, quí thầy Tịnh Độ đã dạy không thể nào tu thiền được, bây giờ mình liều chết tu chắc cũng không tới đâu. Vậy mà mới hơn ba tháng tôi ra, thiên hạ cười, nói rằng: Mới ba tháng đã chịu không nổi, thế mà tuyên bố nhập thất không hạn kỳ!

Nhưng tôi luôn luôn chủ trương rằng: Mình làm cái gì mà thấy lợi ích cho mình, hữu ích cho người thì phải làm. Nhất là khi tôi biết được điều gì hay cũng muốn đem dạy người, chớ không thể giấu giếm được. Bây giờ tôi đã thấy rõ thiền rất thiết yếu cho đời tu. Nếu tu Phật mà không tu thiền thì khó mở sáng con mắt trí tuệ. Bởi vậy, sự nhiệt tình đó thúc đẩy tôi mở cửa sớm, với tâm niệm mình có được lợi ích gì thì cũng muốn làm cho người khác được như vậy, chớ không phải cho riêng cá nhân mình thôi.

Lúc tôi vào thăm thầy Bửu Huệ, thuật lại việc tu hành và dự định mở cửa để ra làm Phật sự, thầy Bửu Huệ hơi trách, phải chi tôi ở trong thất năm bảy năm nữa sẽ tiến bộ nhiều lắm, mở cửa như vậy sớm quá. Nhưng với tâm nhiệt thành, khi thấy được điều hay, tôi không giấu giếm một mình được, phải chỉ cho mọi người cùng biết. Do đó tôi khẳng định mở Thiền viện.

Năm 1970 tôi tuyên bố cất Thiền viện Chân Không. Hoàn cảnh khi đó thật khó khăn, không có tiền bạc gì nhiều, chỉ có một ít Phật tử thân tín ủng hộ cất được một Thiền đường. Thiền đường chiều ngang hẹp, chiều dài dài, để vừa lạy Phật, tụng kinh, vừa tọa thiền được, chớ nếu cất chiều ngang rộng quá thì không có bề sâu. Chánh điện cất sơ sài trước, rồi nhà Tăng từ từ cất sau.

Tôi rất dè dặt, vì nghĩ rằng bản thân mình tu thiền được sự tiến bộ như vậy cũng nhờ túc duyên. Nhưng hiện tại quí Thầy lớn cứ nói tu thiền điên nên tôi rất ngại, mở Thiền viện mà không dám thâu nhiều người vì hai lý do: một là sợ người ta điên, hai là sợ họ tu không nổi, nên tôi chỉ thu có mười người đáng tin cậy thôi.

Đợt đầu ba năm, không thấy ai điên mà kinh tế cũng không đến nỗi nào, tôi yên lòng. Đợt thứ hai tôi chuẩn bị thâu nhiều hơn, luôn bên Ni, cho tới chùa Linh Quang ở Cát Lở, tổng số gần bảy mươi người. Tôi tính ba năm nữa, khi lớp cũ tu kha khá thì cho nhập thất, còn lớp sau tu xong rồi tôi sẽ nhập thất lại. Nhưng không ngờ lớp sau mới tu nửa chừng thì dở dang. Năm 1974 mới bắt đầu khóa hai thì tới 1975 có thay đổi. Xã hội thay đổi, sự tu hành của mình cũng bị chuyển theo. Nên ngang đó chúng không mãn khóa được, tôi cũng không có thời gian nhập thất, kéo dài cho đến ngày nay, rốt cuộc tôi cũng chưa nghỉ.

Nói chuyện dài dòng như vậy để quí vị biết tôi làm gì cũng rất cẩn thận. Điều gì có trải qua và đã làm được, tôi mới dạy, chớ không phải nghe ai nói đâu đó rồi bắt chước làm theo.

Như bản thân tôi bệnh phổi, nhờ tu lần lần khỏe lại. Từ năm 1964 tôi dạy ba bốn năm trời mà phổi vẫn tốt. Sau này tôi nghỉ ít năm, rồi giảng dạy luôn đến bây giờ. Có nhiều người nghe tôi giảng trong băng mà không biết mặt, đến khi gặp tôi, họ nói: “Tụi con nghe tiếng trong băng ngỡ Thầy còn trẻ lắm, giọng Thầy không có khàn như mấy ông già.” Chính nhờ tôi tu nên tâm trí sáng suốt và cơ thể được nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Đó là sự thật tôi đã kinh nghiệm.

Lúc tôi nhập thất năm 1968, mới có một tháng thì màng thịt trong con mắt kéo qua sát mí tròng đen. Như Thông là dược sĩ, thấy vậy nói: “Con mắt Thầy phải trị, chớ khi màng kéo qua lấp tròng đen là không thấy đường.” Tôi thấy mình vô thất mới hơn một tháng mà đi trị bệnh thì không ổn.

Tôi nhớ lại Hoà thượng Long Sơn ở dưới Tiểu Cần. Năm đó Hoà thượng đã hơn bảy mươi tuổi, Ngài cũng bị màng thịt như vậy, đi chữa trị một thời gian về rồi mù luôn. Tôi nghĩ, thời gian mình nhập thất không có bao nhiêu, sự tu hành đối với tôi còn xa tít mù, chẳng biết đến lúc nào mới có một hai ánh sáng chiếu soi để mở con mắt trí tuệ. Vậy mà bây giờ mở cửa thất đi trị bệnh thì vô lý quá! Thà chết, thà mù chớ không đi!

Trước đây tôi có đọc trong Tọa Thiền Chỉ Quán, ngài Trí Khải có dạy: Nếu bị bệnh ung nhọt gì ở đâu thì trụ tâm ở đó, lần lần nó sẽ tan. Vì trụ tâm chỗ nào thì hơi nóng tập trung chỗ ấy, có thể tan được nhọt. Tôi nhớ trong sách dạy lúc xả thiền xoa tay áp vô mắt cho ấm, vì mình nhìn lâu mắt bị khô. Nhưng bây giờ muốn màng thịt trở lui, đừng kéo vô tròng đen nữa phải làm sao đây? Tôi lấy hai ngón tay giữa, chà cho thật ấm rồi xoa lên mắt, đẩy màng thịt lui. Khi đẩy tưởng nó tan đi, mỗi khi xả thiền làm chín lần như vậy. Từ từ cái màng lùi lại, cho tới bây giờ không lấn ra nữa.

Tôi thấy rõ ràng nếu khéo tu có thể chữa hết bệnh, đó là kinh nghiệm bản thân. Quí vị nhớ thân tôi không phải là ít bệnh. Hồi xưa bệnh phổi cũng là nan y, sau hết bệnh phổi qua bệnh tim vì mấy năm tôi không được vui nên phát bệnh. Ngoài ra còn những bệnh lặt vặt nữa, nhưng nhờ tôi tu thiền, tâm không chao đảo, loạn động, nên được khỏe về tâm. Khi tâm khỏe thì thân cũng ảnh hưởng một hai phần. Hơn nữa, khi ngồi thiền, tôi ngồi đúng pháp và khi xả thiền cũng xả đúng pháp nên thân được khỏe. Đó là điều tôi muốn nhắc cho quí vị, hiện giờ khi ngồi thiền ứng dụng như thế nào để tâm được yên, và phải xả thiền như thế nào để thân mình khỏe mạnh. Những điều này tôi đã kinh nghiệm qua, ứng dụng cho bản thân có kết quả nên mới chỉ dạy người khác.

Trong kinh có dạy: Nếu ngồi thiền buông ra mà xả không đúng pháp hoặc xả dối sẽ có hai cái hại. Thứ nhất là khi chúng ta ngồi yên một chỗ, lại tréo chân trên bồ đoàn lâu, gân cốt và mấy mạch máu bị cấn, bàn tọa của mình chịu ảnh hưởng có thể bị thần kinh tọa. Hai là nếu gân không mềm dẻo thì có thể bị cứng gân, sẽ đơ người, nên phải xoa bóp kỹ.

Hồi trước tôi cũng xoa bóp thường thôi. Nhưng một hôm tôi vào thăm thầy Bửu Huệ bệnh, thấy có mời mấy vị chuyên trị về Đông y đến, mấy vị đó bảo mỗi ngày phải xoa mặt ba lần, mỗi lần chừng hai mươi cái. Tôi hỏi xoa để làm gì, họ nói tất cả các huyệt quan trọng của mình đều nằm ở mặt, nên dùng điện châm để trị bệnh. Lỗ tai cũng xoa hai mươi cái như vậy thì các huyệt lưu thông tốt, không bị nghẽn sanh bệnh. Ở đầu cũng vậy. Bác sĩ chỉ rõ chỗ nào tác dụng ra sao và bảo thầy Bửu Huệ phải làm theo.

Do đó tôi thấy rằng hồi trước xả thiền mình xoa bình thường, bây giờ phải xoa kỹ hơn, nên tôi dạy chúng xoa cho đúng cách. Xoa từ trên xuống dưới, nếu đúng thì nghe ấm khỏe. Sách Đông y nói rằng: “thông tắc bất thống, thống tắc bất thông”, nghĩa là máu huyết được lưu thông thì không đau nhức, còn đau nhức là do lưu thông không được.

Bây giờ làm sao khí huyết trong cơ thể lưu thông được hết? Muốn vậy khi xả thiền quí vị khéo xoa cho đều, trong người khỏe khoắn thì sau đó chúng ta đi, đứng hoặc làm gì cũng hăng hái vui vẻ. Trái lại, xả thiền lôi thôi sẽ sanh bệnh. Đó là điều tôi kinh nghiệm kỹ rồi mới ứng dụng và thấy có kết quả thật tốt.

Như vậy, khi xả thiền quí vị xoa đều và mạnh để da ấm hồng lên, thông các huyệt và điều hoà máu huyết. Hai lỗ tai cũng có nhiều huyệt, xoa cho mạnh vừa giúp cơ thể khỏe, vừa trị được các bệnh. Còn đầu mình ảnh hưởng đến thần kinh nên phải xoa thật kỹ, mỗi động tác hai mươi lần, bản thân tôi làm hai mươi lăm lần. Xoa cho mạnh chớ không phải xoa nhè nhẹ. Xoa xong nghe ấm lên mới đúng.

Có những cái rất khó trị mà nhờ xả thiền kỹ tôi trị được, chẳng hạn như con mắt tôi, nên quí vị ráng làm cho đúng cách. Hôm trước nghe có người bị đau thần kinh tọa. Tôi cũng có lần ngồi nghe đau thần kinh tọa, nhức giật giật trong chân, tôi xoa thật nhiều và mạnh, sau này tự động nó hết, không uống thuốc gì cả. Quí vị phải khéo, chỗ nào yếu hoặc đau nhiều thì xoa mạnh và kỹ hơn, sẽ có kết quả.

Tôi đã kinh nghiệm qua, thấy có lợi ích và không bị bệnh hoạn nên bảo quí vị phải làm. Ráng làm đúng như vậy thì trong thời gian tu cơ thể quí vị không bị tổn hại và sự tu hành tinh tấn, đồng thời mai kia quí vị lớn lên làm thầy chỉ dạy người ta có kết quả tốt đẹp. Từ hồi đó tới giờ, những người đến học và làm đúng lời tôi dạy không sanh bệnh hoạn. Tôi luôn tự nguyện với lòng rằng nếu do mình mà người ta khổ và bệnh tật thì nhất định không làm. Nên khi tôi thấy có kết quả thật sự từ thân đến tâm mới dám dạy người. Tôi không làm để lấy danh hoặc làm cho có hình tướng.

Vậy nên quí vị cẩn thận, làm sao để trong khi tu, về thân được khỏe mạnh không tốn tiền thuốc và không mất thời giờ tu. Thân khỏe thì tâm cũng có ảnh hưởng tốt. Tâm an ổn tu hành, sớm tỉnh giác là điều thiết yếu trên đường tu chớ không phải thường. Cho nên quí vị đừng lười biếng. Nếu quí vị ngồi thiền mười lăm phút hoặc ba mươi phút thì có thể xả dối được. Còn ngồi hai tiếng đồng hồ mà xả thiền không đúng cách thì chỗ ngồi lâu bị cấn, máu huyết không lưu thông, bị ngăn trệ lâu ngày thành bệnh.

Chúng ta làm không đúng cách sau này dạy ai cũng thành bệnh luôn. Bây giờ nếu trong quí vị có một người làm sai thành bệnh, sau này dạy hai, ba mươi người cũng thành bệnh, càng nguy hiểm. Vậy nên quí vị phải cẩn thận, tự mình được lợi ích dạy người mới có lợi ích, còn quí vị ngồi sanh bệnh sau này dạy người cũng sanh bệnh. Đừng để người ta nói do ngồi thiền hay do tu thiền sanh bệnh.

Vì vậy tất cả phải siêng, đây là trách nhiệm của mình, thấy như việc nhỏ mà nguy hại rất lớn. Quí vị cẩn thận đừng có xem thường. Người hướng dẫn lúc nào cũng có trách nhiệm nặng nên chúng ta phải làm đàng hoàng, phải kinh nghiệm trong đời tu của mình, thấy rõ cái gì hay, cái gì làm trở ngại. Điều trở ngại chúng ta tránh, cái hay đem ứng dụng rồi dạy cho người. Nếu quí vị không có ý thức, siêng thì làm lười biếng liền thôi, vậy là nguy lắm, sau này thành thói quen, khi muốn chỉ dạy ai trở nên lúng túng.

Đó là tôi nói về cá nhân. Còn nói về tập thể, những người hiện thời đang chú ý nhiều đến tập thể này. Người ta thấy như là một cái mới, tuy tôi thấy rất xưa, nên họ chú ý và chờ xem kết quả của mình, coi quí vị tu ở đây có người nào bị điên không? có người nào bại liệt không? Nếu có người điên hoặc bại liệt người ta sẽ đồn với nhau, rồi mình bị cười chê, chế giễu, không những riêng bản thân quí vị mà cười cả đường lối tôi dạy, ảnh hưởng cho tập thể lớn lắm. Bởi vậy những gì tôi dạy, quí vị phải nghiền ngẫm và ứng dụng cho đúng, đừng để sai chạy.

Sau này tôi đọc sách thấy Tổ Đạt-ma có dạy phải dùng phương pháp “lộc lô song quan” để ngừa bệnh cảm, tôi ứng dụng thêm lộc lô. Sau mỗi lần xả thiền ra, tôi lộc lô mỗi động tác năm mươi lần, đầu hôm và khuya đều đặn như vậy.

Khi lên Đà Lạt, tôi gặp một ông già tám mươi tuổi lại thăm Phước Tịnh, ngồi nói chuyện chơi. Ông nói sở dĩ lớn tuổi như vậy mà khỏe mạnh là nhờ tập gạch đều đặn. Ông kể, có chú hàng xóm thách đố làm ổng nổi giận, lại cặp tay vô cổ ông giở lên, tưởng ông già tám mươi không làm gì nổi. Ai dè ông trả đòn làm thằng kia hoảng hồn, nó lạy ổng. Có khi ông đạp xe đi chợ, thấy các bà các cô yếu đuối đi coi bộ chậm chạp, ông kêu lên xe chở giùm. Già mà chở người ta bằng xe đạp! Tôi thấy lối tập đó hữu hiệu nên ứng dụng theo, sáng nào cũng cầm hai cục gạch tập bốn mươi mấy lần. Nhờ vậy tay tôi cứng và mạnh, không bị run, chớ già yếu tay dễ run lắm!

Những cái tôi làm có hiệu quả rõ ràng. Quí vị thấy tôi già nhưng khi trở trời, trở gió cũng chỉ nhảy mũi thôi, không bị cảm như một số người.

Còn bây giờ nhiều người trẻ quá mà đủ thứ bệnh, vì không chịu khó, không ráng tập. Phải tập thể dục. Mình có thân thì phải ráng điều hoà, tập cho nó được tốt. Như tập lộc lô đứng trong phòng cũng được, rất đơn giản. Còn tập gạch thì kiếm một góc nào đó, rất dễ dàng, không khó. Nhờ tôi khéo tập, khéo tu mà bệnh giảm đi. Đó là điều quan trọng.

Tôi muốn làm sao tất cả Tăng Ni ở đây, khi tu phải nắm vững đường lối tu của mình, thân được khang kiện, tâm thanh tịnh, vậy là kết quả tốt. Còn càng tu càng bạc nhược, yếu đuối thì rủ người ta không ai dám tu.

Hôm qua có mấy Phật tử nói: “Tụi con chịu nước da như Sư ông vậy đó.” Thấy mình khỏe mạnh người ta ham, họ muốn con cháu họ cũng khỏe mạnh như mình. Vậy để thấy rằng nếu chúng ta khéo điều thân đúng cách, được khỏe mạnh thì dạy dỗ ai cũng tin. Tu theo tôi được khỏe mạnh nên bước đầu họ dễ có cảm tình, rồi lần lần tâm mới thanh tịnh, sáng suốt. Còn mới vô thấy mình uể oải, đau ốm ai tin nổi, tu hành đau ốm quá tu làm gì!

Quí vị phải khéo tự điều hoà để bản thân được khỏe mạnh. Muốn được vậy phải chịu cực, đừng lười biếng. Khi xả thiền phải làm đúng cách mới giữ được sức khỏe. Sau đó lộc lô, mỗi động tác chừng năm mươi lần, làm cho đúng quí vị sẽ thấy cơ thể mình có sức khỏe tốt.

Đó là những kinh nghiệm tôi đã trải qua, đã ứng dụng trong cuộc sống. Nhắc lại cho tất cả biết, rồi lát nữa sau khi hồi hướng, giải y xong, tôi sẽ ngồi lại, xả thiền đúng thứ tự cho quí vị nhớ thật kỹ. Chừng khoảng ba tháng thì Thông Phương phải kiểm lại, ngồi thiền, xả thiền sao cho đúng, đừng sai chạy.

Hôm nay tôi nói chuyện dài để tất cả trong chúng ý thức được sự tu hành của mình, từ những hình thức rất nhỏ mà khéo dùng đúng cách sẽ hữu ích, không khéo lại có hại. Cái hại đó trước cho mình, sau dạy người khác hại lây nữa, nên quí vị ráng cẩn thận. Khi người khác tới học với mình, họ thấy ai cũng như ai, từ cách ngồi thiền đến cách xả đều đúng như nhau mới không nghi ngờ. Đừng để mai kia có ai muốn học thiền, gặp ông thầy này dạy cách này, qua thầy khác dạy cách khác, họ sẽ thắc mắc không biết quí thầy ở trường nào mà mỗi người làm mỗi cách như vậy. Người ta sẽ cười mình tu hành không thống nhất.

Tôi nhắc nhở, tất cả quí vị lưu ý thực hành.

Ngày 28-6 Bính Tý (11-8-1996)

Kỳ thỉnh nguyện này trong chúng chỉ có một hai lỗi nhỏ, đã tự thức tỉnh ra sám hối, đó là điều rất tốt. Chúng Tăng tu càng ngày tâm tánh càng thuần thục, trong hành động cũng được đầy đủ oai nghi tế hạnh, đây là tiến bộ đáng mừng.

Hôm nay tôi có ít điều nhắc nhở cho toàn chúng thấy rõ con đường tu của mình. Thật tình mỗi khi có vị nào phạm lỗi lầm, nhất là những lỗi do sân hận, tôi đều có nhắc nhở nhưng chưa hết ý. Giờ đây tôi giảng lại cho tường tận để mỗi vị tự kiểm điểm lại mình rồi theo đó tu hành.

Trong nhà Phật, trọng tâm của tất cả giáo lý đều đi tới vô ngã. Vô ngã nghĩa là không có ta. Nếu tu mà không có ta thì tu sao được, tu rồi rốt cuộc thành cái gì? Đó là những nghi vấn nhiều người đã đặt ra.

Thật tình vô ngã ở đây là chỉ cho chúng ta tu cốt làm sao phá được chấp ngã. Trong kinh Bát-nhã nói “soi thấy năm uẩn đều không”. Trong năm uẩn, sắc uẩn thuộc cái ngã về thân; thọ, tưởng, hành, thức thuộc cái ngã của tâm. Như vậy, Bồ-tát tu sở dĩ được tự tại qua hết khổ ách là do phá được ngã về thân và ngã về tâm.

Sắc uẩn gồm bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Chúng ta ngồi lại xét kỹ, thấy thân này từ tứ đại hợp thành rồi cũng theo tứ đại mà bại hoại mất đi. Nó không có gì thật hết, mà người thế gian mê lầm, nghĩ thân tứ đại là thật, rồi chạy theo những đòi hỏi của nó: mắt chạy theo sắc, tai chạy theo âm thanh, mũi theo mùi hương, lưỡi theo vị, thân theo cảm xúc. Năm phần này nhà Phật gọi là ngũ dục lạc.

Sở dĩ năm căn ưa đuổi theo ngũ dục là vì tưởng lầm nó thật, nên theo hoài không chán, không dừng. Cuộc đời mấy mươi năm chỉ chạy theo ngũ dục cho tới lúc bại hoại, lo cho nó đầy đủ, sung mãn, rốt cuộc rồi cũng đi đến tan rã, không giữ được. Đó là chuyện làm công không vô ích. Cho nên Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ thân tứ đại là do duyên hợp, không thật có. Nhớ nó không thật thì tất cả những xúc chạm đến thân, mình không phản ứng, không tức giận. Thân vô ngã là bước thứ nhất để chúng ta quán xét không lầm lẫn.

Thứ hai là thọ, tưởng, hành, thức. Bốn cái đó thuộc về tâm, cũng vô ngã. Thọ là những cảm xúc. Tưởng là tưởng tượng, hoặc thế này, hoặc thế nọ. Ai tưởng khác với mình thì không chấp nhận. Hành có chỗ dịch là ý chí, có chỗ dịch là tâm ý. Tâm ý chúng ta chuyển dịch, đổi dời luôn luôn. Cũng như khi đi, bước này vừa chạm xuống đất thì bước kế tiếp nối liền. Nó đổi dời liên tục nên gọi là hành. Như vậy tâm trí của mình là dòng chuyển biến không ngừng, không có gì là thật hết. Kế đến, thức là phân biệt, mắt phân biệt sắc, tai phân biệt tiếng... Theo Duy thức học, phân biệt có ba phần: ở trong có căn, ngoài có trần, căn trần tiếp xúc nhau khởi ra thức phân biệt. Như vậy, sở dĩ phân biệt phát sanh là do ba duyên tụ hội: căn, trần và thức, chớ cái thức tự nó không có, đợi đủ duyên mới có.

Như vậy, xét cho tường tận, ngũ uẩn là tướng giả hợp không có thực thể, nên Phật dạy là vô ngã. Trong kinh Bát-nhã nói năm uẩn đều không. Không là không có chủ thể. Nếu chúng ta hằng thấy, hằng nhớ như vậy thì khi có chuyện gì làm cho thân này thua thiệt, ta chỉ cười: “Thân giả dối có gì quan trọng!” Nếu có điều gì xúc chạm đến nội tâm tức thọ, tưởng, hành, thức, ta cũng thấy đó chỉ là dòng chuyển biến hư giả không thật. Phải nhớ rõ như vậy! Cái không thật mà mình cho là thật, rồi sanh ra nóng giận, bực bội, buồn phiền là khờ dại, không sáng suốt.

Mỗi ngày soi xét, chiếu kiến luôn luôn như vậy, trên đường tu chúng ta sẽ thoát ra được những vướng mắc mê lầm. Chẳng những thoát khỏi mê lầm mà còn được an nhiên tự tại. Từ thân tâm vô ngã đó, ta mới nhận ra chân ngã hay Bản lai diện mục của mình, được giải thoát sanh tử.

Vì vậy, muốn tiến tới chỗ giải thoát sanh tử, trước phải nhận ra cái giả, đừng lầm nó. Lầm cái giả cho là thật thì dầu cái thật hiện tiền hiển nhiên mình cũng không bao giờ biết được, vì mãi bám vào cái giả cho là thật rồi thì bao giờ thấy được cái thật! Cho nên biết giả là giả, đừng lầm lẫn thì một ngày kia mình sẽ thấy rõ cái chân thật. Chính đó là đường đưa mình tới giải thoát sanh tử. Vậy mong đại chúng khi tu phải nhận thức cho tường tận. Nếu tất cả Tăng chúng không có bệnh chấp ngã thì tôi nghĩ đây cũng là cõi Cực Lạc rồi, không đợi phải về Tây phương mới có.

Mong toàn chúng ráng tu hành tinh tấn, soi thấy tường tận bản thân và nội tâm mình, đừng lầm lẫn.

Ngày 28-7 Bính Tý (10-9-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, bây giờ tôi có mấy lời nhắc toàn chúng về một điểm trong bản Thanh qui.

Ở đây chủ trương chư Tăng phải sống thanh đạm, đó là điều tôi chú ý nhiều. Chư Tăng nên hiểu rằng chúng ta dù cho có phương tiện để sống đầy đủ, nhưng người quyết tâm tu thì lúc nào cũng phải sống đạm bạc, vì đạm bạc là hạnh tốt. Nếu chúng ta sống quá sung túc, quá dư thừa e tổn phước, đồng thời người khác nhìn vào sẽ phê bình rằng người tu mà thụ hưởng, không hay.

Có một câu chuyện trước đây tôi cũng thường kể cho đại chúng nghe. Năm 1961 tôi bị bệnh phổi, vô nằm bệnh viện Đồn Đất. Những năm đó tôi đi giảng nhiều nên Phật tử thương, họ thuê cho tôi phòng hạng nhất, được săn sóc chu đáo lắm. Khi ấy ở bên phòng hạng nhì có một Linh mục cũng bị đau phổi. Phòng nhì thì hai người ở chung, còn phòng của tôi chỉ có một mình. Những lúc rỗi qua lại thăm hỏi cho vui. Tôi thấy người ta là Linh mục, mình là thầy tu, mà mình nằm hạng nhất còn người ta hạng nhì. Tôi hỏi:

- Sao Linh mục không thuê phòng hạng nhất nằm cho yên ổn?

Ông trả lời:

- Vì tiết kiệm tiền nhà chung nên tôi không dám nằm phòng hạng nhất.

Nghe vậy tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Tôi biết đồng tiền thuê phòng cho tôi là do Phật tử đóng góp chớ không phải lấy của chùa, nhưng tôi cũng cảm thấy áy náy. Người ta biết gìn giữ không làm hao tốn của nhà chung nên nằm như vậy. Tôi xấu hổ vì thấy rằng tinh thần tổ chức trong đạo của mình không được dè dặt, tiết kiệm như người ta.

Chính vì vậy nay tôi nhắc tới nhắc lui cho toàn chúng điều này. Tất cả những gì chúng ta có ở đây là của chung, chư Tăng cần gì có quyền xin mua sắm đúng như nhu cầu, hoặc do ban Quản chúng mua sắm cho, như vậy không có lỗi. Nhưng nếu mua sắm sang là có lỗi, bởi vì sang là quá mức cuộc sống đạm bạc của mình.

Tôi nói thí dụ như trường hợp T.L chẳng hạn, vừa rồi đi mua cặp kính lão, nghe Thủ bổn báo cáo là bốn trăm ba chục ngàn đồng. Như vậy là thiếu sự tiết kiệm của chung. Vẫn biết đây là của chung chớ không phải của cá nhân nào, nhưng mình xài cho vừa phải, đừng quá đáng. Một cặp kính vừa gọng vừa kính chừng hai trăm là được rồi, mua tới hơn bốn trăm tôi thấy sang quá!

Trong đây nếu mỗi người già đều sắm cặp kính như vậy tốn chừng bao nhiêu tiền? Ở đây chúng ta sống theo lục hoà, nếu ông thầy này mua cặp kính như vậy thì ông thầy kia cũng phải vậy, kết quả là chi phí quá nặng. Đó là tôi nói sở phí, lại còn sự phê bình nữa. Phật tử thấy quí thầy ăn mặc sang trọng, mang kiếng tốt ắt sẽ phê bình. Đó là điều cần phải dè dặt, bằng không người ta sẽ phê phán mình ở đây xài sang. Nếu sang thì ý nghĩa cuộc sống đạm bạc đề ra trong Thanh qui đã mất rồi.

Vậy toàn chúng mỗi vị đều phải ý thức rằng chúng ta sống một đời sống đạm bạc, ăn uống chừng mực, mặc vừa đủ ấm. Tất cả nhu cầu cũng vừa phải thôi, theo cái nếp người bình dân chớ không phải theo cách sống của người sang cả. Như vậy chúng ta mới tránh khỏi sự phê bình của người khác. Nếu sống theo lối sang cả là phản bội tinh thần bản Thanh qui mình đã đề ra, đồng thời Phật tử sẽ nói chúng ta ở đây tu mà thích sang. Thích sang tức là tâm tu hành không đầy đủ, thiếu quyết liệt, bởi vì người ham tu không màng vật chất, nên lúc nào cũng đơn giản đạm bạc chớ không thể sang cả được. Nên trong chúng mỗi người phải ý thức rõ mình đang sống một nếp sống đạm bạc để yên tu. Đạm bạc không có nghĩa là thiếu thốn, chúng ta đủ nhưng đủ trong nếp bình dân.

Hồi tôi qua Pháp, có một bà Phật tử xin cúng dường một cái xe mới. Tôi nói:

- Quí Phật tử phát tâm cúng dường như vậy là tốt, nhưng ở Việt Nam đóng thuế mắc lắm, một chiếc xe mới về đóng thuế một trăm phần trăm, có khi hơn nữa, cúng cho tôi một chiếc cũng bằng tôi mua một chiếc nữa, như vậy tiền đâu mà đóng?

Các Phật tử trả lời:

- Chúng con xin chịu hết mọi phí tổn.

Tôi nói:

- Mấy Phật tử thương nói như vậy, nhưng thật ra tôi sống trong Thiền viện còn phải lo cho Tăng Ni, chớ không phải chỉ nghĩ riêng phần mình. Số tiền lớn như vậy nếu tôi nhận, hoặc bằng lòng cho quí Phật tử chịu trọn vẹn để tôi sung sướng sang trọng trong khi Tăng Ni không đủ sống thì tôi không nỡ. Thôi chuyện đó để dành khi khác!

Vậy là tôi từ chối. Quí vị nghĩ xem, được người ta cho, mình khỏi tốn gì hết mà tôi còn từ chối, vì không dám làm cái gì tỏ ra mình sang. Ở đây quí vị thấy, tôi chịu đi mấy chiếc xe cũ kỹ người ta cho, chớ không thích sắm xe mới. Thà Phật tử đến rước giùm hay cho mượn thì xe gì cũng được, còn ở chùa thật tình tôi không muốn cái gì sang hết.

Như vậy chúng ta phải làm sao sống đúng tinh thần đạm bạc. Hơn nữa, quí vị biết trách nhiệm của tôi không chỉ lo riêng Thiền viện Trúc Lâm, mà còn bao nhiêu việc khác nữa, thí dụ như lo cho mấy Thiền viện kia. Cụ thể vừa rồi ở Huệ Chiếu có năm cái thất hồi xưa lợp lá, bây giờ mục hết, mưa dột, đến thưa với tôi: “Thưa Thầy, bây giờ tụi con chỉ đủ khả năng sửa hai cái thôi, còn ba cái kia không biết làm thế nào?” Quí vị nghĩ sao? Tôi phải ứng ra cho họ sửa, đâu có thể chỗ này dư chỗ kia thiếu được. Trách nhiệm của tôi không đơn giản chỉ một nơi, một chỗ, mà chỗ nào rộng tôi đem bù cho chỗ thiếu, chỗ nào có nhu cầu như chùa hư, không có tiền sửa thì mình giúp đỡ.

Như vậy chư Tăng nên hiểu mình không nên nghĩ ở đây dư rồi xài thoải mái. Nếu dư thì phải chia sớt cho chỗ nào thiếu hụt. Chúng ta chưa có khả năng chia sớt cho toàn thể các chùa, thì ít ra cũng chia sớt trong các Thiền viện của mình cho cuộc sống được quân bình, yên ổn để tu. Không phải ở đâu có là ở đó tự hưởng hết, dư hưởng theo dư, thiếu phải chịu thiếu. Điều đó lâu nay tôi đã không đồng ý. Tôi thường trách là trong đạo của mình chỗ thì thừa chỗ thì thiếu, không được quân bình để giúp cho chư Tăng Ni yên ổn tu.

Bây giờ cá nhân tôi không thể nào lo cho tất cả nổi, thì ít ra trong những Thiền viện, chỗ nào rộng phải giúp chỗ thiếu hụt, sang qua sớt lại để trong thời tôi còn sống, các Thiền viện đều được an ổn. Chỗ nào dư để phòng, khi có chỗ nào thiếu mình phụ vô. Như vậy cuộc sống tu hành có đạo vị hơn. Mình chia sớt nhau để được bình an tu hành, đừng nên ỷ viện mình có tiền là cứ xài hết. Nếu có dư phải để phụ chỗ khác thiếu, đừng ích kỷ không tốt.

Đó là những điều tôi nhắc cho toàn chúng biết, chúng ta phải sống cuộc sống rất đạm bạc. Đạm bạc ở đây đồng nghĩa với tinh thần tu thiền không thụ hưởng, không xa hoa, để đời sống mình bình an tự tại, không bị vật chất quyến rũ, lôi kéo, như vậy sự tu hành mới dễ tiến. Nếu chúng ta còn nặng về vật chất, bị vật chất chi phối thì đời tu không tiến được. Đó là điều tôi đã từng thấy và lưu tâm. Bởi vậy tất cả chư Tăng phải hiểu rõ và thông cảm.

Lại nữa, ví dụ ba thầy cùng đi ra với nhau, mỗi thầy đều phải mang kiếng lão, nhưng có thầy mang kiếng tốt, có thầy mang kiếng xấu, người ta đánh giá thế nào? Họ sẽ thắc mắc sao Thầy chủ trương lục hoà mà có kẻ này người khác. Như vậy là không tốt. Vậy nên quí vị ráng cẩn thận, dè dặt. Những nhu cầu mình cần, trước hết nên nhìn lại trong chúng, nhìn chung quanh xem họ có hay không. Đừng nghĩ mình có cứ xài. Dù tiền cha mẹ cho cũng đừng xài quá mức cần thiết, không tốt. Đó là điều tất cả nên lưu ý.

Tôi nhắc nhở ít lời như vậy để toàn chúng biết nếp sống của mình, sao cho khế hợp với sự tu hành, đừng nên làm sai biệt.

Ngày 13-8 Bính Tý (25-9-1996)

Hôm nay tôi có vài điều nhắc nhở đại chúng.

Chúng ta tu là nương theo pháp Phật. Lời Phật dạy không phải chỉ để đọc hoặc giảng nói mà để chúng ta tu. Tu là thực hành lời Phật dạy, dẹp bỏ những xấu dở, điên đảo của nội tâm, chớ không phải chúng ta chỉ có hình thức bên ngoài là người tu, hoặc ngoài miệng tụng kinh là đủ. Nếu quên ứng dụng những lời Phật dạy để tự răn, sửa lấy mình, chừa bỏ những điều hư dở thì chưa hẳn là tu.

Như vậy, chúng ta tu phải khéo ứng dụng hằng ngày, hằng giờ, hằng phút ở nội tâm. Vừa có một niệm xấu dấy lên liền phải ngăn chặn, ngừa đón nó, như vậy là tu. Nếu những tâm niệm xấu dở chúng ta không dẹp bỏ được cũng chưa hẳn là tu. Có nhiều người nói tu nhưng khi gặp việc buồn, hoặc trái ý liền nổi sân. Chúng ta chưa làm chủ được mình nên thân, khẩu, ý dễ tạo nghiệp thành tội.

Cho nên nói tu là nói tới chỗ khéo điều hoà, khéo làm chủ nội tâm, sao cho cuộc sống của mình giữa mọi người luôn đem lại an vui. Nếu với huynh này mình không ưa, huynh kia mình ghét, huynh nọ mình thù..., đó là người thế gian chớ không phải kẻ xuất gia. Người xuất gia thì tất cả những điều đó không nên có. Nhưng nếu không khéo tu lại khó tránh khỏi.

Cho nên ở đây tôi mong tất cả quí vị nhớ trong lục hoà có ý hoà đồng duyệt, không khéo tu thì không bao giờ thực hiện được ý hoà đồng duyệt. Bởi vì ý mỗi người mỗi khác, nên dễ có chuyện bất đồng, rồi tự mình không bằng lòng, không vui nên không “đồng duyệt” được. Phật dạy chúng ta phải tâm ý vui hoà với huynh đệ. Nếu có những ý kiến sai khác, mình cũng phải khéo điều hoà, đừng để trở thành bực bội hay chống đối, thù ghét.

Người tu chúng ta cần sống trong ý hoà đồng duyệt, bằng không mỗi người là một vũ trụ riêng, không ai hợp với ai được, đó chính là cái họa của Phật pháp. Nghĩa là chư Tăng, chư Ni rất đông mà không thể hoà hợp thì đạo pháp sẽ đi tới chỗ suy vong. Chỉ vì người này chỉ trích người kia, người kia phê bình người nọ, cứ như vậy mà bao nhiêu phiền hà, hư dở xảy ra liên miên, khiến cho tất cả Phật tử chán ngán, không còn muốn đến với đạo nữa. Chúng ta tu mà đem lại bất mãn cho Phật tử thì Phật pháp khó truyền bá sâu rộng.

Bởi vậy chúng ta phải khéo điều phục nội tâm mình, đừng để nó dấy động khiến huynh đệ sanh ra buồn phiền không tốt. Trong cuộc sống chung tu hành, nếu chúng ta không xem nhau như ruột thịt thì cũng phải thấy như người cùng lý tưởng. Do đồng lý tưởng nên phải khéo hoà hợp để chung lo, chung sức làm được những Phật sự tốt trong ngày nay và cả mai sau, như vậy Phật pháp mới lâu bền. Nếu mỗi người cứ giữ lập trường: ta hơn hết, ta trong sạch, còn người khác là xấu dở, ngu ngốc..., đó là hỏng lớn, chỉ làm cho tập thể mình ngày càng suy lụn, có tội rất nặng.

Vậy mong rằng tất cả chúng Tăng nhớ kiểm điểm lại mình, nếu thấy còn những ý niệm dở, buồn giận người này, ghét hiềm người nọ thì phải xóa sạch và điều hoà lại để sống với nhau cho vui vẻ, yên hoà. Được như vậy mai kia tôi có theo Phật, quí vị mới chung nhau lo Phật sự được. Nếu bây giờ ở chung mà không ai bằng lòng ai, đến khi tôi mất rồi làm sao hợp tác chung lo? Phật sự không phải một mình có thể làm được mà phải nhờ nhiều người. Kẻ hay điều này, người khéo việc kia, chung vai gánh vác mới có kết quả. Đừng bao giờ nghĩ một mình là đủ, không cần hợp tác với ai.

Tu không phải chỉ tụng kinh hay, thuyết pháp giỏi, mà tu là khéo điều phục được những ý niệm xấu dở, những tâm hành ngã mạn, kiêu căng của mình, trở thành con người ôn nhu, khiêm tốn, thuận thảo, sống hoà vui với tất cả. Đây là cái khéo trên đường tu, cũng là nền tảng để mai kia mình làm được Phật sự lớn lao cho đạo. Đó là lời nhắc nhở của tôi.

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 28-10 Ất Hợi (19-12-1995)

Hôm nay Thầy có những điều nhắc nhở toàn chúng.

Ở đây, với tinh thần Thiền viện, Thầy sẵn sàng để ngỏ, khi nào có ai chán ở đây cứ thưa rõ, Thầy cho đi liền, lại có tiền xe đi, còn nếu trốn thì không có tiền xe. Cứ việc thưa: “con không thích ở đây nữa, cho con đi chỗ khác”, Thầy cho đi liền, không bao giờ ngăn một lời, sẵn sàng cho đi không có điều kiện gì hết, cũng không khuyên răn, rầy phạt hay bắt bồi hoàn gì. Xin là cho đi ngay.

Thầy từng nói với tất cả tụi con, Thầy muốn những người tới đây đều quyết tâm nhiệt tình tu giải thoát sanh tử, nên Thầy tạo duyên cho tu, còn ai không thích ở nữa, muốn rời đi chỗ khác, Thầy sẵn sàng vui vẻ cho đi để người khác đến tu. Chính bây giờ còn nhiều người xin mà Thầy không nhận vì chỗ có giới hạn, khi nào ai vắng Thầy cho người khác vào, chớ không phải vì sợ không có chúng mà giữ lại. Giả sử ở đây còn chừng mười người mà quyết tâm tu Thầy cũng hoan hỉ như thường, chớ không cần đông số lượng để khoe người ta. Thầy không chủ trương như vậy.

Cho nên, cửa Viện để ngỏ, tụi con đứa nào không thích ở đây nữa cứ thưa, Thầy nói Thủ bổn cho tiền xe đi, chớ không ngăn, không rầy. Đừng muốn đi rồi trốn, người ta sẽ nghĩ ở đây chắc Thầy khó khăn lắm, sợ bồi hoàn gì đó nên phải trốn đi, không dám thưa trình. Đó là điều không tốt, làm cho người ta nghĩ xấu về Thiền viện.

Từ xưa tới giờ, Thầy thâu đệ tử hay thâu chúng ở các Thiền viện, Thầy thường nói vô thì khó mà ra rất dễ. Tại sao vậy? Vì vô phải có đủ điều kiện, có cha mẹ cho phép, có giấy tờ hợp pháp Thầy mới nhận. Còn ra thì vị nào có ý chán không thích ở nữa Thầy cho đi, không bao giờ ngăn. Thầy không sợ mất người, mất số Tăng Ni rồi Thiền viện mình vắng, ít. Thầy không có quan niệm đó.

Thầy từng nói với tụi con, Thầy làm Phật sự là vì chúng sanh chớ không phải cho bản thân Thầy, hay vì củng cố địa vị. Thấy tụi con quyết tâm nên Thầy tạo duyên cho tụi con tu. Nếu người lớn không tạo duyên cho người nhỏ tu, đó là lỗi của người lớn. Vì Thầy thấy các nơi, người mới xuất gia rất tốt. Xuất gia thời gian lâu rồi thối tâm, đó là lỗi của người lớn không khéo sắp đặt, không hướng dẫn đúng mức.

Ở đây Thầy chủ trương rõ ràng: chỉ một việc tu thôi, không có việc gì khác. Bởi vậy nên cấm đi đây, đi kia là muốn cho tụi con yên tu. Cấm không được kết bè bạn vì sợ tụi con phiền não, rối tâm tu không được. Cấm không cho giữ tiền bạc vì sợ tụi con bận lo lắng này kia. Cấm làm những chuyện phi pháp vì sợ tụi con lãng phí thời giờ vô ích. Tất cả những cấm đoán đó là vì tụi con, muốn tụi con trong thời gian ở đây năm, mười năm tu có kết quả tốt, mỗi đứa đều có tiến, dù không tới chỗ cao tột cũng phải có tiến, chớ không phải ở đây đi ra rồi cũng như hồi mới đến.

Bởi trách nhiệm đó nên Thầy cố gắng tạo duyên cho tụi con tu. Mà tạo duyên thuận trên đường tu thì nghịch trên đường đời, phải không? Ba mẹ bệnh không cho về lâu, bạn bè gởi thư lên không trả lời, cũng không rủ lên thăm, đó là trái với đời. Chính vì trái với đời mà thuận với đạo. Đó là kinh nghiệm bao nhiêu năm của Thầy ở Phật học đường.

Từ nhiều năm nay Thầy lo cho Tăng Ni tu hành, Thiền viện này là chuyến chót. Thầy dồn hết sức lực, hết khả năng để lo cho tụi con yên tu, làm sao để năm bảy năm tụi con tu có kết quả thật sự Thầy mới vui. Bởi vậy cái gì lo được cho tụi con Thầy đều ráng lo. Chỗ tận lực của Thầy, ai quyết tâm tu sẽ thấy, còn đứa nào mãi theo các duyên bên ngoài thì không thấy.

Không phải Thầy kể công với tụi con, mà muốn cho tụi con biết rằng bổn phận của người lớn là lo cho có người sau tiếp nối. Ngọn đèn trước sắp tắt, ngọn đuốc trước sắp tàn, thì phải có ngọn đèn sau, cây đuốc sau nối tiếp. Đó là trách nhiệm của người đi trước. Không phải Thầy lo cho tụi con học giỏi, học hay, có danh tiếng để Thầy nhờ. Thầy không nghĩ vậy. Thầy nghĩ cái gì người trước làm được thì người sau phải kế thừa, tiếp nối, cho mỗi ngày mỗi tốt hơn, sáng hơn, chớ không để tối tăm, mờ mịt. Đó là chỗ Thầy trông đợi và quyết tâm làm cho được.

Vì vậy, ai quyết tu thì những cái nghịch với thế gian phải cố gắng chấp nhận làm cho được. Đồng thời những cái thuận với sự tu cũng phải làm cho được, đừng có lơ lửng mất hết thì giờ quí báu. Tuổi tụi con còn thanh niên, còn đủ sức lực, đủ sáng suốt, phải ráng thực hiện cho được. Đừng để mai kia già yếu, muốn vươn lên cũng không được. Nên thời gian ở đây là thời gian quí báu chớ không phải thường, tụi con đừng xem thường cái quí báu của mình. Mỗi đứa phải cố gắng thực hành cho tốt.

Hiện nay việc ăn, mặc, ở đối với tụi con đã tạm đủ, tới uy tín Thiền viện Thầy cũng gây được cho tụi con. Đã tạo uy tín lớn cho tụi con rồi, Thầy rất lo ngại mai kia tụi con ra, không đúng như những gì người ta tin tưởng, đó là điều đáng tiếc.

Bởi vậy Thầy mong tất cả tụi con, đứa nào cũng ráng tu, nghĩa là những gì người ta trông đợi tụi con mười phần, ít ra cũng phải được năm, bảy phần, chớ rồi không có gì hết là rất dở.

Tụi con thử nghĩ, từ ngày ở Chân Không cho tới nay là bao nhiêu năm? Hồi ở Chân Không không ai biết tới thiền, Thầy cố gắng một mình vận động, tu hành, giảng dạy khiến cho nhiều người trong nước được biết, rồi đến những người ở nước ngoài cũng biết, rằng Phật giáo Việt Nam có những cái rất hay.

Chỉ cá nhân Thầy thôi mà đã gây được uy tín như vậy, tụi con Tăng Ni dồn lại mấy trăm người, nếu đứa nào cũng nỗ lực tu học, thâm nhập lý thiền, thấy rõ đường lối của chư Tổ Việt Nam, nhận được cái hay đó đem ứng dụng vào đời sống của mình được kết quả tốt, thì mai kia người ta sẽ thấy Phật giáo Việt Nam có những cái kỳ đặc. Thầy thường nói với những người tới hỏi han về đường lối tu ở đây rằng Thầy đang làm bổn phận của Thầy:

- Một là tạo hình thức về kiến trúc Thiền viện thuần túy Việt Nam. Điều đó Thầy đã làm được.

- Hai là Thầy ráng giảng cho hết những tài liệu của Thiền học Phật giáo Việt Nam để in thành sách.

- Ba là tạo duyên cho Tăng Ni tu có kết quả.

Thầy thường nói, dù mình khen Phật giáo Việt Nam hay đến thế nào, nếu người tu theo không ra gì, rốt cuộc lời khen ngợi tán thán của mình chỉ là lời rỗng, không có ý nghĩa. Vì vậy, Thầy vừa tán thán Phật giáo Việt Nam, vừa phải cố gắng tạo điều kiện tốt để tụi con tu theo cho có kết quả. Mai kia người ta thấy lời của chư Tổ rất hay, nhìn lại sự tu của tụi con cũng hay, chừng đó mới tin chắc Phật giáo Việt Nam thật là cao quí. Nếu chúng ta nói hay mà làm không được, làm sao người ta tin?

Vậy nên Thầy nhắc nhở tụi con, đứa nào có duyên đến đây thì phải quyết tâm tu, tu làm sao cho có kết quả tốt. Đó là tụi con đáp lại sự mong mỏi của Thầy, đáp lại sự trông đợi của Phật tử. Nếu tụi con lơ là, phí thời giờ vô ích, đó là tụi con không làm tròn bổn phận của mình, làm cho Phật giáo Việt Nam ngày mai không còn có giá trị đúng như thuở xưa.

Hôm nay, nhân H.C trốn đi, Thầy nhắc lại cho chúng biết rõ ràng mục tiêu Thầy nhắm. Thầy không bao giờ thấy người đó đi rồi mà Thầy hối tiếc. Bởi vì, ai không muốn ở Thầy rất hoan hỉ cho đi. Nhưng Thầy trách một điều là ở đây Thầy để ngỏ mà không đi ngõ chánh, lại chui rào, đó là đáng trách. Nếu ai muốn đi cứ đến thưa đàng hoàng Thầy cho đi ngay, đừng chui rào không hay. Thầy nói cho tất cả tụi con hiểu, nên theo đó thực hành.

Ngày 15-11 Ất Hợi (5-1-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay xét thấy trong chúng có những lỗi nhỏ đều biết sám hối để chừa bỏ, đó là rất tốt. Nay có những sơ sót đó, tuy nhỏ không đáng kể nhưng là cái mầm, nếu biết chừa và trừ dẹp thì lỗi lớn không xảy ra.

Hôm nay Thầy nhắc chung tất cả, chúng ta là người tu, dù ít dù nhiều đều đã nhận định được đâu là thông minh sáng suốt, đâu là mù tối mê mờ. Tất cả tụi con đều có lý tưởng cao cả, có chí nguyện quyết cầu giải thoát sanh tử đã nguyện hứa từ khi phát tâm xuất gia cho đến hôm nay. Vì tụi con có nguyện lớn đó, nên phải biết thận trọng đừng nuôi dưỡng ba độc tham, sân, si.

Ba độc là nhân dẫn chúng sanh tới con đường sanh tử đau khổ, đưa mình đọa trong ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cái đau khổ của kiếp người còn rất nhẹ so với địa ngục. Ở đó một ngàn lần khổ, thế gian chưa có khổ nào bằng, vậy mà người thế gian đã đổ biết bao nhiêu nước mắt, thì cái khổ địa ngục biết ngần nào tính kể! Nhẹ nhất trong ba đường ác là súc sanh như bò, trâu, dê, chó… Những con vật đó mình thấy dường như ít khổ, nhưng thật ra chúng khổ dai dẳng. Chẳng hạn như những con chó chùa nuôi, mình thương, săn sóc, cho ăn uống đầy đủ, nhưng nó lúc nào cũng ngứa ngáy, nằm đâu gãi đó, lăng xăng đủ thứ. Đó là cái khổ tự thân của chúng, ngoài ra vì ngu khờ dại dột, chúng làm những điều trái ý người, nên bị rầy la đánh đập... Đó là nói sơ cái khổ của các loài.

Bởi vậy, biết tu rồi tụi con phải hằng tỉnh giác, đừng nuôi dưỡng cái nhân đi trong ba đường ác. Trái lại, phải gỡ bỏ hết các mầm xấu xa đó để vươn lên, vượt hẳn những con người tầm thường, thành bậc Thánh nhân, chớ đâu thể chấp nhận tầm thường mãi. Nếu còn nuôi dưỡng tham, sân, si là không nhớ tới lý tưởng cao siêu của mình nữa.

Trong khi tu, không thể một lúc bừng giác ngộ liền, mà phải thường tỉnh sáng, các nhân xấu đưa tới chỗ đọa tụi con phải trừ dẹp. Dẹp những cái đó trước, rồi các quả cao siêu mới đến với tụi con được. Ngồi đó mong giác ngộ mà những điều xấu dở lại nuôi dưỡng thì làm sao được quả tốt. Vậy nên tụi con luôn kiểm điểm lại tâm mình, đừng để cho tham, sân, si che lấp, lôi kéo đi trong ba đường xấu ác. Dẹp hết ba độc thì tâm tỉnh giác mới hiện tiền, bằng không chỉ là mong rỗng.

Tụi con nên dè dặt, cẩn thận trong cuộc sống chung đụng giữa mình với huynh đệ. Khi tụi con thấy bản thân mình đang gỡ bỏ ba độc thì cũng nhắc cho huynh đệ gỡ bỏ, dứt trừ, như vậy mới đồng tiến, đồng vươn lên. Nếu mình nuôi dưỡng ba độc thì người khác cũng dễ nhiễm theo, phải không? Ví dụ mình nổi sân nói bậy, người kia cũng nổi sân nói bậy lại, như vậy gây ra một đám sân si với nhau.

Cho nên trong chúng, một người tu được tốt, được hay thì những người khác từ từ bắt chước theo. Ngược lại, có một người xấu cũng sẽ gây mầm ung độc cho bao người. Vậy nên tụi con ráng dè dặt, chúng ta tu đừng mong cái gì cao siêu đến, mà phải hằng tỉnh giác dẹp bỏ những thứ dở xấu đang che đậy nội tâm mình. Đừng ngồi mơ ước một hôm nào đó mình sẽ phát hào quang, thấy được mười phương thế giới. Mơ ước vậy mà ai động tới liền nổi sân thì có mâu thuẫn không?

Không có ông Phật nào còn tham sân si. Ba món đó hết mới đạt được Phật quả. Nên tụi con phải ráng nhìn lại mình cho thật tường tận để gạt bỏ hết những thứ hư dở, chính mình được an nhiên thanh tịnh rồi, mai kia mới được giác ngộ. Đó là điều Thầy nhắc tụi con nhớ, nhớ cho thật kỹ, thật sâu để sự tu hành của mình đúng với nhân, đạt đến quả. Đừng mong quả mà không chịu tu nhân. Nhân sạch tam độc mới có quả giác ngộ. Đó là điều chắc chắn không nghi ngờ. Vậy tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-11 Ất Hợi (18-1-1996)

Hôm nay có ít lời nhắc nhở tụi con.

Trong kinh dạy: “trực tâm là đạo tràng”, tức là người biết giữ tâm ngay thẳng chân chất thì gần đạo, sống đúng với đạo. Tụi con sống với Thầy, với ban Lãnh đạo và huynh đệ, cần cái gì nên nói thẳng cái ấy, không giấu giếm, không sợ sệt gì hết, bởi vì đó là chuyện thật có sao nói vậy.

Tụi con cứ thật thà ngay thẳng với nhau thì cuộc sống sẽ đem lại một tình thương. Chính nhờ chân thật mới có lòng tin. Người ta thường nói “tin yêu”, nghĩa là có tin mới có thương mến, nếu không tin không bao giờ thương được. Vì vậy toàn chúng phải tập, thấy thế nào thì nói thế ấy, nghe thế nào thuật lại như vậy, đừng nên tô điểm thêm theo ý riêng của mình rồi sanh ra nghi ngờ huynh đệ.

Lúc nào tụi con cũng thành tâm nhiệt tình nhắc nhở nhau trên sự tu hành, luôn luôn phải có lòng chân thật thương giúp nhau, thấy cái gì trở ngại chướng đạo phải răn nhắc nhau để chừa bỏ. Làm sao cho Thầy thấy tụi con yên ổn tu học tiến bộ Thầy mới yên tâm, đồng thời những người chịu trách nhiệm trong chúng mới có thể vừa lo cho tụi con, vừa được tu thanh tịnh.

Nếu tụi con thiếu thật thà ngay thẳng hay nghi ngờ nhau, sẽ làm trong chúng xáo trộn. Từ sự xáo trộn đó, việc tu của tụi con không an thì tất cả sự trông đợi của Thầy không bao giờ có kết quả. Thầy không mong tụi con nói những điều cao siêu, chỉ mong trong cuộc sống thực tế gần gũi, tụi con thật thà với nhau và thật thà với người trên. Như vậy tụi con dễ tu dễ tiến, vì đường tu là con đường đạo đức, đạo đức quí trọng tâm thật thà ngay thẳng. Thiếu thật thà thì không thể có đạo đức.

Phật dạy người cư sĩ giữ năm giới, trong năm giới có giới không nói dối. Huống nữa chúng ta xuất gia rồi, thọ Tỳ-kheo rồi, lại còn những lời nói trái với lẽ thật, không tốt. Nên Phật thường răn dạy chúng ta tu “trực tâm”, tức là tâm ngay thẳng. Chính nhờ tâm ngay thẳng, chúng ta gần đạo và sống đúng với đạo, cho nên nói “đạo tràng”. Nếu tâm mình quanh co là trái đạo, dù cho ngồi trong chùa hay trước Phật cũng không gần Phật được.

Vậy nên người biết tu phải dè dặt tự ngừa đón, những gì mình thấy có vẻ quanh co không được ngay thẳng thì sửa liền, đừng để thành bệnh. Tất cả chúng ta đang tu chớ không phải Thánh nên vẫn còn cái xấu. Nay học lời Phật, Tổ dạy, nghe lời Thầy nhắc nhở cố gắng sửa, nhờ sự sửa đổi đó mai kia tụi con mới hay, tốt và đạt được đạo. Biết rõ như vậy, chúng ta đồng cố gắng chuyển hoá từ tâm phàm tình lần lần thành tâm trong sáng, đầy đủ trí tuệ và tình thương để tự mình giác ngộ rồi dìu dắt mọi người.

Nếu chúng ta tâm không ngay thẳng, không chân thật thì làm sao có được trí tuệ và lòng từ bi? Bởi vì trí tuệ là thấy đúng như thật, từ bi là lòng thương chân thành, chớ không phải tình thương ngoài miệng hoặc chiều uốn. Huynh đệ thương nhau vì cùng chung lý tưởng giải thoát, cùng nhau giúp đỡ tu để có kết quả tốt, đó là tình thương chân chánh. Nếu thương nhau vì tình cảm riêng tư quanh co, đó là lòng tà. Trí tuệ cũng vậy, nếu người thấy đúng như thật rồi dạy người khác cái thấy biết đó để ứng dụng tu hành giải thoát gọi là chánh trí. Ngược lại, trí khôn ngoan xảo ngụy là tà. Tà trí hay thế trí không phải là trí giác ngộ giải thoát.

Vậy nên tụi con phải tập thấy biết đúng như thật, có tình thương đúng như thật và đối với người, lúc nào cũng xử sự đúng như thật. Được như thế, tụi con sẽ là người mẫu mực tu hành, có đủ tư cách để hướng dẫn người sau. Nếu không như vậy, chính mình không ra gì làm sao dìu dắt người khác được.

Thầy mong tất cả tụi con sống đúng như thật, thấy nghe, chỉ dạy hay nói năng đều giữ tâm chân thật.

Ngày 28-12 Ất Hợi (16-2-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay chỉ có những lỗi nhỏ, tụi con biết sám hối sửa đổi là tốt. Nếu lỗi nhỏ mà không sửa, lần lần thành lỗi lớn, làm chướng ngại sự tu của mình.

Thầy lúc nào cũng mong mỏi, trông đợi tụi con cố gắng. Một là tự tu, tâm mình càng ngày càng thanh tịnh sáng suốt. Hai là đối với chị em chung quanh thường hướng dẫn, giúp đỡ, nhắc nhở, sao cho tất cả trong chúng trở thành người hay, người tốt. Phải đầy đủ cả hai phần trí tuệ và đạo đức chớ không thể chỉ có một bên. Kẻ dở mà biết tu sửa sẽ trở thành hay, còn người hay mà cố chấp những bệnh của mình rồi cũng thành dở.

Thầy mong tất cả tụi con, khi biết mình còn những sơ sót vì thói quen tập nghiệp cũ, nay được nhắc nhở, chỉ bảo phải cố gắng sửa. Như thế từ đây về sau mới trở thành người tốt. Thầy lo lắng cho tụi con, không phải vì muốn có đông người tu để được tiếng tốt cho Thầy, cũng không phải cố kềm tụi con trong hình thức thời khóa, nói năng, đi đứng nghiêm chỉnh để cho người ta thấy mà nể phục. Điều Thầy lo là làm sao khi Thầy nhắm mắt rồi, tụi con đủ khả năng gánh vác chút ít Phật sự, duy trì chánh pháp trong thời hiện tại này.

Cho nên Thầy muốn tụi con là những người quyết tâm tu hành. Quyết tâm thì trên đường tu sẽ có những cái hay, lúc ấy tụi con nghĩ thương những người chưa biết, chưa sáng, cố gắng trợ giúp họ. Những người mới tới với tụi con không thể nào đầy đủ tất cả các hạnh. Tụi con chỉ cần sống đúng tư cách một người tu hành có đức hạnh thì những người sau đến đây, được tụi con hướng dẫn cũng sẽ có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh. Như vậy mới có thể duy trì được Phật pháp lâu dài.

Nếu có hạnh mà không có trí cũng khó làm lợi cho đạo. Còn có trí lại không hạnh thì không đủ tư cách để người ta quí mến, cũng không lợi cho đạo bao nhiêu. Vì vậy cả hai mặt, tụi con cố gắng giữ tròn thì mai kia mới làm được nhiều điều lợi ích. Được vậy, tụi con sẽ thẳng tiến trên con đường tu hành lợi mình lợi người đầy đủ.

Chúng ta tu, nếu không nghĩ tới lợi ích chung cho chúng sanh, thì lối tu đó chưa thật tình theo Phật, vì đạo Phật không cho phép ích kỷ, trái lại phải luôn luôn có tâm từ bi. Mình lợi lạc được bao nhiêu thì đem chỉ dạy người khác cũng được lợi như mình. Không phải mình tu phần mình, còn ai sao mặc kệ.

Thầy mong tất cả tụi con, một năm qua là một bước tiến, những gì còn vướng mắc trong năm bây giờ bỏ hết để chuẩn bị qua năm mới có những cái hay hơn, tốt hơn. Đó là sự trông đợi của Thầy.

Ngày 13-1 Bính Tý (2-3-1996)

Hôm nay là buổi thỉnh nguyện đầu năm, trong chúng thấy có ít lỗi không đáng kể. Tất cả tụi con tu hành trong một năm qua chắc chắn nội tâm có những chuyển biến tốt. Sống chung trong chúng tụi con không còn phiền hà nhau, không còn những sai sót đáng trách nữa, đó là điều đáng mừng.

Như trong kinh A-hàm kể rằng: Khi Phật thấy chư Tăng hoà hợp chung sống với nhau liền khen: “Hạnh phúc thay, Tăng già hoà hợp!” Khi xưa, chúng Tăng hoà hợp tu hành vui vẻ được tán thán, đó là hạnh phúc, là bước tiến đáng kể của người xuất gia. Hôm nay tụi con sống trong đoàn thể bốn, năm mươi người cũng được hoà hợp tu hành yên ổn, thật là tốt!

Có những người nhập thất năm, ba tháng có được những bước tiến đáng mừng, nhưng khi ra khỏi thất, đối duyên xúc cảnh, lâu lâu cũng bị xao lãng. Ở đây tụi con tuy không có những bước tiến vượt bậc đó, nhưng mỗi ngày tu đều đặn, sống trong huynh đệ đông đảo, thông cảm và tha thứ nhau, giúp đỡ nhau nên không có chuyện gì đáng trách xảy ra. Như vậy, tuy sống trong chúng nhiều người mà lòng không phiền não, tâm vẫn an ổn. Đó là một điều rất tốt, chứng tỏ tập khí tụi con có phần giảm nhẹ, không sanh bỉ thử, thị phi nên sống trong hoà hợp. Tuy tụi con không tiến nhanh, chỉ từng bước đều đều, nhưng bước nào vững bước ấy, thì tới một ngày nào đó tụi con sẽ đủ sức, đủ điều kiện bước ra khỏi Thiền viện để làm Phật sự không ngại. Người xưa thường nói: “Đức chúng như hải.” Tụi con ở trong đoàn thể, cùng nhau tu hành, sống theo nếp đạo thì phước đức dần dần được tăng trưởng.

Tụi con sống trong chúng coi như thường nhưng người ngoài thấy nếp sống, nếp tu hành của tụi con, họ rất hoan hỉ. Dù không giảng nói một câu nào, nhưng hành động và sự tu hành vững chắc của tụi con người ta nhìn thấy đều phát tâm, tùy hỉ. Đây là một điều đáng mừng. Vì vậy Thầy thường nhắc tụi con hãy lo tu, tu cho đúng tinh thần đạo lý, đó chính là truyền bá Phật pháp. Tụi con chỉ yên lặng tu, nhưng nhờ có đức hạnh mà người ngoài cảm mến quí phục. Từ tâm cảm mến quí phục đó họ tiến gần với đạo.

Thầy thường nói đây là thời mạt pháp, có nhiều điều phức tạp, trong giới tu hành xảy ra những chuyện không vui. Vậy mà tụi con khép mình vào đây, chịu sự hướng dẫn của Thầy, hoà hợp trong tình huynh đệ, quyết chí lo tu. Tuy chưa làm gì quan trọng, nhưng chính nhờ chỗ tu hành miên mật của tụi con mà Phật tử đặt nặng lòng tin, xem là nơi nương tựa. Nếu số Tăng Ni đông mà tìm không ra người quyết tâm tu đúng với tinh thần đạo đức, hoặc ở chung một chỗ một nơi mà không hoà hợp với nhau thì lòng tin của Phật tử sẽ mất từ từ.

Là người tu, chúng ta có bổn phận giữ gìn ngôi Tam Bảo mãi trường tồn, mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn. Chúng ta còn phải làm sao cho lòng tin Tam Bảo của Phật tử mỗi ngày mỗi vững mạnh hơn, khiến họ luôn giữ được tâm mến đạo kính Tăng. Vì vậy, đầu năm Thầy thấy tụi con hoà hợp, nương nhau tiến tu, Thầy rất vui mừng. Mong rằng nề nếp này được duy trì mãi mãi, để tụi con bước từng bước vững chắc đến chỗ viên mãn. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Ngày 28-1 Bính Tý (17-3-1996)

Phần thỉnh nguyện xong, Thầy có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Gần đây Thầy có đọc một quyển sách khoa học có liên hệ đến người tu thiền. Trong đó người ta cho rằng những người suy nghĩ nhiều cái đầu thường nóng, nên bị yểu, sống không lâu; còn người tu thiền để tâm yên không suy nghĩ, không dấy động, nên trong đầu mát dịu có thể sống dai. Họ còn nói người ở xứ lạnh dễ sống dai hơn người xứ nóng. Bởi vì người xứ lạnh như được ở trong tủ lạnh hoài nên mát mẻ, không chết yểu. Ở xứ nóng đã nóng nực, còn thêm suy nghĩ, thần kinh căng thẳng rất có hại cho sức khoẻ.

Ngồi thiền tuy không bị căng thẳng nhưng do tập trung nhiều nên hơi ấm xông lên. Bởi vậy khi ngồi thiền tụi con hay đội mũ, quấn khăn là không tốt, phải để cho cái đầu thoáng mát mới dễ chịu.

Trừ hôm nào lạnh quá thì đội mũ sợ lạnh lỗ tai bị cảm, còn thường nên để đầu trống, khi hơi ấm xông lên không bị nhức đầu. Thầy tối ngồi thiền cũng bỏ mũ không đội, chỉ trừ khi trời gió. Thầy nói cho tụi con hiểu, nhiều khi tụi con không biết, tưởng giữ ấm là không bệnh, chính như vậy mới là bệnh. Khi nào đầu mới cạo, sợ lạnh đầu bị cảm mới cần đội mũ.

Ngày 13-2 Bính Tý (31-3-1996)

Tất cả trong chúng đều cố gắng nỗ lực tu hành, nên những lỗi lầm ngày càng giảm bớt, Thầy rất hoan hỉ.

Kế đây Thầy nhắc tụi con, ở trong chúng nên dè dặt cẩn thận, đừng nói thị phi, vì thị phi dễ gây mích lòng người này người kia, sanh chuyện không tốt. Thị là phải, phi là quấy, nói người này phải, người kia quấy thì người quấy thế nào cũng buồn. Chúng ta nên dè dặt, đừng nói việc phải quấy của huynh đệ. Như có trách nhiệm trưởng liêu, huynh đệ sai, mình chỉ. Khi không có trách nhiệm gì, nếu huynh đệ yêu cầu chỉ chỗ sai trái, mình cũng vui vẻ chỉ cho. Nếu người ta không muốn mà mình chỉ, người ta sẽ phiền não.

Bệnh của con người, ai cũng như ai, ngồi lại một hồi là kể chuyện người này hay người kia dở. Người xưa thường nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan.” Chỉ khối sắt biến thành vàng chuyện đó dễ làm, khuyên bảo người ta bỏ thị phi còn khó hơn. Thật ra, điều này bên Ni dễ phạm hơn Tăng. Phái nữ tụi con tuy không nổi sân to tiếng, nhưng hay kể lể khen chê, sanh ra giận hờn nhau làm nội tâm dấy động, trở ngại việc tu hành.

Bởi vậy Thầy khuyên tụi con chỉ nên nói chuyện vui vẻ với nhau. Chúng ta người nào cũng còn tâm chúng sanh, hoặc nhiều hoặc ít. Trong đó có đủ cả dở lẫn hay chớ chưa ai hoàn toàn thánh thiện. Nếu thấy huynh đệ nào có tật xấu mà không biết sửa, nói ra mích lòng, thì đến kỳ thỉnh nguyện trình lên trước đại chúng Thầy sẽ nhắc cho. Ở đây Thầy chịu trách nhiệm rầy nhắc tụi con. Thầy nhắc rồi thôi, không ôm ấp trong lòng, còn tụi con tâm phàm phu hơi nhiều, ai hay thì khen, dở thì chê, không phải nói một lần mà nhắc đi nhắc lại năm bảy lượt, khiến người nghe sanh phiền não.

Vì vậy tụi con dè dặt bớt nói phải quấy, chỉ cần bàn nhắc nhau những gì chưa hợp với đạo lý rồi bỏ, cái nào hợp đạo lý thì tu. Sống trong chúng, tụi con nên sách tấn nhau về việc tu hành chớ đừng gây phiền não cho nhau. Lỗi thị phi rất nặng, bỏ rất khó. Điều hết sức khó làm mà tụi con làm được mới hay.

Thầy nhớ trong bài Sơn Phòng Mạn Hứng của vua Trần Nhân Tông khi ở trên non Yên Tử có câu đầu là: “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc.” Ngài diễn tả niệm thị phi của Ngài giống như những cánh hoa rơi lả tả. Tụi con tu làm sao cho niệm thị phi rơi từng cánh, sáng ra thấy nó rụng hết, trơ trụi chẳng còn gì.

Người xưa cũng khổ vì thị phi chớ không riêng gì tụi con. Đây là bệnh chung. Tụi con thấy có lắm vị làm Pháp sư giảng kinh rồi cũng chỉ trích người này người kia, đó cũng là thị phi. Người lớn còn vậy huống là nhỏ như tụi con làm sao tránh khỏi điều đó. Chúng ta tu để được an ổn thì những cái chướng đạo, những điều không thanh tịnh phải bỏ. Cố gắng tập rồi sẽ bỏ được chớ không khó. Đó là điều Thầy nhắc trong chúng, mỗi đứa tụi con nên cố gắng.

Điều thứ hai tụi con phải tập là ái ngữ. Tại sao lời nói của mình người khác nghe khó ưa? Mình nghĩ tại người ta có ác ý với mình. Không phải đâu! Do lời nói mình có vẻ xẵng quá hay chua chát quá, người ta khó thương. Nên phải tập nói năng nhẹ nhàng, tao nhã một chút, mới dễ nghe, dễ mến.

Ái ngữ là một trong Tứ nhiếp pháp. Không phải mình nói lời chiều lòng người để cho họ thương, nhưng người tu lúc nào cũng phải nhẹ nhàng, dù cho mình nhắc nhở người những điều sai lầm, họ nghe rồi cũng không giận. Còn những lời nói không khéo, dù cho người ta quấy một trăm phần trăm mà nghe mình nói họ giận liền. Đó là tại ngôn ngữ mình thiếu ái ngữ.

Muốn giáo hoá hay làm lợi ích cho chúng sanh, tụi con phải dè dặt, tập lời nói sao cho êm ái nhẹ nhàng, tao nhã, đừng nên thô xẵng. Khi nào nổi giận thì đừng nói, vì nói ra không bao giờ êm ái được. Nếu cảm thấy trong lòng bực bội, hãy bỏ đi chơi một hồi, chừng nào dịu lại rồi nói. Bởi vì chúng ta tuy bớt được tham, sân, si thô nhưng vẫn còn phần tế. Nó vẫn còn, khó mà hết được, nên khi trong lòng đang khó chịu, nếu ta nói nó sẽ tuôn ra theo ngôn ngữ. Do đó, tụi con phải khéo, dù ở hoàn cảnh nào cũng xử sự một cách nhẹ nhàng, êm ái, từ lời nói đến hành động đều dễ thương và có đạo đức. Đừng nên nói xẵng lè, nghe chát lỗ tai, như vậy người ta sẽ cười: “Quí vị này tu cái gì mà ăn nói không êm ái chút nào hết!”

Thầy mong tụi con ráng tập, tuy nó không phải là điều thiết yếu trên con đường giải thoát, nhưng nó cũng trợ duyên cho sự giải thoát và sự giáo hoá chúng sanh nên mình không được xem thường. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay, mong tất cả cố gắng.

Ngày 13-3 Bính Tý (30-4-1996)

Đây là lời nhắc nhở toàn chúng. Sau chuyến đi Hà Nội về, Thầy thấy Phật tử ngoài Bắc cũng như trong Nam đều hướng trọn lòng tin về Thiền viện Trúc Lâm. Người ta đang trông chờ để mai kia được tụi con hướng dẫn chỉ dạy. Thật ra, từ khi Thiền viện được thành lập, người ta không biết tụi con tu như thế nào, mà chỉ biết qua Thanh qui và qua sự giảng dạy của Thầy. Họ nhắm vào đó nên trông cậy nhiều.

Khi đã được mọi người tin tưởng, tụi con từ lớn tới nhỏ đều phải hiểu trách nhiệm của mình là tự lợi và lợi tha. Trong thời gian còn ở đây, tụi con cố gắng tu học, đó là tự lợi. Chính do sự cố gắng đó, những Phật tử xa gần khi tới ở tập tu đôi ba hôm, thấy nề nếp tu hành của mình đáng quí, họ về sẽ kể lại cho nhiều người nghe. Như vậy, từ một người có lòng tin với mình sẽ có nhiều người tin theo, đó là lợi tha. Tuy tụi con không nói với họ điều gì nhưng đã ảnh hưởng không ít.

Thầy cố gây ảnh hưởng tốt cho Thiền viện, bổn phận tụi con là phải tu hành nghiêm chỉnh, giữ đúng theo những gì Thầy dạy trong Thanh qui, để người Phật tử khi tới đây họ tăng thêm lòng tin tưởng. Không phải đợi đến mai kia tụi con ra giáo hóa mới là lợi tha, ngay khi tu tụi con cũng đã có lợi tha rồi.

Lúc Thầy ở Chân Không chưa ai biết đến thiền. Dần dần Thầy cố gắng gầy dựng để người ta biết được chút ít, cho đến khi xuống Thường Chiếu càng ngày càng lan rộng ra. Tới bây giờ, chẳng những trong nước mà nước ngoài cũng biết mình, biết đường lối Thầy hướng dẫn cho tụi con tu. Phật tử tin tưởng vì thấy đạo Phật còn có tia sáng, mai kia sẽ có người hướng dẫn họ tu hành. Cũng như họ tin rằng sau khi Thầy trăm tuổi sẽ có người tiếp tục hướng dẫn họ, tiếp tục hoằng dương Phật pháp và truyền bá Thiền tông.

Vì vậy, Thầy mong tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ đều ý thức trách nhiệm của mình, không phải chỉ đơn thuần là an ổn tu thôi mà còn làm mẫu mực cho nhiều người. Thầy đâu ở đời hoài để tụi con ngồi không tu. Đến ngày Thầy mệt mỏi không làm được nữa, lúc đó tới phiên tụi con phải gánh vác mọi việc để cho Phật pháp được lâu dài, và để Phật giáo Việt Nam có được một nền tảng chắc chắn. Những điều làm lợi mình, lợi người đó nói theo từ chuyên môn là tự giác, giác tha. Không phải chỉ riêng một người nào, mà tất cả tụi con đều có trách nhiệm lớn: tự mình an ổn để thành tựu công phu tu và khiến cho mọi người phát tâm mạnh mẽ.

Khi nói chuyện với một số người, họ thấy Thầy có lập trường tu hành rõ ràng, liền đặt câu hỏi: “Ngoài Thầy ra còn có ai thay thế không?” Thầy trả lời: “Hiện giờ chưa có nhưng sau này sẽ có, vì tôi đang chuẩn bị, không phải tôi nghỉ rồi là tắt luôn.” Thầy trả lời vậy để người ta có đủ hi vọng. Hiện giờ Thầy làm cho mọi người biết Phật giáo Việt Nam có Thiền tông tu hành cao cả như vậy, khi Thầy mất đi sẽ có những đồ đệ tiếp nối xứng đáng, không đến nỗi buồn tủi là không có người kế tục.

Do đó Thầy mong tất cả tụi con phải thấy rõ bổn phận của mình là sẽ tiếp nối một việc lớn chớ không phải làm việc tầm thường. Cho nên bây giờ trong sự tu tập hằng ngày tụi con phải sống có nề nếp, có tư cách tốt, phải cố gắng vượt qua những vướng mắc nhỏ nhặt. Nếu không thắng được những cái nhỏ thì mai kia e khó làm được việc lớn. Đó là lời Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng.

Ngày 28-3 Bính Tý (15-5-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện ai có lỗi đều ra sám hối. Tụi con thấy ở đây kiểm lại dường như khó hơn các nơi khác, phải không? Thầy sẽ nói cho tụi con rõ mục tiêu của Thầy nhắm.

Như vừa rồi ra ngoài Bắc có một số người phát tâm qui y, như vậy chủ trương, đường lối của Thầy càng ngày càng được nhiều người hưởng ứng từ gần đến xa. Tụi con thấy nếu cây to tàng lớn mà rễ cạn thì sẽ lo cái họa gì? Lo có một cơn giông lớn là ngã, phải không? Bởi vì ở ngoài người ta đang phát tâm hướng về Thiền viện mình rất đông, giống như cây có tàn lớn, nếu chư Tăng Ni không có sức tu hành thâm hậu là điều đáng lo ngại. Sự tu hành của chư Tăng Ni là rễ cái. Nếu rễ cái sâu thì dù cho cây tàn lớn cũng không nguy hiểm. Còn rễ cái cạn mà tàn cây quá lớn e nguy hiểm sau này. Bởi vậy tụi con phải ráng nỗ lực tu. Bao nhiêu lòng tin người ta đang dồn về mình, người ta để ý từng lời nói, từng hành động của mình. Nếu tụi con lôi thôi, Phật tử sẽ dễ thối tâm. Càng được nhiều người chú tâm hướng về, trách nhiệm chúng ta càng nặng nề.

Thầy từng tuyên bố với tụi con và với mọi người Thiền viện Trúc Lâm này là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Trước kia đã có những Thiền viện như: Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu, Huệ Chiếu... nhưng lúc ấy Thầy không sắp đặt được như ý. Mặc dù trong đó cũng có một số người tu tốt tu hay, nhưng Thầy chưa thực hiện được tất cả những gì Thầy muốn.

Nơi này là lý tưởng tối hậu của Thầy. Chưa có Thiền viện nào mỗi tháng Thầy phải ngồi thỉnh nguyện hai lần như ở đây, nhắc nhở không những chỉ việc tu thôi, mà còn phải dạy tụi con từ lời nói đến hành động sao cho thuần túy đạo đức, để khi mọi người tới đây, tiếp xúc với tụi con lòng tin họ tăng trưởng. Đó là đúng với bản nguyện của Thầy.

Những nơi kia Thầy không nói là lý tưởng tối hậu, vì Thầy không thực hiện được ý nguyện lục hoà, đồng thời các công tác cũng còn bận bịu bên ngoài nhiều. Còn ở đây ròng rã cho tụi con chuyên tu, Tăng Ni khỏi bận tâm lo lắng ăn mặc, thuốc men..., lao động vừa phải để đủ sức khỏe chớ không đặt nặng vấn đề kinh tế. Kế nữa là Tăng Ni ở đây rất ít đi đâu, nhờ vậy tâm hồn không bị dao động, dễ hướng đến chỗ thanh tịnh. Cảnh trí mát mẻ, yên tĩnh, thích hợp cho người tu thiền.

Chỉ còn một điều chót là tụi con thành tâm, nhiệt tình tu cho đạt kết quả, đó là duyên lành cho Phật pháp lâu dài. Thầy muốn Tăng Ni ở Trúc Lâm này là những người mai kia đi ra hoằng hóa làm lợi ích chúng sanh, đúng như những gì Thầy đã ước mơ lúc còn tu học ở các trường cho đến khi ra làm Phật sự.

Bởi vậy ở đây dù một lỗi nhỏ tụi con cũng có thể bị rầy. Ở những chỗ khác thì không ai để ý, không ai nhắc nhở kỹ. Do Thầy đặt Trúc Lâm là lý tưởng cuối cùng của đời Thầy nên Phật tử tin tưởng mà nhắm tới, hướng về. Nếu sự tu tập và việc làm, lời nói của tụi con còn sơ sót lôi thôi, người ta dễ sanh chán nản rồi mất lòng tin, thì lý tưởng của Thầy không thành, Phật tử cũng buồn chán.

Do đó, ở đây Thầy không muốn chúng đông, chỉ chừng bốn mươi người thôi, mà sống có đạo đức, giới luật tinh nghiêm, theo đúng lục hoà và quyết tâm chết sống vì đạo, để cho những người tới thấy có thể phát tâm. Đồng thời đòi hỏi tụi con tu phải sáng đạo. Nếu Thầy nói một đàng trò sống một ngả thì tất cả uy tín của Thầy sẽ theo đó suy giảm, đến khi Thầy mất rồi tụi con làm Phật sự cũng không được.

Cho nên tất cả tụi con ráng giữ quyết tâm tu hành chết sống và giữ thái độ hoà nhã đối với huynh đệ chung quanh. Tuy tụi con hoà mà không đồng, vì mỗi người đều có một nghiệp riêng, có thói quen riêng. Mặc dù không đồng nhưng vẫn hoà hợp chớ không thù nghịch chống đối. Nếu nội tâm mình có thù nghịch chống đối thì thế nào cũng thể hiện ra thành sự bất bình nhau.

Tụi con phải có tâm hoà hợp, sống như nước hoà với sữa. Tất cả những gì hơn thua, phải quấy đều vô giá trị, đều không thật, tụi con phải thấy cho tường tận. Tất cả ngôn ngữ thế gian chỉ tuỳ theo niệm thương ghét mà sanh ra lời hay tiếng dở, chớ không có giá trị thật. Người biết tu coi khen chê, phải quấy như trò chơi. Làm sao trước mọi cảnh, tâm mình thản nhiên không động, đó mới là đạo đức chân thật.

Người ta cứ nghĩ Tăng Ni ở Trúc Lâm này rất thuần thục, thanh tịnh. Nếu có ai đến đây tập tu mà thấy có những điều dở, nghĩa là còn đủ tham sân si, người ta sẽ đánh giá chung cả Thiền viện mình. Nếu ở đây tụi con vẫn thị phi, bỉ thử, nhân ngã thì vô phước cho Thiền viện, cũng là vô phước cho Phật tử.

Cho nên tụi con phải sống và tu sao cho tốt để Trúc Lâm có đủ uy tín. Mai kia Thầy nhắm mắt, người nào từ Thiền viện ra, người ta đều tin đó là những người Thầy đã chọn lựa để làm Phật sự kế tiếp Thầy. Nếu tụi con lơ là, không có được ý chí chết sống với đạo, không có tâm bao dung hoà hợp, mai kia người ta thấy được, sẽ cười tụi con lại còn chê trách Thầy. Thầy đã dồn hết tâm lực trong những ngày tháng cuối cùng mà không ra gì, không đến đâu, như vậy uổng công của Thầy. Nên tất cả phải chấp nhận cái khó. Khó ở đây là khép tụi con vào nề nếp, để xứng đáng với lòng tin của mọi người, ngày sau có thể làm được các Phật sự, chớ không phải tụi con bị khó vì những lý do vô nghĩa.

Sau này người ta tin tưởng, hưởng ứng tu theo đường lối của Thầy ngày càng nhiều, nếu ở đây tụi con tu hành đàng hoàng, thâm hậu, đó là điều rất tốt. Còn nếu mọi người ở ngoài phát tâm tu theo mình nhiều, mà ở đây tụi con tu hời hợt, rời rạc, không có một cái gì xứng đáng để cho người ta học hỏi thì đó là điều nguy hiểm, uổng công Thầy mở rộng mà không gìn giữ được.

Vì vậy hôm nay nhắc nhở tụi con phải ý thức được trách nhiệm chung. Tất cả tụi con ở đây, Thầy đều đem hết tâm lực chỉ dạy nhắc nhở, lo lắng, để tụi con tu thành công, mai sau xứng đáng cho người ta tin tưởng và có đủ khả năng tiếp tục việc làm của Thầy chưa xong. Đó là lời Thầy nhắc nhở tất cả.

Ngày 13-5 Bính Tý (28-6-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện chỉ có những lỗi lầm nhỏ không đáng kể, như vậy là tốt.

Bây giờ Thầy nhắc nhở thêm. Tụi con tu là phải nuôi trong tâm mình một ý chí thật mạnh mẽ, như trong lời nói đầu bản Thanh qui đã ghi: phải có tinh thần dứt khoát. Dứt khoát nghĩa là làm cái gì hẳn cái đó, đừng bị cái khác làm trở ngại mất thời giờ. Khi phát nguyện tụi con đâu có nói tu nửa vời, mà là phát nguyện giải thoát sanh tử. Đó là một thái độ hết sức dứt khoát. Nhưng con người có thói quen yếu đuối, làm cái gì trong thời gian ngắn thì lập trường không thay đổi, còn thời gian dài lại dễ quên và lơi lỏng. Nên mỗi tháng Thầy phải nhắc tới nhắc lui cho tụi con nhớ, để việc tu hành có được kết quả.

Ở thế gian, khi người ta lớn lên phải chọn một nghề hoặc một nếp sống nào đó để hướng trọn đời mình theo. Bây giờ tụi con đã chọn một lối đi thì phải vạch một con đường ra khỏi sanh tử. Con đường đó Phật, Tổ đã chỉ rồi, bây giờ mình chịu khó cương quyết đi, bền chí không nản lòng thì có ngày sẽ đến đích. Một khi đã can đảm chọn một lối đi từ buổi đầu, thì từ đây về sau phải luôn luôn tỉnh giác, đừng để những điều nhỏ nhặt, tầm thường làm trở ngại con đường cao cả của mình.

Thầy nghĩ rằng người nào tu cũng quyết chí. Đường đi lâu và dài nên ý chí phải rất mạnh. Tuy nhiên, sức mạnh này cũng có giới hạn, chừng mực, nên một thời gian nó yếu đi. Thầy muốn nuôi dưỡng nó càng ngày càng tăng trưởng nên mỗi tháng phải nhắc, phải rầy để tụi con tỉnh và nhớ những gì mình đã quyết tâm. Đó là tinh thần thỉnh nguyện của mỗi tháng.

Tuy vậy, lâu lâu Thầy có việc phải đi nơi này nơi kia nên không thể nhắc đều. Thầy nghĩ tụi con tu đến nay đã được ba năm, đường lối tu đã nắm vững và lập trường tu cũng đã cứng cỏi rồi, có lẽ lâu lâu Thầy bỏ qua không nhắc, tụi con cũng không đến đỗi bị xao lãng. Dầu sao Thầy vẫn thấy bổn phận của Thầy là phải nhắc luôn luôn để tụi con tiến.

Từ đây về sau Thầy có một hai trường hợp đi xa. Tụi con phải luôn nhớ con đường mình đang đi, nguyện lớn mình đã nguyện, làm sao ngày, tháng, năm nào cũng là những ngày tháng tu hành thanh tịnh. Đừng đợi có nhắc mới ráng tu, không nhắc thì thả trôi giống như lục bình dưới sông, nước chảy lên nó trôi lên, nước chảy xuống nó trôi xuống, suốt cuộc đời cũng không ra gì.

Tụi con là người quyết tâm, dù cho gặp trường hợp thuận hay nghịch vẫn nhất định vươn lên không thối chuyển. Được như vậy thì đời tu mới có giá trị cao cả. Thầy mong tất cả tụi con nhận định rõ ràng dứt khoát và nuôi dưỡng trong thâm tâm mình một ý chí mãnh liệt. Khi đã chọn một con đường thì phải đi đến nơi đến chốn. Mình quyết làm gì thì phải làm cho có kết quả, không bỏ dở nửa chừng. Như vậy mới không uổng một đời tu, lợi ích cho mình và cho người. Nếu tụi con tiến không tiến mà lùi cũng không lùi, cứ lỡ dở như vậy chỉ làm trò cười cho thế gian, làm cho người thân buồn nản.

Tu hành là một việc làm rất cao cả và đầy đủ phước đức, nhưng nếu mình không cố gắng cũng sẽ thành dở xấu. Cho nên, chưa đạt được kết quả thì không bao giờ yên lòng, tụi con phải ráng vượt lên, ráng đi đến nơi đến chốn, đừng tự mãn ta tu vậy đủ rồi, hay hơn người khác rồi. Phải dứt khoát, cố gắng đi cho tới kết quả cuối cùng mới thôi. Như vậy mới xứng đáng người con dòng họ Thích, xứng đáng là người tu hạnh giải thoát sanh tử.

Thầy có ít lời nhắc nhở, mong tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-5 Bính Tý (13-7-1996)

Qua kỳ thỉnh nguyện, thấy chúng có tâm tự giác ra sám hối, đó là điều tốt.

Giờ đây Thầy có ít lời nhắc toàn chúng để nỗ lực tu hành.

Trong Thanh qui phần đầu nói rõ rằng chúng ta tu phải có tinh thần dứt khoát và ý chí kiên quyết. Hôm nay Thầy nói về kiên quyết cho tất cả trong chúng hiểu. Trên thế gian này muốn hoàn thành một công việc gì, dù lớn hay nhỏ cũng phải kiên quyết, nói theo từ ngữ bây giờ là quyết tâm. Đối với người tu không những quyết tâm mà còn quyết tử, đã quyết định làm một việc gì thì phải cương quyết, dù khó khăn, trở ngại cũng vượt qua, không để nó ngăn trở bước tiến của mình. Nếu quyết chí tu, liều chết tu thì trong thời gian ngắn mà có kết quả tốt. Còn ngược lại, tu lơ mơ cho qua ngày sẽ mất thời gian dài mà kết quả rất ít.

Đọc sử Phật giáo Trung Hoa, chúng ta thấy có ngài Huyền Trang đã để lại tấm gương kiên trì, quyết liệt ai nghe cũng kính nể. Ngài đi thỉnh kinh bằng ngựa, từ Trung Quốc sang Ấn Độ trải qua bao nhiêu nước, bao nhiêu sa mạc, bao rừng núi hiểm trở. Nếu không quyết tâm thì không bao giờ dám đi. Quyết tâm như vậy mà khi đi cũng gặp rất nhiều trở ngại.

Trong sử ghi: Khi Ngài đến sa mạc thì không còn một miếng nước nào, Ngài thầm nghĩ chắc phải chết. Vậy mà Ngài vẫn quyết tâm đi cho đến lúc ngất xỉu vì nắng gắt và quá khát. Chợt có trận gió mát dần, dường như Ngài thấy đức Quan Âm rải nước cho Ngài hồi tỉnh, rồi Ngài đi tìm được nước uống. Sau đó Ngài khỏe lại và tiếp tục vượt hết con đường, đến được Ấn Độ. Nếu ai nhút nhát, sợ hãi không bao giờ làm được việc như Ngài.

Gần nhất, chúng ta thấy đức Bổn sư, khi đi tu cũng quyết chết sống. Nói rằng Ngài là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, mà chúng ta thấy đương thời Ngài quyết tâm phi thường. Từ khi ra khỏi cung đi tầm học, tu khổ hạnh, cuối cùng đến cội cây bồ-đề, Ngài thề rằng: “Nếu không thành đạo, dù thịt nát xương tan, ta quyết không đứng dậy khỏi chỗ này.” Nhờ cương quyết như vậy, Ngài đã chứng đạt đạo quả.

Gương quyết tâm của người xưa không phải chỉ một, hai mà rất nhiều. Nếu quyết tâm thì dù con đường khó khăn hay gặp trở ngại gì người ta cũng đến nơi được. Còn nếu tu lừng chừng lấy có, dù hoàn cảnh thuận mấy cũng không đi đến đâu. Bởi vậy trong nhà thiền thường dạy chúng ta trên đường tu phải có tâm quyết tử. Không phải quyết tử với người thù oán, mà là quyết chiến đấu với nội tâm mình.

Trong khi tu, có khi vì tập khí lâu đời làm trở ngại, có khi vì thân bệnh, nghĩ chắc mình tu không được, sanh buồn chán đi đến chỗ thối lui. Có khi tu gặp những hoàn cảnh bên ngoài, như thầy hay bạn xử sự với mình không tốt, rồi chán nản lui sụt. Hoặc ở chỗ khó khăn, thiếu ăn thiếu mặc, nếu mình không cương quyết, không liều chết thì không tiến lên nổi.

Thầy mong trên đường tu, tụi con đứa nào cũng lập chí quyết liệt, thầm quyết định với lòng mình, dù ở hoàn cảnh nào, thân bệnh, người xử tệ, hoặc chướng ngại nội tâm, đều phải vượt qua, thà chết chớ không lùi bước. Nhờ quyết tâm đó, trên đường tu tụi con sẽ thành công không nghi ngờ. Ai còn nhút nhát, sợ sệt, do dự thì không bao giờ tu đến nơi đến chốn được. Đó là điều Thầy đã kinh nghiệm qua.

Quyết tâm chính là ý chí, lập trường. Người có ý chí và lập trường thì làm mọi việc đều đạt kết quả, bằng không sẽ bị gió này gió nọ thổi đùa nghiêng ngả, bị thối lui hoặc không thể yên ổn. Cho nên khi đã đặt mình trên con đường tu rồi, tụi con nên nghĩ: một là tu để được giác ngộ, tự lợi lợi tha, hai là chết trên con đường đó, chớ không có ý nghĩ thứ ba rằng lỡ mình tu không được thì làm cái gì. Đừng bao giờ có ý nghĩ đó, chỉ một lòng tu. Nếu có chết trong ý niệm quyết liệt đó thì đời sau sẽ tiếp tục không nghi ngờ. Phải đi đến đích để làm lợi ích cho đời cho đạo, đó là quyết định của mình, không có con đường nào khác.

Tóm lại, trên đường tu, điều kiện thiết yếu là phải lập tâm quyết tử, tu đến chết thôi. Chỉ một con đường đó, hoặc chết hoặc thành công, chớ không có con đường thứ ba.

Ở thế gian người nào có ý chí và quyết tâm đều làm được việc lớn. Trong đạo cũng vậy, người có ý chí và quyết tâm thì sẽ thành công trên đường tu. Thầy mong tụi con đứa nào cũng phải có lập trường và ý chí vững chắc, không để bị lung lay dù gặp bất cứ trận gió nào.

Ngày 12-6 Bính Tý (26-7-1996)

Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện hầu hết chúng đều được thanh tịnh không lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Chúng ta tu ở đây gần tròn ba năm. Trên phương diện tu hành mỗi vị đều có nỗ lực, có cố gắng rất nhiều, nhưng cũng không tránh khỏi bệnh thâm căn cố đế là chấp ngã.

Chúng ta hầu hết ai cũng mang bệnh chấp ngã rất nặng, đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chấp các ý kiến của mình là chấp ngã về tâm. Còn chấp ngã về thân gọi là ái thân, bởi ái thân nên khi thân này bại hoại liền tìm thân khác, không bao giờ dừng được.

Vì vậy đức Phật dạy mình tu trước phải thấy rõ thân này là vô thường bại hoại, là khổ, không, vô ngã. Thuyết vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy cốt đi tới trọng tâm dẹp ngã. Muốn dẹp ngã, trước hết phải thấy các pháp là vô thường, bại hoại, đó là khổ. Kế đến, pháp đó bại hoại tức thành không, mà thành không thì đâu còn cái gì là ta, nên tới cuối cùng là vô ngã.

Vô thường, khổ, không, vô ngã là pháp Phật dạy tất cả Tăng Ni, Phật tử ứng dụng tu hành. Vì vậy chúng ta tu là phải nhớ luôn luôn, đối với thân là tướng vô thường sanh diệt, không có giá trị gì hết. Ngày nay nó còn, mai sẽ bại hoại, không có gì bảo đảm. Đã không bảo đảm thì có gì quan trọng để hơn thua, phải quấy. Cho nên từ vô thường, rồi khổ, tới không, để chúng ta không còn một tí chấp nào về bản ngã.

Chấp ngã đưa tới đủ thứ bệnh. Từ chấp ngã là si đưa tới ái thân là tham. Do ái thân nên động tới thân mình liền nổi sân. Như vậy tham sân si, nói theo thông thường, hoặc là si tham sân, ba thứ theo nhau luôn luôn, vì vậy mà chúng ta tạo bao nhiêu thứ nghiệp sanh tử luân hồi.

Giờ đây chúng ta tu hạnh giải thoát thì phải phá si, tức là phá cái tâm niệm chấp thân này là thật, chấp tâm suy nghĩ của mình là thật. Phá được cái chấp thân, chấp tâm, không còn thấy nó thật, đó là phá si. Thân tâm không thật thì còn cái gì để cho mình mến yêu, nên ái ngã theo đó cũng hết. Không mến yêu nên không còn tham. Không tham thì có gì để nổi sân! Vì sân là do đụng tới bản ngã của mình, nay rõ bản ngã không thật thì còn gì nữa mà sân.

Cho nên Phật thường dạy chư Tỳ-kheo, nếu thấy thân này như đất, người ta đi, người ta giẫm đạp, hoặc đổ đồ dơ lên trên đất, đất cũng không oán hờn. Lại phải quán thân này như nước, tất cả đồ dơ người ta tuôn xuống nước, nước cũng không giận, không chống trái.

Đất, nước, gió, lửa là tứ đại bên ngoài, khi kết hợp thành thân này gọi là tứ đại bên trong. Tứ đại bên ngoài không tranh chấp, sao tứ đại bên trong lại hơn thua tranh chấp? Quán như thế để tu hạnh nhẫn nhục, dù cho có gì trái ý, ngược với sở thích của mình, mình vẫn an nhiên, không bực bội, tức tối. Đó là làm cho cái ngã càng ngày càng mòn mỏng bớt.

Thầy nói cho tụi con thấy tinh thần tu của đạo Phật, kể cả Đại thừa và Tiểu thừa đều tu như vậy. Còn về Thiền tông lại càng rõ nét hơn, bởi vì không có một Thiền sư nào thấy thân này là thật hết. Thí dụ chúng ta đọc bài thơ của Thiền sư Vạn Hạnh, Ngài thấy thân người chỉ như bóng chớp, có rồi không. Rồi qua các vị Thiền sư khác, không có bài kệ nào nói thân này thật. Do vậy, chúng ta mới đào sâu, biết được Thể chân thật bất sanh bất diệt của chính mình. Còn nếu thấy thân giả tạm này và tâm sanh diệt huyễn hóa này là thật thì không bao giờ thấy được cái thâm sâu, chân thật của chính mình.

Vì vậy Thầy nhắc tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ, đều phải nhớ rõ ràng thân này là hư huyễn, ảo hóa không thật, còn mất bất thường. Tâm sanh diệt cũng hư vọng, nên gọi là vọng tưởng. Không thật thì còn cái gì mà chấp. Không chấp cái hư dối mới thấy được cái chân thật. Cái chân thật này ai cũng có, cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh không dám khinh ai. Bây giờ chúng ta khinh người này dại, người kia khờ..., đó là chúng ta cũng chỉ nhìn trên tướng giả của thân tâm, còn Thể chân thật không ai hơn ai thì có gì để khinh!

Hiểu như vậy rồi chúng ta tu mới dễ, còn không thì hay sanh bệnh. Càng tu lại càng sân, càng chấp ngã. Hồi mới đi tu gọi là xả thân cầu đạo, dù ai chê, ai chửi bới mình cũng coi thường. Nhưng tu riết lên cao rồi, ai nói động liền nổi giận. Như vậy tu lâu là tiến hay lùi?

Hồi mới tu cái gì cũng xả, tu lâu rồi động tới nổi sân. Như vậy mới thấy vô tình chúng ta xả cái ngã thế gian rồi lại chấp cái ngã trong đạo. Ngã trong đạo chấp mình là Hoà thượng, Thượng tọa, là thầy của nhiều người, có chùa to, Phật lớn... rồi tự nhiên thấy mình quan trọng, cái ngã sống lại hồi nào không hay.

Cho nên chúng ta phải khéo cảnh giác, đừng để mê lầm phủ che. Chúng ta phải vạch nó ra để thấy được lẽ thật. Tu lâu cái ngã càng cao là sai lầm, chúng ta không thể như vậy được. Do đó, Thầy mong toàn thể đại chúng phải ý thức được trên đường tu làm sao mỗi ngày chúng ta mỗi mòn mỏng bản ngã. Nếu còn nặng quá thì không bao giờ chúng ta ngộ nhập được Tâm thể chân thật. Có chăng chỉ là thoáng qua thôi chớ không nhập nổi. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Kế đây, Thầy nhắc thêm về chuyện xả thiền. Ở đây không phải chỉ riêng tụi con tu, còn có các Phật tử và những vị tôn giáo bạn tới xin tập tu. Nếu tụi con mỗi đứa xả theo mỗi ý là không được. Tất cả nên cẩn thận, khi xả thiền làm động tác nào cũng phải đúng cách và có chừng mực để người khác tới có thể quan sát học hỏi.

Khách tập tu ngồi chung trong Thiền đường nên tụi con nhập thiền, xả thiền ra sao họ nhìn theo bắt chước. Đừng nghĩ đã có quí Cô lớn dạy họ rồi, mình làm đúng sai gì chắc họ không quan tâm. Tụi con là hình ảnh cụ thể gần nhất, rất quan trọng. Bởi vậy hành động nào tụi con cũng phải dè dặt, từ việc tụng kinh, ngồi thiền cho đến cuộc sống hằng ngày. Trách nhiệm chúng ta rất nặng, tụi con đừng xem thường, nhiều khi xem thường quá người ta mất niềm tin, tổn phước.

Không phải có khách mình mới tu, mới nghiêm chỉnh. Tụi con vẫn sống thực như lâu nay chớ không giả bộ, nhưng phải dè dặt, đừng nói năng, hành động quá trớn, vì nhiều khi tụi con sống với nhau thường chủ quan, sơ sót chút ít không để ý. Vậy nên phải cẩn thận. Trong giờ thiền, từ cách ngồi đến cách xả, hoặc choàng khăn, đội mũ, đều thanh thản mà nghiêm trang. Tâm niệm của chúng ta không ai thấy, người ngoài chỉ thấy hình tướng và nghe lời nói của mình, nên hành động và lời nói là cái họ đánh giá trước tiên, còn chuyện ngộ đạo hay không ngộ đạo ở tâm mình người ta chưa thấy được. Cho nên khi tới đây, quan sát mọi hành động, cách cư xử và nói năng của tụi con, người ta đánh giá ngay.

Khi làm một hành động từ lớn đến nhỏ, tụi con lúc nào cũng đàng hoàng khoan thai, không nên hấp tấp. Tu đâu không biết mà đi vội vàng, nói hấp tấp, làm cẩu thả, người ta sẽ cười, đó là chưa có đạo lý thật. Cho nên phải bình tĩnh, điềm đạm, khoan thai. Có gì cũng từ từ nói, từ từ giải quyết, đừng vội vã quá. Làm cái gì cũng vừa phải, dù nói chuyện vui hay có chuyện gì không vừa ý mình cũng điềm đạm. Bởi vì trong cuộc sống tu hành, người ta thường nói các vị Thiền sư rất bình tĩnh, điềm đạm, nếu khách vô đây trông thấy các Thiền sinh thô tháo, hấp tấp, người ta sẽ cười.

Về lời nói, nếu thấy có giá trị, hợp thời, đúng lúc mới nói, không thì thôi, để giữ cho tâm sáng suốt thanh tịnh. Đừng phát ngôn bừa bãi, người ta thấy mình không biết thúc liễm.

Tụi con đừng xem thường hình thức, hình thức cũng làm cho người mới đến đánh giá mình. Nên từ hình thức đến nội tâm, tất cả khéo giữ gìn, để cho sự tu hành của mình vừa thanh tịnh, an ổn, mà người ngoài nhìn vào cũng hoan hỉ, quí mến và học theo. Thầy nghĩ mỗi lần có khách như vậy tụi con lại được tiến bộ hơn. Đừng nên quan niệm: “Tôi hiểu đạo, tôi thấy đạo đủ rồi.” Chúng ta sống trong hoàn cảnh một trăm người chưa được một người biết tu Thiền. Nếu tụi con tu Thiền mà không có đức hạnh bằng tu Tịnh độ thì người ta sẽ cười mình. Hoàn cảnh chúng ta muốn mở mang, đòi hỏi phải đủ về phần đạo lý của nội tâm và có oai nghi đức hạnh. Hai cái đó không thể thiếu một.

Vậy tụi con phải cố gắng tối đa để xứng đáng với trách nhiệm mình đang nhận. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay.

Ngày 28-7 Bính Tý (10-9-1996)

đây có vị chưa thông suốt về thỉnh nguyện. Khi bắt đầu thỉnh nguyện, tụi con nghe Tri sự đọc bản nội qui, rồi kiểm tra lại nơi nội tâm, hành động mình trong một tháng, nếu có lỗi mới ra sám hối. Trong trường hợp tâm chạy theo cảnh, hay dính mắc gì đó mà trong nội qui chưa nêu, thì tụi con tự biết ráng tu cho hết, khỏi ra thỉnh nguyện. Nếu phạm giới luật, lục hoà và nội qui mới ra sám hối, còn không thì thôi. Đó là Thầy nhắc chung cho tụi con được rõ.

Bây giờ Thầy nhắc thêm vài điều, tụi con cố gắng tu hành để mau được kết quả như sở nguyện. Tất cả tụi con đến đây đều với ý chí cố gắng tu, để từ ba đến năm năm có kết quả tốt, xứng đáng với tâm nguyện tu hành của mình. Khi vào đây, buổi đầu tụi con ngỡ ngàng vì nếp sống nơi này không giống các chỗ khác, phải luôn luôn dè dặt, cẩn thận, không được tự do như những nơi tụi con đã ở qua. Chính cái dè dặt cẩn thận đó là sự tiến bộ đáng kể nơi tụi con.

Chẳng hạn như ngày xưa tụi con thấy lòng mến thương huynh đệ là bình thường, nhưng giờ đây lại đặt thành vấn đề quan trọng. Đương nhiên buổi đầu tụi con bỡ ngỡ, hơi lạ trước sự nghiêm khắc này, nhưng bây giờ tụi con xét lại mới thấy đó là bước tiến vượt bậc. Thầy thường trách giới tu sĩ chúng ta, lúc còn trẻ và khỏe, có đủ tinh thần sáng suốt để tu và làm Phật sự lại phí thời giờ vì những điều không đáng, như có tình cảm với huynh này, huynh nọ. Từ tình huynh đệ rồi trói buộc, từ trói buộc sanh ra phiền não, chính cái đó làm cho sự tu hành của tụi con trễ nải.

Có lắm chuyện Thầy đã từng nghe, từng thấy. Cứ hai người thân thiết với nhau quá, bị rầy, thấy mất tự do rủ nhau đi ở nơi khác. Đến một lúc cảm thấy không còn hợp nhau nữa, rã gánh, rồi ra đời. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Mới đầu thấy không có gì quan trọng, cho là tình trong đạo, huynh đệ mến thương nhau, nhưng sự thật càng đi sâu càng nguy hiểm. Bởi vì từ tình đạo, dần dần biến thành tình cảm thế gian, đưa tới chỗ thối tâm lùi bước trên đường tu. Nên ở đây Thầy bắt tụi con phải tự thúc liễm. Sống với nhau chỉ là tình đạo cao thượng trong sáng, chớ không ái nhiễm gây trở ngại trên bước đường tu. Gần mãn ba năm, tu tập theo lời dạy và sự sắp đặt của Thầy, tụi con đã vượt qua được những cái tầm thường đó.

Từ đây về sau đứa nào cũng phải can đảm, gan dạ, quyết chí tiến tu đến chỗ giải thoát. Những gì có tánh cách trói buộc, tụi con phải mạnh dạn bứt bỏ để không trở ngại đường tu của mình. Như vậy trong ba, bảy năm mới có kết quả thật sự. Bằng không hình thức bên ngoài tu hành dường như nghiêm chỉnh, mà bên trong lại bị những khó khăn, phiền não dai dẳng chướng ngại đường tu, thành ra thời gian quí báu của Thầy dành cho tụi con, tụi con không tận dụng để thực hiện lời Thầy dạy. Mà bây giờ không thực hiện được, khi Thầy già không còn dạy dỗ nữa, hoặc Thầy theo Phật thì tụi con không tiến bao nhiêu. Rốt cuộc trên đường tu chỉ uổng công, không có kết quả.

Bởi vậy tất cả những gì Thầy thấy không hay, làm chướng ngại đường tu Thầy dạy phải dứt khoát buông bỏ, tụi con nên nỗ lực ráng làm theo lời Thầy nhắc nhở. Nếu có một chút dính mắc, vướng víu, tụi con phải cắt đứt liền, chớ để nó làm phiền hà, lãng phí thời giờ quí báu, sau này không tìm lại được nữa. Điều Thầy nhắc tuy ít mà tụi con gẫm lại sẽ thấy có lợi ích rất lớn trên đường tu của mình.

Câu chuyện buổi chiều.

Hôm rồi bị bệnh đột ngột, Thầy kinh nghiệm và có bài pháp. Chỉ do mình sơ ý trong vòng mười lăm phút mà bệnh phải nằm bao nhiêu ngày. Vừa rồi, trong khi Thầy đang tắm ở vòi nước nóng, bất chợt điện cúp, nước trở lạnh thình lình, hậu quả là Thầy bị cảm nặng.

Như vậy tụi con mới thấy, do sơ ý thiếu dè dặt, sự cố xảy ra rồi sanh bệnh về thân. Về tâm cũng vậy. Nếu bất cẩn không dè dặt, thân tâm có phản ứng mạnh liền, nên người tu phải cẩn thận tối đa. Như Thầy sau vụ đó, khi tắm bảo chú Thị giả cho thùng nước ấm vào múc tắm là bảo đảm; còn máy móc Thầy sợ rồi, bất chợt có sự cố tai họa không lường nổi. Máy móc dụ cho những buồn bực phiền não của mình, bất chợt không làm chủ được phát ra. Đó là Thầy kinh nghiệm qua việc tắm bị bệnh.

Bây giờ Thầy có mấy vấn đề nói với tụi con.

Vấn đề thứ nhất: Mục đích tụi con tu để đạt đến cái gì? - Để cầu giải thoát sanh tử. Tại sao Thầy nói câu đó? Vì đức Phật đi tu mục đích là giải thoát cảnh sanh già bệnh chết, giải thoát sanh tử.

Vấn đề thứ hai: Tại sao mình phải sanh tử?

- Do nghiệp dẫn đi trong lục đạo luân hồi. Như vậy nghiệp là cái dẫn tụi con đi trong sanh tử.

Vấn đề thứ ba: Cái gì tạo nghiệp? - Từ thân, khẩu, ý, ba cái gốc đó tạo ra nghiệp. Muốn giải thoát sanh tử là phải giải thoát nghiệp. Nhưng nghiệp từ đâu ra? Phải đào bới cho tận gốc, từ thân khẩu ý, mà gốc là ý. Bởi vậy ý nghĩ tốt thì miệng nói tốt, thân làm tốt; ý nghĩ xấu miệng nói xấu, thân làm xấu. Như vậy ý nghĩ tốt tạo ba nghiệp lành, ý nghĩ xấu tạo ba nghiệp dữ. Ba nghiệp lành thì sanh về cõi trời, a-tu-la, người; ba nghiệp ác rơi vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tóm lại, dẫn chúng ta đi cõi lành hay cõi dữ gốc là nghiệp, nghiệp từ ba món thân, khẩu, ý mà ra. Đó là trả lời cho vấn đề thứ ba.

Thân khẩu ý tạo nghiệp, mà ý là chủ. Bây giờ muốn hết nghiệp phải làm sao? - Phải lặng ý, vì ý là chủ động, ý dừng thì mấy cái kia dừng. Như tụi con hiện giờ tu trong giờ ngồi thiền là tu cái gì? Là tu để dừng ý, ý nghiệp dừng thì mấy cái kia dừng, giải thoát sanh tử luân hồi.

Vậy đã thấy cái gốc sự tu chưa? Nhiều khi tu mà không rõ tại sao phải ngồi thiền, rồi cứ giải thích trên trời trên mây không thực tế. Thầy nhắc lại, nghiệp từ thân khẩu ý, ý là chủ động, nên muốn dừng ba nghiệp trước phải dừng ý. Ý lặng là định. Tụi con ngồi thiền cốt được định, ngay khi định là có tuệ. Vậy hiểu nguồn gốc của nó chưa?

Nếu bây giờ giả sử có người đặt câu hỏi: “Khi ý lặng thì còn gì? Hết nghiệp rồi hết trơn luôn sao? Làm sao chứng minh cái chân thật hiện tiền?”

Bài thuyết pháp hết sức đơn giản mà nói lên bản hoài chúng ta là câu chuyện Lục Tổ. Khi người ta rượt đuổi giành y bát, ngài Huệ Năng nói: “Y bát là vật làm tin, có thể dùng sức mà tranh sao?” Rồi Ngài đặt y bát lên bàn thạch, vào ẩn trong bụi cây. Huệ Minh đuổi theo kịp, tới ôm y bát mà không nhấc lên nổi, ông mới thấy giành y bát là tâm niệm thế tục. Y bát là biểu tín Tổ Tổ truyền nhau, đây không phải là chuyện phàm tục có thể làm được, nên ông chuyển tâm thế tục thành tâm cầu đạo. Huệ Minh mới kêu lớn:

- Cư sĩ! tôi vì pháp mà đến, chớ không phải vì y bát.

Khi nghe nói vì pháp, ngài Huệ Năng ở trong bước ra:

- Nếu ông cầu pháp thì lắng tâm nghe ta hỏi: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

Ngay đó Huệ Minh liền ngộ. Ngộ cái gì? - Ngộ cái Bản lai diện mục khi không nghĩ thiện không nghĩ ác. Như vậy tu là nghĩ xấu cũng bỏ, nghĩ tốt cũng bỏ, đó là dừng cả nghiệp ác lẫn nghiệp lành, vì lành hay dữ cũng đều là luân hồi trong lục đạo. Buông hết niệm lành dữ thì Bản lai diện mục hiện tiền. Khi ngồi mà tâm không có niệm nào hết, lúc đó tụi con biết không?

- Dạ, biết.

Vậy thì cái biết đó hiện tiền đâu có mất. Như vậy niệm khởi là động cơ tạo nghiệp, dẫn mình đi trong luân hồi, nay không muốn tạo nghiệp thì phải dừng động cơ đó. Rõ chưa?

- Dạ, rõ.

Chỉ mấy vấn đề đó tụi con nắm vững thì trên đường tu không nghi ngờ gì.

Thứ nhất: Mục đích tu để đạt cái gì? - Tu để giải thoát sanh tử.

Thứ hai: Cái gì dẫn mình đi trong sanh tử luân hồi? - Chính là nghiệp.

Thứ ba: Nghiệp từ đâu ra? - Nghiệp từ thân khẩu ý ra, ý là chủ động. Bây giờ muốn dứt ý chủ động thì phải tu thiền để dừng các ý nghĩ thiện ác. Còn có nghĩ, có niệm tưởng là còn tạo nghiệp luân hồi. Dừng ý nghiệp thì cái chân thật hiện tiền.

Tư tưởng của mình lát thế này, lát thế kia, đâu có thật, còn cái hằng giác hằng tri mới là chân thật. Cái thật của mình có sẵn, nhưng bị nghiệp che lấp. Nên Lục Tổ bảo dừng lại, không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì cái chân thật hiện bày, chớ không có gì khác.

Bài thuyết pháp ngắn này tụi con nhớ để tu. Hiểu rõ rồi thì không phiền trách sao Thầy cứ bắt bỏ vọng tưởng hoài mà không làm gì khác.

Ã

Người tu nếu không được bào gọt, đẽo đục thì đâu thành pháp khí. Bào gọt đục đẽo tất phải bị đau, không có cách nào nhẹ nhàng êm ái hết. Nên đi tu thường phải bị rầy. Ở nhà ba má không rầy, vào chùa bị rầy hoài tưởng chừng ở chùa dở hơn ở ngoài. Nhưng không phải vậy, vì ở ngoài sống theo thế gian, những cái xấu nhỏ ba má không để ý; còn ở đây sống trong đạo lý, cầu giải thoát sanh tử, nên tất cả thói quen, tật xấu nhỏ lớn đều phải dũa gọt. Lớn thì quở theo lớn, nhỏ rầy theo nhỏ, làm sao cho càng ngày càng sạch. Như vậy tụi con mới giải thoát sanh tử được, chớ sống theo thế gian làm sao giải thoát!

Hiểu rồi tụi con không trách vì sao vào chùa bị rầy nhiều, phải nghĩ đây là cơ hội tốt để mình sớm trong sạch hơn, sớm thảnh thơi độc hành độc bộ. Tụi con muốn độc hành hay đa hành? Nhiều khi Thầy thấy tức cười, ai cũng cầu giải thoát mà đi một mình không chịu, cứ kéo lôi người này người kia cùng đi, như vậy làm sao đi tới nơi? Cho nên người tu phải can đảm. Nói như vậy cũng đừng hiểu lầm quí Thầy độc hành độc bộ là chỉ lo cho riêng mình.

Độc hành nghĩa là trên đường tu không có gì trói buộc, lôi kéo, đi một cách thong thả tự tại, chớ không phải chỉ lo cho mình còn ai mặc họ. Như Thầy đi cả đoàn mà vẫn độc hành độc bộ, đường Thầy Thầy đi, còn ai đi sau cứ thấy mà theo chớ không bị trói cột.

Đa số người tu thường bị trói cột, người này đi người kia giật dây lại, cứ nhùng nhằng như vậy hoài, rồi lạc đường không đi tới đâu. Đi tu rất tốt nhưng phải gan. Cái gì không đúng đạo lý giải thoát phải cắt gỡ, như vậy trên đường tu mới giải thoát được, còn cứ cột trói hoài làm sao giải thoát nổi.

Nghĩa lý giải thoát hết sức đơn giản, như bị cột trói thì bây giờ mở ra. Mở ra tức tự do, còn trói thì hết tự do. Nhưng cái gì trói cột chúng ta? Ai cột chúng ta? Đó là điều thật phi lý. Tâm niệm hướng về giải thoát, dứt khoát sự trói buộc của gia đình, đi tu là nguyện cắt đứt hết, cho nên khi cắt tóc nói: cát ái từ sở thân. Vậy mà vô chùa cột lại, vô lý làm sao! Vô lý không thể tha thứ được! Do đó phải gan dạ, cắt được rồi là cắt luôn, đừng để bị cột trói bởi cái gì hết. Được như vậy mới tự tại.

Thí như dòng suối nhỏ, nước ở trên chảy tràn xuống, tụi con thấy dòng nước chảy mạnh. Còn nếu ở dòng sông lớn, nước chảy nhè nhẹ, ra tới biển thì không thấy dòng nước chảy nữa mà vẫn có thủy triều đều đều. Cũng vậy, lòng mình hẹp hòi thì những ràng buộc vô lý sẽ siết chặt, còn nếu mở rộng lòng ra, mọi cột trói đều không đáng kể.

Như vậy, tu mở rộng lòng là cắt mấy sợi dây ràng buộc nhỏ, mở rộng ra đoàn thể lớn. Nếu rộng ra như biển cả thì tâm mình thênh thang. Người tu phải như vậy. Đừng để cắt đời rồi vào đạo cột lại, vô tình sư chú sư bác, sư huynh sư đệ mình cũng hơn người khác. Tụi con ở trong chúng, ai cũng như ai, phải quí trọng giống nhau.

Hồi xưa, Thầy phục Hoà thượng Giám đốc cũng vì vậy. Hoà thượng có hai chủng tử là cô Như Hoa và thầy Tịnh Đức. Thầy Tịnh Đức nhỏ tuổi hơn Thầy một chút, người hiền hoà sáng suốt, học lớp gần với Thầy, học giỏi và cần mẫn giống Hoà thượng. Hoà thượng làm Giám đốc ở trong trường nhưng không bao giờ gọi thầy Tịnh Đức lên hầu, không bao giờ gọi riêng người thân của mình để sai bảo.

Có người kể lại, không biết có thật không. Kể rằng ngày Hoà thượng đi tu, thầy Tịnh Đức còn chạy lẫm đẫm. Khi Hoà thượng xuống thuyền, thầy Tịnh Đức chạy theo. Hoà thượng xô thuyền ra, thầy Tịnh Đức nhào xuống sông mà Hoà thượng vẫn đi thẳng. Người nhà vớt lên. Thật là gan quá! Tụi con có gan vậy không?

Bởi vậy, đi tu rồi, mình là người của tất cả chớ không của riêng ai, đó là tinh thần sống vì người. Nhờ vậy các ngài làm Phật sự dễ. Tụi con bây giờ đi tu rồi, cũng còn coi người thân là nặng là quí, sơ thì không quí, đó là còn phân biệt. Chúng ta nên khéo tu một chút, sao cho tâm không còn thân sơ. Nếu còn cột đó là người thân của mình, người đó vui hay buồn đều có dính đến mình, phải chịu lây. Còn nếu thấy ai cũng như ai thì người buồn hay vui mình cũng thấy bình thường, lòng không xao xuyến. Tu như vậy mới khỏe, lòng mới an ổn. Còn trói buộc hoài, tu năm này tháng nọ, cuối cùng vẫn vụng về dốt nát, không tới đâu. Cho nên phải sáng suốt, khôn ngoan và can đảm.

Như kỳ thầy Tịnh Đức bệnh sắp tịch, Hoà thượng Giám đốc đứng phía trên đầu, Thầy đứng bên cạnh. Thầy Tịnh Đức bệnh mê man mà cứ tụng kinh Di-đà không sót một chữ, lại hô chuông thật lảnh lót, không ai nghĩ đó là người sắp chết. Đến lúc thầy Tịnh Đức ra đi, Thầy rớt nước mắt mà thấy Hoà thượng vẫn bình an không rơi một giọt nước mắt. Chứng kiến cảnh đó ai cũng nể!

Người xưa tinh thần rất mạnh, tuy đi tu muộn nhưng ý chí quyết liệt. Hoà thượng đi tu vào thời Pháp thuộc, đến đâu cũng phải có giấy thuế thân, nếu không ở lâu bị bắt bớ khó lòng lắm. Vậy mà Hoà thượng ra tới Huế là xé hết giấy tờ bỏ không dùng nữa. Thư nhà gởi ra xé bỏ sọt rác không đọc. Còn tụi con bây giờ trông thư quá, phải không? Thầy được gần Hoà thượng, rất quí chỗ can đảm đó. Tụi con ráng tập gan dạ như vậy thì chuyện tu hành dễ thành công. Nhiều người còn nặng gia đình quá, bỏ lên cân cũng tương đương với chùa, vậy là dở.

Đó là ràng buộc nơi gia đình và người thân, lại còn ràng buộc của bản ngã nữa. Tụi con thấy ràng buộc bản ngã chưa? Chuyện mình thì nặng, chuyện người thì nhẹ. Thí dụ mình đau một chút rên rỉ, còn người khác đau thì coi nhẹ, không dính gì với mình. Đó là cái yếu, nghĩ về mình nhiều quá.

Hôm rồi, Thầy nói Thầy tu ích kỷ, nhưng ích kỷ của Thầy khác, không phải một bề tiêu cực lo cho mình. Thầy ích kỷ là dẹp hết các duyên lăng xăng bên ngoài, nỗ lực phăng tìm cho ra con người thật, biết rõ thân tứ đại và tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là hư ảo nên không coi trọng. Thấy được cái thật rồi đem chỉ dạy cho mọi người thì hết ích kỷ, trở thành cao thượng.

Người đời ích kỷ vì chấp thân tứ đại. Bây giờ giả sử tụi con ăn tất cả những món ngon vật lạ, uống tất cả các thứ quí, được khỏe mạnh sống dai tới chừng nào? Nhiều lắm là trăm tuổi. Có nhiều khi ăn ngon, sống sung túc quá, lại hay sanh bệnh phải uống thuốc. Bởi vậy, thân này không bảo đảm an toàn. Dù ta có yêu quí, bảo vệ đúng mức, sớm muộn gì nó cũng hoại.

Biết rõ rồi phải cố gắng tu, tìm cho ra cái chân thật nơi mình. Chư Tổ đã nói hết lời, còn Thầy nhắc hoài, chỉ để tụi con nhận ra cái thật. Thấy được cái đó thì bình an, sống thảnh thơi tự tại, xứng đáng một đời tu.

Ã

Quí Phật tử về đây tu tiến bộ nhiều ít? Không ai dám nói, thôi để tôi nhắc cho quí Phật tử tu.

Nhiều người nghĩ rằng tu niệm Phật tụng kinh, tụng được mấy bộ kinh, niệm được mấy xâu chuỗi, còn kể ra được, chớ ngồi thiền làm thinh hoài, không thấy cái gì hay lạ, vậy tu có ích lợi gì? Đó là điều tôi muốn nói hôm nay.

Bình thường, sáu căn chúng ta, mắt tai mũi lưỡi thân ý cứ chạy theo sáu trần bên ngoài, giống như cây đèn rọi ra ngoài. Khi rọi ra thì sáng bên ngoài, còn ở phía trong tối. Nếu người tu chạy theo bên ngoài, dính mắc với trần cảnh thì theo đó tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Nay muốn đừng dính cảnh nữa phải soi lại mình. Bởi vậy trọng tâm sự tu là biết mình. Người thế gian mê muội, sống không biết mình là gì. Bây giờ vào đây tu cốt làm sao biết lại mình.

Như quí Cô ở đây, khi ngồi thiền muốn cho các căn của mình soi sáng trở lại thì phải mượn phương tiện là hơi thở. Hít vô thở ra, nương nơi hơi thở mà tâm an định. Biết hơi thở vô ra, niệm dấy lên cũng biết, như vậy là phản quan, soi sáng lại mình. Nhờ soi sáng lại mình nên mới thấy rõ được hơi thở ra vô, thấy rõ được tâm niệm sanh diệt. Nếu tu quán, khi thấy hơi thở ra vô liền nghĩ, thân này còn là do hơi thở, nếu thở ra không hít vào là chết. Như vậy mạng sống vô thường chỉ trong một hơi thở. Đó là nương hơi thở để quán.

Ở đây không dùng quán, biết thân này là vô thường, chắc chắn không nghi. Bây giờ chỉ cần biết tâm của mình là thật hay giả. Khi tâm dấy khởi biết không thật thì nó tự lặng. Rồi dấy niệm khác, liên tục hết niệm này đến niệm kia, mình cũng biết rõ ràng. Tôi dùng từ vọng tưởng hư dối, vì nó sanh diệt mà lâu nay lầm chấp là tâm mình. Do chấp nó là tâm mình nên gây ra nhiều tai họa vô kể. Vì nghĩ đó là tâm tôi, cho tâm tôi là thật, nên tôi nghĩ cái gì cũng đúng, người nào nghĩ khác tôi sẽ nổi giận, rồi phiền não, cãi lẫy hơn thua...

Quí Phật tử thấy tâm mình hư dối, chợt có chợt không, chợt sanh chợt diệt. Suy nghĩ hư dối làm sao là chân lý được? Không phải chân lý thì người khác tin hiểu giống như mình cũng tốt, không giống cũng được, đó là quyền của người ta. Cái suy nghĩ của mình không thật, của người kia cũng giả, cả hai cùng giả thì hơn thua để làm gì!

Thế gian chấp thân này là thật, dồn mọi sự lo lắng, ăn uống cho nó. Nếu mình có, người khác không có thì họ giành với mình, hoặc người khác có mình không thì mình giành với họ. Giành giật vật chất để bồi dưỡng cho thân. Nay chúng ta biết thân không thật mọi nhu cầu sẽ giảm đi. Quí Phật tử biết thân không thật, ăn thịt cá hay rau cỏ cũng vậy thôi, cốt duy trì mạng sống tạm chớ không cố chấp.

Đối với tâm, chúng ta thường chấp thật. Do chấp thật nên phiền não. Ở gia đình, vợ chồng không hoà nhau, chồng nghĩ thế này vợ nghĩ thế kia, nghĩ khác nhau nên bất đồng ý kiến rồi cãi vã, nhiều khi sanh ra chuyện đổ vỡ chia tay. Đối với mẹ con, anh em cũng như thế. Mẹ nghĩ như vầy đúng, con nghĩ khác cũng cho đúng, rồi sanh chuyện cãi nhau. Từ chỗ chấp cho mình là đúng mà tình cốt nhục chia lìa, nghĩa huynh đệ phân ly. Bây giờ biết nó là vọng tưởng hư dối thì đâu còn chấp.

Như khi nãy bên đồi kia chuyển mưa, sấm sét nổi ầm ầm, mình nghĩ gió thổi qua hướng này, nhất định chút nữa bên này mưa. Nếu có ai nói không mưa thì giận liền. Đâu ngờ một lát gió thổi tạt chỗ khác, không mưa. Như vậy sự suy nghĩ không đúng lẽ thật. Tại sao mình suy nghĩ không bảo đảm đúng mà lại bắt người khác phải theo?

Bây giờ quí Phật tử thử xem lại, từ xưa đến giờ mình nghĩ nhiều hay ít? Nghĩ trăm việc đúng được chừng ba mươi việc là cùng. Vậy mà bắt người khác phải theo sự suy nghĩ của mình. Đó là điều sai lầm hết sức lớn.

Cho nên người tu thiền, lúc đầu phải thấy thân này là vô thường tạm bợ, thở ra không hít vô lại là chết. Mạng sống vô thường, không có gì lâu bền. Đã không lâu bền mà ham thụ hưởng nhiều vật chất để làm gì? Sống vừa phải, không chấp tài sản, của cải, các vật dụng và nhu cầu của mình. Không chấp, không đòi hỏi là thức tỉnh thứ nhất.

Thức tỉnh thứ hai là biết tâm nghĩ tưởng của mình không thật, không phải là chân lý. Nếu có ai nói mình nghĩ sai, liền biết vọng tưởng không thật, có gì đúng sai, nên chẳng buồn phiền. Đó là đã thức tỉnh. Đâu có Thiền sư nào nói thân thật, vọng tưởng thật.

Bước kế đó là khi tất cả vọng tưởng lặng xuống, mới thấy cái thật của mình sẵn có đầy đủ mà lâu nay bỏ quên.

Hôm nay tôi chưa nói tới bước kế, chỉ nói hai bước đầu là giác ngộ thân không thật, không lâu bền và tâm suy nghĩ lăng xăng là hư ảo. Rõ hai cái đó là giác ngộ, còn thế gian chấp thân thật, chấp tâm suy nghĩ thật, nên gọi là mê. Vậy mấy cô tỉnh kha khá chưa? Hay nghe tôi nói thì tỉnh, gặp việc rồi lại quên, trở thành mê? Đâu phải chỉ cư sĩ mới mê, kể cả người tu lâu lâu gặp việc cũng mê như thường.

- Dạ, tụi con mê một chút tỉnh liền.

- Mê một chút là không ai chịu nổi rồi! Vừa mê thì miệng nói bậy thân làm bậy, tỉnh lại chuyện đã rồi.

Ã

Có khi ngồi thiền rất khó chịu, lại có khi ngồi rất thoải mái, tụi con biết tại sao không? Có khi nào mấy đứa ngồi nghe đau, muốn đứng dậy đi liền không?

- Dạ, có.

Khi ngồi tâm an định, ngồi hoài không muốn xả. Hôm nào bất an, ray rứt thì ngồi không yên. Đó là kinh nghiệm tọa thiền, tụi con phải khéo điều hoà một chút.

Thầy báo cho tụi con biết, vừa rồi có hai Xơ xin Thầy tháng 3 dương lịch cho hai mươi Xơ lên đây tập tu với tụi con. Hỏi lý do gì mà xin đông như vậy, các Xơ cho biết lúc trước có mấy Xơ ở Thủ Đức lên đây tập tu, thân cũng có bệnh, lên tập ngồi thiền được khỏe mạnh tới nay nên ai cũng thích. Thầy nói, lên hai mươi người một lượt e không có đủ chỗ để ngồi thiền, Thầy cho mười người lên một đợt, còn mười người kỳ sau, nghĩa là hai mươi người chia làm hai đợt để tập tu.

Như vậy tụi con mới thấy, chúng ta tọa thiền, nói chuyện giải thoát sanh tử thì hơi xa, chuyện gần nhất là nó đem lại sức khỏe rất tốt. Nếu tụi con ngồi đau nhức là có lý do, chớ không phải do ngồi thiền. Có khi chúng ta ngồi rất thoải mái, có khi bực bội, khó chịu. Lý do tại sao tụi con thử nghiên cứu xem.

Cái bồ đoàn rất quan trọng. Tụi con ngồi sao cho xương cùng ở giữa bồ đoàn, còn hai đầu gối phải chấm xuống tọa cụ. Lúc nào tụi con ngồi bồ đoàn cao và lớn, hai đầu gối không chấm xuống thì bữa đó đau. Nếu nghe đau hai bắp đùi, biết là bồ đoàn thấp ngồi bị cấn, phải sửa cao lên. Ngồi sao cho thoải mái, hai đầu gối chấm xuống mới được, còn hai đầu gối trợt ra là sai rồi. Có nhiều đứa ngồi lót đầu gối là bậy lắm. Đầu gối chấm xuống ngồi mới không đau, nếu chêm một đầu gối thì còn hổng một bên, mất quân bình của thế ngồi. Thầy sợ tụi con chêm tùm lum, mấy Xơ lên thấy tưởng làm như vậy đúng, bắt chước theo rồi ngồi thiền sanh bệnh. Ngồi sai nguyên tắc một chút là sanh bệnh.

Ai xài bồ đoàn lớn quá, nó bè ra hai bên, bị cấn dễ đau thần kinh tọa. Bởi vậy Thầy cho kích thước bồ đoàn bao nhiêu nên làm đúng theo, chỉ gia giảm chút thôi. Người nào mập thì rộng thêm một chút, ai chân ngắn bớt chiều cao của bồ đoàn. Phải ngồi cho nó trống chớ không cho bị kẹt, kẹt là bệnh. Có nhiều đứa ngồi không ổn phải không?

- Dạ, phải.

Ngồi không ổn thì tu không ổn, sau dạy người ta tu cũng không ổn luôn. Cho nên ngồi phải có kinh nghiệm, luôn luôn hai đầu gối phải chấm xuống tọa cụ, xương cùng ở giữa bồ đoàn, xương sống phải thẳng, hai vai ngang nhau, như vậy người mới cân bằng và không bị đau.

Khi ngồi nếu ngửa người ra cố giữ cho thăng bằng thì nóng lắm, còn đầu gối chấm xuống, tư thế vững vàng, thoải mái sẽ ít nóng. Tụi con phải ngồi nghiêm chỉnh, không được chêm hay lót cái gì dưới chân. Bàn tay nào thấp thì vai bên đó nghiêng, nên lấy gối nhỏ lót vào bên thấp. Nếu ngồi quá thẳng sẽ đau ngực, nhiều khi nhói tim, lâu ngày thành đau tim. Khi nào nghe tức ngực nên rùn nhẹ người xuống một chút. Đau xương sống là do ngồi bị cong, phải ngồi thẳng lại; còn đau ngực là ngồi quá thẳng. Đau mông vì ngồi ngửa người ra phía sau, phải chỉnh lại cho ngay. Ngồi vừa chừng, thoải mái nhẹ nhàng sẽ được an ổn. Khi xả thiền nhớ xoa bóp cho đều.

Hồi xưa ở Chân Không, Thầy hay nói Thầy cho bác sĩ hưu trí, bởi vì khi nào bị cảm gió hay hơi có bệnh, Thầy ngồi thiền đầu hôm và buổi khuya, sáng khỏe hẳn. Sau này công việc thất thường nên không làm được như vậy. Tuy nhiên, trúng nước trị không nổi chớ trúng gió trị hết ngay. Thầy có gốc bệnh phổi, nếu để bị cảm ho bệnh cũ sẽ trở lại, còn ngồi thiền có sức khỏe, không bị cảm thì hết hẳn bệnh cũ.

Như vậy, khéo ngồi vừa trị bệnh cho mình vừa được thân tâm an ổn. Người ta thích tới với mình vì nghĩ mình ngồi đúng phương pháp, lại trị được bệnh, nên tụi con lôi thôi là không được. Thầy dặn mấy người đi giám thiền, thấy ai kê đầu gối phải lôi ra, sửa lại cho đúng cách. Bởi vì chúng ta tu còn chỉ dạy người khác nữa. Nhiều người đến tập tu, ngồi không hết giờ, xả ra ngồi ngó tụi con. Đứa nào lôi thôi người ta thấy liền, ai ngồi nghiêm chỉnh người ta cũng thấy, và bắt chước theo. Tụi con nếu không khéo, ngồi dở làm cho người ta dở theo, đó là không tốt.

Ngồi thiền nếu không đủ kinh nghiệm dễ sanh bệnh. Còn ngồi đúng cách có thể tự giải quyết các bệnh của mình. Tụi con mang trách nhiệm rất nặng, giống như người dẫn đường, không được dạy sai cho người ta.

Hôm nay Thầy không nói lý thuyết chỉ nói thực hành, tụi con ráng nhớ để ngồi cho đúng.

Ã

Bấy lâu nay các chùa thường nói tu thiền điên, chỉ có bậc thượng căn thượng trí mới tu thiền được. Khi thấy cư sĩ tu thiền nhiều người nhắc: “Coi chừng điên!” Bởi vậy các chùa không dám mời Thầy giảng. Năm nay các trường Hạ mời Thầy nói chuyện. Thầy nghĩ đó là cơ duyên tốt nên phải đi để khơi mào. Chừng năm, bảy năm nữa tụi con ra giảng người ta mới tin tưởng. Nếu bây giờ Thầy im lìm, sau này tụi con ra không có ai dùng. Cho nên thấy Thầy đi giảng nhiều, tụi con phải chuẩn bị tinh thần tu cho giỏi cho hay. Đến khi Thầy nói không nổi thì tới phiên tụi con, Thầy đâu có làm hoài được. Giảng dạy phải có người hướng dẫn trực tiếp, nghe băng đâu bằng. Đó là nói cho tụi con chuẩn bị tinh thần.

Kỳ rồi Thầy đi ba chỗ, kỳ này đi ba chỗ, kỳ sau đi năm chỗ. Chuyến sau là chùa Kim Liên, Giác Nguyên giảng ngày đầu. Ngày thứ hai giảng chùa Phổ Đà, chùa Xá Lợi và Tịnh Xá Trung Tâm. Ba chỗ này là chuyến chót của mùa an cư. Tụi con thấy Thầy già mà ráng làm để gây lòng tin cho Tăng Ni, Phật tử, để biết rằng tu thiền không điên, trái lại có lợi ích thiết thực. Rồi mai kia khi Tăng Ni ở đây đủ điều kiện tốt, có những nơi mời nói chuyện, tụi con nói cho người ta nghe về sự tu hành. Những Phật tử cũng vậy, tới đây tập tu rồi về hướng dẫn huynh đệ. Như vậy Tăng Ni cũng có, cư sĩ cũng có, thì Thiền tông mới mở mang được.

Đó là cơ duyên để Thiền tông phát triển ở Việt Nam. Tụi con phải vừa mừng vừa lo. Mừng là Thiền tông được phát triển, lo là không biết có kham nổi hay không. Ra nói mà người ta bỏ đi hết là khổ!

Kỳ rồi Thầy ra Chân Không, Phật tử yêu cầu Thầy nói chuyện. Thầy nói đề tài là: “Phật giáo nhìn lại thân con người là quí hay tiện?” Trước hết Thầy nói cái tiện. Phật thấy thân này là nhơ nhớp bất tịnh, đau khổ, thấy thân này là vô thường, duyên hợp hư dối. Như vậy nó là quí hay tiện?

- Dạ, tiện.

Còn một mặt khác thấy thân này là quí. Như Phật nói: “thân này mất rồi muốn được thân khác khó như cây sắt trổ bông”, hoặc “nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, được thân người là khó, gặp Phật pháp càng khó hơn. Như vậy cái khó được mà được là quí hay tiện?

- Dạ, quí.

Đức Phật dùng thí dụ: Như ngoài biển cả có bộng cây trôi nổi, một con rùa mù ở dưới nước trăm năm mới trồi đầu lên một lần tìm bộng cây, chừng nào gặp được? Thật là khó tưởng tượng! Phật nói mất thân này, được thân sau cũng khó như thế. Như vậy là quí hay tiện? Được nó rồi thì sao? Thực chất thì thân này không quí, nhưng có được thân người là cơ duyên tốt để chúng ta làm những điều hay. Điều hay đó là tu hành làm lợi ích chúng sanh.

Nếu mình không biết sử dụng như vậy thì thân này coi như đồ bỏ, vô giá trị. Sống, ăn, mặc rồi chờ chết thành thây thúi đưa vô nghĩa địa. Bởi vậy, Thầy ví dụ như người đi biển bị chìm thuyền, bơi một hồi mệt quá, bất chợt gặp gốc cây mục. Gốc cây đã mục thì có quí không?

- Dạ, không.

Nhưng khi mình đang sắp chìm, gặp được nó để nương không bị chìm nữa, có quí không?

- Dạ, quí.

Quí là được khúc cây khỏi chết chìm. Nhưng nếu cứ ôm ghì hoài chờ đến khi nó rã ra là khôn hay dại? Vì vậy khi được gốc cây rồi phải vội vã làm gì?

- Dạ, bơi vào bờ.

Nếu xa quá, mình trông chờ có thuyền ghe gần đó làm hiệu cầu cứu, hoặc gần thì ráng bơi vào bờ, thoát chết được tức việc ôm gốc cây là hữu ích. Còn nếu ôm gốc cây chờ nó mục quả thật là ngu si. Thân này cũng như gốc cây mục, đủ thứ nhơ xấu mà cứ gìn giữ, tô điểm, rốt cuộc rồi cũng hoại, đến lúc hoại không ai dám ngó, như vậy có phải khờ dại không? Cho nên được thân rồi phải biết tu để làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu biết dùng, thân này là hữu ích quí giá, còn không biết thì thân này chờ tới ngày tan rã, giống như ôm gốc cây mục chờ rã rồi chìm không có nghĩa lý gì.

Như vậy theo cái nhìn của người tu Phật, thân là quí hay tiện? Nếu biết dùng thì nó là quí, không biết dùng nó là đồ bỏ. Ai có thân này mà bo bo giữ, tham lam muốn thụ hưởng cho thỏa mãn mọi vật chất thế gian cho tới ngày nó hoại là khờ dại, không biết vươn lên. Như vậy, được thân này là cơ hội tốt, mình phải cố làm được một cái gì.

Khi chúng ta ôm gốc cây mục bơi vào bờ rồi, còn cần nó nữa không? Lúc ấy bỏ nó lên bờ thong thả. Người tu là như vậy đó. Nên cái nhìn của Phật giáo đầy đủ hai mặt: vô giá trị và hữu ích. Cũng một cái thân này, nhưng biết dùng nó là hữu ích, còn không biết dùng là vô giá trị, chỉ sống rồi chờ chết không có nghĩa lý gì.

Ã

Hôm qua Thầy đặt vấn đề thân này là quí hay tiện, bữa nay Thầy nói về tâm.

Điều thứ nhất: Tâm này vô thường hư huyễn, nhưng mình đủ thẩm quyền làm chủ, hướng nó tốt hay xấu theo ý mình, vậy là dễ hay khó? Cái gì quá sức, ngoài tầm tay của mình mới khó, còn tâm mình có thể chuyển được không khó. Như vậy việc làm chủ tâm này nằm trong tầm tay mình.

Điều thứ hai: Vọng tưởng và không vọng tưởng, cái nào thật? Cái không vọng tưởng là hằng hữu, bỏ không được. Còn vọng tưởng chợt có chợt không, hư dối không thật, bỏ dễ ợt đâu có gì khó! Tụi con xét thật kỹ xem, cái lặng lẽ thênh thang sáng suốt mới là cái hiện tiền không bao giờ bỏ được, không bao giờ vắng thiếu, bảo bỏ cũng không bỏ được. Còn vọng tưởng chợt có chợt không, có gì thật đâu! Cái không thật bảo bỏ nói khó là sao?

Như vậy có hai lý do tu dễ. Lý do thứ nhất là nó trong tầm tay của mình. Ở bất cứ cảnh nào, ai làm gì thì làm, còn theo hay không theo là quyền của mình. Không có người nào dự vào quyền của mình được, dù đó là ông Trời, ông Phật. Như vậy, quyền của mình thì rất dễ, mình có quyền bỏ cái này nhận cái kia.

Thứ hai là có cái thật và cái giả, bỏ cái giả còn cái thật thì hết sức dễ. Thí như đồ giả và đồ thật ở trước mắt, tụi con chọn cái thật bỏ cái giả, dễ ợt không có gì trở ngại. Còn cái thật mà bảo bỏ mới không được. Như vậy tu dễ hay khó? Nếu lý luận như đây thì thật dễ!

Vậy khó là tại cái gì? Khó là vì tập quán muôn đời. Hồi nào tới giờ chấp cái giả quên cái thật của mình, sống với cái giả đã quen nên bỏ không đành, bỏ không được. Nếu mình thức tỉnh, biết cái thật thì bỏ cái giả dễ ợt. Chỉ tại mình quen sống với cái giả, khư khư giữ nó, cũng như trẻ con chơi búp bê, nó là đồ giả mà đi đâu cũng bồng theo, bỏ thì khóc, là tại nó cố chấp, chớ thứ đó là đồ chơi đâu có giá trị gì. Hiểu như vậy mới thấy rằng, bỏ cái giả cay đắng là vì còn thấy thật.

Đúng ra, cái sẵn có mà bắt tụi con bỏ mới khó. Như khi tụi con nằm ngủ có tiếng vẫn nghe, ai làm cái “rầm” thức dậy liền, vì cái đó có sẵn ở lỗ tai. Khi có ai đi cũng biết, mở đèn thì thấy… Cái đó sẵn như vậy, kêu bỏ không bỏ được. Còn cái suy nghĩ lăng xăng, tính toán, tưởng như thật nhưng là đồ giả. Nếu nó thật thì lúc nào cũng vậy, đằng này vọng tưởng khi vầy khi khác, chợt có chợt không, rõ ràng là không thật. Cái thật lúc nào cũng có, đó là cái mình giữ, còn cái giả bỏ đi.

Vọng tưởng là hư dối, tụi con can đảm bỏ không? Đừng sợ, đừng buồn, đừng tiếc vì mấy cái đó không thật có. Biết nó là đồ giả dối chỉ cười thôi. Đừng sợ nó rồi trợn mắt bặm môi cự lại. Cũng đừng tiếc, nhiều khi có mấy cái hay hay hôm qua nghĩ không ra, giờ mới nghĩ ra bỏ không đành. Hoặc thấy điều gì vui vui, bỏ cũng uổng, như ngồi thiền ở đây nhớ bên Pháp thấy vui bỏ không đành. Nghĩ phàm buồn quá thì nghĩ Thánh cho vui nên bị xáo trộn hoài. Tụi con phải nhớ: không tiếc, không sợ, không buồn. Được ba điều này tu sẽ thành công. Tụi con có một trong ba bệnh đó không?

- Dạ, có.

Vậy tụi con phải nhớ, khi ngồi thiền vọng khởi liền buông, đừng tiếc, đừng sợ, đừng buồn, rầy nó thì trị được ngay. Hồi xưa, Thầy nghĩ nó thuộc về tâm lý nên khó, nhưng nay Thầy thấy khác. Bây giờ Thầy chỉ cho tụi con cái hằng thấy hằng nghe của mình, muốn bỏ cũng không bỏ được. Dù mình nhắm mắt mà mở đèn vẫn cảm thấy, bịt tai có tiếng động vẫn nghe. Đó là cái không bỏ được. Bỏ không được thì mang nó đi, còn cái nào bỏ được thì bỏ.

Tôn giả Nghiêm Dương là đệ tử Triệu Châu, một hôm thưa hỏi:

- Một vật chẳng đem đến thì thế nào?

Triệu Châu bảo:

- Buông xuống đi!

Sư thưa:

- Đã là một vật chẳng đem đến, buông cái gì?

Triệu Châu bảo:

- Buông chẳng được thì nên gánh đi.

Tụi con thấy cái gì buông được thì buông, còn
cái không buông được thì gánh đi. Buông bỏ cái tạp nhạp, lộn xộn, giả dối để được cái ròng rặt chân thật, hằng có hiện tiền. Vậy mà không làm là mê cỡ nào? Bởi vậy, Phật nói chúng sanh mê muội, nói hoài không chịu bỏ.

- Dạ, bỏ một lát rồi quên!

Như ở trong chúng, nếu tụi con bỏ được cái lăng xăng lộn xộn đó, cả ngày còn gì buồn không? Đi tới đi lui tỉnh táo cười hoài. Bảo cuốc cỏ thì cuốc cỏ, bảo cuốc đất thì cuốc đất, không có một niệm nào xen vào, đâu còn buồn phiền trách cứ gì ai. Chỉ vì mấy cái lăng xăng, rối loạn đó mà người này phiền giận người kia. Tụi con bỏ hết mấy thứ đó thì cảnh Niết-bàn tại đây, nếu không bỏ dù đây là cảnh tiên cũng thành phàm.

Vậy phàm tục hay Niết-bàn là do chúng ta tự chọn chớ không phải Phật cho, rõ ràng như vậy. Tụi con đủ thẩm quyền, cái nào biết không thật thì bỏ. Bỏ hết các thứ lăng xăng thì cái chân thật hiện tiền, sống trọn vẹn với nó là Niết-bàn. Điều này không có gì khó khăn cũng không gì lạ lùng, nó rất thực tế.

Ví như khi tụi con đang buồn, huynh đệ lại hỏi liền trả lời: “Tôi buồn quá!” Khi nào tụi con thấy hứng thú, có huynh đệ hỏi, trả lời: “Tôi vui quá!” Như vậy câu trả lời có đúng không?

Ai cũng ngỡ rằng vui buồn là mình. Như vậy mình là gì? Mình là vọng tưởng, phải không? Vì buồn vui thuộc về vọng tưởng. Đang buồn có ai đem tin vui lại liền hết buồn. Đang vui có chuyện buồn đến lập tức hết vui. Như vậy vui buồn là vọng tưởng theo duyên. Nói “tôi buồn”, “tôi vui” tức tụi con nhận vọng tưởng là mình. Nếu vọng tưởng là mình thì mình là thứ hư dối lộn xộn. Vô lý quá! Buồn vui là hiện trạng không thật, đổi thay theo cảnh duyên, còn mình từ thủy đến chung nào có đổi thay. Tâm chân thật không đổi thay, đổi thay là tâm vọng tưởng.

Như vậy nhận mình buồn, vui tức là nhận vọng tưởng làm mình. Tu mà nhận vọng tưởng làm mình thì uổng công tu. Thầy nói lẽ thật cho tụi con biết, cứ nắm lấy vọng tưởng làm sao nhận nơi mình có cái thật? Nhận vọng tưởng là mình thì chạy theo nó tạo nghiệp, khi nhắm mắt nó dẫn đi trong luân hồi lục đạo. Nếu sửa soạn ra đi, lỡ có niệm sân dấy lên liền rơi vào ngạ quỉ... Cái tụi con đang chấp cho là mình đó, chính là gốc dẫn đi trong sanh tử luân hồi.

Bởi vậy khi nào buồn có ai hỏi, nên trả lời: “tôi có những vọng tưởng buồn”. Có vọng tưởng buồn chớ không phải tôi buồn. Nếu vui, có ai hỏi sao vui vậy, nên nói: “bữa nay có vọng tưởng vui”. Như vậy đuổi vọng tưởng mới được. Cứ nhận vọng tưởng là mình làm sao đuổi được! Sự tu rất tế nhị, khi nào biết được cái thật thì không bị nghiệp lôi. Vọng tưởng là cái tạo nghiệp, hễ theo nó liền bị nghiệp dẫn. Phải biết rõ nó là vọng tưởng, đừng theo.

Bây giờ giả sử ai nói mình “chị ngu như bò”, giận không? Thầy nói hoài, họ nói mình ngu như bò mà mình có thành bò đâu. Có thành bò không?

- Dạ, không.

Mình vẫn tỉnh sáng bình thường. Nói “như bò” là tiếng nói bên ngoài, nó giả không thật, mình vẫn là mình. Khi người ta nói mình ngu như bò thì cười chơi: “Tôi có thành bò bao giờ!” Rồi thôi. Còn nghe “ngu như bò” liền nổi sân muốn đấm đá người ta, vậy là thành bò chưa? Người ta nói bò thì mình thành bò, người ta nói chó mình thành chó cắn người ta. Bây giờ tụi con nếu là người sáng người tỉnh, người ta nói mình ngu như bò chỉ cười là xong, có thành bò đâu! Không giận hờn gì hết thì có chuyện gì xảy ra với tụi con không? Người tu là như vậy, không cố chấp.

Giả sử có người nói: “Tôi cho chị ăn bánh xèo, ăn bánh ít, đủ thứ bánh.” Nghe nói như vậy tụi con cười hay là mang ơn? Chỉ cười, vì họ nói dóc đâu có đưa bánh cho mình ăn. Người ta nói mình con chó, mình đâu phải thành chó. Tại sao họ nói cho mình ăn, biết đó là giả cười, còn nói con chó lại giận? Nói con chó hay nói cho bánh, cả hai đều là lời rỗng. Tại sao cái kia mình cười không chấp, biết là nói gạt nói dối, còn bảo con chó lại cho là nói thật? Cứ vậy mà thiên hạ giận nhau đùng đùng, gây sự đủ thứ. Khổ đau tại cái gì? Tại si mê. Bởi vậy tụi con ráng đừng si mê nữa. Đừng chấp vọng tưởng là mình, đừng chấp những lời nói giả dối là thật thì hết khổ.

Tụi con phải luôn nhớ vọng tưởng không thật. Nó là cái bóng qua rồi mất, nhận nó là mình nên tạo nghiệp luân hồi đau khổ. Nếu không nhận nó là mình thì nó khởi bao nhiêu cứ khởi, mình vẫn ngồi an nhiên biết rõ từng tên một không lầm. Thấy nó chạy chơi như thấy mấy con chó chạy rong mà mình không phải là chó, còn nếu thấy chó là mình tức quá ngu rồi, phải không?

Vọng tưởng chợt qua chợt lại rồi mất, đâu còn hoài mà nhận là mình. Từ hồi cha mẹ sanh đến ngày nhắm mắt, mình đâu từng mất, đâu từng thiếu. Không phút giây nào thiếu, tại sao lại quên mình mà nhận vọng tưởng? Thường xét kỹ như vậy, mới hiểu tại sao nói ngồi tu phải biết vọng tưởng không theo. Đó là chỉ mặt cho biết nó là cái bên ngoài, không phải thật mình.

Nếu tụi con biết nó là vọng tưởng, lúc đó ai biết? Là mình biết. Vậy vọng tưởng là cái bị biết. Như nhìn thấy cây tùng thì cây tùng đâu phải là mình. Cũng vậy, chúng ta biết vọng tưởng thì vọng tưởng không phải là chúng ta. Tại sao cứ nhận vọng tưởng là mình rồi khổ. Chỉ có bao nhiêu đó dạy hoài mà không tỉnh, giờ tỉnh chưa?

- Dạ, tỉnh.

Nếu tụi con tỉnh sẽ có hai điều hay:

Điều thứ nhất: Ví như tụi con đau chân, lúc đó là “mình đau” hay “cái chân đau”?

- Dạ, chân đau.

Vậy mà ai cũng nói “tôi đau”. Khi chúng ta biết chân đau là có Ông chủ biết, chân là cái bị mình biết. Cho nên trong cái đau có cái không đau. Cái biết đau không hề đau. Cái chân này đau nên mình biết đau chớ không phải mình đau. Hiểu vậy rồi tụi con sẽ không bị đồng hóa với thân xác thịt này. Tất cả các vui buồn khác cũng vậy. Thấy rõ và không bị đồng hóa với những vọng tưởng vui buồn thì không còn khổ.

Điều thứ hai: Chúng ta không bị đồng hóa với thân này thì khi nhắm mắt mình không bị đau đớn khổ sở, chỉ cười: “Ờ, cho mày muốn làm gì thì làm, cuối cùng mày hoại chớ ta có hoại đâu mà sợ.” Còn nếu thấy thân này là mình, lúc chết thân nát có phải mình nát theo không? Nếu nát theo, chết rồi hết, vậy là tụi con duy vật rồi.

Cho nên biết thân này là hiện tượng duyên hợp hư giả, nó hợp rồi tan, còn cái thật của mình không mất. Chết rồi thân này rã chớ tinh thần không rã. Nếu theo nghiệp tức đi trong luân hồi lục đạo, không theo nghiệp là chấm dứt luân hồi. Theo nghiệp gốc từ chấp vọng tưởng, nên nỗ lực tu là để dẹp vọng tưởng. Vọng tưởng hết tức không còn trầm luân sanh tử, gọi là giải thoát.

Ã

Hôm nay Thầy kể lại cho tụi con nhớ thật sâu câu chuyện này. Đây cũng là đường lối tu của mình.

Thiền sư Duyên Quán tông Tào Động, một hôm ông Tri viên tới hỏi:

- Bạch Hoà thượng khi giặc nhà khó giữ phải làm sao?

Ngài Duyên Quán nói:

- Biết nó thì không phải oan gia.

- Sau khi biết được thì sao?

- Đày nó đến nước vô sanh.

- Nước vô sanh đâu không phải chỗ an thân lập mạng?

- Nước chết không chứa được rồng.

- Thế nào là nước sống chứa rồng?

- Dậy mòi chẳng thành sóng.

- Chợt khi đầm nghiêng núi đổ thì sao?

Ngài Duyên Quán từ trên tòa bước xuống nắm đứng lại, nói:

- Chớ nói ướt góc ca-sa của Lão tăng.

Bây giờ Thầy giải thích từng đoạn cho tụi con nhớ.

Thầy Tri viên hỏi: “Giặc nhà khó giữ phải làm sao?” Giặc nhà là gì?

- Dạ, là vọng tưởng.

Ai cũng có vọng tưởng lăng xăng, nó cứ chạy lung tung, phá phách mình kềm không nổi, gọi là giặc nhà.

Thầy Tri viên hỏi: “Giặc nhà khó giữ phải làm sao?” Ngài Duyên Quán đáp: “Biết nó thì không phải oan gia.”

Vọng tưởng dấy lên mình biết không theo thì nó không hại mình được. Oan gia là kẻ thù hại mình. Nếu không theo thì nó không làm gì được mình. Không nắm vững chỗ này không biết đường tu. Như vậy, khi nào giặc nổi loạn bên trong, biết nó là vọng tưởng, vọng tự nhiên hết, giống như tụi con tu hiện giờ vậy. Nó không hại tụi con thì không phải là oan gia.

Hỏi: “Sau khi biết được thì sao?” Ngài trả lời: “Đày nó đến nước vô sanh.”

Tức là biết vọng không theo thì nó dừng, dừng rồi lặng, hoàn toàn yên lặng. Đó là “đến nước vô sanh”. Tụi con đày nó tới đó chưa?

- Dạ, chưa.

Tại sao còn thương không chịu đày nó đi? Như vậy đi theo thứ tự, mới đầu biết nó, nó quậy phá mình không theo. Bây giờ, biết nó rồi làm sao nữa? - Phải đẩy nó tới chỗ yên lặng, là nước vô sanh. Tới chỗ yên lặng hoàn toàn rồi làm sao nữa?

Ông Tri viên hỏi tiếp: “Nước vô sanh đâu không phải chỗ an thân lập mạng?” Tức là chỗ đó phải là chỗ cứu kính, tột cùng chưa? Ngài trả lời: “Nước chết không chứa được rồng.”

Nghĩa là khi chúng ta lặng hết vọng tưởng, ngỡ đó là chỗ cuối cùng, ai dè là nước chết. Tại sao vậy? Vì vọng tưởng lặng hết mà chưa nhận ra Ông chủ nên nói “nước chết không chứa được rồng”. Đó không phải là chỗ an thân lập mạng. Tụi con tới nước chết chưa? Nước chết còn chưa tới, huống nữa là chứa rồng.

Hỏi: “Thế nào là nước sống chứa rồng?” Ngài trả lời: “Dậy mòi mà chẳng thành sóng.”

Nghĩa là nó gợn gợn mà không thành sóng. Khi tụi con biết rồi, vọng tưởng lặng, mình thường có cái biết rõ ràng. Biết rõ ràng nhưng không khởi niệm, đó là dậy mòi mà không thành sóng. Chỉ ra như vậy là đáo để rồi. Nghĩa là, tâm lặng lẽ là chỗ nước chết, còn cái biết được cái lặng đó, là tâm thật của mình. Cái tâm đó hằng tri hằng giác chớ đâu phải vô tri mà nói “nước chết không chứa được rồng”. Tụi con thấy nói quá hay: “Dậy mòi mà chẳng thành sóng.”

Ông Tri viên hỏi: “Chợt khi đầm nghiêng núi đổ thì sao?”

Nghĩa là khi mọi sự tan vỡ hết thì thế nào? Ngài từ giường thiền bước xuống nắm đứng lại nói: “Chớ nói ướt góc ca-sa Lão tăng.” Dù cho trời đất có nghiêng đổ ta vẫn hoàn toàn tự tại. Hay chưa? Bao nhiêu đó tụi con nhớ mà tu.

Đường lối tu rõ ràng như vậy, nhưng thoạt nghe thấy khó hiểu. Hiểu rồi mới thấy giá trị câu chuyện, nắm vững như vậy tu mới không bị lầm lạc. Rất tiếc là nhiều người tu chưa tới nên không thấy chỗ thâm thúy này. Tụi con tới chưa? Tới nước chết là khá lắm rồi đó. Hàng Nhị thừa hay thích chỗ tâm định, định là chỗ nước chết. Nhị thừa kẹt chỗ Niết-bàn vô sanh, chớ chưa nhận ra được Ông chủ của mình. Thôi, bao nhiêu đó đủ cho tụi con tu ba năm rồi.

Ã

Trong kinh Pháp Hoa có đoạn kể Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng cung kính chấp tay nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.”

Câu nói này đối với người biết tu thì thấy hữu lý, khích lệ, còn đối với người không biết tu, họ cho là nói bậy nên mắng chửi đánh đập. Cũng vậy, người biết đạo nghe tụi con nói: “người nào cũng có Phật tánh”, họ rất vui. Trái lại, người không biết đạo nghe rồi xầm xì, lúc ấy tụi con còn muốn nói nữa không? Chắc là cụt hứng. Nhưng với Bồ-tát Thường Bất Khinh thì khác. Ai đối xử sao Ngài cũng bằng lòng, chửi cũng được, đánh cũng được, ở gần sợ bị đánh nên chạy ra xa rồi cũng nói câu đó. Như vậy, câu nói đó có ý nghĩa sâu đậm đến mức nào mà Ngài cố gắng tối đa để nhắc nhở mọi người?

Đây nói lên tầm vóc quan trọng của lòng từ bi. Tất cả chúng sanh mê muội, thấy thân xác này là thật mình, cái suy nghĩ lăng xăng là tâm mình, không biết nơi mình có sẵn tánh Phật. Vì mê nên quên. Bây giờ chúng ta biết lại không nói cho họ thì tội, nên bằng mọi giá phải nói cho họ biết. Người ta nghe rồi mà không tin theo là quyền của người ta, còn mình không nói cho họ biết là mình không làm tròn bổn phận.

Cũng như Thầy thường thí dụ, chúng ta được cha mẹ chia cho châu báu, mình cất rồi biết chỗ đào lên lấy; còn anh em chúng ta người nào cũng có mà họ lại không biết. Nên chúng ta phải ráng chỉ cho họ biết, chịu đào tìm hay không là chuyện của họ. Còn phần mình nếu biết mà không chỉ thì chưa tròn bổn phận, là bỏn sẻn. Vì vậy nên dù người ta chê bai, chửi bới, hành hạ gì Bồ-tát Thường Bất Khinh cũng phải nói, còn tin hay không là quyền của người ta.

Như vậy có cực đoan không? Mới nghe như cực đoan, người ta không chịu nghe pháp mà cũng ráng nói. Thật ra, đây không phải nói pháp mà nói lẽ thật, chỉ cái có sẵn mà mọi người không biết. Trong tụi con, có đứa nghe nói tánh Phật còn không tin, huống nữa là người đời. Tụi con tin hết chưa?

- Dạ, tin.

- Tin nhẹ quá nên Thầy nói hoài, khan tiếng khô cổ vẫn cứ phải nói, chừng nào tin sâu mới thôi. Mình biết là có mà không nói là ích kỷ. Tụi con thấy trong kinh Pháp Hoa, Phật nói rất là chí thiết, nếu Ngài nói pháp Thanh văn cho các vị A-la-hán tu tới đó cho là viên mãn thì coi như Ngài bị lỗi keo kiệt, vì có cái quí hơn mà không chịu chỉ. Nên cũng trong kinh này, đức Phật nói trắng ra cho chúng ta biết mỗi người đều có hạt minh châu vô giá, phải tự tìm nhận ra. Như thế Ngài mới tròn bổn phận.

Tinh thần của người tu là biết cái gì hay phải đem nói cho mọi người cùng biết. Như vậy không có nghĩa là mình muốn làm thầy thiên hạ. Chỉ vì muốn cho mọi người cùng biết điều hay đó như mình để họ trở lại sống với cái thật. Cả thế gian này có mấy người biết mình có Tánh chân thật? Chỉ có một nhóm người thôi. Người đời tối ngày cứ lo cho thân và lo tranh đấu bảo vệ những suy nghĩ của mình, sao cho thắng được người. Vì mãi lo tranh đấu, bảo vệ cái hư dối nên không hề biết mình có cái thật. Thật là đáng thương!

Chư Phật, chư Tổ dạy chúng ta phải mồi đèn nối lửa, nghĩa là tự mình thắp sáng trí tuệ và đem truyền cho mọi người. Bây giờ Thầy rao, Thầy nói cho mọi người biết, tới tụi con cũng ráng la lên cho người ta nghe. Nhưng trước khi nói cho người ta, chính mình phải biết chắc chắn không nghi ngờ. Bởi vậy lúc này là thời gian tụi con ngồi tìm cho ra, thấy cho rõ. Chừng nào tìm ra và thấy rõ rồi, cười lên được mới nói cho người ta nghe. Đó là bổn phận của tụi con. Ở đây Thầy tạo điều kiện cho tụi con làm được việc đó.

 

MỤC LỤC

00 Trang bìa

01 Lời đầu

02 Thỉnh nguyện Tăng

03 Thỉnh nguyện Ni

04 Mục lục

PHỤNG HOÀNG CẢNH SÁCH

 

THÍCH THANH TỪ

PHỤNG HOÀNG

CẢNH SÁCH

Tập 5

DL 2004 - PL 2548

 

Lời đầu

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết. Như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hoà thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hoà thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi.

Cuối Đông Nhâm Ngọ - 2002.

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 27-8 Bính Tý (9-10-1996)

Hôm nay tôi không nói chuyện xa xôi mà muốn rà soát lại trong chúng coi có thực hành bản Thanh qui không. Bây giờ hỏi toàn chúng, trừ Tri khố với Thủ bổn ra, có ai giữ tiền không? Nếu có đưa tay coi! Như vậy là không ai giữ tiền, thế mà tôi được nghe có người gửi cho mấy vị đi chợ mua món này món kia. Tôi không hiểu cái đó ở đâu ra. Đó là điều không hay.

Tôi giải thích cho quí vị hiểu vì sao trong Thanh qui có điều lệ này. Lâu nay tôi thường trách ở chùa thường xảy ra những việc bất công, ai có thân nhân, thí chủ tặng biếu tiền bạc hoặc đồ vật gì cũng được giữ xài riêng. Có người thân nhân hoặc thí chủ khá giả nên gửi cho nhiều thành ra dư. Có người thân nhân nghèo lại không có thí chủ nên sống một cách đạm bạc thiếu thốn. Đôi khi những người thiếu thốn nhìn thấy huynh đệ có tiền bạc dư dả liền để ý, khi nào huynh đệ sơ hở, để quên thì khởi lòng tham muốn lấy. Do đó xảy ra chuyện trộm cắp ở chùa. Đây là điều đáng ra không nên có, mà vẫn có, xuất phát từ sự bất công đó. Cùng sống trong chúng là những người đồng đạo, đồng tu mà kẻ dư, người thiếu thì dễ nảy sanh sự bất bình, rồi đi đến chuyện tham lam không tốt.

Qua kinh nghiệm đó, tôi cố gắng thực hiện cho được phép lục hoà. Trong Thanh qui có nói tất cả tài sản trong Thiền viện là của chung, không ai được quyền giữ phần nhiều hơn hoặc giữ riêng cho mình, đó là nói tổng quát. Trong giới thứ mười của Sa-di cũng có ghi là không được giữ tiền bạc. Vì vậy tôi muốn toàn chúng ở đây ai cũng là người giữ giới thanh tịnh, tối thiểu là mười giới. Đồng thời ai cũng là người sống hoà đồng với toàn chúng, không có sự hơn kém. Có vậy nếp sống đạo mới được tốt đẹp.

Khi chúng ta chủ trương lục hoà mà có người giữ chút ít của riêng là phạm giới. Lại còn gửi mua cái này cái kia ăn riêng là tội mích chúng, không hoà. Như vậy không tốt. Nếu một người làm được, những người khác cũng bắt chước theo. Vô tình mấy chú phá hủy những gì tôi chủ trương, phá hủy những gì tốt đẹp của Thiền viện. Trong khi tôi tán thán chúng ở đây sống lục hoà, giữ giới luật thanh tịnh, lại có một hai người không nhớ, không giữ, vậy là làm hư cả chúng. Điều đó mới thấy dường như nhỏ, nhưng thật ra rất hệ trọng, làm mất nề nếp nghiêm chỉnh của mình, rồi cũng giống như các nơi không hơn không kém.

Vậy nên có ai lỡ giữ tiền hãy đem nộp cho Thủ bổn, vì Thủ bổn là người giữ của chung. Giữ cho Tam Bảo thì không phạm giới, còn giữ riêng cá nhân xài là phạm giới. Mong rằng tất cả chúng hiểu được chủ trương, đường lối của Thiền viện mà xử sự cho đúng, đừng sai chạy. Nhiều khi quí vị gửi những người đi chợ, nếu họ không nhận sợ quí vị buồn, còn nhận thì họ áy náy. Cho nên ngang đây tôi tuyên bố hẳn: Nếu ai gửi tiền mua đồ riêng thì người gửi bị tội mười, còn người nhận bị tội năm, đó là tội đồng lõa.

Vậy để cho tốt đẹp, mỗi người nên cố gắng một chút, sao cho toàn chúng được thanh tịnh. Đừng vì một hai lý do nhỏ làm hư tập thể của mình. Không phải giữ giới không có tài sản riêng là được giải thoát, nhưng nhờ giữ giới đó khiến tâm mình an tịnh. Thí dụ: Có tiền liền muốn mua cái này sắm cái nọ, phải nghĩ ngợi, tính toán; còn nếu trong tay không có đồng xu thì có nghĩ gì đâu, cho gì ăn nấy, cần gì cứ đến Phó quản chúng hoặc Tri sự xin.

Tôi đã nói trước với toàn chúng rằng khi tôi còn sống đây, phần lo cho chúng, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn không để cho quí vị thiếu. Và quí vị cũng đừng vì quyền lợi cá nhân mà giữ riêng không tốt. Dù ai tặng cho một hai trăm ngàn cũng đem giao Thủ bổn, để nói lên tâm hồn cao thượng của mình, không tham ái tiền bạc. Nếu không thì từ tham ái tiền bạc sẽ sanh ra nhiều cái tham khác.

Đừng nghĩ cái gì của thân nhân cho mình cứ giữ riêng, không đúng. Nếu thân nhân hay thí chủ phát tâm cúng vài chục ngàn, mình nên cho họ biết luật của Thiền viện là không được giữ riêng, nếu phát tâm nên cúng chung toàn chúng, đừng cúng riêng. Người ta nghe sẽ hiểu, từ đó họ có tâm rộng rãi hơn, không thiên về một người.

Một điều khổ tâm trong nhà đạo là thí chủ hay Phật tử khi thấy ông thầy nào sáng sủa dễ thương là cứ nhét cho, gửi cho, cúng riêng. Thấy ông thầy nào hơi đen đúa, nói năng khô khan thì không thương, cũng không cho gì hết. Từ tâm phân biệt riêng tư như vậy, lần lần khiến cho trong đạo nảy sanh những cái dở.

Bởi vậy, chúng ta phải làm sao tập cho người Phật tử có cái nhìn bình đẳng. Trong chùa cùng tu cùng học với nhau thì công đức ngang nhau. Muốn giúp nên giúp chung, không muốn giúp thì thôi, đừng có tâm phân biệt vì cá nhân. Tâm niệm bình đẳng đó khiến cho Phật tử nhìn người trong đạo với cái nhìn đẹp. Nếu mạnh ai nấy nhận rồi xài riêng sẽ tạo sự sai biệt trong chúng, từ đó dễ sanh ra những chuyện bất hoà.

Tôi mong rằng trong toàn chúng, ai đó có giữ tiền riêng đem ra giao cho Thủ bổn, cúng hết vô của chung, khi nào bệnh, hoặc có duyên sự đi đâu thì Thủ bổn xuất tiền. Ăn mặc đã có đủ, còn cái gì phải lo, phải bận tâm? Ở đây ai bệnh, thuốc men dầu mắc hay rẻ, Thủ bổn cũng phải xuất. Phải chi Thủ bổn giới hạn, chỉ xuất tiền từ bốn năm trăm ngàn trở xuống, không được vượt quá, rồi quí vị lo sợ bệnh nhiều, không đủ điều kiện chữa chạy nên phải giữ riêng. Ở đây không như vậy, Thiền viện bao thầu tất cả. Những khó khăn của quí vị Thiền viện đều chịu trách nhiệm bảo bọc hoàn toàn, thì có lý do gì mà giữ riêng?

Giữ riêng là điều không tốt, làm hư mình, hư người khác nữa. Tôi mong toàn chúng phải có cái nhìn sáng suốt và bình đẳng, đừng nhìn thiên vị không hay. Đó là lời tôi nhắc nhở hôm nay, mong toàn chúng nhớ để cố gắng thực hiện.

Ngày 13-11 Bính Tý (22-12-1996)

Qua một tháng rưỡi tôi vắng mặt, quí vị có ít nhiều sai sót, điều đó cũng đáng buồn. Lý đáng không nên có những cái dở đó, mà thỉnh thoảng cũng có, đây là điều không hay.

Bây giờ tôi nhắc nhở thêm trong chúng để nhớ tiến tu. Tôi muốn nói đến đức hỉ xả của người tu. Tất cả chúng ta tu theo Phật, bốn chữ từ, bi, hỉ, xả là bốn hạnh mà người tu không bao giờ được thiếu. Tôi chắc rằng hạnh từ bi quí vị ai cũng có, nếu không có thì không thể nào đi tu được. Còn đức hỉ xả tôi thấy quí vị còn lơ là, chưa thực hiện được.

Tại sao phải nói hỉ xả? - Vì tất cả chúng ta ai cũng có những thói quen, tập khí cũ. Bởi vậy khi sống chung trong một tập thể đông người không làm sao tránh khỏi va chạm, từ ý kiến đến hành động đều không giống nhau nên dễ sanh bực bội, chống đối. Nếu có bực bội, chống đối là gốc của phiền não, của tham sân si chớ không phải gốc đạo đức. Bởi vậy Phật dạy chúng ta tu là phải tập đức hỉ xả. Dù gặp điều gì quá lắm đi nữa mình cũng vui vẻ bỏ qua. Có người xúc phạm đến danh dự, quyền lợi, xúc phạm đến bản ngã cá nhân, mình cũng phải khéo bỏ qua, bỏ một cách vui vẻ chớ không phải gượng ép.

Chúng ta nên nhớ mình đã là người tu, khi bị xúc phạm là cơ hội thử thách để coi mình còn phiền não nhiều ít. Cho nên gặp những trường hợp đó, mình cứ nghĩ đây là dịp tốt để vươn lên, do đó vui vẻ dẹp bỏ tự ái, bản ngã để tiến tu, đó là khéo tu. Vậy là mình đã vượt lên một lần phiền não. Còn nếu không khéo có cái gì xảy ra liền bực bội, nhiều khi không nói ra lời nhưng cứ ấp ủ trong lòng, như vậy cũng chưa có hỉ xả. Tôi khuyên tất cả quí vị, khi gặp những điều trở ngại, ý kiến bất đồng, nên giải quyết qua rồi bỏ, sau đó vui vẻ chớ không nên ôm ấp bực bội. Nếu không nó sẽ làm chướng cho sự tu, không có lợi gì hết mà còn có hại.

Đối với người tu, đức hỉ xả thật là thiết yếu, giúp mình vượt qua tất cả những chướng ngại trên đường tu. Bất cứ tập thể nào cũng có sự va chạm, chống trái nhau, hoặc lớn hoặc nhỏ, vì trên đời không ai giống ai cả, nhưng mình nên xem đó là cơ hội tốt để thấy được mình rõ hơn. Nếu sống ở nơi mọi người đều tâng bốc, quí kính mình thì không bao giờ tập đức hỉ xả, tu hạnh nhẫn nhục được. Vì vậy trong chúng, nếu thấy có những điều huynh đệ làm trái ý nên xem đó là việc rất thường, là cơ hội tốt để nhìn lại coi mình có còn sân si, bực bội hay không. Nếu còn, đó là đạo đức mình chưa sâu, chưa cao. Đừng thấy còn hờn giận là hay, nghĩ như vậy là không biết tu, không biết tiến trên đường đạo.

Cho nên tất cả người tu chúng ta đều phải khéo xoay lại mình khi có việc đụng chạm với nhau. Có những chuyện có thể thành tóe lửa, nhưng nếu chúng ta biết vui vẻ, xả bỏ, không có một ý niệm hờn trách, thì đó là một bước tiến đáng kể của mình. Đừng nên cố chấp, cố chấp là trái đạo lý.

Ngày nay chúng ta sống trong chúng, ai cũng giữ luật giữ giới như nhau mà còn có những va chạm, huống nữa mai kia ra làm Phật sự, đâu phải việc gì cũng toại nguyện như ý hết. Chúng ta sẽ gặp những khó khăn, nếu không khéo hỉ xả, không bỏ qua được tất sẽ bực bội rồi sanh phiền muộn, làm sao vuông tròn Phật sự được?

Cho nên có lần tôi nói với đại chúng: Tôi không thích chúng nhập thất miên viễn, bởi vì ở trong thất lâu, tự thấy mình thanh tịnh rồi hài lòng với sự thanh tịnh đó. Đến khi ra thất, gặp những điều trái ý dễ sanh bực bội, thành ra vẫn còn bị kẹt, không có lợi gì. Lâu lâu mỗi người được nhập thất một thời gian rồi ra sống với chúng, với huynh đệ để thử coi sự tu, đạo lực của mình có vượt qua các trở ngại hay không. Nếu vượt qua được mới tin rằng đạo đức của mình khá, có tiến.

Vừa rồi đi nước ngoài, tôi cho Phật tử tham vấn, có người hỏi rằng:

- Thưa Thầy, có nhiều vị nói rằng mình tu chứng cái này, đắc cái kia. Vậy lấy gì làm thước đo để tin được người đó thực tu thực chứng?

Tôi trả lời:

- Phật dạy có cây thước tám gió: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Chừng nào tám gió thổi không động thì người đó là thứ thật, còn nếu mới một gió mà nổi sân si lên, đó là giả hiệu.

Quí vị lấy cây thước đó đo coi mình giả hiệu hay thứ thật, nếu còn bị các thứ gió làm quay cuồng, tức chưa phải thứ thật.

Đôi khi giới tu sĩ chúng ta có người hay khoe đắc cái này, chứng cái nọ mà khi gặp việc bệnh nào tật nấy y nguyên. Do đó Phật bảo phải lấy tám gió làm cây thước đo. Nếu chúng ta thật là người đạt đạo thì tám gió đến không lay chuyển nổi, còn chúng ta tu chưa tới đâu, chỉ một gió đã bay rồi. Đó là lẽ thật. Cho nên trong chúng quí vị đừng ngỡ rằng giờ phút này tâm mình thanh tịnh là sẽ thanh tịnh hoài. Không phải vậy đâu! Khi nào đối diện với bát phong mà không lay động mới là thanh tịnh thật!

Sống yên trong chúng thì thuận nhiều, nghịch ít. Còn khi ra đương đầu với bên ngoài, không phải mình nói đâu mọi người nghe đó, có khi họ tán thành, có lúc họ chống đối. Làm sao khi họ thuận nghe mình hoan hỉ, lúc chống lại mình cũng hoan hỉ, không bực bội gì thì làm Phật sự mới vuông tròn được.

Thật ra đời tôi những khi đi làm Phật sự đâu được suôn sẻ như Tăng Ni, Phật tử tưởng, không phải tới đâu người ta cũng tán thán, công kênh mình, có những trường hợp họ cũng chống đối. Mình không thắng được các gió thì Phật sự không bao giờ vuông tròn.

Chúng ta là người chịu trách nhiệm, vừa phải cố gắng tu cho đạt đạo, vừa đem chánh pháp truyền bá cho mọi người. Vì trọng trách đó nên phải tập rèn cho đủ những đức tánh tốt, nhất là đức hỉ xả, để vui trong những chướng ngại, buông hết không bận lòng. Được vậy, việc tu và Phật sự của mình mới có kết quả. Nếu còn ôm ấp phiền não thì tu không được, làm Phật sự cũng không thể thành tựu. Bởi vậy tôi muốn ai cũng có trách nhiệm khi được giao việc này việc kia, đồng thời để ý tự xét coi tâm mình đã an ổn chưa hay còn có gì gút mắc, để cố gắng cởi mở, đừng cho kẹt nữa.

Quí vị đừng nghĩ rằng ở trong chúng cực quá, kiếm cái thất riêng ở tu, nghĩ vậy là hết sức sai lầm. Có một cái thất riêng thì dễ rồi, nhưng còn bao nhiêu thứ chuyện phức tạp khác. Như mình nhập thất mà người hộ thất đến trễ cũng thấy hơi buồn, ở trong thất nghe bên ngoài có gì lao xao, lộn xộn cũng lắng nghe, gặp hộ thất liền hỏi. Điều đó chứng tỏ mình chưa an ổn, còn mắc kẹt bên ngoài.

Bởi vậy phải làm sao trong lúc tu giữa huynh đệ với nhau, chúng ta vẫn mừng là mình rất có diễm phúc được sống trong một tập thể tốt lành như thế này. Đồng thời mình cũng hân hoan rằng trên đường tu có thầy có bạn, khi sai sót có người nhắc nhở. Nếu ở trong thất một mình, có sai sót ai biết, ai nhắc nhở? Rốt cuộc mười năm, hai mươi năm trong thất ra rồi những thói thế tục cũng chưa dẹp bỏ được. Nhiều người hiểu lầm, cứ tưởng vô thất là tu hay, không ngờ đôi khi có lợi, đôi khi không. Nhất là nếu ở trong thất lâu, tu có cái gì lạ lạ, mình không biết dè dặt thận trọng, đem khoe nói tùm lum khiến cho tổn đức, rồi sanh ra những thương tổn khác không lường được.

Cho nên ở đây tôi hết sức dè dặt. Trong chúng mỗi khi có gì tiến bộ, tôi mừng, vui rằng trên con đường làm Phật sự hướng dẫn Tăng Ni tu hành được một chút tiến bộ. Nhưng tôi vui trong dè dặt, không bao giờ dám khoe với ai, chỉ thỉnh thoảng nói chút ít để người ta vững lòng tin đối với sự tu hành của Tăng Ni ở đây. Tuy nhiên, tôi không bao giờ đề cao một cá nhân nào, chỉ thầm lặng để cho tất cả yên tu. Nhờ đó mà đức hạnh Tăng Ni càng ngày càng sáng hơn, đầy đủ hơn.

Trong một tập thể, nếu tất cả huynh đệ đều có chí hướng quyết tu là điều đáng mừng. Chúng ta sống bên thầy bên bạn, khi làm gì sai trái liền có người nhắc nhở, chỉ bảo, do đó đời tu của mình càng ngày càng vững vàng, cứng cỏi hơn. Đây là điều hết sức thiết yếu. Đừng lầm lẫn cho rằng mình ở thất riêng tu hay được một trăm phần, còn ở chúng thì thua sút. Đừng nghĩ như vậy, không đúng lẽ thật. Tôi đã thấy nhiều người nhập thất năm năm, mười năm rồi ù lì, trì trệ không được gì, nhiều khi còn có những cái chướng làm trở ngại lớn lao cho đường tu nữa.

Bởi vậy trong chúng mỗi người phải ý thức rằng, chúng ta sống trong tập thể nên hỉ xả, mở lòng rộng rãi, bao dung với nhau. Huynh đệ người ý kiến này người ý kiến nọ, điều hay thì dùng, việc dở bỏ qua, không hờn giận trách móc gì nhau. Ai cũng có quyền góp ý kiến, nhưng cái gì hay mình làm, dở thì thôi. Đừng thấy có ý kiến trái mình rồi sanh bực bội là không tốt. Đó là tâm chưa được bao dung rộng rãi.

Thật ra khi tôi làm Phật sự có cả năm trăm, bảy trăm Tăng Ni ở dưới, nếu tôi có tâm bực bội như vậy thì sẽ phiền não suốt ngày, không bao giờ yên được. Người ta ai cũng có bệnh riêng, nếu họ khéo biết hoặc mình nhắc cho sửa sẽ trở nên tốt. Không nên vì một, hai tật xấu của họ mà bực bội.

Nhưng ở đây, chú nào xin đi tôi không có một lời khuyên ngăn giữ lại. Như vậy có thiếu lòng từ bi hay không? Thật ra, tôi nghĩ tôi đã làm hết sức mình, đã tròn trách nhiệm của tôi, cố gắng bảo bọc mà họ không cảm thấy ưng ý, bằng lòng ở đây thì thôi. Nếu cố giữ chỉ làm họ thêm phiền não, không có lợi, lại khiến họ đâm ra cao mạn, tưởng rằng mình quan trọng. Bởi vậy, nếu ai muốn đi, tôi sẵn sàng cho chớ không khuyên ở lại. Không bao giờ tôi bắt buộc một người nào ở lại để làm việc gì riêng cho cá nhân tôi.

Toàn chúng phải hiểu được ý nghĩa đi tu là hi sinh cả một cuộc đời để làm điều cao thượng, quí báu chớ không phải làm chuyện tầm thường. Muốn đời mình trở thành cao thượng, quí báu thì phải ráng tập có tâm bao dung, rộng rãi, hỉ xả, bỏ qua hết những lỗi lầm của huynh đệ để lòng mình rỗng rang trong sáng. Nếu còn cố chấp, tâm mình sẽ trở thành hẹp hòi, thiếu độ lượng. Ở trong chúng chỉ bốn mươi, năm mươi người mà mình không kham chịu nổi, khi ra đương đầu với cả muôn, ức người làm sao an nhẫn được? Cho nên phải ráng! Khéo biết xả bỏ những phiền não đang chất chứa trong lòng, sống vui hoà hợp với nhau để cùng tu hành, cùng lo Phật sự, đó là người quyết chí tu. Ngược lại, nếu ôm ấp những điều riêng tư, hờn giận nhau rồi làm trở ngại đường tu, mai mốt lui sụt thì phí cả một đời mà kết quả không đến đâu.

Vậy hôm nay nhân ngày thỉnh nguyện, tôi nhắc toàn chúng từ lớn đến nhỏ tập sống với tâm rộng rãi, bao dung. Không nên vì một vài hành động nhỏ nhặt của huynh đệ mà đâm ra chán nản, bực bội, thối thất. Phải luôn tha thứ, hỉ xả cho nhau để cuộc sống được hoà vui, tu hành càng tiến, như vậy mới xứng đáng mang trọng trách tự giác, giác tha. Nếu không được như vậy sẽ uổng phí cả một đời tu cao quí của mình. Đó là lời nhắc nhở của tôi.

Ngày 13-12 Bính Tý (21-1-1997)

Phần thỉnh nguyện đã xong, tôi có ít lời nhắc nhở chư Tăng tinh tấn tu hành.

Vừa rồi có Phật tử hỏi tôi:

- Thưa Thầy, người tu theo Thiền tông có nhân duyên gì để khởi tâm từ bi?

Tôi trả lời rằng:

- Người tu theo Thiền tông khi có tỉnh, có giác rồi tự nhiên khởi tâm từ bi. Bởi vì trong nhà Phật luôn luôn dạy người xuất gia chúng ta phải là người chèo thuyền Bát-nhã để cứu vớt chúng sanh đương chìm đắm trong biển mê, đưa họ lên bờ giác ngộ. Đó là trọng trách của người tu. Khi chúng ta tu có được những lợi ích, những phút tỉnh giác, mới thấy sự quí báu, cao siêu của đạo. Khi ấy không cần khởi niệm từ bi mà tự nhiên chúng ta vẫn thương những người đang sống trong mê lầm.

Tôi ví dụ như chúng ta ngồi chơi, người bạn bên cạnh đang ngủ mê thấy mộng dữ la khóc, lúc đó chúng ta làm sao cứu họ? Chỉ cần lay gọi cho họ tỉnh, khi thức rồi thì mộng dữ tan mất. Cũng vậy, chúng sanh đang mê lầm đắm chìm trong biển khổ, trăm ngàn muôn ức điều khổ dồn dập, người nào cũng than thở đau khổ, trong khi chúng ta tỉnh giác rồi làm sao nỡ để họ mặc tình chịu khổ đau! Cho nên lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng lao mình vào cảnh khổ để đánh thức, lôi họ dậy đừng mê lầm nữa.

Như vậy mê là nhân của đau khổ. Cho nên người tu thiền hay tu theo đạo Phật chỉ cốt được giác, giác mới hết khổ. Không phải tu để được một chút bình yên hay vui vẻ trong cuộc sống rồi cho đó là đủ, mà tu cho tới giác ngộ. Nếu chưa giác ngộ cao siêu thì ít ra cũng giác ngộ từng phần. Nhờ đó mình nhìn lại mới thấy chúng sanh là đáng thương.

Thí dụ chúng ta ngồi thiền, một niệm dấy lên liền biết nó hư dối nên gọi là vọng tưởng, không theo, đó là tỉnh, là giác. Bởi vì từ ngàn xưa đến nay chúng ta cứ tưởng niệm khởi là mình nghĩ, mình tính nên chạy theo, chấp nó là mình, tạo nghiệp rồi thọ khổ, đó là mê. Ngày nay biết tu, thấy rõ các niệm chỉ là bóng dáng duyên theo trần cảnh mà dấy khởi, không phải tự có. Thấy rõ như vậy, biết nó là ảo ảnh hư dối, mình không theo, tức không bị lầm mê. Thấy biết được vọng tưởng là tỉnh, là giác. Tuy chưa tỉnh giác trọn vẹn nhưng vẫn luôn luôn đi theo đường tỉnh giác không lạc đường mê.

Như vậy chúng ta tu thiền cốt làm sao tới phút giây nào đó những mê lầm vọng tưởng không còn quấy nhiễu nữa, trí tuệ trong sáng hiện tiền, đó là giác. Tuy giác chưa tròn nhưng vẫn được một đôi phần. Từ đó chúng ta mới thương những người đang sống mê trong cuộc đời tạm bợ này, họ đã gây không biết bao thứ nghiệp là nhân của khổ đau. Do đó chúng ta mới đem hết các phương tiện để cứu vớt họ.

Cho nên chư Tổ thường nói, người tu là kẻ đưa đò. Chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt người trong biển mê đưa lên bờ giác, đó là hình ảnh cụ thể nói lên sứ mạng của chúng ta. Như vậy trọng tâm của người tu không gì ngoài giác ngộ. Tất cả đau khổ của chúng sanh đều bắt nguồn từ cái mê. Trong kinh có một đoạn Phật dạy: Người bị thiêu đốt trong địa ngục chưa phải khổ, bị làm ngạ quỉ đói khát chưa là khổ, bị làm trâu bò kéo cày kéo bừa nặng nề, người ta đánh đập cũng chưa phải là khổ, chỉ có kẻ si mê không biết lối đi, đó mới là khổ.

Như vậy, cái khổ Phật nói không phải ở địa ngục, làm ngạ quỉ hay súc sanh. Chính si mê mới là nguồn gốc của đau khổ. Nếu còn si mê thì lục đạo luân hồi hay ba đường ác chực sẵn, chúng ta ra vào liên miên không dừng, không dứt. Đó là nỗi khổ triền miên muôn kiếp. Vì khổ đọa địa ngục, làm ngạ quỉ còn có ngày hết, còn si mê thì trầm luân mãi mãi. Bởi vậy trong mười hai nhân duyên, đức Phật chỉ rõ cái nhân đầu đi trong sanh tử là vô minh, si mê, mờ tối, không biết lẽ thật. Từ vô minh mới có hành v.v..., cứ vậy mà vòng quanh luân chuyển không cùng không tận.

Bây giờ muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử đó chúng ta phải dừng lại. Muốn dừng phải dùng giác, giác mới phá được vô minh. Nếu không giác thì vô minh không bao giờ phá được. Như vậy trọng tâm của đạo Phật lấy giác ngộ làm cứu kính chớ không phải cái gì khác. Giác ngộ rồi mới thương tất cả chúng sanh, đó là từ bi, như tôi dẫn ở trước.

Ngày xưa đức Phật đi tìm đạo, Ngài chỉ chuyên tâm gắng sức tu cho được giác ngộ. Giác ngộ rồi Ngài mới đem chánh pháp dìu dắt người gần kẻ xa, ngót bốn mươi chín năm tiếp tục rộng truyền con đường giác ngộ đó, không có việc gì khác. Như vậy lòng từ bi của Phật phát triển mạnh mẽ sau khi Phật đã giác ngộ rồi, từ đó Ngài mới sẵn sàng hi sinh đời mình để truyền bá chánh pháp, truyền bá con đường giác ngộ cho chúng sanh.

Cho nên ngày nay chúng ta tu ở đây, phải dốc lòng cố gắng đi đến chỗ tỉnh giác, không phải tu để có phước nhiều, đời sau trở lại hưởng. Nếu chúng ta tỉnh giác ít thì lòng từ bi ít, tỉnh giác nhiều lòng từ bi nhiều. Không phải mình tu tập pháp riêng để có lòng từ bi. Ở đây tôi giản trạch rõ, trọng tâm tu thiền, nhất là Thiền tông, chỗ cứu kính là giác, từ giác mới có tâm từ bi. Còn tu theo thiền của Nhị thừa hay Nguyên thủy thì dùng quán trợ duyên để thành tựu từ bi, tức là Từ bi quán. Từ bi quán là mình ngồi tu, tâm yên tịnh rồi chan rải lòng từ đến người thân như cha mẹ, anh em, rồi lần lần đến người sơ, tức là những người hàng xóm chung quanh, những người không quen biết, sau cùng rải lòng từ đến người thù của mình.

Vậy người tu thiền Nguyên thủy lấy Từ bi quán làm trợ nhân phát triển tâm từ bi, còn mình tu theo Thiền tông không dùng lối quán đó, chỉ khi nào thật ngộ, khởi niệm thương kẻ mê, rồi lo cứu giúp họ. Trong lúc tu, chúng ta không tạo duyên gì để khởi niệm từ bi hết, nhưng khi chúng ta tỉnh giác rồi thì lòng từ bi đó được thể hiện đầy đủ, thực tế.

Dùng Từ bi quán khởi niệm thương người, đem phước đức của mình chia sớt cho họ, là do tâm tưởng bủa khắp. Còn bên này khi giác rồi, thấy người mê mình thương, giúp họ một cách thực tế, tạo duyên, tạo điều kiện để đánh thức họ thật sự. Đó là hành động từ bi, không có khởi niệm, thương một cách tự nhiên chớ không phải thương do quán tưởng.

Từ đó chúng ta nghiệm xa hơn chút nữa, như hiện giờ chư Tăng, chư Ni thường nói bận rộn nhiều Phật sự. Nhưng mình đặt câu hỏi lại, Phật sự là cái gì? Các việc cúng đám, làm tuần... có phải là Phật sự không? Nếu chúng ta cho như vậy là Phật sự thì đó là điều làm giảm giá trị của đạo Phật. Vậy thời Phật không cúng đám, làm tuần... là Phật không làm Phật sự sao?

Vậy mới thấy từ ngữ “làm Phật sự” thường dùng không có bản chất thật. Vì nói tới Phật là nói tới giác, làm việc giác ngộ mới gọi là Phật sự.

Cho nên Phật dạy Tăng Ni đi giáo hoá nơi này, nơi kia để đánh thức mọi người. Người nghe biết tỉnh giác thì đó là Phật sự. Chúng ta phải hiểu cho tường tận để đừng lầm lẫn ý nghĩa Phật sự rồi hài lòng đi làm mãi những việc không đáng mà chẳng chịu lo tu, rốt cuộc đời mình không giác, làm sao giúp người giác được.

Không làm cho người giác được thì dù chúng ta làm trăm ngàn việc, có gọi là Phật sự không? Đó là điều tôi muốn nhắc cho tất cả quí vị hiểu tường tận, đường lối tu từ đức Phật cho mãi đến chúng ta đặt cái gì là chủ, cái gì là gốc. Nhờ đó chúng ta biết được rành rẽ gốc ngọn của sự tu để chỉ dạy lại người sau đúng với lẽ thật. Không nên tưởng tượng đặt cái này, cái kia rồi mê say trong những cái gọi là Phật sự, mà xét kỹ bản chất lại không phải. Bởi vì thiếu điều kiện làm cho người tỉnh giác thì không phải là Phật sự.

Cho nên chúng ta phải hiểu, muốn làm Phật sự trước hết phải tu đến chỗ tỉnh giác. Sau khi tỉnh giác rồi dùng các phương tiện để giáo hoá chúng sanh. Mình tạo duyên đánh thức cho người tỉnh giác, duyên đó gọi là Phật sự.

Thí dụ: Trong mười mục chăn trâu, đến mục thứ mười vị Thiền sư buông thõng tay vào chợ, đi đến quán rượu, phòng trà, tới những chỗ cờ bạc để làm gì? Không vì mê nhiễm các thứ đó mà tới, chỉ là để tạo cơ hội đánh thức những người đang say mê, đang tạo nghiệp trong đó, giúp họ tỉnh giác, bỏ những điều dở xấu, như vậy là làm Phật sự. Người đời có thể không hiểu, cười nói: Ông thầy đó trở chứng, ổng đi tới sòng bạc, quán rượu v.v... Đó là cái nhìn của thế gian. Nhưng với tâm giác ngộ, các ngài thấy đến bất cứ đâu mà đánh thức người ta được, giúp người ta tỉnh đều là Phật sự hết. Hiểu vậy mình mới không lấy làm lạ.

Như vậy, trên đường tu cái gốc là phải tỉnh, phải giác. Từ chỗ tỉnh giác rồi chúng ta mới tùy duyên làm những việc lợi ích cho chúng sanh, đưa họ tới tỉnh giác, đó mới là Phật sự chân thật. Nếu chúng ta chưa tỉnh giác mà nói làm Phật sự, e không phải là Phật sự. Tôi nói cho tất cả hiểu tinh thần này để sau quí vị có ra làm đừng lầm lẫn.

Cho nên tu theo Phật phải hiểu cái gốc từ đức Phật đã làm cái gì, rồi đến chư Tổ, các vị A-la-hán làm gì, để mình lấy đó làm khuôn mẫu hướng theo cho đúng ý nghĩa của đạo. Tôi mong tất cả chư Tăng hiểu được con đường mình đi thế nào, làm lợi ích cho chúng sanh ra sao, phải nắm cho vững, đừng lầm lẫn để uổng một đời tu, phí bao nhiêu công phu vô ích. Đó là lời nhắc nhở của tôi hôm nay.

Ngày 13-1 Đinh Sửu (19-2-1997)

Hôm nay là buổi thỉnh nguyện đầu năm, trong đây toàn chúng đều không có lỗi và huynh đệ cũng không thấy lỗi để chỉ, đó là một tiến bộ đáng mừng. Nhưng tôi được biết có một khuyết điểm chung mà không ai thấy, đó là tọa thiền nhiều người ngủ gục. Tháng này nhiều người ngủ gục tôi nghĩ cũng có lý do, vì thời gian cuối năm công tác hơi nhiều nên mỗi người đều tích cực làm cho xong trước Tết, do lao động nhiều cho nên giờ tu không được nghiêm chỉnh, sáng suốt lắm. Nhưng ở đây tôi xin nhắc lại tất cả quí vị, thật ra tôi đã thấy từ lâu lao động có trở ngại cho sự tu hành, nhưng tất cả chúng ở đây là những người lớn, có nghị lực, có ý chí thì những trở ngại đó tôi tin là có thể vượt qua được. Trừ khi mình thiếu nghị lực, thiếu ý chí mới bị nó chi phối.

Nếu chúng ta tu cầm chừng, ngày qua ngày để suốt đời thành người tu thôi, điều đó mới nhìn thấy cũng tốt, giữ yên phận là người tu, không phạm những giới lớn, cũng không làm điều tà quấy, chỉ có những cái nhẹ nhẹ mình không làm chủ thôi. Đối với thế gian đó cũng là một người tu tốt, nhưng đối với trong đạo, nhất là người tu thiền thì không cho phép chúng ta như vậy.

Bởi vì người tu thiền phải lập chí quyết liệt, chết sống trong sự tu hành, không bao giờ thả trôi hay lừng chừng. Tôi thấy như trong kinh A-hàm có một đoạn đức Phật nói về Tứ niệm xứ, Ngài dạy rằng: Nếu Tỳ-kheo trong bảy ngày trụ tâm trong Tứ niệm xứ không dời đổi, vị đó sẽ chứng từ quả A-na-hàm đến A-la-hán. Rồi Phật nói chẳng những bảy ngày mà có thể sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày..., những người đó có thể chứng từ Sơ quả đến Tam quả.

Như vậy nghĩa là khi chúng ta hạ thủ công phu mà quyết tâm không xê dịch, không dời đổi, một còn một mất thì thành quả chắc chắn sẽ được. Còn mình tu tính năm tháng dài lâu mà không quyết chí, không đem hết sức lực ứng dụng tu thì thời gian dài mấy cũng không có kết quả. Bởi vậy Thiền sư Cao Phong Diệu ngày xưa cũng thường nói rằng: “Nếu các người sử dụng một lối tu từ một ngày đến bảy ngày không hề xê dịch, dời đổi mà không ngộ đạo thì chặt đầu ta đi.” Đó là những lời nói quyết liệt chỉ cho chúng ta thấy trên đường tu nếu khẳng định, quyết tâm một còn một mất để tiến tu thì có thể rút ngắn thời gian rất nhiều. Còn nếu tu trì trệ, yếu đuối, dù thời gian dài cũng không có kết quả gì.

Bởi vậy, tôi nghĩ tất cả quí vị ở trong chúng, ai đến đây cũng đều quyết tâm, nguyện tu hành đạt được kết quả chớ không phải tu cho có chừng, tu để có hình thức người tu. Muốn đạt được kết quả, bước đầu phải dứt hết các duyên, đừng bận bịu, lo nghĩ những gì bên ngoài không phải là trách nhiệm trong đạo của mình.

Bước thứ hai là phải lập chí quyết định trên đường tu, phải tiến tới chỗ lâu nay mình khao khát, mong đợi, chớ không phải chỉ tu cho có phước thôi, đó là lập chí quyết định.

Kế đó mình phải có nghị lực dũng mãnh, lúc nào cũng sẵn sàng vươn lên, dù chết cũng không sợ. Nhờ có nghị lực dũng mãnh đó, trên đường tu chúng ta mới đạt được kết quả như ý muốn. Suốt đời luôn luôn phải giữ nghị lực đó, đừng cho gián đoạn mới mong thành tựu tốt đẹp được. Như hồi xưa có ngài Huệ Lăng Trường Khánh ngồi thiền tới rách bảy cái bồ đoàn mà chưa ngộ đạo, nhưng Ngài cương quyết tu chừng nào được mới thôi, cho nên sau này được ngộ.

Như vậy để thấy rằng trên đường tu đòi hỏi chúng ta phải có tâm dứt khoát như trong bản Thanh qui tôi đã nêu. Dứt khoát khi tu chỉ làm tròn trách nhiệm trong đạo. Ngoài ra những chuyện khác mình không bận tâm, không để lòng, như vậy nhẹ đi một gánh nặng. Quí vị phải đủ ý chí, có một lập trường thật vững không bao giờ lay chuyển, quyết tiến tu cho đạt kết quả. Phải có nghị lực vừa mạnh mẽ, vừa lâu dài, thì trên đường tu sẽ có kết quả tốt đẹp chắc chắn.

Tôi có kinh nghiệm qua một số người quyết tâm tu, tuy thời gian nhập thất không lâu mà gặt hái kết quả tốt. Còn nếu yếu đuối chần chờ, dù kéo dài một đời lê thê cũng không có kết quả gì. Bởi vậy, khi quí vị lên bồ đoàn tọa thiền phải có ý chí dũng mãnh, quyết liệt vươn lên. Giờ ngồi thiền là giờ quyết liệt chớ không được thả trôi. Khi ngồi phải lập chí cho vững, phải có nghị lực cho mạnh, mọi thứ gì vừa tới liền đuổi. Phải tỉnh sáng chớ không để êm êm rồi ngủ, đó là thả trôi, không đi tới đâu hết. Nhất định mình phải thắng nó chớ đừng để nó thắng mình.

Đó là một trách nhiệm mình phải làm cho được. Chẳng lẽ đã là người tu mà suốt một đời không có gì tiến bộ, không có bước nào khác lạ thì đường tu vô nghĩa. Cho nên quí vị phải nhiệt tình, cương quyết, đừng chần chờ, đừng yếu đuối. Sở dĩ ngủ gục nhiều là tại thả trôi, ngồi một hồi thấy êm êm rồi thả trôi thì tha hồ gục. Phải luôn luôn giữ chỗ tỉnh sáng của mình, vừa thấy hơi yếu là mở mắt trừng trợn lên để tỉnh sáng, thắng con ma ngủ, đừng để nó làm chủ.

Đây là sự yếu đuối của Tăng chúng. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ở đây đều nhiệt tình, quyết tu, cần phải có nhận định chín chắn. Giờ tu là giờ vàng ngọc của mình chớ không phải thứ bỏ, không phải lên ngồi tu là ngồi ngủ, nếu ngồi ngủ thì ở dưới ngủ cho xong. Cho nên mình phải biết giờ đó là giờ quí báu, phải ráng, phải cương quyết làm sao giữ luôn luôn tỉnh sáng, không để ma ngủ dụ dỗ, lôi kéo. Như vậy sự tu hành mới có kết quả thiết thực, xứng đáng một đời tu.

Thật ra tôi thấy người tu mới vào chùa buổi đầu ai cũng nhiệt tình lắm, cương quyết lắm, nhưng lâu rồi lại thả trôi. Nhiều khi bổn phận chánh của mình không chịu làm, còn việc phụ ở đâu đâu cũng đem vô làm, rốt cuộc uổng một đời tu mà không có kết quả nào hết.

Bởi vậy hôm nay nhân ngày thỉnh nguyện đầu năm, nhân trong chúng có những cái yếu đuối như bị ma ngủ dẫn dụ, tôi có ít lời nhắc, tất cả quí vị phải nhớ và cương quyết thắng ma hôn trầm. Mình tu mà không đạt kết quả thì hi sinh một đời vô nghĩa, rất đáng buồn. Vì vậy phải dụng công có kết quả mới xứng đáng là một người quyết tâm đi tu. Cho nên đức Phật thường thí dụ người tu như một chiến sĩ ra trận.

Qua những kinh nghiệm từ các Thiền viện của mình, Tăng cũng như Ni, người nào quyết tâm khi bước vào đạo hay vào thất đều coi như là chuyển cả cuộc đời, nhất định mình phải tiến lên, những người đó tôi thấy có kết quả thật sự không ngờ. Còn những vị ban đầu đến với đạo nhiệt tình, lâu lâu phai lần, phai lần thành yếu đuối, thì không có kết quả gì hết. Bởi vậy tôi nhắc cho quí vị nhớ nuôi dưỡng tâm nguyện chân chánh của mình từ buổi đầu, phải làm sao hâm nóng, làm sao thực hiện cho được, đừng thả trôi uổng một đời. Đó là sự nhắc nhở thiết yếu trong buổi thỉnh nguyện hôm nay.

Ngày 13-3 Đinh Sửu (19-4-1997)

Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện, hầu hết đều được thanh tịnh, không có lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Tôi nhắc nhở thêm cho toàn chúng ý thức về sự tu hành của mình.

Tất cả chúng ta được phước duyên lành gặp Phật pháp để tiến tu. Tất cả quí vị phải nhớ lại vị Giáo chủ của chúng ta là một Hoàng tử đã xem thường sự giàu sang, danh lợi mà tột đỉnh là ngai vàng của một vị vua tương lai. Ngài từ bỏ tất cả để đi xuất gia, tìm đạo tu hành cho được giác ngộ giải thoát. Vậy đạo giác ngộ giải thoát của Phật dạy là đạo cao siêu vượt trên mọi thứ tầm thường của thế gian. Người thế gian giành nhau từng chút danh lợi, quyền thế. Đôi khi trong sự giành giật đó họ có thể giết hại nhau, hoặc làm những điều nguy hiểm cho dân chúng. Trái lại, đức Phật của chúng ta coi thường danh lợi, quyết tâm tìm đạo cho được. Cho nên đạo của Ngài tìm ra siêu xuất phi thường, cả thế gian không gì sánh bì được. Đó là nói về đức Phật.

Bây giờ tôi nói đến vị Tổ hiện giờ chúng ta đang hướng về, quí kính học hỏi theo, đó là Tổ Trúc Lâm. Tuy rằng lớn tuổi mới xuất gia, nhưng Ngài đã thông hiểu Phật pháp từ lúc còn rất trẻ. Vì hoàn cảnh phải làm một vị vua cai trị muôn dân, nhưng khi việc nước đã ổn định Ngài nhường ngôi lại cho con để đi tu. Ngài đã thấy vinh hoa, phú quí trên thế gian không có gì xứng đáng, không thể so sánh được với đạo đức và tinh thần giác ngộ của đạo Phật, nên Ngài bỏ hết để đi tu.

Như vậy chúng ta thấy ở Ấn Độ một Hoàng tử đi tu, ở Việt Nam mình một ông vua đi tu, đó là những tấm gương cao cả. Ngày xưa người ta gọi Vua là “chí tôn của muôn dân” mà các ngài vẫn bỏ địa vị chí tôn ấy để đi tu. Cho nên người ta thường tán thán các ngài bằng câu: “Xem ngai vàng như dép rách.”

Đó là tinh thần từ Phật đến Tổ mà chúng ta đang hướng đến, học hỏi và tu theo. Như vậy, trên đường tu của chúng ta không có gì quí, không có gì cao thượng bằng quyết tâm tu cho được giác ngộ giải thoát để độ mình và độ chúng sanh. Đó là điều trên tất cả. Nếu chúng ta không nhớ, không thấy được những điều đó thì đời tu của mình dễ bị vướng đầu này, kẹt đầu kia, không được trọn vẹn.

Trong bản Thanh qui tôi có đề ra, chư Tăng ở đây chỉ vì một việc duy nhất là tu sáng đạo. Có như vậy mới đền được ơn Phật Tổ, đền ơn Thầy và tất cả chúng sanh, đàn-na thí chủ. Còn nếu tu mà không sáng đạo thì mình chưa đủ tư cách để đền đáp tứ trọng ân. Như vậy, từ nay tất cả quí vị dù mới hay cũ đều chỉ một lòng nghĩ đến sự tu chớ đừng để cái gì ngăn trở nữa.

Trong bản Thanh qui tôi có dặn, dù có các chướng từ ngoại cảnh, hoặc từ nội tâm đưa đến, đều phải can đảm vượt qua hết để được yên ổn tu hành. Đó mới thật là chiến thắng. Nếu quí vị tu mà mỗi khi có chút bệnh liền thối chí, hoặc có gì khó khăn thấy nản lòng, như vậy là không thắng được mình. Tu là phải vượt qua tất cả trở ngại mới đạt đến chỗ cứu kính, giác ngộ, giải thoát.

Trong sử nói đức Phật đã tu nhiều đời, là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ. Vậy mà trong đời tu cuối này Ngài cũng gặp bao đắng cay, khổ sở, cuối cùng mới đạt được đạo. Đâu phải đi tu là được đạo một cách dễ dàng. Chính những khó khăn, trở ngại là cơ hội tốt, duyên tốt để chúng ta vững mạnh, tu hành đạt đạo. Đừng nghĩ vì mình thiếu phước nên khi tu gặp trở ngại này, trở ngại nọ. Nghĩ như vậy là nhìn chỉ một chiều.

Thật ra người tu ai cũng gặp trở ngại, nhưng chính điều đó rèn luyện, thôi thúc mình vươn lên. Nhờ có trở ngại mình thêm sức mạnh, thêm ý chí để vượt qua. Khi vượt qua được rồi, mình lại vững mạnh hơn để tiến lên. Như vậy, không có nghĩa là vì khó khăn, trở ngại mà chúng ta lui sụt. Nắm được tinh thần đó thì sự tu của quí vị mới đạt được kết quả tốt.

Như vậy trên đường tu không có gì quí bằng sự nuôi dưỡng ý chí quyết liệt. Phải liều chết để đạt đạo, đó là điều thiết yếu duy nhất, còn tất cả trở ngại mình chỉ coi là trò chơi không đáng kể. Phải vượt qua tất cả mới tới chỗ đạt đạo. Nếu bị ngăn trở vì những khó khăn hoặc chướng ngại thì trên đường tu làm sao đạt được mục đích? Bởi vậy trong chúng mỗi người nên luôn luôn nhớ và cố gắng lập chí nguyện quên mình liều chết để tu hành. Đừng vì trở ngại của bệnh hoặc ngoại cảnh mà thối tâm, dù có tu mười đời, hai mươi đời cũng không bao giờ đạt được đạo. Đó là điều hết sức thiết yếu, hết sức quan trọng, mong tất cả đại chúng nhớ và thực hành.

Ngày 13-4 Đinh Sửu (19-5-1997)

Phần thỉnh nguyện tới đây đã xong, toàn chúng trong đây chỉ có những lỗi nhỏ không đáng kể, còn đa số do được sống trong hoàn cảnh thuận tiện nên giới luật tinh nghiêm và mọi hạnh kiểm đều tốt, đó là điều đáng mừng.

Sau đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng.

Đối với Phật pháp lâu nay tôi chủ trương rằng: Muốn cho Phật pháp được vững bền, được mở rộng thì trọng tâm là chư Tăng tu hành phải có đạo lực mạnh, có sự giác ngộ cụ thể. Nếu chúng ta tha thiết muốn mở rộng Phật pháp, muốn truyền bá cho mọi người đều hiểu, đều biết tu, nhưng bản thân mình chưa tu chưa được gì thì cái tâm tốt và rộng rãi đó cũng không đem lại kết quả gì, bởi vì việc làm đó chưa đúng nguyên tắc căn bản tự giác rồi mới giác tha.

Bởi vậy tôi nghĩ nếu chư Tăng tu hành không có kết quả tốt, dầu cho mình có hô hào, truyền bá, đem hết nhiệt tình nhiệt huyết ra hoằng hoá cũng chưa biết hoằng hoá cái gì. Đó là điều lâu nay tôi thường nói. Hơn nữa, nếu bản thân chưa tỉnh giác mà đi truyền bá làm sao giúp người giác được! Nếu mình truyền bá mà mọi người không giác, là vì hướng đi không đúng với tinh thần của Phật giáo, lỗi do mình. Bởi vì nói tới đạo Phật là nói tới giác ngộ, chúng ta phải làm sao bản thân mình có giác ngộ thì truyền bá Phật pháp mới đúng với tinh thần của đạo Phật, còn thiếu điều đó khó đạt được kết quả.

Nếu trên đường đạo chúng ta không thật sự giác ngộ mà muốn tổ chức cho hay, kêu gọi người cho đông, nhiều khi không còn thuần túy ở trong Phật pháp, lại có thể bị lệch qua đường này hoặc hướng khác. Bởi vậy, trọng tâm việc truyền bá Phật pháp là chúng ta phải tu hành cho được tỉnh giác. Nếu không được hoàn toàn giác, cũng phải có phần giác, nghĩa là mình có giác ngộ một phần hay từng phần rồi mới truyền bá được.

Tôi thường thí dụ: Nếu mình không có được ánh sáng như mặt trời, mặt trăng thì cũng có ánh sáng của ngọn đèn, hoặc không được như ngọn đèn cũng phải có ánh sáng nhỏ như con đom đóm chớ không lý do gì lại không sáng. Nếu mù tối như mọi người mà mình giảng nói, đem truyền bá ánh sáng cho người ta, đó là nói rỗng, không có sự thật. Vì vậy mình phải sáng, nếu không được toàn vẹn thì một phần nhỏ, nhưng cũng phải có sáng, sự truyền bá mới đạt kết quả.

Bản thân tôi hồi xưa cũng học kinh, học đạo, đi giảng dạy mọi người, nhưng tôi không bao giờ hài lòng chính vì chỗ đó. Tôi thấy mình nói chẳng qua là mượn lời người trước, của những bậc Thầy để nhắc người ta chớ bản thân mình không có gì hết. Vì vậy tôi phải có thời gian tu để thấy được cái gì ở ngay nơi mình, thấy rõ ràng tường tận có Tánh giác chắc chắn. Tuy không thể bì được các vị Bồ-tát hay các vị Tổ sư, ít ra cũng có một phần nhỏ nào trong sự giác ngộ thì mới tin Phật pháp và thấy cái hay của Phật pháp để truyền bá.

Vì vậy kể từ khi lập Thiền viện tôi dồn hết tâm lực nghĩ làm sao giúp chư Tăng, chư Ni tu có kết quả thật sự, nghĩa là được giác ngộ phần nào, chớ không thể tu chỉ là tu thôi không có gì hết. Do đó tôi cố gắng tạo điều kiện cho Tăng Ni tu. Ngày nay tuy chưa làm hết bổn phận nhưng tôi thấy trong số Tăng Ni tu có những chuyển biến tốt, tuy chưa được giác ngộ cứu kính nhưng cũng có giác từng phần. Do đó, tôi thấy việc mình làm không hoài công, đúng như sở nguyện, đó là điều tôi rất mừng.

Biết rằng trong năm mươi, bảy mươi người mà có đôi ba người sáng thì chưa thấm vào đâu. Nhưng có còn hơn không. Chúng ta đọc sử Phật giáo dài cả trăm năm mà chưa thấy vị Tăng, vị Ni nào tu hành được giác ngộ thì thật đáng buồn. Vì thế, ngày nay thời gian tu của Tăng Ni tuy chưa nhiều nhưng cũng có những biến chuyển tốt như vậy, đó là một khích lệ lớn cho tất cả. Vậy nên mong rằng tất cả chư Tăng ở đây đã có đủ duyên, được sự bảo bọc hoàn toàn và sự nhắc nhở luôn luôn thì phải ráng tận lực tận tâm tu hành cho có kết quả, mai kia ra làm Phật sự mới được dễ dàng.

Như quí vị thấy Thông Giác đối với đạo rất nhiệt tình, bỏ hết gia đình, bỏ hết danh vọng để vào đạo tu nhưng vì chưa được duyên tốt như quí vị nên càng tu càng thêm bận rộn, đâm ra hoảng sợ. Quí vị được yên ở đây là phước duyên lớn, nên ráng đem hết tâm lực của mình, ngày nào còn ở đây là ngày đó tận tâm tận lực tu hành. Chừng nào đủ duyên, có yêu cầu hay cơ hội thôi thúc phải làm Phật sự thì khi bước ra khỏi Thiền viện, mình làm được những việc lợi ích cho đạo, cho chúng sanh. Nếu lúc còn ở đây tu lơ là, đến chừng ra làm Phật sự mờ mờ mịt mịt, rất uổng công tu của mình. Đó là điều tôi nhắc nhở toàn chúng.

Không phải dễ tìm một khung cảnh yên tĩnh, tốt lành và đủ điều kiện như ở đây cho quí vị tu. Nay đã được điều kiện đó rồi lại không cố gắng tu, đó là lỗi lầm lớn. Vì vậy mà phải cố gắng, đừng chần chờ. Mong tất cả tiến tu cho có kết quả!

Ngày 13-5 Đinh Sửu (17-6-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện toàn chúng đều tốt đẹp, không có lỗi lầm lớn, chỉ có chút ít lỗi nhỏ. Ở đây có hai vị tôi khuyên phải ráng.

Một là T.Đ nên nói chậm lại. Lúc này thấy có tiến bộ, nhưng nên nói chậm thêm chút nữa. Hai là B.Đ cũng phải nói chậm lại, vì khi nói chậm, lời nói rõ ràng người nghe dễ hiểu. Mặc dầu ngày nay mấy chú còn nhỏ, mai kia cũng thành người lớn, ra làm Phật sự, giảng đạo cho Phật tử nghe. Nếu nói năng lẹ làng quá, người ta nghe không kịp thì lời nói của mình cũng vô giá trị. Vậy nên phải tập nói chậm rãi ngay từ bây giờ, lần lần lâu ngày thành quen, nói năng từ tốn đàng hoàng. Còn như chú Đ.T có bệnh nói đớt chữ “t”, phải ráng sửa giọng cho đúng. Vì ông Pháp sư, ông Thiền sư đi giảng đạo cho người ta nghe mà nói đớt họ cười.

Tôi kể mấy chú nghe, vừa rồi đi với T.G qua Mỹ, ở nhà Phật tử. Mấy Phật tử này cũng vui tánh, họ thấy T.G nói hơi ngọng cứ theo giễu hoài. T.G buồn quá, ba ngày bỏ cơm luôn, vì ra ăn là bị chọc... Bởi vậy mấy chú ráng tập nói năng cho rành rẽ. Đối với người thế gian sao cũng được, còn chúng ta phải tiếp xúc giảng dạy đạo lý cho Phật tử nên lời nói phải chính xác.

Tuy rằng đây chỉ là những trục trặc nhỏ, nhưng Phật tử để ý và cười hoài, rồi mình cũng hổ thẹn, có thể đi đến mất tự tin. Nên tôi nhắc mấy chú, ai có gì dở ráng sửa. Đó không phải lỗi mà là cái tật từ nhỏ, bây giờ ráng sửa cũng sẽ được. Người ta sửa nhiều cái rất khó còn được, huống gì một hai chữ phát âm sai, nhớ ráng sửa cho tốt.

Kế đây tôi nói về một điểm mới. Đạo Phật có được ưu thế là rất chân thật. Cái chân thật đó nếu không khai thác được rất uổng. Nhưng muốn khai thác chỗ này, chúng ta phải ứng dụng tu cho có kết quả, khi nói người ta mới tin. Nhiều khi mình lý luận thao thao mà bên trong rỗng tuếch. Làm không được thì nói nhiều cũng không đi đến đâu.

Kết thúc lại, chỉ có tu được là đủ điều kiện làm Phật sự. Điều gì mình chưa biết, nói ra cũng sợ vì không thấy rành. Nếu biết rõ như một với một là hai, thì ai nói gì mình cũng không sợ. Muốn được vậy mấy chú phải ráng tu. Thấy được lẽ thật thì mọi việc đều tốt. Cho nên tôi không chủ trương tập cho mấy chú giảng. Chừng nào mấy chú thấy được lẽ thật là tôi đẩy ra làm việc.

Lục Tổ dạy, nói ít mà thật người ta nể, chớ nói quá nhiều, rốt cuộc là lời rỗng lại không tốt. Có nhiều người nói rất hay nhưng bên trong không có gì hết. Điều quan trọng là mình phải thân chứng. Nên tôi đi đây đi kia giảng dạy không hề sợ, vì chỉ nói những gì tôi thấy thật, không nói chuyện ở ngoài. Người ta hỏi quanh co gì, mình cứ đem chỗ thật của mình ra trả lời họ cũng cảm thông.

Bởi vậy lúc ra Bắc nói chuyện ở viện Hán Nôm, tôi có ví dụ về hòn ngọc. Tôi nói tôi không phải là học giả mà là hành giả, chỉ trao đổi những điều tôi đã kinh nghiệm được. Ví dụ như tổ tiên mình có một hòn ngọc quí, truyền dần tới con cháu. Đây là việc truyền riêng không ai biết. Nếu mình chưa nhận được hòn ngọc, chỉ nghe nói ông cha có ngọc, khi người ta hỏi tới mình không biết nên sanh nghi sợ. Còn bây giờ khi đã nắm được hòn ngọc trong tay, ai hỏi chứng cớ, mình có hòn ngọc đang nắm trong tay, biết rõ ràng thì đâu có gì phải sợ. Đây là hành giả, còn lý thuyết là học giả. Các học giả chuyên nghiên cứu rồi đúc kết lại, chớ thật ra chính họ chưa nắm được, làm sao có đủ lòng tin như mình. Nếu nắm được tất đủ lòng tin, ai nói ngược nói xuôi gì cũng mặc.

Thí dụ ông Suzuki nói ba mươi ba vị Tổ Ấn Độ, Trung Hoa do ngài Thần Hội bịa ra, tôi phản đối hẳn. Thần Hội bịa là chuyện vô lý. Không có người trước làm sao có người sau? Ai truyền cho tới Lục Tổ mà nói ngài Thần Hội bịa! Thêm một chi tiết nữa là trong cuốn Luận Đại Thừa Chỉ Quán của Trí Giả đại sư có viết rõ ràng hai mươi tám vị Tổ Ấn Độ. Ngài Trí Giả đại sư trước ngài Thần Hội gần hai trăm năm.

Vậy mà bây giờ nói Thần Hội bịa ra chuyện ba mươi ba vị Tổ, tôi không biết nghĩ sao! Đó là học giả. Cho nên cái nhìn của mình phải tường tận thì mới vững chắc.

Cũng như một số học giả Trung Hoa nói rằng: Sau này khi thiền truyền tới Lục Tổ thì biến ra gần với tánh cách Lão Tử, Trang Tử, nghĩa là hấp thụ ảnh hưởng của Lão Tử, Trang Tử mà thành thiền của Trung Hoa. Nghe vậy mình có dám cãi không? Vì trong Pháp Bảo Đàn, phẩm đầu nói về Bát-nhã, họ thấy cũng giông giống Lão Trang.

Chúng ta nên đặt câu hỏi lại: Lục Tổ dốt, làm sao bằng Trang Tử, Lão Tử? Nếu Ngài không ngộ được kinh Kim Cang thì lấy gì để giảng nói dạy người? Các học giả do nghiên cứu mới có thể chịu ảnh hưởng thuyết này thuyết nọ. Còn Lục Tổ không nghiên cứu, chỉ nghe kinh Phật mà ngộ, rồi được Tổ truyền tâm ấn, như vậy là gốc thiền Ấn Độ, làm sao nói Trung Hoa được?

Chúng ta thấy rõ ràng như vậy, không nghi. Những học giả theo lý thuyết, lượm lặt chắp nối nên nói như vậy. Chẳng qua là cái thấy của các bậc Thánh nhân có chỗ trùng hợp, chớ không phải người này chịu ảnh hưởng người kia. Chúng ta hiểu rồi mới nắm vững, dù ai nói gì cũng không nghi.

Ngày 13-6 Đinh Sửu (17-7-1997)

Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện thấy ai cũng được tốt, được trong sạch, tôi rất mừng. Tu hành càng lâu càng thấm, nên những lỗi lầm nhỏ nhặt cũng dần dần hết, đó là bước tiến căn bản về đạo đức. Những phần khác khi nội tâm tỉnh giác sẽ từ từ tiến thêm. Tuy lỗi lớn không có nhưng trong chúng năm mươi, bảy mươi người, những lỗi nhỏ riêng tư chắc không tránh khỏi.

Đối với nội qui, quí vị thấy mình không phạm, nhưng những tâm niệm, những hành động sai sót nhỏ nhặt cũng phải ráng cẩn thận, dè dặt. Nhiều khi trên phương diện thực hiện Thanh qui mình rất tốt, nhưng về phần tâm niệm hoặc những việc làm nho nhỏ có khi lại sai sót. Vậy nên ráng dè dặt, không phải không phạm Thanh qui là hoàn toàn tốt, mà mỗi người phải ráng cẩn thận dè dặt trong từng tâm niệm, từng hành động đừng cho sai phạm.

Sau đây tôi giải thích một vài vấn đề.

Tất cả quí vị ở đây, nay mai người lớn sẽ đi làm Phật sự trước, có trách nhiệm với Phật tử và những người đi sau. Nên thỉnh thoảng có những vấn đề tôi thấy quan trọng người ta có thể sẽ hỏi, tôi nhắc cho trong chúng biết, để khi tiếp xúc với mọi người, có ai hỏi, mình nắm vững trả lời. Nhiều khi quí vị hiểu nhưng nói không đủ chứng cớ, người ta cũng dễ mất lòng tin.

Vừa rồi có mấy người khách ở thành phố lên nói chuyện, họ hỏi tôi:

- Thưa Thầy, làm sao giản trạch được thế nào là Đại thừa, thế nào là Tiểu thừa?

Câu này có rất nhiều người hỏi, chớ không phải một hai người. Vấn đề này nếu không nắm vững, quí vị sẽ trả lời lúng túng.

Các kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn... đều gọi là kinh Đại thừa, còn các kinh A-hàm và Nikàya là kinh Tiểu thừa. Ngày trước, những người tu theo hệ A-hàm, Nikàya gọi là tu theo Tiểu thừa; những người tu theo Bát-nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn... là tu theo Đại thừa. Đó là căn cứ theo kinh để thấy ý nghĩa tu.

Bây giờ muốn giản trạch cho có chứng cớ cụ thể, chúng ta phải đứng trên hai phương diện: một là về hình thức, hai là về đạo lý nội tâm.

Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam bao gồm cả hai hệ phái: Nam tông và Bắc tông hay Đại thừa và Tiểu thừa. Nếu trong Giáo hội, mỗi khi nhóm họp gọi người này là Tiểu thừa, người kia là Đại thừa thì dường như có sự phân biệt, dễ gây mặc cảm không tốt. Cho nên Giáo hội đề nghị thay hai từ này bằng Phật giáo Nguyên thủy Phật giáo Phát triển. Như vậy quí vị nhớ dùng ngôn ngữ cho đúng.

Tại sao dùng chữ Phật giáo Nguyên thủy? Chữ Nguyên thủy nghĩa là giống hay y như buổi đầu của Phật giáo Ấn Độ. Tại sao gọi là Phật giáo Phát triển? Phật giáo Phát triển có ý nghĩa là tùy theo hoàn cảnh, tùy theo đất nước nơi Phật giáo được truyền tới mà linh động ứng dụng, chớ không rập khuôn theo hình thức ban đầu của Phật giáo Ấn Độ. Đó là nói tổng quát.

Bây giờ phân tích về hình thức và nội tâm.

Về hình thức, Phật giáo Nguyên thủy căn cứ theo hình thức của đức Phật buổi đầu. Ngày xưa, khi Phật mới thành đạo, Ngài chưa có đồ đệ. Sau khi thuyết pháp cho năm anh em ông Kiều-trần-như ngộ rồi, các vị đó xuất gia tu, từ đó Phật có đồ đệ. Như vậy là độ Tăng trước, còn cư sĩ chưa có.

Lúc đó Phật chủ trương đi khất thực. Nhưng không có đệ tử cư sĩ thì đi khất thực làm sao? Ngài vào xóm làng, người ta cho gì nhận nấy, cho mặn thì ăn mặn, cho chay ăn chay, chớ không cố định, cũng không đòi hỏi, chỉ im lặng nhận về ăn để sống. Như vậy, buổi đầu Phật đi khất thực tùy duyên, ai cho gì nhận nấy, chúng ta đừng nghĩ Phật ăn chay. Ngày nay, Phật giáo Nguyên thủy vẫn giữ chủ trương khất thực và chủ trương cho gì nhận nấy. Nhưng người ta thường cho món mặn nên các ngài ăn mặn. Lý do rõ ràng như vậy.

Còn tại sao Phật giáo Phát triển lại ăn chay? Theo quan niệm Ấn Độ, người tu ôm bát đi khất thực là giải thoát, không còn bận bịu điều gì. Những người giải thoát là cao thượng đáng quí. Ngược lại, khi Phật giáo sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, các vị vua chúa sùng mộ đạo Phật, nên có nhiều vị Sư đạo cao đức trọng được tôn phong Quốc sư. Vua quan thời đó quan niệm ai ôm bát đi xin là ăn mày, họ không thể chấp nhận một vị Quốc sư lại đi ăn mày thấp hèn như vậy. Nên vua quan cất chùa cho các ngài ở tu rồi cấp đất cho. Nếu các ngài không canh tác được thì nhờ bổn đạo, Phật tử làm, có lúa gạo ăn quanh năm.

Như vậy tùy theo hoàn cảnh, theo xứ sở, Phật giáo Phát triển chấp nhận điều đó, tự cung cấp lấy phần ăn của mình. Nhưng nếu tự lo thì ăn chay tốt hay ăn mặn tốt? Ăn mặn thời xưa đâu như bây giờ có đồ hộp sẵn, mà phải mua cá thịt về tự làm, phạm tội sát sanh. Cho nên ăn chay để tránh phạm giới sát sanh.

Sau này có một số Phật tử ở Campuchia về thưa với tôi rằng: Con thấy người tu có khi hình thức quá, ở chùa thì nói không sát sanh, nhưng khi đi chợ, mua cá còn tươi còn sống, trả giá xong nói: “Bà đập đầu giùm, tôi xách về.” Như vậy hình thức quá, thiếu thật thà! Cho nên ăn chay là tránh hoàn toàn tội sát sanh.

Do những sai khác này mà Phật giáo Nguyên thủy đi khất thực, ăn mặn, còn Phật giáo Phát triển ăn chay. Đó là ngày xưa, còn bây giờ lộn xộn lắm. Có nhiều nơi, nhất là ở Nhật, kiếm chùa ăn chay không ra. Người ta cũng có lý riêng, nói rằng: “Bây giờ mình mua đồ hộp ăn, cái gì cũng đã làm sẵn, đâu có phạm tội sát sanh. Cứ mua về ăn không sao!”

Bây giờ các nước theo Phật giáo Nguyên thủy cũng ít khi đi khất thực, mà phân công từng vùng từng xóm. Hôm nay vùng này cúng dường, tới giờ Phật tử chở thức ăn tới cúng, ngày mai vùng kia... Cũng là khất thực, nhưng Phật tử đem tới chỗ, chư Tăng khỏi đi.

Ở Tây phương, nếu khất thực e không có cơm ăn. Buổi sáng ai cũng đi làm, nhà đóng cửa kín, làm sao xin được thức ăn! Nên khất thực bây giờ rất khó, chỉ một số ít người làm thôi, hầu hết không thể thực hiện được. Thường Phật tử tổ chức nấu nướng rồi đem tới cúng, nhưng từ trước đến giờ cúng mặn quen rồi, nên họ nấu thức ăn mặn cúng.

Về y phục, chư Tăng Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ quấn y. Nhưng đâu phải chỉ người tu quấn y mà toàn dân Ấn Độ đều quấn y. Năm tôi qua Ấn Độ, thấy mấy cô mấy cậu đi cắt lúa ngoài ruộng quấn y sao phiền quá. Lúc đầu, y của người xuất gia tương tợ y của người dân, chỉ khác màu thôi. Sau này đức Phật dạy cắt y ra từng mảnh - như những miếng ruộng - rồi ráp lại cho khác hẳn y người thế tục, gọi là “phước điền y”. Ngày xưa ở Ấn Độ, chư Tăng bị ăn trộm y là vì y trong chùa lấy về quấn được.

Theo Nguyên thủy, ngày xưa Phật làm sao nay làm vậy. Còn bên Phát triển, khi Phật giáo sang Trung Hoa, chư Tăng không quấn y mà mặc gọn hơn, chỉ chế cái áo khác màu, còn hình thức cũng có điểm hơi giống với áo người dân. Như vậy ăn mặc không giống như Phật giáo ban đầu.

Đứng về mặt nội tâm hai bên khác nhau như thế nào? Nội tâm là nói về giáo lý. Nhiều khi chúng ta cắt nghĩa Tiểu thừa là cái xe nhỏ chở được ít người, Đại thừa là xe lớn, chở được nhiều người, giải thích như vậy không ổn. Có những vị sư Tiểu thừa độ đệ tử rất đông, có chùa Đại thừa chỉ hai ba người. Vậy xe nào lớn, xe nào nhỏ? Thành ra cắt nghĩa như thế không ổn.

Nguyên thủy hay Phát triển, Đại thừa hay Tiểu thừa là cốt ở giáo lý, ở nội tâm chớ không phải xe lớn, xe nhỏ. Đứng về giáo lý, Phật giáo Nguyên thủy lấy Nikàya hoặc A-hàm làm căn bản, đặt nặng vấn đề giải thoát sanh tử. Trong giáo lý A-hàm, Phật nói dù còn sanh tử một đời cũng là đau khổ, vì sanh là khổ. Muốn hết đau khổ phải giải thoát sanh tử.

Vậy muốn giải thoát sanh tử phải tu thế nào? Phật dạy muốn giải thoát sanh tử phải tiêu diệt hết nhân sanh tử: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... Để dẹp sạch các phiền não, kiết sử đó, một là phải nhờ giới luật làm căn bản, hai là quán niệm, quán tưởng, như tu Tứ niệm xứ, luôn luôn quán thân là vô thường, là khổ... để phá chấp ngã của thân. Ngay đời này dứt sạch phiền não, phá được chấp ngã, không còn nhân sanh tử gọi là Diệt đế, là Niết-bàn. Niết-bàn có nghĩa là không còn sanh trở lại nữa, là vô sanh.

Như vậy, giải thoát theo Nguyên thủy là nhập Niết-bàn. Niết-bàn bên đây chia làm hai là Hữu dư y và Vô dư y. Ngay nơi đời này sạch hết phiền não, tâm thanh tịnh, không còn bị khuấy động nữa, đó là Hữu dư y Niết-bàn. Lúc thân này hoại rồi, nhập Niết-bàn vĩnh viễn là Vô dư y Niết-bàn.

Khi dứt hết mầm sanh tử, được vô sanh rồi, tất cả những người có công lo lắng, giúp đỡ cho mình, mình chỉ độ trong đời này, đủ duyên thì độ không thì thôi, ngay đây giải quyết mọi thứ, sau khi bỏ thân vào Niết-bàn rồi không trở lại nữa. Như vậy, quan niệm của Nguyên thủy, còn gọi Tiểu thừa, là lấy quả A-la-hán, Vô sanh làm chung cuộc.

Trái lại, quan niệm của Đại thừa hay của Phật giáo Phát triển, về giáo lý thì lấy kinh Bát-nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Lăng Nghiêm, Lăng-già làm căn bản. Các kinh đó lấy hạnh Bồ-tát làm chỗ cứu kính, vì Bồ-tát viên mãn thì thành Phật. Hạnh Bồ-tát lấy giác ngộ làm gốc. Nên nói giác ngộ mà không nói giải thoát sanh tử. Do đó, người tu theo Phật giáo Đại thừa hay hệ thống Phát triển ít đặt vấn đề giải thoát sanh tử.

Quí vị nhớ cho thật kỹ: Một bên lấy động cơ là giới luật, giải thoát làm căn bản, một đời này giải quyết sạch mầm sanh tử rồi nhập Niết-bàn là xong việc. Còn một bên lấy giác ngộ làm căn bản. Bồ-tát là giác hữu tình, muốn thực hiện được tự giác, giác tha thì động cơ phải là giác ngộ và từ bi.

Còn theo Phật giáo Phát triển, thế nào là Niết-bàn? Bồ-tát hạnh gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn, tức Niết-bàn không có chỗ nơi, ở đâu cũng Niết-bàn được. Tâm thanh tịnh thì ở thế gian cũng là Niết-bàn, không đợi nhập Niết-bàn vĩnh viễn. Kế đến là Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, tức Niết-bàn của Tự tánh. Nghĩa là khi ngộ được Tự tánh, đó là Niết-bàn. Như vậy, ở đây Niết-bàn là Vô trụ xứ, là Tự tánh.

Phật giáo Phát triển lấy giác ngộ làm trọng tâm. Muốn được giác ngộ thì phải cố gắng quán chiếu, thiền định. Giáo lý căn bản của Phật giáo Nguyên thủy là Tứ đế, còn giáo lý căn bản của Phật giáo Phát triển là Lục độ.

Quí vị thấy Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đều là động cơ của giác ngộ và từ bi. Bố thí tài, bố thí pháp là từ bi. Muốn thực hiện từ bi, trước phải giữ giới luật. Muốn từ bi được chu đáo phải nhẫn nhục. Nếu không nhẫn nhục thì không thể hiện từ bi được. Nhẫn nhục rồi phải tinh tấn, nỗ lực, cuối cùng mới thiền định, trí tuệ, là thành tựu giác ngộ.

Trí tuệ là căn bản để đi đến cứu kính. Cho nên nói tới Bồ-tát là nói tới giác. Tự giác, giác tha là hữu tình giác, giác hữu tình. Giác thì thấy tường tận được chân lý, được lẽ thật. Lúc ấy có còn thấy con người trong cuộc sống này là thật không? sanh tử là thật không?

Các ngài thấy sanh tử là tướng duyên hợp hư dối, tạm có tạm không, như huyễn như hóa. Đã như huyễn hoá thì sanh tử như không hoa, cần gì nhập Niết-bàn. Như vậy đối với các ngài, sanh tử không đáng sợ. Tại sao? Vì thấy rõ nó là huyễn hóa. Nên Bồ-tát cứ trở đi trở lại hoài. Các ngài lưu lại một chút trần sa hoặc, vì nếu dứt hết mầm sanh tử thì đâu có trở lại nữa. Cho nên khi các ngài giác ngộ rồi khởi niệm từ bi cứu độ chúng sanh, độ chừng nào được viên mãn, tự giác, giác tha tròn đủ, chừng đó mới thành Phật chớ không phải một đời là xong.

Vì vậy, ngài Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.” Coi sanh tử như trò chơi, không sợ sanh tử nên không cần thiết phải nhập Niết-bàn. Bên Đại thừa luôn luôn đặt nặng việc độ chúng sanh. Mình giác, chúng sanh còn mê nên phải liên tục tới lui để độ, không có quyền nhập Niết-bàn hưởng an tịnh một mình.

Khi chúng ta giác rồi, dầu trong cảnh hỗn độn trần tục, mình vẫn an ổn thanh tịnh. Cho nên mới dùng từ hoà quang đồng trần, đem ánh sáng hoà chung với bụi trần. Tuy đang ở trong sanh tử nhưng tâm thanh tịnh gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn. Xuống địa ngục cũng Niết-bàn, lên cung trời cũng Niết-bàn, ở thế gian cũng Niết-bàn. Như vậy vẫn đi lại trong sanh tử mà thường ở Niết-bàn.

Tâm hồn vì muôn người giúp họ giác ngộ thoát khỏi sanh tử, có phải đại không? Còn nhập Niết-bàn gấp gấp vì sợ sanh tử, đau khổ, có phải là tiểu không? Đại, tiểu không phải là hiện đời mình độ được nhiều ít, mà đại, tiểu ở nơi tâm hồn khi đạt được đạo rồi có tiếp tục độ chúng sanh hay không? Vậy mới có lời nguyện của ngài Địa Tạng, chúng sanh chưa độ tận chưa chứng Bồ-đề. Tinh thần Đại thừa là ở chỗ đó.

Cho nên người tu theo Đại thừa Phát triển phải luôn can đảm, gan dạ, không nhu nhược hoặc muốn thảnh thơi. Lúc nào cũng sẵn sàng lao mình vào cảnh khổ để độ chúng sanh, không phải lo tu cho riêng mình dứt sạch khổ đau, giải thoát sanh tử.

Vậy, muốn dứt sanh tử để thảnh thơi, tâm niệm đó đại hay tiểu? Ngược lại, nghĩ chúng sanh còn mê thì mình còn tới đó độ, là đại hay tiểu? Đại thừa, Tiểu thừa là căn cứ trên tâm niệm như vậy, giáo lý như vậy, chớ không căn cứ trên việc làm hiện tại. Nói cho quí vị hiểu để nắm vững từ hình thức đến tâm niệm, giáo lý mỗi bên, cái gì làm chuẩn, làm chỗ cứu kính phải thấy cho tường tận.

Cho nên A-la-hán không thể thành Phật. Vì tới A-la-hán đã nhập Niết-bàn luôn rồi, đâu tu tiến lên để thành Phật. Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nghĩa là tròn đầy giác ngộ cho mình và giác ngộ cho người. Nếu đời này tu được yên ổn rồi nhập Niết-bàn, không trở lại nữa thì làm sao giác hạnh viên mãn? A-la-hán và Bích-chi Phật khác đức Phật ở chỗ đó, giác ngộ một lần là xong.

Đức Phật từ Bồ-tát hạnh viên mãn mới thành Phật. Cho nên trong kinh Bổn Sanh, đức Phật kể bao nhiêu đời Ngài sanh chỗ này, chỗ nọ độ chúng sanh, sau mới viên mãn thành Phật. Tâm hồn như vậy, giáo lý như vậy gọi là tâm hồn Đại thừa, giáo lý Đại thừa. Biết đâu ngày xưa chúng ta cũng là con kiến, con sâu gì đó, Phật ăn cơm còn dư, mình bò lên ăn được chút chút, cho nên Phật nhập Niết-bàn mấy ngàn năm rồi, mình mới trở lên làm Tăng tu chút chút.

Như vậy duyên hoá độ của Phật rất rộng rãi, chớ không phải chỉ một đời là hết. Chúng ta phải hiểu rành rẽ giáo lý đạo Phật, phần nào ra phần ấy, biết Đại thừa là gì, Tiểu thừa là gì. Mình giải thích cho mọi người hiểu từ hình thức, kế đến tâm niệm, rồi giáo lý, có căn cứ rành rẽ thì người ta không nghi. Nếu mình trả lời loanh quanh, lúng túng người ta sanh nghi, lại còn xuyên tạc nữa.

Đó là những điều căn bản tôi thấy cần nhắc để trong chúng nắm cho thật vững, mai kia có ai hỏi mình trả lời rõ ràng, cặn kẽ. Truyền bá Phật pháp như vậy mới không bị sai lệch.

Ngày 13-7 Đinh Sửu (15-8-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện ngày 13-7 âm lịch là buổi thỉnh nguyện thay cho Tự tứ. Mặc dù đến ngày rằm chúng ta cũng làm lễ Tự tứ, nhưng trong buổi đó chúng chỉ trình lên thưa thỉnh mà không được dạy bảo gì. Hôm nay có đủ thời giờ cho toàn chúng mỗi vị kiểm lại nội tâm mình, thấy được những lỗi lầm và thành tâm sám hối đúng với tinh thần Tự tứ của mùa an cư, tôi rất hoan hỉ.

Đây là lòng thành của chúng Tăng muốn làm sao tự bản thân mình sự tu hành ngày càng tiến, đức hạnh ngày càng lớn, nên mỗi người tự xét chỗ xấu của mình đều ra sám hối. Còn nếu chưa biết, chưa thấy, được huynh đệ chỉ cho để sửa, nhờ đó lỗi lầm giảm dần, trên đường tu nghiệp chướng tiêu mòn, sự tu hành tăng trưởng, không bị thối lùi. Đó là điều đáng mừng.

Giờ đây tôi có một điều không được vui, nhắc cho toàn chúng nhớ. Đối với tất cả chúng đang nương với tôi tu tại Thiền viện này, cũng như các Thiền viện khác, luôn luôn tôi nhắc quí vị rằng người tu phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khó khăn từ ngoại cảnh đến nội tâm. Không ai tu mà mọi việc đều như ý. Không phải vào tu cái gì cũng tốt, cũng thuận, bao giờ cũng tiến. Sẽ có những trục trặc, trở ngại hoặc do ngoại cảnh tạo nên, hoặc từ bản thân, nội tâm mình, nghiệp chướng cũ sanh ra.

Vì vậy, trong khi tu phải chân thành, khi thấy có gì khác lạ phải trình cho tôi biết, để tôi phán đoán, quyết định, nhắc nhở nên làm thế nào cho trở thành hay, tốt, làm thế nào để tránh khỏi bệnh hoạn. Vì tôi là người chịu trách nhiệm trong chúng, nếu có sự khác lạ mà không nói tôi nghe, mai kia thành bệnh, người ta tưởng lầm rằng tôi dạy quí vị tu thành bệnh.

Rất tiếc thời gian qua, trong chúng có một hai người không chịu thật thà với tôi, có những điều lạ không chịu trình cho tôi biết, cho nên có thể trở thành bệnh. Đến lúc tôi hay được e việc đã rồi. Đó là điều tôi không được vui.

Bây giờ tôi nhắc lại cho toàn chúng biết rõ đường lối tu của mình để mọi người nhận thức đừng lầm lẫn. Nếu lầm lẫn rất dễ đi lạc đường tà.

Ngày xưa Tổ Đạo Tín sau khi được truyền y bát, Ngài đi truyền bá một thời gian. Hôm nọ Tổ nhìn lên núi Ngưu Đầu, thấy có khí tượng kỳ đặc, Ngài liền đi tới, để tìm những vị có thể gánh vác Phật sự lớn sau này. Tổ đến chùa U Thê, vào hỏi thăm trong chùa xem nơi đây có ai là đạo nhân tu hành không. Chúng Tăng nói rằng:

- Phàm là người xuất gia, ai chẳng phải đạo nhân?

Tổ hỏi:

- Cái gì là đạo nhân?

Tăng im lặng không đáp được. Có vị Tăng khác thưa:

- Cách đây chừng mười dặm bên kia núi, có một ông thầy tên Pháp Dung, lười biếng đến nỗi thấy người ta tới ổng chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay. Ổng làm biếng quá, nên gọi là Lại Dung, nghĩa là ông thầy Dung làm biếng. Ngài qua đó coi có phải là đạo nhân không?

Tổ Đạo Tín liền trèo núi tìm đến.

Giờ nói về ngài Pháp Dung. Trước khi đi tu, Ngài học sách vở bên ngoài rất thông thạo. Khi đọc đến kinh Bát-nhã, Ngài thấy giáo lý của nhà Nho nông nổi, cạn cợt, so với Bát-nhã không thấm vào đâu, nên quyết tâm xuất gia. Ngài là người học rộng, lúc đi tu thì thiết tha quên thân tu hành, không còn nặng về hình thức sự tướng, hay danh tiếng nữa. Sau đó, Ngài lên núi Ngưu Đầu, tìm chỗ vắng cất một am tranh nhỏ ẩn tu. Ngài tu một thời gian sau, tới giờ ăn, chim tha trái cây tới cúng, khỉ đem mật đến dâng, quanh thất có mấy con cọp ở hầu. Như vậy, Ngài tu hành đến mức được chim chóc cúng dường, có cọp hầu hạ, quí vị nghĩ có ai dám bì?

Khi Tổ Đạo Tín đến, thấy Pháp Dung ngồi thiền trên tảng đá. Tổ hỏi:

- Ở đây làm gì?

Ngài đáp:

- Quán tâm.

- Quán là người nào? Tâm là vật gì?

Pháp Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa:

- Đại đức ở đâu đến?

Tổ đáp:

- Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.

- Ngài có biết Thiền sư Đạo Tín chăng?

- Vì sao hỏi ông ấy?

- Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn gặp.

- Đạo Tín là bần đạo đây.

- Vì sao Ngài đến đây?

- Vì tìm đến thăm hỏi. Ông có am thất gì để nghỉ ngơi không?

Pháp Dung dẫn về am của Ngài. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng. Tổ giơ tay lên ra vẻ sợ, Pháp Dung nói:

- Ngài vẫn còn cái đó sao?

Tổ hỏi:

- Cái đó là cái gì?

Pháp Dung trả lời không được.

Lát sau Tổ Đạo Tín đến tấm đá Pháp Dung ngồi, vẽ một chữ Phật thật to. Pháp Dung nhìn thấy giật mình. Tổ bảo:

- Vẫn còn cái đó sao?

Pháp Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ Đạo Tín mới giải thích cho Pháp Dung hiểu Thiền.

Sau khi nhận được đạo lý, ngài Pháp Dung vẫn tu như trước đều đặn. Nhưng từ đó mấy con chim không còn tha trái cây tới cúng nữa. Người đời thắc mắc không hiểu từ ngày gặp Tổ Đạo Tín, ngài Pháp Dung tu tiến hay lùi? Nếu tiến thì phải được chim chóc, cọp sói kính trọng nhiều hơn. Tại sao trước có chim cúng, cọp hầu, giờ tu nhiều sao chúng lại bỏ đi? Như vậy là thối hay tiến? Đó là nghi vấn của nhiều người, họ chưa thâm hiểu lý thiền nên nghi như vậy.

Đến chuyện thứ hai của ngài Đạo Ưng, đệ tử Tổ Động Sơn Lương Giới. Ngài Đạo Ưng tu ở cái thất riêng, nhưng tới giờ thọ trai lại ăn cơm với chúng. Sau luôn một tuần, Đạo Ưng không đến ăn cơm. Ngài Động Sơn cho người gọi đến hỏi:

- Mấy ngày nay sao không thấy ông đi ăn cơm?

Đạo Ưng đáp:

- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.

Quí vị thử nghĩ, tu mà chư Thiên đem cơm đến cúng dường còn gì hãnh diện bằng phải không? Thế nhưng ngài Động Sơn quở:

- Ta bảo ông là kẻ vẫn còn kiến giải. Vậy chiều nay lại đây.

Đến chiều ngài Đạo Ưng xuống, Tổ Động Sơn gọi:

- Ưng am chủ!

Đạo Ưng cất tiếng:

- Dạ!

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì?

Đạo Ưng trở về am ngồi yên lặng lẽ. Thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.

Quí vị thấy ngài Pháp Dung được chim chóc cúng dường, ngài Đạo Ưng được chư Thiên cúng dường, vậy là tu hay. Sau chim chóc, chư Thiên không cúng dường nữa là tu dở phải không? Đó là điều chư Tăng ở đây phải nắm cho thật vững, nếu không dễ lầm lẫn. Vì sao Tổ Động Sơn nói “ông còn kiến giải”? Sở dĩ chư Thiên hay chim chóc cúng dường là do mình khởi quán tâm từ bủa khắp mọi người, khắp chúng sanh, nên chư Thiên và chim chóc cảm thông được. Nhưng còn khởi quán là còn kiến giải, chưa phải bặt dứt, chưa là chỗ cứu kính của người tu thiền.

Chúng ta bây giờ còn kiến giải mà chim chóc, chư Thiên không cúng là tại sao? Vì nơi mình là kiến giải sân hận, buồn phiền, không hay không tốt. Chẳng những chư Thiên, chim chóc không cúng mà có thể Ma vương cũng thấy. Vì vậy tất cả ráng tu, mọi kiến giải tội lỗi phải dứt sạch, rồi kiến giải chân chánh, tốt đẹp cũng phải lặng luôn. Cho nên ngay câu nói của Tổ Động Sơn: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì”, ngài Đạo Ưng lặng hết tâm thiện ác. Từ đó chư Thiên không còn cúng dường nữa.

Đó mới là chỗ chân thật của người tu thiền. Vì còn suy nghĩ, dù nghĩ thiện cũng là tướng sanh diệt. Đến chỗ vô sanh rồi không còn có niệm thiện, niệm ác, như vậy mới là cứu kính. Trong chúng có nhiều người không hiểu điều đó, thấy được một hai cái lạ, nghe được một hai điều mới, tưởng đâu mình là Thánh, đuổi theo rồi trở thành bệnh. Điều này hết sức nguy hiểm.

Tôi nhắc cho trong chúng biết rõ, từ đây về sau trong khi tu những gì thấy lạ, nghe lạ và chuyển biến lạ trong người phải trình cho tôi biết, để tôi chận ngay từ buổi đầu mới không nguy hiểm. Nếu để thành bệnh rồi, tôi có biết cũng bó tay, không làm sao sửa được.

Đó là điều tôi nói đáng buồn, đáng lo cho đường lối tu. Tôi không có lỗi hướng dẫn sai, chỉ vì những người tu ở đây không trình các chỗ tu sai lệch cho tôi biết, làm sao mà sửa, vì tôi chưa được Tha tâm thông. Nên tôi nhắc cho chúng là phải thật thà, tu thấy điều hay, điều dở đều trình cho tôi rõ. Tôi biết cái gì tốt, cái gì nguy hiểm, sẵn sàng tiếp quí vị để chỉ dạy cho đúng.

Tôi nói rõ cho toàn chúng hiểu được cái lợi và cái hại trên đường tu. Có những điều mình thấy như hay nhưng rốt cuộc lại dở, những cái mình tưởng dở trái lại là hay. Cũng như T.N thấy nội tâm mình có những chỗ dở, đem trình bày, đó thấy như dở mà lại là hay. Nó giúp mình tiêu diệt hết những chủng tử quá khứ để được thanh tịnh, chớ không phải là nhục, là xấu. Dở mà giấu giếm mới là xấu, vì sẽ không bao giờ hết dở được, tu không thể tiến.

Đó là lời nhắc nhở của tôi hôm nay. Mong rằng toàn chúng hiểu rõ để ứng dụng tu, có những trở ngại hay bước tiến nào phải trình cho tôi biết, đừng nên giấu giếm. Đây là điều hết sức quan trọng.

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 13-8 Bính Tý (25-9-1996)

Mấy hôm Thầy đi Indonesia có đem theo cuốn kinh Pháp Cú. Qua bên đó có thời gian Thầy xem lại kỹ, thấy có một bài kinh Phật dạy: Người tụng kinh giỏi mà không khéo tu gọi là thầy tụng kinh chớ không phải thầy tu. Người thuyết pháp giỏi không khéo tu gọi là thầy thuyết pháp chớ không phải thầy tu.

Như vậy Phật xác nhận có thầy thuyết pháp, thầy tụng kinh và thầy tu. Thầy tụng kinh chuyên tụng kinh giỏi, thầy thuyết pháp là người giảng pháp hay, còn thầy tu thì sao? Lâu nay mình cứ ngỡ thầy tụng kinh giỏi là thầy tu, thầy thuyết pháp giỏi là thầy tu, nhưng Phật xác nhận đó là thầy tụng, thầy thuyết. Còn thầy tu là sao? Đó là điều Thầy muốn nói chuyện với tụi con ngày hôm nay.

Hôm qua có người khách quí đến thăm và hỏi Thầy:

- Chư Tăng chư Ni ở đây tu học mấy năm mới ra hoằng hóa?

Thầy trả lời:

- Ở đây không hạn định thời gian, nếu học ở trường thì năm ba năm gì đó mãn khóa hoặc hết cấp, còn tu không định năm. Tôi thấy người nào tôi đủ lòng tin về đạo đức, hiểu thấu giáo lý tu hành, tôi cho ra làm Phật sự chớ không tính năm.

Ông khách hỏi thêm:

- Làm sao biết người đó đủ đạo đức?

Thầy sực nhớ lại mấy câu trong kinh Pháp Cú. Nếu tụi con học hết trường Cơ bản hoặc tới Cao cấp, khi có ai hỏi tam độc là gì, tụi con sẽ kể: Tam độc là ba thứ tham sân si. Rồi kể luôn những tai hại xấu xa của nó. Kể rất rành, rất hay. Nhưng khi có ai chọc tức thì nổi sân đùng đùng lên. Như vậy tụi con thuộc về thầy gì? Thầy thuyết hay là thầy tu?

Vậy là mình chỉ nói chớ chưa làm được, mà chưa làm được thì chưa phải thầy tu. Trong tụi con thầy tu nhiều hay thầy thuyết nhiều? Ai hỏi tại sao đi trong luân hồi sanh tử, tụi con liền kể đủ sáu thứ căn bản phiền não: tham sân si... rành lắm, nhưng khi ai đụng tới, mấy thứ đó hiện hình nguyên vẹn. Chợt nhớ như vậy nên Thầy trả lời ông ấy:

- Muốn biết người đó đáng tin cậy hay chưa, hãy xem họ có ứng dụng được những gì đã học và hiểu không. Nếu ứng dụng được, đó là người đáng tin cậy.

Ông khách lại hỏi:

- Quí Thầy, quí Cô đâu có ra ngoài đụng chạm với ai, làm sao biết người đó có sức chịu đựng hay có thể chiến thắng được cảnh bên ngoài?

Thầy trả lời:

- Tuy ở đây ít tiếp xúc với bên ngoài, nhưng trong chúng năm mươi người là năm mươi ý, sống chung với nhau sớm muộn gì cũng có chỗ bất đồng. Khi có những đụng chạm bất đồng mà vẫn an nhẫn, hỉ xả được, đó là người đáng tin cậy. Nếu bất đồng liền sanh chống đối, cãi lẫy, giận hờn, người đó không đáng tin cậy, đâu cần phải ra ngoài mới đụng chạm.

Lâu lâu tụi con kiểm lại xem mình là thầy thuyết hay thầy tu. Chắc là thầy thuyết! Còn thầy tu thì cái gì biết xấu dở phải chừa. Khi bị chạm tự ái hay có ai làm mất uy tín của mình, bản ngã muốn trỗi dậy, tụi con phải biết để ngăn chặn lại cho bản ngã mòn bớt. Bằng không nói Phật pháp hay lắm, tới lúc gặp việc đâu đó vẫn y nguyên, như vậy không phải là thầy tu.

Không phải nói hay là tu tiến, vì ai siêng học hỏi, thuộc lòng thì nói giỏi. Còn tu tiến là khi gặp người có những ý kiến không giống mình, có hành động khinh miệt mình, tụi con vẫn thản nhiên tự tại không phiền não, không giận hờn. Đó mới thật là thầy tu. Thầy cốt rèn luyện tụi con thành thầy tu chớ không phải thầy tụng hay thầy thuyết. Như vậy tụi con kiểm lại coi trong huynh đệ có đứa nào đáng được Thầy tin cậy chưa? Khi nào tụi con thấy huynh đệ mình đáng cho Thầy tin cậy rồi thì Thầy mở cửa.

Ở đây tụi con có đụng chạm nhau cũng chỉ nhè nhẹ thôi. Khi ra khỏi đây có những đụng chạm tóe lửa chớ không phải thường. Cái nhẹ còn chưa thắng nổi, khi gặp trường hợp tóe lửa làm sao? Tại đây huynh đệ tụi con ở trong môi trường tốt, giữ lục hoà, sống bình đẳng, thương yêu, công bằng thì chuyện gì cũng dễ, còn khi ra khỏi đây rồi, những quyến rũ về bạn bè, tài sắc... mạnh hơn rất nhiều. Nếu ở đây chưa thắng được, ra ngoài làm sao thắng nổi?

Thật ra những duyên nghịch cũng rất có lợi. Nghịch là nghịch thế gian, nghĩa là làm thương tổn bản ngã mình, còn thuận thế gian là ngọt ngào dụ dỗ... Cả hai cái nếu không đủ đạo lực thì không thắng được, rốt cuộc ở Thiền viện năm, mười năm ra đầu hàng ngoại cảnh. Vậy có uổng công Thầy lo cho tụi con không? Có uổng của thí chủ ủng hộ tụi con không? Và có phản bội lại bản nguyện của tụi con không? Đó là ba câu hỏi tụi con cần xét lại.

Nếu không đủ đạo lực để đối kháng lại cảnh thuận và cảnh nghịch của thế gian, không giữ tròn được tâm trong sạch sáng suốt trên đường tu, đó là phản bội công ơn người dạy dỗ nhắc nhở mình, phản bội người giúp đỡ cơm áo và phản bội chính sở nguyện của mình khi phát tâm tu hành. Nếu tụi con không thắng được những va chạm nhỏ, dù ở đây mười năm hay cho đến khi Thầy tắt thở, Thầy cũng chưa dám tin tưởng.

Bây giờ trong thời gian tụi con sống chung với nhau, có những ý kiến bất đồng, có những hành động trái nhau hoặc những tâm niệm riêng rẽ mà tụi con dung hoà và an ổn được, không có gì bực bội buồn phiền thì trên đường tu sẽ vững vàng. Mọi lời Phật Tổ dạy tụi con thực hành thấu đáo, Thầy mới có thể tin tưởng. Mà Thầy tin tưởng được thì mai kia tụi con mới làm được chút ít Phật sự để đền ơn Phật Tổ, ơn quí Thầy, ơn đàn-na thí chủ, đúng như sở nguyện cao cả của mình. Nếu ngược lại là mất đi ý nghĩa cao siêu của một đời tu.

Hôm nay Thầy nhắc lại câu kinh Phật dạy và lời người ta hỏi Thầy để tụi con nhớ mình là thầy tu, chớ không phải thầy tụng hay thầy thuyết. Nhớ rồi phải tu cho đàng hoàng. Nếu thầy tu không ra thầy tu, thầy tụng không ra thầy tụng, thầy thuyết không ra thầy thuyết, đó là lỡ dở hết.

Nhận định của Thầy không phải chuyện tưởng tượng quá đáng mà là một lẽ thật. Như tụi con, đứa nào ở ngoài thế gian cũng có thể kiếm công ăn việc làm được, cũng thành người đàng hoàng trong gia đình không đến nỗi nào. Vậy mà tụi con bỏ hết cuộc đời thế gian vào tu trong đạo. Nếu vào đạo rồi cứ loay hoay với những chuyện không đáng làm, không đáng nhọc sức thì đời không ra đời, đạo không ra đạo, uổng phí đi một kiếp sống.

Thầy nghĩ đến tương lai của Tăng Ni, thấy cái quyết tâm mạnh như vậy phải được đáp ứng lại bằng một tương lai tốt đẹp, cao quí. Không thể nào quyết tâm bỏ tất cả đi tu để gặt hái một kết quả tầm thường, uổng một đời tu. Nếu được thầy lành và bạn tốt nhắc nhở thì đường tu của mình sẽ tiến, còn không có ai nhắc nhở, có khi trở lại tập theo những thói quen thế tục. Ban đầu đầy đủ quyết tâm mà rốt cuộc không như ý, đó là vì mới vào tu lại chạy theo những thói thường của thế gian. Nhưng đó không phải lỗi của họ mà do người lớn đi trước không khéo hướng dẫn, không khéo tạo điều kiện tốt cho họ tu, nên họ phải hi sinh một cách vô ích.

Do đó Thầy lúc nào cũng băn khoăn thắc mắc, làm sao tạo được điều kiện cho Tăng Ni tu hành đến nơi đến chốn. Dù đời này chưa thành Phật, thành Tổ thì tâm hồn và trí tuệ cũng vượt thoát khác người phàm phu, chớ không tầm thường. Như vậy mới xứng với công tu. Nếu tu mà kết quả mình với người thế tục không khác gì nhau, có chăng là khác cái đầu, chiếc áo, thì quá đỗi tầm thường.

Có những điều Thầy thấy không được tốt đẹp cao quí, cần phải tránh, nên Thầy tập cho tụi con sống đàng hoàng, đúng đạo lý. Không cần đông, chỉ năm mươi người, nếu biết làm theo lời Phật dạy thì đời sống tụi con ngày càng cao thượng. Mai kia các nơi nhìn thấy, họ từ từ bắt chước theo, đó là mình đem lại cho Tăng Ni một giá trị thật sự, xứng đáng là người tu hạnh giải thoát. Còn nếu không khéo, mình đua nhau làm việc kinh doanh, làm những chuyện không xứng đáng với ý nguyện tu hành.

Vì vậy tất cả tụi con phải cố gắng. Thứ nhất là sống đúng nề nếp ở đây Thầy đã tạo ra. Tụi con đừng bận tâm lo nghĩ một việc gì ở ngoài, chỉ đem hết tâm hồn tu hành an ổn, như vậy đời tu sẽ có tiến, có vượt lên. Đừng nên bận rộn những chuyện không đâu.

Thứ hai là sống đúng với nội qui Thiền viện. Việc này sẽ tạo cho tụi con hai điều thiết yếu:

Đầu tiên là tụi con sống hoà hợp với nhau, không thấy có người mình phải nặng lo, hoặc có người mình không ưa thích. Thấy tất cả huynh đệ cùng tu cùng tiến đều là người tốt, kính mến như nhau.

Kế là sống trong tình đoàn kết chị em. Mai kia tụi con ở đây hoặc ra khỏi Thiền viện, huynh đệ hợp tác với nhau làm Phật sự dễ dàng, không trở ngại vì những nhu cầu hoặc quyền lợi riêng tư. Như vậy là điều rất tốt để tương lai Phật pháp được sáng sủa, chớ không khéo tụi con dễ bị lôi cuốn trong nếp sống tầm thường, bất hoà với nhau vì những lợi lộc cỏn con.

Hơn nữa, nếu tụi con không thương ai nhiều, cũng không ghét ai nhiều thì sẽ được an ổn, không khó chịu bực dọc, đó là bước tiến mạnh trên đường tu, khiến cho tâm dễ dàng an định. Tâm an định trí tuệ mới sáng, đây là gốc của sự tu giúp tụi con mau tiến. Nếu tụi con lăng xăng, bận rộn, nay thương người này, mốt ghét người kia, cứ thương với ghét hoài làm sao tâm an? Tâm không an, ngồi thiền làm sao được định? Ngồi một lát nhớ huynh này xử sự với mình không tốt, hoặc nhớ huynh kia bạc bẽo, rồi ráng kềm chế đến nhức đầu nên kết quả sự tu không có.

Nếu lúc bình thường tụi con khéo gìn giữ lòng không bận rộn chuyện ghét thương thì tâm dễ an định. Mới nhìn qua thấy ở đây dường như khó khăn, khắt khe. Nhưng sự thật, chủ trương của Thầy là muốn sự tu hành của tụi con có kết quả nên Thầy mới ra điều kiện như vậy. Nếu muốn tụi con nhẹ nhàng thảnh thơi, vừa tu vừa chơi thì Thầy không cần phải khó khăn như thế.

Tụi con thấy khó khăn, nhưng một khi làm được rồi thì đó là một trợ duyên lớn để sự tu của mình dễ đạt kết quả.

Thầy mong tất cả tụi con thực hiện được lý tưởng cao siêu, công phu xứng đáng, đừng để làm người tu mà không có gì hay, uổng đi một đời, đáng tiếc! Đó là lời Thầy nhắc nhở, tất cả tụi con cố gắng.

Ngày 13-9 Bính Tý (24-10-1996)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay chỉ một người có lỗi, còn toàn chúng đều thanh tịnh, đó là điều tốt.

Hôm nay Thầy nhắc tụi con hai từ ngữ rất quan trọng trong nhà thiền, giản trạch để tụi con biết rõ sự tu. Đây là những vấn đề then chốt mà Thầy e chúng chưa nắm vững. Tụi con hằng ngày thuộc câu: “phản quan tự kỷ” rồi, còn “hồi quang phản chiếu” có thuộc không? Đó là câu châm ngôn căn bản của người tu thiền.

Giả sử có ai hỏi tụi con hồi quang phản chiếu phản quan tự kỷ khác nhau như thế nào? Tụi con giải thích ra sao?

Phản quan tự kỷ, chữ phản là ngược lại, quan là xem xét quán chiếu, tự kỷ là chính mình. Còn hồi quang phản chiếu, hồi là quay lại, quang là ánh sáng, phản là ngược trở lại, chiếu là soi sáng. Như vậy, hồi quang phản quan khác nhau chỗ nào? Một bên là xoay ngược ánh sáng trở lại mình; một bên là soi xét, xem xét lại mình. Hai từ đó nếu không giản trạch rõ tụi con sẽ lúng túng. Giả sử có ai hỏi, hai thứ là một phải không? Nếu một tại sao nói hai câu? Như vậy mỗi câu có một ý nghĩa khác, thấy như na ná, nhưng mang tánh chất khác. Tụi con phải hiểu cho thật kỹ, thật rõ.

Hồi quang phản chiếu là xoay ánh sáng lại để chiếu rọi mình. Đó là ánh sáng gì mà mình soi? Bây giờ Thầy nhắc lại hình ảnh này tụi con sẽ nhớ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Thấy không?” A-nan thưa: “Dạ thấy.” Phật hạ tay xuống, hỏi: “Thấy không?” A-nan thưa: “dạ không”, liền bị Phật quở quên mình theo vật.

Phật quở là vì sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chúng ta luôn luôn phóng ra sáu trần bên ngoài, có nó tưởng như có mình. Thấy tay Phật đưa lên gọi là thấy, tay Phật không đưa lên gọi là không thấy. Nếu không thấy lúc đó mù rồi sao? Không mù tại sao nói không thấy? Bây giờ tụi con có bệnh đó không? Có cái gì đưa lên chỉ thì nói thấy, nếu không đưa lên, không chỉ nói là không thấy. Không thấy tức là mù, nhưng khi không có vật tụi con có mù không? Như vậy không mù mà nói không thấy, đó là chỗ lầm lẫn muôn đời của mình, chỉ nhớ cái bên ngoài mà không nhớ cái hay thấy của mình.

Chúng sanh luôn phóng sáu căn chạy theo sáu trần, sáu căn có mang tánh chất tri giác, cho nên gọi là quang tức ánh sáng. Chúng ta dồn hết tri giác để phân tích, để soi rọi ngoại cảnh mà không hề nhớ mình có ánh sáng đó. Bởi vậy thông suốt ngoại cảnh mà ngu muội đối với mình. Sự sống của mình ra sao không biết, còn chuyện này chuyện nọ của thiên hạ thì bén nhạy sáng suốt vô cùng. Chuyện năm trên năm dưới của ai đâu nhớ rõ, còn chuyện mình thì quên bẵng, không nhớ cái gì hay, điều gì dở để sửa đổi, chỉ thấy chuyện bên ngoài.

Đây là bệnh của nhân loại. Ai cũng đua nhau tìm kiếm, học đòi, phân biệt tất cả chuyện bên ngoài, giỏi chừng nào tốt chừng nấy. Ít ai quay lại tìm hiểu mình là cái gì, kể cả người tu chúng ta cũng thả trôi, chạy ra ngoài nhiều. Chúng sanh mê lầm đem tất cả ánh sáng mình có phóng ra ngoài, ánh sáng ở sáu căn dồn ra tìm hiểu tất cả ngoại cảnh mà không quay lại tìm biết chính mình. Khi có ngoại cảnh tưởng như mình biết, không có ngoại cảnh tưởng mình không biết, đâu ngờ cái không là ngoại cảnh chớ cái biết vẫn hằng hữu nơi mình.

Quên mình chạy theo vật, theo cảnh, đó là bệnh chúng sanh. Đức Phật muốn tất cả người tu biết mình trước, nhận ra cái gì là mình rồi hãy biết những thứ chung quanh. Không biết mình mà biết chung quanh là biết rỗng, không lợi ích gì. Biết bên ngoài là thứ sanh diệt, gốc sự tu là biết lại mình, mà muốn biết mình thay vì sáu căn phóng ra phải quay vào. Phóng ra là đuổi theo cảnh, quay vào là soi sáng lại mình. Cho nên nói hồi quang là xoay ánh sáng trở lại.

Hai chữ sau là phản chiếu tức chiếu ngược lại chính nơi mình. Đức Phật đưa tay lên hỏi, ngài A-nan thấy tay Phật đưa lên nói là thấy, khi Phật không đưa tay lên, bảo là không thấy. Đó là ngài A-nan mắc kẹt hình tướng bên ngoài, cho cái tay bên ngoài là cái thấy, mà quên tánh hay thấy của chính mình. Sự thật là có tay hay không có tay, chớ cái thấy lúc nào cũng sẵn. Khi có tay nói thấy, buông tay xuống nói không thấy, như vậy có cảnh biết có, không cảnh tưởng mình không. Quên hẳn chính mình và lệ thuộc dính mắc vào ngoại cảnh là hai căn bệnh rất sâu kín, trầm trọng của chúng sanh.

Trong nhà thiền chú trọng hai cơ quan tối quan yếu là mắt và tai, cho nên Phật dùng thuật đánh chuông và đưa tay. Đánh chuông để chỉ Tánh nghe, đưa tay chỉ Tánh thấy. Như vậy khi con người chạy theo âm thanh, sắc tướng là quên. Bây giờ hồi quang phản chiếu là không kẹt ở âm thanh, sắc tướng, trái lại biết rõ mình đang nghe, đang thấy. Sự vật có động tĩnh, sanh diệt nhưng cái thấy nghe của mình hằng hữu.

Ngày xưa, các Thiền sư dùng đủ thủ thuật, đưa phất tử hoặc đưa ngón tay... để nhắc cho hành giả ngay nơi hình ảnh đó mà biết được mình. Cho nên Phật đưa cành hoa lên, ngài Ca-diếp mỉm cười. Đó là thông cảm được cái gì Phật muốn chỉ. Thấy cành hoa không lệ thuộc cành hoa, mà biết được mình có cái hay thấy.

Chúng ta tu là nhìn cảnh mà chẳng quên mình hay nhân nơi cảnh mà biết mình, trong nhà thiền gọi là “kiến sắc minh tâm”, nghĩa là thấy hình sắc bên ngoài mà sáng tâm mình. Tâm mình ở đâu? Ở trong tim phải không? Chúng ta nghe nói tâm ở trong này lăng xăng, lộn xộn, tưởng đó là tâm. Không ngờ chính cái hay thấy hay biết mới là tâm của mình. Tâm đó không hề lăng xăng, lộn xộn. Bởi vậy, thấy được cành hoa tức là kiến sắc, rồi nhận nơi mình có cái hay thấy, hay biết hằng hữu không vắng thiếu lúc nào, đó gọi là minh tâm.

Biết được tâm, rõ được tâm là nhớ mình không theo vật. Còn nếu chỉ biết cành hoa ở ngoài, có thì nói thấy, không có nói không thấy, đó là quên mình theo vật. Quên mình theo vật là mê, còn nhớ mình không theo vật là giác, không có gì xa lạ. Chúng ta biết nhớ lại như vậy là hồi quang, còn quên mình chạy theo sắc, thanh là phóng quang.

Vậy là dễ hay khó? Tụi con có hồi quang không? Hay là phóng quang? Giả sử ai ngồi bên cạnh mình nói chuyện, họ nói gì thì nói, chúng ta cứ nhớ mình đang nghe chớ không nhớ chuyện của họ. Nhớ mình đang nghe, như vậy là hồi hay phóng? Giả sử ai hỏi: “hồi nãy người đó nói cái gì”, mình trả lời: “không biết”. Vì hồi nãy mình chỉ nghe chớ không chú ý nhớ từng lời từng câu của họ. Bởi vậy trong nhà thiền nói nghe mà như điếc.

Lại giả sử ở trước mình có người ăn mặc sang trọng hay rách rưới đi qua chúng ta đều thấy.

Thấy tất cả nhưng chỉ nhớ mình đang thấy, không nhớ cái sang trọng hay rách rưới. Người qua rồi thôi, vật qua rồi mất, chúng ta chỉ nhớ mình đang thấy. Đó là hồi quang, tức là nhớ lại mình mà không mắc kẹt nơi vật, nên nói thấy mà như mù. Tại sao nói thấy như mù? Nghĩa là ai đi qua trước mắt mình thấy, nhưng qua rồi thôi, không lưu tâm, không chú ý, chỉ nhớ mình đang thấy. Cho nên nếu ai hỏi: “hồi nãy đi qua mấy người, ai đẹp ai xấu”, trả lời: “tôi đâu có nhớ”. Vì có thấy mà không để ý phân biệt đẹp xấu, nên nói thấy mà như mù.

Tụi con nhớ cho thật kỹ, thấy như mù, nghe như điếc, đừng hiểu như mù là không thấy gì hết, như điếc là không nghe được. Không phải vậy! Thấy nghe rõ ràng nhưng không dính mắc. Cho nên các vị Thiền sư không cần ngồi thiền nhiều. Họ thấy cũng như mù, nghe cũng như điếc, tất cả đều không dính mắc nên các ngài không bận bịu về việc kềm chế hay ngồi thiền. Các ngài sống rất tự tại, thoải mái, dù ngồi giữa chợ cũng như ngồi thiền. Còn tụi con ngồi thiền mà ai nói gì cũng lắng nghe, thấy cái bóng gì liền nhìn kỹ rồi phân tích, đó có phải thiền chưa?

Như vậy tụi con thấy tu hết sức gần, không nặng nề chút nào. Chớ nghe nói hồi quang rồi dòm vào ngực mình hoài, xoay nhìn từng nhịp đập của tim, từng mạch máu nhảy, lâu ngày tức ngực, đau tim, đó là sai lầm. Hồi quang có nghĩa là đối với sáu trần, nó qua mình biết, nhớ có cái hay biết sáu trần. Luôn luôn nhớ cái hay biết sáu trần, đó là hồi, còn chỉ theo sáu trần mà không nhớ có cái biết sáu trần, đó là phóng. Như vậy hồi với phóng xa hay gần? Nó rất gần nhưng khéo thì biết, không khéo quên ngay. Cả ngày tụi con tu hồi nhiều hay phóng nhiều? Gần như phóng hoài, chẳng có hồi, phải không?

Vậy nên khi tu tụi con phải hiểu cho thật rõ. Nhiều khi không giản trạch, tụi con không hiểu, dùng từ ngữ làu làu mà không biết ứng dụng để tu. Như vậy chúng ta có thể ngồi chơi ngoài băng đá, ngắm trời ngó thông... nhưng chỉ nhớ mình đang ngó thông, còn thông ra sao mặc nó. Cũng như khi ai nói mình nghe hết, nhưng chỉ nhớ mình đang nghe, không chạy theo tiếng theo lời. Như vậy tụi con tu rất hay, là đang hồi quang phản chiếu. Còn nếu chạy theo tiếng, theo hình ảnh bên ngoài, như có người khách đi qua liền khen là ăn mặc sang trọng, nhớ kỹ từng chi tiết, đó là đang phóng. Nghe đằng kia ai nói rù rì nho nhỏ, bèn ráng nghe, nhớ từng câu khen ai chê ai, đó là đang phóng.

Tụi con phải tập nghe tất cả nhưng không chú ý đến lời tiếng, chỉ nhớ mình đang nghe; thấy tất cả mà không lưu tâm tới cảnh, chỉ nhớ mình đang thấy. Như vậy là không quên mình, không mất mình. Ngược lại, chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài, là quên mình theo vật, như lời Phật quở trong kinh Lăng Nghiêm.

Chúng ta tu là phải xoay lại chính mình. Chính mình không phải ở trong tim, gan, mật, mà là cái đang nói, đang nghe, đang xúc chạm, thấy, biết đây. Như vậy hằng ngày đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng biết hồi quang là tụi con tu miên mật. Nếu không được như vậy là tu lôi thôi.

Người xưa sợ chúng ta tu lôi thôi, nên làm bất cứ hành động nào cũng bắt đọc bài kệ, câu chú để cho mình nhớ, không chạy theo cảnh chớ không có gì lạ. Còn bây giờ tụi con hồi quang như vậy khỏi chú hay kệ gì nữa. Người xưa dạy đọc kệ, niệm chú vì cái đó dễ nhớ, đọc lẩm nhẩm để không chạy theo bên ngoài. Còn bây giờ tụi con biết hồi quang phản chiếu thì lúc nào cũng tỉnh, lúc nào cũng biết mình đúng như thật, nên không phải nhờ đến chú và kệ.

Còn nương chú, kệ là biết mà chưa biết, chỉ là không chạy ra ngoài thôi, nhớ kệ, nhớ chú mà chưa biết mình. Ở đây tụi con không chạy theo cảnh tức là đang sống với chính mình. Tụi con thích sống với mình hay thích sống với cảnh? Nếu theo cảnh thì mất mình. Tu mà không biết mình chỉ biết ngoại cảnh! Cảnh sanh diệt, đổi thay tìm biết nó để làm gì? Chính mình là gốc, là nguồn cội mà không biết là sơ sót rất lớn.

Bởi vậy nên Phật Tổ nhắc hồi quang phản chiếu. Hồi quang là xoay ánh sáng trở lại mình. Nói xoay thật ra không có gì xoay, chỉ là nhớ mình, không chạy theo cảnh. Không phóng tức là hồi. Phản chiếu là rọi sáng lại mình, không cho phóng chạy theo vật bên ngoài, đó là tu. Tụi con tu đúng như vậy là tu thiền. Vậy nên ngài Pháp Loa dạy trong Thanh qui: “ra vào không giao thiệp gọi là ngăn dừng”, nghĩa là đối với trần không chạy theo, như vậy là giữ giới thanh tịnh, là tu chân chánh.

Sự tu hết sức tế nhị chớ không phải chỉ hình thức bên ngoài. Người xưa sợ người mới xuất gia phóng tâm quá nên mượn chú, mượn kệ đọc cho bớt phóng tâm. Còn chúng ta tu thiền, chư Tổ dạy phải quay lại, hằng nhớ hằng biết thì cảnh bên ngoài dù đổi thay, sanh diệt mình cũng không mất, không bị ảnh hưởng. Không mất mình nên khi nhắm mắt chúng ta tự có lối đi riêng, thân này bại hoại nhưng cái đó không bại hoại. Đó là yếu chỉ Thiền tông. Như vậy, hồi quang phản chiếu nói lên tinh thần tu thiền, là cốt tủy, tâm yếu của người tu thiền chớ không phải thường.

Bây giờ đến câu phản quan tự kỷ. Chữ quang phản chiếu và chữ quan phản quan tự kỷ là hai chữ khác nhau. Quan là xem xét, ngắm nhìn; còn quang là soi sáng, là ánh sáng của mình. Như vậy, hồi quang là soi ánh sáng trở lại. Còn phản quan là xem xét trở lại, hai cái khác nhau.

Nguyên câu nói của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Đó là yếu chỉ Thiền tông. Thầy cho rằng câu này có tánh cách quảng bác hơn câu trên, bao gồm tất cả các phương pháp và pháp môn tu. Còn hồi quang phản chiếu có tánh cách chuyên môn về Thiền tông.

Thí dụ tụi con đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó không phải hồi quang mà là phản quan tự kỷ. Khi chúng ta xem xét hơi thở của mình và sự sanh diệt của từng hơi thở, thấy rõ tinh tường những biến chuyển của nội tâm hay của bản thân, đây là phản quan tự kỷ. Lối tu này tổng quát, bao trùm hết cả giáo lý nhà Phật.

Thầy nói đại khái cho tụi con biết. Thí dụ Phật dạy tu thiền quán Tứ niệm xứ, là pháp căn bản mà các kinh A-hàm thường nhắc, thường dạy rất rõ. Một là quán thân bất tịnh, nghĩa là xem xét, phân tích tường tận từng bộ phận, thấy rõ thân này nhớp nhúa, hôi hám. Hai là quán thọ thị khổ, tức là đối với tất cả các cảm giác do tiếp xúc với sáu trần ở ngoài, chúng ta biết rõ ràng nó vô thường, không thật, là gốc của đau khổ. Ba là quán tâm vô thường, là thấy rõ những tâm niệm của mình luôn luôn sanh diệt không dừng. Bốn là quán pháp vô ngã, tức quán tất cả các pháp, từ tâm pháp nơi mình cho tới ngoại cảnh đều là tướng duyên hợp không có chủ. Hằng quán như vậy.

Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy: Người nào cột tâm ở Tứ niệm xứ bảy ngày không dời đổi sẽ chứng quả A-na-hàm, chẳng những bảy ngày mà ba ngày cũng chứng quả, rồi chẳng những ba ngày mà một ngày cột tâm ở Tứ niệm xứ không dời đổi cũng chứng quả A-na-hàm. Quán đó tức là phản chiếu, xem xét soi sáng lại mình, cho nên pháp tu của các kinh A-hàm trong Phật giáo Nguyên thủy chính là phản quan tự kỷ.

Ngũ đình tâm quán cũng là soi xét lại mình, quán Phật, quán từ bi, quán bất tịnh, quán sổ tức, quán nhân duyên... Quán như vậy để trụ tâm, cũng là để soi sáng lại mình.

Đó là nói về hệ thống A-hàm, còn hệ thống Bát-nhã, mỗi đêm chúng ta đều tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Đây cũng là soi sáng lại chính mình để biết rõ năm uẩn không thật, không có thực thể rồi qua tất cả khổ nạn.

Kế đến Thiền tông, như Thầy thường dạy và hướng dẫn tụi con nhìn lại từng niệm khởi, đừng chạy theo nó, gọi là biết vọng không theo, cũng là phản quan. Câu chuyện Tổ Huệ Khả tìm tâm không được chính là phản quan. Tâm ở đâu? Quay lại liền biết đường vào.

Như vậy, các pháp tu từ A-hàm, sang Bát-nhã cho đến Thiền tông đều là phản quan. Các hệ thống tu đều lấy việc xem xét, quán chiếu lại mình làm trọng tâm, không để tâm buông lung chạy theo cảnh, không cho vướng mắc, dính kẹt bên ngoài.

Thầy thường dạy mấy người mới tu đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó là phản quan, vì nếu hướng ra ngoài thì quên. Tu mà không biết phản quan tự kỷ thì người tu càng ngày càng mất mình, bị ngoại cảnh lôi kéo. Cho nên tụi con ngày nào, giờ nào cũng phải thường thấy, thường biết rõ từng tâm niệm, chạy theo cảnh, hay không theo đều phải biết, đó là phản quan. Còn hồi quang là nhớ tánh hằng hữu của mình, không cần thấy chi tiết, chỉ cần nhớ rõ.

Hai câu nói nghe qua thấy như tương tự nhưng sự thật khác nhau. Phản quan tự kỷ dễ tu hơn. Còn hồi quang phản chiếu hơi khó, thuần thục lắm mới làm được, nó có tánh cách kỳ đặc, thiết yếu cho người tu Thiền tông. Lối tu này dành cho hàng thượng căn như Lục tổ Huệ Năng hay Tổ Lâm Tế... Các Ngài đã kiến tánh rồi nên đi đứng nằm ngồi không rời Tự tánh, vì vậy các Ngài không cần phương tiện. Có khi Lục Tổ thấy chúng ngồi thiền, Ngài tới kéo lỗ tai thổi “phù”. Ngài Lâm Tế cũng không thích ngồi thiền.

Vậy các Ngài tu cái gì? Đó là đang hồi quang phản chiếu. Nơi sáu căn các Ngài sáng rỡ mà không phóng chạy ra ngoài, cho nên Tổ Lâm Tế nói: Các ngươi tìm cái gì? Người đang nghe pháp đây là ai? Ngài chỉ cho chúng ta biết nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình hiện có cái chân thật. Sống được với cái đó tức là đang thiền. Như thế, ai đến trình độ này ngồi giữa chợ cũng thiền. Nội tâm đã trong sạch, yên lặng hết nên dùng lối hồi quang phản chiếu, đi đứng nằm ngồi biết mọi cảnh bên ngoài mà không dính một điều gì, thấy như mù, nghe như điếc, tự tại vô ngại.

Còn nếu bị dính, bị lôi ra ngoài như cá mắc lưới đang vùng vẫy, càng vùng vẫy càng mắc thêm nữa thì xin phản quan tự kỷ giùm, thấy từng niệm nên không chạy ra ngoài, như vậy dễ hơn. Người xưa sống với hồi quang ngồi thiền là dư, còn tụi con phóng quang quá, nên bắt ngồi thiền để quán chiếu lại mình, thấy rõ từng phần, bớt đuổi theo bên ngoài, bớt chấp trước. Nếu cứ để tự do, bắt chước những vị quen tu hồi quang phản chiếu, tụi con sẽ phóng mãi đến mất luôn cả mình! Hiểu rồi mới thấy tại sao chư Tổ có vị tán thán ngồi thiền, có vị không thích ngồi thiền.

Như vậy khi tu thiết yếu là phải xoay lại mình. Chính ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng ứng dụng phản quan tự kỷ qua câu nói của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ở đây chúng ta dùng phản quan nhiều hơn. Chỉ người nào triệt ngộ rồi, nghĩa là đi đứng nằm ngồi không quên mình mới dùng hồi quang được, còn nếu quên mình thì khoan dùng.

Tụi con phải biết tường tận để trong sự tu thấy ai ứng dụng được lối nào mình biết họ tu tới đâu. Không nên cho rằng mình ngồi thiền giỏi, thấy ai không ngồi thiền liền chê bai e có khi bị lầm. Nếu người ta sống được hồi quang phản chiếu thì đâu cần ngồi, ở giữa chợ cũng là thiền. Còn mình chưa được vậy mà lạm dụng hành động đó sẽ dễ bị trầm luân đau khổ.

Cho nên hiểu tường tận thì trên đường tu có hướng đi cụ thể, dù nghe ai nói hoặc chỉ trích gì chúng ta cũng không sợ sệt. Nếu không hiểu, khi mình đang ngồi thiền lại nghe nói Lục Tổ thấy người ngồi thiền xách lỗ tai thổi, sẽ hoang mang.

Như vậy ngồi thiền đúng hay như Lục Tổ là đúng? Nếu được như Lục Tổ thì làm như Ngài được, vì khi nghe giảng kinh Kim Cang Ngài liền triệt ngộ, thấy cái chân thật hiện tiền hoài không mất, như vậy ngồi thiền cũng là dư. Còn mình nghe hoài không ngộ, nên phải ngồi lại cho lóng lặng, lắng sâu, đến phút giây nào đó thức tỉnh, giác ngộ, hoặc phải nhờ đọc kinh, nghe giảng từ từ rồi sẽ thấy.

Hôm nay Thầy giản trạch rõ, để tụi con biết căn nguyên và ý nghĩa thiết yếu của hai câu nói này. Chỉ hai câu đó thôi mà là nền tảng của tất cả người theo đạo Phật. Tụi con nắm vững để trên đường tu không lầm lẫn.

Ngày 28-11 Bính Tý (7-1-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện Thầy có ít lời nhắc nhở, giúp tụi con tránh khỏi những lỗi lầm trên đường tu.

Người tu phải dẹp bỏ tình riêng để lo cho đạo nghĩa chung, không nên vì tình cảm riêng, thương nhớ riêng mà quên cái chung. Khi tụi con bước vào đạo, thân thiết nhất là tình gia đình, cha mẹ anh em tụi con còn gạt qua một bên, tìm tới đạo siêu thoát để tự độ và độ cho người. Vậy là tụi con đã dẹp bỏ cái riêng là tình cha mẹ anh em để đạt đến cái chung là tình nhân loại.

Tụi con nghĩ mình mê lầm, chúng sanh mê lầm, nên ráng tu để được giác ngộ và độ tất cả chúng sanh, trong ấy có cả cha mẹ thân nhân của mình. Tâm đó bao la gồm hết tất cả, không sót một ai. Người tu từ tâm niệm rộng rãi thênh thang đó mới thực hiện đúng ý nghĩa một con người vì đạo, vì độ tất cả chúng sanh. Nếu tu rồi vẫn nặng tình riêng cha mẹ, anh em, bạn bè thì cái chung không thể làm được.

Không có tâm rộng rãi bao dung lo cho tất cả chúng sanh thì không bao giờ tụi con tu đạt được kết quả tốt, vì đó là tâm ích kỷ nhỏ nhen. Tâm nhỏ nhen làm sao làm được việc lớn, làm sao thấy được đạo lớn. Nên chúng ta phải bỏ cái nhỏ để được cái lớn. Đức Phật từ bỏ cha mẹ, vợ con, thân thuộc và bỏ cả đất nước để lo cho hết thảy chúng sanh. Từ tâm rộng rãi đó Ngài mới đạt đạo, mới đi giáo hoá chúng sanh được.

Ngày nay nhìn lại chúng ta thấy Ngài là người Ấn Độ, mình là người Việt Nam nhưng vẫn cung kính lễ bái Ngài. Không riêng nước Việt Nam mà cả nhân loại đều quí kính Ngài. Như vậy có tâm thênh thang rộng lớn mới có thể chứng được đạo lớn và mới làm lợi ích cho tất cả chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp. Ôm tâm ích kỷ, nhỏ mọn sẽ không bao giờ đạt được đạo lớn. Không đạt đạo lớn thì không làm lợi ích cho tất cả chúng sanh được.

Tụi con nghiệm kỹ, nhìn từng trường hợp nhỏ sẽ thấy người nào đi tu mà còn tâm ích kỷ hẹp hòi khó đạt được đạo. Ai đi tu nghĩ tới mọi người, vì ngộ đạo để chỉ dạy cho chúng sanh cùng được giác ngộ, người đó có thể làm được việc lớn. Tâm niệm rộng rãi đó, chúng ta phải học, phải noi theo, còn những cái ích kỷ nhỏ mọn mình nên dẹp bỏ. Như vậy tụi con mới đạt được sở nguyện trên đường tu hành.

Tụi con thấy không có một ông Tổ, hay một vị đạo đức cao nào lại có cái nhìn theo tâm niệm riêng tư. Các ngài lúc nào cũng nhìn theo việc lớn. Nếu người có tâm niệm riêng tư thì không làm được việc gì lớn. Hiểu như vậy, trên đường tu tụi con phải xả bỏ ích kỷ cá nhân, ích kỷ thân tộc, ích kỷ của người cùng quê hương xứ sở, chỉ mong làm sao cho tất cả mọi người đều được an vui, đều được hiểu đạo. Đó là cái chung, mình ráng lo, ráng làm.

Có tâm niệm rộng rãi thì đời tu tụi con sẽ cao thượng hơn nhiều. Nếu ôm ấp những ích kỷ riêng tư, gia đình, huynh đệ thì không bao giờ đạt được chí nguyện cao cả của người xuất gia. Nhớ và hiểu như vậy, đường tu tụi con sẽ có kết quả tốt, bằng không kết quả sự tu cũng nhỏ bé theo tâm niệm hẹp hòi của tụi con.

Đó là điều Thầy cần nhắc nhở, tất cả tụi con hiểu và nhớ để ứng dụng trong cuộc sống này.

Ngày 27-12 Bính Tý (4-2-1997)

Trong Thiền viện chúng ta trên dưới năm mươi người, so với các nơi cũng không phải là số nhỏ nên việc điều hành chúng tất nhiên không dễ dàng. Vì thế Thầy giao cho tất cả tụi con một trách nhiệm nặng nề.

Tất cả chúng hiện nay từ các nơi qui về, sự huân tập có nhiều sai biệt. Tụi con đến đây để cùng nhau tu hành, nhất là sống theo nề nếp lục hoà do Thầy vạch ra, đương nhiên trong chúng sẽ có những điểm không đồng với nhau. Không đồng tất có phiền hà, chỗ này vui chỗ kia buồn, người này hờn người kia trách, không thể nào tránh khỏi. Nhưng tất cả tụi con, từ ban Lãnh chúng đến toàn chúng phải thấy trách nhiệm của mình là làm sao giúp cho huynh đệ yên ổn tu hành, đạt được kết quả.

Bao nhiêu năm rồi tụi con tu kết quả không được là bao, giờ đây đến Thiền viện Trúc Lâm này muốn thực hành cho có kết quả. Như vậy trong lúc quyết tâm tu tụi con phải làm sao cho mọi người trên dưới đều an ổn để cùng tu với nhau, đó là lợi ích lớn. Lợi ích này không riêng cho một người nào mà chung cho toàn chúng. Muốn vậy tụi con phải chung lo góp sức, kẻ việc này, người việc nọ. Ai lãnh trách nhiệm gì ráng làm cho chu đáo. Đó là điều rất thiết yếu.

Tụi con nên nhớ hai điều:

Điều thứ nhất là thông cảm nhau. Vì tất cả tụi con tuy cùng chung lý tưởng, sở nguyện, nhưng ý tứ riêng tư, tâm hành sai biệt. Những sai biệt đó, nếu tụi con không cảm thông được, sẽ khó dung hoà chung hợp với nhau. Sống chung trong Thiền viện như thế này, mỗi người phải tự xét lại, mình có những điều dở, huynh đệ cũng có điều dở, người này có điểm hay, người khác cũng có điểm hay, nên tụi con thấy cái gì đúng thì học tập, cái gì sai khuyên nhắc nhau, khuyên rồi bỏ qua không để lòng.

Tâm niệm chúng ta rất dễ dính mắc, hễ buồn giận thì dính mắc lâu, làm cho mình nghĩ không tốt về người này người nọ. Tụi con tập, thấy ai sai nhắc rồi bỏ qua, không hờn không trách, nhất là đừng nhắc tới nhắc lui gây phiền hà cho mình và cho người chung quanh. Người được nhắc cũng nên ý thức rằng mình chưa là Thánh, nên khi có lỗi được người lớn hoặc người nhỏ thấy nhắc, mình phải ráng sửa, không nên buồn giận.

Khi tụi con khởi niệm buồn phiền là tự mình làm chướng ngại đường tu, cũng làm chướng ngại cho huynh đệ. Vì khi buồn nhau thì gặp mặt không vui, cử chỉ không đẹp, sanh ra phiền não lủng củng với nhau. Vì vậy Thầy nhắc tụi con, sống phải biết bao dung, cảm thông nhau. Đừng bao giờ nghĩ mình đúng, người ta sai; đừng cho rằng cái đúng của mình là tuyệt đối, cái sai của người cũng tuyệt đối. Được như vậy sống chung với nhau mới lâu bền, sự tu không bị trở ngại.

Thứ hai là tha thứ cho nhau. Tụi con thấy không ai tránh khỏi lỗi lầm, từ người nhỏ đến người lớn. Thỉnh thoảng mình cũng có sơ sót hoặc vô tình hay cố ý. Nên khi có sơ sót tụi con nhắc nhở cho nhau, nhắc rồi bỏ qua, đó là cảm thông, là tha thứ. Đừng gút mắc hay chất chứa trong lòng. Được vậy dù người lãnh đạo ở vai trò chịu trách nhiệm với chúng cũng không phiền hà, sự tu hành không trở ngại.

Chúng cũng thế, khi được nhắc, mình phải vui vẻ làm trách nhiệm của mình. Lúc người lớn có sai sót mình bỏ qua, vì không ai là Thánh, chỉ là người phàm đang tu với nhau. Người có trách nhiệm gọi là người lớn, không có trách nhiệm gọi là người nhỏ. Tất cả đều đang tu chớ chưa ai xong việc.

Tóm lại, hai điều Thầy dạy tụi con là phải sống làm sao trên dưới đều cảm thông nhau. Người lớn la rầy người nhỏ thì người nhỏ cảm thông đó là vì trách nhiệm mà rầy chớ không thù ghét gì, nên không buồn phiền, trách cứ. Cũng vậy, người lớn có bổn phận nhắc nhở người nhỏ, thấy điều gì sai quấy thì rầy, biết rằng người đó vì chưa hiểu hoặc chưa thấu đáo được vấn đề nên có những sai sót, rầy rồi bỏ qua, thông cảm, tha thứ nhau.

Được như vậy, tụi con sống trong Thiền viện ngày càng tốt đẹp, sự tu hành càng tiến, chẳng những lợi cho tụi con mà còn cho huynh đệ, đồng thời cũng lợi ích cho tất cả Phật tử đang hướng về mình. Khi Phật tử đến các Thiền viện thấy không khí vui tươi chan hoà, trên dưới yêu thương, giúp đỡ nhau tiến tu, người ta sẽ phát tâm, đó là cơ duyên tốt. Tuy tụi con chưa đi hoá đạo mà đã cảm hoá được người rồi, lại còn giữ tròn trách nhiệm là một thành viên mẫu mực. Đó là tụi con đóng góp cho đạo, làm nền tảng cho Phật pháp được lâu dài.

Thật tình Thầy rất lo không biết ngày mai Phật pháp ra sao? Người tu của mình quá hời hợt, bê tha, nên Phật tử buồn trách, than thở. Ở đây Thầy cố gắng tạo điều kiện thuận lợi để tụi con tu, ráng giữ nề nếp, tập có đức hạnh. Ngày sau tụi con làm chỗ trông cậy, tin tưởng của Phật tử, là mục tiêu cho Phật tử hướng đến để họ không chán nản, đó là mình duy trì được Phật pháp.

Vậy nên Thầy mong tất cả tụi con từ trên xuống dưới đều đầy đủ tâm từ bi, hỉ xả. Sống trong đạo, tụi con luôn luôn đem lại niềm hoà kính, tin vui cho nhau, cùng nhau sách tiến tu hành, đạt được kết quả như nguyện. Đó là chỗ mong mỏi của Thầy.

Ngày 28-1 Đinh Sửu (6-3-1997)

Đây là buổi thỉnh nguyện đầu năm, những người có lỗi tự xét thấy thành tâm sám hối, đó là điều tốt. Tất cả lỗi lầm mình ráng sám hối cho tiêu trừ thì trên đường tu không bị chướng ngại. Đó là bước đi lên của người quyết chí tu hành. Tụi con đừng nghĩ mình có lỗi là xấu. Có lỗi mà giấu giếm mới xấu, còn có lỗi biết nhìn nhận và khi được chỉ lỗi không buồn, không trách, biết sửa đổi là càng hay càng tiến. Đó là nhắc tụi con phần thỉnh nguyện.

Bây giờ Thầy nhắc chung việc tu hành. Năm này là năm Đinh Sửu mà Thầy lại nói chuyện con rắn. Thầy thường nhắc Phật tử ráng tu để đuổi mấy con rắn ra. Bữa nay Thầy nhắc cho tụi con luôn.

Trong kinh Di Giáo, Phật dạy các ông Tỳ-kheo: Trong thất các ông có rắn độc, nếu không đuổi ra, các ông có ngủ yên được không? Nếu muốn ngủ yên phải đuổi rắn ra. Rắn độc đó là tam độc tham, sân, si. Rắn sân Thầy đặt là rắn hổ lửa, rắn tham là hổ mây, còn si là rắn hổ đất. Rắn hổ đất ở trong hang, rắn hổ mây ở trên cây, còn rắn hổ lửa rất hung dữ.

Nếu ba con rắn độc đó đang bò loanh quanh trong thất, tụi con có yên tâm nằm ngủ hoặc nằm chơi không? Chắc chắn không bao giờ yên, cứ hồi hộp, lo sợ nhìn chừng nó hoài. Hiện tại nơi nội tâm tụi con có ba con rắn đó hay đã đuổi ra hết rồi? Con nào mạnh nhất? Kiểm tra lại con nào cũng có mặt cả! Ngày nào giờ nào còn ba con rắn độc ẩn náu trong nhà mình là còn bất an. Tụi con muốn an ổn, cầu Phật gia hộ và chư Tăng chư Ni giúp cho mình được an, mà ba con rắn chưa đuổi ra thì có thể an không? Không bao giờ an được!

Như vậy việc tu của chúng ta là phải thấy tai hoạ đang chờ chực, đó là ba con rắn độc đang rình mình. Nếu muốn tu tiến, muốn được thảnh thơi, phải đuổi ba con rắn độc đó ra. Khi nào đuổi ra hết rồi mới thật an vui, nếu còn một con cũng chưa yên. Vậy tụi con kiểm lại cho chín chắn coi, có đứa nào đuổi ba con rắn ra hết không? Chưa có ai cả! Đứa nào cũng còn nuôi! Như vậy tụi con khó được bình an, phải không? Thí như chị em đang nói chuyện vui, có người nào xen vào một câu trái ý thì sao? Có nổi giận nói bậy rồi mai mốt đi sám hối không?

Ba con rắn luôn chực sẵn nên muốn tu cho an ổn phải đuổi rắn ra khỏi nhà. Với các Phật tử, Thầy khuyên họ năm nay đuổi con rắn hổ lửa ra trước, còn hai con rắn kia để dành năm tới đuổi nữa. Thầy hỏi Phật tử có dám hứa với Thầy không? Đa số đều hứa. Còn tụi con dám hứa không? Trong năm này chỉ đuổi một con thôi.

Người ta hỏi Thầy làm sao đuổi nó ra? Họ đồng ý đuổi, nhưng muốn biết làm thế nào để đuổi. Đối với Phật tử, Thầy dạy đơn giản hơn tụi con. Bây giờ Thầy dạy tụi con đuổi bằng cách khi nghe người ta khen, không có sự thật thì không nên mừng, người ta chê không đúng sự thật cũng không nên buồn.

Thầy thường kể cho tụi con nghe chuyện ông Tỳ-kheo bị người ta nói xấu đòi đi tự tử. Thọ thần bảo:

- Nếu ông chưa chứng quả A-la-hán mà người ta nói ông chứng quả A-la-hán, ông có mừng không?

- Không mừng.

Thọ thần hỏi tiếp:

- Người ta nói ông tạo tội đoạ địa ngục nhưng ông không hề tạo tội đoạ vậy ông có buồn không?

- Không buồn.

- Thế thì tại sao người ta nói xấu ông, ông lại đi tự tử?

Tất cả chúng ta có cái bệnh không biết suy xét. Ai nói gì không đúng sự thật liền nổi tức lên. Khi mình cự với họ là xấu hay tốt? Chúng ta không làm xấu, nếu người ta nói mình làm xấu chỉ cười thôi. Mình không phạm tội, người ta nói phạm tội cũng cười thôi, xem như đó là lời nói chơi, không thành vấn đề chớ có gì đâu.

Nếu mình không xấu, nghe người ta nói xấu liền nổi tức lên, đó là mình xấu thật. Như vậy là không khôn chút nào. Tất cả những lời người ta khen hoặc chê mình, nếu đúng thì mình sửa và mang ơn họ, không đúng chỉ cười thôi, không nên buồn giận. Như vậy con rắn sân hổ lửa sẽ không tác quái. Đó là cách trị rắn hổ lửa, không cần ráng nhịn hoặc uống nước cho nguội, chỉ dùng trí xét kỹ, không để cơn sân lôi cuốn.

Bây giờ Thầy nói theo thứ tự: Con rắn hổ lửa từ rắn hổ mây xúi. Rắn hổ mây từ rắn hổ đất xúi. Con hổ đất chui dưới đất ở trong hang không dễ thấy. Rắn hổ đất là si, nó ẩn náu mình không thấy, nhưng từ si mới có tham và sân. Nếu đuổi được rắn hổ đất đi thì hai con rắn kia theo đó mà đi hết.

Muốn nó đi phải làm sao? Trong nhà tối muốn sáng chỉ cần thắp cây đèn lên là bóng tối không còn. Nếu tụi con cầm gậy cầm cây đánh đuổi bóng tối, bóng tối có đi không? Chỉ có cách thắp đèn lên liền tan bóng tối. Cũng vậy, chỉ có trí tuệ mới phá được si mê. Nhưng trí tuệ ở đâu? Mỗi ngày tụi con đều tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là tất cả cái si đều từ bản ngã mà ra. Bản ngã không thật lại chấp là thật, đó là si. Do si mới có tham. Từ tham có sân.

“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” nghĩa là soi thấy thân năm uẩn không có thật thể, không cố định. Không thật thể là đứng về lý nhân duyên: thân năm uẩn là tướng duyên hợp, do từng phần ráp lại nên không có tướng thật. Không cố định là nói theo lý vô thường: thân này luôn luôn biến chuyển. Như vậy, thân này vừa là duyên hợp hư dối, vừa là vô thường biến chuyển, chỉ là một dòng sanh diệt không thật, không bền, không cố định. Nếu chúng ta chấp nó là thật, bền, cố định, đó là si mê.

Khi chúng ta chấp thật, thấy món ăn ngon muốn ăn là tham ăn, thấy hình tướng đẹp ưa thích là tham sắc. Tất cả cái tham đều qui tụ về mình, vì nghĩ mình quí nên muốn được cái này, cái kia cho mình. Nếu thấy mình không thật, không quí, mọi ưa muốn theo đó hết, hết tức không tham, không sân. Như vậy không chấp ngã thì tham sân theo đó hết, đó là lẽ thật. Cho nên trong kinh nói “độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là thấy năm uẩn không thật thì qua hết khổ nạn.

Tụi con tu mấy năm rồi? Mười, hai mươi năm mà thấy thân này thật hay không thật? Ngày nào cũng tụng kinh ra rả nhưng vẫn thấy thật. Còn thấy thật thì tham, sân không bao giờ hết được. Nếu thấy rõ thân năm uẩn không thật, thấy rõ như ban ngày tụi con tu dễ như trở bàn tay. Bởi vậy Phật dạy lý vô ngã, học Phật trước phải thấu suốt lý vô ngã. Thấy ngã không thật thì mọi thứ được giải quyết một cách dễ dàng. Còn thấy ngã thật tất cả đều là khó khăn. Lý này hết sức sâu xa, cao siêu. Tụi con thâm nhập được lý này sẽ tự tại, thảnh thơi.

Tụi con nhớ cửa thiền là cửa không, tức cửa trí tuệ Bát-nhã, là thấy thân không thật, là vô ngã. Đó là cửa đi tới giải thoát sanh tử. Nếu chưa thấy được như vậy là chưa vào cửa giải thoát sanh tử. Vấn đề rất rõ ràng. Bởi vậy tụi con học đạo, hiểu đạo là điều tốt, nhưng rồi phải hành đạo, quán chiếu tường tận thân này là hư dối, không thật.

Ngày xưa Phật dạy các Tỳ-kheo, khi rảnh phải ngồi dưới cội cây hoặc chỗ vắng để quán chiếu lại mình, thấy cho tường tận thân mình, đó là đi trên đường giải thoát. Nếu không quán chiếu, không thấy rõ thân mình đúng như thật thì trên đường giải thoát chưa tiến. Dù ở chùa mười năm, hai mươi năm cũng không tiến được. Đó là lẽ thật. Tăng Ni khi đi tu ai cũng mong cầu giải thoát nhưng sau lại tạo tội gây nghiệp, đó là vì không thấy được thân này là vô ngã, nên vẫn tiếp tục con đường thế gian phàm tục.

Vậy tụi con nhớ thấy cho tường tận thân tâm mình. Những giờ phút toạ thiền, thấy ý niệm lăng xăng, không thật; còn khi ra ngoài thấy rõ thân người duyên hợp như thế nào. Được vậy tu sẽ có kết quả chắc chắn, không nghi ngờ. Ngược lại, tu rất lâu tiến. Đây là lời nhắc nhở của Thầy, mong tất cả cố gắng.

Ngày 28-2 Đinh Sửu (5-4-1997)

Trong buổi thỉnh nguyện, những người có lỗi tự ra sám hối, đó là điều tốt. Hôm nay Thầy nhắc tụi con hai điểm.

Thứ nhất, ở đây Thầy chủ trương chúng ta tu phải có đủ hai mặt: giải và hạnh. Giải là do học kinh và đọc sách mà hiểu được lý đạo. Hạnh là sự thực hành, làm thế nào để giữ tròn tư cách một người tu. Dầu cho tụi con hiểu đạo sâu rộng tới đâu mà hạnh không hợp với người tu thì lời nói cũng theo đó mất giá trị. Nếu tụi con hành đúng, dù nói dở người ta cũng tha thứ được, vì đối với người tu, Phật tử nhìn về mặt đức hạnh nhiều hơn.

Tuy nhiên, Thầy nói như vậy không phải bảo tụi con dốt nát không biết gì. Chúng ta học hiểu rồi ứng dụng tu. Từ chỗ hiểu, tụi con ứng dụng tu thành công và có kết quả, như vậy hạnh giải được đầy đủ. Nếu chỉ hiểu mà không ứng dụng tu, đó là hiểu suông, hiểu rỗng, không có lợi ích gì cho đời tu của mình.

Sự hiểu của tụi con là ngọn đuốc soi sáng con đường đang đi. Nếu có ngọn đuốc sáng mà mình không đi thì ngọn đuốc đó trở thành vô nghĩa. Hoặc có đuốc sáng mà chân mình què cũng không lợi gì. Cho nên cả hai phải tương ứng nhau. Giải là ngọn đuốc sáng. Hạnh là hai chân vững mạnh đi từ con đường tối tăm ra chỗ sáng suốt. Trong đời tu tụi con không nên xem thường sự học hiểu, cũng không nên xem thường sự thực hành tu tập. Hai việc phải đi đôi.

Ở đây Thiền viện đặt nặng tu nhiều hơn. Những gì mình hiểu phải cố gắng ứng dụng cho được. Điều gì có trong Thanh qui hoặc những lời Phật Tổ dạy, mình thấy hay phải thực hành cho được. Như vậy đời tu của tụi con sẽ có kết quả tốt.

Tụi con nên nhớ việc tu của mình không phải tầm thường. Người xuất gia vượt qua hết tâm tình phàm tục, làm việc siêu xuất thế gian nên gọi là phi thường. Muốn làm con người phi thường không phải dễ. Phải sáng suốt, nhận định cho chín chắn, phải bền chí và có tâm lâu dài.

Vậy trước tiên, người tu thiền phải có nhận định sáng suốt. Những gì Phật Tổ dạy, quí Thầy nhắc tụi con phải thấy cho tường tận để ứng dụng tu thì mới có kết quả tốt. Nhiều khi Phật Tổ dạy, quí Thầy nhắc một đàng, tụi con làm một ngả, dù tu lâu bao nhiêu năm cũng không có kết quả. Bởi vậy khi tụi con nghe những lời nhắc nhở của quí Thầy, phải nhận định cho kỹ càng, chín chắn để ứng dụng tu. Làm sao đời tu của mình không bị các chướng che lấp, tất cả những gì dở, làm ngăn trở sự tu đều phải tan biến trước trí tuệ sáng suốt. Đó là một bước quan trọng trên đường tu của tụi con. Như trong Bát chánh đạo của giáo lý Nguyên thủy, chánh kiến và chánh tư duy đứng đầu. Ban đầu phải có trí nhận định cho thấu suốt, đúng đắn, bằng không tụi con tu sẽ chậm tiến, lệch lạc, không có kết quả. Đây là điều rất thiết yếu.

Ngày xưa khi Thầy tự tu, bản thân Thầy có những kinh nghiệm riêng, thấy có kết quả đúng như mình mong muốn. Sau đó, Thầy dạy lại cho một số người tu cũng được tiến, tuy nhiên vẫn có người còn rất chậm. Gần đây thấy trong hoàn cảnh tốt, tụi con cũng như bên quí Thầy tu hành có tiến, Thầy rất mừng. Rõ ràng là khi hoàn cảnh thuận lợi tụi con tu tiến, nhất định không nghi ngờ. Tuy nhiên, những ai nhận định còn mờ mịt hoặc nhận định chưa rõ ràng thì trên đường tu chậm tiến hơn.

Bởi vậy Thầy nhắc lần nữa, tụi con phải học kinh, đọc sử, nghe Thầy giảng, nhớ cho thật kỹ những điểm then chốt trong sự tu hành để ứng dụng tu cho đúng. Ứng dụng đúng tụi con tu sẽ tiến, đó là điều lâu nay tụi con không ngờ.

Thứ hai, tụi con phải có lập trường kiên cố. Dù trên đường tu bị trở ngại vì thân bệnh, hoặc do tâm xao lãng, hoặc bị duyên trần làm cho yếu đuối, tụi con vẫn phải cứng cỏi vững vàng, đừng để nó chi phối. Thân tụi con có bệnh nhưng tinh thần mạnh mẽ vẫn lướt qua được, còn thân đau mà tinh thần yếu sẽ càng đau thêm. Phải cương quyết, liều chết trên đường tu hành, miễn là chúng ta được sống trong đạo, đang tinh tấn tu, dù ngày mai có ngã ra chết mình cũng vui, đó là cái chết tốt để mình vươn lên, không lui sụt.

Nếu tụi con vì một hai lẽ bệnh duyên hoặc ngoại cảnh mà thối tâm và sự tu hành bị chướng ngại, đó là thiệt thòi lớn của tụi con. Việc làm của mình là phi thường thì phải có ý chí mãnh liệt cương quyết, không thể nào yếu đuối, nhút nhát mà thành công được. Tụi con phải liều chết liều sống, được vậy sự tu sẽ có kết quả không nghi ngờ.

Thứ ba, dù có ý chí mãnh liệt đến ngất trời, nhưng nếu ý chí đó giống như lửa rơm thì chỉ cháy phừng phừng rồi tắt, chớ không lâu dài. Bây giờ người ta hay dùng từ đột xuất, nghĩa là những công tác qua một đợt rồi thôi, không kéo dài. Cái gì đề ra mà không bền bỉ theo dõi thì khó thành công. Ở đây tụi con cần có ý chí cứng cỏi vững mạnh và một tinh thần bền bỉ, dù cho gặp cảnh gì đi nữa cũng phải nguyện tu chừng nào sáng đạo mới thôi, chớ không tu lừng chừng lấy có.

Chúng ta đi tu là hi sinh cuộc đời, hi sinh tất cả người thân của mình để làm việc lớn. Nếu làm nửa chừng bỏ cuộc thì uổng đi một đời và cô phụ lòng tốt của cha mẹ, thân nhân, của đàn-na thí chủ. Vậy tụi con phải lập chí bền vững, lâu dài, dù cho hoàn cảnh nào cũng không chán, không sợ, không lùi bước. Đó là ý chí mạnh và tâm bền vững.

Trong luật Phật dạy không nên “nhất bộc thập hàn”, là một ngày nắng mười ngày lạnh, tu như vậy không bao giờ có kết quả. Ở đây Thầy tạo duyên cho tụi con tu, ngày nào cũng như ngày nấy công phu đều đặn, không vì những duyên bên ngoài làm dở dang, không bị khách khứa gây trở ngại, cũng không bị hoàn cảnh thiếu thốn khiến lo âu. Chỉ cần có một lập trường thật bền thật vững là tụi con tu có kết quả.

Thầy đã lo mọi chuyện chung quanh để không có gì làm phiền hà tụi con, nếu sự tu của tụi con được tiến đều đều, dù chậm hoặc vừa phải, cũng sẽ có ngày thành công. Còn tu khi nhanh khi ngừng thì cái tiến đó không bền, không bảo đảm. Như vậy nếu hoàn cảnh tốt mà tụi con không có lập trường, không có ý chí rồi cũng sẽ dở dang.

Cho nên tất cả phải có lập trường thật vững, ý chí thật bền, ngày nay không được thì ngày mai, ngày mai không được qua ngày mốt, năm nay không được sang năm tới, cứ như vậy tiến hoài. Nhất là mình có sự giản trạch đúng đắn, được sự nhắc nhở hằng tháng, hằng ngày của quí Thầy, cái gì sai liền sửa, như vậy trên đường tu tụi con sẽ có kết quả tốt không nghi ngờ.

Tụi con tu có kết quả, mai kia mới làm lợi ích cho nhiều người được. Nếu tu không tốt, không kết quả gì, sau này có chùa, có bổn đạo, dạy đệ tử cũng không đi đến đâu. Tu không giác ngộ tức vẫn còn mê, mê thì dạy ai, hướng dẫn ai? Có dẫn dạy cũng chỉ là mê thôi. Ngày nay có những người tu không đúng chánh pháp, bịa ra những chuyện huyền bí, cúng kính lôi thôi, chỉ vì lợi dưỡng bày biện đủ thứ. Bởi vậy, tụi con tu phải ráng nắm vững chánh pháp, thấy rõ được đường đi của mình, đồng thời phải có những bước tiến dài xa, khi nhìn lại thấy không uổng một đời tu hành. Mai kia tụi con có làm Phật sự, hướng dẫn cho người mới đúng chánh pháp.

Tóm lại Thầy mong tất cả tụi con vào đây, đầu tiên phải có trí tuệ giản trạch cho đúng cho tinh tế, để sự thực hành không bị sai lạc. Thứ hai là lập trường phải thật vững, dù khó khăn nhọc nhằn, tụi con cũng không hề lay chuyển. Thứ ba là phải có ý chí bền bỉ lâu dài, đừng để nay tiến mai lùi, khi vui khi buồn, như vậy không đến nơi đến chốn được.

Mong tụi con cố gắng!

Ngày 28-4 Đinh Sửu (3-6-1997)

Thỉnh nguyện kỳ này tốt, ít có lỗi lầm. Nếu mỗi ngày toàn chúng đều cố gắng tinh tấn tu, thương yêu, hoà hợp nhau, không có gì xảy ra, đó là tụi con tu hành tinh tấn, gây uy tín cho Thiền viện.

Bây giờ Thầy nói vài vấn đề cho tụi con nghe. Câu chuyện nóng bỏng nhất là cách đây một tuần, Thầy đang ở trên thất, nghe điện thoại của một Phật tử thành phố, con ông Thái Nguyện - trưởng đoàn Thái Tuệ - báo tin:

- Thưa Hoà thượng, ba con ngồi thiền đến hôm nay là ba ngày ba đêm rồi không xả, không biết có nguy hiểm không, xin Sư ông dạy cho con.

Thầy bảo:

- Con ra chỗ ba con ngồi thiền, nhìn coi mặt hồng hào hay tái mét, nếu mặt hồng thì không có gì.

Nó ra ngoài nhìn rồi trả lời:

- Mặt ba con hồng lắm, ngồi thẳng bon như vách núi vậy.

Thầy nói:

- Nếu tới ngày thứ bảy ba con chưa xả, con gọi điện thoại ra Thường Chiếu, thưa thầy Trụ trì vô đem theo cái linh, đi vòng vòng rung cái linh, ba con sẽ dậy chớ không có gì, đừng sợ.

Thầy nói như vậy nhưng nó vẫn sợ, kêu ông anh làm kỹ sư ở riêng về hỏi:

- Bây giờ ba ngồi hoài không cục cựa nhúc nhích, làm sao?

Anh nó thấy cũng sợ, nghe Thầy nói muốn cho ba dậy thì lấy linh lắc, nó bèn lấy chuông đánh, ba nó xả ra.

Hôm Chủ nhật, ông Thái Nguyện ra lễ Thầy. Ông vui mừng lắm, thưa:

- Bây giờ có tu hành con mới đủ lòng tin, con mới thấy sự tu có những điều kỳ đặc. Hồi nào đến giờ con không dám tưởng.

Ông kể từ khi bắt đầu ngồi đến lúc xả là sáu mươi tám tiếng đồng hồ. Người cư sĩ quyết tâm còn tu được như vậy, đó là điều đáng mừng. Trên đường tu, dưới sự hướng dẫn của Thầy, Tăng Ni và Phật tử đều có tiến bộ đáng khích lệ. Đó là báo cho tụi con tin vui nhỏ.

Tụi con thấy cư sĩ mà tu như vậy, còn mấy người xuất gia mình lết bết quá, ngồi hai tiếng mà rên, tụi con thấy có xấu hổ không? Bởi vậy tụi con phải nỗ lực, dù cho đau nhức gì cũng ráng!

Ngày 28-5 Đinh Sửu (2-7-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện Thầy nhắc một chút về lý vô thường. Kỳ này Thầy đi về Thường Chiếu gặp ba đám ma. Một là đám Hoà thượng Thiện Hào tám sáu, tám bảy tuổi gì đó. Hai là đám bà Sáu mẹ Thiện Trung tám mốt tuổi. Ba là về đây gặp đám ma của Trí Hạnh sáu mươi hai tuổi. Không mấy ngày chứng kiến ba đám tang.

Thông thường, người ta già rồi bệnh chết hoặc có người trẻ bệnh chết, nhưng ai cũng nghĩ cái chết là của người khác chớ không dính gì tới mình. Thật ra, cái chết của người là một cảnh tỉnh lớn cho mình. Đức Phật khi ra bốn cửa thành, Ngài thấy người già, biết rằng mình cũng sẽ già; thấy người bệnh, biết mình cũng sẽ bệnh; thấy người chết, biết mình cũng sẽ chết. Việc đó không riêng ai hết mà liên hệ mật thiết với mình, nên khi đức Phật thấy cảnh sanh già bệnh chết, Ngài thức tỉnh liền, đi tu và tu đến nơi đến chốn.

Ngày nay tụi con ít hôm nghe người này người nọ chết, hoặc là thân nhân hoặc là người ngoài. Mỗi khi thấy người già bệnh chết là một lần cảnh tỉnh cho mình. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình không liên quan, vì chết là cái chung chớ không dành riêng ai. Nên Thầy khuyên tụi con, mình đã ý thức sớm cảnh khổ của cuộc đời là già, bệnh, chết, ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội, ngũ ấm xí thạnh thì phải làm sao để tránh chớ không thể tiếp tục mãi, vì đó là cái khổ triền miên từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là trầm luân muôn kiếp.

Đức Phật nói cái khổ lớn nhất là si mê không biết lối đi. Bởi vì mình chết rồi sanh trở lại, chịu bao nhiêu nỗi khổ rồi chết, rồi lại sanh, cứ như thế liên tục. Mang thân này muốn cho đừng đắm nhiễm thì tụi con phải nghĩ nó là thân tạm bợ, vô thường, hư dối. Nhớ đúng như vậy là tỉnh giác, nếu lầm tưởng thân thường còn là si mê.

Tất cả các thứ tham lam, lo tính những chuyện lâu dài muôn đời tụi con bỏ đi, chỉ cố gắng tu để đạt được đạo, để giải thoát sanh tử, đó là tối thượng. Chúng ta tu, nếu cứ nghĩ mình sống dai hoặc còn mãi là lầm lẫn. Từ chỗ lầm lẫn đó, khi bất chợt ngã đùng ra chết, tiếc thân này quá liền kiếm thân khác. Đời sau cũng tưởng mình sống dai rồi ngã ra chết, lại tiếc nuối kiếm thân khác. Cứ như vậy lẩn quẩn trong vòng luân hồi.

Bây giờ cần biết thân này là vay mượn, tạm dùng. Thầy thường dụ như ở ngoài biển cả chìm thuyền, vớt được gốc cây mục, biết là gốc cây mục tạm mượn để bơi vào bờ, đó là người khôn. Còn được gốc cây mục rồi cứ ôm hoài mà không cố bơi vào bờ là người ngu.

Thân này tạm bợ, đủ thứ vi trùng hoành hành quậy phá trong đó. Mình không làm chủ được, thân bị quậy phá tan nát rồi ngã ra chết. Bởi vậy, không có gì thật mà lầm tưởng là lâu dài chắc thật. Từ chỗ lầm đó sanh ra tất cả các bệnh tham, sân. Nếu chúng ta thấy rõ thân là tạm bợ không thật, thì lòng tham giảm, lòng sân giảm, đó là trí tuệ, là căn bản sự tu.

Như Trí Hạnh, kỳ giảng trước có mặt, nhưng trong buổi giảng ngày mai còn không? Đó là sự đánh thức cho tất cả tụi con, tụi con phải nhớ.

Không phải chuyện chết chóc là chuyện người ta, không dính dáng đến mình. Đừng bao giờ nghĩ như vậy. Một người chết là một đòn đau cho mình thức tỉnh. Thấy người chết biết mình cũng sẽ chết. Như vậy tụi con bớt tham lam, bớt nóng giận, bớt si mê.

Hôm nay Thầy nhắc cho tất cả tụi con nhớ để nỗ lực tinh tấn tu hành.

Ngày 28-7 Đinh Sửu (30-8-1997)

Qua thỉnh nguyện thấy trong chúng có những lỗi nhỏ đều ra sám hối, đó là điều rất tốt. Sau đây là lời Thầy nhắc nhở tất cả tụi con.

Ở đây, Thầy chịu trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi sự tu của tụi con. Trách nhiệm của người hướng dẫn là gìn giữ bảo vệ cho tụi con tu được tròn cả hai mặt:

- Mặt thứ nhất là đối với cuộc sống hằng ngày, mọi hành động, mọi tư tưởng không lệch lạc, không sai lầm trong lúc sống với chúng. Đó là về tư cách, đức hạnh, phải nhắc nhở dạy bảo.

- Mặt thứ hai quan trọng hơn là khi tụi con tu có những hiện tượng gì lạ xảy đến, nội tâm tụi con hoặc mừng vui hoặc buồn sợ, hoặc có những điều lạ lùng, tụi con đem trình với Thầy. Thầy biết ngay từ buổi đầu sẽ dạy cho rõ đúng hay sai để tụi con biết mà sửa. Đừng sợ trình rồi Thầy nói chúng nghe xấu hổ. Nghĩ như vậy sau này thành bệnh.

Tụi con phải cẩn mật, trong lúc tu thường có hai trường hợp:

Người nào quyết chí, tu một cách thành khẩn, miên mật thì sẽ có kết quả. Đó là những hiện tượng khác lúc bình thường, mà hồi xưa tụi con chưa từng biết, bây giờ mới biết. Đây là Trí vô sư. Hiện tượng khác lạ này là điều tốt.

Lại có những trường hợp xấu người tu phải trải qua, như Ngũ ấm ma, gồm năm mươi thứ, mỗi ấm có mười loại ma. Những thứ ma đó người tu ít ai không bị lầm vì nó đổi thay thiên hình vạn trạng tùy theo sở thích từng người. Nhưng trong kinh Lăng Nghiêm có một câu đủ làm tiêu chuẩn để mình tu không sợ. Khi mỗi thứ ma hiện ra hình tướng gì đến với mình, Phật đều dạy rằng: “Nếu biết cái đó do tâm dằn ép của mình mà hiện ra thì là thiện. Nếu tự cho là mình chứng Thánh liền lạc đường tà.”

Như vậy tất cả những gì tụi con thấy trong lúc tu thiền, hoặc là hình ảnh Phật, Bồ-tát, hoặc là quái vật..., tụi con phải nhớ đó là do trong lúc tu, tâm mình bị dằn ép nên biến hiện ra chớ không phải từ ngoài đến. Nếu biết như vậy, tụi con không bao giờ lạc. Còn khi thấy những tướng lạ đó sanh vui mừng, hỏi ra huynh đệ không ai thấy hết rồi tưởng mình đã đắc đạo, tưởng mình chứng Thánh, đó là bệnh khó trị.

Bởi vậy người tu không hiểu rõ chỗ này, tu thiền rồi điên là tại như vậy, cứ mơ ước có thần thánh hoặc Phật, Bồ-tát đến, tưởng chừng như ở ngoài đến làm gì cho mình. Những người đó đều lạc vào đường tà. Chúng ta tu, tất cả những hiện tượng lạ đến, mình đều biết là do sức dằn ép từ nội tâm, là bóng nội tâm hiện ra chớ không phải ở ngoài, nhớ như vậy không bao giờ lạc. Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai, tụi con khi tu nhớ rõ mình toạ thiền để đạt được định. Định là sao? Là tâm lặng. Chúng ta ngồi thiền để tâm yên lặng thanh tịnh, đó là mục tiêu mình nhắm, còn những tướng lạ bên ngoài không phải là mục tiêu của mình, không phải chuyện của mình. Chúng ta ngồi thiền một giờ, hai giờ tâm yên tĩnh lặng lẽ là đúng, đừng cần thấy cái gì hết. Từ tâm thanh tịnh lặng lẽ đó, trí tuệ sáng ra. Thiền định như vậy là đúng. Nếu tụi con ngồi thiền nhớ chuyện năm trên năm dưới, rồi những hình ảnh ấy hiện ra, đó là sai. Cho nên, thật tình biết rồi không bao giờ bị lạc.

Thầy nhắc tụi con một lần nữa, mình ngồi thiền trọng tâm là được định. Định là không còn nghĩ, tâm không còn dấy khởi, vì nghĩ là động, động tức ngược với định. Không nghĩ không dấy khởi là tâm thanh tịnh. Tâm định thì tự nó sáng. Thí dụ: Tụi con đọc kinh sách có chỗ không hiểu, một hôm nào đó tâm được an định và chợt thấu suốt hết những chỗ trước kia không hiểu. Đó là do tâm định, Trí vô sư sáng tỏ.

Từ định sanh tuệ, điều đó Thầy kinh nghiệm rất rõ ràng, không nghi ngờ gì hết. Tụi con tu, muốn được trí tuệ không cần kiếm ở đâu, chỉ tâm an định thì trí tuệ sáng. Như đức Phật Thích-ca khi ngồi thiền dưới cội bồ-đề, tâm Ngài hoàn toàn an định thanh tịnh, vừa khởi nhớ lại quá khứ Ngài liền thấy vô số kiếp trước đã từng làm gì, ở đâu, đó là chứng được Túc mạng thông. Cái đó từ trong tâm mình chớ đâu phải ai tới ban phép cho để được thấy.

Bởi vậy, tu thiền, tụi con ráng cẩn thận dè dặt, đừng bao giờ mong những chuyện viển vông. Tụi con nhớ trách nhiệm của Thầy rất nặng, vì đường lối tu thiền hiện tại chỉ có Thầy là người đứng ra lãnh chúng và dạy chúng đông. Nếu trong chúng có người nào phát cuồng phát điên lên thì sao? Người ta sẽ tố Thầy dạy tu thiền điên. Đây là điều rất nguy hiểm, nên Thầy nhắc tụi con cẩn thận, trong khi tu phải nắm vững mục tiêu và nguyên tắc tu cho đúng.

Kinh Lăng Nghiêm có dạy rõ về Ngũ ấm ma. Thí dụ, nếu ngồi thiền thấy có ma nhăn răng hiện ở trước mặt, tụi con phải biết đó là do tâm dằn ép rồi hiện ra tướng lạ. Tướng lạ là từ tâm hiện chớ không phải từ ngoài đến. Nhớ như vậy thì không sợ, cứ ngồi yên giữ chánh niệm nó sẽ mất. Còn nói đây là ma nhát mình, hoảng quá bỏ chạy là điên.

Tụi con thấy điều quan trọng đó, nắm cho vững thì khi tu không xảy ra những chuyện tà vạy. Sở dĩ người ta nói tu thiền điên là do không nắm vững nguyên tắc đó, nên khi tu thấy cái gì theo cái đó. Thí dụ nghe trong hư không có tiếng nói, thọ ký cho con giác ngộ, mai mốt con sẽ thành Phật, làm giáo chủ gì đó, nghe thích quá tưởng tượng mình sẽ như vậy, rồi tin đó là thầy tới điểm đạo cho mình, sau nói bậy bạ lung tung. Hoặc nghe có Phật hay Bồ-tát đến thuyết kinh, rồi vừa đi vừa nói lảm nhảm với người đang thuyết pháp, lâu dần thành điên.

Như vậy, dù cho có Phật hiện, cũng biết là do nội tâm mình đè nén nên thấy vậy. Biết rõ do tự tâm hiện thì không mừng không sợ, nên không điên. Tụi con nắm vững nguyên tắc đó chưa? Phải thật vững mới được, đó là cái đáng ngại.

Tu cốt tâm an định chớ không cầu cái gì lạ. Có người ngồi thiền, thấy trước mắt mình phát sáng ra và có hào quang, đôi khi thấy được người và vật ở bên kia vách nữa, rồi tưởng mình được Thiên nhãn thông, tưởng như vậy là bệnh. Tất cả cái thấy đó không có gì quan trọng. Quan trọng là tu sao cho tâm mình an định, còn tất cả những hiện tượng xảy ra đều là việc bên ngoài. Khi tâm định mình sẽ sáng ra được những điều trước kia chưa hiểu. Tu như vậy sẽ không sai.

Hôm nay Thầy nhắc tụi con nhớ hai đặc điểm trong nhà thiền dạy: Một là theo kinh Lăng Nghiêm thì tất cả tướng hiện ra trong lúc ngồi thiền, nhất là những lúc mình nhắm mắt, là do nội tâm phát ra chớ không phải ở bên ngoài đến, thảy đều không thật. Nếu thật thì bao nhiêu người ngồi đều phải thấy, chớ đâu có riêng mình, phải không? Hiểu rõ nên không mừng không sợ, nếu có khởi mừng sợ là sai.

Thứ hai, có người ngồi thiền buông hết tâm lăng xăng, tới chừng không nghĩ gì hết, phát hoảng lên, cho là đã mất mình. Tụi con nên hiểu, khi vọng niệm lặng xuống, thấy, nghe, biết rõ ràng, đó là đúng, là định. Vậy mà sanh hoảng tức thành loạn. Những sai lầm đó vì không biết rõ nên tu lẽ ra chỗ tốt lại thành xấu.

Đây là những điều tụi con phải cẩn thận. Trong những năm tháng mình nhập thất, có các hiện tượng lạ đến cần phải cẩn thận, phải biết rõ để không bị lầm lạc. Đó là lời Thầy nhắc, tụi con ráng ghi nhớ.

Ngày 28-8 Đinh Sửu (29-9-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện, toàn chúng ai có lỗi đều biết thành tâm sám hối. Vậy là tụi con có tinh thần gắng tu, cố dẹp trừ các nghiệp chướng để tiến nhanh trên bước đường tu.

Sau đây Thầy có ít lời nhắc nhở tụi con về thái độ dứt khoát theo tinh thần Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Tụi con phải hiểu, nhất là phái nữ, nếu mình không đi tu thì thôi, một khi đã cạo tóc xuất gia, không bao giờ để tóc trở lại với thế gian. Nếu hoàn tục rồi, muốn tu lại cũng không được nữa. Vậy nên tụi con phát nguyện tu phải dõng mãnh đi mãi cho tới ngày thành công.

Tu rất là khó, bởi vì ai cũng có sẵn tập nghiệp quá khứ sâu dày, khi khởi sự tu hành, những nghiệp chướng đó hay lôi dẫn mình làm việc trái với đạo lý. Do đó tụi con phải có ý chí mãnh liệt và phát nguyện mạnh mẽ thì việc tu mới đến nơi được. Nếu yếu đuối hoặc lơ là thì đường tu của mình dễ bị trở ngại.

Một người tu khi rời bỏ gia đình rồi thì không còn giúp gì được cho cha mẹ, cho những người quen thân, chỉ có một việc là tu. Nếu tu thành công mới làm lợi ích cho cha mẹ và người xung quanh được. Ngược lại tu lơ mơ, rốt cuộc không có lợi cho đời, cũng chẳng ích gì cho đạo, sống một cách lừng chừng không tới đâu hết, thật là uổng một đời, còn mang tội lớn với cha mẹ. Cha mẹ nào muốn rời con, chỉ vì mình ham tu quá nên cha mẹ buộc lòng cho xuất gia. Vậy phải nhớ làm sao cho cha mẹ hài lòng, phải tu hành chín chắn đàng hoàng để cha mẹ yên lòng rằng nhờ con mà nghiệp chướng của mình được giảm bớt.

Do đó, tụi con phải cố gắng tối đa trên đường tu. Phút giây nào hơi thối tâm lùi bước là tự cảnh tỉnh liền. Đâu phải tụi con bỏ cha mẹ để đến chùa chơi? Nhớ vậy để tụi con tự rầy, tự quở, thúc đẩy mình tiến lên. Tất cả tụi con, đứa nào cũng có khả năng tu được, nếu biết răn nhắc mình thì tụi con sẽ tu đến nơi đến chốn, còn lơ là, đó là cớ thối tâm. Một khi duyên tốt mất rồi, đời không ra đời, đạo không ra đạo, thật uổng phí một cơ duyên quí báu, còn làm trò cười cho thiên hạ chớ có ích gì!

Trên đường tu, tụi con phải luôn luôn tỉnh sáng, thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình. Nếu hôm nay nỗ lực cố gắng, ngày mai lơ là hoặc vui chơi... là tự tụi con làm mất thời gian quí báu trong lúc mọi người đang trông đợi. Khi tụi con đến đây, cha mẹ, anh em trong gia đình đều trông tụi con tu có những bước tiến để về nhắc nhở, khuyên dạy họ tu theo. Nếu ở đây ba năm, bảy năm mà tu không ra gì, thật là uổng công tụi con xuất gia, uổng công Thầy Tổ dạy dỗ, phụ lòng cha mẹ anh em trông chờ!

Thầy mong mỗi đứa tụi con đều ý thức trách nhiệm của mình, làm sao cho được thành công toại nguyện, để những người trông đợi mình đều hoan hỉ. Đó là xứng đáng, là tốt đẹp.

Câu chuyện buổi chiều.

Thầy kể một câu chuyện tinh tấn cho tụi con nghe.

Có một Tôn giả tên là Tissa, nhà giàu, chỉ có hai anh em ruột. Cha mẹ mất, ông đem hết của cải cho người em rồi theo Phật tu, thường vào rừng toạ thiền. Một hôm, người em dâu chợt nảy ra ý nghĩ: “Biết đâu anh mình sau này chán tu, đổi ý trở về đòi của cải lại thì sao. Chi bằng bây giờ tìm cách thủ tiêu cho khỏi trở về.” Nghĩ vậy, cô mướn bọn cướp đi tìm Tissa để thủ tiêu. Bọn cướp thấy Ngài đang ngồi thiền trong rừng, đến muốn giết. Tissa nói:

- Khoan! Cho tôi hoãn lại ít hôm. Tôi không sợ chết, không chạy trốn đâu. Hoãn ít hôm cho tôi tu đạt được kết quả, lúc ấy các anh giết tôi cũng chẳng muộn.

Tướng cướp nói:

- Ta không tin lời ông đâu. Ông nói ở đây, nhưng bọn ta đi rồi, ông đi mất làm sao?

Tissa bèn lấy cục đá to dằn lên đầu gối gẫy một bên chân, rồi lấy một cục nữa dằn gẫy luôn đầu gối bên kia. Ngài nói:

- Đó, hai chân tôi gẫy hết rồi, không thể đi đâu được. Nên tha cho tôi ít hôm!

Bọn cướp thấy Ngài gan dạ quá, lại gẫy cả hai chân không thể trốn thoát được nên thuận lời bỏ đi. Còn một mình Tissa, hai chân gẫy nát, đau đớn vậy mà Ngài vẫn thản nhiên tinh tấn, nghĩ rằng sẽ chết trong một hai ngày nữa, nên cố gắng tu sao cho đạt được quả vị A-la-hán. Ngài nỗ lực tu suốt ngày đêm. Đến ngày thứ ba thì chứng quả A-la-hán.

Tụi con thử tưởng tượng chân mình dập như vậy ngồi tu nổi không?

- Dạ, không.

Bởi vậy nên không chứng quả. Người xưa dám liều chết nên tu có kết quả, còn mình nhiều khi nặng về thân quá, hơi khó chịu một chút là rên rỉ đủ thứ, than thở xin nghỉ ngồi thiền… thì đời nào giác ngộ. Người ta đau như vậy mà can đảm chịu, chiến thắng, dẹp sạch phiền não, sạch rồi mới xong. Người xưa gan dạ, chết cũng ngồi tại chỗ chết nên mới đạt được đạo.

Tụi con ở đây có bận tâm gì không? Không có gì bận tâm cả. Buổi sáng Tri sự cắt công tác làm hai ba tiếng đồng hồ, chỉ làm những việc vừa sức. Vậy mà lâu lâu cũng ngán, mệt tu không nổi, đau tu không nổi. Hoàn cảnh thế này mà tu không nổi thì chừng nào tụi con đạt được kết quả? Hiểu vậy rồi, lúc nào cũng phải dũng mãnh. Có ai không chết đâu, chỉ sớm hay muộn thôi. Nếu mình gan dạ có chết sớm mà đạt đạo cũng còn hơn. Bây giờ tụi con chọn cái nào? Chết sớm mà đạt đạo, hay là sống lê thê rên rỉ hoài suốt đời?

- Dạ, thà chết sớm mà đạt đạo quả, còn hơn tu đến già chẳng ra gì. Nhưng tu hành giác ngộ thật khó!

Đâu có khó! Đừng nên nghi ngờ. Tại tụi con chưa tự tin. Tu là dám chết dám sống. Còn tụi con sợ bệnh, sợ chết thì đến bao giờ mới thành công? Mấy đứa thấy Thầy dường như là mạnh lắm, trong khi bác sĩ chê Thầy đủ thứ bệnh, vậy mà có sao đâu, do tinh thần mạnh thì mọi bệnh đều vượt qua.

Hai yếu tố tụi con phải có là:

Thứ nhất: Tinh thần phải cứng cỏi, dũng mãnh.

Thứ hai: Phải lạc quan, lúc nào cũng thấy trong lòng vui vẻ, được một ngày tu là hạnh phúc một ngày. Đừng nên bi quan, ngồi buồn nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói xấu mình. Buồn bã hoài thì tu chỉ đi xuống chớ không đi lên nổi. Phải vui vẻ thấy rằng được sống như vầy là ít có. Thật ra thời mạt pháp mà tạo được duyên tu hành như đây rất ít có, ai đã từng ở các nơi thì biết. Tụi con sống ở đây không lo đủ thiếu, không lo cất chứa gì hết. Mọi chuyện đều đã có người lo, chỉ có làm lụng chút ít rồi tu. Chính trong khi làm cũng tu, chẳng có ai quấy rầy. Vậy mà tu không được Thầy cũng đầu hàng, không còn cách nào nữa!

Có nhiều người tha thiết xin vào đây lắm, nhưng Thầy không cho vì không còn chỗ. Tụi con vào được rồi mà không cố gắng tu rất uổng, thật đáng tiếc! Cho nên phải quyết tâm tu, đời người có mấy chục năm thôi, không dài. Tụi con ít ra gần phân nửa đời người rồi. Phân nửa là tính theo nguyên tắc căn bản sống tới già rồi chết, chớ cái bất thường chưa nói đến. Vậy mà không cố gắng đem hết tâm lực tu rất uổng.

Tụi con ráng ngày nào cũng tinh tấn, ngày nào cũng vui vẻ mới tốt. Ai buồn bã, bực bội than thở sẽ xuống tinh thần, tu không tiến, trong lòng phiền não, ngoài thân thể đau ốm, cuối cùng thối Bồ-đề tâm. Cho nên tụi con phải can đảm và cương quyết. Được thân này đã khó mà đầy đủ sáu căn khỏe mạnh cũng là ít có, lại được gặp duyên có thầy lành, bạn tốt để sách tấn tu hành, thật là hi hữu.

Ở các nơi người tu phải đi đám, mai đám này mốt đám kia, đi hoài không còn thời giờ tu. Nơi đây tụi con được ở một chỗ yên tu mà không thành công Thầy cũng bó tay đầu hàng. Phật tử các nơi đang hướng về Trúc Lâm hết lòng ủng hộ, trông chờ kết quả. Tụi con thử tính xem từ hồi vào Viện tới bây giờ, có bao nhiêu cái áo lạnh?

- Dạ, nhiều lắm!

Phật tử thương tụi con, nghĩ Tăng Ni ở đây quyết tâm tu hành, mọi người dồn hết sức để lo, nhất là mấy Phật tử ở xa gởi áo lạnh về, nói nghe xót ruột: “Mỗi ngày sau khi đi làm về, con dành tất cả thời giờ đan áo lạnh gởi cúng dường Tăng Ni, chỉ mong quí Thầy Cô tu hành giác ngộ độ chúng con.” Tấm lòng của Phật tử, tụi con nghĩ sao? Nếu không tu, thật là đáng trách! Bởi vậy phải gắng tu, lúc bệnh tu theo bệnh, mạnh tu theo mạnh, đừng bao giờ nản chí, đừng bao giờ để phiền não làm chướng ngại sự tu hành.

Được như vậy thì sống trên đời này không hổ thẹn, nếu lơ mơ uổng đi một đời, không xứng đáng nhận của cúng dường. Người ta không đòi cái gì chỉ lo cho mình tu, vậy mà không chịu tu là mang nợ. Bây giờ nợ Thầy lãnh nhưng tụi con phải chia, chẳng lẽ Thầy lãnh nợ nuôi tụi con, rồi bắt Thầy trả hoài, còn tụi con trốn nợ sao? Thầy lãnh thì Thầy chịu năm mươi phần trăm, còn tụi con năm mươi phần trăm.

Nên tụi con phải ráng cố gắng tinh tấn tu hành, đừng bao giờ bỏ phí thời giờ, đừng để bị mấy chú phiền não quay. Phải dẹp hết, không có gì quan trọng. Giả sử người ta kêu tên mình chửi cũng chẳng đáng để lòng. Ở đây thật ra chưa ai dám chửi tụi con, có gì quan trọng mà phải buồn lo.

Đời tu rất quí, nên Thầy gắng thực hiện hai điều: một là tạo duyên tốt để tụi con tu, hai là nhắc nhở tụi con tu. Từ tháng này năm nọ, Thầy không ngừng nhắc nhở khuyến khích tụi con. Đó là làm hết bổn phận của Thầy, còn lôi thôi là tại tụi con, không phải lỗi Thầy, sau chớ đổ thừa ở Trúc Lâm Thầy tạo duyên tu không được. Bây giờ ráng tu, giờ nào cũng là giờ quí báu, đừng để trôi suông vô ích, sau tìm lại không được.

Ã

Tất cả Ni chúng ở đây và Phật tử tập tu thử nghiệm coi mình tu có lợi gì cho hiện tại và vị lai không?

Quí vị có thấy mỗi một ngày mình nhớ tu thì ngày đó sẽ ít phiền não không? Còn ngày nào nhớ nhà, nhớ anh em bà con thân thuộc nhiều, nhớ mà không gặp thì phiền não, quên tu. Bởi vậy hồi trước ở Thường Chiếu, chư Tăng chư Ni còn lao động nhiều, Thầy có nói: “Phải coi lao động như ăn cơm, học kinh như uống nước, tu như hơi thở.” Thiếu cơm sáu bảy ngày mới chết, thiếu nước có thể đôi ba ngày, còn thiếu thở thì chết liền. Bởi vậy người tu lúc nào thiếu tu là đã mất tánh chất của người tu rồi. Cho nên trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn nhớ mình đang tu, đừng bao giờ quên.

Nhiều khi chúng ta cứ nhớ hồi cư sĩ mình thế nào, làm ăn buôn bán ra sao... Đó là nhớ tu hay nhớ phàm tục? Người xả tục xuất gia không nên nhớ những việc thế gian. Giả sử vừa sực nhớ lại, bỏ liền không cho tái xuất hiện, phải nhớ mình đang tu. Đang tu là có ai làm gì trái ý, bực bội cũng bỏ qua không giận. Nếu không giận, không buồn phiền, gương mặt tự nhiên tươi tắn dễ thương. Người tu hay giận hay quạu, thấy mặt người ta ghét thì không giáo hoá được ai.

Ở trong gia đình, người Phật tử biết tu thì gia đình đó vui, người này làm người kia vui lây, còn không biết tu thì làm khổ lây. Ai nói trái tai liền nổi giận, nói qua nói lại một hồi mình phiền người khác cũng phiền, rồi một chùm phiền não, khổ lây cả nhà. Bây giờ chúng ta biết tu rồi, có điều gì không vừa ý, bỏ qua tươi vui như thường. Ai sống đời đây mà tranh hơn tranh thua.

Nếu có người muốn gì đều được như ý, người đó cũng không khỏi chết. Cái chết luôn chực sẵn từ cuối đường, chúng ta cứ đi tới từng bước hoài thế nào cũng đến cuối đường. Như vậy qua một ngày là gần cái chết một chút. Vậy mà không lo chết, lại lo chuyện hơn thua là khôn hay dại?

Bởi vậy, người tu tại gia lúc nào cũng nhớ mình là Phật tử, ráng lo tu, dẹp bỏ phiền não, đừng chứa chất, nghĩa là có thì bỏ liền, không dung dưỡng. Đó là người khéo tu. Ở trong chùa cũng vậy, quí cô lúc nào cũng phải tu, đừng nghe nói trái ý nổi sân lên, hết nhớ tu. Người tu lúc nào cũng từ bi hỉ xả, sân si không phải là người tu.

Như vậy, tu là hơi thở, nghĩa là quên một phút giây là thấy chết, mất tư cách người tu. Người tại gia cũng như xuất gia đều phải luôn nhớ tu, không quên, giống như hơi thở nếu ngưng là chết, còn nhớ thở là sống. Được vậy sẽ mau đạt đạo. Có hôm nào tụi con quên thở không? Không ai dám quên thở mà tu thì quên. Đó là chỗ sơ sót, là điều đáng tiếc.

Giả sử chúng ta đang ngồi trong nhà, chợt có ai kêu tên mình nghe hơi nặng nề, lúc đó nhớ mình đang tu hay là ra ăn thua? Nếu ra ăn thua là quên mình đang tu. Người tu nghe ai nói nặng cũng bỏ qua, không có gì quan trọng. Mình đang lo giải quyết vấn đề sanh tử, không rảnh để lo chuyện hơn thua. Hơn thua rồi tới đâu? Nếu người ta nói, mình bực tức, rồi tìm cách làm sao trả lại cho người ta bực tức bằng mình hoặc hơn nữa, như vậy được cái gì? Chỉ tăng thêm oán hờn!

Vì vậy tu là bỏ qua, không có gì quan trọng. Điều quan trọng là làm sao ngày nào cũng dọn dẹp phiền não nơi mình cho sạch. Nếu nuôi dưỡng phiền não thì chưa phải người tu, dù là tại gia hay xuất gia.

Nhiều khi Phật tử tại gia nghĩ mình ăn chay là tu rồi, nhưng hễ ai động tới thì tranh hơn tranh thua đủ thứ, vậy đâu phải là thật tu. Tu là phải sửa cho hết những cái xấu dở của mình. Sửa được rồi, hiện tại mình vui, đi đâu cũng vui, không làm ai phiền giận thì có gì để buồn. Giả sử có ai giận phiền là do mình có cử chỉ hay lời nói gì đó khiến họ không vừa lòng, chớ không thể bỗng dưng lại phiền, mình nên tới xin lỗi: “Tôi có lỡ làm hoặc nói cái gì khiến huynh phiền, cho tôi xin lỗi, tha thứ cho điều tôi sơ sót.”

Có ai dám xin lỗi như vậy không? Hay là chỉ lên sám hối với Phật mà không dám trực tiếp xin lỗi người buồn mình. Như thế là yếu đuối, nhát nhúa, dám làm không dám chịu, giận thì nói nặng người ta, khi người ta phiền không can đảm tới xin lỗi.

Nếu lỡ làm điều gì khiến người ta buồn phiền, mình phải tới xin lỗi, thực tế như vậy mới tiêu tội. Còn tới sám hối với Phật cho hết tội, e là không hết. Phật làm sao tha được cái giận của người ta. Vậy mà ai cũng chịu sám hối với Phật chớ không can đảm đi xin lỗi người mình đã làm phiền. Như vậy tụi con khéo tu hay là vụng tu?

Nếu người nào không giận, không buồn ai thì tâm hồn sẽ thanh thản nhẹ nhàng. Tu như vậy có lợi vô cùng, bản thân mình lúc nào cũng an lành vui vẻ, không có gì buồn phiền. Nếu hiện tại chúng ta an lành vui vẻ thì khi nhắm mắt cũng được tốt đẹp. Người biết tu thì ngay trong đời này đã tốt đã vui. Vui cho bản thân mình và vui lây đến người xung quanh.

Ở đây người nào cũng như vậy thì không có ai mặt mày bí xị. Sở dĩ bí xị là vì có ai đó làm mình không vui, mà không vui tức là thiếu tu. Vậy khi thấy có ai mặt quạu đeo chúng ta đánh giá người đó sao? Là quên tu! Quên tu thì bị gõ đầu chớ đừng nói phải quấy gì cả. Nhiều khi có người nói vô: “Người đó làm vậy chị giận phải quá mà, thật đáng giận!” Đó là cách nói không đúng.

Không có gì đáng giận, phải giận, nếu mình biết tu. Chỉ khi mình không biết tu hay quên tu mới giận như vậy. Khi giận là đã quên tu rồi. Dù cho mình đúng một trăm phần trăm mà nổi giận tức quên tu thì cũng là quấy. Nhớ như vậy tu hành sẽ tốt hơn. Đừng nghĩ mình tu để Phật ban phước cho hết phiền não. Chờ Phật ban cho hết phiền não chuyện không thể có, phải tự mình dẹp sạch mới được.

Ai cũng biết ngày mai mình sẽ già sẽ chết mà hôm nay không chịu tu, vậy là khôn ngoan tới cỡ nào? Một ngày qua là mất một khoảng thời giờ quí báu của mình. Hiểu như vậy rồi, ngày nay mình có già yếu cũng phải nhớ tu, đừng nhớ thân quyến bà con. Đừng thèm nhớ vì họ không cứu được mình, con cháu cứu không được quí bà, chỉ có chính mình cứu được mình.

Bởi vậy tu một ngày là quí một ngày, thời gian còn ngắn lắm nên dồn hết sức để tu. Dầu cho tiền bạc, nhà cửa bao nhiêu tới chừng nhắm mắt đều để lại hết, không đem theo được gì. Chỉ sự tu là quan trọng, biết tu mới cứu được mình.

Biết tu còn giúp được cha mẹ anh em, bà con thân thuộc, vì mình tu được, ai tới thăm cũng vui, thấy mình từ hồi tu tới giờ lúc nào cũng tươi nên người ta phát tâm theo. Ngược lại, nếu cha mẹ bà con vô chùa thăm, thấy tụi con khóc lên khóc xuống làm sao phát tâm nổi. Đi tu mà buồn thảm như vậy còn ai dám tu. Họ về còn thắc mắc: “Đi tu gì khổ quá, rủ nó về cho rồi!” Đó là không tự cứu được mình còn làm hoạ lây tới những người chung quanh. Nếu khéo tu, chính mình đã được an ổn tự tại, còn tạo sự an ổn cho người chung quanh. Như vậy, khéo tu là đem lại lợi ích lớn cho bản thân và mọi người, không khéo tu thì đem hoạ đến cho thiên hạ.

Cho nên tu phải vui vẻ tươi tắn, lúc nào cũng thấy mình đã đạt được sở nguyện. Sở nguyện của chúng ta là tu để cứu mình, cứu người, bây giờ đã được tu, tuy việc làm chưa tới cứu kính nhưng đạt sở nguyện là vui rồi. Nghĩ vậy nên luôn luôn vui vẻ tươi cười. Thấy người nào vẻ mặt sầu não ưu tư biết là quên tu, nhớ thân thuộc rồi muốn trở về. Đó là một lý do thối Bồ-đề tâm.

Vậy nên tụi con phải sáng suốt, không một phút giây nào bỏ qua, lúc nào cũng là lúc tu. Giả sử người nào đó nghe mình nói điều gì trái ý, trong một phút giây họ trả lại một câu nói nặng, lúc đó nếu không biết tu đâu có tỉnh giác kịp. Nên lúc nào cũng sẵn sàng tu, chờ tới giờ ngồi thiền, sám hối mới tu thì muộn lắm rồi. Ngay lúc có sự việc xảy đến là lúc mình phải tu. Khéo tu trong mọi lúc là người biết tu, còn đợi tới thời khoá thì không hay. Đó là lẽ thật.

Khi ngồi thiền, nét mặt tụi con tươi vui biểu lộ tâm hồn thơ thới nhẹ nhàng, không được chăm bẳm quá hay mặt hầm xuống như đang giận ai. Nhờ tụi con tu gương mặt bình thản tươi vui, chúng sanh thấy phát tâm hoan hỉ cũng bớt khổ, đừng để người ta thấy mặt sợ không dám ngó, lại càng khổ thêm. Hiểu vậy tụi con ráng nhớ trách nhiệm mình, không quên tu một phút giây nào. Tu như hơi thở, vừa quên tu liền là xác chết.

Ã

Mây không phải là bầu trời, mây chỉ là hiện tượng tạm bợ. Biết như vậy là chánh xác, còn tưởng mây là bầu trời tức mê. Bây giờ biết rõ mây không phải là bầu trời, chỉ là hiện tượng tạm bợ, tụ rồi tan, tuy mây vẫn còn nhưng mình không lầm.

Thầy giảng rõ vì sợ tụi con ngồi thiền cứ thấy vọng tưởng bỏ hoài cũng chưa hết, lâu ngày sanh nghi: “Sao không thấy cái thật, cứ thấy cái giả hoài, làm uổng công quá vậy, coi như cả ngày làm việc không công!” Hễ biết nó là giả tự nhiên không lầm. Không lầm thì cái giả hết, cái thật tự hiện bày, khỏi tìm kiếm ở đâu. Nên nói “thú hướng chân như tổng thị tà”. Vừa muốn tìm cái thật là đã rơi vào tà rồi. Cái thật đâu ngoài cái giả, chỉ cần cái giả tan hết là hiện đầy đủ tất cả. Như vậy dễ hay khó? Có người nào thiếu không? Có cụm mây nào ngoài bầu trời đâu!

Thử đem so sánh một lượn sóng với biển cả, lượn sóng có thấm vào đâu so với biển. Cũng như cụm mây có thấm vào đâu so với bầu hư không. Nên chúng ta bỏ cái tạm bợ nhỏ hẹp để được cái thênh thang, đó là chuyện phi thường chớ không nhỏ. Người đời cứ tìm cầu những thứ tầm thường, thí dụ như có tiền cất nhà lầu sắm xe hơi. Đâu biết nhà lầu rồi sẽ hoại, xe hơi đi lâu cũng hư. Chỉ có cái sẵn có của mình là chân thật mà lại bỏ quên chạy theo cái giả từ đời này đến đời kia, thật uổng!

Vậy nên trong kinh Phật nói chỉ có si mê không biết lối đi mới thật khổ. Bởi vì mờ mịt không biết lối đi, mấy chục năm chết đây rồi sanh trở lại, rồi mấy chục năm nữa chết đi... Nên Phật nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn biển cả.” Cái khổ lớn nhất là khổ trầm luân.

Bây giờ, quí Phật tử biết rõ vọng tưởng là nhân tạo nghiệp, không theo nó tức bớt khổ. Khi nào nó lặng xuống thì sáng ra, liền hết mê lầm, tức giác ngộ giải thoát. Được như vậy muôn đời khỏi bị đau khổ.

Nếu người có lòng đại từ đại bi, giải thoát rồi nhưng vì thương chúng sanh mà dạo chơi trong sanh tử để hoá độ người, gọi là “du hí tam-muội”, nghĩa là đùa chơi trong cõi đời mà vẫn ở trong chánh định. Đó là hạnh Bồ-tát, không nỡ bỏ chúng sanh mê nên trở lại lăn lộn giữa cõi đời để độ họ. Sống giữa cõi đời này người ta khổ nhưng mình vẫn tự tại.

Ã

Tụi con nghe nói chúng sanh mê, đức Phật giác, phải không? Nay Thầy hỏi: “Chúng sanh mê là mê cái gì? Phật giác là giác cái gì?” Đây là gốc của sự tu hành. Ở Thiền viện tu giác ngộ mà người ta hỏi câu này không trả lời được là thiếu căn bản.

Bây giờ Thầy giải thích cho tụi con hiểu. Cái mê thứ nhất của chúng sanh là thân năm uẩn hư dối lại tưởng là thật. Bởi tưởng thật nên chấp nó là ngã, rồi giành giật, hơn thua phải quấy, có khi sát phạt nhau không gớm tay. Mê là si, từ si sanh tham, giành giật ngũ dục. Nếu có ai chống lại liền sát phạt, đó là từ tham sanh sân. Như vậy, cái mê gốc của con người là mê lầm chấp thân.

Thân này do duyên hợp tạm có, biến đổi không dừng. Từ lúc lọt lòng mẹ, mỗi ngày mỗi chuyển biến cho đến già rồi chết, trong một dòng sanh diệt liên tục. Cái gì thật thì không chuyển biến thay đổi, thay đổi tức không thật.

Đời sống chúng ta giống như dòng nước chảy liên miên không dừng, thế nhưng chúng ta không biết tưởng thân là thật, là mình, sanh ra chấp ngã, tự hào, cái gì cũng ta. Nói đẹp thì ta đẹp hơn, nói tốt thì ta tốt hơn, nói phải ta phải hơn... Bởi vậy ai xúc phạm liền nổi sân. Như tưởng mình đẹp ai nói xấu là xúc phạm, tự thấy mình hơn lại nói mình thua là xúc phạm, nghĩ mình phải mà nói quấy là xúc phạm. Cứ vậy cả ngày tranh hơn thua, phải quấy, rốt cuộc rồi cũng chết. Thật là mê muội đáng thương! Đó là mê về thân.

Cái mê thứ hai là không biết trong thân tạm bợ hư dối lại có cái chân thật. Cái mê này thế gian không biết, chỉ người tu mới biết. Người tu hiểu rằng thân là tạm bợ hư dối, trong cái hư dối có cái thật. Hiểu như vậy mà chưa thấy thật rõ ràng, nên chúng ta tu là để nhận được cái thật đó.

Như vậy tụi con thấy, chúng sanh không biết có cái chân thật, thấy giả cho là thật, cứ như vậy mà khổ rồi tạo khổ cho kẻ khác. Cả cuộc đời, kết thúc được cái gì? Chỉ là một lớp giả dối không thật. Người tu nghe lời Phật dạy, biết nơi thân giả có cái thật nên nỗ lực tu, mượn thân giả này làm phương tiện để tìm ra cái chân thật. Đó là chỗ thức tỉnh thiết thực nhất. Biết chỗ mê của chúng sanh rồi thì cái giác hiện tiền.

Đức Phật giác ngộ khi Ngài thấy người ta già bệnh chết, biết mình cũng già bệnh chết, không nghi ngờ. Rõ như vậy thì cuộc đời chỉ là trò chơi tạm bợ, không có giá trị. Ngài thức tỉnh ra đi tìm đạo. Mà tìm đạo là tìm cái gì? Thật ra, Ngài thấy có những vấn đề phải tìm:

Thứ nhất là vấn đề sanh, con người từ đâu sanh ra?

Thứ hai là chết rồi còn hay hết, nếu còn thì làm gì, đi đâu?

Thứ ba là nếu chúng ta không muốn tiếp tục đi trong vòng sanh tử đó phải làm sao?

Đó là ba câu hỏi then chốt của con người mà thế gian này ít ai nghĩ tới. Cứ sanh ra rồi tới chết là hết. Còn đức Phật thắc mắc, ta có mặt ở đây đâu phải ngẫu nhiên mà có, vậy trước mình là cái gì giờ mới tới đây? Đó là lý do Ngài tìm lại đầu mối của sanh tử. Người thế gian chỉ biết mình đang ở đây, không biết từ đâu tới rồi chết ra sao? Họ cứ hưởng thụ cho thoả mãn rồi chết ra sao thì ra, đi đâu cũng được.

Chỗ Phật tỉnh giác là Ngài biết thân này tạm bợ giả dối nên thức tỉnh đi tu. Đến các vị tiên dạy tu thiền để học, nhưng họ cũng chưa giải quyết được những vấn đề Ngài thắc mắc. Ngài tới vị này học một thời gian rồi từ giã đến vị khác, rồi lại từ giã đến chỗ khác nữa. Cuối cùng Ngài thấy vấn đề đó chỉ có tự mình giải quyết. Đến khi Ngài giác ngộ thành Phật, là giác ngộ cái gì? Trong kinh kể nhiều lắm, Thầy chỉ nói cái căn bản là Tam minh.

Trước hết Ngài giác ngộ Túc mạng minh, tức là biết được vô số đời trước đã từng ở đâu, cha mẹ tên gì..., biết suốt hết các đời qua đã từng làm gì, bây giờ mới tới đây. Vậy là Ngài rõ được nghi vấn “sanh từ đâu đến”, biết được đây không phải là lần đầu mà đã vô số lần sanh tử rồi, bây giờ chỉ là tiếp tục sanh. Thấu suốt như vậy là đã giải quyết được vấn đề thứ nhất.

Kế đến Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ con người chết không phải hết, mà do nghiệp thiện hoặc ác dẫn đi luân hồi trong lục đạo: người, trời, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Như vậy, chết không phải là hết mà còn tiếp tục sanh ở trong sáu đường luân hồi. Thế là Ngài giải quyết được câu hỏi thứ hai.

Tới canh năm Ngài chứng được Lậu tận minh, là thấy tột nguồn gốc con người do cái gì mà phải tiếp tục sanh, và bây giờ muốn dứt phải làm sao để dứt. Đó là Tứ thánh đế. Muốn được Niết-bàn phải diệt Tập đế. Tập đế là nhân của quả khổ, tức Khổ đế. Diệt hết Tập nhân này thì được Niết-bàn. Muốn diệt phải có phương pháp, phải tu theo ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Đạo đế. Như vậy, Ngài giải quyết được cái nghi thứ ba.

Đức Phật chứng quả Đại giác: Giác ngộ được kiếp người từ đâu tới, chết rồi sẽ về đâu và muốn ra khỏi sanh tử phải làm sao? Đó là mục tiêu của đức Phật. Nay chúng ta bắt chước đi theo tất nhiên cũng phải biết cho rõ. Chẳng lẽ nói tôi tu để giác ngộ mà giác ngộ cái gì mình không biết! Đức Phật giác ngộ trọn vẹn ba điều trên, không còn bị lôi dẫn trong sanh tử nữa, còn chúng ta bây giờ không biết mình từ đâu lại đây, cũng không biết mai kia chết rồi ra sao, chưa giải thích được.

Tụi con phải hiểu gốc mê của mình thì mới giác được, còn nếu không hiểu, nói tu không biết tu cái gì, riết rồi cũng như người thế tục, không biết mình là gì?

Thật ra, con người không có gì ngoài ba vấn đề: Từ đâu tới? Chết rồi sẽ ra sao? Và nếu muốn không tiếp tục sanh tử nữa phải thế nào? Việc chánh của đời tu là giải quyết những vấn đề này.

Ã

Hỏi: Trước đây khi có vấn đề khó xử, con thường bỏ đó đi ngủ, khi thức dậy tự nhiên có giải đáp. Từ khi con biết ngồi thiền, thấy cũng có vài kết quả tương tợ. Tại sao vậy?

Đáp: Khi có một vấn đề thắc mắc, mình bỏ qua, đi ngồi thiền. Lúc ngồi thiền tâm lặng, trí sáng nên giải quyết vấn đề một cách dễ dàng.

Hỏi: Giải pháp đến sau khi ngồi thiền hay trong khi ngồi thiền?

Đáp: Trong lúc ngồi thiền tâm yên thì thấy được giải pháp.

Người tu thiền như một khạp nước đục, để yên thì lóng trong, khi đục nó tối, khi trong nó sáng. Ngồi thiền lắng tâm mình cũng giống như lắng các cặn bã trong nước. Khi cặn bã lặng rồi tự nhiên nước trong. Nước trong thì những gì bên trên ảnh hiện đầy đủ.

Hỏi: Khi người thân gặp vấn đề khó khăn, chúng ta có thể dùng sức thiền định giúp đỡ họ không?

Đáp: Thật ra, giúp người khác qua thiền định là khi nào sự thiền định của mình có đủ sức mạnh mới có thể được, nếu chưa đủ sức mạnh muốn giúp cũng không được.

Trong nhà Phật có Từ bi quán. Khi mình thương người đó khổ, ngồi thiền rải tâm từ bi cho họ được bình an. Điều này có, nhưng có trong sự quán tưởng của mình chớ không phải là cái thật.

Hỏi: Vậy có giúp được người kia khỏi cảnh khó khăn không?

Đáp: Thực tế ít khi được như ý. Bởi vì trong thực tế, khả năng và sức mạnh thiền định của mình chưa đủ để chuyển được hoàn cảnh của người khác. Do đó, có thể giúp được trong chỗ nhẹ nhàng của nội tâm, chớ không thể chuyển đổi hoàn cảnh.

Ã

Đi dự Đại hội kỳ này Thầy làm được hai việc. Thật ra, dự Đại hội là phần phụ, còn phần chánh là lên Yên Tử.

Trước khi lên Yên Tử, Thầy đi chùa Lân, còn gọi là chùa Long Động. Ngày xưa, Điều Ngự Giác Hoàng truyền giới Tỳ-kheo và Bồ-tát cho ngài Pháp Loa tại chùa này. Hồi trước đường lên Yên tử khó đi hơn bây giờ. Ban đầu Thầy còn đi thong thả, dần dần leo hết nổi, đến mấy dốc cao đứng quá, có người đứng trên đưa tay xuống kéo, hai người ở dưới đẩy lên, vậy mới leo được. Thầy như thế, Nhật Quang cũng không kém gì. Lên tới am Vân Tiêu Thầy dừng lại nghỉ. Cứ đi mười lăm phút phải nghỉ, từ Hoa Yên lên Vân Tiêu chừng nửa cây số, đi từ sáu giờ đến chín giờ mới tới. Lần trước, Thầy chỉ mới tới Hoa Yên, vì hồi đó xe đỗ rất xa, lội bộ lên tới chùa Hoa Yên trời đã xế chiều, phải trở ra xe liền vì không có chỗ ở lại, nên không kịp lên chùa Đồng.

Kỳ này Thầy quyết định lên tới nơi. Tại sao vậy? Ngày trước khi học sử đức Phật, Thầy chỉ biết đại khái qua kinh sách, về sau Thầy muốn biết những chỗ sanh hoạt của đức Phật, Ngài thành đạo ở đâu, truyền bá vùng nào, có thật hay không? Thầy phải đi tới tận nơi thấy tận chỗ. Thầy đi Ấn Độ đến Bồ-đề Đạo Tràng, tới mấy chỗ quan trọng đức Phật giáo hoá. Biết đức Phật là một con người có thật, biết nơi chốn Ngài sanh hoạt Thầy mới yên lòng. Bây giờ chúng ta khôi phục lại Thiền tông đời Trần, vua Trần Nhân Tông, về lịch sử Thầy biết đại khái, còn chỗ Ngài sanh hoạt Thầy chưa nắm vững, nên phải lên tận chỗ các Ngài sanh hoạt.

Cả đoàn đi khoảng vài trăm người, tối ngủ lại. Quí Thầy tổ chức tụng sám hối sáu căn. Trước khi sám hối Thầy phải giảng một chút, rồi nhờ Nhật Quang nói thế. Nghỉ ngơi đến sáng, đoàn tiếp tục leo núi. Các dốc đứng vừa cao vừa trơn trợt, một mình làm sao leo nổi, Thầy nhờ có trợ lực mới lên tới chùa Đồng. Tới nơi ngồi nói chuyện một chút rồi trở xuống. Khi lên thì rất nặng nề, khi về Thầy bước xuống thật nhanh, đến một lúc hai chân hết làm chủ được, nên phải có hai người kè. Vậy mà cũng vấp một hai lần. Tới Hoa Yên nghỉ một chút rồi xuống luôn. Thầy giở chân không muốn lên, cựa quậy không được, cả người rã rời.

Kỳ này, chùa Thông Giác có trở ngại nên Thầy không lại đó. Phật tử mời Thầy ở khách sạn. Thầy trò ở lại hai ngày hai đêm, đến ngày về họ không tính tiền. Bà Giám đốc và bà Phó giám đốc còn theo Thầy ra Yên Tử. Hôm Thầy giảng ở trường Khoa Học Kỹ Thuật, bữa đầu khoảng bảy trăm người đến nghe, bữa kế tám trăm người, bữa sau một ngàn người. Còn qui y hơn bốn trăm người, giảng tất cả bốn buổi, đó là công tác của Thầy.

Trong buổi giảng, có một người nêu câu hỏi về việc sắp ra đời của Phật Di-lặc. Thầy trả lời:

- Sau khi đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn, thế gian trải qua ba thời: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Qua hết thời mạt pháp người ta không còn tin Tam Bảo nữa, không còn biết Phật là gì, chừng đó đức Phật Di-lặc mới ra đời. Không thể có hai đức Phật đồng thời giáo hoá, vì giáo lý của đức Phật kia và đức Phật này không hai không khác, nếu dạy y cái cũ là trùng lặp, còn nói khác tức là tà. Nên hai đức Phật không thể ra đời cùng lúc. Người ta cứ nói Phật Di-lặc sắp ra đời mà không hiểu giáo lý đức Phật Thích-ca hiện tại vẫn đang còn phổ biến.

Ã

Bây giờ Thầy kể cho tụi con nghe về những cái ngu của Thầy thuở xưa. Hồi xưa Thầy còn làm Quản viện ở Phật học viện Huệ Nghiêm, Thầy có mấy cái ngu, sau lên núi rồi mới biết.

Cái ngu thứ nhất là trong chúng có những người mắc kẹt một vài tật, thí dụ như tham ăn..., rầy một, hai, ba lần không bỏ, Thầy hơi bực. Mỗi người mỗi tật rầy không được, nhiều khi giận và phiền não họ, đó là cái ngu thứ nhất.

Cái ngu thứ hai là Thầy lo cho mấy chú đi học Bồ-đề có xe cộ đưa đến trường đàng hoàng, vậy mà có nhiều chú không đi học, lại bỏ đi chơi. Thầy biết chuyện giận thôi là giận, càng giận thấy càng ngu.

Cái ngu thứ ba là mình hết lòng hướng dẫn cho họ tu, nhưng vẫn có người rũ áo ra đời, Thầy tức giận.

Và cái ngu thứ tư là khi thấy những điều hay tốt, Thầy khuyên học chúng làm mà họ không chịu làm, Thầy cũng giận.

Khi lên ở Pháp Lạc thất nhập thất tu, Thầy nhớ lại mấy chuyện đó mới thấy mình ngu.

Thứ nhất là người có tật xấu, mình rầy hoài họ không bỏ vì đó là thói quen, tập khí của họ. Họ nghe rầy, biết xấu nhưng không sửa được, thương không hết giận làm gì! Tụi con nhớ mình giận là ngu. Những tật xấu trong chúng chẳng qua là do tập khí. Khi người ta có lỗi, bị rầy cũng biết xấu, vậy mà bỏ không được là vì tập khí sâu dày. Biết vậy nên thương chớ không giận. Bây giờ mới biết mình giận là ngu.

Thứ hai là cho đi học trường Bồ-đề đàng hoàng, có xe đưa đón mà không vô trường học lại bỏ đi chơi. Thầy biết được, nhiều khi giận muốn run, sau này Thầy biết đó là cái ngu của mình. Mình cứ làm tròn bổn phận của người lớn lo cho người sau, nếu họ không biết lo thì mình nhắc, nhắc họ không nghe là chuyện của họ. Nếu chịu học thì họ giỏi, mai kia có lợi, còn nếu không chịu học sau sẽ bị thiệt thòi. Đó là chuyện của họ, bổn phận mình làm tròn rồi thôi, có gì đâu mà giận, giận là ngu.

Thứ ba là đối với những người tu mình lo lắng, muốn cho họ mai sau làm rường cột Phật pháp, vậy mà tu nửa chừng họ cởi áo ra đời, Thầy giận. Sau này Thầy mới thấy đó là ngu. Tu được hay không là chuyện của họ, mình đâu có bắt họ tu cho mình, họ cũng đâu có cam kết với mình là sẽ tu suốt đời. Khi họ muốn tu thì mình ráng lo, bây giờ không muốn tu nữa là quyền của họ, tại sao mình giận? Mình giận là ngu.

Thứ tư là Thầy khuyên học chúng ráng tập theo những điều hay tốt mà họ không chịu làm, Thầy giận. Nếu họ không làm những điều tốt đó thì họ thiệt, mình đâu có thiệt thòi gì, giận chi cho khổ. Như vậy là đeo mang việc của người, tức là ngu, phải không?

Thế gian có những cái tức cười, nhiệt tình chừng nào sân nhiều chừng ấy. Bây giờ Thầy cũng lo cho chúng, thương nên rầy la nhắc nhở nhưng Thầy không giận nữa. Hồi xưa lo mà giận là ngu, bây giờ Thầy biết rồi, cũng lo mà không giận. Như vậy tụi con nhớ, khi nào thương và giúp đỡ người, nếu người đó không làm được những điều tốt đẹp, đúng như ý mình muốn thì thôi, đó là chuyện của họ. Nếu mình giận là ngu. Chúng ta ráng làm tròn bổn phận của mình, còn trên đời này có nhiều người phức tạp lắm, chính Thầy nhiều khi cũng rất ngại tập khí con người.

Khi học pháp, ai cũng biết điều hay điều dở, tới chừng gặp việc tập khí vẫn y nguyên không bớt. Như tất cả tụi con đều biết nổi giận la lối là xấu, vậy mà gặp điều trái ý cũng nổi giận đùng đùng. Đó là tập khí nhiều đời. Cho nên tụi con biết tu, có tiến bộ, thấy được đạo, nhưng còn tập khí nhiều đời phải chuyên cần cố gắng bỏ. Không nên theo thói quen của mình, cần phải miên mật tu thời gian dài mới thắng được nó.

Thật ra, tụi con thấy có nhiều Giảng sư nói thao thao bất tuyệt, đến khi gặp duyên vẫn bị rớt như thường. Nói thì đơn giản, tới lúc hành mới khó. Bởi vậy, nhiều khi tụi con có những tập khí nặng, Thầy buộc lòng phải xử phạt. Xử phạt đó là cạo gọt tập khí của tụi con, chớ không phải để làm khổ, làm phiền não chướng ngại sự tu hành. Tập khí tụi con tự bỏ không được, buộc lòng Thầy phải kềm chế, tìm cách gọt giũa cho mau sạch. Cho nên người tu phải ở trong chúng, được thầy lành bạn tốt chỉ dạy, đó là có phước số một. Còn ra cất thất ở riêng, không có ai khuyên nhắc để sửa chữa, tập khí rốt cuộc vẫn còn y nguyên.

Ở đây, tụi con gắng học theo những lời Phật Tổ dạy, thấy được chỗ dở của mình để sửa, nghe lời chỉ bảo nhắc nhở của người lớn và huynh đệ sống chung. Có người lớn tuổi, học được chút ít mà không chịu giũa mài, sau ra làm thầy thiên hạ tập khí còn y nguyên, rồi cũng tham, sân... như người thế gian. Bởi vậy, tất cả phải ráng tu tiến, khắc phục bản thân mình, sau ra làm Phật sự không bị chê cười. Tụi con ở đây coi như bị giam lỏng, tu chừng nào thấy khả dĩ được thì Thầy cho ra làm Phật sự.

Ã

Hồi sáng có ông nhà nước tới thăm. Theo ông, học chỉ là mở mang kiến thức, nếu người tu chỉ có học thì không phải là người tu. Như vậy, bên cạnh sự học cần có tu. Học rồi phải tu cho có hiệu quả, ra làm Phật sự mới không bị trở ngại. Đừng nghĩ phải đi học cho có bằng cấp này bằng cấp nọ rồi không chịu điều phục mình, tập khí vẫn còn nguyên, có ích gì cho đời tu?

Những lời Phật dạy, chúng ta hiểu, ứng dụng tu rồi mới thấy vô cùng thâm sâu. Vậy nên tụi con phải ráng, đừng để giống như đài phát thanh hay cuộn băng nhựa, thâu bao nhiêu phát ra bấy nhiêu, không có hồn gì cả. Khi tu thấy như nhọc nhằn, tập khí lâu đời phải cạo gọt cho sạch, trâu đen thành trâu trắng, nói được những lời từ Vô sư trí, lúc ấy đem ra sử dụng mới tốt.

- Thưa Thầy, kinh Bát-nhã nói: “vô trí diệc vô đắc”, trí đó là Bát-nhã ba-la-mật, sao lại nói là không trí không đắc?

Tinh thần Bát-nhã là phủ nhận tất cả, không có Tứ đế, không có Thập nhị nhân duyên, rồi cuối cùng không chứng cũng không đắc. Tứ đế là Thanh văn, Thập nhị nhân duyên là Duyên giác, trí đắc là Bồ-tát. Địa vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều còn trong đối đãi nên phủ nhận hết để đưa tới cứu kính Niết-bàn. Sau đó dùng trí lực độ chúng sanh. Đây là trí căn bản, sẵn có nơi mình, chớ không phải trí thức học ở ngoài. Căn bản trí còn gọi là Vô sư trí.

Ã

Có một cô Mỹ hỏi Thầy mười câu hỏi, nay Thầy nhớ câu nào kể lại câu đó cho tụi con nghe.

Hỏi: Sự liên quan giữa con người với vũ trụ như thế nào?

Thầy trả lời: Rất là mật thiết!

Hỏi: Đạo Phật chủ trương từ bi. Nay mình ngồi trong nhà còn thiên hạ đau khổ ở ngoài, sao gọi từ bi được?

Thầy đáp: Tất cả đều là duyên nghiệp. Chính mỗi người tự chọn lấy nghiệp riêng của mình. Dù thương cũng khó cứu được, chỉ cố gắng tu, đem đạo lý dạy họ chuyển nghiệp.

Hỏi: Người thân của mình làm những điều xấu ác, mình có nên giận hay không?

Đáp: Không nên giận. Tại sao vậy? Ví dụ có người thân của mình đang đứng bên vực thẳm, sắp rớt xuống vực, lúc đó mình nên giận hay nên thương?

- Dạ, thương.

- Phải, vì nếu họ làm lành sẽ được đi chỗ tốt, nay họ làm điều xấu ác, sắp rớt xuống vực thẳm thì rất đáng thương, đâu nên giận. Trong cuộc sống, nếu có ai lầm lỗi, chúng ta nên thương xót hơn là phiền trách họ. Vì ngu mê không biết đúng sai, nên mới gây tạo nghiệp xấu dở như vậy.

Hỏi: Đạo Phật dạy từ bi và cũng dạy phản quan tự kỷ. Phản quan tự kỷ là xoay lại mình, không lo cho người ở ngoài, mà không lo cho người thì không có từ bi. Như vậy có mâu thuẫn không?

Đáp: Điều này không mâu thuẫn. Vì sao? Bằng chứng như Tăng Ni ở đây tu, trước phải phản quan soi sáng lại mình, biết cái gì xấu dở để chừa bỏ. Khi dẹp bỏ hết cái xấu dở rồi, Bản tâm trong sáng, lúc ấy mới ra làm Phật sự giúp người. Nếu không dẹp hết những cái xấu dở đó, khi ra làm sẽ bị mắc kẹt ở danh lợi. Vì vậy, trước phải phản quan tự kỷ rồi sau mới từ bi, có hệ thống chớ không phải mâu thuẫn.

Hỏi: Trên thế giới này có nên đi tu hết không?

Đáp: Trên thế giới chỉ có một ít đi tu thôi. Tại sao vậy? Vì đi tu là việc làm rất khó, đòi hỏi quyết tâm nhiều, hi sinh lớn.

Ở đây tụi con có quyết tâm, có hi sinh không? Lâu lâu có cãi nhau không? Khi nào người ta làm việc nhẹ, mình làm việc nặng, bực bội không? Nếu bực bội thì đâu có hi sinh. Còn tới giờ toạ thiền có rề rà chầm chậm không? Nếu có là không quyết tâm.

Hỏi: Trên đường tu của quí Thầy Cô có điều gì khó nhất?

Đáp: Thông thường, người ta nói bỏ nóng giận là khó, trừ tham lam là khó. Còn Thầy nói trên đường tu, điều khó nhất là Phật dạy lẽ chân thật, biết rõ mà sống không được. Thí dụ Phật dạy thân này là vô thường, bất tịnh; biết rõ vô thường bất tịnh mà ai chê xấu thì buồn, nghe nói chết liền sợ. Lẽ ra biết nó bất tịnh thì cứ mặc người chê, có gì quan trọng. Tại sao người ta chê chịu không nổi? Vì biết rõ mà không sống được. Phật lại dạy tâm vọng tưởng là hư dối, bỏ cái hư dối đó được Tâm chân thật, vậy mà khó ai bỏ được. Phật dạy thì tin nhưng làm không nổi, đó là cái khó.

Hỏi: Đạo Phật dạy đừng dính mắc, vậy dính mắc là trúng hay sai?

Đáp: Câu hỏi này còn tùy trường hợp. Nếu nói thuần trong đạo, đối với người tu thì không dính mắc là đúng, còn đối với người thế gian vẫn cho dính mắc miễn là hợp lý. Thí như người làm ruộng thì cho họ được tham là cầu mong trúng mùa. Cầu trúng mùa là tham, là dính mắc, nhưng hợp lý vì họ còn phải nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Các ngành khác cũng vậy. Tham hợp lý thì được, nhưng đừng quá tham rồi lo gom góp, vơ vét của người là không được.

Tụi con thấy, chúng ta phải khéo dạy sao cho người ta hành được, không nên khẳng định không cho dính mắc, như vậy sẽ gây trở ngại cho sanh hoạt thế gian.

Hỏi: Bạch Thầy, con tập toạ thiền là có điên rồ không?

Đáp: Con ở ngoài thế gian mà đến xin toạ thiền là sáng suốt chớ không điên rồ. Tại sao Thầy nói là sáng suốt? Bởi vì ở thế gian bao nhiêu điều phiền hà lôi kéo, tâm con rối loạn, giờ vào đây toạ thiền để tâm lóng lặng, tâm lặng thì trí sáng. Đó là sáng suốt chớ không phải điên rồ, con đừng sợ.

Hỏi: Bạch Thầy, đôi khi ngồi thiền con có cảm giác như bay bổng, đến khi nói chuyện với người thì cảm giác đó không còn nữa, vậy là sao?

Đáp: Trong nhà Phật dạy mình khi toạ thiền thấy như bay bổng là ảo giác không thật. Nên nếu có thấy rồi một lúc cũng hết.

Ã

Năm rồi Thầy dạy tụi con giữ lục hoà, năm nay Thầy giao tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ. Lục hoà là phương pháp để sống cho an ổn. Nhờ an ổn, trí tuệ mình sáng lên, rồi mới thực hiện lòng từ bi.

Ai cũng nghĩ từ bi là cho cơm cho áo, sự thật từ bi không phải mục đích đó. Từ bi là làm sao tự mình biết có cái thật, rồi chỉ cho người cùng biết, cứu người ta thoát khổ muôn đời. Nếu chúng ta cho người cơm áo, họ bớt khổ trong đời này nhưng vẫn cứ mê muội, tiếp tục tạo nghiệp, khi hết thân này tới thân khác họ cũng khổ nữa. Còn nếu mình chỉ cho họ biết người nào cũng có Tánh giác, tánh Phật sẵn, nếu khéo tu sẽ trở về Bản tánh sẵn có thì thoát được khổ luân hồi.

Trong kinh Phật dạy: Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỉ đói khát cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm lạc đà hay trâu ngựa kéo xe, bị đánh đập chưa phải là khổ, chỉ có chúng sanh mê muội không biết đường đi mới khổ, vì đó là khổ muôn đời. Khổ trong địa ngục rồi cũng có ngày ra, làm thân trâu ngựa còn có kỳ chấm dứt, chỉ có cái mê muội không biết bao giờ mới hết.

Đức Phật mong cho chúng sanh hết mê muội nên chỉ cho biết lẽ thật. Thấy được lẽ thật là giác, giác tức sáng suốt hết mê muội, đó là gốc của sự tu. Bởi vậy trọng tâm của đạo Phật là giác ngộ, tự giác cho mình rồi giác tha, đó là từ bi. Không phải làm từ thiện lo cơm lo áo mới là từ bi. Đó là phụ, bố thí tài không quí bằng bố thí pháp. Bố thí tài chỉ giúp người đỡ khổ một lúc, còn thí pháp giúp người vĩnh viễn thoát khổ tử sanh.

Ý nghĩa tu hành là như vậy đó, nên năm nay tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ nghen! Đứa nào mở mắt được lại trình cho Thầy mừng.

Ã

Chúng sanh chấp mình là thật, thân thật và tâm thật. Chấp thân này là thật, nên khi những nhu cầu vật chất mình có quyền hưởng mà ai đoạt mất thì tức tối nổi sân. Lúc nổi sân có ngầm si và tham trong đó. Do si nên ngỡ thân này thật, từ si sanh ra tham.

Kế đó là si mê về tâm. Khi tụi con nghĩ, liền cho là tôi nghĩ, tôi tính, nhưng cái nghĩ đó có phải thật tôi không? Nếu thật tôi thì lúc nào cũng phải hiện tiền, phải có mặt. Thế nhưng cái nghĩ khi thế này, lúc thế nọ, có ai bảo đảm cái nghĩ của mình luôn đúng một trăm phần trăm không? Không đúng một trăm phần trăm mà người khác cãi là chúng ta giận. Đó mới là cái vô lý!

Có khi mình nghĩ, ba hoặc năm năm nữa mình sẽ làm cái này cái nọ, ai dè tới lúc đó chết mất. Đừng nói chi xa, thí dụ quí Phật tử ở thành phố, nghĩ mình lên Trúc Lâm sẽ gặp người này hoặc làm việc kia. Đến lúc lên đây hoàn cảnh thay đổi, mọi việc không còn như mình nghĩ, vậy mà ai cãi lại là mình giận. Như vậy chấp vào cái gì mà giận? - Vì cho cái nghĩ là thật tâm mình. Điều không thật lại cho là thật, đó là si mê. Từ si mê nên bảo thủ, ai nghĩ khác mình nổi sân lên rồi tranh đấu.

Như vậy, nếu không chấp thân này là thật và không chấp cái suy nghĩ là thật thì còn gì để hơn thua hay giành giật, phiền não với nhau? Người muốn giải thoát phải nhận chân lẽ thật là thân này tạm bợ, vọng tưởng hư dối để đi sâu vào cái chân thật. Si mê là chấp hai cái giả đó cho là mình. Tụi con ở đây tu khá rồi mà còn chấp hai cái tạm bợ đó không? Tu khó giải thoát là ở chỗ đó. Tụi con thấy thân này hết sức mong manh, đang khỏe mạnh bất thần đứt mạch máu ngã ra chết. Đức Phật dạy thân là duyên hợp, lâu ngày cũng sẽ tan hoại, không có gì bền vững. Một cái không bảo đảm, không thật vậy mà cứ chấp chặt một trăm phần trăm, hễ thứ gì thuộc về mình thì cố giữ gìn, ai động tới là nổi sân.

Cái suy nghĩ cũng vậy, tốt xấu, đúng sai đủ thứ, thế nhưng vẫn chấp cái nghĩ của mình là đúng, ai nghĩ khác nổi giận. Nếu hai cái đó tụi con không chấp thì đâu còn phiền não. Tu dễ ợt chớ đâu có khó! Chỉ vì mình cố chấp nên mới khổ. Lẽ thật là như vậy. Tụi con không cần nói lý gì cao xa, chỉ nhớ thân này không thật, suy nghĩ này không thật. Nhớ luôn luôn như vậy, tụi con dụng công ít mà kết quả nhiều, còn nếu cứ chấp thân tâm thật, dù cố gắng ngồi thiền đêm này qua đêm kia cũng không đi tới đâu, xả thiền ra vẫn sân si như thường.

Vậy nên phải biết nắm vững trọng tâm sự tu ở chỗ nào. Chúng ta ngồi thiền để thấy thân và tâm không thật, phá tan cái chấp lầm muôn thuở. Chấp thân nhẹ hơn chấp tâm. Vì thấy thân vô thường dễ thức tỉnh, còn tâm nhỏ nhiệm khó nhận nên khó phá.

Sống trong huynh đệ, khi qua lại với nhau, có điều gì dù hợp lý hay không hợp lý cũng luôn luôn nhớ thân này giả tạm không thật thì không còn hơn thua. Biết suy nghĩ không thật thì đâu cần cãi cho ra lẽ. Lẽ phải cũng không thật, càng cãi càng thấy ngu si. Vậy đó mà khi ai nói trái ý cứ ngồi giãi bày, muốn cho mình đúng hơn người ta. Tụi con phải nhớ vọng tưởng không có gì đúng cả, chỉ do chấp mà sanh chuyện.

Ã

Có nhiều Phật tử tại gia cứ nghĩ mình tu ở nhà khó tiến, phải xuất gia tu mới tiến. Nay quí Thầy nói cho Phật tử hiểu rõ. Phàm cái gì quá thừa thì thành dở. Nếu xuất gia lúc còn khỏe, còn trẻ, đủ sức học hành, toạ thiền tụng kinh... theo kịp mọi thời khoá, mọi công tác, sau nhiều năm dài đầu tư, đủ sức để đi truyền bá. Được như vậy, người tu là một của báu, nên gọi là “Tăng bảo”. Còn già rồi đi tu, vô chùa không có con cháu, không ai làm Thị giả, đến lúc bệnh ai lo? Nuôi một người già có nhiều vấn đề. Người già đau hoài, cần có thuốc men, đi không vững phải có người đỡ đần, ăn chung với chúng không nổi phải ăn riêng... Như thế người già vô chùa tu vô tình là một gánh nặng trong đạo, không khéo dễ bị tổn phước.

Vì vậy đối với quí Phật tử lớn tuổi, khuyên rằng nên ở nhà tu, tạo điều kiện tốt, đơn giản, việc ăn ở gọn lại, đừng phiền hà ai, rảnh bao nhiêu tu bấy nhiêu, có dư dả thì cúng dường thêm. Như vậy là có phước nhiều rồi. Còn mình muốn vô chùa tu cho tiến, vô tình lại là gánh nặng của chùa mà không có lợi gì, quí Phật tử phải hiểu điều đó.

Còn một vấn đề nữa, lâu nay quí Phật tử thường nghĩ người tu phải làm lợi ích chúng sanh, mà sao quí Thầy Cô ở đây tu cứ im lặng trong Thiền viện năm bảy năm, không làm gì cho ai cả, vậy có ích kỷ không? Thầy sẽ giải thích cho quí Phật tử hiểu.

Ở ngoài đời, một đứa học trò nếu muốn ngày mai làm lợi ích cho xã hội, có khả năng dựng xây đất nước thì phải dồn sức học ít ra cũng hơn mười năm. Học rồi ra trường mới làm được việc này việc nọ. Trong thời gian này nó chăm chỉ học, không làm gì cho ai cả. Đó có phải tiêu cực không? Đâu có tiêu cực, nó chăm chỉ học cho giỏi, sau ra giúp xã hội, đất nước hữu hiệu hơn.

Ở đây cũng vậy, chư Tăng chư Ni còn trẻ, có học, ham tu, quí Thầy cho vào đây chuyên tu năm mười năm. Trong thời gian chuyên tu phải dồn hết tâm lực cố gắng tu cho tiến bộ đáng kể, tới chừng Thầy theo Phật mới có thể mở mang nơi này nơi kia. Còn mấy người mới tu hai ba năm đẩy ra làm việc, rốt cuộc vì cái dở của họ chưa bỏ được mà đã lo giáo hoá người, lâu ngày cũng thành một nhóm anh em dở với nhau.

Ở đây Thầy chủ trương phải tu cho chín chắn, đáng tin cậy, sau ra làm Phật sự mới đem lại lợi ích cho đạo, cho Phật tử nhiều hơn. Tu như vậy không phải là tiêu cực. Nói thế cho quí vị hiểu tại sao ở đây Thầy khó khăn, không cho quí Thầy Cô ra khỏi nội viện. Ở trong này tu trong mọi công việc, giả sử đang nấu bếp cũng tu, cuốc đất cũng tu, không được nói chuyện ồn ào. Không phải tới giờ ngồi thiền lặng lẽ mới tu. Mỗi khi phóng ý chạy theo ngoại cảnh đều phải buông xả, đó là tu. Dù làm việc gì trong phạm vi này đều là tu hết. Như vậy cả ngày tu chớ không phải hai ba buổi ngồi thiền mới tu. Đó là chủ trương tu hành của Thầy ở Thiền viện này.

 

(*) Bài Tựa của bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập (toàn bộ một trăm quyển). Tác giả: Thiền sư Khuê Phong Tông Mật, H.T Thích Thanh Từ dịch giảng năm 1969, nhan đề là Nguồn Thiền.