Khen & chê

Trong cuộc sống, khen chê là hai điều mà con người chúng ta thường bắt gặp. Nghe ai khen một tiếng thì mát cái bụng, mà chê một tiếng thì rũ rượi không muốn làm gì nữa. Có câu chuyện kể ra như tiếu lâm nhưng lại là sự thật.

Ngày xưa trong làng có ông cụ chuyên đan rổ, thúng, tất cả những vật dụng bằng tre. Khi đan một vật dụng gì, ông đều chăm chút, nắn nót rất công phu, chuốt từng sợi lạt một. Đan xong, ai khen một tiếng là ông quên hết cả mỏi mệt, xách rựa ra ngoài chặt cây tre khác đem vào đan tiếp, mà lỡ ai chê một tiếng là ông xách rựa ra băm nát cái rổ vừa được đan xong.

Tuy trên đời này không phải ai cũng giống như ông cụ đó, nhưng đã là con người thì trong thâm tâm chưa dễ bình thản với những lời khen, tiếng chê, và ít có ai chịu vượt qua cái khen chê này. Có nghĩa là qua cũng được chứ không phải là không, nhưng ít ai chịu vượt qua nó. Khi được khen thì vui mà chê thì buồn, và nghe khen thì dễ chịu hơn bị chê. Chính vì thế mà mình bị lệ thuộc vào nó một cách quá đáng và bị nó lừa, cả một cơ thể mấy mươi ký lô mà bị nó đẩy đi đẩy lại như chơi.

Ngày xưa có một cụ bà sống đến 80 tuổi và được mọi người tổ chức lễ chúc thọ. Bốn người con của bà đi làm ăn xa đều trở về, mỗi người mang đến một quả đào tiên để dâng mừng thọ mẹ. Buổi lễ có đông đủ mọi người đến tham dự, có cả những văn nhân nổi tiếng. Trong buổi tiệc, mọi người ai cũng có quà để chúc thọ, riêng một văn sĩ chưa kịp chuẩn bị gì. Vốn sẵn tài văn thơ, ông mượn cây bút viết lên miếng vải bốn câu thơ để chúc thọ bà cụ.

Thoạt tiên ông viết: “Bà lão tám mươi chẳng phải người”. Mọi người nghe xong đều sửng sốt: “Chẳng phải người vậy là gì, chẳng lẽ thấy bà cụ má tóp da nhăn nên muốn nói gì đây?”. Mọi người đang nhốn nháo, thắc mắc trong lòng thì ông viết tiếp câu thứ hai: “Vốn là tiên mẫu xuống phàm trần”. Ai nấy nghe đều hoan hỷ, già rồi mà vẫn đẹp như tiên, khen thơ ông hay. Ông ghi tiếp câu thứ ba: “Có bốn thằng con đều là giặc”.

Nghe đến đây bốn người con tái mặt, còn mọi người thì xôn xao: “Sao lại chê con người ta là giặc? Người xưa thường nói, biết nhà có phúc hay không thì nhìn vào con cháu của họ. Bây giờ chê con người ta là giặc thì có khác nào chê cả tổ tiên ông bà người ta rồi còn gì nữa”.

Hội chúng đang thắc mắc, phàn nàn thì ông viết tiếp: “Nhặt được đào tiên hiến mẫu thân”. Nghe đến đây tất cả đều thở phào, có nghĩa là bốn người con trộm đào tiên để hiến mẹ là vì có hiếu với mẹ. Vì quá thương mẹ mà quên mình tạo tội. Việc ăn trộm này làm nổi bật lòng hiếu thảo của người con. Nghe đến đây, ai cũng trầm trồ khen ngợi văn sĩ khéo làm thơ.

Quý vị thấy những người trong câu chuyện trên có phải là đang bị lời khen, tiếng chê lừa gạt và lái đi vù vù không? Ông văn sĩ này khen thì đâu có thêm được gì cho bà già, mà chê thì bà lão cũng có mất mát gì đâu. Khen và chê cũng chỉ là một bài thơ thôi, nhưng mọi người vẫn có thể buồn vui được trên đó, thì có phải chúng ta đang bị lầm và bị nó gạt không?

Che dấu có nghĩa là không thật, tiếng khen, tiếng chê đều không thật. Vậy chúng ta có chịu sự che dấu đó không? Hằng ngày tiếp xúc có khi mình cũng chịu những lời khen, tiếng chê đó. Nhưng ít khi chúng ta kịp xét lại để thấy lời khen, tiếng chê là giả, không cố định mà hầu hết mọi người thường chấp nhận lệ thuộc nó, chạy theo nó, để cho nó gạt mà đánh mất mình.

Cho đến khi nó biến đổi, chúng ta sẽ phải khóc cười theo nó thôi. Vì vậy mà bị các duyên trần trói buộc, dẫn dắt, kéo lôi, mất tự do rồi than khổ.

Có người trải qua một thời gian khổ dài quá, khi sực tỉnh ra để lại mấy câu thơ:

Đến nửa đời người tôi mới hiểu

Những thứ vu vơ buộc chặt mình.

Vu vơ là những thứ tào lao, nhất thời, không tồn tại mãi, không thật. Những thứ khen chê, phải trái, thành bại, được mất nó có cố định mãi đâu. Nó là những thứ vu vơ mà lâu nay mình quên, tưởng là những thứ gì quan trọng lắm nên mới trôi lăn ở trong đó, bị những cái đó buộc chặt mà không hay. Mình chỉ biết đưa tay chịu cột, cột cho đã đời rồi than thôi chứ không biết phải làm sao nữa. Than, tới bây giờ tôi mới hiểu thì trễ quá rồi. Đến nửa đời mới hiểu, còn nửa đời trước chưa hiểu thì phải chịu khổ đến mức nào, biết bao nhiêu mà kể.

Hiện nay, chúng ta được nghe rồi mà không biết có chịu hiểu hay chưa, hay phải đợi đến nửa đời người, bị buộc cho đã đời rồi mới biết!

( Trích bài giảng "Trả lời câu hỏi cuộc đời"- Đại đức Thích Tâm Hạnh- Trụ Trì Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã - Huế )

Bài viết khác