Tập truyện Tô Hoài

Mục lục

Tiểu sử

Tô Hoài (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.

Tên khai sinh của ông là Nguyễn Sen sinh ra tại quê nội ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam) (SGK Ngữ Văn 12 NXB GD). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.

Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp. Đến với văn chương ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là với truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc.

Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.

Các bút danh

    Tô Hoài

    Mai Trang

    Mắt Biển

    Thái Yên

    Vũ Đột Kích

    Hồng Hoa

    Phạm Hòa

Sự nghiệp văn học

    Ông viết văn từ trước năm 1945, với các thể loại truyện phong phú, đa dạng. Ông viết cho thiếu nhi và cách mạng. Các tác phẩm chính của ông là:

        Dế Mèn phiêu lưu kí (1941)

        O chuột (1942)

        Nhà nghèo (1944)

        Truyện Tây Bắc (1953)

        Miền Tây (1967)

        Cát bụi chân ai (1992)

        Ba người khác (2006)

    Truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí được ông viết xong vào tháng 12 năm 1941 tại Nghĩa Đô. Đây là tác phẩm rất nổi tiếng của ông dành cho thiếu nhi.

    Ba người khác là tác phẩm gần đây nhất. Tác phẩm này được viết xong năm 1992 nhưng đến 2006 mới được phép in, nội dung viết về thời kỳ Cải cách ruộng đất, đã gây tiếng vang lớn và có thể so sánh với Dế Mèn phiêu lưu ký.[1] [2]

Chiều Chiều

Mây Chiều

Chương I

Nghé ơ nghé
Nghé bông hay là nghé hoa
Như cà mới nở
Mẹ cõng xuống sông
Xem rồng lấy nước
Mẹ gọi tiếng trước
Cất cổ lên trông
Mẹ gọi tiếng sau
Cất lồng lên chạy
Lồng ba lồng bảy
Lồng về với mẹ
Nghé ơ
Mày như ổi chín cây
Như mây chín chùm
Như chum đựng nước
Như lược chải dầu
Cắn cỏ ăn no
Kéo cày đỡ mẹ
Việc nặng phần mẹ
Việc mẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ
Ông khách hỏi mua
Nhà ta chả bán
Ông khách hỏi hoạn
Nhà ta chẳng cho
Nghé ơ
Bài “Gọi nghé” vùng Thụy Anh- Thái Bình)

Năm ấy, tôi ở một tổ đi thực tế nông thôn, nửa năm về Thái Bình. Tổ tôi có tổ trưởng Hoàng Trung Thông với các tổ viên: Chu Ngọc, Phùng Quán, Trần Lê Văn, Hoàng Cầm.
Tổ trưởng Thông họp chúng tôi lại, trước khi đi, dịch cái nghĩa chuyến đi dài ngày này là xuống địa phương tham gia lao động cho thấy được, biết được làng xóm sau cải cách ruộng đất và sửa sai đương lên hợp tác xã rầm rầm. Tôi hiểu rằng không có yêu cầu về viết lách, thế là đi cho mở mắt ra. Năm trước, tôi cũng đã về xã ngót hai năm, ba đợt làm anh đội cải cách rồi anh đội sửa sai. Nghe Thông nói thế, tôi cũng lấy làm thường.
Lên họp tác rầm rầm là nói quen miệng, khoái miệng, chứ thực phong trào hợp tác hóa nông thôn chỉ mới bắt đầu. Xã chúng tôi tới mới có một thôn này được chọn làm thử- thôn ít phức tạp khi cải cách ruộng đất thì cho làm thí điểm.
Lại được dặn thêm: lao động tuỳ sức, không như “ba cùng” phải lăn vào bói việc ra mà đổ mồ hôi “thổ cải". Tổ trưởng phổ biến thế chứ có gay go mấy tôi cũng chẳng ngại. Tôi đã hai năm với đồng ruộng từ Thanh Hóa ra Hải Dương, hai cuộc tổng kết ở Hậu Hiền, ở Quỳnh Côi, ba đợt công tác từ đội viên chân trắng lên đội phó phụ trách tòa án rồi làm báo đoàn sửa sai. Trước đấy tôi chưa biết mặt cây lúa. Rồi tôi cũng xắn quần khỏi đầu gối ra đồng lội ruộng, vai vẫn đeo cái túi sắc cốt da, vẻ cán bộ. Anh đội chúa chỏm một xóm, ngại ra đồng thì mở túi lấy sổ vờ nghiên cứu, đói thì bảo cô Đăng con ông rễ trưởng xóm ra chợ mua bánh ngô kẹo bột về ăn, có người đến thì đứng dậy cầm cái chổi đưa mấy nhát quét nhà, ăn vụng, kể cả ăn vụng người, và làm che mắt thế gian, anh đội tôi nào biết có ai trên đầu. Tôi chẳng bỡ ngỡ những cuộc đi thế này, kể cả khi đương kháng chiến, ở Tuyên Quang làm thuế nông nghiệp với Nam Cao, xuống vùng giáp địch ở Việt Trì, công tác thuế công thương với Xuân Diệu.
Nhưng tôi cũng không đi một lúc với cả tổ. Các anh đã xuống huyện trước tôi. Tôi còn bận ở lại tổ chức cho các đội đi thực tế các nơi. Bấy lâu ở cơ quan, tôi như con dao pha, chuyên làm những việc linh tinh và cụ thể.
Ban chấp hành và thường vụ hội đã bầu lại, sau mấy đợt học tập kiểm điểm, trước mắt hãy đi thực tế, và tôi phải làm những việc này cho xong đã.. Các chuyến đi, trước nhất là anh em công tác ở cơ quan. Nhưng nhiều văn nghệ sĩ ở Hà Nội chưa có việc làm cơ quan nào cũng đến nói muốn được đi. Tất cả mỗi người mỗi vẻ, mỗi nỗi. Có những người sẵn sàng đi xa. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý lên huyện Điện Biên trên Lai Châu- rừng xanh núi đỏ quá, chẳng ai tranh, xếp đoàn đi xong ngay. Các nông trường ở Tây Bắc, Trung Du, miền núi Nghệ An đương là những vùng đất mới kỳ diệu. Nguyên Hồng, Võ Huy Tâm, Huy Phương, Nguyễn Hải Trừng về nhà máy và ra mỏ ở Hải Phòng, ở Hồng Quảng. Kim Lân vác xà beng đi đào sông bên Bắc Hưng Hải... Trang nhất báo Nhân Dân in ảnh Nguyên Hồng đẩy xe goòng nhà máy xi măng và Võ Huy Tâm đội mũ thợ, tay xách đèn bão, đi lò. Còn nhiều đoàn, đội nữa, tôi nhớ đại khái thế. Dẫu cho việc đi là được đi hoặc tự nguyện nhưng đều ý tứ, mỗi người cũng có tính toán và thu xếp riêng, ai chả thế. Những người bị kỷ luật của Hội về vấn đề Nhân Văn hay là có hơi hướng với đám này thì coi như nhất loạt thẳng cánh đi. Những người trong kiểm điểm có tư tưởng hữu khuynh như tôi phải đi cọ xát thực tế cho thấy được cái đúng ở đâu. Các người lãnh đạo thì chẳng ai nghĩ các anh ấy phải đi. Nhưng cũng có người hăng hái với phong trào cứ thấy nay có bài về nông trường Rạng Đông, mai có bút ký mỏ cọc 6, ngày kia đã có thơ tả cầu Hiền Lương- đi nhanh quá, hăng quá, chẳng biết bằng ô tô hay bằng xe đạp. Các người bấy giờ đương là những cốt cán vững như Đồ Phồn, Mạnh Phú Tư, Huyền Kiêu thì ở nhà củng cố cơ quan. Nhưng các anh ấy nói nhún, cũng khoe khéo “tớ ở nhà canh gác cho các cậu đi, khoái nhé". Chúng tôi đã ở Việt Bắc, ở khu Tư, khu Năm hay Nam Bộ thế nào thì cũng đã quen các đợt công tác về làng xã, nhà máy hay đơn vị quân đội. Nhưng cái khó và cái dễ là đối với anh chị em trước kia ở Hà Nội sau chín năm kháng chiến. Chẳng mỗi chốc đã được mới đi thực tế, được vào học trường Đại học Nhân dân, đấy là dấu hiệu rồi may mắn có thể vào biên chế nhà nước. Lo lo và chờ đợi cái thước tin cậy đo đến mình.
Tôi vướng vô khối những cái bấn này chẳng ra đâu vào đâu. Bởi đây không phải cuộc bắt đi nhưng ai cũng nên đi. Có người cần, có người ngại, có người thờ ơ, mỗi người mỗi khác. Bác Tú Mỡ hăng hái đạp xe theo tổ trưởng Đào Vũ mấy tháng ở Vũ La dưới Hải Dương. Tôi đến Vũ La, bác khoe: “Về nhà quê, khí hậu tốt, lao động một tý, ăn khỏe hẳn lên". Trên có nhắc tôi rủ ông Phan Khôi, nhưng bố bảo tôi cũng chẳng dám đến cái gác phố Thuốc Bắc mời ông ấy đi thực tế. Lão quắc mắt lên, hỏi dồn, rồi xỏ cho mấy câu, chỉ dại mặt.
Họa sĩ Nguyễn Sáng cũng không đi. Tôi đã nói với Hoàng Trung Thông cho Nguyễn Sáng đi với chúng tôi Về làng mà chỉ trần có mấy anh cầm bút thì nhạt trò. Phải có người múa hát, người làm xiếc, người biết vẽ thỉnh thoảng làm cái truyền thần cho bà con thì dễ nổi đình đám. Nguyễn Sáng xua tay: “Vẽ là lao động rồi. Tớ bận vẽ".
Nguyễn Sáng có đương vẽ vời gì đâu. Hồi ấy, Nguyễn Sáng mê ăn kem hiệu Tiến Đạt phố Yết Kiêu. Kem que thôi, nhưng Tiến Đạt được tiếng quay ra nhiều thứ kem lạ miệng, kem dứa, kem cốm, lại còn kem mùi ổi, kem mùi mít, mùi na, mùa nào thức ấy. Thật cũng không phải Nguyễn Sáng khoái kem, mà họa sĩ đương phải lòng các cô bán kem. Nhà có mấy cô mười ba, mười bảy hay hay mắt, cái anh chàng trên dưới bốn mươi tuổi này cứ lăn lóc mê tơi.
Hơn mười năm trước, năm 1946, Nguyễn Sáng đã có vợ. Cô Jennen Đobrien, Pháp lai Đức, cùng sinh viên Mỹ thuật. Nhà ở phố Bùi Thị Xuân bây giờ, tôi thường đến nhờ Nguyễn Sáng vẽ cho báo Hồn Nước cơ quan Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam. Jermen nhỏ nhắn, búi tóc, mặc áo cánh nâu, quần láng thâm. Mỗi người đã sẵn một chiếc ba lô xì cút sửa soạn đi kháng chiến. Hà Nội đương vừa bí mật vừa sôi lên sắp sửa cho cuộc chiến đấu. Ngoài đường, người quảy gánh và xe bò đồ đạc tản cư đi bên những hào lũy các đội viên tự vệ sao vuông của khu phố và cơ quan. Họa sĩ Mai Văn Hiến, Nguyễn Văn Thiện, Thân Trọng Sự, Nguyễn Tư Nghiêm đã ra Ngã Tư Sở ở địa điểm tạm, chờ đi. Trụ sở hội Văn Hóa Cứu Quốc gần bờ hồ Thiền Quang không còn ai. Thâm Tâm đưa vợ con tản cư về Hải Dương, trở lên thì đã nổ ra kháng chiến. Những bài thơ về đường số 5 trong khói lửa của Thâm Tâm có hơi hướng những việc nhà này. Thâm Tâm vào bộ đội ở báo Vệ quốc quân của Lê Tất Đắc. Tôi gặp lại trên đồi Đồng Lư bên sông Đáy gần chùa Trầm, chùa Thày. Nam Cao về quê thu xếp việc nhà rồi ra làm báo kháng chiến của tỉnh Hà Nam. Tôi có giấy tờ ở lại khu ll (Hà Nội) làm phóng viên mặt trận của báo Cứu Quốc. Vợ chồng Nguyễn Sáng xắm nắm, không biết rồi sẽ đi thế nào. Nguyễn Sáng công tác ở nhà in bộ Tài Chính, cơ quan tối mật in giấy bạc, tem và công phiếu kháng chiến. Làng nào, phố nào cũng đương ráo riết đề phòng việt gian, canh cả những giếng nước, vòi nước, sợ việt gian bỏ thuốc, bôi thuốc độc vào vòi nước. Chẳng may ai có bộ quần áo tôpican mép vải viền xanh trắng đỏ tam tài, hay trong túi có cái gương “ám híệu máy bay” thì bỏ đời rồi. Không thể cơ quan tài chính quan trọng thế mà lại có con đầm mũi lõ mắt xanh đi theo. Nguyễn Sáng và Jermen phải chia tay. Họ xa nhau thế nào, tôi không biết, cũng không bao giờ hỏi. Chỉ đến 1954, trở về thành phố, mới hỏi có tin tức Jermen không. Nguyễn Sáng nói: “Biết đâu mà tìm. Chắc nó về Tây đã lâu". Rồi đùa: “Mày làm báo hay đi nhiều nơi, dò la hộ tao xem nó ở đâu". Từ đấy, chẳng bao giờ nhắc đến nữa.
Nguyễn Sáng mê gái hay để ý những cô gái mới lớn. Lý luận vơ vào của anh ta rằng “tình yêu không có tuổi". Bởi thế hay đến ăn kem que nhà Tiến Đạt. Tôi chẳng còn ở tuổi lăng nhăng thuở nào đi hộ vệ Đinh Hùng, Nguyễn Bính ngày ngày vào mua phong thuốc lào Đông Phát trước cửa chợ Đồng Xuân có cô bán hàng bắt mắt rồi lại đảo qua phố Mới cầm ra quyển Bồng Lai hiệp khách ba xu của ông Tàu Lý Ngọc Hưng viết truyện kiếm hiệp, để được nhìn mặt, đụng tay cô Sính con ông ấy. Nhưng cũng đôi ba lần tôi đến hàng kem Tiến Đạt làm khách đứng ngoài quầy, xem Nguyễn Sáng ăn hết mấy que kem mà vẫn chưa dứt chuyện. Nguyễn Sáng không đi thực tế là vậy, cũng chẳng ai để ý. Nhưng tôi thương nhất Nguyễn Khắc Dực viết kịch, xin mấy lần mà không được đi. Tôi quen Nguyễn Khắc Dực trước 1945. Cái khi ở Hà Nội mọi thứ rối ren, từ miếng cơm đến thời sự. Quân Nhật đã đánh vào Lạng Sơn, đổ bộ Hải Phòng. Đường tiếp tế ét săng Hải Phờng-Trùng Khánh, Pháp cho Tưởng Giới Thạch thuê đã bị Nhật chặn phá. Rồi Pháp-Nhật có choảng nhau to hơn không, ở những đâu nữa. Các đảng viên thân Nhật mọc nhua nhúa. Trong khi các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh đã công khai bán tín phiếu, tổ chức lan rộng, có cả Việt Nam Cứu quốc hội, nghĩa là bao gồm người cả nước cứu quốc. Trong thanh niên, ở các tổ chức công khai và cả bí mật liên miên tranh luận lý thuyết, đến cả ở sân trại giam sở Liêm phóng Bắc Kỳ, mà tôi đã được chứng kiến, người ta cũng sôi nổi cãi nhau chửi nhau quốc gia hay quốc tế, đệ tam hay đệ tứ.
Tôi cũng quen mấy cha theo đệ tứ áng lứa tôi lúc ấy hơn tuổi một chút có Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Xuân Huy, trên nữa có Phạm Ngọc Khuê, em em tuổi tôi đôi chút cỏ Nguyễn Khắc Dực, Vũ Tăng... Tôi chẳng bao giờ nhớ mạch lạc thế nào, cứ triền miên những câu biện chứng pháp hạt đậu thành cây đậu... cách mạng thường trực, cách mạng phải lên toàn thế giới mới đến thế giới đại đồng... Cũng là những câu nhặt trong sách Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu nhà xuất bản Tân Việt in. Một thời hoang dại của con người ta, gân cổ cãi cọ những ngược đời và đam mê. ở quãng không còn tuổi thiếu niên của chúng tôi, cũng chưa hẳn đã thanh niên, dòng đời còn loăng quăng, cái gì cúng vỗ ngực ta đây, nhưng thật thì chưa biết mình rồi ra sao. Có điều, nếu đứa nào làm mật thám Pháp, Nhật ăn lương tháng hay được trả tiền vụ tiền từng việc, thì là quân trộm cướp, bị khinh, bị chửi và mọi người xa lánh. Quốc Dân đảng hay Đại Việt mới mọc ra đấy và có quan thày Nhật cũng coi là lớ quớ, làm tiền, cơ hội. Chúng tôi thiên về quốc tế mới hơn đệ tam quốc tế mà tôi theo từ thời ái hữu, nghiệp đoàn rồi thành niên phản đế, bây giờ là mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh, nghe có sự tin cậy và quyết tâm. Nguyễn Khắc Dực cũng như tôi, nhưng nó lại mê cái cách mạng thường trực của tờ-rốt-kít. Cho đến kháng chiến, cũng không gặp lại. Nghe nói Nguyễn Tế Mỹ bị thủ tiêu ở Thanh Hà và Dực bị bắt ở Sơn Tây. Rồi đích xác thế, tôi còn biết Dực bị giam cùng với Nguyễn Hoạt trên khu du kích vùng núi Ba Vì của tỉnh Sơn Tây. Tôi biết như vậy cũng vì Nguyễn Hoạt. Nguyễn Hoạt người làng Đông trên Bưởi. Tôi quen Nguyên Hoạt ở làng Đông hay Doãn Quốc Sỹ dưới Cót, những đứa trạc tuổi, cùng vùng và có chút chữ nghĩa. Làng Đông có mấy thằng cùng tôi, Hóa, Uẩn với Hoạt. Hòa và Uẩn học với tôi trường Yên Thải. Rồi sau Hòa làm lý trưởng, gọi là lý Hòa. Uẩn thì đi lính không nghề Ons sang Tây. ấy thế mà năm 1952, trên mặt trận Tây Bắc, tôi trông thấy thằng Uẩn mặc bộ đội đứng ăn cơm tập thể đổi đầu đũa dưới nhà bếp địa phương quân tỉnh Sơn La. Tôi không tin mắt tôi. Tôi hỏi, anh em bảo đấy là đồng chí Đông, sắp lên quân chủ lực. Lúc kháng chiến, ta hay đổi tên, gọi là bí danh, nhưng Đông, làng Đông thì đích thằng Uẩn rồi. Tôi chưa kịp gặp, Uẩn đã lẩn đâu mất. Chắc nó đã trông thấy tôi. Không hiểu sao nó lại lánh mặt. Còn Nguyễn Hoạt tôi quen khi tôi đã ra học trường tiểu học Yên Phụ. Nguyễn Hoạt học trưòng Bưởi, cấp trung học hơn trường tôi. Nó gãy còm nhom, hay bị trẻ con làng Thụy, làng Hồ bắt nạt, đón đánh mỗi khi đi học qua. Trong cặp tôi đã trữ săn đá đường tàu điện, gạch củ đậu để ném chó, ném sấu và phòng nện nhau. Tôi đã mấy lần cứu thằng Hoạt, tôi đánh bọn làng Thụy, làng Hồ chó cậy gần nhà bắt nạt Hoạt. Thế là chúng tôi thành bạn. Rồi bẵng đi đến 1945, tôi được tin Nguyễn Hoạt giữ chức “tỉnh chính phủ Quốc Dân đảng” dưới Nam Định. Khi đó, tỉnh nào có quân Tàu Tưởng đóng thì ở đấy có trụ sở Quốc dân đảng Việt Nam núp bóng treo cờ Tàu có hình mặt trăng mà chúng tôi gọi là cái cờ “ru líp” xe đạp. Đến kháng chiến, Hoạt bị tù.
Nguyễn Hoạt và Nguyễn Khắc Dực đều bị bắt ở Sơn Tây. Nói là phải tù, nhưng đều làm công tác- Nguyễn Khắc Dực kể với tôi: “Chúng tớ công tác địch vận. Viết và in đá lăn tay truyền đơn chữ Pháp cho bộ đội vận động lính âu Phi: Có đến hơn ba năm di chuyển quanh quẩn trong chiến khu Ba Vì. Rồi hai đứa được thả.
Mỗi người đi mỗi nơi. Nguyễn Hoạt “dinh tê” vào Hà Nội. Nguyễn Khắc Dực tìm lên cơ quan văn nghệ kháng chiến. ở tận vùng hậu địch khu hai, khu ba, lần mò thế nào, không biết dòng dã bao nhiêu lâu mà Dực tìm được, tới được nơi chúng tôi đóng cơ quan quãng cây số 7 trong chân núi Là đường Tuyên Quang-Hà Giang. Thế là Nguyễn Khắc Dực ở với chúng tôi. Dực lặng lẽ, nghiêm nghị, chẳng còn hung hăng cách mạng lung tung kỳ củng như xưa nữa. Có lẽ cũng chỉ có tôi biết cái thuở bát nháo ấy của Dực, chứ Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Ngô Quang Châu, Nguyễn Văn Mãi chẳng biết đâu và tôi cũng không nói lại với ai là thằng Dực phản động và ở tù ra. Nguyễn Khắc Dực tham gia phát động giảm tô ở Thái Nguyên, viết kịch Con bò quả thực được giải khuyến khích của Hội Văn nghệ Việt Nam, năm ấy đặt ra glải thưởng văn học đầu tiên. Dực hăng hái và nền nếp chẳng khác chúng tôi. Đời người ta ai ngang bằng sổ ngay biết trước bao giờ, - ngẫm ra thế. Nguyễn Khắc Dực không viết báo Nhân Văn. Không làm đặc san Giai Phẩm. Cũng như nhiều anh chỉ mới có tên quảng cáo tác phẩm ở bìa 4 sách nhà xuất bản Minh Đức “sẽ in, sẽ ra” cũng bị liệt vào cái bị ấy cả. Nhưng Nguyễn Khắc Dực thì không, dù các anh kia thì cũng ở một cơ quan, hàng ngày gặp. Thế mà Nguyên Khắc Dực cũng chả chơi, Dực tu tỉnh và biết mình. Cái vạ xảy ra ở trên trời rơi xuống. Bỗng dưng Nguyễn Khắc Dực nhận được cái thư của Nghyên Hoạt từ Lào gửi về. Không biết Nguyễn Hoạt ở Sài Gòn sang Lào hay nó ở Sài Gòn nhờ người bên Lào gửi hộ. Hồi đó thư từ Bắc Nam không mấy ai viết vài chữ gửi đường bưu thiếp theo hiệp định Giơ Ne. Người ta hay nhờ người quen ở nước ngoài chuyển. Tôi cũng thường có thư cho chị Tư tôi ở miền Nam. Thư sang Pháp, cô Thu Trang ở Pari gửi tiếp cho về Sài Gòn. Tôi không được đọc cái thư của Nguyên Hoạt viết cho Nguyễn Khắc Dực. Nhưng nhiều người đã được đọc, hay là, chỉ được nghe nói lại rồi thêm râu ria vào thì đúng hơn. Nhưng đã nhiều người biết, có khi cũng bởi Nguyễn Khắc Dực đã khoe chăng. Cu cậu cũng thú vị chứ, các ông viết lách là chúa trống mồm, hay bốc.
Cái thư của “phía bên kia” của địch, giao thiệp với địch sờ sờ ra đấy, lôi thôi hơn biết bao nhiêu những phóng sự “Xiếc khỉ” của Quang Dũng hay bài ký tả chuyện mất xe đạp trước cửa hàng nhà mậu của Thanh Châu mà lúc ấy có tiếng xì xào. Thư của Nguyễn Hoạt kể anh ta đương tài danh nhất Sài Gòn và có tiếng ra thế giới, ký bút danh Hiếu Chân, đã viết báo lừng lẫy lại dịch đăng báo và in Liêu Trai Chí dị. Đi xe hơi có vệ sĩ hộ tống, đương vận động vào nghị viện. (Khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, Nguyễn Hoạt đã làm nghị sĩ trong Thượng nghị viện). Tôi không biết Nguyễn Khắc Dực đã bị kiểm điểm tóe khói hay thế nào. Dực đã về công tác hội Sân Khấu. Việc Nhân Văn Giai Phẩm đã qua lâu, nhưng việc này thì như vết tràm trên trán, không xóa được. Cho nên Nguyễn Khắc Dực không được đi thực tế như mọi ngươi. Nhưng rồi có Vương Lan nhà viết kịch xung phong về giup sân khấu vùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực lại lên xuống xin cơ quan mấy lần mới được đi Hồng Quảng, công tác biệt phái đề tài công nhân. Đi vào các đề tài sáng tác, chuyện tự nhiên với chúng tôi, nhưng đã bị mấy phen vấp váp, đến lần tai bay vạ gió này thì quá rồi. Xuống vùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực đã đi hẳn vào núi, viết về người Dao quần ống chẹt. Một lần, Nguyễn Khắc Dực về Hà Nội tìm tôi, khoe: cái kịch dài viết về dân tộc Dao của Nguyễn Khắc Dực sắp được diễn ở thị xã Hòn Gai- tôi không nhớ tên vở kịch. Dực rủ tôi xuống xem. Nhưng tôi không cố gắng đi được. Bẵng đi, nghe tin Dực ốm rồi qua đời. Còn các thằng Hiếu Chân Nguyễn Hoạt làm báo Tự Do ở Sài Gòn, đã viết cái thư giết Nguyễn Khắc Dực kia, tôi được biết nó ở lại Sài Gòn. Có lẽ cũng không ai buồn xách cái tã ấy đi di tản. Thằng Điều bạn người làng tôi ở Sài Gòn lâu năm, Điều kể gặp Nguyễn Hoạt hỏi nó có muốn gặp Tô Hoài không. Nguyễn Hoạt lắc đầu. ít lâu sau, nghe tin nó chết bệnh. Các văn nghệ sĩ ở Việt Bắc, ở khu Năm, ở Nam Bộ ra đều đã quen các đợt công tác thực tế trong kháng chiến. Cái dễ và cái khó nhất là đối với người đương ở Hà Nội bấy giờ. Chưa mỗi chốc đã vào làm việc một cơ quan nào, nhưng được bảo đi thực tế, là dấu hiệu được tin cậy.
Chị Mộng Sơn bảo:
- Tôi xuống lao động nhà máy dệt Nam Định.
Tôi thật tình nói:
- Chị đã quen thuộc thành phố, chị nên...
Mộng Sơn ngắt lời ngay:
- Anh cho là tôi không được đi với công nhân à?
- Không, không... Vâng, vâng... chị đi nhà máy... nhà máy...
ở Nam Định về, mấy tháng sau ở tổ sáng tác, chị không nhờ tôi đọc bản thảo, cũng không cho tôi những quyển sách của chị mới in, như năm trước chị và anh Uyển Diễm đã tặng tôi sách của nhà xuất bản Vỡ Đất của anh chị. Chị cho là tôi thành kiến khả năng sáng tác về công nhân của chị.
Với Hồ DZếnh thì gọn việc. Tính anh cẩn thận, chu đáo, tính toán, người nhà vào nằm bệnh viện Bạch Mai, anh đi chăm nom, lại xin cái giấy giới thiệu viết bài báo về bệnh viện. Anh bảo anh thích đi thực tế, nhưng anh bận việc gia đình, nhà có cháu nhỏ, anh đề nghị đi nhà máy xe lửa Gia Lâm, vừa thâm nhập thẳng vào giai cấp công nhân lại tiện đi về gần nhà. Nhiều người thiết tha đi, phụ cấp tiền chỉ cái hương cái hoa. ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, Hồ DZếnh làm với tổ sơn toa tàu, được trả tiền công khoán cẩn thận - Hồ DZếnh bảo tôi thế, tôi cũng lây cái ham thích của anh. Hồi ấy, anh cho tôi những tập thơ Rừng phong của Vũ Hoàng Chương nhà xuất bản Đông Phương của anh in 1953 và tập thơ thiếu nhi Mâý vẩn tươi sáng của Trần Trung Phương. Anh nói: “Tôi tặng sách, nhưng tôi không phải người quị lụy đâu nhé". Tôi hiểu câu anh nói. Trước kia, tôi cũng chỉ biết, không quen Hồ DZếnh. Khi ấy, anh đã thôi đứng bán hàng tơ lụa cho Thượng Hải thương điếm, nhà Phan Thái Thành ở Hàng Ngang. Anh đi sửa mo-rát, trông nom nhà in á Châu xuất bản cục phố Emin Nôly - đường Châu Long bây giờ, chủ nhà in và xuất bản Nguyễn Bá Dĩnh mượn anh, nhưng Dĩnh cũng là bạn anh. Tập truyện ngắn Chân trời cũ của anh in ở đấy. Những hôm cạn tiền đi uống, đi ả đào, Vũ Trọng Can và tôi đứng đầu phố đợi Nguyễn Bính vào nhà in á Châu đả tiền Hồ DZếnh. Anh thường cho chúng tôi tiền, nhưng cũng như Trúc Đường trong Ngũ Xã, anh không kéo lũ đi đàn đúm với chúng tôi. ý tứ Hồ DZếnh là “tôi tặng anh sách, nhưng tôi không cầu cạnh anh đâu"..
Nhiều anh em viết trước 1945 ở Việt Bắc về, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Kim Lân... gặp lại người quen, nhưng cũng mỗi anh một cách. Nguyên Hồng chỉ chăm chú quanh tuần báo Văn không gặp lại ai. Nguyễn Tuân gặp Đoàn Phú Tứ ở ngã tư Bà Triệu. Vẫy xe đạp Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ nửa đùa nửa thật nói: “Moa là đại biểu Quốc Hội đấy nhé". Trước kia, Đoàn Phú Tứ là đại biểu Quốc Hội Nam Định thật. Nguyễn Tuân không bắt tay, đi thẳng.

Chương II

Tôi thì giao thiệp với các bạn vì công tác cụ thể, và cũng vì tôi có những quen thuộc ngóc ngách hơn. Dễ thường chỉ tôi biết bút danh Sửu (Nguyễn Ngọc) trước kia có sách cho thiếu nhi loại Hoa Mai nhà xuất bản Cộng Lực của Bùi Xuân Tuy có ông phụ trách biên tập Lê Roãn Riệu- cái tên lạ quá, nên cứ nhớ, đã sáng kiến vẽ huy hiệu cái thừng ở bìa sách, mà chúng tôi thường đùa là cái thừng trói người viết vào người xuất bản. Thy Ngọc làm biên tập nhà xuất bản Kim Đồng, một thời gian bị chuyển sang làm mi và vẽ, cái cơ quan “quyền rơm” của chúng tôi chẳng giúp được gì Nguyễn Minh Lang học xong Đại học Nhân dân rồi đi dạy học, chúng tôi xin về làm báo, sở giáo dục thành phố không cho, cũng chịu. Chánh văn phòng Vĩnh Mai đưa các anh Thanh Châu, Hữu Loan, Quang Dũng ở Thanh. Hóa ra vào biên chế báo thì được, vì các anh ở vùng kháng chiến, nhưng cũng như mọi ai mới vào biên chế, phải đứng ở lương biên tập hạng khởi điểm. Hồ DZếnh đã dịch và in một tiểu thuyết Nhật cho nhà xuất bản Thanh Niên. Nhà xuất bản muốn nhận Hồ DZếnh vào làm. Những cơ quan có trách nhiệm xem xét thấy có thời gian Hồ DZếnh làm đại diện bên Nhật của báo Thần Chung ở Sài Gòn. Mọi việc báo và xuất bản của các cơ quan khác, chàng mảy may bận đến hội, nhưng đến lúc có trắc trở thì bù nhìn chúng tôi được khiêng ra trả lời. Tôi có đọc một bài báo Trần Thanh Địch viết về Hồ DZếnh có câu trách hội cái sự này. Và Hồ DZếnh sau đó, đi đường gặp tôi, coi như không nhìn thấy. Cũng như Ngọc Giao đã dự đại hội thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam 1957, nhưng đến khi đại hội văn học nghệ thuật toàn quốc, Ngọc Giao không được mời thì cũng không phải do Hội nhà văn cứng rắn đến thế. Trong kháng chiến, trên tạp chí Văn Nghệ in ở Việt Bắc, tôi đã đăng một bài đánh tiểu thuyết Mưa thu viết chửi cộng sản của Ngọc Giao in ở Hà Nội. Đến năm gặp lại, Ngọc Giao bắt tay tôi, thủ thỉ: “Một đòn rất tốt, rất tốt". Anh lại đã viết báo lời sám hối về tiểu thuyết đó và kể lại ơn tôi về bài phê bình Mưa thu của anh. Nhưng không được dự đại hội văn nghệ, Ngọc Giao gửi cho tôi mấy câu thơ chửi mỉa mai, cay cú. Biết làm thế nào, những “vạ đá” này. Bây giờ cũng ra những chuyện ngày xưa cả rồi.
Nhưng Sao Mai đi thực tế thì khác, có thể là một thiên tiểu thuyết tự truyện kỳ tình, xã hội, bi hài. Tôi biết tiếng Sao Mai qua mấy mẩu truyện cực ngắn trên tạp chí Văn nghệ in một kỳ: Uất, Căm, Đi, Đổi mà Nguyễn Huy Tưởng khen rất hay, đã chọn được trong những bài dưới khu Ba gửi lên và in tạp chí. Đi thực tế người ta đi khắp nơi, Sao Mai xin về làng quê vợ vùng đồng chiêm Nam Định. Vừa tự nguyện, lại tự giải quyết mọi mặt, nhẹ nhàng quá. Sao Mai viết khỏe, đã in ngay phóng sự Trại di cư Pagot Hải Phòng- đến lúc tiểu thuyết Thôn Bàu thắc mắc ra thì “có vấn đề” mà lúc ấy Sao Mai không muốn nhắc đến nữa, nhưng tôi chắc anh này về làng, thế nào cũng viết được cái gì đây, tôi tin khả năng Sao Mai.
Một hôm chúng tôi với họa sĩ Phạm Khanh ăn chả cá ở nhà hàng Sơn Hải- có họ hay quen thế nào với Sao Mai. Trong lúc nhấm nháp, Sao Mai làm vẻ đùa nghiêm: “Báo cáo anh, tôi đi thực tế thành công rồi". Tôi còn chưa hiểu thế nào, Sao Mai đã cười khà khà: “ ở lại thì phải sạch sẽ chứ. Tôi cắt được cái nợ, tôi đã cai được". Mới hay Sao Mai vừa cai nghiện. Sao Mai đã chữa bằng một liều thuốc dân gian, mạnh và dữ, phải có nghị lực mới cai được. Sao Mai đã nhịn hút. Cái năm 1945, Nguyễn Tuân cũng đã cai. Khi cảm thấy cồn cào nhớ bữa, Nguyễn Tuân ra đầu ô, làm mấy chén rượu, nằm kềnh cang lơ mơ một lúc, rồi về. Cơn nghiện biến, không đến hành nữa. Sao Mai có yếu hơn anh chàng phải cố nhịn, mặc cho cơn nghiền vật dựng người dậy. Cứ thế đến đứt cơn , rồi hết cơn, rồi quên . Tôi hỏi thế anh có phải rượu kềnh cang như bác Nguyễn không ? Sao Mai cười không ra tiếng. Sau này mới biết anh chàng còn uống thuốc tình tang hẳn hoi, không phải chỉ rượu mà bằng mấy bác Nguyễn ấy. Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm cả vị phụ nữ. Anh không kể cho chúng tôi biết. Anh nói lảng chuyện. "Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng cũng không muốn đi đâu. Nhưng các bố sợ các ông về thì rồi ngoài này không có thuốc. "
Sao Mai đã khỏe, rắn rỏi, trở lên Hà Nội với vợ con và nhà được thêm khẩu bồng bế theo cả dì hai nó. Anh khéo thu xếp phòng nhất phòng nhì, sở gốc thì cạnh nhà thờ Tin Lành bên nhà hát thành phố, sở mới ngoài Thanh Trì. Sao Mai đương viết về anh hùng nông nghiệp Đỗ Tiến Hảo ở đấy. Vừa tiện, lại có chỗ bấu víu hờ. Tôi đã được đọc cái bản thảo người thật việc thật ấy cho Nhà xuất bản Thanh Niên, có đến ba trăm trang viết. Nhưng rồi ông anh hùng này đổ vì cái tật hay léng phéng. Ông Hảo đã đến trường Nguyễn ái Quốc nói chuyện về nghề nông, khóa tôi học. Ông nói hay lắm. Một năm tôi vào khu kinh tế mới của Hà Nội ở Lâm Đồng, ông Hảo bây giờ đã hết anh hùng rồi lại đã có phòng nhì mới đem vào, đương đào ao thả cá. Chén bữa cá ao nhà ngon tố hảo. Vừa đây, tôi lại có dịp qua huyện Lâm Hà hỏi thăm thấy bảo rồi lục đục thế nào, Hảo trở ra Thanh Trì đã lâu. Có lẽ lão cũng đã trên dưới bảy mươi rồi mà cứ chạy loạn trong nhà đến nhược người, thật khổ thân. Sao Mai thì thao tác tinh thông hơn Đỗ Tiến Hảo một cái đầu. Thành phố đương vận động người đi kinh tế mới. Thế là bàu đoàn thê tử kéo nhau lên vùng đồi núi Phú Thọ và trụ lại tới bây giờ. Sao Mai đã được cử về đi khắp các huyện ngoại thành Hà Nội, báo cáo điển hình thành công gia đình đi kinh tế mới. Quê mới ở làng đồi Văn Luông, cả một vùng rừng đồi Thanh Sơn, Đồn Vàng đã thuộc làu rồi. Cái hay đã nảy ra từ cái bối rối “thôi thì lôi nhau lên rừng, có đánh chém nhau ở xó xỉnh ấy thì cứ việc". Cái hôm chè chén ở quán chả cá Sơn Hải, anh đương đợt, hay vừa xong báo cáo thành tích đi kinh tế mới của nhà anh cho bà con các làng ngoại thành..
Chốc đã ra quá nửa đời người. Nhưng mà vất vả rồi dần dà lại ăn về hậu vận, kể cả cái hoạn nạn long đong họ Tân bên Tàu, ông Tân Khải Minh Sao Mai cũng vượt được. Sao Mai trong hoàn cảnh nào thì việc viết với anh cũng như một đòi hỏi. Bận đến mấy Sao Mai cũng cầm bút. Cái nghề chân chính đã là quả phúc của ông. Đến lúc trời mở cửa, trời vẫn thấy ông cầm bút, rồi được tỉnh Vĩnh Phú để mắt đến, anh em kiệu ông ra làm một chân phụ trách văn nghệ tỉnh. Năm trước, gặp ở thành phố Việt Trì. Sao Mai cười lấp lánh mắt, lại bốc, bốc thật chứ không phải bốc phét: “Này ông, ở Văn Luông âý mà, nhà vườn của các con các cháu Sao Mai bây giờ san sát liền một vệt năm bảy quả đồi chứ chẳng vừa". Tôi mừng bạn một câu rằng: Nhớ đến cái đận ông về dự trại sáng tác ở Quảng Bá, thợ mộc theo về ăn đọi nằm chờ ông vay tiền ứng sáng tác để trả công làm nhà thì tôi thật phục cái gan, cái trí của ông. Tôi lại khoái ông có máu đa tình mâ lại chung thủy, léng téng với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới. Ông lại bán cái đất có thật để ra xây tổ uyên ương trên cành lau ở bờ sông Thao.
Thôi ta trở lại cái hôm chả cá Sơn Hải thời kỳ ấy, uống rồi thì chuyện tử tế bỗng đâm sang nói nhảm. Phạm Khanh nói nhảm đê mê đến ghê người, sởn gai ốc. Nhưng lúc nói đứng đắn thì Phạm Khanh khẩn khoản: “Ghi tên tôi vào danh sách đi thực tế, có lao động cải tạo mới nên con ngưòi, đi đâu cũng được". - Anh đề nghị với hội Mỹ Thuật. Chắc cũng dễ. Tôi sẽ nói thêm với các anh ấy". Rồi Phạm Khanh lên Lạng Sơn làm đường sắt. Lại thấy nói đến năm về, họa sĩ hàng ngày ngồi thiền và tập yoga. Một hôm đến miếng cây chuối ngược, cây chuối đổ rơi từ sân gác thượng xuống. Cũng có người thì thào: anh tự vẫn. Không biết thế nào.
Thanh Đình đã đứng tuổi, người thấp bé, nói láu táu, hôm nào cũng đến đòi đi thực tế. Thanh Đình là tay viết truyện kiếm hiệp ba xu Người nhạn trắng từ thời tôi còn học lớp bét, lớp ba đương mê những Dao bay, Mắt thần của Trường Xuân và Người cá voi của Văn Tuyền Phạm Cao Củng. Những loại truyện ba xu này không được coi là văn học. Vả lại, Thanh Đình bỏ viết đã lâu lắm. Hôm nào anh cũng đứng trước cửa nhà xuất bản Văn Học. Gặp tôi, anh bảo. “Tôi có công tác, đợi anh Thạc". Thạc là tên cúng cơm của Như Phong, đương làm giám đốc nhà xuất bản này. Thạc và Thanh Đình là bạn học tiểu học trường Cửa Đông. Thấy Đoàn Phú Tứ đến tìm Như Phong đưa bản thảo dịch kịch Ipsen, Thanh Đình nói: “Tao vào thằng Thạc, tao với thằng Thạc là bạn nối khố cùng lớp, tao đương viết cho nó một cái trường thiên tiểu thuyết roman neuve! ! . Nhưng rồi anh ấy cũng không năn nỉ đòi đi nữa. Buổi chiều, tôi uống bia hơi cửa hàng ngã tư Bà Triệu-Trần Nhân Tông, thấy anh xách cái làn to bước vào. Anh bắt tay tôi chặt. Anh không uống bia, cũng không trò chuyện sáng tác. Anh đi bỏ mối bánh đậu, kẹo lạc cho các hàng nước. Bí nhất cái lần gặp Nguyễn Hoàng Quân. Quân còn trẻ, không thuộc lớp cầm bút trước kia. ở trên rừng, đôi khi đọc báo Hà Nội, thấy thơ Nguyễn Hoàng Quân. Người xạm đen, tóc bù xù tổ quạ, mặt vuông gầy nhưng vóc người có thể lực lưỡng.
Anh tự giới thiệu:
- Thi sĩ Nguyễn Hoàng Quân..
- Chào anh Nguyễn Hoàng Quân.
- Tôi muốn được đi thực tế.
- Vâng, nhiều anh đã đi...
- Anh cho tôi biết các điều kiện đi thực tế...
- Anh có thể xuống lao động nhà máy hoặc...
Nguyễn Hoàng Quân mở to đôi mắt đờ đẫn:
- Đi làm cu li á? Tôi đã bảo với anh tôi thi sĩ...
Hình như tôi còn giải thích dài dòng đi nhà máy, đi nông thôn thế nào đấy, nhưng rồi Nguyễn Hoàng Quân đứng dậy, đi ra. Cái dáng bước kiêu căng khuệnh khoạng, cái bóng vía thi sĩ kiểu ốp đồng thế, làm thế nào nói cho anh ấy nghe ra được. Nhưng Nguyễn Hoàng Quân không trở lại nữa. Tôi có ý tiếc anh còn ít tuổi, vẻ khỏe mạnh. Nhà anh ở trên gác bên cửa rạp chiếu bóng Hàng Chiếu, cạnh cái ngõ nách vào chợ Đồng Xuân được tiếng các gánh bún ốc, phở chua và chè sen, lúc nào cũng bề bộn người ngồi. Một lần tôi đến, lên hết thang thấy các cửa đều đóng khóa trái. Xuống hỏi thăm bà hàng nước ở gốc nhội vỉa hè, bà ấy nói:
“Anh ấy chết mấy tháng nay rồi, ông không biết à?"
Tôi ngỡ chẳng rõ Nguyễn Hoàng Quân chết thật hay là vì cứ huyênh hoang và to tiếng cãi nhau với xóm giềng, người ta rủa thế.
Người đi thực tế không ai giống ai, lại nỗi những tin bối rối xa gần về. Ca sĩ ái Loan lội bùn chết bệnh uốn ván ở Phủ Lý. Có người ở Hòn Gai lên kiện Nguyễn Hải Trừng. Anh đã lấy vợ ở vùng than. Khi địa phương làm điều tra dân số, anh đi khai giấu nhưng đã lộ ra có vợ trong Nam, có con ra tập kết, và anh đã rút tuổi thật xuống gần nửa, hôm làm giấy giá thú. Người nhà nọ cốt báo cho cơ quan biết thôi, không kiện tụng và đòi hỏi gì, cô nạn nhân ấy đã ra tòa ly dị được rồi. Cũng lại anh ấy về sau sơ tán bom Mỹ vào Mỹ Đức, anh “nhảy dù” tai tiếng ầm làng, rồi về Hà Nội lại lấy vợ, khi hòa bình lập lại bà ấy ra tòa xin tiêu hôn, tôi lại phải thay mặt cơ quan đi chứng kiến. Lôi thôi quá..
Mỗi ngày loạn xạ một thứ việc, nhưng tôi lo đã ngớt, tôi sửa soạn đi Thái Bình. Tôi sắm sổ tay, theo thói quen mỗi chuyến đi và mấy quyển sách đọc: Bàn về thực tiễn và lời nói đầu sách Điều tra nông thôn của Mao Trạch Đông. Bài của Võ Nguyên Giáp tôi đã nghe mấy buổi ở câu lạc bộ quân đội Kết hợp lý luận vơi thực tiễn trong cuộc cách mạng ruộng đất ở nước ta nói về cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và sửa sai. Những bài cắt ở báo của Minh Nghĩa (Trần Quang Huy) phân tích sai lầm cải cách ruộng đất. Tôi ghi trên đầu sổ tay của chuyến đi một câu không biết lấy được ở sách nào: Chân lý là quá trình (Lê Nin). Và đem theo quyển phóng sự để đọc lại Tan rã (Kaputt, của C. Malaparte một phóng viên ý trong chiến tranh thế giới lần thứ hai có chương viết về cuộc tàn sát Do Thái ở thành phố Vacsôvi bị chiếm và các trận tuyến phía quân Đức và ý.
Bấy giờ ở Trung Quốc đã nổ ra cuộc đấu tranh trăm hoa đua nở trong văn nghệ, mà sau đấy Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong đã phải đi lao động cải tạo trồng kê, đào củ cải ở vùng quê nào. Nhưng chưa phải đảo lộn dữ dội như cách mạng văn hóa mấy năm sau. Còn chúng tôi đi thực tế thì khác, chúng tôi bấy giờ đi với ý nghĩa rằng đất nước đã sang giai đoạn mới, phải lao vào mà bắt kịp tầm nhìn. Mặc dầu tôi đã đi làm cải cách ruộng đất và công tác sửa sai mà khi trở về xảy ra việc Nhân Văn, cái nghĩ và làm của tôi vẫn chất chưởng, tôi cũng không cắt nghĩa được. Sự tự ti nặng nề bấy giờ đã làm tiêu tan cả suy nghĩ và nghị lực, lắm điều đã biết, đã nghiên cứu hẳn hoi, thế mà nghe nói lại, đọc lại cứ thấy như mới, như chưa tỏ tường bao giờ. Tự nguyện hay không, tôi thấy tôi phải đi mới giải quyết được bế tắc cho mình.
Tôi đáp tàu thủy xuống Thái Bình. ở bến Phà Đen tàu xuôi khi chưa rạng sáng, cho đến lúc trông ra thấy mặt sông Cái đỏ ngầu mênh mang giữa hai bờ thấp thoáng chân đê, lũy tre, bãi ngô, làng xóm. Những bụi chuối xơ xác vàng rượi, những ruộng mới vỡ, những lò gạch- bóng con bò và người cày trên bãi hiện ra gầy cao cao. Mới đi một lúc mà thành phố và mọi công việc tôi như đã bỏ lại ở đẩu ở đâu rồi. Cái tàu thủy “màn xế” đỗ từng bến với người các vùng dọc sông quen thuộc đã lâu đời. Người xuống khoang ngồi ràn rạt đầy các hàng ghế, nhà tàu mới đi đếm đầu phát vé. Năm 1958 đã khác trước, làng xóm vào tổ đổi công, đương lên hợp tác xã. Chuyến tàu Trung Hưng, tôi đi ngót một ngày về đến Cầu Bo, người lên xuống các bến nơi nào thì đoán ra quang cảnh ấy. Một bà chít khăn vuông hoa choạc ngón tay chùi mép quết trầu, nói: “ối dà, chính phủ đương thu người các nơi về làm ruộng, làng nào cũng đông ơi là đông. Bây giờ mới ra cái thời nhất nông nhì sĩ, các ông ạ".
Nhưng bà ấy thì đương chạy chợ, buôn chuyến. Những khiêng củ nâu không biết từ bến đường ngược nào xuôi về. Bà xuống các chợ Thái lùng mua cau. Đến vùng mía Trình Xuyên thì nhiều quang gánh buôn mật lên bến.
Nhộn nhịp khắp nơi, chẳng phải chỉ có một cảnh người về làng trong tiếng “ối dà” câu nói lộn lưỡi của mấy mụ hàng chợ. Tôi nghỉ lại thị xã, trọ hàng cơm trên bến Cầu Bo. Tôi đạp xe lên đầu tỉnh qua phố chính Guyn Pickê ngày trước. Hai bên đường cỏ tranh cao ngập đầu. Bao nhiêu nãm đã qua, cái trường tiểu học ông giáo Nguyễn Công Hoan dạy ở chỗ nào. Cái bến ô tô Thái Bình-Nam Định-Hà Nội mà ông lang Dương làng tôi đã từng đứng đầu du côn tranh khách cho hãng ô tô Mỹ Lâm con thỏ chẳng nhận ra đâu nữa. Đầu phố huyện Vũ Tiên, nhà hát bà ký Đường, Nguyễn Khắc Mẫn đã viết truyện ngãn Bà ký Đưòng đăng tuần báo Ngày nay, có đêm ông lang Dương đã dẫn chúng tôi vào hát. Chỉ còn trong tưởng tượng. Giữa bãi hoang loáng thoáng những vườn dâu.
Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng. Về quê, chỉ những cái tên cũng đã mường tượng được lai lịch làng xóm. Không phải như bây giờ nhà cửa cứ mọc loang ra khắp nơi. Những cái tên ngày ấy đã chỉ ra gốc gác. Xóm Đồng, xóm Trại, xóm Mới, xóm Ao... là những nơi ở mới bên lũy tre rìa làng, bọc quanh các xóm Trung, xóm Giữa, xóm Đình sầm uất của các nhà có máu mặt, các nhà chức việc. Xóm trong luỹ, ngoài lũy là nhà thiên hạ đến ngụ cư, nhà mõ, hay là nhà đông người phải san ra, dần dần nhiều năm mới ấm chỗ, có khói bếp, cây cau, cây rơm và đường cứt trâu.
Đứng trên đê trông xuống mênh mông - cả tỉnh Thái Binh đều bốn phía chân trời, không nhấp nhô gò đống, không một chấm núi. Chỉ rợn lên những cánh đồng, những con đê, những bờ tre. Con sông Diêm lừ đừ phẳng lặng. Cái chợ họp hôm họp mai chốc lát đầu bến cũng gọi là chợ Phố, có lẽ vì cũng có lò rèn, lò may, quán nước. Chốc chốc lại đi qua một bọn các cô, ống quần gấu váy túm lên tận bẹn, cặp đùi đen nhánh tròn như cái chĩnh. Đoàn người vác những cái dặm xuống chuôm sâu. ở đồng đất này, đàn bà đi đặt lờ cá, đánh te, cày bừa chẳng khác đàn ông. Gặp khi một bọn đi dưới đồng lên các cô cứ nồng nỗng trần truồng ở đầu cống Bắc thì đàn ông cũng không dám bén mảng qua.
Những đồng cao đương làm màu, khoanh bờ cuốc đi cuốc lại, cắm dây khoai. Người ngâm mình dưới đìa nước vác bùn lên úp vào đầu bờ. Nhưng không phải đắp cho khoai mà đánh đống phơi ải để ít nữa tãi xuống ruộng mạ. Mấy hôm sau, được biết mỗi xã viên đương phải quảy ngày năm mươi gánh bùn. Phùng Quán đã đi làm được mấy buổi, mỗi hôm xong gánh bùn khoán lại vớt lá trang, cỏ năn, dong nước về ủ cái hố phân xanh của chúng tôi.
Cống Trà Linh ngăn mặn, làng xóm và cánh đồng bên kia lợ nước ra tận biển, đến mùa nước, những con rươi hiếm hoi vẫn nổi từng đám. Đường ngoằn ngoèo xuống Diêm Điền có đến mười mấy cây số ngập trong cỏ. Người sang đò về bên Thụy Anh, trong bóng chiều chỉ nghe ánh ỏi, lao xao như tiếng chim chích choè chặp tối hót về tổ.
Vào xóm càng rõ ra cái xóm trại còn tạm bợ. Nhà nhà đều tường đất, những hốc khoét vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu cày, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu đãi, niêu tép kho. Cái bùi nhùi rơm lấy dưới bếp lên, tiếng thổi lửa phù phù. Đâu mà có giẻ rách làm nòm, ở xó xỉnh này cái giẻ cũng được khối việc khác. Một người vục cái bát đàn vào vại nước, vừa uống vừa nhìn ra xem ai lạ vào xóm. ở cái xe đạp của tôi phát ra tiếng kêu tách tách cũng kéo được mấy đứa trẻ tò mò chạy ra, trong đám có Hoàng Trung Thông lực lưỡng cởi trần, râu rậm Trương Phi. Tôi hỏi:
- Cánh ta ở xóm này a?
- Rải rác các xóm ở ngoài này. Rách một tý, nhưng thoáng mát dễ chịu.
Tôi đùa:
- Lại ôn nghèo gợi khổ, bắt rễ xâu chuỗi à?
Thông cười:
- Không, thích nhà nào ở nhà ấy. Tôi đã chọn cho ông một nhà ít người, kề ruộng kề sông. Ông vào xem, mà không vừa ý thì đi nhà khác. Có rễ sẵn, rễ cái hẳn hoi.
Tôi nói:
- Có phải bắt rễ tôi cũng xong ngay. Cậu không nhớ tớ đã đội phó cải cách a?
Tôi đi cải cách ruộng đất, hai đợt ở Quảng Xương, ở Nông Cống rồi cả đội chuyển ra Hải Dương, đã dự hai kỳ tổng kết cả tháng trong Hậu Hiền rồi ra Quỳnh Cơi ở Thái Bình này. Đến bây giờ vẫn như còn mê ngủ, chưa hết ngạc nhiên, ngơ ngẩn về đợt công tác dài hạn. Quê tôi, làng nghề thủ công, dệt lĩnh dệt lụa, làm giấy. Tôi không biết ước lượng được một miếng, một sào, một mẫu rộng hẹp thế nào. Thoạt nhìn, cây ngô cũng như cây mía, cây lau. Thế mà tôi đã dạy cho nông dân kể khổ, đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu, rồi cắm thẻ chia ruộng, thắc mắc gì cũng giải đáp được tuốt, anh đội phải quán triệt mà, cứ linh binh, tất bật cả lên.

Chương III

Nghĩ lại giật mình vì sự bắt chước kỳ quặc. Cả nước ta bước vào trường kỳ kháng chiến, có nghĩa là ở đâu cũng có tổ chức của chính quyền, của đảng, được thế mới đánh nổi giặc ở Điện Biên Phủ chứ. Nhưng bây giờ đi làm cải cách về xã coi như không biết, không được phép biết, không chào hỏi không bắt tay- không mảy may giao thiệp với tổ chức sẵn có. Đội viên tôi một mình đeo ba lô lò mò vào xóm. Cứ đoán nhà nào xơ xác nhất thì vào “bắt rễ". Rễ ấy “xâu chuỗi” sang những nhà cố nông khác, cứ thế tôi lập nên trưởng thôn, chủ tịch, tổ đảng và chính quyền mới toanh. Người chỉ có miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông dân thì cũng cùm ngay, gọi là tên cường hào cá biệt. Tài liệu từng chữ dạy thế, khu đoàn ủy Chu Văn Biên lên lớp dạy thế, lại nghe Trung ương Hồ Viết Thắng ngồi ô tô vôn ga đen mặc quần áo nâu về cắt nghĩa thế, “Nông dân là quân chủ lực", chúng tôi bắt đầu tự gọi chúng tôi là “quân ông Thắng". ôi thôi kế hoạch công tác phăm phắp từng ngày, chỉ còn cách trí trá, nói dối mới sản ra các báo cáo kịp được. Hôm đầu đến Đồng Tiến ở Nông Cống, tôi lảng vảng một lượt qua xóm rồi vào liều một nhà không có cổng ngõ- đến cái cổng ngõ cũng không có thì ăn chắc là cố nông rồi. Trời đã xẩm tối. Nhà chỉ có ba bố con, cởi trần. Thế là hay lắm. Đến lúc hỏi tỷ tê thì anh ấy nói người ta có cái số, số tôi nghèo, trước kia, cũng có mẫu ruộng hương hỏa, rồi bán dần. Tôi nghe mà rối ruột, thế là tại lười, tại không ăn nên làm ra, tại những gì gì nữa, anh này có bị địa chủ đè đầu cưỡi cổ không? Tôi hỏi, anh bảo: Không. Thế thì không phải bần cố rồi. Gà gáy, tôi đeo ba lô lủi tìm nhà khác, ba bố con còn ngủ ngáy kho kho.
Cái khi xuống Quảng Xương, nhớ lại vẫn còn hốt. Tôi tìm vào một nhà, cái ang đựng nước cũng làm bằng một mảnh trôn vại, nghèo quá. Đúng là rễ, mà rễ cái nữa. Thấy anh đội ba lô vào nhà mình, sướng tỉnh ngưòi, chập tối người chủ nhà cầm ở đâu về một bọc lá chuối.
- Cái gì thế?
- Cái dái trâu.
Rồi anh nói cho biết:
- Các xóm ngả trâu nhiều lắm, giết hết. Sợ bị lên địa chủ mà. Tôi bảo cho tôi cái này về thết anh, được ngay. ấy nhờ oai anh mà tối nay nhà tôi mới được ngửi hơi thịt trâu. Tôi cứ chạy đùng đùng, thằng Tào Tháo đuổi tôi cả đêm. May quanh bờ rào bãi hoang, bĩnh chỗ nào cũng được. Vào nằm rúm ró thở mà không dám rên.
Tôi bảo:
- Anh đi hái cho tôi mấy cái lá ổi, anh ơi!
- Để cho nó cầm à? Không nên đâu. Chốc nữa ăn cơm thì khắc khỏi.
Tôi lử lả, không còn hơi để hỏi tại sao ăn cơm lại khỏi tháo tỏng. Hãy còn tối đất, anh chủ nhà đem cái niêu mới bắc ở bếp xuống, tôi sờ tay thấy nóng, nhưng lại ram ráp như bột, không phải cơm.
Anh ấy nói:
- Đã lâu không biết mặt hạt gạo. Cám đấy. Nuốt cái này thì bụng cứng lại ngay, hết đi ỉa. Cố ăn một bát, anh ạ.
Cám thì như mạt cưa, mày gỗ, có lẽ cám đã hút tiệt phân lỏng trong bụng. Tôi hết đi ngoài. ăn hai bữa cám, cả tuần không đi ra được, bụng réo òng ọc, rồi đau cuộn lên, nổi từng cục. Đến bây giờ trông nhà nào tuềnh toàng, không có bức vách, lại nhớ nhà anh ấy ở Quảng Xương, tôi còn trợn.
Tổ trưởng Hoàng Trung Thông cắt đặt cho tôi với Phùng Quán, hai người làm một nhóm. Quán ở nhà khác, thường ngày đến chỗ tôi, lúc ngủ; lúc ngồi chơi, lúc bới ra việc làm. Quán bảo tôi:
- Anh trông ông lão nhà anh ở có giống ông Phan Khôi không?
Tôi lạ vì cái so sánh của Quán. Một ông đù đờ mù chữ với một ông khinh khỉnh bụng một bồ chữ, giống thế nào được. Nhưng rồi tôi để ý thấy Quán nói đúng, mặt ông Ngải mai mái, không trắng, không xạm. Người suốt đời ở ngoài đồng áng mà da không bắt nắng. Cái nước da nhờn nhợt ấy thì có giống ông Phan Khôi. Quán nhận xét tinh, nhưng chỉ bề ngoài Phan Khôi, tất nhiên. Về cái ngang ngạnh đốp chát của Phan Khôi thì chúa thằn lằn, tôi đã nếm mùi. Mấy năm cùng ông một cơ quan, khi Phú Thọ, khi sang Thái Nguyên, khi trên Tuyên Quang. Còn non tuổi, tôi đã đọc Phan Khôi trên báo Phụ Nữ Tân văn, Phụ Nữ Thời đàm ở Sài Gòn, ở Hà Nội, tôi nhớ bài thơ dài in cả trang báo Chơi thuyền trên sông Tân Bình bài này nhớ được, hay hơn bài Tình già, mặc dầu bài viết thể thơ cũ.
Ông ký Phan Khôi, Chương Dân, có khi ký Thông Reo tôi cũng nhận ra. Văn ông khác thường. Kinh thánh cả Tân ước, Cựu ước của hội đạo Tin Lành, người ta bảo ông dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng đã đọc. Có chương Nhã ca lời rất thơ, Phan Khôi lại có cái tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra in trong Phổ thông Bán nguyệt san nhà xuất bản Tân Dân, nhưng viết nhạt đọc mãi mới hết, như gà ăn cám phải lắc cổ.
Tôi bảo Quán:
- Tôi thích lời Phan Khôi bình bài thơ Cái thước của Nguyễn Xuân Huy trên Phụ nữ Thời đàm. Nhưng sao không thấy in vào Chương Dân Thi Thoại. Có lẽ quyển này ra trước khi ông viết bài đó. Tôi hỏi, ông ý ngồi im không trả lời, chẳng ra khinh ngưòi, chẳng ra điếc. Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra đọc chán bỏ xừ. Lý luận Phan Khôi chỉ thú vị lúc nào lời lẽ ngang như cua. Nhưng giáp mặt ông, tôi chỉ nói tâng ông: Văn Phan Khôi ngang tàng. Ông ấy cũng lặng thinh, chẳng nói sao.
- Ông Phan Khôi còn coi ai ra gì! ông ấy đánh giá tôi là thằng con nít. ấy thế mà ông lại thích bài Lời mẹ dặn của em.
- Chắc vì bài thơ ấy cũng ngang như cua.
Chúng tôi cùng cười. Tôi kể:
- Mình đọc Phan Khôi nhiều đến thế từ thuở bé, ông phải khoái lắm chứ. Thế mà ông ấy đốp một câu:
"Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết có ra cái gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế".
Chuyện với ông Phan Khôi khi nào cũng ngại, nhưng lại vui và thích được khích ra những cái ngang ngạnh. Ông tuổi tác, được trên trọng vọng, nhưng ngạo đời, chúng tôi ở liền phải phục dịch ông và hứng những cái khó chịu. ở trên rừng, không có lĩnh lương tháng, ông chén tiểu táo- tiểu táo là chế độ cao cấp, còn chúng tôi ăn đại táo lại là hạng cơm ngữ với muối rang. Khi về Hà Nội ông được đãi tiêu chuẩn nhân sĩ, cả khi xảy ra Nhân Văn, ông có dính líu nhưng vẫn được hưởng thế, có người phục vụ là bà vợ bé của ông, cho đến khi ông mất. Các ông Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách còn khuya cũng chưa bằng. Cụ Ngô Tất Tố, cái khi bị ung thư gan đã nặng nằm nhà ở đồi Cháy trên Yên Thế còn ngậm ngùi vì chuyện ấy. Anh em xung quanh như tôi, dưới mắt ông, chỉ là bọn để sai phái “những thơ lại của chế độ", ông dửng dưng như không. ấy thế nhưng ông lại dễ chuyện các thứ tiếu lâm và có Yến Lan giúp việc thư ký giải thưởng hội Văn Nghệ, Yến Lan tính cẩn thận thì Phan Khôi cũng cẩn thận và chu đáo thế, ông sốt sắng viết báo khi tôi hỏi móc ông những chuyện hiểm: “Có phải năm 1946, ông làm Trung ương ủy viên Quốc Dân Đảng", mặt ông vẫn lạnh lùng nhợt nhạt thế. Rồi lại những chuyện tiếu lâm. Tôi vẫn trêu:
- Ông Ngô Tất Tố kể là hồi làm báo ở Sài Gôn, ông hay tranh luận sinh sự, nhiều người ghét muốn lánh ông, cho nên ông đi đâu cũng phải xách theo cái ba toong.
Ông Phan Khôi được gãi vào chỗ khó chịu, cười khẩy:
- Ông Ngô là thằng lý Đình Dù ra tỉnh mới tưởng thế chớ. Tôi cầm cái gậy song nạm bạc, có đấy. Nhưng cầm ba toong đội mũ phớt là ăn chơi mốt Tây thời ấy chớ đâu ba toong để đánh nhau, để phòng thân. Đồ nhà quê!
Tôi ngẫm có thể ông Phan Khôi nói đúng. Tận sau này cái thời tôi hai mươi tuổi, ở trong làng đi chơi chúng tôi cũng nhung nhăng áo pigima xanh trứng sáo, viền tím, tay chống ba toong song, trong túi có cái đèn Đe mông hai, ba pin.
Vì cái câu Phùng Quán nói ông Ngải giống ông Phan Khôi mà lại lan man. Quả là Hoàng Trung Thông đưa đến nhà ông Ngải ở xóm Đồng cạnh rìa luỹ, thông thống ra ruộng, xuống đến lợi nước mới lơ thơ mấy búi tre, búi hóp be bờ phòng mùa lũ khỏi lở.
Ông Ngải lúi húi dưới cầu ao, đương mổ con vịt.
Thông nháy mắt nhìn tôi:
- Thế nào, ở được chứ? ông chủ nhà giết vịt đón khách đấy.
Ông Ngải đã chùi tay vào mỏm cọc cầu ao rồi lên tựa lưng vào bụi tre. Quanh đấy, lỉnh kỉnh ống điếu cày, ấm nước, mấy mẩu gộc cây làm ghế cạnh cái bát đàn, như bàn uống nước ngồi chơi ngay bờ ao. Tôi mới để ý cái khóm tre lép. Nói đến tre, người ta tưởng lũy tre, khoanh tre chằng chịt, lởm chởm gai, trộm cướp và con lợn con gà không lách, không chui được. Chiều chiều, đàn cô bợ đi ăn về đậu ngất ngưởng trên ngọn.
Đêm gió bấc, những tay tre kẽo kẹt nghiến vào nhau.
Chẳng ai để mắt đến cái giống tre lép, cao hơn đòn gánh, bằng cây sậy mà không có gai, mọc thành búi trong các xó xỉnh ao chuôm.
Bụi tre lép lá lưa thưa nhợt nhạt. Tên là lép, đã biết là giống tre hèn, vót làm đũa, chẻ cái lạt cũng không xong. Mỗi búi vài mươi cây đầu xóm, bờ ao, ngõ ngang như bờ rào chỉ đường. Trẻ con chơi đánh hú rúc vào giữa bụi. Những con trâu, con bò dưới đồng về, đã thành lệ, bao giờ cũng đứng cọ sườn vào lưng cây. Con đỉa rơi phọt máu tươi, con ruồi trâu mải hút máu, chết kẹp giữa thân tre. Quanh búi tre, nơi cho người ngồi hóng gió. Ông Ngải luẩn quẩn quanh bụi tre lép, tha việc ra đấy làm, kể cả cái điếu, ấm nước
Người đi qua, khách vào nhà, cũng ghé xuống, vui chuyện đưa đà ngồi một lúc.
Chẳng biết từ bao giờ, cái búi tre lép ngoài bờ ao đã thành chỗ dừng chân chẳng khác cái quán dưới cây muỗm đầu làng. Những gộc tre đã lên nước sẫm như củ nâu. Lưng búi, những bó lạt cật quàng vào đấy. Cái rỏ, cái lờ, cái hom lươn ông Ngải đương đan rồi gác lên búi, như mái hiên. Ông Ngải nói: “Đêm hè ngủ ngoài này mát, gió hây hẩy bằng mấy quạt kéo, quạt điện ấy chứ". Cả cái xóm Đồng cũng chưa biết mặt cái quạt điện thế nào. Cạnh đấy, trên ba hòn gạch chỉ ông đầu rau, nồi nước luộc vịt đã sôi lăn tăn.
Ông Ngải bảo Thông:
- ở đây chốc nữa chén thịt vịt.
Thông cười:
- Ông thánh quá, đã bói được hôm nay nhà có khách.
- Ông khách số đỏ. Tối hôm qua, con cạc này phải rái lên ngoạm mất cái cổ. Tiết đông cả, mất hãm được tiết canh. May mà nghe tiếng vịt quác, tôi chạy ngay ra, không thì nó tha mất. Ngoài sông, ở những bờ bụi kia, lắm giống rái cá, cả con rắn hổ mang, hổ lửa nữa. Nhưng cũng chưa lắm bằng ngày trước.
Ông Ngải cầm chiếc đũa cả lật con vịt trong nồi cho được chín đều. Con vịt cụt cổ, tròn thu lu như cục thịt
Ông Ngải trỏ xuống bờ ao. Chỗ con rái cá bò trong ráy ra, mặt bùn còn nhẵn dài vệt bụng trườn
Thông nói:
- Thì bụng con cạp nong cạp nia, con mai gầm bò cũng hệt thế này. Biết sao được, há ông?
- Khác chứ. Có bận tôi chậm lùa vịt về, chặp tối rái đã ra rình. Ngày trước còn sẵn nữa, hôm nào giở giói đói mồi, rái nồi lên bơi cả đàn. à cái rượu đậm người ngoài Diêm mang vào, tôi vẫn để dành các ông, có dịp...
Thông thoái thác:
- Hôm nay ông cho tôi kiếu. Tôi đưa được ông bạn đến mọi khi tôi đã nói với ông. Bây giờ tôi phải lên xã họp. Chẳng biết việc gì mà mời hỏa tốc.
- Họp thì quanh năm chứ thịt vịt thì chẳng mấy khi...
Thông nói thêm mấy câu bãi ra, rồi mặc áo vào đi luôn, trong khi tôi cởi ba lô trên xe đạp đặt ghé xuống mép búi tre. Tôi không nghĩ xã có việc gấp. Thằng này phàm ăn phàm uống, thế mà có lẽ ghê con vịt bị rái cắn - con rái hay con rắn thì cũng nó cả.
Còn tôi chẳng để ý. Ông ngoại tôi có môn thuốc gia truyền chữa rắn cắn, rắn cạp nong cạp nia độc nhất cũng chữa được, đã cho tôi từ thuở nào cái cảm tưởng không sợ rắn. Ông tôi mất đã từ nửa thế kỷ rồi, ngày còn bé cũng chỉ được ông sai luyện thuốc, mật mai gầm trộn với hồng hoàng, nhựa duối rồi viên lại cho người bị rắn cắn nuốt chửng. Chứ tôi biết bàì thuốc rắn cắn thế nào. Có lẽ đã trông thấy nhiều rắn, lẽ cái không biết sợ từ ngày dại khờ mùa hạ mùa đông tha thẩn các cánh đồng, cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim hoạ mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mòng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc. Đến khi đi công tác, những năm ở rừng trên Tây Bắc, ở Mường Than uống rượu bọ hung sào với Lý Nủ Chu, hôm đến nhà thống lý Mo Chống Lầu ở Háng Chú dưới Phù Yên nhắm thịt ngựa luộc không muối. Có lần ở Bản phải uống rượu gấu tàu- cái rượu để đổ cho ngựa uống lấy sức lên dốc, vừa tợp một ngụm, hai môi đã run bần bật. Cũng bởi cái tính tạp ăn từ tuổi thơ, chẳng phải liều hay nhát, mà cả đời đã ăn tạp, thịt chó dại còn ăn được, con gà con vịt phải rắn cắn thì xá gì.
ở nhà ông Ngải mấy tháng, lại được chén bữa vịt rắn cắn, lần này thì đích con rắn chứ không còn ngờ rắn hay rái cá bò lên chuồng. Giữa trưa, đàn vịt đang rúc bèo cạnh bờ ao. Một con hổ mang trong hang trên bờ lao thẳng ra. Rõ ràng tôi thấy con vịt bỗng dưng như phải gió, gục cổ xuống, rãy cánh đành đạch trên mặt bèo. Ông Ngải nói: “Anh này số thật may, toàn được đánh chén, hôm đến thịt vịt, hôm đi lại vịt thịt".
Thông cho biết công tác sinh hoạt của tổ. Hàng tháng đem tem lên kho huyện lấy gạo, tiền ăn và gạo đưa chủ nhà. Chung với nhà chủ, có gì ăn nấy, việc nào đỡ tay được thì đỡ, nhà nào cũng vui vẻ cả. Tổ trưởng Thông đi họp xã, họp huyện. Chúng tôi tổ viên chỉ họp tổ sản xuất với xã viên. Thông với tôi là đảng viên thì họp tổ đảng ở xóm, họp chi bộ trên xã. Lâu lâu, tổ họp hội ý một lần. Thông la đà rượu nhưng công tác nhanh nhẹn đâu vào đấy, như tỉnh uỷ viên Hoàng Trung Thông ở Nghệ An năm xưa ra với chúng tôi trên Việt Bắc. Cuộc nào quá chén mà rồi có họp, Thông nói hăng hái, mạch lạc và dài hơn mọi khi. Ta đây có ngất ngưởng đâu. Riêng vẻ như thường mà khác thường ấy cũng đã là hơi hơi say rồi. Cuối xóm, lác đác mấy nhà đã ở lan ra ngoài bờ tre, lại sắp lên xóm mới. Đâu đâu cũng thêm người ra, nhà mọc như bè nghể. Trước kia, những nơi bị cháy, bị chết dịch, mất mùa, cái năm đói người bỏ đi, cả xóm thành gò hoang, bây giờ thì cứ ngày một chen chúc. Tôi về chưa được bao lâu, đã thấy chỗ gặt chỗ làm mùa, mặt lúa cao ngang bờ lũy. Lại ruộng xếp ải đã nỏ, đết uốn cong lên. Mùa màng liên tiếp mấy chiêm, mấy mùa, mấy màu, chẳng biết thế nào, trong làng ngoài đồng tất tả bộn rộn, không tưởng được mới vài ba năm trước cũng ở đây đưong yên lành bỗng nhiên sôi sục giảm tô, thổ cải, người chết bắn, người thắt cổ. Có hỏi đến cũng chẳng ai muốn nói lại cái hồi nhố nhăng ai oán kia.
Về sự tích khi cải cách thì mấy xóm mới này không địa chủ- cộng ruộng đất mà tính ra không nhà nào đến mức lên địa, mà phú cũng không có. Qui theo tỷ lệ khẩu cứ bổ năm phần trăm địa cho mỗi xã mà cũng không moi được ra đủ. Anh đội ấy bị đổi, vì bất lực, bao che, nhưng rồi đưa xã lên trọng điểm, cụm về, đoàn về cũng phân vân không tìm được đủ địa. Ai cũng tìm ra địa, qui thành địa, không ai nghĩ rằng ở đồng đất này người ta tự tay cày cuốc khai phá nên cái ăn.
Cả đời ông Ngải cuốc ra miếng ruộng, bây giờ ông vẫn ngồi dưới búi tre lép nhìn ra những miếng ruộng ấy.
Các tay chức việc mà đội gọi là tổ chức cũ chỉ có mỗi người trưởng thôn chẳng moi ra tội gì thì đã bị cách chức. Tề ngụy thời Tây vừa qua cũng có người ra làm thư ký xã uỷ. Một đêm, du kích ta lội sông sang trói lôi đi chắc bị ngỏm ngay đương lúc ấy. Nhưng ở đất tề gần bốt, lại có người ra làm. Bây giờ khôn, làm hai mang. Ban ngày việc tề, tối bắt mối làm Việt Minh.
Tôi và cả đoàn cũng phân vân, nhưng rồi quyết bắt xã uỷ Khế. Hai mang, thì một mang quốc dân đảng thế cũng là phản động cả. Đến hôm du kích chuỗi rễ sắp sẵn thừng chão đến bắt thì lão Khế hai mang đã lặn mất. Vậy nó là cường hào gian ác cá biệt, tịch thu miếng vườn, cái nhà lá ba gian, đuổi vợ con nó đi. Thế là đủ số địa, lại có cường hào ác bá thêm cả quả thực, đội đương lẹt đẹt hóa ra có thành tích.
Đến sửa sai, đội cải cách giải tán, rút đi, đội sửa sai về tuyên bố cởi cái oan, thì lão Khế lù lù ở đâu về. Hóa ra lão chẳng đi đâu, lão núp ở hầm bí mật ngoài chân tre, như hầm cán bộ thời kháng chiến. Ngày lão nằm hầm, tối thì xóm giềng xách cơm rượu ra cho lão. Có đêm mưa to lão vào ngủ gác bếp nhà nọ, người biết cũng mặc, chẳng trình báo ai cho lôi thôi ra. Lão Khế cười hề hề: “Làm cán bộ, làm tề ngụy, nằm hầm mãi đã cả bồ kinh nghiệm, đứa nào mà bắt nổi ông! ".
Cũng là khỏi vòng cong đuôi, chứ thật đã bạt vía và nghĩ ngợi lắm. Được trả lại nhà, vườn, lão gọi vợ con về ở còn lão kêu chán tình nghĩa cái làng này lắm. Rồi lão bỏ cả đảng viên, lão đi. Lên tỉnh hay đi đâu, có người nói thấy lão dựng cái quán nước ở cầu Bo, lại có người bảo lão ngồi xem bói chui bên chợ Rồng.
Thỉnh thoảng, lão Khế về, vẫn tươm tất bộ quần áo ka ki xi măng đại cán. Có khi vác cái rọ nhốt con chó đem về làm thịt, mời các ông đã phúc đức che tội cho lão hồi ấy, đến đánh chén. Hỏi việc làm ăn, vài chén vào rồi, lão cười ha hả “người làm ra của, còn người còn của, đâu chẳng kiếm được", rồi lại đi. Từ hồi xảy ra những nhố nhăng cây chuối mọc ngược, gà mái đạp gà trống, con cái vạch mặt bố mẹ, vợ tố chồng, nhiều người vẫn đăm chiêu, âm thầm như lão Khế. Nhưng tôi chưa được gặp ông Khế về lần nào.
Cái xóm Đồng lặng lẽ, ông Ngải nhà tôi ở chẳng bận những chuyện rối ren ấy. Từ thời Tây thì ông Ngải ở dưới ruộng lên, vẫn ngồi bên búi tre lép, rúc điếu thuốc, uống ngụm nước chè vò. Con sông nhỏ lấp lánh ôm vòng ngoài chân tre. Đến bây giờ có tôi thêm vào, tôi ngồi không rỗi rãi cả buổi chiều, ông đan hom lươn, tôi nhìn bóng chiều vàng từ mặt nước lên lan dần vào trong xóm. Đẹp đến ngẩn ngơ, tôi không biết vẽ cũng nghệch ngoạc mấy nét êm ả vào sổ tay.
Nhà cửa trong làng khang trang hơn các xóm ngoài tre. Hũm ao cạn cấy cần đã xanh om, gợi những tháng cuối năm sắp đến. Vườn chè loang loáng từng luống. Trong bóng căy đa ngôi đình có lớp cửa giữa mối xông lên tận nóc suýt bị dỡ bỏ hồi cải cách đã được đóng mới, uỷ ban cho các cụ phụ lão và ban văn hoá được ngả cây nhãn cổ thụ đầu làng xẻ lấy gỗ.
Giữa xóm, một ngôi nhà tường xây trên nền cao có thềm bước lên, trông vào thấy lóng lánh chiếc gương tàu in hình con phượng ngũ sắc trong gương, bên cạnh dán những tranh cắt ở báo ra, xanh đỏ rợ mắt. Cụ phó- không biết phó gì, cụ mất đã lâu, nhà có ba mẫu, hai chiêm một mùa, bị lên địa vì nhà tuy ruộng không nhiều nhưng không có lao động chính. Dũng, con trai cụ phó, làm chi uỷ từ thời bóng tối, bị tố phản động quốc dân đảng chui vào Đảng, đội bắt giam. Rồi sửa sai, Dũng được tha, xuống thành phần trung nông, phục hồi đảng viên, nhưng xem chừng Dũng sợ quá, cay quá người ngợm và nhà cửa chưa lại sức. Nhà ngang đã xiêu, phải chống hai cây tre. Một cót thóc cỏn con quây lại, như cái chỏm tóc trẻ nít. Ngày trước Dũng học trên tỉnh, lấy vợ rồi mới về làng. Đi gặt, không biết gánh. Vợ người thiên hạ, dân tỉnh, quấn tóc, răng trắng- trắng tự nhiên, không phải răng đen mới cạo, phảng phất chút phong lưu còn lại, không biết còn lại ở cái gì.
Chúng tôi gọi với lên: “Ông Dũng ơi! Đi họp".
Dũng ngồi bó gối trong phản nói vọng ra: “Tôi đương lên cơn sốt, không đi được, báo cáo các đồng chí". Rồi nghe tiếng rũ chiếu phành phạch. Xem chừng còn đau đầu, không biết thật hay vờ. Quốc bảo tôi thế.
Họp chi bộ buổi tối trong làng. Đi qua bóng tối bóng sáng le lói những cái đèn con đặt giữa ruộng mạ để bắt bướm, nắc nẻ, sâu đo, xa xa gần gần nhấp nháy chấp chới như ma trơi ra đêm mưa ngoài tha ma.
Cùng đi, chuyện với Quốc- một đảng viên kết nạp trong cải cách, vừa rồi bàu ban quản trị được ít phiếu, không trúng. Quốc cho là bị dân thành kiến đảng viên hồi bần cố. Nhưng Quốc vẫn phụ trách công an xă, lại kiêm công tác phân bón của hợp tác.
Quốc kể trong làng không êm ả như các xóm ngoài ấy mà cũng không phải chỉ có một mình chuyện ông Khế. Những cánh đồng, những bụi tre thì vẫn đìu hiu như bao đời vậy. Quốc là người được dìu dắt nên cán bộ mà lúc đó nghĩ lại Quốc còn rùng mình. Và dần dần Quôc nói tôi mới hay không phải chỉ có một chuyện đảng viên Khế.
Lý trưởng Vạn bị tố phải bắt, tự nhận là bí thư quốc dân đảng cả vùng. Những người biết nhưng không dám nói. Lý Vạn cũng chẳng đảng phái phản động gì đâu. Tội nó là làm lý trưởng, cán bộ về, nó không bắt, nhưng nó đuổi không cho vào làng. Lại khoe ầm lên làm thế để cho làng nước bình yên. Cái hôm đội vừa về địa chủ Lịch đuổi trâu qua sông, ngã chết đuối. Các tổ rễ chuỗi phân tích phát hiện là lý Vạn giết mụ Lịch để trẩm đầu mối. Mít tinh mừng chính quyền mới ra mắt, lý Vạn bị đem xử bắn đầu tiên... Nhưng thương nhất bác Đạt người giữ cống Bắc. Giữ cống, lĩnh lương của bốt, lại được tiền của ta vì đêm thì mở cống cho cán bộ bơi qua. Việc ấy chẳng mấy người biết, cũng không ai đem tố cho rắc rối.
Con gái bác Đạt là du kích, được đi canh gác, cứ ngứa tay thúc báng súng vào bụng lão địa chủ Vạn. Vạn hộc ra một đống máu rồi nói. “Bố mày đã xơi lương của bốt, lại ăn tiền của Việt Minh, mày về mà đấu đá khảo đả bố mày ấy". Không chỉ có một con gái ông Đạt mà cả tổ du kích nữ ở đấy. Thế là cái tin, ông Đạt ăn tiền hai mang loang ngay ra. Đến hôm đấu. Vạn còn rống lên: “Ông nông dân Đạt đã ra cây nhãn đầu làng nhận tài liệu Quốc dân đảng đem về cho tôi, các ông các bà nông dân có biết không".
Cán bộ đội phụ trách xóm ông Đạt bị gọi về trụ sở đội kiểm điểm để lọt lưới. Đêm ấy, họp xóm, đã thay cán bộ mới. Mọi người đến đông đủ, anh cán bộ mới quát to: “Địch ngồi lù lù với bà con, mà không ai biết à?” Hệt chuyện hồi tôi ở Nông Cống, cán bộ Lâm xóm Trúc không phát hiện ra địch, tôi được điều về thay. Tôi tính toán ra được một địa chủ hệt như đảng viên Dũng mà Quốc vừa kể, lúc nãy chúng tôi vừa đi qua nhà. Anh này cũng ở tỉnh về quê trông nom vườn ruộng. Một buổi sớm, dân quân du kích giải anh ta đi. Gặp tôi đầu xóm, anh ta vái tôi rồi sợ sệt lễ phép hỏi: “Ông cho em lên địa chủ ạ?".
Cả đám họp quay lại nhìn ông Đạt. Ông ấy đứng phắt lên, chạy thẳng ra đâm đầu xuống cống Bắc.
Mọi cái đều dữ dằn, Quốc bảo Quốc kể lại mà còn sợ, nhưng giọng Quốc lại nhẩn nha, dửng dưng, tôi không đoán được tâm trạng anh thế nào. Quốc là cốt cán hồi cải cách, nhưng bây giờ vẫn tích cực và được làm công tác. Quốc phàn nàn làm công an ngày ngày bắt thuốc lào, bắt rượu, bọn buôn chè tươi, chỉ mua thù chuốc oán. Nhiều lần đã bị ném gạch vào nhà.
"Chắc rồi tôi cũng không đậu được chân hội đồng nhân dân. Nhiều đứa ghét quá. Có nhà giết lợn, tôi bảo để lại cho cân thịt. Vợ nó cắp rổ thịt hẳn hoi, nói ráo hoảnh: thưa ông công an, hết rồi. Thịt này có phiếu người ta đặt, tôi phải đem lên chợ trả người ta. Nó ghét tôi vì hôm trước tôi hỏi: “Nhà mày không đóng sát sinh à? - Mà nó có đóng bao giờ đâu, nhiều nhà nấu rưọu lậu, tôi cũng lờ, thế mà...
Chi bộ mười lăm đảng viên, chưa kể hai chúng tôi, ngồi họp trên ổ rơm. Chương trình có đến một huyện việc, quá nửa đêm cũng chưa xong, phải dừng lại. Trước lúc họp đã bàn ưu tiên gọi hai mươi người sáu ngày dân công đào sông Diêm chống úng, tiêu chuấn thì tự túc. Một người nói: Thế thì đả thông khó đấy, điều dân công bảo được tiền thù lao mà". Bí thư Sự nói bừa đi, nhưng át giọng: “Đấy là đi dân công lúc kháng chiến, bây giờ thời bình thì khác. Nào bắt đầu họp, chương trình dài lắm. Một người lơ lửng chép miệng một câu ví von: “Bí thư nói đúng lắm. Sớm đúng, chiều sai, đến mai lại đúng, lúc nào cũng đúng".
Các việc bàn lần lượt: rút kinh nghiệm họp tác xã thí điểm vụ gặt đương lắm thắc mắc; cho các liên tổ đổi công học tập chuẩn bị lên hợp tác xã; chuyển thóc lên huyện vấn đề kết nạp đảng viên trong dịp đông xuân ; tuyên truyền thanh niên nghĩa vụ quân sự đầu 1959 ; công tác bán thóc vụ này cho chính phủ quản lý thị trường, tăng cường kiểm soát rưọu, thuốc lào, chè thuế sát sinh; hạn chế ăn uống lu bù đầu mùa, các tổ báo cáo làm phân, gieo mạ đúng kỹ thuật...
Chủ tịch xã nói chen chẳng vào trật tự mục nào:
- Nhà tôi thì gieo mạ lối cũ, khổ thế.
Nhiều người cười: Ông chẳng quảng bá thì cả làng biết rồi. Bà chủ tịch đã rêu rao khắp xóm: tôi học thế nhưng tôi không làm thế đâu. Giỏi thế thì ông mới làm được chủ tịch.
Đáng lẽ việc họp tác xã thí điểm và tổ đổi công lên hợp tác xã lắm ý kiến nhất thì lại êm đềm cho qua vì chẳng ai phát biểu. Có lẽ, ai cũng biết đằng nào rồi cũng lên, nói hay không cũng phải thí điểm phải lên. Còn mấy mục nữa, nhưng khuya quá, mấy người đã rúc vào ổ rơm ngáy rền rĩ vang gian nhà họp.
Bí thư Sự kết thúc, trịnh trọng nhấn một câu:
- Ta tiến lên lập hợp tác, vi như cái xe, là cái xe thì việc của cái xe là đi, dù đường còn xấu, còn gồ ghề, nhưng vẫn là có đường cho cái xe lăn bánh, ta phải cố gắng.
Bí thư đã nhớ câu này ai phát biểu ở cuộc họp nào trên huyện.
Một hôm, tôi sang chơi nhà Sự. Những đống thóc gặt hôm qua đã kéo xong. Sự đã tạm chia ngay cho mỗi nhà mười cân. Đương có nắng, phơi nhanh. Gặt ăn ngay, bây giờ đâm ra giáp hạt từng ngày. Trong làng mà biết, chắc lắm người cười thầm.
Vợ Sự người nhỏ con, đôi mắt lẳng đưa đẩy, vẻ như không phải người làng. Hỏi ra cũng nhà bên kia sông, làng bên.
Chị Sự kể chuyện lúc kháng chiến.
- Nhà tôi chạy giao thông rồi sang bộ đội chủ lực huyện, đi cả tháng, cả năm. Đêm tối trời, một trung đội đến trạm chờ trong làng đợi anh ấy dẫn sang sông.
Lúc ra sân nghe ngóng, thấy ở các gốc chuối lung lay nhấp nhô như người nấp. Bị động rồi, làm thế nào báo được vào trong trạm dừng lại. Ra bây giờ thì chúng nó gô cổ ngay. Tôi mới nói để tôi đi cho. Có lần tôi đã giả làm bà mụ đi đỡ đẻ đi gặp du kích ở xóm trong.
Lần này tôi làm ngươi đi cho sữa. Tôi cầm đòn gánh, khua cả vào bụi chuối, làu bàu râm ran: “Con đói sữa mà nửa đêm gà gáy mới gọi thế này, cha tiên nhân nhà mày". Trong bụi chuối không thấy nhúc nhích, tôi vào báo được cho trạm, lúc về lại cứ quơ đòn gánh, ca cẩm chửi. Thế là không ai ra đợi sang sông. Nhưng anh ấy vẫn nằm trong nhà, bây giờ đến đợt sợ nhỡ cái chúng nó sục vào...
"Đến khuya, có tiếng gọi khe khẽ- Bà chủ ơi bà chủ- Đứa nào thế? - Bà làm ơn cho mượn con dao tôi chặt cây chuối bơi qua sông, pạctidăng nó sắp tuần xuống đây rồi- Cha đẻ mẹ mày, đêm hôm nhà đàn bà con gái, bà thì.. “ Tôi là bộ đội - Bộ đội, đội thúng đội mẹt cái con đẻ mẹ chúng mày. Nhà tề đây có cút không thì bà gọi bảo hoàng nó xuống gông lại. Im lặng. Thế là yên đêm ấy".
Cũng chuyện ngày trước, câu chuyện ma quái này Phùng Quán nghe được có người kể, không phải chị Sự rỉ tai.
Đêm kia, Sự bơi qua sông về, trời sáng trăng. Sự trèo tường đất vào vạch cửa liếp đăng sau. Toan gõ vách làm hiệu như mọi khi. Nhưng trông vào chấn song, thấy rõ hai người nằm dưới đất. Một cái bóng thì đích là vợ Sự. Người kia là một thằng đàn ông, đen sâm như mặc áo rằn ri trên bốt. Sự nhấc chót cửa vào, lặng lẽ hai tay bóp cổ thằng đàn ông, lôi ra bờ sông, cho một nhát vỡ đôi đầu, ném xuống nước.
Vợ Sự vẫn nằm ngủ, không biết. Sự dựng con dao bầu vào vách, nằm xuống, vần vợ. Cho đến bây giờ, người ta còn thì thào đoán với nhau. Không biết cái thằng bị beng cổ chết mất xác là thằng nào. Chắc lính trên bốt. Hồi ấy làng không thấy thiếu người. Ai cũng đoán con mụ vờ ngủ. Chuyện đã lâu và cứt trâu đã hóa bùn, con quạ mổ vẫn đĩ tính, chua ngoa, chẳng ai dám dây. Nó chửi cả xóm, cả họ. Vợ Sự bảo chồng: “Nhà là đảng viên, là bí thư, là chủ nhiệm thì phải vào hợp tác cho có thành phần. Tôi ở ngoài, bao giờ làng này lên hợp tác xã hết thì mẹ con tôi cũng lên".
Việc lao động của các nhóm chúng tôi thì cứ nghĩ ra mà làm, hay đôi khi làm đỡ bà con tổ sản xuất
Không thì đi chơi, nằm đọc sách, đào giun cho vịt ăn. Cũng chẳng khi nào trò chuyện sáng tác tối tác ra sao.
Tổ trưởng đã bảo đợt đi này không có kế hoạch sáng tác, nhưng chúng tôi như có ý tránh những cái đã qua.
Kể cũng tế nhị, cùng một tổ, nhưng mỗi người mỗi nhẽ. Có anh chỉ dính với tập san Giai phẩm có tên ở cái quảng cáo trên bìa bốn của nhà xuất bản Minh Đức. Có anh không viết một chữ sai trái, nhưng bỏ đôi ba câu nói ngang. Tôi đã viết kiểm điểm trên báo để nông nỗi tình hình văn học xảy ra thế thì tôi câm như hến là đành một bề rồi. Nhưng tổ trưởng Hoàng Trung Thông vừa qua với bút danh Hồng Vân đã tả xung hữu đột những bài đao búa cùng những bài của nhà sử học Nguyễn Văn Phùng đã phang từ lý lịch Phan Khôi xuống. Trần Lê Văn thường kể những năm về sau, Hoàng Trung Thông đã rượu và yếu nhiều, mỗi khi gặp, hay hỏi: “Ngày ở Thái Bình, mình thế nào, có vấn đề gì không". Kể ra chẳng có vấn đề gì, nhưng mà lại có vấn đề, có mà không cái hồi ấy nó thế đấy.
Ngoài đồng có ruộng đã cày vỡ, đương cữ nắng, nhiều xứ đồng cao ở gần chân tre đã xếp ải. Vùng này làm ruộng có thói quen xếp ải - luống đất đã được cày lật, bê lên đặt từng dãy, phơi nắng ít lâu rồi tháo nước vào bừa. Làm thế, đất khô thoáng như bón phân. Chúng tôi ngày ngày ra đồng xếp từng tảng đất lên quanh bờ.
Có một việc tôi chỉ nghe kể lại. Khi tôi về Thái Ninh thì đã xong, đã vứt bỏ xó rồi. ấy là tổ trưởng Thông có sáng kiến thử cấy dày, hưởng ứng nước bạn đại nhảy vọt. Mỗi chân mạ không cắm hai ba dảnh, mà nhét bảy dảnh, mười dảnh một cụm. Có báo đã đăng tấm ảnh bên Trung Quốc, trẻ con trèo lên chạy chơi trên mặt thóc ruộng lúa cấy dày đã chín.

Chương IV

Năm sau, tôi học trường Nguyễn ái Quốc, cùng tổ với kỹ sư canh nông Ngô Tấn Nhơn. Anh Nhơn là người đã cùng đoàn cán bộ đi tham quan Quảng Tây. Bạn đưa đến một cánh đồng thí điểm cấy dày. Nhưng ruộng đã gặt, được nghe báo cáo xem ảnh và trông gốc rạ chi chít liền như trải chiếu. Bạn trình bày có kỹ thuật mới sang năm bình quân mẫu sẽ trăm tấn, bây giờ cho ruộng luân canh bỏ hóa để đất được ngủ, được thở vụ sau càng tốt hơn nữa.
Anh Nhơn cười hiền lành: “Các đồng chí ấy và chúng tôi đều ước vọng như người nông dân xưa nay ước vọng. Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét con số chỉ tiêu còn thấp còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất, không thể xoàng thế. Tôi nâng 4 triệu lên 6 triệu tấn gẩn gấp ba. Ra hội nghị, nống lên nữa, thành 7 triệu ở các cuộc họp xóm, xã, tổ sản xuất, tôi đã dự lắm cuộc thi đua đặt mức. Cũng như các cuộc họp anh Nhơn kể lại, làm ăn còn trông vào ngày mưa ngày nắng mà đâu cũng thế, cứ sôi nổi nhận văng mạng thật cao, càng cao, ở xã, rồi lên huyện, lên tỉnh lại đun lên. Thả sức ganh nhau, rồi chẳng làm được cũng thôi. Bỏ vì được hạt thóc còn “trông trời, trông đất, trông mây” cứ ước thế vầy, mất gì.”
Tổ ông Thông mượn được miếng ruộng vài thước vuóng rồi xin mạ về cắm liền tù tì. Ngày ngày tát nước, bỏ phân, ú phân xanh, cả phân tươi. Cây lúa chen chân lên, cũng xanh mỡ mượt mà, nhưng lúa xít gốc, nóng hầm hập, hút nước tợn quá. Phải kế hoạch quạt cho lúa mát, vào làng mượn chiếc quạt thóc cánh phẳng nặng như cái cùm- ở trên báo đã nói lúa cấy dày lên, nóng phải quạt, kinh nghiệm canh tác đấy. Quạt vài hôm, lay thử, cả khóm lúa bềnh ngã ngửa, lá vàng ỏng, thối rễ.
Ông Ngải kết luận hộ. “Các anh chơi trò trẻ ranh".
Rồi những năm sau, Phùng Quán còn đi lao động dài hạn, ngắn hạn ở những nông trường Đông Hiếu, Tây Hiếu và đâu đâu nữa không biết, nhưng mà đợt này một nhóm có hai chúng tôi, kể ra tổ trưởng Thông cũng khéo xếp. Một mình tôi thì nên cơm cháo sao được, lại chỉ mồm miệng đỡ chân tay. Nhớ hôm ấy có mấy chén rượu suông. Hồi này Thông cũng chưa uống mấy, nhưng máu nát rượu thì sẵn, không vì uống nhiều hay ít, chỉ cầm chén ngùi hơi men đã ngà ngà rồi.
Thông đứng dậy, chân la đà. Phùng Quán giơ tay: Anh để em đỡ. Thông quắc mắt: “Tao vừa công bố mày với ông Hoài một nhóm, tao có say đâu".
- “Anh cứ vịn vai em cho chắc". Thông quát: “Ông mà phải để cho Nhân Văn giắt à?” Tôi nhớ một hôm ở cơ quan 84 Nguyễn Du, có liên hoan cuối năm, bấy giờ chỉ có rượu mùi, chẳng biết Thông uống thế nào, đến lúc ra cửa, Quán dìu một bên. Thông vùng tay ra, cũng nói một câu ấy: Tao mà... tao mà... Chẳng biết Thông nhớ không. Chắc là không, nên mới nói lại đúng thế. Quán ngồi lặng im, vẻ mặt buồn, nhìn Thông đi ra. Chúng tôi bàn việc làm hố phân. Cái sự người say không cho là mình say, mà cũng không hẳn là say, bởi vì sáng kiến do tổ trưởng Thông nảy ra bảo tôi và Quán làm một hố phân, không phải chúng tôi đã nghĩ ra.
Hai người một hố phân xanh. Các nhóm khác hình như cũng làm thế. Hố phân chúng tôi đào ngoài góc vườn chè. Ông Ngải hỏi: “Các anh làm gì đấy?”
- Hố phân xanh ạ!
Ông Ngải không nói gì. Quán đi mượn thêm một chiếc mai về cho tôi.
Quán nói:
- Anh thì trình độ hon em, anh là nhóm trưởng.
Nhưng việc này thì em xin chỉ huy anh. Lệnh của em là: em đào, anh hất đất lên.
Đúng quá, vừa sức chân tay tôi, không thể còn ý kiến vào đâu được. Quán phạt cỏ, làm dấu xới một vòng tròn to bằng cái miệng giếng, rồi bắt đầu thúc lưỡi mai, nhanh nhẹn điệu nghẹ. Hai tay nhấc cán, bàn chân dận lên thành lưỡi, bầy đất lên. Nhưng đất vụn ra, tôi không lùa mai hất được. Tôi lấy tay bốc, nhưng một lúc vẫn chưa được bốc, chỉ đất cằn lăn ra nham nhở từng đám. Quán bảo: “Không cần bốc vội, đợi dào quành thế này cho thành miệng hố đã".
Thì tôi cũng biết thế và ngồi tỳ khuỷu tay lên đầu gối, đợi.
Ông Ngải đi đâu về, ra vườn, đứng nhìn Quán cởi trần hì hục đào. Ông Ngải chép miệng:
- Đào thế thì đến hai phiên chợ Diêm cũng chưa được cái hố đâu.
Quán hỏi lại, giọng rụt rè, không rành rõ tự tin như lúc nay giảng cho tôi:
- Ông bảo phải đào thế nào?
Hố ủ phân chỉ như miệng cái thúng, đào đâu to như cái giếng thế. Khoét hũm trước, bằng cái đấu thôi. Xắn ra từng phía mới được.
Rồi ông Ngải cầm mai, đẩy chân một cái, chỉ ba bốn nhát, đất đã lên từng vốc. Quán đứng nhìn ông Ngải, gật gù: “Được rồi, cháu sáng mắt ra rồi, cụ ạ.
Không phải chỉ anh mới có năm xe chữ, em chẳng mẹt chữ nào mà cũng suông cả. Trí thức tiểu tư sản không bằng cục cứt thật. Cụ ra ví dụ thế đủ rồi, để cháu làm tiếp.
Nhưng ông Ngải đương thuận tạy cứ đào, hai chúng tôi bốc liền liền lên. Quán cứ tắc lưỡi: trí thức, trí thức...
ông Ngải thúc mai phăm phăm, vừa chuyện vừa hỏi: ông phó cạo ngoâi đê bảo ông Ngọc mới được sang nước Tiệp Khắc về.
Đã mấy năm trước, hội sân khấu cử Chu Ngọc đi tham quan nước Tiệp. Chắc Chu Ngọc đã khoe với ông phó cạo.
- Vâng ạ.
- Thảo nào, ông ấy đi cả ngày, không xếp ải, không đào hố phân như các anh. Cán bộ to mới được thế.
Quán nói:
- Không phải đâu. Ông ấy cũng bằng cháu thôi.
- Cán bộ cốp là bác Thông, bác Thông chúng cháu cũng lao động cả ngày đấy. Lao động là vinh quang, ông Ngọc ông ấy lười ạ.
- Thế hai bác đã được đi nước Tiệp Khắc chưa?
Quán cười to:
- ồi, ăn thua gì. Chỉ đi nửa buổi đã đến nước Tiệp Khắc, bằng từ đây xuống Diêm, à xa hơn một tý. Bác Thông ngồi tàu bay nửa tháng mới sang đến nước Liên Xô. Hôm nào cụ cứ hỏi chuyện bác ấy xem..
- Ô là vậy! ôi a ồ...
Chẳng mấy lúc đã rõ ra cái hố sâu, tròn vành vạnh ông Ngải vào lấy cái sảo cho chúng tôi khiêng đất đổ đắp vào cáe gốc cây chè. Ông Ngải nói: “Đất tường, đất vách ám khói bồ hóng ủ phân chóng ngấu. Sẵn cái mai, bếp nhà tôi có mảng tương ám khói đã đổ một vì, tôi đợi có rơm thì lấy bùn ao đắp tường mới, các anh đem đất ấy ra mà lót hố phân.”
Quán xua tay:
- Không, không, cụ ạ.
- Đất có hơi bếp, ngưòì ta gánh ra ruộng tốt như bỏ phân ấy mà.
- Thôi, thôi. Tổ trưởng đi kiểm tra lại bảo chúng cháu ăn gian đem lót đất dưới đáy cho chóng đầy hố thì chết cha.
- Đất vách bếp khác...
- Các ông cán bộ to không biết đất nào vách bếp vách chuồng trâu đâu. Cháu lạy cụ.
Tôi chen vào:
- Mà hố chóng đầy thì chóng hết việc, lại phải đào hố khác, vẽ chuyện.
Chán chuyện chúng tôi. Ông Ngải cười hiền lành, không nói nữa. Ông ra ngồi hút thuốc bên búi tre lép.
Ông quay mặt vào bảo: “Nghỉ tay ra uống nước". Rồi ông vào trong bếp bưng ra nồi nước chè buổi sáng còn ông ăn ngữ ba bát cơm. Ông chỉ nghiện thuốc lào và nước chè vò. Sáng sớm, ông làm hết hai ấm chè tươi đặc rồi ra làm đồng, đến trưa về mới ăn cơm. Mặc cả nhà ăn sớm, từ thuở trẻ, ông Ngải cơm nước thế, đã quen lệ.
Chặp tối, từ trên đê lộc cộc xuống một cái xe ba gác người đẩy người kéo, người bắt bánh chờ đồ đạc và máy “chớp phim”. Đội chiếu bóng huyện được lệnh cho ưu tiên về phục vụ hơp tác xã thí điểm. Hai cái xe phủ bạt ni lông xanh, dây chằng như buộc con trâu, phía dưới hở ra một hàng đít phuy xăng sơn hắc ín và những cạnh hòm gỗ vuông. Ngoài nóc bạt cài chiếc loa thiếc to bằng cái thùng và một bu gà, tiếng nhiếp nhiếp cả gà con, không biết là để thịt hay gà đàn nuôi.
Mỗi xe, một người xách lúc lắc cái đèn bão, cứ hô tiến lên, tiến, tiến lên mỗi chỗ đường lồi lõm ổ trâu.
Đội chiếu bóng của huyện, của tỉnh lưu động qua các làng, đem đến những máy móc và phim ảnh các nơi mà nhiều người trong làng chưa bao giờ được xem và cái gì mới cũng thấy là lạ.
Hôm vừa rồi, hiệu chụp ảnh ở chợ Diêm bán được mấy chục chiếc anh một nữ diễn viên Liên Xô, ông thợ dã khêo tô mặt mộc thành mạt son phấn, váy áo sặc sỡ. Thanh niên bá vai hỏi nhau: “Mua ảnh em chăn ngựa chưa", ý nói ảnh cô giáo trong phim Tiếng hát người chăn ngựa mới chiếu mấy đêm ở bãi chợ.
Ba tối liền, các phim Tống Cảnh Thi, Tiếng hát người chăn ngựa, người các làng về xem ngồi kín mặt ruộng đồng cao. Ông Ngải đi xem, còn tôi nằm trong chõng cạnh bụi tre lép, dưới ánh trăng suông, ngoài chân đê.. nghe loa hát đồng ca Hò kéo pháo, tiếng máy phành phạch, tiếng người thuyết minh sang sảng, thánh thót.
Giữa mấy đêm vui, ngoài đồng nhiều thửa ruộng vẫn đương gặt và ban quản trị họp khuya bàn những chuyện gấp. Khi giáp hạt, cái đói và cái ăn kề nhau, nhà nào cũng nháo nhác, nhưng năm nay có hợp tác, có tổ, cái lo được đem ra đình, ra trụ sở.
Hai cái xe ba gác của đội chiếu bóng lạch cạch chuyển sang làng khác rồi. Xẩm tối, các xã viên đã đến đông đủ Chúng tôi đi họp, có tổ trưởng Thông và một cán bộ ban công tác nông thôn không biết huyện hay tỉnh cũng dự. Mỗi một cái đèn hoa kỳ trên đầu bàn đằng kia, cả gian nhà hũ nút tối lem nhem như trong chuồng trâu. Các bà, các chị bó gối ngồi lố nhố dưới đất. Một anh dáng chừng thông tin xã, nói to:
- Các bác văn nghệ ra cho một bài nào.
- Phải đấy! Ai đi hò lờ..
Bí thư Sự hét:
- Đây là các bác nhà văn, nhà báo, không phải văn công.
- Thì cũng là văn báo, văn công cả!
Một người ngồi đằng giáp tùờng bỗng lên một câu hò lơ lẩy Kiều.
- Nhà báo à? Báo cô báo cậu! Đội trời đạp đất ở đời, Ai đi hò lờ. Họ Từ tên Hải vốn người ăn không Hò lơ hó lơ hò lừ...
Quán ghé tai tôi:
- Tên ấy xỏ chủng mình. Tôi phải ra trổ một bài đập lại.
Tôi kéo Quán ngồi xuống. Bí thư Sự tinh ý quát:
- Không được hát mất lập trường. Câm cái mồm!
Nhiều ngườì vỗ tay, cười ầm. Không biết cười cái gì. Thật quái, rồi cái năm tôi học trường Nguyễn ái Quốc, đi với anh Thử cùng tổ về tìm hiểu một hợp tác xã nông nghiệp ở Trôi Gối vùng các huyện Đan Phượng và Hoài Đức. Chúng tôi qua cánh đồng, Thử có cái đài Orion đeo bên nách, hát eo éo. Một anh đương cuốc ruộng, ngẩng đầu lên, hát đúng cái câu lẩy Kiều có chữ “ăn không". ở đâu cũng có người làm, người chơi, những ví von xỏ xiên sao khéo bay xa thế.
Rồi vào cuộc họp ngay ngắn. Bí thư kiêm chủ nhiệm bắt đầu nói, giọng đều đều như đọc giấy: thóc đương gặt, chưa lên sổ sách, không được hoang mang. Thóc chưa về nhà nhưng thóc đã được quảy về sân kéo đá, thóc chạy đâu, thóc mất đâu mà nháo lên.
Một bà vừa bước vào, nói ngay: “Mua xi măng chưa, trám xi măng vào mồm người ta ấy à? Thấy mùa màng thóc lúa không ra sao thì phải sốt ruột chứ".
Chủ nhiệm lại nói, xung quanh lại to nhỏ lầm bầm.
Có lúc ồn lên như sắp cãi nhau, nhưng không, cứ vừa to tiếng lại vừa pha trò thế thôi.
Đảng viên Quốc trình bày cái thắc mắc của mình, nhưng nay đã ổn. Trong góc nhà có tiếng chép miệng, kháy:
- Anh chẳng ổn thì ai ổn. Anh ổn là phải.
Chủ nhiệm Sự nói:
- Năm nay, chắc rồi tôi cũng thiếu, nhưng...
Cái bà nói mua xi măng lúc nãy, đốp ngay:
- Anh thiếu, đố anh dám thắc mắc.
- Tôi không thắc mắc lung tung!
- Tưởng tôi thắc mắc lung tung a? Có ở đây đông đủ cả nhà, là trong nhà, tôi nói toạc ra thế chứ làm người phải có ăn có nghĩ chứ. Nhà tôi ngay bên đường cái, ai đi qua chẳng tạt vào nhờ điếu thuốc, chén nước vờ xem con gà con qué dò la. Người kẻ bãi hỏi tôi năm nay thế nào, tôi chỉ vào đống thóc thuế anh Sự gửi, tôi bảo thóc nhà được chia đợt đầu, chưa kịp cân lại.
Còn nữa, còn nữa. ối, đầu vụ mà hợp tác tống đến lắm thế. Đứa nào bảo tôi ăn nói phá hoại, hả? Thời này, không phải thời cải cách, vu oan giá họa cho người ta không được đâu.
Lắm cái biết rồi, hỏi không để làm gì, cũng cứ hỏi, như phải có thắc mắc, có hỏi mới là đi họp.
- Chia cho vài hạt thóc thế thì làm sao tôi nuôi con tôi. Không nuôi trẻ con nữa à?
- Nhà ai chẳng cõ trẻ con, chưa có hợp tác thì vẫn phải nuôi trẻ con chứ!
Bà ấy còn làu bàu nói một mình. Có người thì thào bà lão ban chiều dắt cháu vào ăn cỗ cơm mới nhà ông đảng viên Dũng vừa xuống thành phần không vào hợp tác, chắc lại mới nghe ông ta thổi cho mấy câu bất mãn bất mèo.
Mấy khi có cán bộ trên về và thế nào ông cán bộ cũng phát biểu và nói dài. Đã quá mười giờ, lại giơ tay hùng hổ sang mục đích ý nghĩa đông xuân năm nay quan trọng đến kinh tế, chính trị ra sao. Cả loạt người ngồi xa đã tựa vào tường, ngủ từ bao giờ. Có bà ngủ gật giật mình ngồi chồm hỗm lên, hỏi:
- Ông này lắm lời nói đến sáng chắc?
Cán bộ nói:
- Không nói đến sáng đâu. Điều thứ năm là...
Cán bộ làm vẻ bình tĩnh nhưng bị câu hỏi sống sượng trắng trợn, cũng mất đà thao thao, nhụt giọng dần, rồi đột nhiên ngồi xuống.
Cuộc họp cũng phải gác mấy việc, chỉ còn bàn làm mạ. Lại cãi cọ lao xao. Việc làm, việc thi đua bao giờ cũng nói hăng, dẫu đương còn thắc mắc bề bề. Và ồn nhất là lúc gắp thăm chia ba chiếc lưõi cày 51 chủ nhiệm mới sắm về.
Cái hố chúng tôi đã đào xong, sâu bằng chiếc vại, bây giờ đến công tác làm phân. Quán hỏi:
- Thế nào?
Anh chàng hỏi cốt để khơi ra rồi lại nói:
- Việc này lại đến Quán ra tay thôi. Hôm nọ xuống Diêm đấy, Quán đã cắt nghĩa cho mọi người biết ngọn nguồn hạt muối và nghề làm muối. Anh lại quên rồi.
Không phải chỉ tát nước biển lên phơi nắng thì ra muối. Tháo nước mặn vào, vừa phơi vừa pha, đến lúc bỏ hạt cơm vào mặt nước, hạt cơm chìm là được. Lấy nước cái chan lên mặt ruộng xi măng, hơi nước bay dần đi còn lại hạt muối, hạt vuông mặt nhỏ là muối tốt, thế, thế...
- Quán nói thạo thế, chúng ta sẽ ở lại Diêm Điền, xin đi thực tế đợt nữa làm công nhân nghề muối.
Quán cười hố hố.
Doạ chơi đấy thôi. Để anh thấy Quán lãnh đạo làm hố phân này là đích đáng. Ngày ở bộ đội, làm cả một trăm hố phân cho đại đội, chả là tăng gia đơn vị riêng mà.
- Tớ vẫn làm theo Quán phân công đấy thôi.
Được rồi. Thế thì bây giờ, tính...
Chúng tôi ngồi hai bên hố, ngắm nghía, còn khoái cái công trình mới, đã quên mất nếu ông Ngải không đào thử và chỉ vẽ cho thì còn loay hoay đến sang năm cũng chưa chắc được cái hố nhép.
- Bây giờ tính... Theo lệnh tôi. Nhóm ta thi đua với các nhóm. Sáng mai triển khai ngay hai công tác: đi gắp phân và bẻ lá ủ phân. Nhặt phân, gắp phân, gánh phân không phải việc của anh, mà anh cũng không làm nổi. Tôi phân công anh đi các bờ bụi bẻ lá ủ. Nhớ cái lá nào ngấu được, lá rền đất, dây mảnh bát, lá xoan. Đừng rước về lá tre, lá duối ủ một năm không ngấu không tơi thì chết dở.
- ừ mà tớ không biết gánh. Tớ như anh cu đảng viên Dũng trong làng đem hai cái vai thờ ở tỉnh về.
- Ai sinh ra mà đã biết gánh, lại gánh phân. Nhưng Quán đã sinh ra là bộ đội thì biết hết, làm hết.
Rồi Quán về, vừa đi vừa hát thật to. Như diễu cợt, như quá vui, không biết bài chòi hay hát dặm, chắc lại một câu Quán vừa nặn ruột ra- giọng Huế nghé ngọ lai lai.
Trời mưa, trời gió đùng đùng
Cha con ông Sùng đi gánh cứt trâu...
Sớm hôm sau, tôi ra ngoài tha ma cuối đồng. Đã để ý trên bụi móc diều ở đấy leo bùm tum chằng chịt những dây lá mảnh bát, mảnh cộng, dây tơ hồng. Ngày còn ở làng, tôi hay đi ngắt lá mảnh bát về nấu canh láo nháo, canh cua, tôi vẫn thuộc rau má, rền cơm, rau sam, mùng tơi- những lá nào người ăn được thì chắc chóng ngấu, không như lá tre, lá duối dai hơn giấy dầu bọc xi măng. Quán ở trong xóm đằng kia đi ra, gánh đôi quang lồng một, hai thanh tre gắp phân đặt trên mặt sọt.
- Không được hả?
- Không được là thế nào! Kết quả buổi khai trương vượt mức. Đổ vào hố rồi. Ra giúp ông anh đây. Bỏ đống lá vào sọt này, tôi quảy về cho.
Mỗi buổi sáng, công việc nhóm tôi như vậy. Có hôm Quán xong việc ra sớm, tôi còn đương leo trên bụi duối, cắt dây mảnh bát. Quán quăng cái quang gánh, ngồi phệt xuống đám cỏ trên nấm mả nhà người ta. Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những con trâu, con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra, ngồi bĩnh đấy. Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu, phân người. Tìm ra những con đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.
- Lá khoai lang ủ phân tốt, xuống lấy thêm vài nắm.
Quán xua tay:
- Đừng mó dái ngựa! Rau lang người ta cho lợn.
Anh chưa bị vố nào à? Cục cứt ở trong ruộng người ta cũng không được đụng vào. Sáng nay thôi, tôi hót bãi phân dưới ruộng, một tên đến sừng sộ ngay. Con trâu hay thằng người ỉa ruộng tôi làm là phân của nhà tôi, anh lên đường cái mà hót. Luật đất đai đã nói đất của nhà nước, thằng cha lạc hậu thế mà mình phải chịu.
Chúng tôi làm hố phân cùng lúc với mọi bộn bề của những buổi gặt chính vụ. Rồi ra cái xóm Đồng này hay hay dở không chỉ vì niêu cơm mỗi nhà trông vào, mà cả xã, cả hàng huyện đương nghe ngóng, tọc mạch về cái hợp tác xã thí điểm. Đã lên kế hoạch gặt trước trên ba mươi mẫu. Trời nắng thuận, lúa chín già mặt hạt thóc, đã được mấy mẫu sớm. Đợt này thu tiếp một lèo trên mười mẫu, còn bọn ruộng hom muộn để đến cuối tháng gặt nốt, chỉ ra đồng vài ba ngày là cùng. Công điểm gặt không sổ sách như công cày bừa đầu vụ mà cân thóc trả tạm ngay cuối ngày.
Cả nhà cơm nước xong từ lúc còn tối đất. Ông Ngải thì ngồi uống nước, hai ấm đã kiệt. Đòn càn, đòn xóc, dây dợ, thừng chão đã cắm sẵn từ hôm qua ngoài ruộng.
Giá như các năm trước chưa có tổ thì đã đi từ lúc sao mai còn lóng lánh đầu ngọn tre. Bây giờ các nhà gọi nhau i ới, đến sáng bạch ngoài mặt ruộng mới dần dần rộn tiếng cười nói rồi tiếng tay lúa chuyển rào rào.
Tôi cũng ra ruộng với ông Ngải. Ông Ngải dạy tôi gặt như bảo trẻ con chơi. Ông Ngải bảo cách vun cây lúa, cắt quơ liềm, tôi nhận ra lý luận cái liềm, cái hái là những tay máy đầu tiên thay tay người. Hình như ăng Ghen nói tương tự thế. Tôi cười thầm tôi chưa đổ mồ hôi đã ra lý luận. Rồi tôi lại bực tôi tủn mủn hay chế diễu cả những việc giản dị. Đến những động tác phức tạp nữa thì tôi cũng im cắt nghĩa, tôi lại cười tôi Tôi gặt với ông Ngải, anh Sự và một lũ các cô Lẻn, cô Dăm, cô Vĩnh. Tay con gái thoăn thoắt, không quờ quạng như tôi. Nhưng tôi cũng không thấy ngượng.
Tôi vơ bốn khóm lúa, hai đầu gối khuỳnh đỡ như kiệu quì. Tôi phải nhớ: tay cắt cất cao, chân cụp lại, duỗi ra, từng hiệp, từng hiệp. Có cô ngoảnh sang tôi, cười như nắc nẻ: “Anh Tư đừng lo, ông Ngải mà dạy cắt lúa thì chỉ nửa buổi anh đã hơn đứt chúng em". Các cô đùa như nói trêu trẻ con, chứ đòi nào tôi ví được với các cô gặt khoan thai như văn công múa. Tôi nhớ năm trước vào giải phóng Tây Bắc, ngẩn ngơ nhìn các cô gái Thái gặt ở Phù Yên, lưỡi dao cắt từng bông lúa nếp thu vào ống tay áo chàm, như nhìn cô tiên trên trời sa xuống.
Hôm sau, gặt lúa dâu. Quán lại dạy tôi bài học khó hơn. “Biết gặt, biết bó, biết gánh, gánh không đổ, làm được ba cái biết ấy mới là thợ gặt". Tôi hỏi:
- Quán thạo mấy biết?
- Gặt và gánh. Còn bó thì chân đạp và đầu gối tỳ còn đuối, bó chưa chặt.
- Tớ thì ông Ngải mới cho học quơ liềm.
- Anh đích thực “họ Từ tên Hải vốn người ăn không” đã lâu rồi, chính phủ miễn cho anh chức nông dân.
Chuyện vui, chuyện cười lao xao trong ruộng, chẳng mấy lúc đã cao ngộn những xếp lủa đầu bờ. Quán bỏ gặt lăng xang lên chen vào đám gánh. Quán nhanh nhẹn quơ mấy cây lúa thành một khóm, ba bốn khóm ra một gồ, ba gồ một lượm, ba lượm một bó. Một đòn xóc hai bên sáu bó, khỏe thì tám. Một mạch thẳng về đến sân- gánh thóc không được đỗ, đỗ thì thóc rụng.
Quán gánh con cón, như trai làng, hệt thợ gặt. Chẳng quẩn chân ai chút nào. Ông Ngải nói: “Anh Quán ở đây được. Đã vợ con chưa?
Cô Hến kể: Bố tôi yếu rồi, chứ ngày trước ấy a! Nhà ăn thế anh đã bảo sớm, chứ khi chưa vào hợp tác, mẹ tôi thổi cơm từ canh hai. Hôm nào đi gặt mướn thì đến ruộng mới tỏ mặt người. Bố tôi ra đơm đó, nhấc lờ về, uống xong vò chè rồi đứng dậy ra ruộng còn tối đất.
Buổi gặt về, chiều đứng im. Dòng sông và bóng bụi tre, bụi chuối lẫn vào nhau. Sao hôm vừa lặn, sao vược lên cùng chùm sao tua rua như một quang đèn treo trên đầu khoanh tre. Khéo nhỉ, sao tua rua mọc như thắp đèn đến sang canh đêm kéo lúa.
Ngày trước, nhà giàu thuê thợ hay treo giải gặt đầu mẫu. Chủ ruộng đếm từng quảy về trước. Ai chẳng may cắt với ông Ngải thì biết trước là mất giải. Ông Ngải đã ăn giải cả chục gánh một buổi. Làm ruộng giỏi như ông Ngải, ngày ấy, khi ở xóm Đồng về, tôi đã viết một bài học văn cho học sinh lớp phổ thông miêu tả “Ông Sóng vò lúa”. Bàn chân to ngoàm nghiến từng lượm. Người làm ruộng không cày, không trâu, không kéo đá, cả đời chỉ cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với những nét ác liệt". Đến bây giờ tôi vẫn nhớ mùa gặt ấy- mà cô Hến nói bố tôi già yếu rồi, nhưng tôi trông ông vẫn như pho tượng đá không có tuổi, tay liềm thoăn thoắt, một chốc đã ôm cả hàng lúạ ra xếp xòe đuôi cá. Rồi ông lên bó, chân đạp đầu gối ấn, chiếc đòn xóc đâm ngọt xuống, nhắc lên, hai bó lúa ôm tròn hai đầu đòn như hai thớt cối đá.
Buổi gặt chiều, nắng nhạt nhuộm phớt vàng lên ngọn tre rồi mờ dần như khói. Phía bờ sông đã ngấn lên một vảy mồng trăng đầu tháng. Ngoài đồng vãn người thì trong sân, mùi lúa chín, mùi hôi gà vịt ra rúc xốc thóc rụng, trong vách lom đom lửa bếp. Cơm xong lại hối hả đổ đi vò lúa, kéo lúa.
Tập gặt, quẩn chân người ta, nhưng tôi đã xếp được, hai tay hai bên đặt bó lúa đều, kiểu vẫy đuôi cá vược cũng như ai. Nhưng chịu không bó được và thử nhấc cái đòn xóc, hai vai như sắp sụn xương. Thế đã là được, cũng không nghĩ thêm được câu lý luận nào nữa.
Vừa buông tay liềm, nhìn xa đằng cánh đồng sâu đã thấy như chênh lên, mép ruộng nước loang loáng nổi hình người vai đeo thừng, tay chống gậy gò lưng kéo bừa. Các xứ đồng cao lại làm màu trồng khoai tây, Có mảnh đã xanh nhu nhú. Tiếng chuông chùa bên sông bỗng ngân lên giữa lặng im. Hai chiếc thuyền bỏ mui trong bến, lửa bếp ánh đỏ mặt nước.
Những mẹt cau bà Ngải mới bổ phơi ngoài sân đã được cất vào nóc chạn. Miếng cau xếp dựng hạt cho nhựa chảy, mai nắng lại bưng ra. Trong bóng chiều mỗi lúc một sẫm lại, tiếng gọi đò, tìếng trẻ cười, tiếng trống báo họp tốí, tiếng xe lúa về, bánh xe lạo xạo trên đường ẩm hơn sương. Đến khi đã tối thui thì như có cái vung úp xuống một trời sao long lanh ưỡn rợn lên.
Dẫu thế nào thì những ngày gặt hái được trông thấy hạt thóc, đâu cũng rộn rã nhất vụ. Người lo các thứ cho mọi công việc. Hũ mỡ nấu nướng cơm nước ngoài đồng, chai dầu thắp kéo lúa khuya, cân chè hạt, nụ vối, xó thuốc lào... Và có hạt thóc, con chim gáy trong búi tre trong giọng hơn, con gà con chó mỡ màng, con người quần quật làm bất kể đêm ngày, nhưng ra được hạt gạo mới, mặt mũi dúờng như có phổng phao hơn. Cô Vinh nói đùa, mà thật: “Em như con gà, quanh năm gày so vai, đến ngày mùa lại béo ú".
Chúng tôi bộn rộn ra đồng, nhưng vẫn chăm hố phân. Có cái hố phân xanh mà không nên hồn thì còn ra sao- Phùng Quán bảo thế. Cái việc khó nhọc nhất vẫn là quang gánh Quán đi gắp phân sớm, lỡ muộn là bị nhặt tranh hết. Thế mà hôm nào Quán cũng về trước, lại đem quang sọt ra bờ rào giúp tôi khiêng đống dây dợ, lá lẩu về đắp xuống hố. Chúng tôi vừa trễ nải lại như siêng năng, cứ lầm lũi, tuần tự và thờ ơ tha thẩn như thế. Quán phải quang gánh đi tư tờ mờ nhưng chưa chắc đã dậy sớm hơn tôi. Chẳng phải tôi mất ngủ bận bịu đọc hay viết khuya mà bởi ông Ngải đã ra búi tre lép từ lúc sương đêm còn lùa vào nhà, gà vừa gáy tan canh. Lịch kịch, lỉnh kỉnh ông Ngải dựng cánh liếp lên, đem cái nồi, rổ chè trong bếp ra ngoài bờ ao. Cả đời cạnh búi tre, đã ngồi đấy rồi.
Tôi tan mất giấc, ra với ông Ngải. Ông chẳng quan tâm, chẳng khách sáo. Ông nói cái đêm chỉ làm lười con người, dạy sớm thế mới phải. Đã thuộc việc, tôi lấy rổ hái chè ngoài vườn từ chiều hôm trước vàó gác trên bờ tre. Hôm đầu, ông cầm rổ rồi nói: “Chưa biết hái. Phải vứt lá già, ngắt lá đương lứa thì chè mới dậm, mới sánh nước. Ông nhặt bỏ đi đến nửa rổ những lá còi, lá sần sùi mà tôi tiện tay đã tuốt trụi cả cảnh.
Chẳng làm nổi cái thớ đút bếp. Trong đời, có mấy lúc ủ hố phân xanh để chơi mà cũng lo, cũng không làm nổi. Thế thì tôi còn biết làm gì, tôi là ai, tôi là thằng thế nào. Việc ấy cũng áy náy một thoáng nghĩ.
Bút mực, bút bi làm trò trống gì. Lởn vởn những câu Nguyễn Bỉnh Khiêm tự mỉa, mà là thật như ông ấy ngồi trong bụng mình, - năm thế kỷ trước, thánh thật.
Không có tài mà được ngộ nhận, ban khen
Nhởn nhơ mà cứ dối là mình vất vả
Vốn học chưa đủ thỏa lòng mong mỏi
Chỉ chuốc lấy hư danh cho người đời chê cười
“Người đời” trước mắt tôi chỉ là ông Ngải thôi mà đã cảm thấy ngượng ngùng, ngượng mà trơ ra không tự biết, nghe như thơ chửi người khác. Bàn tay ông Ngải ngoàm ra, vò nắm chè như mớ rơm rửa bát. Bỏ chè vào rổ, ông Ngải dội nước sôi “luộc” rồi cho vào ấm. Nhấp ngụm nước chè xanh rợn, đắng tê đầu lưỡi. ấy thế mà rồi cái đắng ấy dân dà hôa ra ngọt đậm quen từ hôm nào, không biết. Mỗi sớm đi làm, chỉ bát nước chè đã no - ông Ngải bảo vậy. Tôi cũng bắt đầu cảm thấy thế.
Vầng trăng cuối tháng còn vệt sáng xiên ngang giữa nhà, bà Ngải đã gọi cô Hến dậy thổi cơm. Cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, ông Ngải dửng dưng. Ba mẹ con quanh cái chõng, lâu nay có thêm tôi, nhà vẫn sớm mai cơm nước giờ giấc thói quen thế. Thường thì cơm khan, chỉ chan nước mưa, nước vối, ít bữa nấu canh. Có đêm ông Ngải đi họp hợp tác về, hỏi tôi mấy giờ tôi bảo ba giờ sáng. Ông Ngải không đi nằm, nhóm lửa đun nước ngồi uống đến gả gáy tan canh rồi đứng lên ra bờ sông đặt đó. Hai bàn chân bàn cuốc, bước huỳnh huych. Đời ông chỉ cuốc, xắn mai, làm vai con trâu kéo. Từ cái năm xây cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần.
Gặt đã vãn rồi ông Ngải dò dẫm lại từng góc ruộng, rồi đi nhấc lờ cá. Mẹ con cô Hến thì bắt con chạch, con cua đến nhạt nắng mới về. Con tép bỏ vào chĩnh nước cáy. Mớ chạch vùi nồi kho được thức ăn mai rồi.
Cu ốc thì đi tập dân quân, nằm vạ vật ngoài đình, sớm hôm ra ngay ruộng.
Bên kia sông, trên mặt đê kéo dài nền trời xám chẳng. ra chiều ra sớm. Những quảy lúa nhấp nhô, chiếc xe bò lạch cạch, tiếng vọng xuống nước nghe vời vợi. Còn khô thoáng thế này mà chỉ tháng sau đã đến cữ mưa dầm, gió bấc cho đến khi cánh đồng kiệt đã lên sâm sấp nước thì có lứa rươi đầu ngoi lên ngọ ngoạy chân cỏ.
Hôm ấy phiên chợ Thượng. Nhà có buồng chuối dấm, bà Ngái đem bán. Chịu khó đi chợ xa quả chuối được tiền hơn quanh quẩn xó chợ Phố của rẻ như rác.
Đò ngang đằng sau chân tre mới gà gáy đã nghe tiếng mái chèo gạt nước sớm hơn thường ngày. Bà Ngải trõ vào giường gọi: “Trỗi! Trỗi! Một lát, bà cũng lại đi ngả lưng rồi cái Hến mới ầm ừ ngồi lên. Ông Ngải đã gật gù ngoải hiên với ấm nước. Hến vào bếp bắc nồi, thổi lửa. Cơm đã cạn, Hến ghế nồi, quấn mồi rơm rác quanh miệng kín nắp nồi rồi lại mò vào giường.
Bà Ngải cứ như cái máy lại ngồi lên, ra ngả chiếc mâm chõng, lại cất tiếng réo “Trỗi, Trỗi” gọi thằng ốc, cái Hến ra ăn cơm. Tôi đương uống nước với ông Ngải cũng vào mâm. Tối mò, chẳng đèn đóm, vẫn cơm chạch kho lại thêm món muối rang như mọi sớm.
Tiếng cút kít, cót két cái lăn đá kéo lúa đã ánh ỏi ngoài đầu xóm. Ông Ngải uống cạn ấm nước vẫn cằn nhằn đêm qua ra sân coi lúa, không biết bọn con đĩ dại nào kéo đá cờn như ngựa bật cương, đú đởn nhau đùa nhau để lỏi thóc, sứt cả cái tai lăn.
Sáng bạch thì cả nhà đã đi hết...
Quán ra bảo tôi: “Bận sau anh chớ có trèo lấy lá xoan ủ phân, cành xoan không có thớ, nó mà khấc một cái rơi thẳng xuống đất, chỉ có gãy xương. Để xem chỗ nào có bèo ong. Cái bèo ong lợn không chén, có khi còn". Quán nói để khoe nó biết cành xoan ròn chứ tôi có trèo xoan bao giờ. ừ thì mày đi mà tìm bèo ong. Ông đã chén cơm từ tám hoánh với cả nhà, bây giờ tức bụng chỉ muốn nằm khểnh, mặc dầu tôi vừa mắng thằng tôi là ai, tôi là ai thì tôi biết quá chứ.
Tôi ngắm lên cái nhà ông Ngải mới làm năm ngoái chưa xong hẳn. Một tay ông lo toan cặm cụi, chăm chút từ lúc trồng vườn xoan tơ cho đến năm những cây xoan đầu lứa được ngả xuống cưa, đẽo rồi ngâm vào bùn ao. Ông Ngải lại cẩn thận đi lùng cái thuốc bom, thuốc bom chống được mối mọt, ông hòa loãng ra quết vàng khè khắp kèo cột ba gian nhà. Cái sân còn đất nện, nhưng đã lên tường xây gạch con kiến bao quanh. Sau cổng trồng hai cây cau lùn. Vài năm nay nhà được đủ bữa, đã khác. Một đời người chỉ cầm cuốc, dần dà lên được cái nhà tươm thế này.
Hồi Pháp chiếm, ông Ngải không bị bắt đi dõng, đi bảo an, vì đã hom hem râu ria. Lão xếp bốt hương binh quát ra lệnh: “Râu dài quá rốn cùng mặc mẹ nó. Cứ thấy đứa nào vẫn hau háu mắt cú thì biết nó còn nhòm ăn, nhòm gái được thì cứ bắt cạo râu rồi giải cả về đây”. Nhưng không phải ông Ngải nuôi râu chống càn như nhiều người trong vòng tuổi ba mươi, mà hai con mắt ông Ngải từ trẻ đã lèm nhèm viền vải tây điều. Thế là thoát chân lính tráng. Nhưng ông Ngải cũng không đi Việt Minh. Cũng như bây giờ, ông vẫn nói một câu lừng khừng “chẳng ôm rơm nặng bụng".
Lúc cải cách, cả làng nháo nhào, ông đứng yên. Không ai đụng đến mấy miếng ruộng tay ông cuốc nên. Ông Ngải chẳng tỵ nạnh với đứa nào. Bây giờ có hợp tác ông vào ngay. Cái lý của ông cũng như người ta hiểu. “Cái ruộng nó trần trần ra đấy, làm thì ra thóc chứ ra gạch a? Có ruộng thì có thóc, hợp tác cũng là ta cả thôi". Ông nói thế, nhưng thật cũng không ai đoán nổi tại sao ông vào hợp tác nhanh vậy.
Ông Ngải được bầu làm chân kiểm soát trong ban quản trị. Ông Ngải hỏi kiểm soát có phải là “củ soát tế vật” như ngày xưa các cụ đi tế ngoài đình. Sự bảo: “Kiểm soát là đứa nào làm sai thì kiểm soát, uốn nắn người ta”, ông Ngải chỉ “ừm” một tiếng.
Tôi cũng lấy làm lạ cái tích cực bất thường của một người chỉ chăm chăm việc làm quanh cái mai, cái cuốc. Một hôm, ông nói tôi mới nghĩ ra. Thì lại thật dễ dàng cái sự nhận làm kiểm soát và vào hợp tác của ông. Ông tính: “Vợ chồng tôi già rồi. Con cái thì có nhớn mà chẳng có khôn. Thì phải dựa vào trên chứ dựa vào ai, trên bảo làm thế thì làm”. Ông vào hợp tác ngay cũng đơn giản cái nghĩ thế. Ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải lao động. Lao động được chấm công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra. Ông thích rõ ràng như thế. Ông Ngải ghét nhất đứa lười, quân lười thối thây. Năm trước, có người được chia ruộng, lại ôm đống quả thực cả giường chiếu, chum vại, quần áo hẳn hoi, thế mà rồi nhai hết, bán cả lúa non, lại cởi trần nằm ổ lá chuối khô. Ông chửi ầm lên, ông bảo cho nó chết. Ông Ngải chửi đứa người lười cũng khác người ta. “Không phải nó chịu hèn nằm ngửa ăn sẵn đâu, những đứa quân thâm hiểm lắm chứ chẳng vừa". Bọn chúng thâm hiểm thế nào thì ông không nói.
Có việc trên khuyến khích làm bèo hoa dâu bón ruộng. Bàn ở ban quản trị, ông Ngải nói: “Đừng nuôi bèo dâu mà công toi. Bên Quỳnh Côi làm được, còn ở ta đất bãi nên đồng, không hợp bèo dâu". Chủ nhiệm Sự nhăn nhó: “Tôi họp cả ngày nghe huyện dạy làm rồi bảo cho hợp tác xã thí điểm được lên huyện lĩnh một sọt bèo"- “Các ông ấy dạy làm chứ các ông ấy có làm đâu". Sự nói: “Thôi thì ta cứ đem về thả, có hỏng cũng chẳng chết ai”. Ông Ngải chẳng găng nữa, mà lại nói hôm nào có bèo để ông đi lĩnh. Sự thì đa nghi, nói khéo: "Bèo là phân bón, công tác phân bón của đồng chí Quốc, bố ạ".
Ông Ngải lặng im. ấy có lẽ ông lại tơ tưởng với những mảnh ruộng bãi tay ông cuốc. Cứ ai bàn làm ăn, cả lúc ngồi yên dễ thường ông cũng nghĩ về nó. Tôi đã nghe ông nói không biết cơ man nào lần, tôi cứ thành kiến về ông như thế. Nhưng mà một tay một đời làm nên tác phẩm công trình thế, tự hào như ông là phải chứ. Cả cái thung này ngày trước hoang mặn, chỏng trơ. Từng tảng cuốc lên rồi nhiều người trong làng ra kéo đỡ nhau dần dà vượt qua được cái đất chua đất ác. Cũng bởi mọi nhà sàn sàn, lại quen vất vả tối ngày, người ta cũng dễ một bụng, đổi công hay hợp tác thì cũng ra hạt thóc ăn chia cả.
Nhưng các nơi khác soi mới nhìn vào tò mò và lo lo. Cũng có người rì rầm: “Vừa được chia miếng ruộng, chưa ăn xong bát cơm đã lại cộng lại, rồi còn vần xoay thế nào". Nhưng những băn khoăn ấy không biết đến đâu, rồi im. Bởi vì chính phủ đã dựng cái hợp tác thì rồi ở đâu cũng phải bước vào. Dạo này, Quán lên tận gần chợ Phố lấy phân. Chẳng biết có trâu bò xóm nào ra đồng đằng ấy, nhưng Quán đã cáo lắm, đi tìm đồng vắng nơi đã bỏ phân chuồng, đến thuổng một ít. Một hôm, đã chẳng được gắp phân nào, lại bị tẽn, Quán kể:
Người trong xóm ra hỏi:
- Hợp tác trên ấy gặt hết chưa? Nghe nói họp thắc mắc suốt đêm không xong mà? à, à, đến lấy phân ruộng nhà người ta, không được đâu. Hợp tác trên ấy ăn hết phân rồi á?
Quán lại chuyện:
- Chưa hết, chưa hết, đểu lắm. Còn có những đứa ra ngắm tôi rồi chép miệng: hôm mới về các anh trắng trẻo béo tròn thu lu như ông cố đạo, bây giờ nhô vai gầy đen nhẻm. Chân tay học trò của người ta thế kia mà các ông các bà hợp tác bắt con người ta làm con mẹ mũi thung đi gắp phân. Dân ở bờ bãi quen xơi cả cứt có khác. Chúng nó nói nặng hơn chửi, tôi không dám đối đáp lại.
Quán tong tả với cái quanh gánh sọt không. Chúng tôi nhìn nhau cười, chẳng hẳn cười. Quán hay chửi bọn mỏ quạ ác khẩu. Rõ cái bụng ghét thì con mặt méo nhìn người ta. Làm gì đâu mà đen nhẻm. Bữa nào cũng đánh mấy bát cật lực, ít thức ăn càng tốn cơm gạo mới. Có về đây mấy đốt xương, khớp xương trong người tôi mới được đụng đến. ở cái xóm lam làm đầu tắt mặt tối này, chuyện trong mọi nhà vui buồn chan hoà với mình. Chúng tôi dường như ai cũng cảm thấy thế. Ngày rộng tháng dài tôi cũng không sốt ruột về thành phố.
Tôi thích thú mọi chuyện nhà ông bà Ngải. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày mướn thay trâu. Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đâu năm. Rồi lại việc sông nước, đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai. Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc, đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn tháu lăn lóc cả đồng.
Vừa sửa sang vườn ruộng, trồng rào hóp ra men sông thì xã ủy lập chòi hương dũng, rồi Tây về đóng bốt, đuổi không cho người ở gần. Thế là phải chạy trở vào làng. Nhưng chẳng bỏ vụ nào, vẫn lẻn ra đánh luống, chỉ phải cái không được ăn. Nhớ làm thì ra làm thôi. Dưa hồng chín vàng bờ.. sông. Hai bốt Trả, bốt Cầu Sắt chúng nó đem xe cam nhông ra khuân tiệt.
Năm bình yên rồi mới làm nhà, làm dần, tưởng như xong mà bây giờ vẫn chưa xong. Sang năm xẻ gỗ mít, đóng cửa bức bàn. Mọi thứ ông đều làm tất tật. Bà Ngải lại kể với tôi: “Buồn cười quá, khinh cả con trâu cũng chẳng bằng ông ấy, ăn thịt thì còn được chứ kéo lúa thì chỉ biết kéo. Hai bàn chân tôi đây vò lúa khéo bằng mấy trâu kéo đá. Cả lượm tôi vò chẳng rơi vãi một hạt".
Nhiều cụ già khác ngày trước như thế cả, như mẹ tôi khi sinh thời, người không ăn cháo, có mệt mỏi cũng chỉ ăn cháo nấu như cơm nát. Ông Ngải nói người mà ăn cháo thì liệt giường chầu trời đến nơi. Có lần ông Ngải đương lên cơn sốt rét mà nhà còn sào ruộng chưa bừa, đã hẹn cấy. Ông dậy, đùng đùng vác bừa đi. Ông đặt nghiêng răng bừa trên mặt nước, rồi quàng thừng kéo. Bừa xong cả thửa ruộng, ngồi xuống bờ, không đứng lên được nữa. Ông nghĩ: phen này chết mất.
Không đi được, ông khoác bừa lên vai, lội xuống lạch nước, ông quờ quạng bơi bò về tận bờ rào hóp sau nhà. Ông vào nằm đắp hai cái chiếu, đến nửa buổi, mồ hôi toát ra như tắm, thế là tan cơn sốt. Ông lại ra chỗ ruộng mới bừa xem thợ cấy đã đến chưa.
Người ta hay nói vui với ông Ngải: “Cái lão khọm này thì phải bao giờ cho đi Liên Xô xem máy cày, máy gặt đập, cái tàu hoả, tàu bay thì may ra lão mới biết sợ. Chứ con trâu con bò thì chỉ để mổ thịt, được cái bộ gì phải không?” Ông Ngải cười: "Đúng đấy, nhưng mà biết đến năm thằng ốc, cái Hến lấy vợ lấy chồng thì tôi còn sống mà được nhìn thấy cái máy cày chưa?"
Ông Ngải nói ví thử thế cho vui miệng chứ cái Hến chỉ khoảng tuổi mười lăm, mà đã sắp về nhà chồng. Chú rể Toàn ở trong làng, cũng học lớp hai lớp ba cho biết mặt chữ như Hến rồi ở nhà. Toàn chắc nhỉnh tuổi hơn Hến, dáng chững chạc. Mỗi lần ra nhà Hến, Toàn đội cái mũ nan lá cọ bóng dầu, áo sơ mi trắng, quần phăng ka ki xanh nhạt, trong túi quần có cái khăn mùi xoa.
Bố vợ sai xới luống rau, chữa cầu ao, đánh cây rơm. Toàn cởi trần, mạc độc cái quần cộc. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã năng đến nhà vợ. Nhưng tôi chẳng thấy hai đứa trò chuyện, đùa nghịch khi nào. Chiều cơm nước xong thì Toàn về.
Hôm ấy, Toàn với Hến ra vườn cắt hai buồng chuối tây mỗi buồng hơn mười nải. Một góc vườn có đến mấy chục cây chuối, chuối dấm chuối chín chẳng mấy phiên chợ Phố, chợ Diêm không có chuối ra chợ. Mà tôi không thấy nhà ăn quả chuối nào bao giờ. Mai đi chợ Diêm từ lúc sao chưa lặn, thế mà khi Toàn về trong làng, tối mẹ con Hến lại đi kéo lúa như mọi khi đến khuya ngủ một lúc gà đã gáy dồn. Bà Ngải lại gọi: “Hến! Hến.! Trỗi! Trỗi! ”. Tinh mơ ông Ngải đã ngồi đầu chõng với cái vò nước, cái điếu cày. Cô Hến trở mình, ngái ngủ. Phải vài ba lần bà Ngải quát gọi, cô Hến mới ậm ự ngồi lên. Lại ra nhóm bếp, bắc nồi, tra gạo bà Ngải đã vo sẵn, lúc quấn cơm xong lại vào gường lăn ra. Đến lượt bà Ngải bày mâm bát, bắc cơm, lại hò: “Trỗi! Trỗi! ” Cô Hến trở mình, chép miệng, ú ớ. Phải mấy câu giật lên nữa cô mó thật ngồi dậy được và ra chỗ mâm chõng. Rồi vẫn chỉ có ba mẹ con và tôi ăn thầm trong bóng tối.
Tôi nói:
- Tôi cũng đi chợ Diêm. Lúc nào Toàn ra đây?
- Bây giờ thôi.
Bà Ngải đã ăn xong, đứng dậy. Tôi ra mái hiên nhìn trời chỉ còn ông sao mai sáng rợn sau bụi tre. Toàn chưa ra, tôi lại vào uống nước. Ông Ngải kể chuyện ngày trước quãng trời này ông đã đi “đón công” ở chợ Phố. Chủ ruộng đến chọn người mướn đưa ra ruộng, cắt được một gánh, xóc đòn quảy về sân nhà người ta, trời mới sáng.
Ông Ngải vẫn gật gưỡng, lại hút điếu thuốc. Sớm mai mừ mờ, lạnh đầu ngón tay. Ông Ngải đã đặt đó lúc chặp tối qua, bây giờ đợi con rể ra, chúng nó đem chuối xuống chợ thì ông xuống rệ sông nhấc đó. Nhưng ngại đi trễ nhỡ tuột cứ cá ra, ông Ngải đứng lên. Đặt đó cũng không phải cứ quăng xuống cửa rãnh, phải bôi đất thó nhẵn mép nước, cá bống vào mới không trợn. Đến lúc Toàn ở trong làng ra, ông Ngải vừa xách đó về đã lại ngồi ngoài bụi tre lép chẻ lạt. Chỉ được một con răn mòng không cá nào dám bén mảng, ông Ngải đem đó về ngay. Quay đi quay lại, mới tinh mơ bảnh mắt ông Ngải đã được ối việc.
Toàn vác đến cái đòn ống. Hai buồng chuối buộc túm cuống lại, như trói con lợn, mỗi người một đầu đòn. Cái đòn lắc lư đi một quãng, tôi bảo để tôi đỡ một vai. Toàn bảo: “Nhẹ như bấc, có gì đâu". Từ nhà xuống Diêm, hơn mười cây, đi đã mất ngót buổi. Mọi thứ mua bán đều gồng gánh trên vai, chẳng biết thế nào nặng, thế nào xa.
Hai bên cánh đồng lác đác những đầu bờ cắm đòn xóc, treo cái mồi rơm, ấm nước. Nhiều nơi còn gặt muộn. Nhưng nhiều chỗ đã làm mùa, đương cày dầm.
Rồi có ruộng cày xếp ải quanh bờ, đất đã nỏ, sắp tháo được nước. Chỗ làm mùa, chỗ sang màu, đồng áng chẳng còn phân biệt mùa vụ, lúc nào cũng lật đất kiếm cái ăn.
Đã trông xa xa những bãi sú xanh xanh ngang mặt biển. Rễ sú to hơn thân cây, trồng từng hàng làm bờ rào ngăn sóng. Trên những vùng cỏ bằng phẳng mặt nước lợ, lốm đốm những con cò trắng mỏ ngà, chốc lại bay vồng lên. Đàn vịt nhà hàng trăm con lạch bạch, à à vỗ cánh đùa quẩn trên mặt nước.
Phố Diêm giữa đường cát, nổi lên lơ thơ tháp nhô mái lá như những chóp nón úp. Nhà cửa, hàng quán vách quét vôi vàng như phố nửa thời tản cư. Một kho gạo, một hiệu bách hóa nhà mậu thì tường gạch trần, lợp ngói.
Ngoài cửa sông, những đống lưới cao như gò. Mấy cánh buồm nâu. Không biết thuyền sắp ra khơi hay thuyền buôn vào chợ. Nhà ai phơi cá, phơi moi ngay mặt đường. Những đàn nhặng xanh bay từng đám chụm lại, tưởng như vốc tay được. Mùi cá, mủi mắm thum thủm khắp nơi.
Xóm thưa thớt lẫn với cánh ruộng muối trắng. Biển tít mù ngoài bãi sú bạt ngàn, những mái tôn, mái lá càng ẹp xuống dưới những tảng đá chặn lên ngăn gió thổi bay. Không một bóng chim. Một vùng tiêu sơ ngày ấy, bây giờ đọc báo được tin đương xây cảng hiện đại Diêm Điền cho tàu viễn dương hàng nghìn tấn ra vào được. Không cắt nghĩa được mà lại thấy ra được, như hồi đầu thế kỷ, ở nơi chơ vơ sóng gió, ăn còn không có lấy đâu ra chữ nghĩa và hiểu biết, thế mà ở đây đã sinh ra người thanh niên Nguyễn Đức Cảnh xuất dương đi hoạt động từ khi cách mạng còn trong trứng nước..

Chương V

Chợ lèo tèo ngay giữa phố, gió lùa đùng đùng. Bánh ngô, bánh đúc bị táp cát, ăn nhai cả sạn, thì vẫn ăn thế. Một chốc chợ tan, các cọc lêu được nhổ lên, đàn vịt lại uà vào rúc cái bãi trống. Chỉ còn lại một hiệu ảnh người xúm đông xúm đỏ xem bác phó nháy lúi húi tô màu. Khách chụp ảnh thích ngồi ghế, môi má tô màu đỏ, áo hồng sau lưng có phông chậu hoa và hồ Hoàn Kiếm.
Trong kháng chiến, bộ đội tỉnh đã tấn công san bằng bốt Diêm Điền, không biết bốt ở chỗ nào. Chắc hỏi thì cái Hến, thằng Toàn cũng chẳng biết. Tây về đóng lại, xây đồn sang Quang Lang. Một lần xuống khu Ba công tác hậu địch đồng bằng sông Hồng, Hoàng Trung Thông- tổ trưởng Thông của chúng tôi đã đi với đoàn cán bộ vào tận Quang Lang này. Thông kể: Quang Lang có tề hai mang, ngày ở hầm, tối lên gặp và họp với cán bộ cơ sở, ngay cạnh đồn. Trông ra biển, ngọn hải đăng Hòn Dáu và đèn điện bên Đồ Sơn nhấp nháy. Hoàng Trung Thông đã bí mật ở Quang Lang cả tháng. Khi trờ ra, đóng vai người thuyền buôn các nơi về chợ Diêm.
Đã toan kể cho Toàn và Hến nghe chuyện bác Thông hồi còn bốt Tây, đã công tác bí mật vào Quang Lang, Diêm Điền. Nhưng lại thôi. Bấy giờ chúng họ chắc mới chập chững biết đi, hay là chưa sinh. Cái lạ, chúng nó sắp cưới mà từ lúc đi đen xẩm tối về, toàn nói trống không, nhát gừng rồi lẳng lặng, như phải khó chịu đi với nhau. Hay là tôi không hiểu và tôi làm chúng nó ngại. Tôi về kể cho ông Ngải nghe tổ trưởng Thông đã vào công tác tận bốt Quang Lang. Ông Ngải nói: “Việt Minh cao cấp đi bợm nhỉ? "
Bỏ một buổi lấy lá ủ phân, hôm sau lại ra gò ngoài tha ma sớm. Quản đã về nhanh hơn mọi khi, Quán ra bờ ràọ đỡ tôi ngắt lá, cắt dây. Các bờ rào gần đã kiệt lá, phải đi kiếm những gò xa.
Tôi hỏi Quán:
- Gặp may thế nào mà về sớm thế?
Quán quẳng cái gánh không xuóng tử nãy.
- May rủi quái gì, ra muộn, hết sạch.
- Thức đêm mò mẫm ả nào, con Vĩnh hay con Răm?
- Cái con khỉ khô. Ngủ say quá, sáng nào cũng phải nhờ chủ nhà gọi. Không khí trong lành mà.
Rồi Quán kể lể:
- Anh không biết cái lệ trong làng chỉ có ông già, bà già mới đi gắp phân. Các cố ít ngủ, từ gà gáy đã chực đấy. Con trâu vừa cho ra, các cố chiếm ngay. Mấy bãi thì cắm que giữ sẵn. Thanh niên ở đây không đi hót cứt, dù là cứt trâu.
Tôi lên giọng:
- Chúng ta đi lao động thì việc nào cũng bằng nhau.
Tôi nghĩ sẵn: Thằng này lại sắp chơi mình một câu đại khái anh thử đi gắp cứt như tôi xem việc bằng nhau thế nào. Nhưng Quán giơ tay, cười cười:
- Mưu Gia Cát! Gia Cát Khổng Minh Phùng Quán đương tính ra một kế tuyệt diệu.
Những hôm sau, tôi cũng không hỏi Quán có tranh được phân trâu hay không. Cái hố gần đầy, được hay chẳng được cũng thế, chúng tôi đủng đỉnh buổi đực buổi cái. Quán gánh về hai sọt nhoe nhoét bủn.
Tôi hỏi thờ ơ:
- Bùn à?
Quán đặt gánh, giơ tay cắt nghĩa: .
- Anh đừng coi bùn là xoàng nhé. Bùn khác đất vách, bủn mà ngấu với lá làm phân xanh thì tốt bằng mười đất vách bồ hóng nhà ông Ngải.
- Sao cậu biết?
Quán trợn mắt:
- Anh viết văn phải giàu tưởng tượng lăm, mà anh chưa phân tích được bùn là cứt tháo tỏng của ông trời, cứt của trời ném xuống thì nhất định hảo hạng rồi. Nói đùa chứ tôi đã đi hỏi nhiều người bảo bùn khá.
Rồi Quán lại lấy phân của trời hay phân trâu, phân giun dế, không biết. Những cái dây leo mà mỗi hôm tôi ôm về, dây mồng tơi, dây tơ hồng, dây lạc tiên, dứt mãi cũng quang cả. Ngoài tha ma gò đống mồ mả trụi hết, phải ra bờ tre đầu đồng. Cái hố của chúng tôi đã cao lùm lùm, lổn nhổn nhoét bùn, đắp ôm lá lên, xanh rã rượi như cái mả mới. Tôi bàn phải đào cái bố khác.
Nhưng Quán gàn:
- Khoan, khoan đã. Hố này cũng chưa biết tiêu thụ thế nào. Hẵng đợi chỉ thị của tổ trưởng. Mà gặt hái xong, hợp tác còn khối việc mó. Ta giúp bà con làm gì hơn là làm mãi cái con khỉ này.
Quả là Quán thạo và thiết thực nhiều. Sáng kiến của tôi đem bỏ sọt ngay được. Những dự định tìm hiểu vùng này cho ra tấm ra miếng, tôi đem cả sổ tay đi mà đã làm được đâu.
Vào bên búi tre lép tôi đứng lại. Giống như ông Ngải. Và ông Ngải ngồi tựa lưng vào thân tre từ bao giờ. Hai ống chân lấm bùn đã cọ đen nhoáng. Ông này chân tay bắt nắng mà mặt lúc nào cũng bềnh bệch, nắng không bắt, tôi lại so sánh. Như da mặt ông Phan Khôi thật. ở trong bếp, cái Hến đưong vùi nồi cá kho, món ăn làm tốn cơm nhất với tôi. Không đâu kho cá ngon bằng đây. Kể cả món cá chuối kho khan, rắn đanh lại lúc ăn phải vắt chanh, như ở Đại Hoàng quê Nam Cao ngày trước, cũng không dễ ăn hơn. Hay là vì cả tháng độc có cơm với muối rang mỡ ngỡ thế. Người đi làm đồng về, trong cái rỏ đeo lưng, được con săn sắt, con lươn, con rắn nước, mùa mưa thì xuống ruộng tràn chộp con rô., con chạch, đem mổ moi ngoài câu ao rồi bỏ và o cái nồi đất với củ riềng để cả tảng ướp muối một lượt. Nồi chát bùn miết kín mép vung. Gạt mấy ông đầu rau ra, đặt nồi giữa bếp, quấn rơm rồi đắp ụ tro quanh. Ninh suốt đêm, đến bữa mới bưng ra, con cá, con rắn xương đã nục nhủ bột.. Thơm thế, bùi thế.
ông Ngải hỏi:
- Hôm qua xuống chợ Diêm mua được gì không?
- ăn cái bánh đúc ngô.
ông Ngải lại hỏi:
- Đám lá phân xanh đã trương lên mặt hố. Bao giờ ông Thông đến thu? .
- Chẳng thu đâu, ông ạ.
- Thế thì các anh ủ phân làm gì?
- Học tập lao động ấy mà.
Rõ buồn cười.
- Thật đấy ạ.
- Vậy để cho tôi. à hỏi xin ông Thông đã chứ.
Tôi nói:
- Bác Thông cũng chẳng biết đổ đi đâu. Ông cứ lấy.
ông Ngải rỡ đất tường bồ hóng ra san lấp lên đống lá mùng tơi đã óp xuống rồi xúc thêm bùn ao phủ lên, như miết bùn nồi cá kho. Ông bảo làm thế cho thật kín, phân ngấu đều, ra giêng hai ông đem một gốc chè chiết cắm vào, chỉ một năm nhất định ra lá. Thế là nhóm tôi xong được công tác cái hố ủ phân.
Kể ra thì khối việc của hợp tác, ngày nào chả có việc, như Quán nói- nghề nông quánh năm lắm việc, nghĩ ra mà làm chứ đâu có nông nhàn trong tưởng tượng, trong sách vở. Nhưng bây giờ toàn việc chẳng bận đến chúng tôi. Các tổ hợp tác vẫn gay go cung cách chia bôi. Gặt hết rồi, chỉ còn một ít dự. Nhưng những đống thóc đã kéo xong vẫn còn chất rải rác, ngày ngày có người đến phơi rồi vun lại, vạch vôi đánh dấu. Lão “củ soát” Ngải đảo lại mấy lần nhòm nhòm ngó ngó. Thóc phơi sân nhà mình mà không phải của mình, nghĩ tức lộn ruột. Đã đành được cân tạm về ăn, nhưng chưa tính rành rẽ, những thắc mắc cứ nặng nề thêm. Các bà nhiều lo hơn, cứ nhà nọ thậm thụt sang nhà kia. Chẳng biết có phải người chồng đã nhòm trộm sổ kế toán, về bảo vợ: “Vài ba điểm được mấy cân thóc chết tiệt, phen này bán sới, bị gậy đi kiếm phương khác thôi! ”. Chủ nhiệm Sự nói ang áng: “Số công điểm là thế, là thế, lo con bò trắng răng a! ”. Người ta vặn là thế là thế, là thế nào... Sự cũng lúng túng không biện bạch kiểu “đến mai lại đúng” được. Vợ chi uỷ Quốc chì chiết chồng thâu đêm. Mọi năm, quây cót chật buồng ra kín thềm hè, năm nay thóc đi đâu, thóc còn lang thang sân nhà người ta. Đến tối, Sự vào nhà kế toán, mở sổ ra, cộng trừ tính, càng rối xoè mù mịt. Vợ Sự vẫn giữ một miếng ruộng ngoài, nhưng chẳng dứt nghiến ngả chồng: bỗng dưng sinh ra cái hợp tác, chỉ phá rối.
Từ hôm có kế hoạch đổ thóc ra phơi nốt một nắng rồi dồn lại sắp chia thì cũng đỡ ồn. Nhưng lúc nào cũng lại nẩy ra lắm cái lôi thôi, lung tung khác. Mấy con gà của nhà Sự ăn thóc đến nghẹn tắc cổ. Sự tưởng gà lên cơn giật chết dây. Đến lúc con gà trống cong cổ ựa ra rãi lẫn thóc, mới biết. Chẳng ai nhìn thấy con gà mổ trộm, vợ Sự cũng cứ bô bô nói trống không: “Ngày mùa, cúng cho con gà con qué kiếm miếng, mất của ai”. Sự gánh thóc về, đổ ra sân, đánh dấu chen giữa một hàng gạch. Hai chị em thằng con ở nhà xúc trộm. Sự xem lại thấy mất dấu, chửi toáng lên rồi vào buồng bê thúng thóc nhà ra toan đổ bù. Thằng con với đứa con gái giằng lại, vợ Sự lăm lăm cầm cái đòn gánh, trợn mắt, mắm môi. Sự đành đứng ơ. Nhà nào cũng lục đục. Chồng đi làm mạ, về hỏi: “ ở nhà nắng thế mà không trang thóc a?”. Vợ chao mặt một cái: "Thóc của thiên hạ đâu vẫn đấy, ai dám mó vào, con hùm chưa vồ mất hạt nào đâu". Không thổi cơm tối, vợ bảo chưa có thóc thì đi cướp gạo ở đâu mà thổi.
Nhiều điều tiếng rên rỉ rêu rao: “Cốc mò, cò xơi"- ý nghi ngờ người này người kia ở ban quản trị, ở những nhà có sân cho phơi nhờ.
Các nơi quanh đấy và trong làng vẫn lảng vảng, dò hỏi. Người ta đồn thế nào nơi nào rồi cũng phải lên hợp tác, lại càng hãi những đồn đại. Cán bộ kỹ thuật về hướng dẫn chống bệnh toi gà, cũng xúm lại hỏi đủ thứ. Anh cán bộ quen giải thích tào lao buông một câu: “ôi dào, tôi đi nhiều nơi đã biết hợp tác nào lúc đầu cũng nát như tương, ấy vậy mà rồi đâu lại vào đấy. Yên chí”. Yên chí thế nào, người ta rủa anh cán bộ gà chỉ biết ăn như mỏ khoét.
Trong làng, mỗi xóm, mỗi nơi một khác. Các nhà làm riêng, nhất là những nhà được xuống thành phần mấy năm nay, lặng lẽ êm ả gặt hái rồi đợi mai kia đến Tết. Tổ đổi công thì nhộn nhịp gánh thóc về nhà như chọc tức, trêu ngươi. Thóc rơm còn đánh đống vàng rực ngoài sân, mỗi tổ đã ăn mung đụng ăn chia một con lợn. Còn để vào vụ cày xong mổ con nữa rồi có phải lên hợp tác mới lên. Có lúc nói: “Sào ruộng tôi đổi công năm nay kém năm ngoái ba gánh, thật đấy” Nhưng lại rỉ tai người khác: nói thế để hợp tác thấy họ hơn, cho họ sướng. Nhưng ta lại cứ ăn, cứ mừng.
Những nhà làm đổi công thì tiếc ruộng tốt, không muốn cộng ruộng vào hợp tác. Cứ rối xoè lên.
Lại vẫn lôi thôi cấy dày cấy thưa. Cái dạo tổ trưởng Thông thử mấy thước cấy dày, bị cả xóm cười làm trò trẻ con. Còn hợp tác đi trên huyện học cấy dày kỹ thuật mới. Cả Quốc với Sự lên hội nghị. Hôm về, Quốc nói: “Ban kỹ thuật huyện đi ngắt một bông thóc ruộng đổi công, một bông ruộng hợp tác. Ruộng cấy thưa được một trăm hai mươt hạt. Ruộng hợp tác mới cấy dày nửa vời, đếm đã được một trăm tám mươi, tuy hạt nhỏ nhưng đều mặt, cân lên nặng hơn bên kia. Cũng không phải lúa cấy thưa ngon cơm hơn. Cái ấy là tại giống". Người ta nghe tai nọ sang tai kia, cũng chẳng ai để ý hỏi cặn kẽ cái kỹ thuật mới. Dường như cả chân trong và chân ngoài đều cứ chờ đợi thế nào.
Những đêm sương sa, sáng ngày ra nắng đã hoe nhạt. Chớm vào thu rồi. Cây cau trước sân bỗng rơi xuống nghe ình một tàu lá vàng óng. Ông Ngải nói:
- Tàu cau đã rụng thế vầy chỉ mùa sang năm thì bói được.
Gió giải đồng rạt rào, miên man. Nước sông Diêm trong veo thấp thoáng lưa thưa sau rặng hóp đá, nhìn ra mới ngắm được cái tài tình của những chữ “nước chảy lơ thơ".
Bắt đầu tính hết công điểm chia thóc từng nhà. Chưa chia đã rắc rối, bây giờ lại rẽ sang những nói ra nói vào khác. Bà Ngải phàn nàn mớ thóc, mớ rơm như cái chổi cùn. Cứ thấy quảy lúa về kéo rồi phơi ở sân nhà mình rồi lại cùn cụt đội thóc đi đâu.
- Tôi đi chợ, người ta hỏi. Có phải một mình bà phải chăm mười con trâu? Được ăn bao nhiêu công điểm?
- Thế bà nói hoang mang a? - Không, tôi bảo tôi lên hợp tác rồi thì tôi không biết hoang mang, thắc mắc cái gì cả. Thế là chẳng đứa nào mở mồm hỏi khích bác nữa.
ông Ngải thì hăng hái một cách rạch ròi. Ai vào bên búi tre lép ăn thuốc nhờ, ông nói như đọc trong báo ra:
- Có muốn biết thì tôi dẫn cho mà biết. Thóc thuế đóng rồi, phân than, công trâu bò gác ra rồi, tính cộng lại thì sản lượng được chia nhỉnh hơn mọi khi. Có thế mới lên hợp tác xã chứ. ấy là năm nay còn chưa làm có kinh nghiệm, mà cái dự, cái di, cái hom cấy vặt vãnh chưa tính. Con gà con qué ngày mùa nhặt vài hạt thóc đã chết ai mà chúng nó đồn láo hợp tác phải giết hết gà vịt để khỏi thắc mắc. Những đứa nào ăn nói phản động thế?
Ông râu vểnh nhả khói thuốc:
- Ông dẫn ra vầy thì tôi hiểu ngay. Sắp lên hợp tác cả rồi, tôi phải hiểu biết chứ. Nhưng thế nào, mùa này sao mức thu nhà ông chỉ nhỉnh thôi. Như mọi khi, mình làm mình ăn cả, thì nhà ông được bao nhiêu ấy cơ.
Nó nói ngóc ngách, ông Ngải im. Rồi sang câu khác:
- Vào hợp tác thì phần tăng phần giảm trông vào lao động. Bao giờ chẳng như vầy, người chịu khó thì chẳng lo. Chết những thằng ngay xương, bây giờ hợp tác làm ăn có chúng có bạn, thằng lười trơ mặt ra. Tôi sướng nhất cái ấy.
ông nọ cũng không còn hỏi vặn vẹo vào đâu, lảng chuyện.
- Rõ rồi. Tối qua, trong làng có đám suýt cháy nhà. Tình nghi đứa ném bùi nhùi, cháy từ ngoài nóc vào, ông biết không?
Sự ở đâu vào, nói chen:
- Lúc đương tiến lên thế này, phải cảnh giác. Thù nhau đốt nhà, bắt đứng ở đổi công a? Không được. Mỗi người lại kéo mồi thuốc, rồi mỗi người đi mỗi việc. Người lùa vịt ra đồng cho xốc thóc mót, người vào tổ cân thóc chia. Người lên quán nước trên đê...
ông Ngải tính nhẩm hình như công điểm nhà ông có dôi ra. Dôi ra thì lợi chứ sao, nhầm lõm vào mới là thiệt. Nhưng không, nhà mình được, nhà khác mất, rồi người ta moi đến thì lôi đuôi. Cứ phân minh trước sau. “Cả đời tôi chẳng ăn không của ai bao giờ". Suốt đến chặp tối, ba bố con xướng lần lượt từng điểm, tôi ngồi làm tính cộng, cộng đi cộng lại. Thấy cái lúa dua hom, con số công gặt của cái Hến vào sổ hai lần, không biết đúng không.
ông Ngải xách cái đèn chai đến ngay nhà kế toán.
Anh kế toán đương bò chổng mông tính sổ dưới ánh cái đèn cày. Kế toán đã vẫy mấy chú bé đương ngồi học bài ngoài hiên vào soát các sổ cho nhanh. Xem đến sổ nhà ông Ngải thấy thừa ra mười công ở sổ điểm cô Hến. Ông Ngải gật gù bảo kế toán: “Tôi thế đấy anh biết chưa?”
ông Ngải yên tâm. Nhưng ông Ngải còn băn khoăn:
“Cái bụng mình như chiếc bánh bóc ra mà thiên hạ cứ bảo quản trị ăn cắp. Chẻ hoe ra đấy nhé". Bà Ngải cằn nhằn: "Thèm nhạt đâu vài điểm công với xá. Ngày trước kéo lúa ủng hộ bộ đội cả năm đấy sao". Nhưng cũng lắm cái cứ bực mình. Lúa ruộng tốt ruộng của nhà chia đi đâu, toàn gánh về cái táp nham của những nhà đứa nào ấn cho.
ông Ngải nói khe khàng với tôi, như tiếng thở dài:
- Thì cũng chỉ vì thằng ốc, cái Hến. Cứ như chúng tôi cả ngày một niêu cũng xong, chứ vào hay ra làm gì cho mỏi chân, có phải không anh?
Mỗi khi ông Ngải dường như nghĩ nỗi sau này, hay nói với tôi tương tự câu ấy.
Cũng không nhờ tổ chúng tôi còn ở xóm Đồng bao nhiêu lâu, rồi cả bọn về một lúc hay đi lẻ tẻ dần. Bởi tôi lại một mình trở về, chẳng biết đã ai về trước chưa. Cũng chẳng vì công tác cơ quan gọi. Đợt đi này không có hạn ngày, không biết Hoàng Trung Thông có phải về vì công tác chờ đợi thế nào, còn thì lắm lúc nghĩ tôi cảm thấy tôi cũng như cái đinh long, đóng vào cũng được để vậy cũng thôi- cái nghĩa bề nổi, không chữ nghĩa thâm thuý như câu chèo cổ “nát ván, long đinh” đâu. Tôi đương muốn lên mấy nơi trên Hải Dương có những tổ các anh Bùi Hiển, Đào Vũ rồi về. Tổ trưởng Thông bảo: “ừ, về thì về". ở lâu, tuy chẳng có gì giữ chân, mà cũng ngại đến lúc rời đi cũng nhớ. Anh em biết tôi sắp về, đi qua, tạt vào, mỗi hôm lại hỏi: “Khi nào về?”- "Cũng chưa định". Nhưng thấy người cứ hỏi, tôi cũng đâm sốt ruột. Thế là quyết định mai đi. Quán sang chơi. Ông Ngải với tôi đương mổ, làm lòng con vịt dưới cầu ao. Quán tựa lưng búi tre, hút thuốc, hỏi:
- Gà hay vịt đấy?
Tôi nói:
- Hay quá. ở đây làm vài chén “trường đình".
ông Ngải vẫn cúi, té nước lên lưng con vịt.
- Thịt vịt, con vịt bị rắn cắn. Anh Tư trông thấy con hổ mang trong hang bờ ao vừa nhoài ra. Còn đánh tiết canh được cơ mà. Xong hết rồi, chỉ còn bỏ nồi luộc. Vơ hộ nắm lá tre dóm bếp. Quét qua chỗ ấy rồi vào bảo cái Hến dọn mâm bát ra. à hũ rượu trong gâm giường hãy còn.
ông Ngải đều quí hai chúng tôi. Nhưng xem ra ông ý tứ với mỗi người một vẻ. Như cung cách và người ngợm tôi, ông Ngải trọng như một ông giáo làng, ông thầy đồ ở trọ. Ông nói thời Tây có cái trường học trên chợ Phố có thày giáo trông cũng giống tôi, nên ông nhớ. Còn Quán thì mồm miệng chân tay đều xốc vác, có hôm ông bảo Quán vần trả cái cối đá to bằng cái vại ông Ngải mượn trong làng. Lại chỉ có cái súng gỗ, mà Quán đẽo răng cưa, gọt mổ cò dạy dân quân ốc như bắn súng thật. Ông bà Ngải thân tình với Quán như người trong nhà, như thằng Toàn con rể.
Quán bần thần nói:
- Tiếc quá, cháu đã hẹn đụng chó với anh em rồi.
- Bao giờ?
- Chốc nữa chén.
- Nhà ai đấy?
- Nhờ lão quán nước chợ Phố. Ông Ngải biết đấy, lão này chùm chó. Cháu đi nhé. Cái thịt chó là hết cỡ, không thịt nào địch được, đừng để phần cháu.
Rồi Quán đi luôn. Tổ trưởng Thông “chạy” con vịt rái cá cắn hôm trước đã “lặn” đi họp cũng nhanh như thế. Tôi với Quán ra đầu ngõ. Quán nháy mắt, phân trần:
- Có chó má nào ở đâu. Tôi đã đánh nhau giáp lá cà với các thứ Tây ở mặt trận Huế. Nhưng cái giống gà vịt bị rắn mổ này thì tôi khiếp, anh ạ.
Tôi cười:
- Thôi, đi đi.
Tôi trở vào bắc bếp. Ông Ngải nói như vạch bụng anh chàng ra: .
- Chú Quán sợ thịt vịt rắn cắn. Sợ quái gì!
Tôi không vào chuyện với ông Ngải mà tán về rắn:
- Cái rượu ngâm tam xà, ngũ xà chữa bách bệnh, đau xương thấp khớp, liệt âm liệt dương, khỏi hết.
Rượu rắn bổ nhất trần đời. Ngoài bờ sông bờ ao sẵn rắn, ông nên ngâm vài vò, rồi hũ chôn hũ uống, dùng cả năm.
- Biết thế, mà tôi bỏ rượu đã lâu. Giờ, đứng gần người say ngửi hơi rượu cũng lợm giọng.
Rồi ông Ngải cười khà khà xách ngược con vịt đã rửa sạch bóng.
- Anh xem, da dẻ nó hon hỏn thế này. Dại quá, cái nhà chú Quán...
Những ngày ấy, xa gần mịt mờ như chiêm bao chắp nối trong giấc ngủ đêm qua. Tiếng rằng ở Thái Bình về Quán công tác ở phòng Văn hoá Quần chúng, nhưng cũng là làm vì và dông dài chẳng khác khi ở xóm Đồng.
Rồi lại đi, lại đi. Bị kỷ luật ba năm không hội viên hội nhà văn, nhưng rồi ba mươi năm mới có lời làm lễ giải hạn. Không cấm sáng tác, nhưng viết thì không đâu in. Những nơi này có cán bộ cơ quan khác đến làm công tác theo dõi, những câu nói cuối cùng của ông theo dõi này về bài báo, về quyển sách, nhất là nếu lại dẫn chứng cấp trên “anh ấy, anh ấy đã bảo thế” thì còn sinh sát hơn quyền hành những người phụ trách nhà xuất bản và tờ báo ấy.
Tôi đã xem mấy bài các bạn Quán viết về Quán tập câu cá rồi câu cá hồ Tây vào loại tay nghề. Một Lã Vọng bất đắc dĩ, trò chơi mà hoá thật. ở thành phố, những năm ấy chẳng phải chỉ có mình Phùng Quán câu cá đợi thời. Khối các ông Lã Vọng khác nhau. Những ông chủ bỗng trắng tay, thất nghiệp và biết bao những nông nỗi thế nảo nữa, chỉ còn trông vào đống rác, cái cần câu, bắt cóc, bắt chuột... và những cung cách kiếm cơm không nói hết thành tên được. Ông Kỷ cậu họ tôi, nhà buôn sơn ngoại lâu năm có tiếng trong thành phố. Mấy hôm ấy, Tây ở Hà Nội chỉ còn ngồi đợi rút xuống Hải Phòng. Người được tự do vào thành phố, nhưng có trật tự. Lính Pháp thờ ơ gác, tôi đứng trên đường Mai Lĩnh, trông thấy dòng người nghìn nghịt qua cánh đồng Văn Quán lên thị xã Hà Đông. Ông bà Kỷ lái xe riêng lên thị xã Sơn Tây- tôi đương làm phóng viên báo Nhân Dân đi xuống nhà thờ Phúc Nhạc viết bài về tình hình bà con công giáo di cư vào Nam. Tôi ghé lại Sơn Tây, ông bà lên chơi. Năm sau, Hà Nội cải tạo tư sản, ông âm thầm bán ô tô, bán biệt thự, còn huyến hàng sơn cuối cùng ở Pháp về thì vướng lại cảng Nhà Rồng trong kia. Hết của, ông Kỷ thành tay sát cá hồ Tây. Những thung thổ cá mú vòng hồ chẳng chỗ nào ông không thuộc. Lại các ông Ba, ông Tư trong làng nội, các người hôm qua chủ lò bánh mỳ giàu có chất của lên được, bây giờ mất cửa hàng, mất lò, nhà dọn xuống ở bãi Nghĩa Dũng. Hai ông đóng khố, vác chũm đi đơm đó ven sông, thực sự kiếm miếng hàng ngày.
Những tâm sự trầm uất và cái sức viết đương bởi của lứa tuổi Quán đã vẩn vương tôi. Tôi mà còn bải hoải nữa là. Đi lâu thế, tôi cũng thao tác mọi việc viết, thế mà chẳng tả nổi về cái xóm Đồng một chữ. Phùng Quán vẫn chịu khó cặm cụi mà sau này bè bạn đã tổng kết sáu chữ cho cái giai đoạn bi đát ấy: câu chui, rượu chui, viết chui. Những năm này Quán đương sức viết Không đâu in, nhưng Quán vẫn viết. Nhà xuất bản Kim Đồng in truyện thiếu nhi Tâm Trọc về thăm nhà. Có tiếng xì xào của Phùng Quán ký tên khác.
Chẳng biết nhà xuất bản có ai bị kiểm điểm, bị hạ bậc lương, bị mất việc không. Chắc không. Vì quyển sách mỏng và viết về kháng chiến chống Pháp, mà vốn Phùng Quán xưa nay sở trường tráng ca, anh hùng ca. Phùng Quán gửi bài thi viết về Lê Nin. Truyện của Quán - tất nhiên, lại ký tên khác, được xếp giải nhất. Cũng chẳng biết tác giả có đi lĩnh thưởng không và làm thế nào nhận được cái đồng hồ báo thức quà tặng. Con người chăm viết, viết khoẻ mà chỉ đôi khi in ra được dăm ba chữ. Tâm trạng bức bối kéo dài còn đau hơn sự cấm đoán. Mấy năm gần đây, Phùng Quán làm nhiều thơ, viết báo và đưa in những bộ truyện đồ sộ như hồi ký Tuổi thơ dữ dội vẫn là nối tiếp một Phùng Quán ba mươi năm trước, một tay sử thi có hạng. Nhưng người thì chưa bao giờ trẻ, mà chẳng còn trẻ trung đâu nữa. Phùng Quán đã vào năm mươi rồi. Thân hình bơ phờ mảnh khảnh, lại ăn mặc kiểu các cụ áo năm thân rộng nhuộm cậy màu hoa hiên, bộ râu chuột lưa thưa. Làng văn đã có Nguyên Hồng xống áo và râu ria cũng tương tự. Nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra Nguyên Hồng đã lão thế và không thể thấy cụ Phùng Quán lụ khụ nâu sồng này khác hồi cụ Phùng Quán chạc hai mươi tuổi ở xóm Đồng. Quần áo và bộ râu có việc của nó. Có phải vì tôi hơn Quán cả con giáp cứ thấy người không bằng tuổi mình thì lúc nào cũng vẫn tưởng như ngày xưa. Có thể vậy, tôi cứ nhớ như vừa mới đây. Thật thì chốc đà đã là hơn ba mươi năm qua - những cách quãng phi hoài đời người của Phùng Quán.
Những lần gặp giữa phố, Phùng Quán bảo tôi:
“Anh lên chơi nhà tôi. Có cái rượu uống được". Tôi không lên. Chẳng vì ngại đi, mà cứ thế nào. Tôi đánh chén thịt chó Hàng Bè với Lê Đạt mà không lên hồ Tây, dù cái máu rượu ông phó bí thư chi bộ cũ của tôi thì chán chết, khề khà với Phùng Quán thú vị nhiều. Rượu vui, rượu buồn đều cần, nhưng phải tuỳ lúc. Cho mãi đến hôm mừng Nguyễn Hữu Đang thượng thọ tám mươi tuổi - hai ông em kết nghĩa Phùng Quán, Phùng Cung của Đang bảo tôi, tôi mới lên nhà Quán. Gặp lại bạn Đang già mình vốn qui trọng, thế mà lại buồn. Nhưng cái nhà vườn bên hồ Tây của vợ chồng Phùng Quán hôm ấy đông khách đến mừng cụ Đang quá, có đám đông thì tôi cảm thấy mất vui. Đành vào nhấc hũ rưọu, làm một chén chia vui rồi về.
Tôi ở xóm Đồng đi nửa buổi đến cầu Phú Lương. Tổ của Đào Vũ ở thôn Vũ La ven đê bên kia cầu. Buổi tối nhìn lên thấy quầng đèn sáng thành phố Hải Dương. Bác Tú Mỡ ngày ngày chăm chút lau cái xe đạp rồi buộc thừng treo lên, không để bánh xe chịn đất. Lâu nay chỉ còn trông thấy người có tuổi lau xe đạp. Cả Sỹ Ngọc, không nhớ các anh ở cùng nhà hay đến chơi.
Vũ La nhộn nhịp, đông nhộn. Bên trong khoanh tre, những khoảnh vườn mơn mởn cà chua đương vào lứa phấn mỡ. Khác làng mạc Thái Bình, chỉ có mấy cây chè khẳng khiu sau bờ tường đất u ám như tổ mối.
Vũ La cũng đương xếp ải. Nhiều chỗ đất phơi đã được nắng trắng nhạt như làn sóng đất lăn tăn. Các chủ nhiệm hợp tác xã toàn tỉnh đương về họp ở đây.
Cả hội nghị với lớp kế toán hôm ấy cũng đi xếp ải giúp hợp tác xã. Tiếng trống tom tom gọi xã viên đi làm đồng. Cửa hàng hợp tác xã mua bán mở sớm. Vải xanh Sỹ Lâm, vỏ áo bông, chăn bông tiết kiệm trần ô trám. Còn sớm mà người đã ra vào xúm xít. Cả tổ Đào Vũ cũng trong nhộn nhịp này. Tôi cảm như chúng tôi ở dưới kia chểnh mảng chẳng nên trò gì. Nghe chuyện cánh Kim Lân đi công trường thủy lợi Bắc Hưng Hải bên Hưng Yên, cả ngày đào đất, gánh đất bằng dân công.
Đào Vũ đi làm đồng trong tiếng trống giục đầu xóm. Đào Vũ khoác bừa lên vai, tay cầm thửng dắt con trâu. Như những người đi cày và mấy con trâu vừa đi qua cổng. Tôi bỗng nhớ Quán, lẩn thẩn đoán con trâu này bĩnh trong chuồng chưa, nếu ra đường đồng mới ỉa thì Quán gắp được.
Nhà văn Đào Vũ, một người làm ruộng. Không ngẫu nhiên mà sau chuyến đi ấy Đào Vũ ở lại Vũ La, bắt đầu bộ tiểu thuyết Cái sân gạch miêu tả cuộc đấu tranh sản xuất và con người ở Vũ La những ngày đầu hợp tác hoá.
Nghĩ lại, mình lêu têu ghê. Nhưng biết thế thôi, cũng chẳng ân hận. ở đời mỗi người một mánh, một tật. Tôi nghỉ lại Hải Dương, Hải Dương cũng tương tự các thị trấn khác, lỗ đỗ lốm đốm dấu vết thời sự và thời gian: những dãy phố, những cãn nhà bị rỡ cái năm tiêu thổ kháng chiến đã được vá nham nhở các bức tường và cửa hàng mặt tiền quét vôi, ốp mấy hàng gạch hoa duyên dáng như cô gái trong làng diện áo phin trắng mà lại đi chân đất. Các phố nhỏ, khúc khuỷu vẫn lặng lẽ quê quê. Đương có đợt đăng ký lại các hộ công thương. Đồn ầm lên rồi những nhà nào không được cấp môn bài lại thì phải dọn về quê làm nông dân.
ở đầu tỉnh, đồ sộ một nhà máy làm đồ sứ. Năm trước, đây còn là một bãi hoang. Trong cải cách ruộng đất chỗ ấy là nơi các làng xung quanh lên mượn làm mít tinh đấu địa chủ. Đội tôi ở Cẩm Bình đã đưa dân đi dự nhiều lần. Những chuyện đấu tố chỉ chợt nhớ đến đã thấy sượng mặt.
Nhưng tôi nhờ có lần ấy Nguyễn Công Hoan rủ tôi về Hải Dương, Nguyễn Công Hoan nói: “Trong tiều thuyết Đống rác cũ của tôi anh bảo anh thương cái người đàn bà phải đi làm dâu khổ cực trăm bề, tôi đưa anh về nhà nhân vật ấy". Chúng tôi xuống tàu hoả rồi qua phố chính vào một cái ngõ lát gạch nghiêng như đường làng. Căn nhà một tầng, mái ngói rêu phủ đen xì. Lỗ tròn mắt bò mở hé, sau cánh cửa, một ông cũng trạc Nguyễn Công Hoan ra mời chúng tôi vào. Ông không cao lớn, mà thấp người, mặt tai tái đến độ không trông rõ bộ ria mép, như một cụ làng bẹp ngày trước. Phản giữa trải chiếu, chủ nhà mở chiếc lồng bàn úp trên mâm đồng thau. Một mâm cỗ thịt gà thịnh soạn. Chủ nhà cười. “Mười giờ chưa thấy các xừ, chưa nghe còi tàu về, đã lo lo". Ra chủ khách đã có hẹn, và cách nói thân tình.
Trong bữa chén, hai ông toàn nói chuyện dạy học ở Kinh Môn, ở Vũ Tiên, ở Lào Cai. Ông ấy ngày trước cũng là nhà giáo trường huyện. Đến chiều về cũng không thấy anh Hoan trò chuyện gì với tôi về nhân vật người đàn bà bạc phận. Anh Hoan hay tư lự những cái anh đương nghĩ, có khi hỏi thì lại trả lời lạc sang điều khác.
Nhưng rồi tôi cũng phải hỏi. Thì anh nói:
- Tôi đã bảo rồi mà. Nhà người ta đấy.
Chẳng hiểu ra sao, nhưng tôi cũng không hỏi thêm.
Hỏi anh lại nói khác nữa, thì chịu, rồi tôi phải đoán lấy Nhưng cũng không nghĩ ra được đấy là nhà người ấy khi còn con gái hay là nhà chồng, hay là nhà ai.
Cứ cho đấy là nhà người ấy trước khi về nhà chồng. Cho đẹp và buồn những kỷ niệm của người viết.

Chương VI

Nhiều chuyện với Nguyễn Công Hoan cũng lắm bất ngờ tức cười chua chát như những cái kết truyện ngắn của anh. Dự quốc khánh, lễ lạt ở sứ quán nào, Nguyễn Công Hoan đi đôi giày da bóng lộn, tôi chưa thấy khi nào. Tôi tò mò:
- Giày luých này chắc Tết anh mới diện?
Anh giơ tay cắt nghĩa kiểu thày giáo trịnh trọng giảng bài:
- Dự tiệc đứng thì hay đi đi lại lại, người ta cứ phải nhìn giày mình, cho nên cần có giày tử tế.
Tôi đùa:
- Rồi về lại đánh xi đạt cẩn thận, bọc giấy bóng, cất đi.
Anh còn nói lạ hơn:
- Không, giày này tớ đi mượn. Cậu nhận xét cũng xoàng. Có là giày đi mượn thì mỗi tiệc mới một đôi khác nhau chứ.
Đã có lần anh kể anh có một người anh em con chú con bác làm nghề vá giày ngồi ở bờ tường cạnh chợ Hàng Da. Người vá giày vỉa hè, trên tường đóng đanh treo bán những đôi giày cũ được mông má lại.
Tôi nhớ chuyện anh kể, nhưng không chắp nối lại được trong tưởng tượng, Nguyễn Công Hoan đã đến mượn trong đám những đôi giày treo bán ấy vào dịp long trọng. Nguyễn Công Hoan có lắm nhân vật bất ngờ trong đời thường như thế. Anh dẫn tôi đến ăn bún chả nhà một ông ở đầu phố Nhà Thương Khách cũ. Nhà ông làm vàng hồ, trang kim hài hán, nhuộm giấy thẻ hương. Hồi ấy còn ngặt về lễ bái lắm, vợ con ông làm hàng mã phải ngồi làm dấm dúi dưới bếp. Ông ấy xoa xoa tay, kính cẩn: “Các bác làm việc dương gian, nhà em thì công tác đường âm, thưa phải không ạ".
ồ, kể mọi ly kỳ về Nguyễn Công Hoan thì vô số, vô cùng như những truyện ngắn có kết bất ngờ của ông.
Nhà trọ bến xe Hải Dương chẳng khác dãy lều lá dưới cầu Bo. Cũng thế, người ra vào thậm thụt, người gánh người đội, người đeo, không biết trong tải đựng gì, không đoán được người đi buôn hay quân đầu trộm đuôi cướp, lúc chặp tối càng đông.
Cô ấy tóc cún, răng vàng. Mấy cô khác ngồi góc giường trong đương đố nhau tuổi. Có cô nói bô bô:
"Cái quyển Đồi thông hai mộ hay bằng vạn các quyển mới bây giờ". Một lúc sau thì đoán ra những cô này có những bao tải dép râu nhét dưới gầm giường. ả răng vàng thì buôn cau khô lên chợ Đồng Xuân. Những thứ ấy, chẳng kiếm được mấy nả tiền, ắt trong thúng mủng kia có thuốc lào, thuốc phiện. Những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già đời đi buôn chuyến hôm tàu thuỷ xuôi, mà tôi trông thấy và đụng chạm từ thời Pháp thuộc đã từ lâu chết xuống âm ty. Cách nói, dáng điệu, áo cánh trắng quần thâm mới, vẻ trễ tràng, vừa ta đây vừa bất cần đời, tay các ả đeo nhẫn, cổ dây chuyền vàng, - chắc vàng tây. Tưởng như đàn bà con gái nhà chúng nó đã mây đời cha truyền con nối đi buôn chuyến thế này.
Nhà trọ một dãy ngăn từng gian, vách dán giấy dầu, ba trăm thì giường chung ba người. Mụ chủ chứa đã hơi luống tuổi, nửa tỉnh nửa quê, cổ tay đeo cái vòng xanh xanh, chẳng biết vòng nhựa hay đá thật.
Cô người làm áo cánh hồ thuỷ đưa người trọ vào buồng, giao cái màn tận tay. Những của chua này, khuya tý nữa, có thể nháy vào được. Mụ chủ rền rẫm phàn nàn: “Cái nghề chứa trọ không biết tội tình ra sao mà các ông công an cứ bắt vác sổ sách lên đồn xuống ải khai báo cũng đủ hết đêm". Tôi nằm một giường, nhưng thuê cả ba chỗ. Tôi lấy cái dây cao su trong ba lô ra buộc dóng khung xe đạp vào thành giường ngay cửa màn, nếu với tay ra có thể nắm được thằng kẻ trộm.
Hôm sau, đạp xe la cà dọc đường, chiều mới về tới ga Hàng Cỏ. Chỉ ra khỏi thành phố ít lâu, trở lại đã có cảm tưởng vắng mình thì phố xá khang khác, rồi một lúc hay vài hôm mới quen dần và thấy lại chẳng có gì khác cả. Sương mờ thành làn trong ánh đèn đường, người người tấp nập, hối hả. Đi bộ, xe đạp cầm cuốc, cầm xẻng, miệng mũi bịt khẩu trang miếng vải trăng, nhiều người quần xắn cao, ống chân bê bết bùn. Tôi trông thấy Hoàng Văn Tiến, đại sứ ở Ba Lan về làm thứ trưởng, năm trước tôi đã quen trên chuyến xe lửa Hà Nội- Bắc Kinh. Tiến cũng ống quần móng lợn, dọc khung xe buộc cái xẻng, đạp veo veo ngược đường hàng Lọng. Những người ấy ở công trường hồ Bảy Mẫu ra. Cả thành phố đương đào đắp vùng ao bùn làm công viên Thống Nhất.
Tôi vào quán phở Hậu, phía trên dốc Hàng Kèn.
Chặp tối khách kín các bàn. Ông chủ quán tóc muối tiêu, gầy gùa, nhanh nhẹn vừa bốc bánh vừa nói vằn vèo như vi von rồi tâm sự một câu, mà tôi là khách quen nghe đã thuộc: “Làm lắm thì chày vảy ra chứ ăn thua gì. Thời buổi này, đổ mồ hôi nước mắt đủ hai bữa tọng vào họng, được phục vụ nhân dân thế là độc lập tự do, hạnh phúc rồi". Trên tường treo bức ảnh phóng to một chiến sĩ mũ ca lô, thắt lưng da to bản, áo kẻ ô trám “binh sĩ mùa đông” năm 1946. Tôi hỏi, ông bảo: “Cậu em nó". Cũng không muốn hỏi thêm ngưòi chiến sĩ ấy đã hy sinh hay còn sống. Mấy năm sau, ông hàng phờ khó nhọc mới được hai bữa tậu ngôi nhà hai tầng khang trang tĩnh mịch trong ngõ Tràng An. Hai cô áo dài xanh liễu, vét dạ Hồng Công óng ánh kim tuyến. Tóc đợt đợt sau gáy, đen nhánh, có thể khinh được mọi mốt tóc đương thòi của phụ nữ Hà Nội. Câu chuyện hai người to nhỏ mà như khoe cứ lọt tự nhiên vào tai người bên cạnh chẳng ra vô ý, ra khoe hay không coi ai ra gì. Qua chuyện, biết một cô đã có hai con, một cô có một con. Bây giờ còn hàng nào ăn được, phở Hói hay Tân Tân? Cũng khó ngon lắm. Cái phở thịt trâu thịt “ngầu pín” cuối phố Huế thì mới nghe nói đã mất vía.
Không dưng, bỗng cau có:
- Đáng nhẽ đi Hồng Công rồi. ở đấy sang Anh như đi chợ. Mình đã có passe- port. Chỉ vì sắp ở cữ, cậu mình bảo rồi tính sau, mẹ tròn con vuông đã. Thế là ông bô tính chệch giờ. Bây giờ thì gác hết.
Một tiếng thở dài:
- Cậu mợ mình cũng thế, nếu không tớ đã không được ngồi với đằng ấy ở đây
- Mua được một lúc ngồi với nhau thế này giá đắt quá.
Hai người nhăn mũi cười nhếch mép.
- Này táo hay lê ngon hơn?
- Lê được cái thơm, nhưng hơi chua.
- Bây giờ lê táo nước nào?
Câu chuyện của hai con đĩ ngựa cong cớn không cơn cớ cũng cạn dần với bát phờ tái giò hành tây.
Quán cà phê ông lão 81 mọi khi vẫn thế. Mới tối, hàng quán các vỉa hè vừa dọn, nhấp nhoáng đèn đường trong bóng vòm lá cây sữa. Quanh chiếc bàn thấp, đợi ăn uống cái gì mà lố nhố người. Dưới lòng đường gánh cháo ông Chữ, tiếng thổi lửa cái ống nứa pho pho. Giờ này chưa phải buổi cháo gà.
Lão 81 ngẩng lên, vồn vã:
- Ông đi tận những nước nào mà lâu không thấy?
- Nước nào, nước nhà quê nhà ông đấy.
Ông lão cũng hỏi cho có chuyện, lại cắm cúi thái rồi nghiêng cái chảo, tiếng mỡ xèo xèo. Chiếc đèn hoa kỳ lom đom trên nóc tủ hàng, ánh điện lao xao trong bóng lá không hắt tới. Chẳng trông rõ gì cả, nhưng chắc bọn khách đợi món này.
- Gì thế?
- Ngầu pín ông ạ. à, dạo này mới lại có.
- Trâu hay bò?
- Dê hẳn hoi, còn non, tuyệt bổ. Ông xơi...
Tôi hãy còn mất vui về hai con đỏng đảnh ở hàng phở Hậu, tôi uể oải giọng đổng vu vơ:
- Lâu nay ở nhà quê, ăn dái dê, dái chó, nhiều bổ quá rồi. Xin một cái cà phê đen thôi. Cho giải phiền, bớt mỡ. Ông nghe rõ chưa?
- Rõ, rõ. Nhà cháu đương dở tay, ông ngồi chơi một mảy.
- Mấy mảy cũng được, thưa ông bếp Tây.

Chương VII

Tôi được giấy gọi đi học trường Nguyễn ái Quốc khoá 1961..
Không biết khoá này khối văn nghệ được mấy người, hôm khai giảng chỉ thấy mình tôi. Khoá sau, có Trọng Hứa đương làm chánh văn phòng. Chẳng rõ được chọn hay Trọng Hứa xin đi, hay Trọng Hứa đi “thế mạng” cho ai. Dự lớp dài hạn trường trung cao cấp của Đảng là một vinh dự và nhiệm vụ. Người muốn cũng không được. Nhưng cũng có người trách nhiệm cao tự coi như đương nhiên chỉ ngồi bàn bạc và cử người khác đi học. Có những người như Nguyễn Tuân, không thấy giấy gọi đi học bao giờ mà không biết được mời thì ông có đi không, chẳng thể đoán được. Năm 1950 ở Thái Nguyên, Nam Cao và tôi đổi công tác từ báo Cứu Quốc về hội Văn Nghệ. Trước khi về cơ quan mới, chúng tôi được đi học trường Nguyễn ái Quốc - bấy giờ khoá học lâu nhất cũng chỉ ba tháng.
Nhưng rồi chỉ có Nam Cao được đi. Tôi cứ tiếc mãi.
ý nghĩ đi học của tôi cũng giản dị. Có dịp sắp xếp lại mọi cái biết lõm bõm chẳng đâu ra đâu. Từ khi mới cầm bút tôi đã phú cho Dế Mèn, Dế Trũi cái tư tưởng thế giới đại đồng không tưởng của tôi. Chẳng là bấy giờ đương tuổi mới lớn trong thời kỳ Mặt trận Bình dân 1938, chúng tôi hăng hái liên miên tranh luận đệ tam, đệ tứ. Cho đến ngày nay tôi cũng chẳng hiểu gì hơn. Cũng chịu khó đọc bản dịch Chống Đuyrinh, và nhiều cái khác, có ghi cẩn thận những câu, những ý cảm thấy hay. Nhưng mà từ đấy vận vào thực tế, vào sáng tạo thế nào. Tôi đi cải cách ruộng đất thì cứ kế hoạch bốn bước mà làm, khi được chỉ ra như thế là sai, lại sang đội đi sửa sai. Tự mình cả đời làm theo, thấy ra, nhận thức, phân tích đều lờ mờ sai đúng đúng sai mù mịt. Tôi thật sự thèm được trình độ hệ thống hoá về lý luận và vận dụng được sự liên hệ và sáng tạo.
Sau vụ Nhân Văn mà tôi có sai sót, tôi đã đề nghị cho đi học trường dạy viết văn Gorky ở Matxcơva. Nguyễn Khải được chấm đi, còn tôi thì xin đi. Tôi nghĩ chỉ bỏ ra ít năm ăn chắc một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình tới được một bước mới. Nhưng rồi dự định ấy trên không chấp nhận. Lý do: người sáng tác thì nắm thực tế đời sống đất nước là cần hơn.
Năm sau, Nguyễn Minh Tấn ở viện Văn học được đi học viện Gorky. Tôi thắc mắc thì nghe giải thích: anh ấy làm nghiên cứu, cần đi. Nguyễn Minh Tấn công tác ban tuyên huấn, về khối văn nghệ làm chính trị viên trường Mỹ thuật sau lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Cũng như Đặng Đình Hưng về đoàn Văn Công Trung ương.
Tôi cũng dự chỉnh huấn theo phương pháp Hoa Nam cùng Đặng Đình Hưng, Nguyễn Minh Tấn, tôi được biết trước kia Nguyễn Minh Tấn ở tỉnh đội dân quân Vĩnh Yên. Tôi làm nghề chữ nghĩa hẳn hoi, sao tôi không đi học. Nghĩ thế thôi, thói quen thấy mọi cái trên cắt nghĩa đều rồi là phải cả, tôi im. ý nghĩ đi học của tôi cứ vừa trẻ thơ vừa đứng đắn.
Tôi sửa soạn cái bàn chải răng, quyển sổ tay mới và sách, như sắp đi đợt công tác dài ngày.
Trường Nguyễn ái Quốc bây giờ vẫn hai tầng dáng dấp ngày ấy. Có thể liệt váo một khu di tích lịch sử văn hoá: cơ quan đào tạo và bổ túc cản bộ chính trị qui mô nhất nước sau hoâ bình lập lại. Nhà hai ba tầng, kiến trúc nửa lưu luyến hội trường trong rừng, nửa đại lầu Trung Quốc. Đến bây giờ mà xung quanh vẫn vắng không mấy bóng cây lâu đời. Mới biết các cụ ta xưa nền nếp xây cất đình đền, miếu mạo khi đặt viên gạch móng đã nghĩ ngay hạ thổ trồng cây: những cây đa, cây đề, cây chôi mấy trăm năm trường thọ với toà nhà cho đời sau, như cây mọc trong cổ tích. Kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp - người sáng tạo hầu hết các hội trường tre nửa trong rừng thời kháng chiến ở Thái Nguyên, ở Tuyên Quang. Hoàng Như Tiếp nói thế tôi mới biết. Những năm các kiến trúc sư ở với chúng tôi chỉ thấy những bản vẽ nhà tranh nông thôn kiểu nhà ánh Sáng trong cặp các anh Nguyễn Cao Luyện, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Duật... Anh Hoàng Như Tiếp thì làm quản trị lo liệu nơi ăn chốn ở cho các gia đình tản cư, quanh năm đạp xe từ Phú Thọ sang Bắc Giang, vào Thanh Hoá.
Tôi gặp Hoàng Như Tiếp ở ô Chợ Dừa, Tiếp hỏi:
- Cậu đi đâu sớm thế? Tôi đáp: - Đi học - Học trường Đảng a? Tôi gật đầu. Hoàng Như Tiếp níu tôi lại, khoe:
- Tớ kiến trúc trường ấy đấy. Qui mô nhất Hà Nội. Được không?
Tôi nói:
- Tự dưng trên mái hội trường choang xuống một hòn gạch chỉ. May nó rơi ở mép tường, không vào đầu ai. Điều tra thì ra những hòn gạch thợ xây bỏ quên trên đầu tường. Việc người vôi vữa chẳng bận đến nhà kiến trúc.
Câu nói đùa không phải lúc. Hoàng Như Tiếp đẩy vai tôi một cái. Tôi chưa tha:
- Nhà vệ sinh, nhà tắm nước thấm tường mốc rêu rồi vỡ từng mảng. Các ống trong tường lắp chốt gỗ, nó mục ra.
Hoàng Như Tiếp quát:
- Cậu này dốt bỏ mẹ, lẫn lộn kiến trúc với xây dựng. Tớ không phải thằng thợ nề, biết chưa?
Chúng tôi học môn triết cho đén hết tháng giêng. Ba tháng mùa đông ngôi trong cửa sổ họp tổ và đọc tài liệu. Xa kia, những ngôi nhà năm tầng nhô lên như đánh đai quanh ngoài khoanh tre. Cánh đồng làng tôi đương thành phường phố, dàn giáo và bụi đỏ lầm lên cao ngất. Những ý nghĩ và mắt tôi nhìn lẫn lộn thấy cả những cái không còn nữa. Con đường đất trong cầu Điều ra, sáng sớm người quảy cẳng ngô chỉ trông thấy hai bàn chân đất lướt trên đám lá và hoa bánh khúc vàng long lanh ướt sương. Những gánh cẳng ngô đã phơi nỏ ở trong làng Noi đưa ra bán cho các nhà nghề giấy trên Yên Thái, làng Thọ tra bồi can giấy.
Những việc seo can, cái tàu seo, cái bồi, cây ép uốn, cái cối giã bìa, đãi bìa mà trong sách và tài liệu tôi đương nghiên cứu gọi là lao động giản đơn, công cụ và lao động thời kỳ này, thời kỳ này, những cung cách làm ăn cổ sư nghìn năm ấy phải chết đi thì công nghiệp mới lột xác được thành công cụ mới lao động phức tạp và tinh vi, những cái cũ tôi vẫn thấy trong tưởng tượng mà công cụ mới đã hiện ra đâu. Vẫn cây đa bên sân đình làng Nghè, mùa hạ từng đàn yểng bay đến rỉa quả đa chín vàng. Cây đề cổ thụ gốc to mấy người ôm đứng cạnh cầu chợ Bưởi, lá nõn đỏ hây một góc trời. Có bà hàng bánh đa ướt dưới cống Cót lên, thuở bé tôi theo u đi chợ được ăn bánh với hai miếng đậu rán phồng. Cảnh ấy không còn nhưng cây đề thì vẫn ngày trước, cổ thụ cứ trơ trơ đấy.
Chẳng còn đâu yên tĩnh nữa nhưng mọi cái cứ biến đổi và không biến đổi. Nếu là nơi xa lạ nào chắc tôi không thể nghĩ vẩn vơ quanh quẩn. Ngồi đây, tôi nhắm mắt cũng vẫn nhìn được những cái không còn. Bên kia, Kẻ Cáo, Kẻ Đàn, bên này sông Tô Lịch, trước mặt mép nước hồ Tây. Đường cổng đồng gốc gạo, hai bờ tre xóm Giếng và làng Dâu vào cầu Điều. Cái cầu, cái quán cho người qua đường, người làm dưới đồng sâu lên nghỉ trưa. Kìa, lại hiện về thời sự của thành phố bị chiếm. Một boong ke xi măng cốt sắt, nửa chìm nửa nổi cao như gò, lỗ châu mai bốn mắt dõi ra dưới hàng cây sồi lẻo khoẻo, vành đai lô cốt phòng thủ Hà Nội của tướng Đờ Tasinhi.
Trong tôi vẫn nguyên cái tò mò hồn nhiên như thuở bé buổi sáng cắp sách lên trường đình Yên Thái mà thật ra thì tôi đương mờ ảo trong khu vườn và nhà trường Nguyễn ái Quốc trước kia chỗ này là xưởng làm pháo của chủ hãng pháo điện quang Phú Mỹ. Đã có lần tôi vào đây xin việc làm, nhưng không có việc bàn giấy, đây nhà kho và xưởng pháo giáp ranh các xứ đồng Nghĩa Đô và Cổ Nhuế. Đường trong Noi ra, người quảy đồ may thuê trong thành đem trả, đi một dãy dài lên bến tàu điện Cầu Giấy. Cái đêm 9 tháng ba 1945 Nhật đảo chính Pháp, các làng xung quanh cánh đồng kéo vào hôi của kho giấy hợp tác vạc làng Hồ và nhà pháo Phú Mỹ. Kho thuốc nổ, làng tôi có thằng Cửu và thằng con cậu ba Phát phải bỏng khiêng được về nhà, nằm kêu khóc mấy đêm thì chết. Ngày ấy tôi mà xin được việc vào làm nhà pháo, không khéo tôi cũng toi mạng rồi.
Tôi trông ra cửa sổ bây giờ. Không dứt được ám ảnh những Trăng thề còn đó..., những Dám xa xôi mặt... phảng phất trên đầu lúa rì rào. Lại vừa năm nào, tôi đi với Nguyễn Tuân, Kim Lân và anh Ba Hĩ trong làng ra mùa tháng mười đi bắt chuột, xách những rọ, thuổng, mồi rơm, lồng sắt và hai con chó đen. Chúng tôi vào hun tổ chuột tận gò đất đồng Lỗ Vàng, buột mất con “ti ù” to bằng bắp chân thoát vào bờ rào nhà trường này. Thước phim những ngày qua cứ chồng chất, chồng chất.
Học viên các tỉnh ô tô đưa về trường suốt tuần - học viên bộ, thứ trưởng ở Hà Nội có xe đưa đón. Chế độ xe qui định ngặt, cơ quan chúng tôi chẳng ra bộ, thứ bộ, chỉ có thủ trưởng Nguyễn Tuân và thường vụ Nguyễn Huy Tưởng được phát chiếc xe đạp công gắn số biển xanh, nhất hội rồi.
Mỗi lần về thành phố tôi đi đường Cầu Giấy - ô Chợ Dừa, hai bên đường này xưa kia tường thành đất, Tây bạt thấp xuống làm đương, tử mặt đất lên mép đường vẫn cao bằng con sào, một quãng lại thấy tun hút giứa luỹ tre một lối, trổ xuống vào các làng trại ở trong xa. Thỉnh thoảng mới thấp thoáng một quán nước chè tươi, cái lều chữa xe đạp. Bây giờ nhà và người đã mọc ra ở túi bụi, quang cảnh xưa ấy đã vào cổ tích rồi.
Quãng đường trống gió rét căm căm qua cái bia đá nơi quan ba Phờrăngxi Gacnhiê 1874 chết trận cạnh toà nhà thờ họ đạo vắng hoe. Ngày trước, mộ lão ấy dưới cánh đồng - chắc chỗ lão ngã xuống, không biết đã được đưa lên ven đường thời nào. Và tên lão thì Tây đã đem gắn biển oách nhất vào cái phố vòng hồ Gươm, bây giờ là phố Đinh Tiên Hoàng.
Rồi qua chỗ quan hai Ban Ny cũng chết trong trận ấy ở cửa đền Voi Phục. Người Pháp cũng đặt cho một tên phố, lại cắm cái cọc xi măng trước cổng đền Voi Phục, xây một cái bảng to đề là “Chùa Ban Ny". Có lẽ chẳng ai để ý cái ngang ngược, cái dốt ấy, chỉ có tôi tò mò.
Cái mộ giả quan tư Hăng ri Rivie bị giết 1884 ở trận Cầu Giấy. Ngôi mộ sắt thép nguy nga giờ chỉ còn một tảng đá to bằng con trâu kềnh. Bà hàng nước bày chõng hàng lên mặt đá lởm nhởm. Tôi ghé uống bát nước chè tươi, hỏi bà hàng: “ ở đây xa chùa Trầm, chùa Thầy mà ai khiêng hòn đá to thế này về làm gì". Bà hàng nói: “Thấy bảo ngày trước nó là cái nắp mả Tây ấy mà”. Thật thì chỗ này xưa là phố nhà trò phủ Hoài, khách chơi ngồi trong tiếng hát, tiếng đàn trông ra “mả ông Năm” dưới bóng cây bàng, thấy cái mũi ông bằng đồng sáng nhoáng nhọn hoắt đâm lên trong bờ rào sắt.
Khoá học của tôi theo chương trình hai năm lần lượt có các môn và các hoạt động đã được thông báo:
Một- Triết học Mác. Duy vật biện chứng.
Hai- Duy vật lịch sử.
Ba- Chính trị kinh tế học.
Bốn- Sự tất yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.
Năm- Các vấn đề kinh tế và cụ thể.
Sáu- Đi thâm nhập thực tế ở một hợp tác xã đã cải tiến quản lý (hoặc nhà máy) để kiểm tra, đối chiếu các môn đã nghiên cứu.
Bảy- Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam.
Tám- Thu hoạch và tổng kết.
Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các môn chính trị kinh tế học, kinh tế cụ thể có hai thày Liên Xô và thày ta phụ giảng ngoại khóa. Khóa này, khóa học cuối cùng có chuyên gia giảng viên Liên Xô. Chỉ những đầu bài nghe đã vừa hấp dẫn vừa ngại. Lại thấy bảo đến mục thu hoạch tổng kết câu hỏi và trả lời đều phải viết ra giấy. Cũng chẳng lo vì không phải thi lên lớp, không làm được bài chắc chỉ ngượng ti chút, ôi thôi có người cô ta và không thể đoán trước được cái câu học tài thi phận. Cái năm xưa thi vào trường Bưởi, tôi nộp giấy trắng thì biết trước phải trượt rồi, nhưng những đi thi lấy bằng Sơ học, bằng Cao đẳng tôi làm bài, viết cóc nhảy cho kịp giờ, và rồi vào vấn đáp, một bà đầm hỏi, tôi đứng đực ra không trả lời được. Thế mà đến hôm xem bảng cũng thấy đỗ.
Nhiều bài ngoại khóa, tôi nhớ hơn vì thày ta nói dễ hiểu. Những báo cáo điển hình minh họa bài học của anh hùng nông nghiệp Đỗ Tiến Hảo, của một công nhân kể khổ... Viện trưởng viện triết Hoàng Minh Chính, nhà kinh tế học Minh Chi thuyết về khoanh vùng kinh tế. Nhanh thật, các anh ấy đã có chuyên môn thành các nhà triết, nhà kinh tế lúc nào. Hoàng Minh Chính giơ tay, cất giọng hùng biện. Mặt anh nghiêm nghiêm, lừ lừ kiểu thủ lĩnh bẩm sinh. Từ lâu tôi đã phục Hoàng Minh Chính tổ chức trận tập kích sân bay Gia Lâm đêm đầu toàn quốc kháng chiến, mà tôi nghe hơi đã viết một tin viết lên trang nhất báo Cứu Quốc là quân ta xung phong chất rơm hỏa thiêu 25 máy bay địch ở sân bay Gia Lâm. Dáng vẻ Hoàng Minh Chính tự tin một cách hồn nhiên. Chứ không thấy dơ như mấy ông tỉnh ủy bắt chước anh Ba mặc áo lụa bà ba ống tay rộng, phe phẩy cái quạt giấy. Minh Chi tôi quen từ trước kia cùng cánh phật tử với bác sĩ Thuyết, bè bạn đồn vì anh phải lòng con gái bác sĩ Lê Đình Thám mà thành phật tử. Dường như Minh Chi là người lúc nào cũng có vẻ vui, đọc khỏe và viết đủ các sách chính trị, kinh tế, lịch sử phổ thông, sơ giải từ thời mồ ma nhà xuất bản Minh Đức 1946. Tóc Đinh Văn Vinh bạc sớm quá. Bây giờ anh giảng về kinh tế khoanh vùng, đúng sở trường hiểu biết mênh mông của anh chưa. ít lâu sau có người bảo tôi là anh này “xét lại". Anh mới mượn tôi một tiểu thuyết Moravia, Cô gái Rô ma.
Chẳng hiểu thế nào. Rồi lại thấy anh dịch kinh Lăng Nghiêm. Đã lâu Minh Chi chuyển vùng vào miền Nam.
Không biết anh có ở chùa với cụ Minh Châu không, nhưng anh viết báo Giác Ngộ, ký cư sĩ Minh Chi.
Tôi chẳng nhớ tên ông thày Nga nào, mà nhớ tên anh Đậu Ngọc Xuân, người dịch các bài triết và kinh tế cực khó đối với tôi. Thày triết Xéptôlin khóa trước giảng chức năng mỹ học là tiêu chuẩn hàng đầu của văn nghệ rồi mới đến chức năng giáo dục vân... vân...
Đến thày dạy tôi thì lại bảo chức năng giáo dục mới là số một. Nguyễn Văn Bổng tha cái chức năng mỹ học vào khu giải phóng trong chiến trường B, thế là bị tai nạn. Tôi thì chức năng giáo dục, chính qui quá, nhưng tôi cũng chẳng phát huy được hơn câu giảng.
Khó lắm, tưởng là đến nghe giảng về kinh tế cụ thể rồi về nhà máy liên hệ, kiểm tra sẽ vỡ ra, nhưng càng ù ù cạc cạc vịt nghe sấm.
Mà chỉ nhớ, chỉ hãi những vớ vẩn. Có anh kể: Khóa trước có một thày Nga già dạy kinh tế cụ thể vừa lên bục hội trường đã dọa: “Tôi ghét những người ngồi nghe mà nhổ râu. Ai nhổ râu thì hoặc là người ấy hoặc là tôi ra khỏi đây ngay”. Thày lớp tôi không nói thế. Nhưng tôi nhỡ sờ lên cằm, lại rụt tay lại.
Tôi nhìn quanh xem có thấy ông Hoàng Trung Thông nào đương vặt râu không. Hoàng Trung Thông hay nghiêng mặt phồng má nhổ râu. Tôi quá hoang tưởng, Hoàng Trung Thông không học khóa này.
Thế thì những cái được của tôi cũng vẫn lại chỉ là chắp vá, khâu rúm, khâu đụp. Tôi chịu khó cóp nhặt nhưng biết đến bao giờ mới được cỗ máy. Vừa học vừa nhớ lăng nhăng, làm thế nào cho có trí thức. Có lẽ chẳng bao giờ. Tôi vẫn chỉ là tôi vậy, vậy thôi.
Thế nhưng tôi đã tỉ mỉ, cẩn thận sửa soạn hai loại sổ. Không bắt chước và cũng chẳng biết thành nếp bởi đâu, từ bao giờ tôi vẫn làm tương tự thế mỗi chuyến đi. Một sổ chép bài giảng, với những ý kiến trao đổi ở tổ. Một sổ những ý nghĩ liên hệ đến cái nghề cầm bút. Bài giảng được phát, tôi đóng thành bộ. Hết khóa học, tôi cho Nguyễn Bá Chính bạn tôi giảng viên Đại học Kinh tế Tài Chính. Chính đỗ tú tài thời Pháp, người mực thước như sinh ra để làm thày giáo, chắc chắn những tài liệu và sổ tay ghi chép của tôi Chính dùng có ích hơn tôi. Anh đã đến nhà tôi ôm cả cái cặp giấy về.
Trước nay, tôi hay ghi thoắng cho tôi đọc. Nhưng lần này, sổ ghi tôi viết nắn nót không trốn nét. Chỉ vì ở bàn trên tôi có một chị ở cấp ủy địa phương lên học, chị ghi không kịp thày giảng, phải mượn sổ tôi để chép. Chị đã trả ơn, biếu tôi chai dấm làm bằng chuối chín và chị dạy tôi cách làm dấm chuối. Quí lắm, các cửa hàng nước chấm nhà mậu không mấy khi bán dấm. Nếu có chỉ bán ngữ một góc lít, không chua mà nhạt như nước lã. Đằng này, có cốt nước sôi tinh khiết, cắt quả chuối chín bỏ vào, nút kỹ để một tuần lấy ra ăn, cũng chua mà lành. Có người bảo tôi ngày trước chị ấy bán rau ở chợ tỉnh, thạo rau cỏ, mắm muối. Chị mặc áo vét ka ki đeo túi tài liệu, nào ai đoán được ai.
Tôi nhớ những dớ dẩn. Tôi không có vốn học cơ bản. Tôi đi học cũng chẳng hơn chẳng khác chị bao nhiêu, chị không biết đấy thôi. Cũng như không rõ mấy trăm học viên tuổi tác lổn nhổn, có các cụ thâm niên Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội, có người học Tây, học Nho, có người đến tháng tám 1945 mới tập ngoáy chữ ký. Nghe giảng thế nào, làm bài kiểm tra ra sao.
Chẳng ai hỏi ai, mà rồi hình như cũng xong xuôi cả.
Cái hôm kiểm tra tổng kết tôi nhận một mớ câu hỏi: triết học, kinh tế cụ thể, lịch sử Đảng... Bấn cả lên.
Nhưng tôi không còn là trẻ con nộp giấy trắng như cái năm thi trượt vào trường Bưỏi. Tôi cũng không hiền lânh chép bài như chị bạn dạy tói làm dấm chuối. Thế mà rồi tôi cũng viết được kín vài trang giấy.
Nghe nói khóa trước, nhà sử học Minh Tranh giám đốc nhà xuất bản Sự Thật đã không làm bài kiểm tra. Không phải Minh Tranh không làm nổi. Mà anh không bằng lòng cái cách thi cử hỏi đáp kiểu trường tiểu học vừa trẻ con lại vừa hình thức không đi đôi với điều kiện. và trình độ mọi mặt khác nhau của những người đi học đầu đã bạc, đương bạc. Không biết những cán bộ mấy chục năm vùi đầu mọi công tác, khi phụ trách chung, khi dân vận rồi nông nghiệp, thương nghiệp, thuế vụ... mà anh ấy xưa kia cũng như từ khi cách mạng, chưa bước chân vào một lớp văn hóa, chính trị nào bao giờ làm thế nào. Có hôm ngồi chuyện tếu, chúng tôi điểm mặt những ông này bà này, ở Trung ương ở các tỉnh thì thấy nhiều người khéo trốn học lắm.
Trốn đến tài, công tác lên đến bí thư tỉnh, phó ban trưởng ban, công tác to thì càng lắm lý do thoái thác vì đột xuất, đột xuất, tiếc quá không được đi học đợt này, nhưng mà bận, đợt sau lại đột xuất. Cho đến tận ngày về hưu mà vẫn đàng hoàng cao cấp không lòi đuôi. Ghê không.
Tôi gặp chăng hay chớ, không táo tợn như Nguyễn Công Hoan ngày xưa đã nhờ bạn vào thi vấn đáp hộ bây giờ thì nhờ viết hộ. Tôi cũng không dám cứng cựa như Minh Tranh. Hết khóa học trở về, Minh Tranh cũng rời bỏ mọi công tác đương làm, hình như để ngồi chơi xơi nước. Nhà Minh Tranh ở khu phố tôi. Tôi lại làm trưởng ban đại biểu khối, mỗi năm ngày Tết chúng tôi đến chúc năm mới nhiều nhà bà con. ít khi tôi được gặp anh ở nhà trong dịp ấy. Nhưng thường thấy anh tha thẩn quanh hồ Thiền Cuông. Già đi nhiều, anh vốn nhỏ ngưòi, bây giờ càng lủi thủi mình hạc xác ve. Lớp tôi, về tuổi tác, thì tuổi ai phần nhiều cũng đã cứng. Có những vị trong ngoài bảy mươi, các bà Nguyễn Thị Thập, ông Lò Văn Hặc, ông Kha Vạng Cân, ông Lê Văn Hiến... Đi học, ban tổ chức thông báo tiêu chuẩn, chế độ học viên. Cơ quan đảng của ngành đề nghị rồi nhà trường triệu tập. Các cơ quan là cơ sở đưa người đi học. Người thì được đi trau dồi kiến thức, chuẩn bị lên cấp. Người đến trường vài ba tháng lại phải về, vì công tác khẩn ở chiến trường B, ở nước ngoài. Có người lão quá, đi học là một ưu đãi tinh thần rồi về hưu. Nhiều nơi cơ quan hục hặc nhau làm mẹo đảy đi học, tạm hòa hoãn. Có cán bộ chẳng sắp việc nào cho êm, thì hãy gửi đi học cái đã. Bao nhiêu đoạn trường, mỗi người đến đây mỗi tâm sự, mỗi nỗi, làm sao mà tò mò cho thấu.
Ông Canh sáu mươi lăm tuổi. Người cao lớn nhưng béo bệu, không khỏe. Ông làm thanh tra hay nội chính, không biết. Học hết khóa thì về hưu, ông kể thế. Không cùng tổ, nhưng ông hay trò chuyện với tôi. Ông Canh quê Thái Bình. Ông hoạt động từ năm mười lăm tuổi. Ông bị bắt, bị giam Hỏa lò rồi phải phát vãng lên Bắc Mê. Ông bị giam ở Hà Giang không biết bao nhiêu năm. Nó bỏ quên ông ở chỗ ma thiêng nước độc, nếu không có năm 1945, chắc ông đã bỏ xác ở đấy. Ông đọc cho tôi nghe những bài thơ ông làm trong tù. Ông Canh nói những bài thơ ca cách mạng của ông đem đóng lại được mười một tập giấy. Có thể, vì ông làm thơ, thấy tôi nghề văn thì ông làm quen.
ông Canh nói:
- Xong đây thì tôi về nghỉ.
- Trông anh khỏe, minh mẫn lắm.
- Tôi tổ chức cơ quan đoàn kết và công tác đâu ra đấy. Tôi về hưu không phải vì chuyện đấu đá. Hoàn cảnh tôi khó lắm. Cả thời trẻ ngồi tù, lấy vợ muộn quá. Bốn thằng con trai, mà nhóc đầu mới mười một.
- Thế chị ở nhà...
- Nội trợ, làm linh tinh. ở tổ đan len, hết việc thì tổ hợp tác lại gọi đi đẩy xe than cho cơm nồi nước sôi...
- Vậy cũng gay.
- Gay lắm. Tôi ở nhà còn đi chợ, vào bếp, hò hét lũ trẻ, chúng nó đánh nhau cả ngày. Chứ cứ đi biền biệt, không xong.
Tôi thở dài, thương ông Canh, lại nói:
- Thế thì gay thật.
ông Canh chỉ ăn bữa trưa ở bếp nhà trường, chiều tan lớp ông Canh cắm cúi đạp xe về. Nhà ông ở gần chợ Hôm. Có họp tối ông Canh cũng không ngủ lại.
Cả những tối có phim Liên Xô, phim Trung Quốc hay có văn công vào, ông Canh coi như không biết.
ông Canh bảo tôi:
Tôi về kể chuyện, mấy thằng con tôi bảo anh viết quyển “Dế mèn” hay lắm, phải không?
- Vâng.
Nó bảo tôi hỏi mượn hay là xin anh một quyển.
Anh có làm thơ không?
Tôi đã thấy đầy đủ hơn cái cớ ông Canh làm quen với tôi. Một hôm ông Canb trả lại tôi quyển Dế mèn phiêu lưu ký. Ông Canh nói:
- Tôi chẳng thấy hay ở chỗ quái nào. Trẻ con bây giờ trình độ không ra sao.
Tôi đành cười ngơ ngẩn: “ừ, trẻ con ấy mà. Tôi viết cho trẻ con, anh đọc làm gì.
- “Trẻ con thì đọc sách cũng phải có mục đích. Anh viết quyển sách này có mục đích thế nào?”. Tôi đưa đẩy qua loa rồi sang chuyện khác. Chúng tôi vẫn trò chuyện bình thường, cũng chăng lần nào ông nói lại cái chuyện viết sách có mục đích, trẻ con bây giờ chẳng hiểu gì. Việc nhà ông rối canh hẹ, còn hơi sức đâu mà nhở con dế, con cào cào... Người ta sợ, người ta xấu hổ “được” nghỉ hưu, còn chạy chọt và giả mạo giấy má để chậm về, ông Canh thì không.
Ông mong chóng học xong. Có khi ông nghỉ cả tuần không có lý do. Đến lớp thì ông kể bà ấy nhức đầu, ông phải ở nhà đẩy xe than, Tết sắp đến, tổ hợp tác thêm việc nấu bánh chưng.
Một hôm, ở phòng thường trực nhắn tôi ra có người gặp. Tôi trông thấy một người mặc bộ đại cán màu xi măng đã phai nhợt nhạt, ngồi đợi tôi trong phòng khách. Tôi đã nhận ra Mùi Cá. Tôi chơi với vài bạn làm an ninh. Có người tôi quen biết từ hồi vụ Nhân Văn. Có khi tình cờ. Không phải tôi quen thuộc vì các anh nhờ làm tai mắt, tôi cũng không có thói quen rỉ tai khoe khéo tôi là cá, cá chuyến, cá việc, cá vụ. Có lần, Trọng Hứa hỏi: “Người ta bảo ông làm cá, phải không? Tôi nói: “Công an nhân dân thì ai cũng làm cá được”. Những người đã nghi thì chẳng biết nói xuế xoá thế có đủ tin hay không, nhưng chơi với cá tôi cũng học được miếng võ còm. Là vào quán cà phê Phúc Châu trên Hàng Giày thường chọn góc ngồi có thể nhìn bao quát. Muốn quan sát được nhiều thì cách ghi nhớ của nghề văn cũng đòi thế.
Không nhớ Nguyễn Tuân hay Nguyễn Minh Lang giới thiệu tôi quen Hùng Cá, rồi với Lý Béo khách sạn Thắng Lợi, lại dây mơ rễ má quàng đến Khải cà phê. Còn Kim Sơn thì Nguyễn Sáng đã bạn từ trước, Kim Sơn hay rủ đến nhà đánh chén. Kim Sơn công tử Sài Gòn đã cùng Hoàng Đạo lặn vào hoạt động Sài Gòn
- Hà Nội mà chiến công kết thúc lúc nửa đêm đánh đắm tàu chiến Amiô Đanhvin ngoài khơi Sầm Sơn. Năm trước, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng về sự tích anh hùng trên, tôi đọc biết Kim Sơn con nhà giàu khi ấy mới lấy vợ mà bỏ Sài Gòn đi làm công tác quyết tử, tôi thật bồi hồi... Tôi có nhờ Hùng Cá mua củi, bấy giờ củi đun và mữ nhà mậu đều bán phiếu, nhưng Hùng Cá cũng chưa mua hộ được củi lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đi chè chén thì có. Hùng Cá hay đưa sách Pháp cho Nguyễn Tuân mượn. Người ta thì thào Hùng Cá theo dõi Nguyễn. Tôi nghĩ cũng cứ đồn to chuyện ra thôi.
Mà Nguyên Tuân nói có lý: tao không đi họp việc quan trọng, tao không biết bí mật quốc gia thế nào, chỉ thỉnh thoảng nói đổng chơi, cá theo tao làm gì cho tốn cơm. Hùng hoạt động nội thành thời Hà Nội bị chiếm. Các khácb sạn lớn, khách sạn Mê Tô Pôn là nơi đi về, ăn ở an toàn của Hùng. Bây giờ Hùng thường đưa chúng tôi đến khách sạn ấy, mà anh em nhà bếp, nhà bàn.. đều là cơ sở cũ, chúng tôi đánh chén giá nội bộ không có giá nào. Lưu Thiệu Lý chúng tôi quen gọi là Lý Béo quản lý Thống Nhất rồi lên Thắng Lợi. Cứ đàn đúm cả chủ lẫn khách thật thuận tình cho bộ mặt văn nhân tài tử mà những cái túi thì lép xẹp còm cõi của chúng tôi. Cũng còn hơn bao nhiêu lâu nay đi qua Mê tô pôn Sôphitel chẳng buồn ném vào cái đuôi mắt, mày con dây mơ rễ má gì trong ấy nữa mà nhìn!
Chỉ còn cà phê Khải. Cái hàng cà phê trong hẻm chợ Hôm, bây giờ đã thành cao lâu đặc sản bít tết 202 phố Huế của tỷ phú Khải. Đôi khi, Hùng Cá và tôi đến lấy một bàn khuất, ngồi nhấm nháp lại những mơ màng đã qua. Hùng Cá đương được lo liệu viết lịch sử ngành ở thành phố. Những lần xưa đến đây, còn có Nguyễn Sáng, Nguyễn Tuân, nhưng rồi cũng chán không tới nữa. Bởi vì nhà hàng này độc đáo có cái bít tết, mà hai ông này thì chỉ trệu trạo món cua nhồi “phá xí”. Răng đau, răng rụng cả rồi.
Khải vốn là một thày giáo hồ lơ ở ngoại ô Thanh Nhàn. Rồi lái xe, có xe hàng chạy và cũng có làm đôi ba vụ việc cho an ninh thành phố bị chiếm 1954 rồi lái xe sứ quán Pháp. Nhưng cái ham muốn của lão này lúc nào cũng đinh ninh, cả những khi khốn khó chìm nổi vật lộn với tem phiếu và nhà mậu, Khải vẫn đuổi theo cái mộng và thực của mình. Cũng chẳng khác kỳ vọng sáng tạo của người cầm bút. Có điều Khải toại nguyện, tác phẩm nghệ thuật hoài bão lớn của anh đã xây dựng thành công.
Cà phê pha lấy cho khách. Phở thì Khải nấu nước dùng và đứng chan từng bát đến bây giờ Khải đã có nhà hàng bốn tầng lầu, mà mỗi sáng Khải vẫn len chợ Đồng Xuân, tự tay mua lấy bó hành hoa, mớ cần tây và chọn từng súc thịt bò quẳng ra xích lô rồi lẽo đẽo đạp xe theo về. Không phải thân làm tội đời, mà cái đam mê của con người ta thì không cắt nghĩa được.
Cũng như hồi phở Khải đông khách nức tiếng phở bò, nhưng Khải không đụng một miếng. Anh hàng phở hay thèm rau muống, đằng này môi sáng xong hàng Khải lên phở Hải con lão Chi làm bát phở cánh gà.
Khải cực khó tính và nền nếp với người làm. Một dạo, mụ vợ lẽ chủ rạp Mê Linh cũ cũng làm bưng bê ở đây. Trên tạp chí ảnh Châu á ở Singapo có hình ông chủ 202 đứng với cô nhà bàn này, tôi những tưởng anh ta chộp được. Nhưng rồi có ngườiViệt kiều “khách biên đình sang chơi” đến đây, đã bê mụ ấy về Mỹ.
Thỉnh thoảng mụ vẫn về và đến chơi. Số phận và may rủi biết thế nào là cùng nhỉ?
Có việc đến công an hay công an gặp thì chẳng mấy khi chuyện vui, nhất là anh công an Mùi này.
Mùi không chơi bời, Mùi không phải kiểu những ông cá chìm cá nổi, cá ươn, cá nửa mùa bè bạn tiêu dao của tôi. Tôi biết Mùi vì công việc. Mùi chất phác. Chuyện với Mùi, tôi đùa: “Cậu làm công tác tbuế. đi bắt rượu lậu hợp hơn và chắc là thành công hơn ở ngành văn hóa". Mùi lành, chỉ cười, không biết giận, lại thật thà hỏi tại sao anh lại nghĩ thế. Tôi bảo tôi quen một anh khu Năm bộ đội phục viên lấy vợ làng Giá. Anh làm cán bộ thuế huyện, trông nom thu thuế chợ Sấu, chợ Giá. Vợ con, nhà cửa, vườn cây, ao cá tươm tất lắm.
Chúng tôi chạy máy bay Mỹ, trại sáng tác thiếu nhi của nhà xuất bản Kim Đồng mở ở làng Giá. Người xa cứ tưởng Sấu, Giá một làng, nhưng là hai làng ở gần nhau. Chỉ rượu bên Sấu cô tiếng ngon, nhưng đương cấm rượu. Anh cán bộ thuế đi bắt rượu bên Sấu, thỉnh thoảng đem một hai bi đông rượu về, đi cửa sau vào bán cho tôi. Tôi thấy anh ấy làm việc phải sức mà ung dung và tôi quen anh vì thế - tôi bảo Mùi. Mùi cười, lúng túng nói: “Tôi không biết uống rượu, anh ạ”
Mùi ít chữ, được cái chịu khó, không lên điệu vừa khoe vừa giấu dốt, như một số cán bộ tôi hay gặp luôn.
Bấy giờ tuyển công an không lấy người thành phố, mà đưa người quê Vĩnh Phúc vào và ở Thanh Hóa ra, có anh chưa trông thấy, chưa ngồi vào cái ghế sa lông bao giờ. Nhiều khi họ tỏ hăng hái nhất lại do một mưu mẹo khác. Cái dạo Kim Lân mấp mé phải lên thớt vì tập truyện ngắn Con chó xấu xí, Mùi hỏi tôi: - Anh có quen nhà văn Kim Lân không?
- Có.
- Hàng xóm tố cáo anh ấy nuôi con chó đặt tên là con chó xấu xi, cứ chửi cả ngày, như chửi người, thế thì chửi ai. Nhiều vấn đề lắm.
Tôi bảo:
- Không phải. Ông ấy viết một cái truyện ngắn tên là Con Chó Xấu Xí.
- Truyện ngắn chứ không phải người à?
- ừ
- Anh có truyện ngắn ấy không?
Cái người hàng xóm đi bô báo Kim Lân nuôi chó, chửi chó thì không phải bây giờ Mùi nói tôi mới biết.
Mà tôi biết cán bộ ấy trong nhiều cuộc họp đã phân tích và lên án dữ dội Con chó xấu xí. Anh là em sinh viên Nhung - người mà báo chí hôm đảo chính Nhật ca tụng Nhung đã cùng quân Nhật đánh thành Hà Nội, bị hy sinh. Em Đại Việt mà bây giờ là cán bộ ta phải gĩư bùa hộ mệnh thì chưa biết chính anh ta sẽ làm cho Con chó xấu xí đánh chết được thằng viết ra nó.
Chẳng thiếu những kẻ lý lịch phức tạp, dối trá công tác lôi thôi đứt đoạn đã lên gân đấu người khác hết cỡ hồi xảy ra việc Nhân Văn. Cũng là vậy thôi. Mùi còn ít tuổi. Tôi thương Mùi vì thật thà. Mùi cũng quen vợ tôi và biết tất cả các con tôi. Mùi đã hỏi tôi những cái mà chắc Mùi không dám hỏi ai. Phố xá đương nhộn lên chơi phong lan, cá vàng. Con cá vàng thì biết rồi, vì con Mùi hay mua cá vàng ở chợ về chơi. Nhưng phong lan thì chưa biết là cái gì. Mùi hỏi. Tôi không thạo chơi phong lan, nhưng ít ra tôi cũng cắt nghĩa cho Mùi về phong lan, lan gió, lan đất được. Một hôm, Mùi giơ cho tôi nhìn cái đầu mục một tờ báo Sài Gòn in to dòng chữ Phần văn luận trên đầu trang. Mùi băn khoăn: “Cái thằng Phần Văn Luận nghe quen quen, anh có biết nó không". Tôi nói: “Nó là tên mục, tên bài văn luận, xã luận, không phải tên người đâu”. Mùi lặng lẽ ghi vào sổ tay. Không biết thì hỏi, có người tin cậy để Mùi hỏi, Mùi lễ phép, tự nhiên. Thỉnh thoảng Mùi còn nhờ tôi nói về văn học nước ta, văn học thế giới, Mùi lại mở sồ tay và chăm chú nghe.
Mùi hay đóng bộ ka ki đại cán 1954 vàng xẫm may ở Thái Nguyên về tiếp quản Hà Nội, màu đã nhạt trắng. Việc gì cũng chỉ ngồi đến gần mười giờ, Mùi xem đồng hồ rồi đi. ở cửa hàng bia hơi phố Hàng Khay ra, tôi thấy Mùi đứng sắp hàng trưóc cái xe tải rau muống, rau dền, rau bí đương rỡ xuống hè phố Bà Triệu. Vợ Mùi làm nhà máy hoa quả, chắc là giờ đi làm của Mùi cao su hơn, có thể đỡ đần vợ được.
Mùi cười cười bắt tay tôi. Thấy công an cười, thế chắc chuyện vui thôi.
- Tôi đến xin hỏi anh một việc.
- Việc gì thế?
- Anh có quyển sách Bác sĩ Givago...
- ừ, nhưng không phải của tôi, mà cơ quan bảo giữ hộ.
- Vâng, cơ quan bảo anh giữ.
Tiểu thuyết đốc tờ Givago của Patecnăc dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Galima hay nhà Laphông, tôi không nhớ. Patenăc đã bị gạch tên hội viên hội nhà văn Nga và hội nhà văn Liên Xô. Patecnăc được giải Nôben văn học, nhưng không được ra nước ngoài dự lễ nhận thưởng. Lại ra tuyên bố báo chí “không thèm đi nhận". Những cái rắc rối ở bên Liên Xô, dẫu chưa tỏ tường ất giáp thế nào, nhưng cứ coi thế là có cái phải canh chừng ở đây. Cơ quan tôi được nhận một quyển tiểu thuyết Đốc tờ Givagô do trên phân phối.
Tự dưng lĩnh một quả bom, phải cất giấu sao cái của nợ này đây. Để ở thư viện không tiện, mà cái thư viện con con, không có tiêu chuẩn tiền mua sách, đâu biếu quyển nào thì có, cộng với một số quyển đem trên rừng Việt Bắc về đã cũ nát. Đôi khi, sứ quán Pháp cũng tặng sách, ôtô đưa đến cả ôm. Nhưng họ tinh ý, chỉ biếu các tuyển tập cổ điển Vônte, Coocnây... Không có sách mới, bây giờ bày của lạ này ra thì chắc thu hút tò mò ngay. Không để ở thư viện, mà cũng không thể cất ở đấy. Nhỡ mất thì khốn. Không biết ai đã có sáng kiến dưa cho tôi đem về giữ ở nhà.
Quyển Đốc tờ Givago li ti chữ dày năm sáu trăm trang, tôi cũng rọc vài tờ rồi bỏ trên giá sách. Vừa dài lại đọc khó, phải tra từ điển luôn.
Anh Mùi kể cho tôi biết:
- Hiện ở Hà Nội có một quyển Bác sĩ Đivago đương truyền tay nhiều người ở đâu ra, bọn phản động đưa lén lút trong Nam ra hay ở vali ủy ban Quốc Tế, tôi đi tìm...
Bây giờ hỏi tôi, chắc có ý nghi ngờ. Tôi nói:
- Tôi giữ quyển ấy đấy, nhưng tôi không cho ai mượn.
- Anh cho tôi mượn nhé.
Rõ ràng cách nói không tin và muốn kiểm tra. Tôi về nhà, hôm sau đưa quyển tiểu thuyết Đốc tờ Divagô cho Mùi. Quyển sách đã lâu để trên giá, bụi bậm cóc cáy mép sách như ám khói. Giấy búp phăng, không xén, tôỉ mới rọc mấy tờ đầu. Tôi gật gù khoái ngầm cái nghi kỵ của Mùi, nhưng cũng cẩn thận mở cho Mùi biết và cắt nghĩa thế nào là quyển sách chưa rọc và sách rọc giấy lờm xờm, lại qui hơn sách xén nhẵn.
Mùi nói:
- Cho tôi mượn quyển này vài hôm, anh nhé.
Mùi không biết tiếng Pháp, mà phải báo cáo, cho nên anh cẩn thận kỹ lưỡng hỏi tôi, chứ anh biết làm thế nào. Mấy hôm sau, Mùi đem sách đến trả tôi. Mùi nhìn quanh, trong phòng khách chỉ có hai chúng tôi, Mùi thì thào:
- ở Hà Nội chỉ có hai nơi được cỏ quyển sách này.
Cái quyển Bác sĩ Divago đương nhiều người truyền tay ấy là quyển sách ở thư viện trường Nguyễn ái Quốc này đấy, anh ạ.
Thế mới quái. Nhưng trước nhất chúng tôi bị nghi ngờ đã - không thể trường Đảng cẩn mật vững chãi lại để lọt sách xấu ra được. Mùi đưa trả tôi quyển sách chưa rọc. Mùi đã cho tôi biết rõ vậy, mà tôi nhìn mặt Mùi dường như ngờ ngợ chưa hẳn Mùi tin tôi. Có thể lắm. Hay chỉ là cảm tưởng thành kiến và hoang tưởng của tôi. Cũng như, ông cán bộ lập trường cứng cáp đương sửa soạn bài bản đánh truyện ngắn Con chó xấu xí mà tôi lại mách ông ấy là em thằng sinh viên phản động thân Nhật thì ai tin được tôi bởi không thể cái người vững vàng thế lại có liên quan xấu thế, thiếu lô dích tợn.
Mấy năm sau, có những dịp qua Matxcơva, các bạn chỉ cho tôi thấy cụ Patecnăc đến câu lạc bộ Hội Nhà Văn. Cụ già nhỏ nhắn, gầy gùa, đội mũ phớt, bước nhanh nhẹn. Cụ uống bia và vào phòng chơi bi a. Về khuya, các người đều chơi bi a ăn tiền. Nhớ đến chuyện vu vơ chúng tôi bị liên lụy vì tiểu thuyết của cụ, lại nghĩ cười, cười buồn. Suýt nữa chẳng phải đầu phải tai, chuyện ở xa thế, cụ không bao giờ có thể tưởng ra được.

Chương VIII

Những chuyện bâng quơ đâu đâu đến quàng vào đời người. Có khi thoảng qua, có khi tự dưng mà đổi đời. Năm 1947, chúng tôi làm báo Cứu Quốc ở châu Bạch Thông trên Bắc Cạn, có hôm chủ nhiệm Xuân Thủy kể với tôi: “Hồi bí mật, có thời kỳ báo Cứu Quốc đóng ở núi Thầy, gần vùng quê cậu. Chúng tớ định tìm cậu đưa đi thoát ly làm báo. Về thăm dò cơ sở Việt Minh ở làng cậu, mấy cô phụ nữ cứu quốc báo cáo cậu giăng hoa lắm” Cũng lại một tình cờ đã xảy ra và không xảy ra. Nếu ngày ấy tôi đi thoát ly, rồi thế nào, tôi có vẫn theo đuổi viết văn không và sau này tôi lên chức gì, tôi là ai, biết được.
Năm trước, gặp cô Phương ở nhà nghỉ Đầm Vạc. Phương hỏi:
- Anh có em gái là Ngọc?
- Vâng. Nhưng Ngọc ốm mất đã lâu.
- Cái ngày tôi với Ngọc sang Quảng Châu chữa bệnh, hai chị em ở với nhau mấy tháng. Ngọc hay kể chuyện về anh, bây giờ mới gặp anh mà tôi ngỡ như đã thuộc cả nhà cửa nhà anh và ngõ giếng, luỹ tre quen biết đã lâu. Lạ nhỉ.
Năm ngoái, tôi đến thành phố Quảng Châu, chợt nhớ đã có khi hai cô Ngọc, cô Phương đến đây và ở tòa nhà bên trong bờ tường bệnh viện y học dân tộc kia, hai người bạn gái đã trò chuyện những ngày xa quê. Tôi không có tơ vương gì cô em họ ngoại. Khi được tin Ngọc ốm nặng vợ chồng tôi tới thăm. Ngọc nằm nhìn đi đâu rồi nói: “Sao em sắp chết rồi, anh mới đến?
Hay là cái cô Việt Minh Ngọc ngày ấy đã mách với Xuân Thuỷ rằng tôi hoa lá. Ôi chao, những tình cờ, những tình cờ chắp nối...
Ngọc có người em trai. Chung làm đội xếp ngoài bóp cảnh sát hàng Trống. Chung đã vào tổ chức cảnh binh cứu quốc thời kỳ bí mật. Sau Tổng khởi nghĩa. Chung được điều về làm trưởng ty công an tỉnh ở Phủ Lý. Một lần, Chung về nhà ăn giỗ mẹ. Có người đến bảo: “Anh về cơ quan ngay, có công tác khẩn". Chung đi và từ đấy không bao giờ về nữa.
Đã hơn năm mươi năm qua. Khi còn sống, bố Chung và chị Ngọc đã đi nhiều cửa hỏi. Đến bây giờ, thằng em út không biết mặt anh mà nhà tản cư đi kháng chiến, cũng không còn giữ được cái ảnh nào, thằng em vẫn đi kêu cứu và dò la về cái chết của anh. Việc ấy ở Hà Nam có còn ai biết, và ai có can đảm nói ra giải cái oan này?
Chung chết có phải cũng lại là một tình cờ. Trong khóa tôi học, còn có những tình cờ như con muỗi mắt chàng màng bề ngoài, mà rồi hóa oan gia và chẳng ra mặt mũi thể thống thế nào. Có một chuyện người khác kể. Bệnh ăn cắp vặt của người ta khi đã thành một thói quen, một tính xấu thì chẳng cứ ai và không phải chỉ vì túng thiếu. Có một học viên, mỗi hôm sau bữa ăn trưa, ông đi từ phòng ăn ra chỗ căng tin mua chuối tráng miệng. Nhà hàng bày chuối cắt rời từng quả, tãi ra đến hai ba cái bàn, cho người mua đỡ phải xúm xít. Khách học viên ra mua hàng ngày là những người tuổi tác và đứng đắn cả. Lấy mấy quả trả tiền đưa tay hay đông quá thì đặt tiền xuống bàn như nải chuối, củ sắn luộc, quả soài treo trên gốc cây của những quán “tự giác! không người bán hàng thường ngày trước gặp trên dọc đường Sơn La - Lai Châu đầu các ban mường người Thái. Ông học viên nọ đến bàn nẫng một quả chuối rồi quay ra, bóc ăn.
Ông không bỏ tiền xuống bàn. Ông mua quên không trả tiền từ hôm nào không biết, một học viên khác tình cờ để ý. Người ấy hơi lạ và tò mò thấy mỗi hôm ông chen vào thón một quả chuối rồi chen ra, vừa đi vừa bóc vỏ. Rồi tổ trưởng, rồi chi ủy lặng lẽ nhìn cả tháng vẫn thấy sau bữa trưa ông ấy lách vào lách ra nhặt một quả chuối. Đến hôm tôi hỏi để đi xem mặt ông có bệnh ăn cắp vặt ấy thì được biết nhà trường đã đuổi học ông rồi. Nghe nói ở cơ quan ông cũng làm cấp vụ, cấp cục thế nào đó. Ai túng đói đâu quả chuối, ấy là người có tính tắt mắt mà lại có tuổi, chân tay đã rề rà quềnh quàng lại ngỡ không ai nhìn thấy. Cũng không may phải cái ông khác tình cờ trông thấy mà thôi.
Lại vẫn những tình cờ. Lê Lựu là binh nhì ở đơn vị Chiến sĩ Lê Lựu chịu khó lam làm khiêng bàn, quét nhà như mọi người. Chứ không cả ngày ngồi thừ mặt, một tay đỡ vừng trán đương nặng trĩu những suy tư giả vờ, thế thì có khi còn công tác bàn ghế thau chậu đến tận năm nao ông Bành Tổ sống lại mới nhoi ra hay là không bao giờ có được nhà văn Lê Lựu. Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanh miền Nam tập kết. Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm ấn Độ Lưu Qui Kỳ giớt thiệu với tổ chức và Vũ Anh Khanh được đi cùng Nguyễn Công Hoan. ở ấn Độ về, Vũ Anh Khanh lại trở về đơn vị. Nhưng cái anh tiểu đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã mờ mờ đi đâu mất rồi. Người ta được Thủ tướng Nêru tiếp, người ta dong thuyền chơi sông Hằng. Về đơn vị cảm thấy đây chật chội quá, đây không phải đất dung thân. Nửa đêm, Vũ Anh Khanh đã bơi qua sông Hiền Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị chết đuối hay Vũ Anh Khanh mới ra đến cái bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được. Không biết, việc thì tình cờ, nhưng không tình cờ ở con người. Tôi cũng gặp biết bao những tình cờ ở lớp. Rắc rối thật và lôi thôi hơn không phải đại khái như cái tiểu thuyết Đốc tờ Divagô. Năm ấy được nghỉ hè, tôi đi biển Sầm Sơn. Tôi đương tranh thủ viết kịch bản phim Kim Đồng, đã hẹn ngày tháng giao cho Điện ảnh. Loay hoay đến hôm đã khai giảng vẫn chưa xong. Tôi vìết thư về ban giám hiệu xin phép được ở thêm. Lý do bịa “tôi đi nghỉ muộn". Nửa tháng sau, tôi về. Tôi “trình diện” với bí thư chi bộ Kim Ngọc. Kim Ngọc người hom hem, lim dim mắt nhìn tôi: “Hôm nay mới đến à? Tớ tưởng cậu vẫn đi học". Thì ra ban giám hiệu cũng không báo xuống chi bộ việc tôi về muộn. Tôi ngại nhất nhà trường soát sổ cơm thì lòi ra người vắng mặt. Nhưng thấy yên. Tôi lại ngày ngày nghiên cứu, thảo luận tổ, lên hội trường và vẫn nhiều tối chuồn về nhà, sáng hôm sau gò cổ đạp xe vào. Yên trí, mọi cái đều bình thường. Một buổi, Kim Ngọc gọi tôi ra ngoài hiên.
- Tại sao đồng chí...
Lôi thôi rồi. Giọng Kim Ngọc vẫn nho nhỏ như mọi khi, nhưng hai tiếng “đồng chí” ấy là không phải mọi khi.
“Đồng chí về muộn quá. Ban giám hiệu yêu cầu báo cáo lý do.”
Thái độ êm ả của Kim Ngọc khuyến khích tôi chẳng tội vạ gì mà phải giấu. Nói dối nhỡ quên chi tiết, lần sau nói lại không đúng thì đâm phiền phức. Tôi kể cho Kim Ngọc nghe tôi ở nán lại viết cho xong cái phim Kim Đồng đã đến hẹn đưa cho xưởng phim truyện.
Kim Ngọc không nói gì. Vẻ như thờ ơ chẳng để tâm..
Rồi hỏi:
- Cậu có viết thư xin phép ban giám hiệu?
- Có chứ, có thì nhà trường mới biết tôi về chậm.
Kim Ngọc cười: .
- Chẳng viết thư thì cũng biết. Xem sổ báo cơm thì ra ngay.
Tôi nghĩ thầm “ờ nhỉ”.
- Thế cậu có báo cáo như vừa kể không?
- Tôi nói tôi đi nghỉ muộn, về chậm.
- Thôi nhé. Ban giám hiệu bảo hỏi, tớ hỏi thôi
Tôi đã quay đi, Kim Ngọc hỏi với:
- Cậu có biết Nguyễn Bùi Vợi?
- Tôi biết. Mới về đài phát thanh...
- Cậu ấy ở với chúng mình hợp hơn.
Những năm ấy Nguyễn Bùi Vợi dạy học trên Vĩnh Phú. Kim Ngọc là bí thư tỉnh ủy. Câu chuyện tôi về muộn không thờ ơ như chuyện với Kim Ngọc và chưa êm ả trong cuộc họp chi ủy. Học viên bí thư Đảng đoàn bộ Nông nghiệp Trương Hùng, một chi ủy căng nhất. Hùng cho là “không thể dung thứ văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa” cần họp cạo một trận cho chừa.
Hôm sau tôi đã biết cái ý kiến sắt thép ấy. Tôi đợi, tôi nghe. Nhưng lặng im. Rồi tôi đoán có thể nhờ cái nhẹ nhàng của bí thư Kim Ngọc như câu nói và thái độ hôm Kim Ngọc gặp, tôi đã thoát một trận bị riềng tới số.
ở nhà tầng trên tầng dưới, tôi hay gặp Trương Hùng. Dường như Trương Hùng cảm thấy tôi biết cuộc họp chi ủy mà lão chủ trương đả tôi. Sắp giáp mặt, tôi chưa kịp lờ thì Hùng đã chăm chắm bước đi như không trông thấy tôi. Lão hay mặc quần áo nâu - màu nâu non mới. Để ai cũng phải biết lão công tác nông nghiệp.
Tôi đã đi cải cách, đi sửa sai, tôi đã loạn mắt những bộ quần áo nâu dởm mà Hồ Viết Thắng khoác tưng bừng mỗi khi cắp cặp bước xuống ô tô. ấy là chưa kể tôi làm anh đội cũng đã đánh một bộ nâu lên ngôi như thế, bây giờ trông thấy cán bộ mặc quần áo nâu tôi còn ngán và tởm.
Dương Văn Đàm bảo tôi: “Hùng là lớp chánh lý trẻ, học hết lớp nhất trường huyện. Nhà là cơ sở của các cụ, nhờ thế mà thành con nhà nòi. Có cậu với tớ lờ đờ thôi, các bà phụ nữ ở lớp ta tinh lắm. Các bà đã để ý hắn mặc nâu nhưng may ô trắng nõn, đi qua sực nức mùi nước hoa". Hùng khoảng ngoài năm mươi, vẻ mặt và dáng điệu ấy như sinh ra chỉ để chỉnh đốn người ta
Dương Văn Đàm biết kỹ, làm sao mà cái ông luật sư này cái gì cũng biết, có lẽ đấy là thói quen nghề nghiệp. Nhưng Đàm đã nói như cắt nghĩa cho tôi:
- Cái nghề thầy kiện cãi kiện cúa tờ phải thạo về tò mò và chi tiết. Tiếc tớ không có khiếu làm văn. Ngày trước, mới tốt nghiệp, tờ tập sự mấy năm ở văn phòng mét Trần Văn Chương, những chuyện loạn luân ở nhà ấy, từ con Lệ Xuân, đến mẹ nó thì khủng khiếp.. Dài dài những ngày xưa của Đàm không bao giờ cạn. Tôi hỏi chuyện hôm nay. Đàm cũng nói được ngay.
Dương Văn Đàm nói:
- Tớ đã đến nhà Trương Hùng chơi. Nhà hai tầng, chỉ có hai vợ chồng. Vợ hắn nhai trầu bỏm bẻm, người trong làng thì trông già thế thôi chưa chắc đã nhiều tuổi hơn hắn. Chả là người anh thỉnh thoảng đến có ý nghi cái cách ở một mình của hắn, mới về quê bàn khéo ra ở với chú ấy cho vui cửa vui nhà". Thế là khuân được bà em dâu ra chặn cửa. Nhưng bà ra ở được ít lâu, thấy tẻ lạnh thế nào, lại đòi về quê.
Nguyên do ả nọ làm ở một văn phòng cơ quan, có việc nhà khó khăn phải chạy. Chao ôi, cũng lại một tình cờ. Đến nhờ hắn, thế là đôi bên bập vào nhau. Nhiều năm rồi. Đi công tác các tỉnh hắn đều tha ả theo. Cửa hàng cao cấp bách hóa, thực phẩm, phiến a, phiếu b, bệnh viện Việt Xô, khoa tai mũi họng Bạch Mai hôm xử đều phải ra tòa làm chứng. Hắn đã đưa ả vào các nơi ấy.
Người vợ già chán chường sự lạnh nhạt, thờ ơ của người chồng. Thì cái ả cứng nhân ngãi non vợ chồng kia lại càng sốt ruột vì năm qua tháng lại đã nhiều. Con gái có thì. Anh tính cho em thế nào?
Tôi triết lý vụn với Đàm: .
- Thử thách hai luồng tư tưởng đây. Tư sản bảo: bỏ vợ, vứt công danh vào sọt rác. Ta ra đi hai trái tim vàng... “xây nhà bên suối. Suối mơ... Bên rừng thu vắng...”.
Dương Văn Đàm cười hề hề:
- Đằng ấy vận dụng lý luận khá đấy, lại văn chương tơ lơ mơ nữa. Nhưng không đúng với trái tim con lợn chứa cả hai thằng tư sản và thằng phong kiến. Tư sản bảo: tình yêu vạn vạn tuế. Đế quốc phong kiến hét: Giữ cái ghế! Giữ cái ghế muôn năm! Tiêu diệt con nái xề, “đưa nàng về dinh". ấy thế, ấy đấy! ”
Hắn mưu giết vợ. Mấy chục viên thuốc ngủ nêprôbamat đã trữ được. Bà váng vất đầu, hắn pha cả vỉ thuốc cho uống. Bà ấy ngủ, nhưng thuốc nội không ăn thua, ngủ rồi lại dậy được. Ghê gớm, kẻ rắp tâm giết người lại sửa soạn keo khác, lần này mua được thuốc ngoại của Việt kiều bên Thái Lan về. “ừ thôi, đi chơi biển chuyến giối già rồi về quê”
Xuống đến bãi Cháy thì chặp tối. Cả một ngày đường bà lão say xe lại hâm hấp sốt. Hắn pha một cốc thuốc ngủ cho bà ấy. Bà lão uống thuốc. Quá nửa đêm vẫn li bì. Đổ cho cốc nữa, tắt thở.
Chẳng may phải cái cảm dọc đường - người chồng kêu lên. Mọi nơi mọi chỗ đều những công tác, những việc bộn bề. Tang ma chôn cất ngay đấy, mọi cái đều người chồng và người lái xe lo liệu..
Chỉ mấy hôm sau, an ninh đã chụp được ảnh tay đôi ngồi bên gốc muỗm đền Voi Phục.
Tòa xử máy hôm, xử công khai, tôi có một tò mò oái oăm. Muốn đi nhìn cái mặt người thượng cấp lúc nào cũng nghiêm nghiêm, lạnh lạnh mỗi lần tôi chạm trán hắn ở nhà ăn, ở hành lang, bây giờ xem cái mặt ấy tròn méo thế nào. Tôi vẫn nhớ tôi bị Hùng đòi Kim Ngọc phải choảng tôi vì tội “văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa". Thù đấy tôi cũng thù nó chứ.
Cái nhà tòa án Tây hơn hai mươi năm trước tôi đã đi với anh Vũ Ngọc Phan đến dự phiên xử nhà xuất bản Cộng Lực kiện tuần báo Hà Nội Tân Văn của anh Phan đã in từng kỳ tiểu thuyết Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, trong khi nhà xuất bản đã mua của tác giả cả tiểu thuyết ấy và đương in. Anh Vũ Ngọc Phan thua kiện, phải bồi thường danh dự cho nhà xuất bản một đồng bạc. Thày kiện Phan Anh cãi cho thân chủ Vũ Ngọc Phan, ông mặc áo thụng đen, tôi cứ nhớ cái câu ông cãi cũng bình thường, nhưng ông hùng hổ giơ tay và quật mình xuống bục, hết sức tuồng chèo cải lương.
Vụ xử án giết vợ này ở phòng khác to rộng, đông nghịt người, tôi chưa biết bao giờ. Tôi chen vào. Trông lên bục cao, các vị tòa án ngồi. Nhìn xuống chỗ vành móng ngựa thấy hai người cảnh sát, không thấy hắn ta đâu. Nhìn lại mới thấy hắn ngồi rù rù giữa hai người. Tôi không thể nhận ra ngay vì con người thiểu não chẳng còn mảy may như trong trí nhớ của tôi. Trông thấy rồi mà tôi vẫn ngỡ ngàng. Bộ quần áo xám có số tù trên lưng, thằng người ọp ẹp, như sắp bị đám người lố nhố xung quanh giẫm lên.
Tôi lại chen ra. Tôi chen ra vì tôi sợ nhỡ lại phải nghe thằng ấy nói lời cuống cùng: Tôi đã được Đảng giáo dục... tôi đã... tôi đã...
Thế là tôi hả hê, tôi ân oán xong rồi.
Tôi nghe kể lại - lại ông luật sư cái gì cũng biết Dương Văn Đàm- ả nọ cất tiếng:
- Thưa tòa, tôi là đứa con gái dại dột. Thằng dê già kia đã lừa tôi, chứ tôi có người yêu tôi đây.
ả chỉ một người đàn ông ngồi ghế sau lưng gần đấy. Và chẳng biết có thật đến đâu. lúc tòa cho tên tử tù được nói lời sau chót, hắn đã nói:
- Tôi mong được tòa khoan hồng để tôi chuộc tội, tôi xin đem hết khả năng ra phục vụ cách mạng.
Hỏi thì Dương Văn Đàm cũng nói nghe có đứa kể lại Không hiểu câu ấy có thật hay là người ta nói mỉa.
Chỉ chắc chắn cái án chém là có thật. Cũng như mắt tôi đã trông thấy cái bóng xám của thằng người rũ rượi trong cái vành móng ngựa.
Đấy là việc đã xảy ra hơn một năm sau khi tan trường. Chóng quá, sắp mãn khóa. Theo lịch học đã đến đợt đi thực tế, cơ sở nông thôn hay xưởng máy, kiểm tra mọi mặt lý luận và thực tiễn của khóa học. Tôi được tổ phân công đi với học viên Thử về huyện Đan Phượng. ở Phùng được mấy hôm, tôi bảo Thử: “Anh là “nông dân quân chủ lực” anh đi đến làng người ta hay về làng mình cũng thế, anh biết cả. Tôi thì khác. Đất Thượng Hội, Hạ Rội này gần vùng tôi quá, chẳng thấy gì mới. Tôi đi Thái Bình, xa xa một tý cho lạ mắt. Hẹn ngày nào về trường thì ta về cùng cho có đoàn có đội".
Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổi chuột, tên Thử, người loắt choắt, dáng rụt rè tinh tướng con chuột nhắt. Đã nhiều năm Thử ở khung cán bộ bên Lào, gần đây mới được về tỉnh nhà. Công tác sắp xếp dường như khó khăn, nay ở tỉnh mai tỉnh đẩy xuống huyện, bây giờ đi học dài hạn, mai kia đi học về rồi thế nào. Có lúc Thử thở dài với tôi: “Hay là tôi về hưu?” Chả trách, tôi đi Thái Bình, Thử cũng chẳng buồn hỏi thêm nửa câu. Những năm sau, tôi cũng hay hỏi thăm tin tức Thử. Có khi nghe anh về công nghiệp vào ban phục trách các lò nung gạch trên tỉnh. Gần đây anh đã nghỉ hưu. Chú em tôi ở thị ủy thị xã Sơn Tây lấy làm lạ sao tôi lại quen anh Thử. Chú ấy hỏi lại tôi như không tin:
“Bác Thử đã học trường Nguyễn ái Quốc với anh à? Bác ấy hiền lắm”
Thế là tôi đi Thái Bình. Có lẽ như thế còn biết cái gì hơn - như tôi đã bảo Thử. Nhưng cái chính là hai năm bó cẳng không đi đâu, tôi muốn đi xa xa, đâu cũng được. Chỉ thế thôi.
Tàu thủy Phà Đen về bến cầu Bo thị xã. Mấy năm rồi, vẫn thưa thót, vẫn vậy. Chỉ khác các tàu khách đều vào quốc doanh. Vẫn những cái tàu ọp ẹp từ thời thoát bom Đồng Minh ném, vỏ tầu trắng bệch như con cành cạch chết xác đã khô. Trên vách tàu, chỗ bẻ lái, treo cái bảng đề tên kíp lái, kíp trực. Dưới sàn, không thấy như hồi tàu còn ông chủ, có một mâm mờ lồng bàn ra, đĩa thịt gà, chai rượu, nồi cháo ăn sáng. Hai bên hàng tàu vẫn người xuống đông từ lúc chưa tan sương. Có vài người như cán bộ đi công tác xuống bến cuối. Còn vẫn vài ba bến người xuống người lên hai bên sông, người buôn về thành phố, người đem hàng đi các chợ quê. Những quảy sắn, cả bánh đa, miến dong riềng, phuy dầu tây, nhiều nhất những đệp túi đựng quần áo may sẵn mua lại của nhà mậu bách hóa.
Đôi khi cả tay nải lèm những cái nịt vú bằng miếng sốp bọc ni lông đỏ, không biết đã mua ở nhà mậu hay cất hàng ở các lò khâu.
Cái thị xã ngủ yên vẫn bên đường mọc cỏ xanh lì và vườn hoang um tùm, chỉ lác đác nhà. Bến ô tô đã sáng đèn, tôi vào hàng cơm. Tối rồi mà quán nào cũng toàn đùi chó, sườn chó treo lủng lẳng. Chủ quán nói: “Cả tỉnh đương triệt để chó mà". Tôi ăn một bát bún chó rựa mận. Lại đến nhà trọ năm trước. Tiêu điều, lụp xụp, những cái mái giấy dầu sắp đổ. Chị chủ trọ lại lấy cái thừng cho tôi buộc cái khung xe vào thành giường. Tôi lại bỏ đôi dép râu vào ba lô để trong màn, cũng như lần trước. Sớm hôm sau, tôi về Thái Ninh.
Đã xế trưa, nắng ấm. ở trên đê nhìn xuống xóm Đồng lố nhố một đám người đương kéo ra. Như bọn đi đánh dậm, không phải người làm đồng. Những cánh ruộng đã gặt quang, một màu chân rạ đen xạm. Chưa một khoảnh nào bừa vào mùa.
Đến gần thì trông rõ bọn ấy vác những đồ nghề nấu rượu. Hai chiếc đòn ngang bằng con sào buộc cái mu rùa, người khênh quàng vai những xâu men rượu trắng như bỏng ngô. Lại mấy cái nồi ba mươi, chảo gang bôông bêêng, lũ người bước lẫn lộn. Ai cũng hăm hở, đùa cười, đuổi nhau loạn xạ. Ngỡ như họ đổi bếp đem lò rượu sang nấu bên kia bãi. Tôi hỏi, mấy người cười rầm lên: “Bắt rượu! Bắt thằng nấu rượu nộp lên huyện. Không trông thấy xã đội trưởng đeo túi dết vác cái ống trúc cất rưọu đi đằng trước à?”.
Mới nhớ đương cấm rượu bắt rượu dáo diết. Dáo diết nhưng chẳng làm ai khiếp sợ. Ngày trước Tây đoan về khám rượu, cả xóm cả làng đâu ngồi đấy, không ai dám thò chân ra cổng. Bác Cả tôi, thày đồ ngồi bảo học ở nhà, lính đoan vào thuốn lên hóc cột, mái nhà, bói đất luống rau cải, nghi chôn rượu, chôn bã. Rồi được tang vật thì trói đi một xâu người. Bây giờ bắt rượu đem lên huyện như đám rước. Người mang vác tang vật đi lẫn với người nấu rượu, chẳng biết ai phạm pháp, ai đi xem. Như phường chèo đi làng xa hát đám, như lò vật trảy hội.
Bắt rượu rồi phạt rồi lại bỏ đấy. ở Hà Nội làm nghiêm thế mà cũng như trò đùa. Tôi sẵn thành kiến về bắt rượu lậu ơ hờ từ những cái trông thấy ở Hà Nội. Báo đăng tin bắt được rượu lậu cả trong xe cứu thương. Rượu giấu trong xe cấp cứu thì thọ quá. Chẳng biết ở chỗ nào, ông lái đã nếm, cái thèm uống vụng ăn vụng, cứ ngứa ngáy thòm thèm, có thế mới thò đầu ra cười cợt với người gác cầu. Ông lái lên cầu Long Biên, mặt rượu đỏ gay, vẫy tay cười hê hê vẫy anh công an gác cầu. Cái xe bị ách lại. Trong xe kính màu, một ả nằm ngửa trên cáng thương, dưới lưng đệm một bọc rượu. Chẳng phải đọc báo, tôi cũng thường thấy ở quán nước bả hàng cạnh bến xe Kim Liên, có hôm Đăng Đình Hưng đeo bị rượu đến bán, có hôm một cô quang gánh ở ngoại ô vào, thoạt trông tưởng bán miến dong riềng. Cô hàng cũng như lái rượu Đặng Đình Hưng cứ bước tự nhiên vào gian trong. Rượu đựng vào miếng ni lông Trung Quốc xanh lá cây đong ra. Lại cáì xe cấp cứu màu hàng sữa của bệnh viện huyện in chữ thập đỏ hai bên sườn đậu chỗ rặng cây si bờ hồ đằng kia. Xe rượu đấy, có hôm ở quán 81 lại thấy cô nọ xách tải rượu vào, đặt đấy rồỉ ra. Cấm thì cấm, người bán rượu các phố cứ như thoi đưa.
Trong đám khuân đồ nghề rượu có tiếng gọi ra:
- Anh Tư, anh...
Trên dốc trông xuống, thì là ông Ngải. Ông Ngải đeo vai một tràng lủng củng, lởm nhởm những miếng gỗ quai guốc. Ông Ngải cũng trong bọn vác mướn hay ông bị bắt rượu. Trông ông không khác năm trước mảy nào. Cổ ông xạm nắng nhưng mặt vẫn nhọt nhạt thế.
Ông Ngải luống cuống hỏi:
- Anh về chơi à? Một mình à? ở nhà có cái Hến. Tôi về ngay bây giờ...
Bọn người tất tưởi đem các thứ đồ nghề rượu lên trụ sở ủy ban xã. Ông Ngải nói "tôi về ngay”, chắc ông không phải chủ bị bắt rượu. Thiếu đâu người mà lại lôi ông lão làm dân công vác rượu.
Vẫn bụi tre lép giứa mảnh đất phẳng quanh chân tre, lưng tre nhẵn thín lốt người tựa lưng hay con trâu cọ thành bụng vào. Có một mình cái Hến trong nhà. Cái Hến thì khác, năm nao còn là đứa trẻ mới lớn nay đã sồ sề mặc cái áo bộ đội tàu tàu. Người con gái không có thì con gái. Hến ngồi ngoài bóng nắng.
Cái lược bí đương chải chấy dừng lại giửa làn tóc, khi thấy người bước vào. Trong nhà, chiếc võng lắc lư mảnh vải hoa.
- Chào cô Hến.
Tôi chào to thế, nhưng bụng lại thầm mong mình nhầm. Tưởng như mới gà gáy tan canh, bà Ngải vào cạnh giường: “Trỗi! Trỗi. Sáng rồi! Sáng rồi! ” Quát mấy chặp cái Hến mới lạt xạt cựa quậy. Có hôm cái Hến nhờ tôi khiêng với nó buồng chuối tây ngoài vườn.
Buồng chuối chẳng nặng, nhưng xách thì cồng kềnh.
Tôi phải gọi “chú Phùng Quán” ở trong nhà ra ghé vai giúp. Bởi cái vai thờ của tôi, nhỡ một cái, gãy quả chuối của người ta. Vai thì vai thờ, chân tay thì thừa, người vô tích sự. Cái năm ở Nông Cống, quảy nước làm vỡ nồi. Vội ra chợ Nưa mua đền cái nồi mới. Quảy thứ, nước vẫn chảy tong tỏng. Cô Đăng soi nồi lên nhìn rõ lỗ châm kim. Cô Đăng nói: “Anh mua nhầm cái nồi thủng. Bận sau mua nồi phải soi lên xem thế này.”
Chắc chẳng bao giờ trong đời tôi có lần nào đi mua nồi nữa. Tôi cũng chắc là tôi khác Đặng Đình Hưng, dẫu các nơi sôi nổi văn nghệ sĩ đi thực tế, cũng không ai bảo Hưng đi, Hưng ở nhà buôn rượu kiếm cái sống, cái uống. Hưng không vụng như Trần Đức Thảo chăn bò nông trường Ba Vì. Có thư cơ quan gọi Thảo về, nông trường cho về ngay. Không biết đàn bò gần móp bụng ngày ngày Thảo dồn đi dồn về đã thiếu mấy con, con nào bị hổ vồ, mấy con bị trộm dắt mất.
Nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và nhà triết học Trần Đức Thảo không biết nhau, đấy là tôi quen hai người.
Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí hoài, mà tôi chứng kiến.
Khi đó, ở Trung ương trên Việt Bắc, nhiều cơ quan đương chỉnh huấn, theo cách làm của các tỉnh Hoa Nam - mà chúng tôi gọi là phương pháp Hoa Nam.
Không có chuyên gia nước ngoài, nhưng cán bộ giáo vụ mặc áo bông ngắn bọc vải xanh Sỹ Lâm ra lối ta mới học tập bên kia về. Tôi cũng dự cái khóa ba tháng đầu tiên theo phương pháp ấy. Cán bộ đèn sách khóa này rồi tỏa khắp các chiến khu, có đoàn vào chiến trường miền Nam mới đến khu Nam Trung Bộ thì hiệp định Giơnevơ được ký kết lại quay ra. Đặng Đình Hưng công tác ở ban tuyên nghiên huấn giáo chuyên làm giáo vụ các lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Không nhớ Hưng có mặc áo bông xanh Sỹ Lâm không, bấy giờ Đặng Đình Hưng cũng là nhạc sĩ, tác giả bài hát Nông dân là quân chủ lực. Nhưng chưa khi nào tôi nghe ở đâu hát bài ấy.
Về Hà Nội tôi cũng không gặp. Tôi chỉ biết Hưng có rắc rối về chuyện vợ, mà tôi làm công tác đảng ủy, chắc Hưng có ý tránh mặt. Bấy giờ các chuyên ngành văn, họa, nhạc, sân khấu, kiến trúc đã tách ra thành lập các hội riêng. Cũng không biết rồi tại thế nào mà
Đặng Đình Hưng vướng vào Nhân Văn. ở hội nhạc, Đặng Đình Hưng đã bị ra khỏi biên chế, Hưng không đi hay là không được đi họp chi bộ, thế là mất cả đảng tịch. Bây giờ dịch tài liệu cho cơ quan ăn tiền bài. Khi đó đã giao thiệp với ngoài mấy đâu mà có cái để dịch và Hưng chỉ biết tiếng Pháp. Nghe nói Hưng đi cất rưọu quê đem ra bán các quán. Một hôm, gặp Hưng. Khác hẳn trước, không còn râu hùm hàm én, cán bộ tuyên nghiên huấn trợn mắt giơ tay phát biểu choang choác. ở một quán nước bán rượu chui, chỗ trông sang rạp xiếc cạnh công viên Thống Nhất. Một người mặc áo ka ki đại cán cháo lòng, đội cái mũ dạ rúm ró. Lấm láp như người đánh dậm ngoài cầu Giẽ vác cả cái dậm lên tận phố. Nhưng không. Người ấy khoác một cái bị cói lẳng lặng bước vào nhà trong. Thông thường, đấy là khách mua bán dấm dúi. Qua trước ghế tôi ngồi, cạnh bà hàng nước, người ấy cất tiếng nghe quen quen:
- Chào ông anh..
Tôi ngầng lên, nhìn ra Hưng. Hưng ngồi ngay xuống với tôi. Hưng lấy trong bị ra một chai rượu trắng. Hưng nói vừa đứng đắn vừa chót nhả, tự nhiên như vẫn gặp nhau thường ngày.
- Chẳng nói giấu ông anh, dạo này thằng em đét lắm. Lấy cái này tận quê ra, vừa bán vừa ghé gẩm đôi ba chén. Để cho ông anh một chai, thật cái tăm Chương Mỹ đấy.
Rồi Hưng đặt kín đáo chai rượu dưới gầm bàn, bên chân tôi. Tôi hỏi bao nhiêu. Hưng nói “chỉ xin giá vốn thôi". Tôi đưa trả tiền Hưng như xưa nay vẫn sòng phẳng gọn ghẽ thế, chuyện tiền bạc thì Hưng rành rọt tính đếm thạo. Hưng đã kể ngày trước vị Hồ Đắc Điềm quan tổng đốc trẻ Hà Đông đã gọi Hưng làm chân thầu cơm trại lính khố xanh. Và Hưng vẫn nhớ tôi biết ở lớp chỉnh huấn cho họa sĩ trường Mỹ Thuật đóng ở huyện Yên Bình một hôm lên lớp, cán bộ Hưng mất đôi dép râu để dưới thang nhà sàn. Hưng bắt cơ quan phải đền vì “đôi dép đã bị mất khi công tác". Những chuyện bình thường đã tháo vát lại cũng lơ mơ, như hôm ấy Hưng nhận tiền chai rượu rồi lại ngồi thịt luôn chai ấy với đĩa lạc luộc, quên cả đưa rượu bán, rồi bà chủ quán phải hỏi. Rồi quá chén, Hưng đi khật khưỡng, tôi phải đỡ vai, Hưng bảo đưa về một nhà ở phố Nguyễn Thượng Hiền sau lưng gần đấy, Hưng bước thẳng đến chân cầu thang cuốn lan can gô, cả người với cái bị chai không và chiếc mũ bật ra, Hưng rụi xuống ngay chân tường. Nhà quen, Hưng vẫn tá túc ở chỗ ấy.
Tôi quen Trần Đức Thảo ở lớp chỉnh huấn trí thức trên rừng huyện Chiêm Hóa. Thảo ở Pháp về rồi từ Hà Nội lên Việt Bắc. Thảo mặc quân áo nâu, đội mũ lá gồi; đeo xắc cốt vải chàm đã xin hay mua được của bà con người Tày, người Dao trong làng. “Tớ phải thế này cho kịp các cậu” - đôi măt kính cũng cười lấp lánh.
Chẳng biết rồi còn bao nhiêu đêm Thảo không nằm màn mới kịp chúng tôi để đến được những cơn sốt rét mặt bủng rứ.
Về Hà Nội mới gặp lại Thảo. Thảo vừa đi công tác Bắc âu về, đội mũ phớt, rõ ra Tây. Nhưng vẫn áo đại cán may ở Thái Nguyên, trước khi về tiếp quản Hà Nôi. Bộ ka ki xi măng này tôi còn thấy Thao mặc đến khi sờn cả cửa tay.
Mới gặp, tôi đã lạ và phục Trần Đức Thảo. Vì nghe đồn ở Pari, Thảo đã là bạn và tranh luận triết học với văn hào Giăng Pônsác. Lại nghe nói triết của Thảo đã phát hiện và có những phân tích mới về chức năng hai bàn tay trong quá trình từ con vượn lên con người.
Nhưng tôi gần Thảo hơn không phải chuyện nghe hơi tiếng tăm và cái triết lý hai bàn tay vượn người. Chúng tôi chuyện về Hà Nội ngày trước. Thảo bảo thuở bé học trường Cửa Đông, nhà ở phố Hàng Đường. Trường Cửa Đông tôi đã thi vào lớp bét mà trượt, bấy giờ tôi ở Hàng Mã. Rồi sau tôi đi làm hiệu giày Bata. Thảo kể thì tôi nhận ra nhà Thảo là chỗ nhà bưu điện tư, ngoài cửa để ghé cái tủ kính bán tạp hóa và giày Bata. Hàng tháng tôi đi tính sổ các đại lý bán giầy ở Hàng đường, Hàng Bông. Thế là tôi ngỡ như đã biết Thảo từ thuở ấy. Tôi bảo: “Tớ còn nhớ ông cụ nhà cậu. Ông cụ người đẫy, đeo kính hay thắt cà vạt đen, ngồi trong quầy bán tem sau tấm kính".
Tôi hỏi Thảo:
- Bên Thụy Điển, bên Bắc âu có gì hay không?
Thảo nói:
- Mua được cái chăn, tuyệt lắm. Lông ngỗng hay lông chim, nhẹ chỉ độ một cân, đi công tác rất tiện.
Thảo cho xem cái chăn lông chim của anh mà chắc anh lý thú nên mang đến tận nhà tôi. Lại biểu diễn luôn ở trên giưòng tôi cạnh bàn viết. Anh mở cái chăn màu vàng nhạt, kéo khuy bấm nằm thu lu vào giữa, dưới gáy sẵn cái gối thòi ra. Trông người nằm gói trong chăn, cái chăn màu vàng tôi nhớ ngày trước, đi đêm trong thành phố Sài Gòn hay gặp người nằm ngủ trong cái nóp trên vỉa hè. Tự nhiên, nghĩ đến cái triết lý bàn tay khi thấy anh hể hả chui vào rồi gấp chăn mở chăn cho tôi xem.
- Cái này để đi công tác.
- Cho mượn nhé.
- Đi đâu cứ lấy.
- Đùa thôi. Bó không chịu được. Tờ hay đạp, hay gãi.
Thảo không nói. Thảo không cắt nghĩa thêm cho tôi về những cái tôi ngại, chắc anh biết thế là tôi chê.
Nhưng mà đấy là Trần Đức Thảo, cái chăn Na Uy, Thụy Điển gì ở Hà Nội hay bộ quần áo nâu và cái túi chàm ở Việt Bắc thì vẫn một người áy. Lâu lâu mới lại trông thấy Đặng Đình Hưng. Nhưng tôi biết tin Hưng ốm, phải mổ phổi. ốm đau, bè bạn thì trông vào ai, bản thân thì bị vứt đi rồi nhưng mà có mả cứu bần, dạo này Hưng được Đặng Thái Sơn gửi tiền cho. Đã ra viện và bình thường. Thế nhưng chợt trông thấy cũng không khỏi ngạc nhiên. Hưng ở cái chợ cóc bên đường Giảng Võ đi ra, tay vung vẩy một mớ rau muống. Không còn ốm o mảy may, người mới hiên ngang làm sao. Đầu đội mũ nan cao bồi Nam
Mỹ rộng vành bóng nhoáng, áo sơ mi thể thao hồng xẫm có cầu vai, quần bó xắn gấu. Đôi giày da có cổ màu gan gà vàng bóng, gót cao đến năm đốt ngón tay.
Hưng đi đĩnh đạc như thả chân đếm từng bước giày chắc chắn. Mặt đẫy đà đỏ đắn, màu rượu hay là đương thuốc bổ.
Khác lạ thế, nhưng tôi nhận ra Hưng ngay. Tôi chạy sang đường. Mắt Hưng vẫn nhanh loang loáng.
Hưng giơ bó rau muống, reo to:
- A, ông anh. Nhà em gần đây, vào chơi cái đã.
Đặng Thái Sơn mua của nhà nước cho bố một căn hộ mười sáu thước vuông, lại tậu cả điện thoại. ở tầng hai, trên lưng cửa hàng bách hóa nhà mậu Giảng Võ.
Qua hai ba lần khóa dãy, khóa cửa mới vào tới gian hai buồng tối âm thầm có một lỗ cửa sổ trổ xuống đường treo miếng mành mành, tựa cái cửa ngăn ở khoang thuyền. Khách đứng dưới đường gọi. Chủ nhìn trong mành ra xem ai. Không muốn gặp thì không lên tiếng, mặc cho gọi.
Cả sàn nhà trải chiếu mộc. Không bàn ghế. “Như thế này hay. Lăn chỗ nào cũng được".- Hưng nháy mắt, nói thế. Trên cái bục gỗ áp tường gian ngoài bày bình hương trước bức ảnh truyền thần hình ông già chít khăn, râu ba chòm, chắc ảnh cụ thân sinh.
Trong nhà ra mở cửa, một cô dong dỏng người. Hưng không giới thiệu, và tôi cũng đã đoán biết đại khái thế, đại khái vậy. Tôi nói thế này;
- Cô để ông ấy đi chợ vác có mỗi mớ rau muống?
Cô cười:
- Người khó tính lắm ạ. Đòi phải mua rau lấy người mới xơi được. Nhưng người khôn lắm, không đòi luộc lấy.
- Nhà nó chỉ biết mua rau muống lợn. Nhà mà luộc thì tôi cũng ăn chiếu cố.
Nàng trẩu môi:
- Thế thì chiếu cố cả đời.
Hai người còn nói năng ỡm ở những gì nữa rồi Hưng vào khay rượu trong góc nhà, nhấc ra cái chai trong cùng.
- Có chai đầy chai vơi là ý tứ cả đấy, không lộn xộn đâu. Rượu chợ thì thằng em bày đám ngoài cho các bợm uống boóng. Còn anh em ta làm cái này, cũng Chương Mỹ, nhưng mà hảo, tố hảo..
Hưng cắt nghĩa nguồn tiền mua rượu:
- Nhờ nó cả. Nhưng ở bên ấy thì nó cũng phải đi làm chứ có maphia đi cướp nhà băng đâu. Đủ tiền ăn và thuốc men, nó gửi ngữ, gửi tháng thôi. Nhưng mà cái ngữ, cái tháng của người ta...
Tôi không muốn nghe những chuyện ấy, tôi hỏi:
- Lái đem rượu trong quê ra?
- Chứ em ốm đau đi sao được! Thánh thiên tử lắm, hơn đứt rượu Tây..
Hưng giữ tôi lại ăn cơm. Tôi bảo để khi khác. Hưng trịnh trọng:
- Ông anh, ông là anh tôi. Ông là học trò lớp bét trường Yên Phụ học thày Đặng Đình Hướng anh ruột tôi, ông là người nhà tôi rồi. Ông đã có một quyển sách để đời. Còn thằng em ngần này tuổi mà còn đương bơi, không biết bơi vào chữ hay vào màu.
Những câu ấy Hưng cũng hay tụng tôi mỗi lần gặp.
Tôi hẹn, nhưng ngay lúc ấy cũng ngồi làm mấy chén vui. Hưng lại tán cái này rượu quê ngâm củ ba kích.
- Cái trong kia, dái dê với ba kích thì lên một bậc nữa. Ông anh hãy nếm ba kích.
Tôi cười:
- Năm trước, nhạc sĩ Hồ Bông đã cho chén dái dê ở Sài Gờn. Chẳng ăn thua mẹ gì.
- Không, dái dê của thằng em thửa, đủ tháng đủ năm không già không trẻ. Nhưng ông anh xơi cái nam y ba kích này đã, xem máu huyết dẫn đến đâu rồi hãy sực cái thằng hùng hổ hơn. Em trông tạng ông anh thì ba kích là vừa.
Rượu ba kích hăng hăng, ngái ngái. Hôm sau, cái cô thổi cơm bữa trước ở nhà Hưng đèo xe đạp đem cho tôi một bó củ ba kích tươi như mới đào ở vườn thuốc lên. Có củ to bằng củ cải. Tôi hỏi đùa: “Cái này ăn sống có được không, hả cô?”. Cô ấy trả lời ngúng nguẩy: “Những của quỉ này, em biết đâu".
Tôi cũng không nhớ mớ ba kích tươi ấy rồi tôi cứ thế ăn sống, tôi bổ ra phơi khô hay tôi vứt đi. Vài hôm, tôi lại được Hưng gửi cho một bó ba kích. Mỗi lần lại một cô khác đem tới. Và khi đến chơi nhà Hưng, có hôm thấy vắng vẻ, tôi hỏi: “Các nàng ba kích đâu cả rồi?”.
Hôm ấy, tôi rủ Vạn Lịch, chúng tôi đem đến một bọc thịt chó - mua ngay ở chợ Giảng Võ. Hưng cho ăn rồi hay chửi những thằng ăn vọ, tôi giữ ý không đến tay không. Hưng đúng hẹn, lúc chúng tôi tới, cả ả người thanh mảnh đương mổ con ngan hay con ngỗng dưới bếp. Tối ấy, cuộc chén thêm nhạc sĩ Huy Du, nhà ở gần. Và cả cô đầu bếp. Con gái phường phố bây giờ lắm cô đã đoảng lại hư. Hai cẳng chân lão đã lạnh lên tận đầu gối mà chúng họ vẫn lăn vào.

Chương IX

Tôi gặp Trần Đức Thảo ngoài cổng bệnh viện Hữu Nghị. Cả thành phố đã thuộc cái ông đi chiếc xe đạp con vịt trẻ con sơn xanh, không phanh, ngồi phải doạng chân cho đầu gối khỏi đụng lên ghi đông, đấy là nhà triết học Trần Đức Thảo. Ông dịch sách lý luận kinh điển cho nhà xuất bản Sự Thật để lấy lương ăn. Người biết đôi chút thì thắc mắc: không biết ông có được dạy, ông có được phong giáo sư không. Tôi thì biết bây giờ ông dông dài lam làm chơi chơi thế thôi. Tôi cũng chẳng biết ông có Nhân Văn Giai Phẩm gì không và tại sao ông lại càng ngày càng bị quên lãng dưới đáy.
Tôi làm sao biết được, mà tôi cũng không tò mò. Tôi chỉ là một người tẻ nhạt và yếu đuối với những kỷ niệm Trần Đức Thảo. Gặp ai quen, đứng lại chuyện thì Thảo buông cái xe kềnh xuống như con chó rô bốt nằm phủ phục bên chân ông chủ, nói như quát.
Thảo đương đi ra chỗ gửi xe đạp. Tôi lại nhận thấy có một vật nữa khiến người ta dễ nhận ra ông Thảo. Ông Thảo đi đôi guốc mộc. Đi guốc mộc và hút thuốc lá cũng đương là cái mết của mấy bác sĩ trẻ trong các bệnh viện. Nhưng đi guốc mộc và mặc bộ đại cán ra đường và đã đứng tuổi thì chỉ có Trần Đức Thảo và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Ông Thảo đi guốc mộc mọi lúc, mọi chỗ. Bác sĩ Thạch thì lóc cóc đôi guốc và để đầu trần đi chơi buổi tối trong các ngõ rạp hát, các cao lâu phố hàng Giầy, hàng Buồm. Ông Thạch lực lưỡng, béo tròn khác ông Thảo gày gùa, mặt và mắt vàng nghệ màu bệnh gan.
Tôi chào và hỏi Thảo:
- Bệnh gì đấy?
- Vẫn cái gan mọi khi.
- Mới đi Đức về, không chữa ở bên ấy a?
- ờ, mới về. Người ta mời đi nghỉ, không phải đi chữa bệnh. Về lại phải vào đây xin thuốc.
Rồi cứ giữa đường thế, Thảo nói ầm ầm một hồi chẳng để ý người qua lại đứng nhìn.
- ở nhà nghỉ trong rừng cả tháng, bảo cho đi xem bức tường Beclin một cái thì không. Chúng nó sợ tao chạy sang bên kia à? Có là con chó.
Thảo nói “chúng nó", tôi không hiểu đủ, tôi hỏi:
- Ai ngại ông?
- Chúng nó.
- Chúng nó là ai?
- Thằng Đức, thằng sứ quán.
- à ra vậy.
Cũng gần trưa. Tôi có ý nghĩ đi mua cái gì rồi rủ Trần Đức Thảo về ăn ở nhà Đặng Đình Hưng. Có thể cũng hay. Tôi bảo Thảo: “Chúng ta đến nhà thằng...”, mới nghe thế, Thảo đã lắc đầu. Tôi chợt nghĩ ra.
- Không được nhỉ, còn cụ ở nhà?
- Ông cụ mất đã bốn năm rồi.
- Có một mình ở nhà thì đi nhé.
- Đi đâu?
- Đến nhà Đặng Đình Hưng. Đặng Đình Hưng bố Đặng Thái Sơn ấy mà. Nó cũng ở một mình như ông.
Thảo lắc đầu nói:
- Đã lâu, tao không muốn quen thêm một ai trên đời này nữa.
Nghe câu triết lý cùn mà xa xôi, mà lạnh lẽo, tôi đành chịu. Nhưng con người hiền lành này không phải là kỹ tính khó khăn, tôi rủ ra quán cơm đầu ghế thì Thảo đi ngay. Phố Hàm Long, cái quán bia, lòng lợn tiết canh và cơm bát của vợ chồng con gái bà Tân Việt.
Hồi này chưa có nhiều quán bụi, nhưng đã lác đác bia hơi, cháo lòng, bún nem, không đến nỗi chỉ độc có phở mến dong riềng không ngườì lái.
Cũng chưa lần nào tôi ăn với Thảo, không kể hồi lớp chỉnh huấn ở rừng, cơm tập thể ăn đứng, giữ vệ sinh gắp đổi đầu đũa. Tôi có cảm tưởng buồn cười nhà triết học như vẫn ngơ ngác tròn mắt với xung quanh khác lạ ý nghĩa và không ý nghĩa của quá trình hai bàn tay con người. Anh hay có nhận xét kết luận.
Anh không uống bia. Rượu thì chẳng biết nó có ở trên đời này. Anh ăn cơm, gẳp miếng dồi lợn chấm nước mắm, không mắm tôm rau sống, không đụng đến lòng tràng, cổ hũ.
- Lòng lợn nhồi tiết là nhanh nhất. Mà cũng ngon, sống ở trên đời, ăn miếng dồi lợn mà. ở nhà, hồi còn ông cụ, lắm hôm nấu nồi cơm trộn nước mắm, ăn mấy hôm mới hết. Rồi quen, cái thói quen có được hay bỏ được cũng dữ dội lắm, cậu ạ.
Rồi nghe tin Trần Đức Thảo công cán đi Pháp gặp gỡ Việt kiều. Nhà trí thức Trần Đức Thảo đã hoạt động lâu năm bên ấy. Nhưng không ai để ý và thấu nỗi từ cái năm ở nông trường Ba Vì được về, Trần Đức Thảo chỉ tháng ngày quanh quẩn cơm niêu nước lọ một mình lâu dần đến đỗi không muốn quen thêm một người nào nữa, người đã sợ cả người. Giá mà hồi ấy gặp Thảo thì tôi bảo anh đừng đi. Bà con ở Pari về kể chuyện Thảo được Việt kiều qui mến, lập nhóm giúp đỡ Thảo. Đã vận động được Chính phủ Pháp tặng Trần Đức Thảo một giải thưởng khoa học lớn. Nhưng anh chưa kịp nhận. Trần Đức Thảo ở nhà của sứ quán.
Các bạn đã mướn một bà người Việt bếp núc giỏi nấu nướng cơm nước cho Thảo. Anh ăn món thịt bò bít tết và satôbriăng với rau sà lách dầu dấm mà anh rất khen. Nhưng thỉnh thoảng lại đòi mì ăn liền và nấu lấy. Khi ăn, cầm cả xoong, đỡ một thao tác đổ mì ra bát. Triết lý, triết lý đấy. ôi Thảo!
Đặng Đình Hưng thì ốm ở cái gác trong hũ. Cũng không gặp ai nữa. Người đứng dưới cửa sổ gọi, mặc kệ. Có một đứa cháu trong quê Chương Mỹ ra trông nom ông. Hôm đưa ma, tôi trông mặt anh trong khung kính quan tài, thấy đội cái mũ dạ to vành - chắc anh đã dặn đội cho cái mũ ấy.
Cô Hến ngước mắt nhìn ra sân.
- Anh... anh mới về.
- Tôi chào ông trên đê rồi. Ông bị bắt rượu a?
- Không, bố em khiêng hộ xã đội. Bố thích người ta bắt rượu. Bố em ghét người nấu rượu.
Tôi nhớ ông Ngải chỉ nghiện nước chè vò. Ông Ngải chửi những đứa rượu vào hay lè nhè. Tôi hỏi:
- Cô Hến cưới chồng năm nao?
Hến nhìn tôi, đỏ mặt, không nói.
- Cháu ngủ trong võng a?
Tôi lại hỏi:
- Con giai hay con gái?
- Con giai.
- Anh ấy đâu?
Đi bộ đội.
Có đóng gần nhà không?
Hến lại không trả lòi. Ông Ngải đã vào đến đầu ngõ. Ông Ngải nói:
- Chỉ đem hộ ra xã, rồi dân quân vác cả lên huyện.
Hến kêu:
- Bắt với bớ, mấy hôm lại thấy rước về đủ lệ bộ cho mà xem. Anh có ở chơi được lâu không?
- Cũng vài ngày.
- Thế thì vui rồi.
- Quà Hà Nội của tôi đây.
- Cái gì thế?
- Cái ga len.
Tôi lấy cuộn dây đồng trong ba lô ra. Rồi những mảnh thiếc ghép, lò so, cục pin, cái loa con con, một hộp gỗ. Những thứ ấy lắp lại, cái thì đặt trong gầm giường cái thì tròng lọng lên đầu cây tre, cắm ra ngoài bờ rào. Bắt được đài Tiếng nói Việt Nam cả ngày cả đêm, tối đến tiếp âm đài Bắc Kinh, đài Matxcơva. Nghe rõ mồn một. Cái năm mới có người đem ga len về làng, có cụ già sợ: “Nghe như ma xó nói, ghê cả tai”. Bây giờ thì các hàng quán dọc đường từ trên tỉnh về đây và nhiều nhà trong xóm, trước cổng cắm lênh khênh cây tre mắc dây ga len.
Tôi lắp các thứ và cắt nghĩa cho ông Ngải. Ông Ngải nói:
- Tài thật, chỉ có sợi dây thép mà thu được tiếng tận đâu đâu. Anh mua mất nhiều tiền không?
- Cái đài đeo vai mới đắt, mà cũng không mua được. Còn ga len chẳng đáng bao, vì mình làm lấy cả.
Ông Ngải lại hỏi:
- Thấy bảo cái này nó hút sét, có nơi đương mưa sét đánh chết cả nhà.
- Thế là ông thạo ga len rồi. Người ta đồn đại quá đi thôi. Đề phòng dễ lắm, tối nghe xong thì nhổ cây tre đem vào nhà, thế vậy.
- Tôi cũng nghe nói làm vầy. Nằm trên giường cũng được nghe văn công, sướng chưa.
Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà cho ở gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng làm. Nhưng ông Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran, điểm danh mấy lần vẫn chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt trời đã lên ngang lưng tre. Ông Ngải bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi ông xuống đồng trước. Ông Ngải đi sớm về muộn,
Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay không cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông cũng tự nghĩ rồi làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ. Ông gả chồng cho cái Hến cũng không biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ ông. Thằng ốc nhà độc đinh ông vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết đây". Thời còn trẻ, ông đã đi nếm cơm thiên hạ chẳng thiếu đâu. Tôi lại ngồi bên búi tre lép với ông Ngải. Đến nhà Sự, nhưng Sự đi vắng. Xem ra công tác vẫn bận tối mắt. Về quê chóng đói, hôm nào cũng lại đánh ba bốn bát với con tôm cái tép hầm nồi chát bùn. Ông Ngải không uống rượu. Như năm trước, tôi cũng không uống, chẳng sao. Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng mía thì lổ đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như cánh hoa rơi.
Năm trước, cả làng mới có xóm Đồng lâm thí điểm hợp tác xã. Rồi hợp tác xã cả xóm, rồi khăp các xóm thành một hợp tác xã to. Đâu cũng đồn rồi cả huyện lên như công xã nhân dân bên Trung Quốc mà thôi. Chuyện ấy còn chưa biết, mới chỉ một xã thành một hợp tác xã đã lắm chuyện rồi. ủy ban chỉ giữ cái triện, mọi việc đều qua chủ nhiệm. Hợp tác xã nắm nhân lực, cho đi bộ đội, đi học xa, cả các nơi về điều tra lý lịch để kết nạp vào đoàn, vào đảng, lấy người vào biên chế cơ quan chủ tịch xã đóng dấu, chủ nhiệm cũng ký cùng. Trụ sở ban chủ nhiệm đông người ra vào. Bên uỷ ban, ngày làm việc mà lắm hôm khoá trái cửa. Ngay ở xóm Đồng, bà con chỉ biết đến tổ trưởng sản xuất, trưởng thôn cũng như anh xã viên chay.
Chẳng bù với nhiều nơi cuối tỉnh cuối huyện, các hợp tác xã điển hình quẫy như cá úi. Mỗi huyện, mỗi tỉnh đều thổi lên những cái bong bóng hợp tác xã điển hình. Một hình ảnh tưởng tượng hùng vĩ đến ngây ngất, cả nước gồm ba trăm huyện là ba trăm pháo đài đầy đủ mọi mặt như một bang. Cứ dóng dả lên thế, nhưng chẳng ngành nào điều được người về huyện, tài chính, nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ... vẫn vắng bóng. Như thế, càng báo cáo phấn khởi ăn gian nói dối tràn lan.
Các hợp tác xã được tỉnh, được huyện hay cơ quan, nhà máy đỡ đầu. Suốt tháng nhộn nhịp, nông nhàn cũng chẳng khác ngày mùa. Ngày chủ nhật, cán bộ, nhân viên làm lao động công ích đẩy những xe phân hố xí hai ngăn trên các cơ quan tỉnh, huyện về. Nhà máy kết nghĩa thì ủng hộ than để nung gạch, cho bã hoa quả, vỏ cam, lõi dứa thức ăn nuôi ngan, nuôi lợn.
Về đến nơi, xã viên rỡ bã cam, mắt dứa nhặt riêng, đem ra chợ bán. Hợp tác xã có tổ nuôi ong. Bí thư tỉnh uỷ chủ nhật nào cũng về xã theo dõi điển hình. Ông đã gửi tổ ong của hợp tác nuôi hộ ông một chục đõ. Chủ tịch huyện cũng có năm đõ nhờ nuôi. Ong chết dịch, ong bốc bay mất bao nhiêu thì đõ ong của các thủ trưởng vẫn đông đàn và đến vụ quay mật cứ là tố hảo, mật nhãn mạt hoa ngô sánh như kẹo mạ. Mọi sự được đắp vào, được tiếng tăm, nhưng hoạn nạn ở đâu cứ kéo đến, trước nhất méo mặt vì nạn khách tham quan. Báo chí càng thổi kèn đu đủ bốc thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kéo đến tìm hiểu học tập càng nhiều, huyện bạn, tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến. Các xã láng giềng phải nghĩ ra mẹo trốn thành tích. ở hội nghị tổng kết trên huyện, các hợp tác xã theo nhau báo cáo năng xuất đuối, không đạt mức thi đua - mới vụ trước thì vun vút vượt chỉ tiêu. Cả các anh điển hình cũng co lại. Chẳng biết đâu thật, đâu vờ, mà cái cớ chính thì cũng dễ hiểu. Tôi yếu rồi, thôi thôi đừng ai dòm ngó tôi nữa, tôi không nhất nhưng tôi không bét, tôi cứ tà tà cả làng không lên mâm, không có cỗ với ai cả.
Ông Ngải vỗ vẩy cái ống điếu.
- Lắm nơi rắc rối nhỉ. Nhưng mà nghĩ ra thì ở đây cũng không khác đâu. Hôm nọ ông cán bộ gà lại về dạy làm chuồng, cách cho gà ăn, cách chống gà toi.
Người ta nuôi gà cả đời nào phải học ai. Thôi thì cũng đồng ý, cũng phát cỏ, quét vôi, bắt gà ăn thóc ngâm muối cho phải phép.
Tôi hỏi:
- ở đây có đoàn tham quan đến không? Dạo ấy thôn ta hợp tác xã thí điểm điển hình huyện cơ mả.
Ông Ngải hút một điếu thuốc. Cái nõ kêu ròn tanh tách. Rồi ông bụm môi, thở khói, như cái cười ngậm trong miệng theo khói ra.
- Tôi không biết. Ngày trước thằng Tây đóng bốt trên đê đầu làng, giữa làng, cuối làng, cả hàng huyện này đồn bốt chi chít như đế giày đinh của nó. Thế mà rồi bỗng chốc ta về nhổ sạch. Cho nên, tôi chỉ biết theo ta thôi.
- Nhưng cái gì thấy không đúng phải có ý kiến.
Ông Ngải lờ đờ mắt.
- Tôi chỉ ý kiến thế.
Tôi đã hiểu cái ý của ông Ngảí. Ông nói cái gì ông cũng theo, nhưng thật ra xưa nay ông chỉ theơ ông, theo bàn tay ông mà thôi. Tôi quí ông cung vì thế, tôi đã bao lần nghe ông Ngải kể về sự tích cái đất và những mảnh ruộng này của ông với cái cuốc, cái mai.
Đã bao nhiêu năm rồi, mỗi hôm ông Ngải lại ngồi tựa bụi tre lép, ngắm nghía cơ ngơi của ông từ vườn ra ruộng xuống bãi sông. Những khi mát trời, ông ngồi đến lúc ngôi sao hôm như một giọt sương sáng long lanh rỏ xuống mặt nước xa kia.
Tôi hỏi:
- Bây giờ đội nào làm mảnh ruộng này?
- Chẳng đội nào cả.
Tôi lấy làm lạ..
- Ông đã làm ban kiểm tra, ông giữ ruộng riêng sao?
Ông Ngải cười hề hề:
- Thế đấy. Mấy vụ tôi để các đội làm đều mất ăn, chỉ được vài gánh lúa lép. Chúng nó nói quàng: bụi tre này ớm bóng làm cỏ áy, lúa áy. Nói láo, bóng tre chỉ bằng cái nón, lại ngả xuống ao, đâu ra ruộng.
Tôi gọi anh Sự với cả ban chủ nhiệm ra tận ruộng.
Tôi bảo cái tay tôi đã làm nên đồng đất này, tôi biết nuôi nó lúc đói lúc no thế nào. Các người tưởng ai cũng làm, làm thế nào cũng được sao. Cái cày máy có lia được vào bốn góc ruộng đâu, lại phải cần đến thằng cày chìa vôi. Để đấy, vụ này tôi làm. Thế là tôi lại vác cuốc ra. Ngày mùa, thóc quảy về chật nửa sân hợp tác, hạt thóc ken nhau, con đá phải lăn hai ba lần mới sạch rơm.
- Các tay hợp tác có hỏi ông kinh nghiệm làm thế nào?
- Tôi làm thế nào thì bày ra đấy, chúng nó biết chứ. Có điều rằng người ta làm ruộng đất thịt trong đồng, không ai thuộc tính nết cái soi bùn, lưỡi cày không lật được tới màu, độc cái lưỡi cuốc mới len lỏi xuống đưa màu lên được. Chỉ có thế.
Tôi hỏi:
- Ông Ngải ngày trước có bao giờ lên tỉnh không?
Ông Ngải nhìn tôi:
Anh ngỡ tôi không đi tỉnh, tôi không biết mặt rượu a? Tôi đã nghiện lâu năm đấy.
- Ông cũng uống rượu?
- Mỗi hôm đánh ngã hai ba chai con hươu, đến lúc sờ thấy nóng tai mới đứng lên.
- Ôi trời!
- Rồi tôi bỏ rượu. Cái ấy hại tiền, chẳng ra gì. Bấy giờ còn đương sức bay nhẩy.
- Ông ra tỉnh.
- Xa bằng vạn ra tỉnh ấy. Tôi ra Uông đội than, vào rừng trong Thanh ngả gỗ vần xuống sông đóng bè.
- Khiếp chưa!
- Hai chân đất, tôi cứ đi. Một đời tôi chưa biết cái tàu, cái xe, không biết cái màn.
Tôi đã ở nhà ông năm sáu tháng, thế thì những cái biết, cái nghĩ của tôi về ông đều phải vứt đi ráo.
Tôi chưa biết gì về ông Ngải. Tôi tưởng người các miền quê ta đâu cũng như quê Thiệu Hưng của lão AQ. Bên ấy đất nước mênh mông, người trong làng chẳng bao giờ đặt chân lên đến trấn, đến huyện. Một nhà ở Hoa Trung chuyển vùng đi kinh tế mới lên Hoa Bắc, vào Tân Cương ngày ngày ròng rã thăm thẳm mịt mùng biết đâu đưòng nào về. Làng xóm ta thật khác, như ông Ngải đã tha phương cầu thực đến đâu cũng được.
Người gốc dưới Nam lên khai hoang trên Phong Thổ, Lai châu. Xa nhất thì vẫn đi đi về về một chốn đôi quê. Đường ngược về, đeo đãy cao khỉ, hổ cốt, mật gấu, mật ong. Dưới xuôi thì quảy lên những thứ trên rừng hiếm: lọ thuỷ tinh, bóng đèn, dây ni lông, gương lược...
Lẽ nào tôi chẳng biết, mà tôi không biết thật. Tôi chỉ trông cái trước mắt. Tôi không biết về ông Ngải, rõ là tôi đã biết gì đâu.
Mấy nhà trong xóm tối nào cũng đến trầm trồ quanh cái tai ga len treo trên cột.
Ông Ngải gật gù:
“Văn công hát chèo như người đứng trước mặt.”
Vợ chồng, cả nhà Dũng đã lên tỉnh mở hàng cơm chứa trọ. Chắc không ở cầu Bo, tôi không gặp.. Sự vẫn không có nhà. Mấy hôm ấy có lớp huấn luyện trên huyện. Sự nhắn tôi cố ở chơi được đến cuối tuần, Sự về. Vợ Sự và cái Soi đi gánh cỏ tóc tiên về bỏ làm phân chuồng lợn. Mới năm nao, chẳng mấy hôm không bị mẹ đòn đánh, bây giờ cái Soi đã lớn vổng, cao bằng mẹ.
Vợ Sự hỏi tôi:
- Anh mang cái máy hát về cho ông Ngải hả?
Cái Soi nói:
- Cái ga len nói như ma nói.
Tôi bảo:
- Sự về, vợ chồng tối sang chơi nhà ông Ngải, cả cháu nữa.
Cái Soi cười:
- Tối nào cháu cũng vào đấy. Thoạt nghe nó nói lợn cả tai.
Tôi mới nhớ ra cái cô bé mặt ngấn ngơ đứng ôm cột nhà, chốc lại nghé nghiêng nhìn lên ga len, là cái Soi.
Tôi về Đan Phượng đúng hẹn với Thử, chúng tôi cùng vào trường vửa chuẩn bị lễ bế giảng. Mỗi tổ được thông tri lịch từng ngày với những việc phải làm. Giấy giới thiệu sinh hoạt lại với cơ quan, thanh toán tiền ăn tháng sau cùng. Có một điều căn dặn mà thoạt đầu tôi thấy là kỳ quặc ở cái trường mà học viên đều đã nên ông nên bà và cán bộ cỡ. Không được viết bậy, ỉa bậy ra nhà vệ sinh. Không phơi quần áo dưới sân.
Nhớ khoá xe đạp... Nên cẩn thận và đề phòng những ngày cuối bận rộn dễ mất cắp mất trộm.
Có người thành thạo nói: trường người lớn hay trường trẻ con thì cũng cứ gặp bế giảng lại như tháng củ mật áp Tết ở làng. Có người đưa gái điếm đến dọn dẹp hộ, bảo là con nuôi. Cô Ngọc học trường này mất cái đài Mẫu Đơn. Về nhà, về cơ quan không dám hé răng. ở nơi uy nghiêm thế này không thể có trộm cắp.
Nhưng tôi vẫn nhớ đến cái ông ăn vụng quả chuối ở căng tin.
Rồi mọi việc êm đềm trôi qua. Mỗi tối trò chuyện khuya hơn mọi khi. Ngoài vườn, những luống ngô đương trổ cờ, hoa ngô thơm nồng nàn vào cửa sổ. Các bạn ở xa đi xin chữ ký vào sổ tay. Dẫu già vẫn là cảnh trẻ con đi học.
Tôi làm tổng kết, viết tự nhận xét và nhận lời phê của tổ đảng, của chi bộ.
Bản chứng nhận học tập của tôi:
Đảng lao động Việt Nam- Trường Nguyên ái Quốc
- Bản chứng nhận học tập. Lớp 8 tháng khoá 3. Từ tháng mười 1961 dến tháng bảy 1963.
A- Kết quả học tập.
1- Duy vật biện chứng- ý chính đủ. Thiếu định nghĩa giữa phạm trù chung và riêng. Không nhớ câu Lê Nin nói về chung và riêng. 2- Duy vật lịch sử- Đủ ý chính. Liên hệ thiên về vai trò và đặc điểm văn học nghệ thuật trong phát triển xã hội. Phân tích tác dụng nghệ thuật trong đòt sống còn sơ lược. 3 – Chíh trị kinh tế học- Đủ ý chính. Thiếu phân tích lao động phức tạp, lao động giản đơn, giá trị và số lượng giá trị của hàng hoá. Sự tất yếu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, đủ ý chính. Thiếu phân tích nguồn vốn, tiến trình. 4- Kinh tế cụ thể- (học thiếu 2 bài kinh tế xí nghiệp vì về dự đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và đại hội Hội Nhà văn Việt Nam ) 5- Đi công tác thực tế ở hợp tác xã thí điểm đã cải tiến quản lý- Làm được đầy đủ nhiệm vụ tổ giao (Nghiên cứu về chăn nuôi, có báo cáo riêng).
6- Lịch sử Đảng- Đủ ý chính.
B- Tự nhận xét
l- Thời gian học toàn khoá. Nghỉ 10 ngày (Dự Đại hội Văn nghệ và Đại hội Hội nhà văn), nghỉ hè ở Sầm Sơn về chậm 15 ngày (đã kiểm điểm). Những bài không học: 2 bài về kinh tế xí nghiệp (kinh tế cụ thể), 2 bài về lịch sử Đảng.
2 – Kết quả nhận thức lý luận, vận dụng lý luận liên hệ thực tế và nâng cao tư tưởng.
a/ Lần đầu tiên nghiên cứu lý luận dài hạn, lĩnh hội được một cách có hệ thống. Mỗi môn học đều có liên hệ, lại có đi thực tế kiểm tra lý luận trong thực tế. Với tôi, phần học triết và kinh tế nông nghiệp thu hoạch được đầy đủ hơn cả.
b/ Cụ thể kết quả tất cả các bộ môn như sau:
Về duy vật biện chứng- Thấy sâu sắc hơn được sự vật có liên hệ và phát triển lẫn nhau trên cơ sở những qui luật và phạm trù phép biện chứng duy vật, do đấy có cơ sở khoa học và chính xác là xem xét theo qui luật mâu thuẫn, hạt nhân phép biện chứng, mối liên hệ giữa các qui luật. và phạm trù, sự vận động và phát triển. Đặc biệt: phạm trù riêng chung đã liên hệ được nhiều mặt về tính dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa của xã hội và của đường lối văn nghệ của Đảng.
Về duy vật lịch sử – Thấy được tính tất yếu khách quan của tiến triển lịch sử loài người thông qua đấu tranh giai cấp - động lực phát triển của xã hội. Mối quan hệ thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đặc biệt liên hệ chức năng của mỹ học trong phạm vi công tác và sáng tạo của văn học.
Về lịch sử Đảng- Thấy được cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình từ khi Đảng ra đời đã phát triển theo quan điềm Mác - Lênin rất khoa học, đặc biệt tốt với vấn đề nông dân và các chủ trương, chính sách liên minh công nông, mặt trận dân tộc.
Về kinh tế cụ thể- Hiểu được hơn cả là các bài về nông nghiệp như: Sử dụng ruộng đất, vấn đề thâm canh tăng năng suất, vấn đề kỹ thuật nông nghiệp (Các bài về lúa, phân, giống đất, các phương thức canh tác, vấn đề chăn nuôi). Tất cả các vấn đề trên được liên hệ, kiểm tra, so sánh, bổ sung trong đợt đi thực tế một hợp tác xã đã cải tiến quản lý ở Đan Phượng (Hà Sơn Bình).
c- Tinh thần, thái độ học tập- Có tinh thần cố gắng, nhưng không đều. Phạm nội qui, nghỉ hè quá hạn đã bị phê bình ở tổ.
d- Nhận xét của tổ, chi uỷ và ban giám đốc nhà trường:
- Đồng ý với tự nhận xét.
- Qua học tập, nhận thức lý luận tương đối tốt, có chú ý liên hệ lý luận với thực tế, nhưng có phần thiếu hệ thống.
- Tinh thần, thái đô học tập nghiêm túc. Có việc phạm nội qui về thời gian nghỉ hè về trễ, đã tự kiểm điểm.
- Cần hệ thống hoá lý luận, kết hợp tốt việc vận dụng lý luận đã học vào lĩnh vực sáng tác văn học.
Cần nâng cao hơn nữa tự phê bình và phê bình.

Chương X

ở trường về, tôi lại được bầu vào ban chấp hành đảng bộ, lại tiếp tục như đã làm hai năm trước khi đi học. Đã sát nhập Đảng đoàn Văn hoá và Văn nghệ.
Về Đảng bộ, đã thành lập Đảng bộ Văn hoá Văn nghệ. Bí thư Hà Huy Giáp, chịu trách nhiệm chung, phó bí thư tôi nắm khu vực các hội văn học nghệ thuật.
Một đợt nghiên cứu học tập về bảo vệ Đảng. Yêu cầu là xem xét và đấu tranh đưa ra khỏi Đảng những trường hợp đảng viên phức tạp về chính trị và lịch sử. Trên bàn tôi, những đệp lý lịch xếp từng chồng, tôi đọc, tôi đọc, tôi đọc...
Đã bao nhiêu năm, những quyển lý lịch đảng viên, chẳng mấy khi không có trong cặp, trên bàn. Mỗi bản một đời hoạt động, nhiều lần phải đọc vì những yêu cầu công tác khác nhau. Tất cả đều viết tay và tự khai.
Có thể trông vào đấy thấy ra được biết được thời sự chính trị và quãng đời từng người nhưng chịu không thể biết sự thật được tôn trọng đến đâu - nếu coi mỗi bản lý lịch phải trải qua cuộc đấu tranh vì sự thực viết ra. Quen tay viết, cứ nhà nho thì “nhà nho nghèo”, trung nông thì “trung nông lớp dưới”, địa chủ thì “địa chủ nhỏ”, mà những chữ nghèo, dưới, nhỏ đều không phải những danh từ có vị trí trong lý lịch về ngôi thứ xã hội, theo cách viết hành chính, luật pháp và khoa học. Khi chuyển cơ quan trên Việt Bắc về, xem lại các quyển lý lịch, hầu hết đều thiếu. Không phải thiếu sổ cái, mà mất những bản kiểm điểm khi chỉnh huấn, khi đi cải cách ruộng đất, những bản tự sỉ vả nặng hết cỡ. Chẳng biết các vị chủ lý lịch đã rút trộm ra từ lúc nào. Nhưng tôi thì còn nhớ, vẫn nhớ, cứ nhớ...
Một hôm, một cán bộ ban tổ chức Trung ương đến.
Anh đã luống tuổi, gày yếu, mặt xạm màu sốt rét kinh niên. Anh quê ở dưới làng Sét. Anh nói:
- Tôi trao đổi với anh về vấn đề hoạ sĩ Phan Kế An.
Rồi anh trình bày:
- Trên ban phụ trách vấn đề này. Đã gặp anh An nhiều lần, có bản kiểm điểm, có hồ sơ về những sai phạm của anh ấy. Nhưng khai trừ một đảng viên thì do chi bộ cơ sở quyết định. Đảng uỷ các đồng chí có trách nhiệm nghiên cứu tài liệu rồi thuyết phục chi bộ hội Mỹ Thuật, chi bộ này sẽ khai hội thảo luận rồi biểu quyết. Tài liệu và hồ sơ này tuyệt mật, chỉ đảng uỷ được đọc rồi phổ biến lại ở chi bộ.
- Tôi sẽ làm như thế!
Tôi cứ “vâng ạ” và “làm như thế", nhưng khách đi rồi mà còn chưa nghĩ ra thế nào. Việc khó khăn phải làm, thế nào cũng phải làm. Những khi bối rối tôi hay nghĩ ra và nhớ lại mênh mang mờ mịt thời còn trẻ con, tôi nằm ngửa trên gò cỏ Mũ Đồng Cân, nhìn lên trời giữa cánh đồng. Đứa nào bịt mắt tôi, à tôi đưong chơi trò bịt mắt bắt dê, mở rnắt ra thì trông thấy An, à thằng này vừa bịt mắt tao, không phải, tôi đương nghĩ cách giải quyết, tôi muốn chạy trốn mà không chạy nổi, không chạy được. Những việc xảy ra quanh chuyện Hoàng Minh Chính đã qua, tôi chỉ nghe loáng thoáng và cũng không tò mò. Chỉ để ý không có ai giới văn nghệ dính líu thì tôi nghĩ Hoàng Minh Chính có kinh nghiệm hoạt động, về mặt nào đó, bọn này đã móc nối các người làm báo, đài, thông tấn cơ động hơn. Tôi không quen Hoàng Minh Chính nhưng đã có lần nghe nói chuyện về trận tập kích sân bay Gia Lâm sau đêm 19 tháng mười hai 1946 và ở trường Nguyễn ái Quốc vừa rồi, Hoàng Minh Chính đến nói về triết học.
Nhưng Phan Kế An không liên can gì tới Hoàng Minh Chính. Không, An đã tu nghiệp mỹ thuật ở Lêningrat. An thân với nhà văn Marian Tkachôp, Marian cũng là bạn tôi, dịch nhiều quyển của tôi.
Tập hồ sơ là bản ghi những lời An đã báo cáo trình bày với ban Tổ chức các cuộc trò chuyện mỗi lần đến sứ quán Liên Xô gặp người công sứ, ông này là Pôgôđin hay Bôchep, tôi quên tên, ông ta có cái đầu bẹp dáng người Trung á. Mỗi dịp gặp tôi ông thường đùa kêu lên một câu tiếng Việt: “ối giời ôi, một trăm năm nay mới lại được bắt tay ông". Triều đại Goocbachôp, đọc báo thấy ông ta làm đại sứ bên Lào.
Tôi đi báo cáo và xin ý kiến bí thư Hà Huy Giáp.
Anh Giáp hỏi lại tôi thấy thế nào, tôi nói tôi chẳng biết làm thế nào và ngại làm. Anh Giáp chịu trách nhiệm của Đáng mọi mặt bên bộ Văn Hoá, lại trực tiếp làm bí thư Đảng đoàn và Đảng bộ cả bộ Văn Hoá và hội Văn Nghệ. Công tác nhiều và nặng, nhưng làm việc với anh Giáp, tôi thấy thoải mái dễ chịu. Tôi thường tự động làm đỡ anh những việc trong phạm vi tôi cũng có trách nhiệm. Sự gần gũi anh cứ như là tự nhiên đã cho tôi ý thức làm việc thế. Một buổi tối đi tản bộ bên hồ Thiền Cuông, tôi kể anh nghe ở Mông Cổ, tôi gặp cái cô ấy lấy chồng Mông Cổ, cô chửi chồng như hát, khiếp quá. Anh Giáp bảo: “Cô ấy tên là... phải không? Tôi biết rồi. Cô này ngủ với chồng, thằng chồng không làm hạ được cơn nó, nó xé cả quần, thế còn khiếp hơn".
Nhưng không phải anh chỉ tiếu lâm, trong đợt học tập này cũng như việc Phan Kế An, anh Giáp chỉ nói một câu mà tôi luận ra mọi công việc:
- Kế hoạch chung anh cứ làm rồi trao đổi với tôi, trao đổi chứ không phải đợi ý kiến tôi. Có điều, một điều thôi, cái gì khó hãy nên gặp tôi.
Miên man đọc tài liệu và đương nghĩ tới cuộc họp chi bộ hội Mỹ Thuật. Đọc những cái ma quỷ này vào lúc đêm khuya ngày rạng gà gáy phảng phất tiếng trẻ hờn, dường như có bóng thằng ba đầu sáu tay Phạm Nhan hiện về trong bụi cúc tần bên kia bờ ao, những sự việc và những sắp xếp ai oán lo toan, may ra mới hiện lên được. Dường như đã sang canh. Những con chim lợn không biết mới bay ra hay đã đi ăn đêm về tiếng kêu éc éc rời rạc mỗi quãng rơi một tiếng rùng rợn. Tôi đã nghe tiếng ấy quanh năm hay là bây giờ, đêm nay thành phố chỉ còn thảm thiết ngang trời tiếng chim lợn. Xung quanh ngoài thành chẳng còn mấy mặt hồ nước, những đàn con giang con sếu trú đông về không đỗ xuống đây nữa mà những tiếng kít kít gọi nhau rẽ lên hồ thuỷ điện, hồ Suối Hai, hồ Núi Cốc trên kia.
Tôi mở đến một văn bản. Cuộc trò chuyện hôm ấy về tình hình văn học nghệ thuật Việt Nam. Câu hỏi là: theo ý đồng chí Phan Kế An, ai bây giờ có thể lãnh đạo văn nghệ Việt Nam. An trả lời: có thể là Nguyễn Tuân, là Tô Hoài.
Tôi nhìn trân trân những hàng chữ đánh máy đương bò ra ngoài tờ giấy dưới ánh đèn. Tôi gấp cái tập ấy lại, rồi đi nằm.
Chi bộ hội Mỹ Thuật có bảy đảng viên. Vào họp, tôi tóm tắt những cái đã đọc ở hồ sơ rồi hướng gợi ý những sai phạm như thế thì không thể kỷ luật nào khác là khai trừ ra khỏi hàng ngũ đảng. Mọi người yên lặng một lúc lâu. Vài ý kiến lẻ tẻ. Tôi cũng không sốt ruột, không mong đợi gì. Hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm đứng lên nói: “Những khuyết điểm ấy là nặng, vi phạm điều lệ đảng và tư cách đảng viên. Nhưng đồng chí ấy làm cái sai ở đâu đâu, không ở chi bộ này. Hôm nay nghe tôi mới biết. Tôi không thể có thái độ thế nào được".
Buổi họp có bí thư đảng uỷ Hà Huy Giáp và anh cán bộ trên Ban quê ở đầm Sét. Không ai nói. Mọi người cũng như tôi, chứng kiến cuộc họp rời rạc quần nhau trong tưởng tượng.
Lúc biểu quyết, Huỳnh Văn Gấm đứng lên. Gấm đứng yên nhìn mỗi người, nhìn An. Nhưng Gấm không giơ tay. An nói câu sau cùng, anh thấy “tôi không có khuyết điểm. Ngày mai, ngày mai, thời gian sẽ ủng hộ tôi".
Trong vài cuộc chè chén, đôi khi tôi đi với An. Không khi nào ai nhắc lại hôm ấy. Nhưng tôi vẫn nhớ một chuyện vẩn vơ. Mùi Cá kể với tôi: “Cái ông nhà văn Liên Xô này ghê lắm, đã đưa Thanh Tịnh đem các thứ đồng hồ và vải cho vợ Lê Vinh Quốc, Văn Doãn, ông ấy cho Phan Kế An một cái chân vịt to lắm bằng cao su. Chân vịt để làm gì, anh biết không? - Chân vịt để đi bể lắp vào chân, bơi khoẻ hơn. Mùi lặng im, rồì nói: “Hay nhỉ". Vừa lấy làm lạ, vừa như lại chưa tin câu cắt nghĩa của tôi.
Tôi cũng hay trông thấy anh cán bộ tổ chức quê ở đầm Sét, buổi chiều anh ấy đạp xe qua phố Huế, chắc tan giờ, anh về nhà. Anh ấy làm như không nhìn thấy tôi. Tôi chắc anh đã nhìn thấy vì xe tôi lướt trước mặt. Một năm, tôi nghỉ trên đầm Vạc ở Vĩnh Yên. Giáp mặt, tôi chào, anh ấy đáp lại cẩn thận, nhưng như là không nhớ tôi và cũng không hỏi.
Lần này tôi nghĩ anh đã quên tôi thật. Mặt anh mọi khi mai mái bây giờ đổi màu vàng bủng, màu ốm.
Hai con mắt người bệnh nặng cứ thờ ơ thế nào. Có thể không phải không biết, mà không biết thật. Dẫu cho tâm trạng mỗi người mỗi khác, nhưng về việc này chắc cũng giống nhau. Nghiên cứu bảo vệ đảng, thực hiện có việc lớn việc nhỏ, nhưng việc nhỏ nhất cũng liên quan tới cuộc sống và tinh thần mỗi ngưòi. Tôi chắc là anh cũng như tôi mỗi khi nhớ còn áy náy về cuộc họp chi bộ hôm ấy.
Anh Nam trong Nam tập kết ra, làm ở hành chính. Anh người Bắc, nói là đi kháng chiến ở Sài Gòn. Nam công tác năng nổ, được bầu vào chi uỷ. Nhưng Nam hay chim chuột léng téng lăng nhăng. Xem lại giấy tờ khi mới nhận về, chỉ có một giấy giới thiệu chung cả chục người. Tên ai cũng đánh máy là đồng chí, đồng chí thì tự nhiên được hiểu là đảng viên. Bây giờ lòi ra không phải đảng viên thì lại nghi quá, có thể. không phải anh tập kết. Rồi Nam biến mất trước khi bị kỷ luật thế nào. Có người gặp ngoài phố, nghe nói bây giờ Nam đi buôn tem phiếu. Hay là thật anh ấy ở đâu chui vào cơ quan?
Phong trào bảo vệ Đảng được phát động rộng khắp các đỉa phương và các cơ quan, lại kêu gọi mọi người cung cấp tài liệu, ai thấy ai thế nào thì cứ phát hiện, bất kể có biết người bị tố giác, có phải là đảng viên hay không. Có hai cái thư gửi đến tố cáo nhà viết kịch Thế Lữ và nhà thơ Quang Dũng là quốc dân đảng thời kỳ phản động. Thư kể chi tiết, người viết đã có tuổi ký tên và ghi địa chỉ, cam đoan chịu trách nhiệm về những việc đã kể. Vậy phải xem xét kỹ lưỡng, có khi còn phải trả lời, dù các anh Thế Lữ và Quang Dũng không là đảng viên:
Tôi đến hội Sân kháu và nhà xuất bản Văn Học mượn hồ sơ lý lịch của các anh ấy. Không có gì khó khăn, trong lý lịch, Thế Lữ và Quang Dũng đã viết ra những việc tưởng là bí mật chỉ có người tố cáo biết, một cách đầy đủ và rõ ràng đầu đuôi.
Năm 1946, Thế Lữ với đoàn kịch Anh Vũ ở Hà Nội biểu diễn qua các tỉnh vào tới Quảng Nam rồi trở ra. Đến Quảng Nam giữa khi Chính Phủ ta ký tạm ước 6/3 với Chính phủ Pháp, trong nhân dân có người không đồng tình, nói nặng là Việt Minh ký giấy bán nước cho Pháp. Quảng Nam đương là nơi Quốc dân đảng công khai chống đối. Đoàn kịch nói Anh Vũ trở ra đến Thanh Hoá, đêm biểu diễn ở thị xã có một tiểu phẩm về tạm ước 6/3 mà dư luận nói là vở kịch phản động. Công an Thanh Hoá định bắt đoàn kịch. Nhưng cả đoàn đã thoát được lên tàu hoả. Thế Lữ chạy vào trụ sở Việt Nam quốc dân đảng ở thị xã mà thủ lĩnh bấy giờ là nhà văn Tchya Đái Đức Tuấn. ở đấy, Thế Lữ viết thư về Hà Nội cho anh Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng bộ Nội Vụ. Anh Hoàng Hữu Nam đã can thiệp. Thế Lữ trở ra được Hà Nội. Thư tố cáo cũng không có gì khác hơn những điều trong lý lịch Thế Lữ. Tôi báo cáo anh Hà Huy Giáp rồi xếp hồ sơ lại.
Những năm đầu 1940, Quang Dũng giang hồ phiêu bạt đến Liễu Châu. ở Liễu Châu, Quang Dũng gặp Nguyễn Tường Tam thủ lĩnh đảng Đại Việt Dân Chính. Quang Dũng không biết về đảng phái, nhưng Quang Dũng yêu văn Nhất Linh với hình ảnh nhân vật Dũng cách mạng phong trần dọc đường gió bụi trong các tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Bướm trắng, bởi Quang Dũng cũng đương phiêu lưu bắt chước các nhân vật ấy. Nhưng chỉ ít lâu, Quang Dũng nhìn tỏ mặt thật của họ. Những mưu đồ ám hại lén lút và Nhất Linh bố đẻ nhân vật Dũng nghiện rượu, say rượu, cứ sáng sớm ông Nhất Linh đã phải một cốc to rượu trắng mới đã. Quang Dũng vỡ mộng, lại lang thang rồi trở về Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám, Quang Dũng vào quân đội, Quang Dũng được tuyển học sinh quân trường võ bị Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây.
Rồi đi vào kháng chiến toàn quốc, năm 1951 thì ra quân, rồi hoà bình lập lại, anh đương dạy học ở phố chợ Rừng Thông trong Thanh Hoá thì Vĩnh Mai chánh văn phòng hội Văn nghệ, được đi tuyển người, Vĩnh Mai đưa Quang Dũng, Hữu Loan, Thanh Châu ra làm biên tập báo của hội. Quang Dũng ghi lại vắn tắt nhưng rõ ràng như tôi vừa kể trên. Cơ nhỡ và chìm nổi biết bao những nhận đường tìm đường của thanh niên trên bước đi của cuộc đời và của lịch sử. Việc Quang Dũng cũng được xếp lại.
Trường hợp Đồ Phồn và Nguyễn Đình Lạp thì phải đợi ý kiến trên lâu hơn. Nguyễn Đình Lạp đã mất bệnh trong kháng chiến nhưng vì đây là vấn đề lịch sử, thế nào thì cũng phải xem lại các nhà văn này trước kia cộng tác với nhà xuất bản Hàn Thuyên có khuynh hướng tờ-rốt-kít. Nhưng nhà Hàn Thuyên không phải một nhóm, một đảng chính trị hoạt động công khai hay bí mật. Có tư tưởng hay hoạt động tờ-rốt-kít do cá nhân mỗi người. Các anh ấy về sau, đến thời kỳ trước Tổng khởi nghĩa khuynh hướng mỗi người càng phân tán. Có người đi vâo hành động. Có người chỉ “cách mạng thường trực” ở miệng. Có người theo học thuyết khác. Có người vào đoàn thể Việt Minh. Và nhiều người cộng tác với Hàn Thuyên chỉ in sách. Như Đặng Thai Mai, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đổng Chi. Hôm tôi nói lại với Đồ Phồn việc kiểm tra đã xong, Đồ Phồn cảm động, trịnh trọng bắt tay tôi. Nhưng tôi lại đùa nhả một câu không phải lúc, tôi bảo: “Ông thì cũng là bần cố nông tờ-rốt-kít ấy mà". Đồ Phồn chau mày, nói: “Không, không phải thế".
Trường hợp nhà thơ Trịnh Đường thì thời sự và rắc rối. Trong lý lịch, Trịnh Đường viết rõ như tự thuật: bản thân làm bang tá, là địa chủ. 1945, vào Việt Nam Quốc dân đảng ở Quảng Nam, phụ trách quân sự huyện Duy Xuyên. Ba năm sau, vào đảng Lao Động, hoạt động và sáng tác văn nghệ phục vụ kháng chiến. Trong một đợt Liên khu Năm học tập bảo vệ Đảng, những điểm trên của lý lịch được đem ra phân tích, chi bộ biểu quyết đưa ra khỏi Đảng. Giữa khi ấy là cuộc tập kết chuyển quân ra Bắc. Sự định đoạt về biểu quyết của chi bộ cũng được Khu uỷ đưa ra theo.
Bắt đầu đợt sinh hoạt này, Trịnh Đường không đi họp chi bộ. Có thể anh đã thấy được mục đích của đợt nghiên cứu. Nhưng tôi thì cứ phải thu thập việc và con số. Tôi đến báo Văn Nghệ gặp Trịnh Đường. Tôi hỏi anh:
- Ra tạp kết, chi bộ nào giới thiệu anh trở lại sinh hoạt đảng?
- Tôi được tập trung và chỉnh huấn ở Chèm.
- Anh có nhờ người giới thiệu không?
- Một đồng chí người đẫy đà, tôi quên tên.
Anh trả lời miễn cưỡng, thờ ơ. Chi bộ đã biểu quyết cho Trịnh Đường thôi sinh hoạt Đảng. Không khai trừ mà cho thôi, như là nhạt đảng. Mà anh đã tự ý bỏ sinh hoạt từ trước. ở khu vực văn nghệ, cũng đã kỷ luật “cho thôi sinh hoạt đảng” các trường hợp Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên...
Có một đảng viên trước kia đã bị án nặng về hủ hoá. Đến cuộc học này, chắc anh ngại có thể cái tội cũ lại bị lôi ra. Anh đã đề nghị đi vào tuyến lửa mặt trận mấy tháng. Tôi định đợi anh ấy về, làm cho xong trường hợp của anh rồi viết báo cáo tổng kết nhân thể.
Bí thư Hà Huy Giáp nói:
- Anh không nhớ à, đợt này chỉ tập trung giải quyết vấn đề chính trị, không đụng đến các mặt khác. Thôi, anh cứ làm tổng kết...
Nhưng rồi anh ấy đã trở về cơ quan, lúc ấy tôi cũng chưa đốc thúc xong được sơ kết ở các chi bộ, mà báo cáo thì vẫn còn để đấy. Tôi hay đận đà, việc đã ôm đồm lại cứ nước đến chân mới nhảy. Tôi cũng không phải gặp anh ấy. Anh không ngờ đợt hợc tập ở cơ quan kéo dài quá, nhưng thế là anh đã thoát nạn, đợt này không truy tội hủ hoá và chắc anh đã biết từ hôm mới về rồi.
Thế mà đến lúc định viết, lại chưa viết được. Lại chuyện bất thường. Nhận được một thư, mở ra thì là một cái đơn viết tay trên đầu tờ giấy đề hàng chữ:
Đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng. Việc trình bày đại ý là trong dịp học tập bảo vệ Đảng này, tôi thành khấn bộc lộ thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1938 ở Sài Gòn tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức phản động là Quốc Dân đảng. Tồ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng. Mai Văn Bộ đương là đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pari. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì ở chiến trường B phụ trách văn hoá văn nghệ miền Nam. Việc quan trọng và ghê gớm quá. Tôi đi gặp ngay bí thư. Anh Hà Huy Giáp bảo tôi:
- Anh đừng lo. Việc này tôi cũng có thể chứng nhận và giải quyết được. Trước hết, xem. xét tự cách và nhân thân anh Nguyễn Hải Trừng đã. Nhưng anh cứ gửi đơn này lên tổ chức, rồi tôi sẽ lên trình bày.
Mấy hôm, Ban tổ chức có người xuống, nói:
- Ban đã nhận được thư này.
- Chúng tôi sẽ làm thế nào?
- Lưu hồ sơ, đồng chí ạ.
- Không phải điều tra?
- Không, xếp lại được rồi.
Nguyễn Hải Trừng thường hay có ý kiến và nhận xét quái lạ. Một hôm, uống bia ở quầy phố Tôn Đản, Nguyễn Hải Trừng bảo tôi: “Từ năm ra tập kết tới giờ tôi chưa được ai mời một cốc bia” Tôi hỏi lại: “Anh cữ nhớ anh đã mời những ai uống bia không?”. Nguyễn Hải Trừng lặng im.
Nguyễn Hải Trừng đi đâu cũng hay sinh rắc rối, không lường trước được. Đi thực tế ở Quảng Ninh, anh nói dối tuổi, lấy vợ, người ta kiện. Trước khi anh trở lại Sài Gòn, tôi còn phải đại diện cơ quan ra toà dự xử vụ tiêu hôn - ly hôn không có giá thú của anh.
Thỉnh thoảng anh có thư cho tôi kèm cả tranh ký hoạ - anh bảo chỉ có tôi là người anh còn thư từ. Nhưng tôi vẫn biết và được đọc thư anh gửi người khác. Tôi gặp ở Vĩnh Long con trai của anh công tác ở đoàn nhạc sở Văn hoá. Tôi bảo sao cháu không đón ba về Vĩnh Long, dưới này tĩnh mịch lắm. Anh ấy đáp: “Ba con là nhà văn lớn thì phải ở thành phố như Sài Gòn".
Anh viết thư kể một chuyện đau đớn mà gần đây anh mới biết. Khi anh đi tập kết, chị ấy đã ăn ở có con với người khác. Nghĩ đến nỗi đau lại ứa nước mắt. Tôi gọi điện thoại cho Nguyễn Hải Trừng. Một người nào cầm máy quát tôi rầm rầm... không có ai tên Trừng... không có ai... không được gọi.. rồi bỏ máy rộp một phát. Sau hỏi biết anh đã đề máy ra cửa cho thuê, không biết người thuê tháng hay thế nào. Và hồi này Nguyễn Hải Trừng hay xuống ở nhà con gái anh dưới Vũng Tàu. Anh mất bệnh ở Vũng Tàu. Chắc vẫn trong day dứt bất mãn.

Chương XI

Một hôm, Khang nhà ở phố ngoài bảo tôi: “Bác ra làm công tác phố cho vui". Tôi nói: “Cho nó buồn cười thì có”
- Không, bác làm thì hay đấy. Để tôi đi đề nghị"
Khang là đảng viên ở nội thành thời Tây chiếm, sinh hoạt đảng chi bộ đường phố. Nhà anh làm nan hoa, ổ bi xe thồ, xe bò cải tiến. Tổ đảng đường phố ấy có mười đảng viên. Khang đã giới thiệu tôi cứ như cấp uỷ nói: “Đồng chí ấy xung phong làm trưởng ban đại biểu khối ta". Mọi ngườỉ vỗ tay nhiệt liệt. ừ, thì làm. Về sau tôi mới biết, có tôi ngẫu hứng
“ừ thì làm", còn Khang thì cố ý. Gia đình anh sản xuất danh nghĩa tổ hợp tác xã thủ công, nhưng thực thì ở nhà làm, bán cho người đến mua, tức là một tổ ma. Chính quyền ở phố mà bạn bè với anh, có việc thì anh dễ nhờ. Nhưng tôi cũng chưa phải giúp anh ấy việc gì.
Thế là tôi làm ban đại biểu khối 98 quãng từ 1965 tới 1972, ít lâu trước khi thành phố gộp khối phố thành cấp phường như bây giờ. Từ khi tiếp quản, địa giới hành chính và tổ chức chính quyền cứ cộng lại rồi lại chia. Một làng tôi, tên gốc là xã Nghĩa Đô đã bao đời.
Pháp chiếm lại Hà Nội đổi là xã Hoàn ấn - vì tuyên truyền các báo đăng tin đã tìm thấy cái ấn vàng của vua Bảo Đại ở đấy, - Hoàn ấn đăng đối với Hoàn Kiếm. Ta về, đổi là Nghĩa Môn (cộng với Đoài Môn) rồi Thái Đô (cộng với Yên Thái), loay hoay rồi lại trở lại Nghĩa Đô như cũ, nhưng bây giờ là phường Nghĩa Đô. Tên các làng Nghè, Tân, Dâu, Yên Phú, Bái ân trong xã thì thành những con số xóm l, 2, 3... Trên thành phố yên vị, còn ở dưới nhốn nháo lộn xộn các cấp khối, tiểu khu, khu, nhưng vẫn chỉ được coi là chính qui bộ máy ba cấp (thành phố, khu, tiểu khu). Thay đổi linh tinh đến quên hay là không, cả những người đương làm việc cũng không biết công tác mới cũ ra sao.
Năm trước, báo Hà Nội Mới đăng một bài nói về trật tự trị an rồi kiến nghị lập đội dân phòng các phường, phân tích đội dân phòng ở cơ sở ích lợi và cần thiết thế nào. Đó là thủ thuật tuyên truyền giới thiệu mào đầu rồi tiến tới tổ chức. Nhưng có lẽ nhiều người công tác ở cơ sở không nỡ để thành phố mắc lỡm đã cho biết thành phố ta có đội dân phòng từ ngày mới tiếp quản và chưa giải tán bao giờ. Tôi cũng gửi một thư tương tự. Rồi chẳng thấy báo đăng tiếp về đội dân phòng sắp thành lập. Chắc người ta đã xem lại các văn bảnvà sửa chữa bằng cách lờ đi.
Trưởng ban đại biểu khối phố cũng như trưởng thôn ở xóm - một hình thức tự quản, nhưng công việc thì lại chẳng khác chủ tịch xã. Có lịch giao ban với tiểu khu, không được có con dấu nhưng cứ ký chứng nhận, xác minh, giới thiệu đủ thứ: đăng ký kết hôn; xin miễn phí cho người nghèo nằm nhà thương; mua bán nhà; đưa giấy gọi nghĩa vụ quân sự; mở lớp xoá nạn mù chữ, lớp chống tái mù; phụ trách vệ sinh, đánh bả chuột, phun thuốc muỗi; lập danh sách rồi lĩnh và phát tem phiếu lương thực cuối năm. ôi chao, một đống việc phải mó tay vào. Có hôm đương họp, người chạy vào báo: phố bên kia cho người lấy phân trộm, xe thồ cứt thối khắp xóm. Thế là lại phải chạy sang. Tôi không biết mặt chi bộ đường phố, cũng chẳng khi nào chi bộ gặp tôi, không kể chỉ một lần ấy tôi đến họp tổ đảng với Khang. Cuối năm, các trưởng khối được lên họp trên hội trường khu, có thường vụ, có chủ tịch thành phố. Ông Mai giải thích cả một buổi tối về ý nghĩa cái Tết, Tết độc lập khác Tết nô lệ và ở đâu có áp bức thì ở đấy có đấu tranh vân... vân...
Các trưởng khối cắm cúi ghi sổ tay để lẩy tài liệu về truyền đạt lại. Tôi chỉ ngồi nghe. Ông nói xa xôi quá, chẳng đụng đậy chút nào đến bà con ở phố. Có năm thì ông khác về nói, nhưng bài vở cũng đại khái vậy. Tôi nhận công tác cũng không một mảnh giấy tờ lên xuống làm bằng. Anh Thắng cán bộ tiểu khu chấp nhận, báo cáo lên, thế là được. Tôi cũng không vể báo cáo xin ý kiến cơ quan hay chi bộ đảng. Cơ quan tôi cũng biết tôi làm khu phố, qua vài mẩu chuyện tôi nói vui, tếu táo với mọi ngưòi, cũng không khi nào tôi phải trình bày mà cơ quan cũng chẳng hỏi. Trong những người ra làm việc khối cũng có một số là đảng viên, họ công tác khác nhưng giống tôi, vì nể, vì những lẽ gì đó
Công tác kiểu này ở cơ quan cũng là những việc tôi thường làm, lại cũng bởi một thói quen nhìn nhận của người xung quanh. Chẳng mấy khi trong cơ quan từ hội Văn nghệ đến Hội Nhà Văn, trong ba mươi lăm năm công tác tôi không được bầu vào chi uỷ, đảng uỷ, làm bí thư, qua từng thời kỳ, cái tên tôi và Hoàng Trung Thông, Vũ Tú Nam quanh đi quanh lại đậu ở những chức danh trên. Tôi đã kết nạp Đảng và đã làm kỷ luật và kỷ luật đưa ra khỏi Đảng cả chục đảng viên - nhưng chẳng qua cũng là chân chi uỷ cơ sở, chuyên làm đầu sai tẻ nhạt. Tôi chưa thấy Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu làm chi uỷ bao giờ. Không phải vì quá bận hay không làm được. âu cũng là một thói ỷ lại triền miên ở chi bộ, loại chi bộ cơ quan hành chính chúng tôi. Chỉ có một khoá tôi không được ở cấp uỷ cái lần khối văn nghệ nghiên cứu nghị quyết 9 của Trung ương. Một lần gặp bí thư Đảng uỷ Nông Quốc Chấn, tôi trông thấy trên bàn Chấn có bản danh sách phân loại nhận thức học tập nghị quyết 9. ở mục cá biệt chú thích “lừng khừng, chưa rõ", có mấy tên người, tôi đọc ngược thấy: Nguyễn Tuân, Phạm Văn Khoa và tôi. Nhưng khoá sau, đã nhạt nghị quyết 9, lại bầu tôi.
Tôi làm trưởng phố, ông Đại đương trưởng xuống chân phó. Đại nghề mộc ở đội sửa chữa nhà của khu, mà bộ dạng anh ta cũng rõ bác phó mộc. Hai bản tay thô, nước da bánh mật, lúc nào cũng như rám nắng Đằng sau xe đạp chằng dây thép buộc chiếc hòm gụ đựng cái tràng, cái đục, mảnh giấy giáp đồ nghề, trước ghi đông thì gài cái cưa. Chiều thứ bảy Đại đạp xe về quê trên Phùng, sáng thứ hai xuống sớnl. Đại cũng đã đứng tuổi. Những người kiểu Đại nếu ra đây đã vài năm có thể ở làng vì sợ Tây càn, sợ du kích ta hay là vướng thành phần thế nào, cải cách xong rồi vẫn không dám trỏ về hẳn. Những năm ấy có nhiều địa chủ, phú nông bị đấu hay bị đấu hụt ở các nơi trốn ra thành phố. Đại ở cái gác xép, như cái cũi mèo, mỗi bề khoảng ba sải chân, đầu thang lên xuống có tấm cửa gỗ vuông sập xuóng đội lên, lại tựa cái bẫy chuột. Một thân cặm cụi, quanh mình chỉ có một rổ bát, cái dây vắt quần áo và cái xe đạp treo ngược, mỗi khi đi lại dòng thừng xuống qua lỗ cửa. Đại là loại người nào ở quê ra cũng khó biết. Bởi Đại cũng không trống mồm, hỏi một câu thì nói một câu, chỉ có phát biểu ở cuộc họp thì lê thê không có chỗ xuống. ở cuộc họp hai ban, cán bộ Thắng tuyên bố tôi thay Đại, anh ta cũng dửng dưng. Thì cũng thế, anh với tôi cũng chẳng có mấu cứ nào bận đến nhau để bằng lòng hay không.
Đại bàn giao cho tôi quyển sổ bìa các tông hoa chép biên bản các cuộc họp. Anh ghi lấy, mỗi buổi họp dài ngắn không rõ, chỉ thấy độ nửa trang líp nhíp, mấp mô. Cuộc họp sau cùng có mấy dòng mà đã quá nửa năm. Nghĩa là muốn ghi thì ghi, ông này cầm tràng đục thạo hơn cái bút.
Cuộc họp ban cũ ban mới dài một khiêng việc. Cũng chỉ một lúc xong bởi không ai nói lại và chỉ xướng lên đầu việc. Các công tác xã hội, y tế, vệ sinh, thông tin tuyên truyền, thống kê, công tác các đoàn thể, bảo hiểm xã hội, quản lý thị trường cải tạo tiểu thương, trật tự trị an, bổ túc văn hoá, phân công các uỷ viên phụ trách 6 tổ dân phố. Tôi phấp phỏng nhất, báo cáo nổi cộm về trị an. Một người phản động tù mười lăm năm. Hai người năm năm Hoả Lò tội tham ô, một thanh niên tù ba năm vì hiếp dâm trẻ con. Còn đương trong nhà giam cả. Ba thanh niên phải tập trung lao động bởi tội ăn cắp, nạn mất cắp vặt cái đân, cái phích, bẻ khoá cửa, mất quần áo phơt, phố nào cũng xảy ra.
Một người đánh nhau đâm người phải tù tám năm, đã về rồi nhưng vẫn lừng khừng. Hàng ngày đi nhặt đá ngoài đường về đắp lò nung đem bán vôi cho các bà hàng trầu cau trên chợ Đồng Xuân. Đã cảnh cáo, nó vẫn làm. Lại còn cãi bướng: Đá ngoài đường chứ của nhà nào. Tôi không làm thì ai nuôi tôi. Đợt tiểu khu cho phép thì ban bảo vệ sẽ phá cái lò vôi của nó chỉ to bằng cái chõ.
Tôi phụ trách chung và đặc trách các công tác nghĩa vụ quân sự, ban hoà giải và xây dựng gia đình 5 tốt. Khi đi vắng thì Đại thay.
Chỉ hôm sau đã xảy ra hai việc. Việc thì mình khờ, việc thì chưa biết nỗi sâu nông. Một cô ở phố ngoài đem sổ hộ khẩu đến làm bằng và tờ đơn xin việc để trưởng ban ký giới thiệu. “Cháu đã hai mươi tuồi, cháu phải tự lập". Tôi ký luôn. Bảo vệ Dương bảo tôi: Con bé ấy làm gái điếm, tối nào cũng ra đứng ngoài hồ. Anh ký giấy cho gái điếm vào làm cơ quan a?”
Một việc khác. Có người gọi: “Ông hoà giải ơi, ông sang ngay cho”. Chị ấy ẵm con vừa đi vừa kể: Thằng bé nhà em đi học mà nó cứ đổ cho thằng bé đái vào nhà tắm. Em nói thì nó đấm em. Vết đấm còn đây này. Nhưng tôi không trông thấy má chị ta hằn chỗ nào.
Vừa về tới, chị xông vào tát anh thuê chung nhà một cái, rơi vỡ kính. Anh ấy bảo tôi: “Báo cáo anh, anh mới ra làm chưa biết, con nặc nô này cốt tát tôi trước mặt anh rồi nó sẽ đi khoe nó tát vào mặt chính quyền đấy Trước lúc nó chạy đi gọi anh, nó cứ réo thằng cán bộ, thằng đảng viên ra chửi, tôi có cho nó một cái đấm, một cái đá thật.
Tôi hoà giải trước mớ bòng bong. Cuộc bàn giao chẳng có gì vẫn chưa xong, mỗi lúc lại thòi ra những việc lắt nhắt.
Không có đồ đạc, không sổ quỹ. Trên cho tiền hay vật dụng để tiêu và dùng ngay. Tiền chè nước họp, ba tháng được một tập giấy và cái bút chấm lọ mực Cứu Long. Tài sản có bảy thước vải đỏ làm bặng, cắt chữ dán khẩu hiệu. Trước mười thước, giải luân chuyển các nhà, không biết nhà nào xé trộm mất ba thước, hỏi không ai nhận. Một cái khay, mười chén uống nước, không có ấm - trước cũng có, bị vỡ. Tôi cắp khay chén về nhà, mỗi lần họp lại bưng đến rồi mượn chủ nhà cái ấm tích và nồi đun nước. Thế mà cũng vỡ chén cũng bỏ quên, mất luôn. Hết qui lại xin tiền trên khu, sắm bộ chén mới.
Đại báo cáo:
- Tiền chè cuộc họp thì có biên bản họp trên mới chi. Giấy bút mỗi qui phát năm đồng. Qui này đã tiêu hết.
Tôi biết thế và chỉ biết hơn mỗi khi có việc, cứ im thì thôi, càng hỏi càng lộn xộn ra lắm chuyện. Việc trưởng thôn thì không thể có kế hoạch công tác, toàn các đầu mẩu trên sai bảo và dồn xuống, có vẽ vời thêm rườm rà, lắm đầu việc đấy nhưng chỉ nói xong đứng dậy là hết cũng được. Đại kể ra thì thấy như thế, nhưng đến tôi có thể còn đại khái nhanh hơn vì Đại phát biểu ê a hấm hứ dây cà dây muống dài dòng văn tự.
Tôi đi đường, hôm nào cũng có người gọi. Đứng vỉa hè cũng giải quyết việc. Người ta tố cáo với tôi những ông bà ở ban cũ.
Từ khi giải phóng đã mười mấy năm qua đến tôi trưởng ban là người thứ ba. Đầu tiên là một ông công chức lưu dung ngành bưu điện. Cả thành phố không ai đeo cà vạt, ông ấy lúc nào cũng thắt cái cà vạt đen. Ông bảo tôi: “Ông là người hiểu biết tôi mới nói. Đứa nào bảo tôi thắt cà vạt đen để tang nhớ chế độ cũ là nó ngu. Cà vạt đen xã giao của châu âu là đứng đắn lịch sự nhất, có phải không ông?”. Ngườì trưởng ban thứ hai là ông Đại rồi đến tôi. Người ta rỉ tôi.. Ông An dân phòng buôn vàng, hải quan đã đến tận nhà cảnh cáo. Ông Dương bảo vệ thì uống rượu, đã bị bắt vì đánh tổ tôm, ít xì... Ông Đại ăn cắp mùn cưa của cơ quan đem về bán. Ông này ở làng không phải tên ấy, ông thay tên đổi họ chui ra đây. Có người phàn nàn: Nhà nó lý lịch có vấn đề con cái học xong không xin đâu được việc thì đi dạy học, toàn bọn thày giáo bất mãn, thì dạy dỗ thế nào. Anh em nhà kia Tết năm nào công an cũng đến giải lên đồn nhốt mấy ngày để phố ăn Tết được yên ổn, khổ thế..
Đội dân phòng đi dự hội thi phòng cháy chữa cháy trên khu. Tập vài tối ở phố rồi đi thi toàn khu trên. Cửa Đông. Việc này bên bảo vệ làm, nhưng chính quyền phải đứng ra đại diện. Người ta bảo ông giám đốc sở công an này trước làm trưởng phòng chữa cháy nên tập chữa cháy hăng lắm.
Bảo vệ Dương quãng trên bốn mươi tuổi, làm canh cổng thường trực một cơ quan bộ giao thông. Nhưng hồi này thấy ở nhà đi rà rà trong phố cả ngày. Dương tự giới thiệu:
- Tôi Nam Bộ tập kết. Quê ở Phú Lâm, cạnh Sài Gòn. Anh vào Sài Gòn bao giờ chưa? Anh đã biết Phú Lâm, cả Hanh Thông Tây? Anh ra làm việc hay lắm. Trên cử về a? Tôi có nhiều việc báo cáo riêng với anh. Phố này thì cán bộ, công nhân viên nhiều, nhưng phức tạp rất phức tạp, mà phức tạp nhất là cái ông Đại trưởng ban đại biểu trước anh ấy. Trên cũng sáng suốt thật, thay anh về. Nó mua chuộc Thắng cán bộ tiểu khu, chiều thứ bảy nào cũng cùng nhau đạp xe về quê nhậu nhẹt, lại mua biếu đôi dêp râu mới. Anh ta đương cạy cục xin vào đảng ở cơ quan. Được rồi, để đấy tôi điều tra đầy đủ sẽ báo cáo anh. Thằng ấy là địa chủ có tội ác chạy ra Hà Nội từ thời Tây. Có khi mà Tây nó cài lại, chưa biết chừng.
- Ông An đội phó của anh thì thế nào?
- Đội viên thôi không phải đội phó. Anh này có người nhà làm tướng ngụy quyền Sài Gòn, ta phải cảnh giác, đội phó thế nào được.
- Ông Đĩnh làm đội phó a?
- Không phải, không phải. Lão này dân tạm chiếm cũ, buôn nhựa lậu, thuốc lậu, bây giơ vẫn buôn. Báo cáo anh tôi không cần phó, một tôi, một tay tôi đâu vào đấy hết. Tối mai mời anh ra dự buổi tập phòng cháy chữa cháy.
Chỉ hôm sau đã lại nhiều người thì thào với tôi về bảo vệ Dương. Nghe thấy nhiều việc Dương lôi thôi quá, nhưng hỏi lại thì không ai nói được đích xác. Chỉ rõ ràng có việc ngày mới đến đây, Dương cũng đi họp chi bộ. Nhưng rồi giấy tờ không đủ thế nào, Dương không được họp nữa. Dương cũng thôi không cầu cạnh để được họp. Tôi cũng không hỏi Khang.
Cái ông An “có người nhà làm quan to trong Nam” đến nói với tôi rành rọt từng chữ, như nhà chức trách đọc văn bản:
- Ông Dương có án nặng, khu giải phóng trong kia chưa xử xong, đem ra đây, thế nào mà lại sổng tù lên làm cán bộ. Trên đương điều tra xem ai đưa nó ra làm bảơ vệ. Anh ta thì cứ doạ anh ta là cá chìm. Ông phải xác minh lại, chứ thế này...
ở khối không có mảy may hồ sơ lý lịch người công tác, biết hỏi thế nào mà cần gì phải hỏi. ơ miền Nam ra tập kết cũng nhiều vấn đề, nhiều trường hợp tương tự. Đúng là ở Nam Bộ, người vướng án nặng chưa xử xong, và cả những người nếu thấy để ở lại, có thể bên kia lợi dụng đều được đưa ra, như trường hợp Nguyễn Bính. Nhưng các tỉnh ngoài không làm kịp được như thế, nhất là các vùng tự do ta phải trao lại, mà trong khi các tàu Nga, tàu Ba Lan chờ người tập kết vẫn ra vào cảng. Nhiều cán bộ được bố trí ở lại mất tinh thần đã xô xuống tàu, không kiểm soát được, trong khi những người cần đem ra thì bỏ lại.
Các trường hợp Lam Giang, Võ Phiến là như vậy. Ngày đấy người thì làm tỉnh trưởng, người thì viết chống cộng. Nhưng đấy là những việc to tát còn cái anh Dương ban bảo vệ đứng đường này thì đi đến đâu, tôi dò la, hỏi han làm gì. Có thể nó là đứa giết người, tôi cũng chỉ nghĩ để đấy. Lại toàn những bới móc, chẳng thấy người nào tử tế. Soi mói nhau, coi ai cũng không ra gì thì ở cơ quan tôi cũng chẳng thiếu người đeo kính đen kiểu này.
Cái ông Dĩnh “buôn lậu” mách tôi:
- Vợ ông bảo vệ Dương trước làm “mai dông đờ te" nhà thổ. Tôi ở trong này, lạ gì. Thằng tù vớ được con đĩ, lại lên mặt bà bảo vệ, thối không chịu được.
Đại, phó ban của tôi nói về Dương:
- Báo cáo bác biết ông Dương hay đi dò dẫm bịa chuyện để tống tiền người ta. Trên tiểu khu cũng đã nắm được từ lâu.
Mấy tối nay, tất cả những người bị Dương bảo với tôi là những phản động và ông Dương, ông Đại và các ông An, ông Dĩnh đã bị người ta tố cáo đều có mặt, đều là các chân chủ chốt ra tập luyện, ai cũng hăm hở và cười nói trò chuyện râm ran.
Bộ dụng cụ chữa cháy khá đẹp mắt, từ thùng đến gầu, đến bơm đều sơn đỏ bóng nhoáng. Mười cái gầu sắt, một lô thùng xách nước, oai nhất cái xe hai bánh, trên lưng cõng một thùng tô nô chứa nước với cái bơm phun, mọi người đến vuốt tay lên và xuýt xoa gọi là cái máy bơm, ồ cái máy bơm. Nước đổ vào lòng thùng, hai đội viên dân phòng hùng hổ liên liến bơm, một người cầm cái vòi cao su vẩy nước chĩa lên chiếc vòng vành xe đạp treo trên đầu cái thang. Tia nước phọt được vào giữa vòng, thế là trúng đích. Người được nhấc vòi xả nước trúng vòng phải là đội trưởng, đội phó. Cả đám xách nước, bơm nước chen nhau, mặt phừng phừng như ốp đồng. Cuộc tập dượt làm cho hàng phố nô nức ra xem. Cái gầu, cái bơm, cái xe, cái vòi và có đến một trăm mét ống cao su đều của mọi người ủng hộ. Hội thi, trên khu phát tiền chè nước và một yến gạo, mỗi tối tập đến khuya, tổ phụ nữ đã nấu chín nồi cháo hoa, giải lao húp cháo, mỗi bát rắc vài hạt muối.
Tưng bừng nhất cái tối lên hội thi trên Cửa Đông. Đội dân phòng đồng phục ba mươi người áo quần xanh công nhân, giày vải tím, có người đi bất lửng đầu đội mũ sắt trên chỏm có mào con gà của lính cứu hoả Pháp ngày trước, cả mũ sắt nhựa quân đội khối Varsovie nhẹ nhàng bóng lộn, tròn xoe. Trong đoàn có bốn nữ các cô tổ đan len, cô công nhân nhà máy kẹo Hải Hà, cũng mũ sắt quần áo sơ mi xanh hệt nam giới. Vừa đi mượn được, mọi khi tập không thấy diện một loạt khéo thế.
Đội viên sắp hàng ba, hai người đi đầu cầm cán băng vải đỏ đính dòng chữ: Đội dân phòng khối 98.
Trong hàng, chốc lại phát ra tiếng hô một hai, một hai, chỉnh đốn bước đi đều phăm phắp. Tôi và Dương đi đầu hàng, cánh tay đeo băng, ra lối các người phụ trách. Cái còi kền trắng quàng dây đeo trước ngực, nhưng chưa thấy bảo vệ Dương thổi tiếng nào. Nhiều người tận dưới phố tôi, đông nhất là trẻ con đuổi theo nhìn dân phòng đi đều bước, người lớn thì tò mò lên xem thi thố ra sao, kết quả mấy hôm thức đổ mồ hôi tập. Mười bốn đội về hội thi. Đội khối tôi đã được tập trung vào chỗ qui định có tờ giấy treo đánh số. Cả đoạn đầu đường công an ngăn xe cộ qua lại bằng một hàng sáu chiếc xe đạp dựa ngang. Đèn điện mắc sáng chói cả vào vòm lá sấu âm u. Các phố xung quanh đổ ra đông như hội.
Tôi nhận ra cái gác lấp ló lá sấu đầu nhà kia, ngày trước Huyền Kiêu thuê ở đấy, hồi đi dạy lớp tiểu học trường Lui Patstơ. Đinh Hùng, Nguyệt Hồ, chúng tôi đến chơi hay ngồi thành cửa sổ, nhìn xuống đường. Hiệu tạp hoá Sinômura của Nhật nhà hai tầng ở gác ngã tư. Đằng kia, phố Thiên Tân, ngày xưa, ngơời ấy ở phố đấy. Chặp tối, đứng đợi chỗ ngã ba Cửa Đông này. Rồi hai đứa lên vườn hoa Canh Nông.
Bây giờ tôi đi dẫn đội dân phòng vào. Một thoáng xa, chẳng bận bao giờ đến nhau, nhưng cùng một chỗ này, kể cũng lạ một thoáng ngậm ngùi. Đội phố tôi bị xếp gần cuối. Chờ lâu, càng hồi hộp. Đến lúc giật mình loa gọi... alô... a lô... 98, bảo vệ Dương nhảy phắt ra, thổi cái còi kền tuýt tuýt, tiếng kêu anh ánh.
Cả đội răm rắp đẩy cái xe máy bơm. Rồi xách nước, đổ nước, thay nhau tuần tự bơm, đội trưởng đội phó lần lượt cầm vòi vảy nước lên cái vành xe đạp bọc giấy thiếc lấp lánh treo giữa bậc thang.
Năm lần vảy vòi, lần thứ tư cố nhất cũng không lên được cái vành sắt. Cứ gần đụng tới thì ngọn nước lại cong xuống. Thế là thua, thua đứt đuôi rồi. Tôi như ù hai tai. Các tối tập ở nhà lần nào cũng rọi nước vọt tung toé, cả các chị cũng vảy trúng vòng. Sao lên đây lại đốn mả thế, mà anh em đã cố gắng hết sức.
Ngoài ngã tư, các đội được giải, chốc lại nghe gọi tên, người vỗ tay hoan hô rầm rầm. Không biết phần thưởng thế nào, người tuôn lên chỗ loa réo. Chúng tôi chẳng còn ngõi được đến nơi vinh quang ấy, thua tiu nghỉu, ngoảy ra ngay.
Tôi nhớ việc cúa tôi. Tôi trèo lên lưng cái thùng tô nô, bắc hai bàn tay làm loa. Cảm như võ sĩ Bọ Ngựa, vừa ngố vừa oai, tôi hét: .
- Các đồng chí khối 98 trật tự... Cả đội đi đều, bước!
Đội dân phòng tiếp theo... một hai... một hai... Nhưng nghe như đuối hơi. Tôi còn ngấm dư vị tiếng quát ra lệnh trước hàng quân. Nhưng đến lúc nhìn bánh sắt cộc cộc, cái xe máy bơm đầu nghếch lên như con voi trận, bây giờ vẫn nó mà thấy như cái xe bò tơi tả không ai buồn đẩy.
Về tới trụ sở, xe nước và vòi bơm quăng đấy, nhiều người vào húp vội bát cháo rồi đi ngay, mà hôm ấy cháo bồi dưỡng có thịt lợn băm. Uất quá, bực quá. Phó ban Đại nói nhỏ với tôi:
- Cái anh Dương nó xỏ lá. Bác mới ra làm việc mà nó cũng không kiềng, đểu thật.
- Thế nào?
- Những hôm tập ở nhà nó treo vòng thấp, anh em cứ cữ ấy vắt vòi phun lên. Đến đây thì vòng chuẩn cao hơn ba gang tay. Thế là mất đà, mặt mo cả lũ.
- Sao anh biết?
- Thợ mộc chúng tôi đo bằng mắt, con mắt là cái thước, bác ạ.
- Dương cũng vào phun nước cơ mà?
- ấy thế mới thâm!
Đại bảo tôi phải làm cho ra nhẽ. Tôi nghĩ “cho ra nhẽ” cũng chẳng đi đến đâu, đằng nào cũng thua rồi.
Chẳng bao lâu lại sắp Tết. Công tác ở phố đã được ngót một năm và gia đình tôi về ở nhà này cũng gần mười năm rồi.
Các con tôi đã cọ gạch hoa, mua vôi vàng quét tường trước cửa- như phong tục ông ngoại tôi ở quê ngày trước, sắp Tết lại quét vôi trắng vẽ vòng tròn cánh cung lên mặt tường. Tôi xuống tận chợ Mơ tìm mua cái khánh, con cá đất nung về treo cây nêu, mà không đâu có.
Nhà tôi cách một quãng phố ngắn ra bờ hồ Thiền Cuông. Tôi sinh ở nhà ông bà ngoại xóm Giữa làng Nghè xã Nghĩa Đô. Cái nhà tôi ở thuở bé, mẹ tôi và các dì đã bán từ lâu. Trở lại Hà Nội, tôi thuê nhà ngoài phố, đầu tiên ở trên gác gần chợ Hôm. Đan Hà, Đan Thanh và các con chúng tôi mới bốn năm tuổi nghịch ngợm nhảy chơi sàn nhà gỗ, bà chủ phàn nàn quá.
Tôi đi qua cuối phố gần chợ Đuổi, thấy một nhà treo mảnh các tông đề “nhà cho thuê” tôi dọn xuống. ít lâu, Nguyễn Văn Tước - sinh viên mỹ học tôi quen ở Matxcơva tốt nghiệp về đi tìm nhà ở mách tôi trên phố có nhà muốn bán. Trong ngõ hẻm, căn nhà một tầng hơn sáu mươi thước vuông. Chủ nhà, một ông công chức về hưu đã luống tuổi, cũng mới ở nhà này mấy năm muốn ra ở ngoại ô.
Tôi đã mua nhà bằng tiền kịch bản Vợ chồng A Phủ, vừa làm phim lại vừa in sách - cả thảy trên hai nghìn đồng. Văn tự nhà, hai bên thoả thuận viết hạ xuống một nghìn rưỡi để ttánh thuế - ông làm mối nhà xui thế. Trong ngõ có hơn mười cái nhà liền một bên, trước mặt là tường một cơ quan. Có mấy nhà tư, lẫn nhà thuê của thành phố. Ngõ cụt, không phải người ở trong ấy thì không ai đi vào làm gì. Bởi vậy, đi tìm phố, có khi hỏi công an trật tự cũng không biết phố này. Trên đầu tường nhà tôi - miếng lá vả trát giữa, hai cột trụ đắp nổi chữ số 1923 năm xây, mái lợp ngói Satic của nhà máy gạch Tây phố Quan Thánh. Cái năm chữa làm gác xép, dỡ những cột rầm trong lòng tường ra đầu cột bọc giấy trang kim chống mọt.
Các hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm, Trần Văn Lắm trong Nam ra học trường Mỹ thuật Đông Dương đều đã trọ học ngõ này. Các anh còn nhớ trong nhà có cái giếng.
Nhà tôi ở, trần cót quét vôi còn hai cái móc sắt để mắc quạt kéo. ở sân bếp, một cái giếng mạch ngang, nước sủi váng vàng ố, nước để giặt rũ, không làm nước tắm nước ăn được.
Nhà như cái ống thế mà người ở phố này từ thời Tây nói nhà tôi có đến ba bốn chủ ở. Chồng đống gồng gánh bán quà sáng, quà tối, góc nhà quây lại nuôi cả lợn ở chung với người. Hôm nay đầu ngõ vẫn còn một vòi nước công cộng trước ở vỉa hè ngoài đường được chuyển vào ngõ, tuổi cái vòi nước ấy phải ngót thế kỷ.
Những năm Mỹ ném bom thành phố, các con đi sơ tán, vợ tôi lắm đêm trực chiến cơ quan, cái giếng làm hầm trú ẩn cho tôi. Nhà toán học Lê Văn Thiêm kể chuyện khi Berlin bị quân Đồng Minh bao vây tấn công, nã đại bác và ném bom cả tháng liền. Ngày đêm, Thiêm và các bạn học đã chui xuống ăn ngủ trong lòng giếng cạn giữa thành phố.
Chúng tôi dọn đến, đồ đạc chỉ một xe xích lô, hàng phố không ai biết. Mỗi người đến một túi, một ba lô còn gọn hơn. Khi ở hẳn, hai bên láng giềng mới biết nhà có chủ mới. Vợ chồng tải bằng xe đạp hay xách bộ, một cái giường nan vầu, một tủ đứng hai ngăn, một bàn gỗ lim dài một thước, mấy túi xoong nồi, quần áo. Những đồ đạc ấy về sắm ở chợ Giời. Đến bây giờ vẫn còn, chỉ vứt đi cái giưòng vầu gãy nan. Chiếc bàn gỗ lim cứng như sắt, mối xông cúng không nhằn được, để làm bàn thờ.
Dẫu sao, nhà ở mới cũng thoáng hơn cái buồng bốn thước vuông chợ Đuổi. Nhưng hai con gái tôi thì sợ. Những đứa trẻ nhìn cái nhà bằng con mắt hãi hùng như ngày trước tôi ở túp nhà cô hồn như nhà hoang của ông bà ngoại, mà tôi đã nhớ lại trong những trang mở đầu Cỏ dại. Khi nhà vắng, chỉ có hai chị em, chỗ nào cũng thấy ma hiện ra. Không dám ra gần thành giếng, ma dìm chết. Cái cửa nách nhà rêu trơn u ám quá, trong kia, trên tường lù lù dây móng rồng xanh eo éo như con ma xoã tóc. Đã tan học, bố mẹ đi làm chưa về, ở trường về không đứa nào dám vào nhà, chị em ra đầu ngõ ngồi ngóng.
Có lẽ đến năm tôi làm công tác khu phố, các tổ trưởng tổ phó họp ngay cạnh bàn viết của tôi kín ra đến cửa và rồi có đông các em hơn, mà bấy giờ cũng nhớn nhao rồi, các con tôi mới thấy nhà đỡ u ám.
Người ta nói ngày trước lòng hồ ăn vào tận đầu phố, có cầu ao bắc ra, nước ăn nước rửa đều ở hồ.
Bây giờ hồ lùi ra bên kia đường, nhưng mỗi khi mưa to lại như hồ ngày trước, nước dềnh vào tận các phố, các ngõ, có khi ngập liền mấy ngày. Trẻ con lội chơi, cả lũ kêu loạn xạ, gặp con rắn nước ở đâu ngoi ra.
Dáng dấp các phố vùng này cũng là kiến trúc phố cũ thời Pháp mà qui hoạch và bảo tàng thành phố chưa để ý. Không đặt tên phố (rue) mà Tây gọi là khu vườn phố (cité immobilière), không biết ai đã dịch ra là xóm, giữa phường phố có một cái xóm. Các ngõ ngoắt ngoéo, có đến năm sáu lối thông ra các phố bên. Nhà xây đá tảng chống ngập nước một tầng lửng, cột đá cột gạch đỡ sàn gỗ. Xung quanh mỗi nhà, vườn nho nhỏ, cây nhãn, cây cau. ở đây trước xưa khi chỉ có người Pháp ở, thường là công chức các sở Liêm phóng Bắc kỳ, công ty hoả xa Vân Nam, những công sở gần đấy.
Nhà thơ Ngô Linh Ngọc kể ngày trước trong phố có nhà của Jean Marquet mà anh ấy còn nhớ cả số nhà, ông ta làm sở Đoan và là văn sĩ thuộc địa đã viết quyển Năm bông hoa (Bắc, Trung, Nam kỳ, Ai lao, Cao Miên), có bài trích sách tập đọc tiếng Pháp và những tiểu thuyết phong tục ngô nghê của mắt ông Tây xem người bản xứ. Học trò lớp ba lớp tư chúng tôi phải học thuộc lòng, đọc ra rả như cuốc kêu, tận bây giờ còn nhớ: Il fait froid! Il fait froid! De longues rafales parcourent le Ton Kin. Les feuilles du banian rougeoient le sol... Trời lạnh rồi! Trời lạnh rồi! Từng cơn gió bấc đã thổi qua xứ Bắc Kỳ. Những lá đa rụng đỏ mặt đất... Chắc lá bàng, Tây gọi là lá đa.
Những tên xóm Hạ Hồi, phốNguyễn Du, phố Nguyễn Gia Thiều đều là tên mà ông thị trưởng thời Nhật bác sĩ Trần Văn Lai đã đặt. Năm 1945, phố Nguyễn Gia Thiều, nhưng được gọi chức và tên hiệu là Ôn Như Hầu. Cái nhà ở gần đầu phố, công an đã ập vào bắt hết bọn Quốc dân đảng ở đấy. Tôi là phóng viên báo Cứu Quốc, đã vào nhà này. Hồi ấy, một số toà nhà tương tự, Quốc dân đảng đóng rải rác các phố. ở đây, ở hàng Bún, ở đường Quan Thánh, trụ sở Trung ương Quốc dân đảng đóng ở trường Yên Thành, lại chiếm cả khu các phố trong bán đảo Ngũ Xã hồ Trúc Bạch. Còn nhiều nhà ở kín, khó biết, mà cái nhà hai tầng ở Ôn Như Hầu này cũng là cơ quan bí mật của Quốc dân đảng.
Nhà có một vườn nhỏ đằng sau, liền hai bên hàng xóm. Những người bị giết trong nhà khi đào xác lên còn thấy quang gánh, nón lá. Người sang trọng bị tống tiền, cả người bán phở, cháo gà, bánh giày bánh giò, thức ăn đêm, bọn canh gác gọi vào, ăn rồi quịt tiền, đánh chết người, vùi xác trong vườn. Nhà ở láng giềng đã phát giác ra tiếng gào khóc đêm khuya. Đấy là mấy chục năm trước, hôm nay đi qua chỉ thấy một phố thoáng đãng, yên tĩnh dưới hàng cây phượng lưa thưa. Nhưng mà chỉ cũng là bề ngoài của những sinh hoạt đời thường.
Bỗng có người gọi: “Ông hoà giải ơi! ông ra mà can, không thì vợ chồng nhà nó giết nhau kia kìa”. Tôi biết rồi, lão quét vôi thuê đi làm về, say rượn, doạ giết vợ. Trông lão gày kheo khư, mà bà lão thì to béo như con trâu trương. Tôi quát: “Im đi! Trật tự! ". Bà lão mếu máo: “Xin ông bắt nó lên đồn công an đêm nay, không có thì nó giết em mất". Lão đã nằm quay mặt vào tường ngáy khò khò. Tôi lững thững về.
Đầu phố đằng này có toà nhà ba tầng, cửa sổ trổ ra như những lỗ tổ ong. Mỗi chủ ở một buồng, buồng trong buồng ngoài, túi bụi, nhếch nhác. Dưới sân, người ngồi giặt, người giã cua, người chẻ củi, trẻ con nhảy nhót, những cụ già móm mém nhìn ra đường. Chỉ thiếu cảnh sưởi nắng lần tay áo nhá trứng rận, không thì chẳng khác sân làng quê một ngày nắng hanh. Tôi đi quan sát qua các nhà trong khối phố. Đại bảo tôi nhà này của một ông trước làm quan, cự phú, người ở nhờ không phải thuê, đều là các con cháu được gọi đến cho ở, thành phố không lấy nhà được.
Tôi biết thế. Cô Đàng, công an, bảo:
- Lũ trẻ con phố này hay trêu ghẹo ông cụ ở chỗ nhà ba tầng. Bác doạ chúng nó phải lễ phép với người già. Bác bảo thì chúng nó nghe hơn tôi nói.
Rồi cô Đàng kể:
- Cụ ấy ngồi đái ngoài vỉa hè, chúng nó hét đả đảo. Tôi bảo không được làm thế, chúng nó cãi: ông này đái đường làm mất vệ sinh, cô công an không bắt thì để chúng cháu bắt.
Tôi trông thấy trong nhà thường đi ra một ông lão người nhỏ thó, mặt và râu nhọt nhạt, áo sơ mi trong áo vét tử tế nhưng đã cũ. Cụ ra vỉa hè, ngồi xuống vén ống quần. Mấy đứa trẻ như đã rình đằng kia, vừa chạy lại vừa la: “Chúng mày ơi! Lại xem cụ đái... cụ sắp đái! ”. Nghe chúng nó gọi nhau thế, cụ lại đứng lên, thong thả đi vào trong. Nhưng quả là có hôm khác tôi trông thấy cụ ngồi xuống, vạch quần ra đái tự nhiên.
Người già cũng như trẻ con, đứng đâu đái chẳng được.
Ta nhìn nhiều cũng đã quen. Chỉ còn ngượng, nếu khi nào đưa khách nước ngoài từ sân bay vào thành phố, thỉnh thoảng trông thấy các chị đi trên đê, đương gồng gánh tong tả, lại xắn quần, đứng giạng háng ra. Cô Đàng hỏi:
- Cụ ấy trước là cán bộ cao cấp đấy, bác đã bảo các cháu phải lễ phép chưa?
Cô biết cụ là cán bộ gì...
- Trong sổ hộ khẩu tên cụ là Vi Văn Định.
- à thế thì cụ là quan đế quốc, không phải cao cấp ta.
Tôi nghe tiếng Vi Văn Định tử thuở nhỏ, khi làm tổng đốc Hà Đông. Bây giờ mới biết mặt cụ Vi Văn Định, mà tôi tưởng phải to con, dữ tợn, hách dịch, bởi cứ nhớ nghe chuyện người làng tôi kể Vi Văn Định ghét bèo Nhật, đến làng nào trông thấy bèo Nhật dưới ao, quan bắt nọc lý trưởng, phó lý phạt đánh roi giữa sân đình. Sau này, đi công tác lên Lạng Sơn tôi đã vào Bản Châu huyện Lộc Bình quê ông ấy. Dinh cơ của Vi Văn Định khang trang, như lâu đài, như toà thành, đoàn chuyên gia lão nông tri điền của tỉnh Quảng Tây Trung Quốc sang giúp Lạng Sơn trồng ngô giống mới đã ở cả tháng trong trang trại ấy. Nghe nói từ năm xuống xuôi làm quan rồi lên chức tổng đốc tỉnh Thái Bình thì ông không về quê nữa. Nguyễn Công Hoan kể: ở thị xã Thái Bình, buổi trưa ai lê guốc ngoài đường mà trong dinh nghe tiếng, tổng đốc Vi Văn Định cho lính bắt vào đánh..
Ra cái cụ gầy còm lù khù ấy là Vi Văn Định. Cụ lại ra vỉa hè, lừ đừ thong thả đi.
- Chào cụ Vi.
Ông cụ ngước mặt. Tôi nói:
- Tôi đã đuổi đám trẻ con hỗn với cụ, cụ cứ đái tự nhiên.
Cụ Vi nói khe khẽ:
- Ông nhặt cho tôi hòn đá, tôi ném vỡ đầu có thằng. Ông trông tay tôi cứng gân thế này.
Cụ giơ cánh tay, cổ tay cụ nổi gân xanh như que đóm, không cứng gân như cụ tưởng tượng. Cụ lại nói:
- ăn thịt mỡ, ăn mỡ cả lá, ăn mỡ thì khoẻ cái ấy lắm, ông ạ.
Tôi quen ông nhiếp ảnh Lê Đình Chữ ở phố trên, người cũng trạc tuồi các cụ Vi, cụ Võ An Ninh. Các cụ già đĩ mồm hay khoe khỏe cái ấy. Cụ Chữ chiều chiều đi ăn cơm bụi rồi uống cà phê đen. Cụ Chữ, cụ Võ cũng khuyên tôi ăn nhiều mỡ, ăn mỡ lá... Các lão kễnh tám chín mươi lẫn lộn hoài cổ với hoang tưởng.
Tôi không bắt chuyện ăn nhiều mỡ của cụ Vi, tôi hỏi:
- Cụ có hay về chơi Lạng Sơn không?
Cụ Vi nhìn tôi, lờ đờ mắt và lặng im. Cụ biết tôi biết cụ hay là cụ nhãng tính, nặng tai, hay là cụ vờ nhớ nhớ quên quên không muốn nhắc chuyện cũ.
Chữ ký và chứng nhận, chứng nhận và chữ ký, tôi bận nhiều nhất công chuyện này. Dường như ngày nào cũng có, tờ giấy đơn giản mà phức tạp.
Bà ải kể lể:
- Tôi với bà Lữ lên phố Lãn ông. Chúng tôi đương ăn cái ngô luộc thì cán bộ phòng thương nghiệp ra khám túi. Chúng nó lấy của tôi 9 đồng bạc, nửa cân phiếu đường một cân phiếu thịt, 20 cân phiếu bột mì. Oan ức tôi quá. Bà Lữ ấy mà, về nằm rên suốt đêm, gần sáng thì chết.
- Tại sao bà ấy chết?
- Uất quá mà chết, chết thiệt thân, có bằng chứng giết người đâu mà kiện, có mà kiện củ khoai.
- Thế bà đến kêu việc gì?
- Xin ông cái giấy chứng nhận tôi không buôn bán lề đường, tôi đã học tập, tôi không vi phạm quản lý thị trường. Trả cho tôi các thứ...
Tôi nghĩ vài cái lặt vặt, bắt cũng chẳng ra thế nào.
Tôi nói:
- Bà vẫn buôn bán lề đường nên mới bị thu đấy. Người ta thuộc mặt bà rồi. Tôi chứng nhân cho bà lần này, lần này nữa thôi.
Ông kia mới chuyển đến, xin chứng nhận cho con được học đúng tuyến. Một ông bỏ vùng kinh tế mới trên rừng trở về, chưa nhập lại được hộ khẩu, không có sổ gạo.
Tôi nói:
- Ông thì việc con đi học, ông thì phải có gạo ăn, tôi cho giấy một lần rồi phải đi lo ngay hộ khẩu đấy.
Một chị dược sĩ đến.
- Người nhà em bên Pháp gửi quà về. Xin ông chứng nhận cho em mới nhận quà lần đầu.
- Quà gì?
- Một cái xe ca mi ông, một ít thuốc.
Tôi trả lời:
- Tôi chứng nhận cho chị có hộ khẩu ở phố này.
- Em chưa nhận quà bao giờ.
- Tôi không biết, tôi không chứng nhận được.
Ngày mai, ngày kia lại những việc tương tự.
ở rải rác trong phố có mấy nhà có tên gọi là hộ đặc biệt. Hộ đặc biệt khác các nhà khác. Nhà biệt thự, cửa sổ trên gác không mấy khi mở. Có ô tô đưa đón, cửa xe treo rèm vải hoa, không trông thấy người ngồi trong. Cổng trấn song sắt, một tấm tôn che kín, khoá và xích xủng xoảng, bên trên có nút bấm chuông điện.
Các hộ này không liên quan đến khối phố. Không có tên hộ khẩu ở sổ cái của ban bảo vệ. Hàng năm, không phải bận lên danh sách tem phiếu. Chỉ mỗi dịp bầu cử thành phố hay Quốc hội, chúng tôi phát thẻ cử tri cho các hộ ấy và vị chủ hộ được giấy mời ra dự khai mạc, ngồi ghế danh dự trên hàng đầu và được bỏ phiếu trước. Đã mấy dịp thế, nhưng tôi không biết, cũng chẳng làm quen với ai, chỉ đoán cụ nội chính, cụ thương nghiệp, cụ phó thủ tướng...
Thế mà cũng vẫn có việc phải làm với các hộ này.
Việc thứ nhất là cái chuông bấm. Trẻ con hay với tay lên bám chơi một cái rồi chạy. Tôi nhận được công văn cơ quan phê bình để “nhân dân cãi nhau mất đoàn kết” và “không giáo dục thiếu nhi để trẻ nghịch bấm chuông cổng mất trật tự.
Đầu ngõ kia, một số nhà có nhiều hộ ở chân tường mà bên trong là một hộ đặc biệt ở cơ quan. Cái số nhà lắm hộ này chật chội kinh khủng, suốt ngày đụng chạm lủng củng to tiếng như có bệnh cãi nhau. Nhưng không khi nào xô xát dao gậy., họ loạn xạ chán rồi im dần. Ban hoà giải đã đến mấy lần, chưa có cách nào dẹp được. Cơ quan nọ phê bình, tôi không trả lời.
Lần sau, hàng xóm cách tường cãi nhau, cơ quan cho cán bộ bảo vệ sang tận nơi. Nhưng các người ta chỉ ngồi một chỗ ném lời qua tiếng lại, tức quá thì văng xa xả, chưa phạm trị an. Không đứng lên nắm tóc, đấm đá, cáo cấu, giằng xé. Đồng chí bảo vệ không biết can thế nào, nói nhỏ nhẹ hay nói xẵng, chẳng ai chịu im mồm. Mấy lần sau cũng chẳng doạ nổi, thôi không thấy sang nữa. Vị chủ hộ đặc biệt bên kia tường đành chịu đôi khi điếc tai, hay là đã dọn đi, tôi không biết.
Việc thứ là cái chuông bấm thì tôi đánh máy trả lời như công văn, cũng đánh số, đề ngày và ký tên cẩn thận. “Chúng tôi đã cấm thiếu nhi không được nghịch bấm chuông. Nhưng về mặt chủ động, chúng tôi không có điều kiện canh cổng nhà đồng chí 24/24.
Chúng tôi đề nghị đồng chí gắn cái chuông bấm lên cao quá đầu người thì trẻ con sẽ không nghịch được.
Kính chào quyết thắng".
Mấy hôm đi qua cổng, để ý thấy trên cổng sắt, chỗ bấm chuông đã gắn nhích lên lại đặt hõm vào trong tường, trẻ con kiễng chân cũng không tới được. Chắc các nhà có chuông bấm đã rỉ tai nhau, cổng nào cũng lắp chỗ bấm cao hơn. Các chú nhóc đành chịu. Không thấy nhà nào có lời cám ơn khối phố có sáng kiến. Tôi đương phấn khởi việc ấy. Thì tổ thanh niên báo cáo con gái vị thứ trưởng kia không họp thanh niên, mời ra giúp thiếu nhi phố vui hè cũng không nhận, còn trả lời kênh kiệu. Chả là các cô các cậu ở các hộ đặc biệt cũng đi học tiểu học các trường quanh đấy. Chặp tối, tôi cùng nhóm thanh niên đến nhà vị thứ trưởng. Tôi bảo một hai cậu thủ cái gậy, phòng nhà này có chó béc giê.
Dương bảo tôi:
- Không nên cho con thằng tù vào nhà hộ đặc biệt, anh ạ.
ý Dương muốn nói Xuân, con ông Phong, ông Phong là công chức. Ông bị đi tù. Người ta nói lờ mờ ông hai mang, ông đã làm cho Tây thời bị chiếm. Tôi ra làm việc phố, ông Phong vào tù đã lâu. Đến năm ông được tha, tôi cũng thôi trưởng ban rồi. Ông đến chơi, có ý cảm ơn tôi đã đối tốt với con cái ông. Tôi hỏi: “Ông phải vắng nhà mấy năm?” - "Thưa cán bộ, mười năm rưỡi". Ông vẫn chưa quên cách thức thưa gửi trong trại tù.
Tôi trả lời Dương:
- Nó có phải tù như bố nó đâu, nó là thanh niên đường phố.
- Anh làm thế mạo hiểm quá.
Tôi cười.
- Mọi việc Xuân đều đầu tầu. Chôn chuột chết bả, đào sộng Tô Lịch, dạy thiếu nhi sáng bè tập thể dục, thiếu nó thì rầy rà.
Dương nói theo ý nghĩ:
- Còn bố nó, còn lý lịch nhà nó. Anh mạo hiểm quá. Anh có phải là Nhân Văn không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lại Dương. Dương thì chẳng biết Nhân Văn là thế nào, nhưng có thể có người đã bảo với anh và Dương đã hiểu Nhân Văn là có tội nặng, cán bộ nhà văn nhà báo mà lại phải vào hầm mỏ, đi nông trường, phải về công tác khu phố thì phải là có vấn đề. Buổi họp phố chỉ có các bà nội trợ, trẻ con hay cụ già, nhưng ở nhà thì chẳng thiếu người hiểu biết, cán bộ các ngành, người đi họp về kể lại và Dương.
Chắc đã nghe những lời đồn đoán về tôi. Với Dương, cho một đòn thế này thì hết thắc mắc, và lại phấn khởi là cái chắc, tôi nói:
- Tôi làm việc cơ quan, tháng lĩnh lương, hay được đi nước ngoài, nhà treo bằng Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất, anh trông thấy đấy, anh bảo tôi Nhân Văn ở chỗ nào?
Dương phân trần:
- Có đứa nói láo thế, tôi báo cáo lại với anh.
Xuống đến mọi người thì mọi chuyện đều cứ mơ hồ và cụ thể lẫn lộn lạc ra nhiều nghĩa khác nhau theo mỗi người. Một lần tôi tiếp ở cơ quan một người cháu Nguyễn Bính. Chị ấy là đối tượng kết nạp đảng của chi bộ. Có người phát hiện nhà thơ Nguyễn Bính là Nhân Văn. Hoang mang chẳng biết thế nào, cô đến hỏi cơ quan chúng tôi. Tôi đã trả lời: “Báo Trăm Hoa của chú Nguyễn Bính cháu không phải là báo Nhân Văn". Rồi tôi phải viết xác nhận, cô mới chịu ra về.

Chương XII

Bộ máy tổ chức ta dựng lên thì khoa học, trong ý nghĩ và trên giấy, nhiều cấp và cán bộ lại thu thập tài liệu và dư luận bằng nghe ngóng. Chu Văn, trưởng ty văn hoá tỉnh Nam Định được dự kiến đề cử tỉnh uỷ khoá mới. Đấy lên tin đồn anh ấy là Nhân Văn, thế là bị nhấc ra. Chu Văn viết thư kể nỗi oan và đề nghị can thiệp- tôi đã được phân công xuống gặp bí thư tỉnh, nhưng rồi cũng không lại được lời đồn. Can thiệp với dư luận “có tin bảo, có người nói” thì như đánh nhau với bóng tối, cứ phòng sẵn cho chắc đã. Và cái việc Chu Văn bị dính đến những lôi thôi mập mờ này, đã làm cho Chu Văn hóa ra cứng rắn khác thường. Những ai đã công tác cùng Nguyễn Bính ở ty văn hoá Nam Định có thể biết Chu Văn đã quần Nguyễn đến điều thế nào. Nguyễn Bính về Nam Định rồi quyết định ở hẳn dưới ấy chỉ vì Nguyễn Bính đã sắp nên vợ nên chồng với cô hàng cà phê thành Nam. Nguyễn Bính đã bỏ không ở nhà xuất bản Hội Nhà Văn với tôi để xin ra làm báo Trăm Hoa. Khi Trăm Hoa hết tiền phải đình bản, Nguyễn Bính không còn ở biên chế nào thì Hội Nhà Văn đã giới thiệu Nguyễn Bính về Nam Định.
Nhưng có giai thoại rằng Nguyễn Bính bị đầy phải xuống xin việc dưới quê, Nguyễn Bính chỉ được biên tập ca dao, hò vè. Nhưng mấy người biết được thời kỳ ở Nam Định, Nguyễn Bính đã in nhiều sách trên Nhà xuất bản Phổ Thông ở Hà Nội. Trường ca Tiếng trống đêm xuân, lại vở chèo Cô Son đương công diễn.
Mỗi lần lên lấy nhuận bút kha khá, tôi được Nguyễn Bính và Trúc Đường rủ đi đánh chén. Có tiền, Bính đã đưa vợ con về Thiện Vịnh tậu đất, làm căn nhà có ao cấy cần, có giàn mồng tơi, có vườn cải hoa vàng như trong thơ. Nhưng trong thơ và ngoài đời không như nhau, chẳng bao lâu thì bán nhà, lại gồng gánh ra tỉnh. Cái năm Nguyễn Bính mất, tôi đi với Phạm Lê Văn, Bùi Hạnh Cẩn về ăn giỗ trăm ngày còn được nghỉ trưa nhờ ông chủ sau cái gian nhà tranh tre của Nguyễn Bính đã tàn tạ như cái lều vịt.. Rồi ở phố cũng không yên, tam tứ phen chửi nhau đánh nhau, vợ chồng xé đôi chiếc chăn đắp. Cái tờ bướm của ty văn hoá có bài vè diễu, tiếng đồn là của Chu Văn viết đấy.
ấy bị thành kiến như Chu Văn rồi người đâm ra lên gân thì cũng là lẽ thường của miếng võ giữ mình.
Tôi bảo Dương:
- Các cháu chơi hè có liên quan đến trật tự, anh vào đây với tôi.
Nhưng Dương không vào. Không phải vì ngại tôi cứ đi vào cùng Xuân là con người tù phản động. Mà chắc Dương ngại nếu có lôi thôi thì Dương mất chỗ đi lại Tôi được biết các nhà hộ đặc biệt Dương thường ra vào. Nhưng lại hay giữ ý. Có nhà mời tôi đến ăn giỗ. Tôi bảo Dương đi thay. Dương nói: anh cử tôi đấy nhé, không tự ý tôi, chẳng có chúng nó lại quạc mồm bảo tôi chỗ nào có ăn thì la liếm.
Chị chủ nhà ra mở cổng, mời chúng tôi vào phòng khách. Thứ trưởng và cả nhà ở trên gác, thấy ánh đèn sáng hắt ra hiên.
Tôi trình bày tôi đến đề nghị cháu ra sinh hoạt thanh niên giúp thiếu nhi khối phố vui chơi trong dịp hè. Chị chủ nhà vui vẻ:
- Vâng, tôi sẽ bảo các cháu. Công tác hè thì của thanh niên rồi.
Câu nói nhẹ nhàng và trách nhiệm dịu hẳn cái dự định hăng hái phê bình, chất vấn của mấy cậu thanh niên lúc nãy lăm le. Bây giờ các cậu ngồi im, nhìn tranh ảnh trên tương.
Tiễn ra cửa, chị chủ nhà hỏi tôi:
- Có phải đồng chí là nhà văn?
Tôi đáp:
- Không phải ạ.
Cũng chẳng bao giờ cô con gái vị thứ trưởng ra họp thanh niên khối, tôi cũng không biết mặt nó.
Tôi đi tuần tra. Một tốp hai người đeo băng đỏ, tay cầm cái đèn hai pin của đội dân phòng. Người đi tuần theo cắt lượt. Vào những dịp ngày lễ, ngày bầu cử hay có khách Chính Phủ các nước đến Thủ Đô. Ai lờ đi hay gọi mãi không ra thì cũng thôi. Nhưng số người đi tuần bao giờ cũng nhiều. Trưởng ban được chiếu cố không phải đi quá khuya. Tôi cũng không để ý, mọi người tưởng tôi tích cực, thực ra chẳng đi tuần thì vào giờ ấy tôi vẫn đi dạo hay là thức đọc sách.
Tôi đã bị bệnh áp huyết tử hồi ấy. Chữa bệnh, mỗi tốì tôi đi quanh hồ ba bốn vòng. Có khi quá bước lên cả trên hồ Hoàn Kiếm. Một hôm trời rét, trông thấy trong quầng sáng điện giữa đường một người đội mũ, quấn phu la. Một người đạp xe đằng sau lưng lên, quơ tay giật cả mũ và khăn quàng. Người mất của đứng ở ra, rồi kêu: cướp! cướp! Đường thì vắng tanh.
Sau đấy, tôi ngại quá bỏ không đi quanh hồ. Rồi lại đi, nhưng tránh giờ ấy. Đến mùa hè, tôi để đầu trần. Không phải vì lo mất mũ, mà tôi muốn trật cái đầu hói ra cho đĩ điếm khỏi mất công hỏi han. ấy thế mà không yên, vẫn bị quấy rầy.
Phó ban Đại hay đi tuần với tôi, có khi tôi rủ, có khi Đại đợi. Chẳng phải đến lượt đi đôi với Đại, mà Đại thích đi với tôi. Đêm nằm khàn, Đại nhớ bia. Nửa đêm chúng tôi vào quán Gió hàng bia nhà mậu, uống thả cửa, trả tiền không lấy. Chả là nhiều khi tôi đi với công an khu tuần tra công viên tới đây vẫn uống thế. Năm trước, tôi đi Pnôm Pênh, buổi sáng thấy người đội xếp dẫn bố mẹ, vợ và lũ con ra nhà hàng ăn hủ tíu, uống cà phê xong rồi đứng dậy về. Tôi cười cái thời ông hoàng Sihanuc chẳng ra thế nào, thì bây giờ cái chẳng ra thế nào ấy hiện về đây và chúng tôi cũng hoá ra người đội xếp Pnôm Pênh. Có những lần tôi kéo cả Nguyên Hồng, Dương Bích Liên đi thưởng thức cái lộc của trưởng ban.
Tôi vào trong phố. Phố đêm vắng vẻ thấp thoáng bóng cây. Các phố này không buôn bán, không cửa hàng cửa hiệu, ban ngày cũng như bấy giờ, vỉa hè không so le nhấp nhô bàn ghế hàng quán. Giữa bóng tối lặng lẽ, trong tôi bao nhiêu ý nghĩ vật vờ ngổn ngang. Mới năm nao mà đã ra hơn năm mươi năm qua, tôi đi trong đoàn người thất nghiệp từ phố Dã Tượng kia rẽ vào sân cỏ nhà Đấu Xảo mít tinh ngày 1 tháng năm 1938, mỗi khi nhớ lại còn ám ảnh trong mắt ánh màu lá cờ đỏ bay đằng trước. Rồi tôi bị bắt vào xà lim sở Liêm phóng, chỉ bên kia tường cái phố cụt nhà tôi bây giờ.
Mấy đêm nằm sàn xi măng, chân bị cùm, trước khi phải giải xuống đề lao Nam Định đối chất việc tổ chức Văn hoá Cứu quốc.
Rồi cuối 1946 toàn quốc kháng chiến, tôi làm phóng viên báo mặt trận Hà Nội. Đêm ấy trú ở một nhà trong phố bờ hồ Thiền Cuông, cả phố đã đi hết bỏ nhà hoang, thành phố không người. Không nhớ đã ở nhà nào, hay nhà ấy đã bị bom đạn phá huỷ, chỉ nhớ các bãi cỏ dọc bờ hồ ngày ấy là những luống khoai lang, những bụi cây chuối. Thành phố đương kêu gọi mọi người tăng gia chống nạn đói. Tiếng xe bọc sắt, xe tăng đằng phố Duy Tân ầm ầm trổ xuống. Sớm hôm sau, đến ban chỉ huy đơn vị chiến đấu đóng bên phố Khâm Thiên cạnh trạm gác của địch ở nhà dầu Sen biết tin đoàn thiết giáp Pháp từ trong thành ra tới ngã tư đầu hồ, chiến sĩ quyết tử Nguyễn Thành đã ôm một quả bom ba càng lao ra cản đường. Tôi đã viết tin ấy gửi về báo Cứu Quốc.
Chỗ nào cũng mờ chồng lên những chuyện cũ, chuyện mới. Tôi vẫn đương đi qua các phố. Tôi nhớ lại... tôi đương đi như bây giờ. Tôi ở trong làng đến năm ngoài hai mươi tuổi thì đi kháng chiến lên Việt Bắc ngót mười năm, rồi trở về thành phố cũng đã chừng ấy năm, bây giờ đến sinh sống tại phố này, đi tuần, đi họp phố chẳng khác trai tráng ngày trước đi hộ đê, đi việc làng, đi dạy truyền bá quốc ngữ, đi khiêng đòn đám ma...
Rồi mỗi hôm đến cơ quan tôi là toà nhà ba tầng, ngày ngày mở cửa sổ ngồi vào bàn, các thứ cuộc họp nối nhau, rồi lĩnh lương, đi uống bia, uống rưọu mà vẫn thấy lạnh lẽo thế nào. Đời bàn giấy làm nhạt nhẽo cả ngòi bút.
Chẳng bao lâu đã lại đến cuối năm. Việc dồn dập, đương bình cứu tế lại đến những tờ hướng dẫn kê khai, lên danh sách tem phiếu mua lương thực, tôi phải thuê các cháu học sinh giúp rà soát, đối chiếu...
Phố này nhiều cán bộ công nhân làm các cơ quan và nhà máy khác nhau. Cái năm mới về, nhà bỏ không, nhà treo bảng cho thuê, cứ vào hỏi, cứ đến ở. Có một số nhà vắng chủ thành phố cũng lắp người ở. Mới thật, nhưng cái ở cái ăn bấy giờ cũng chưa phải đáng lo.
Chúng tôi còn mải kéo lũ đi loăng quăng nhìn đây nhìn đó dẫu tôi trước kia đã ở Hà Nội. Kỷ luật tiếp quản Hà Nội không được la cà hàng quán. Tôi đi công tác chống di cư ở Phúc Nhạc về, vào hàng chén bát phở, sau mới biết không được thế. Kỷ luật chặt quá, đến lúc không giữ được lại hoá lung tung. Khác nào nhiều nhà đón người họ, người làng cho ở, qui vì đi kháng chiến về, lại cũng sợ nhà rộng bị qui tư sản, đến lúc ở lâu rồi sinh rắc rối, kiện tụng nhau. ở khối, ban hoà giải tôi đã mất nhiều công về mấy vụ này.
Mới dần dần biết trong những số nhà có người mới về có những nhà đã ở đây lâu. Người làm thuê, người thất nghiệp, người chạy chợ, mỗi nhà một nỗi nhưng đều không phải đã ở thành phố nhiều năm, nhiều đời, mà số đông là những người di chuyển theo thời thế.
Họ ở trong làng ra hay năm trước đã hồi cư về. Chiến tranh tràn lan, ở quê không thở được, phải nhao ra tỉnh, đến khi Tây rút đi, còn ta thì đi đâu, đi đâu chẳng phải lăn lưng làm, thế là đâu vẫn đấy.
Có những nhà dường như khá giả - vẻ người thành thị, lối ăn mặc và cách ăn nói, cho là sắp lên tư sản đến nơi, thế là không dám giao thiệp. Ông ấy thắt cà vạt đội mũ phớt, giày đánh xi bóng, quần là phẳng.
Tôi đội mũ lá cọ, mặc đại cán đôi khi đánh quần áo nâu, mùa rét thêm cái áo bông ka ki kẻ múi trám kiểu Liên Xô. Chúng tôi đồng loạt thế.
Người đi họp phố đông, đông nhất là những bà con ở trong này, ai cũng muốn biết chính phủ thế nào, bởi đều phấp phỏng nghe những đồn thổi quái lạ: thịt con gà phải đi báo cán bộ, ai cũng ra quét đường, hót rác, móc cống. Nghe ghê ghê thế nhưng bảy giờ a lô! a lô! tổng vệ sinh, người ta cầm chổi ra quét cái hè, cái rãnh trước cửa, thấy chẳng có vẻ khác mọi khi.
Bà con giờ mỗi nhà chỉ cắt một người đi họp chứ cái hồi mới giải phóng thì vui lắm, cả nhà cùng đi.
Đến bây giờ ra làm việc khu phố và đi họp chỉ còn, chỉ có các bà trung niên, các bác thợ may, công nhân khuân vác ngoài ga, có nhà cho trẻ con hay người già đi cốt đủ đầu người. Nhiều người không biết trụ sở khối đâu. Thật ra thì cũng khó biết, vì nó chỉ là một căn phòng trong một nhà ở.
Nơi họp, một gian nhà mượn, hàng ngày nhà chủ để làm gì không biết, tối nào báo họp, đến đã thấy gian phòng quang đãng. Trưởng ban bảo vệ Dương tới sớm, mở cửa sổ, kê mấy băng ghế dài, một cái bàn và mắc lên giữa nhà một bóng điện.
Người đến lác đác, tổ trưởng phải đi gọi từng nhà, có hôm hơn tám giờ còn thưa thớt. Tôi báo cáo công việc xong phó ban Đại nói thêm mấy câu giải thích dài dòng rồi giải tán. Lao động công ích đào sông Tô Lịch. Cấm thả rông chó. Danh sách đợt đi nghĩa vụ quân sự. Lĩnh thuốc bả chuột về phải nhốt mèo, nhốt gà cẩn thận. Giới thiệu danh sách tổ hoà giái. Các nhà treo cờ ngày Quốc tế Lao động...
Hộ nào cũng có người đi họp đã thành lệ, nhưng cũng thành tật đến đúng, đến muộn tuỳ tiện. Có người hay kề cà, cũng có người đi làm ca kíp về còn lo cơm nước. Có người rỗi rãi hẳn hoi cũng cứ đà đận đợi tổ trưởng gọi giục.
Tôi đặt thành giờ giấc bảy rưỡi đánh kẻng thì tám giờ họp. Có mấy người tôi cũng cho họp và đến lúc nghe còi ủ thành phố báo chín giờ thì tan họp. Dần dần thành thói quen, người ta chịu khó đến đúng giờ.
Khi thành phố bỏ còi ủ để tránh lẫn với còi báo động thì tôi xem đồng hồ, chín giờ đương nói, đương còn việc cũng ra về, để hôm khác bàn tiếp.
Cái máy móc giờ giấc ấy cũng hay hay. Nhưng cũng có khi làm tôi ngượng, tội nghiệp. Tôi mới đi Liên Xô về anh Nguyễn Xiển bảo đến câu lạc bộ đảng Xã Hội nói về quyển Dải đất hẹp của Brơ-giê-nep vừa được giải thưởng Lê- nin. Tôi thật có duyên tai ách với quyển này. ở Matxcơva, báo Sự Thật đã mời tôi viết bài phê bình. Hà Nội chưa dịch in hồi ký Dải đất hẹp, mới có một đoạn trích dịch ở hoạ báo Liên Xô, hai bản tiếng Pháp, tiếng Việt, nhưng báo này dịch nhạt nhẽo, tôi không mấy khi đọc. Thế mà tôi vẫn viết được bài cho báo Sự Thật. Nhà văn Marian Tkchốp dịch, được đăng trang nhất báo, nhận nhuận bút một trăm rúp. Tôi thưởng sáng kiến và nhiệt tình khuyến khích tôi viết của hai bạn Marian và Misen, phóng viên báo Tin Tức đã ở Hà Nội nhiều năm, chúng tôi đi uống vốt ca, ăn thịt cừu nướng rồi đến nhà hát Digan. Mẹ của Marian khen tôi “bây giờ làm to dám viết về Tổng bí thư”.
Đến câu lạc bộ đảng Xã Hội, tám giờ tôi bắt đầu nói, vừa chín giờ nghe còi ủ tôi cám ơn các bạn thính giả xin hết lời và bước xuống bục. ở đây, chẳng ai nói tan sớm thế. Có người còn chưa đứng dậy. Tôi thì ngỡ đương họp ở khu phố!
Nguyễn Xiển hỏi tôi:
- Cậu say rượu à?
- Không, nói hết chuyện rồi..
Tôi không nói tôi quen cái đồng hồ ở khối phố, tôi đã nhầm giờ giấc. Ngồi họp, tan họp đúng như nhau, đầu tiên lấy làm lạ rồi “còi chín giờ đã giải tán” ai cũng ra về, bà con thích thú cái sự về sớm ấy nhiều hơn nhớ công việc.
Hôm ấy bàn tổ phục vụ nấu bánh chưng tết thì có lo cơm nồi nước sôi như mọi ngày không. Bấn việc đấy. Nhà nào thì gửi gạo, đưa lá dong và phiếu thịt rồi chỉ việc nhận bánh, nhà nào gói lấy rồi thuê luộc.
Tôi hô hào các nhà ra nhờ tổ phục vụ, nhưng nhà tôi thì vẫn nấu lấy cho các con tôi vui nồi bánh, tôi thì nhớ ngày xưa. Bắc nồi ra giữa sân bếp, vợ tôi đèo củi về. Nhà mậu bán củi phiếu, nhưng toàn củi rều vớt ở sông Cái, củi cành xà cừ còn cả lá, “Ông nhà nước” vơ vội củi Tết mà phải đem phơi, sang giêng mới đun được. Nhà tôi có năm thì bác Ba trên Nghĩa Đô đèo củi gộc tre xuống cho, có khi mua củi gốc cây, của những người đi chặt cây thuê trong phố, củi này chắc và đượm lửa, ninh bánh chưng được rền.
Con gái con rể tôi làm ở bệnh viện, mượn về nồi hấp và ống truyền, những thứ để thay cây nửa tép đục đốt với cái mu rùa, nồi đồng hai mươi. Tôi nấu rượu Tết, đổ mốc men thơm cả sang hàng xóm. Cấm nấu rượu, mà tôi nấu để uống. Vả chăng, nhà trưởng ban nấu rượu lậu, ai có biết chắc cũng chỉ thấy vui.
Nhưng tôi cũng chỉ nấu có một mẻ. Không phải ngại tai tiếng mà bởi rõ ràng làm lấy, bố con ủ men, ống thuỷ tinh nước rượu lên sạch sẽ, mả ra rượu nếm vừa đắng vừa khét, rượn chính phẩm lại như rượu rởm.
Không phải cứ có các thứ chính cống và đồ lề hảo hạng thì ai cũng nấu ra rượu ngon, nếu thế thì tài nang vứt đi rồi.
Trưởng ban bảo vệ Dương báo với tôi tình hình an ninh cuối năm từng ngày.
- Phố còn một nhà nuôi chó. Phải triệt, không nhỡ ngày tết mà chó cắn ai thì lôi thôi.
- Bảo nó thịt hay bán đi, mà phải thịt sớm, tết nhiều nhà kiêng thịt chó.
Hôm sau, Dương đến lắc đầu.
- Tôi nói nó không nghe. Vừa đi ra nó còn chửi theo: tiên sư chúng mày!
Tôi ngờ chưa chắc đã phải thế. Dương hay kéo tôi di cùng. Cái khoé và cũng là hãnh diện của Dương.
Có người mách, mấy chị quảy thúng bán ô mai, củ sắn luộc, kẹo vừng ở cửa trường học Dương cứ lấy ăn tự nhiên lại phải đút tiền cho Dương mới được đỗ gánh ở đấy. Đêm Dương đi tuần, đem về trụ sở cái mũ cát, đôi dép râu bảo có đôi trai gái đứng xó tường đằng kia, thấy người chúng nó bỏ chạy. Có hôm sáng sớm Dương xách đến nhà tôi cái khung xe đạp. “Kẻ trộm tháo hết phụ tùng rồi vứt khung xe ra đường. Lôi thôi quá, ta lại phải trình báo". Dương lẩm bẩm thế rồi lại vác cái khung xe đi, chẳng biết có trình báo hay đem xuống chợ Giời, tôi cũng không xét nét hỏi lại.
Bọn dân phòng nói với nhau: “Nhà lão những ba bốn cái tàu há mồm. lúc nào cũng hong hóng thì phải xoay cái ăn chứ". .
Dương đưa tôi vào một nhà cuối phố, tôi cũng chưa vào trong này lần nào, phố ngóc ngách quá. Lô xô những nhà một tầng, nhà hai tầng chĩnh chện, nhà này chỉ có mái giấy dầu một phía ghếch vào đầu tường.
Nhà nuôi chó có hai vợ chồng, một ông bố và hai đứa con. Vợ chồng đi làm, hai con đi học. Bố ở nhà cơm nước. Tôi ngỡ con chó cũng thằng nhôm thằng vện lau nhau, không ngờ con chó ta mà to như chó bẹc giê, đứng cao ngang đầu gối ông lão.
Thấy khách vào nhà, ông lão vuốt vuốt một cái, con chó nằm mọp ngay xuống cạnh chân ông. Người con cầm cái xích có cổ dề ngoằng xuống, dắt chó vào nhà trong.
Anh ấy nói nửa thật nửa đùa:
- Nó quái lắm. Nó mà nghe các vị bàn tán bán chó thịt chó, nó xông ra đợp các vị đấy.
Tôi ngại quá. Con chó khôn mà giằng cái xích mỏng mảnh kia ra thì làm thế nào. Thỉnh thoảng tôi nhìn vào góc nhà, nhưng rồi lại không dám, hình như con sọm già đương đụng đậy tai, nghe nghe. Nhưng chắc nó chả hiểu câu chuyện đương nói.
Tôi khen:
- Cụ nuôi được con chó to nhỉ?
- Thưa ông, đem trong quê ra đã ba năm nay. Cơm canh trẻ con rơi vãi, gọi là chó làm cảnh ấy mà. Nó có ý lắm, biết là ở phố chật chội, ai vào trông thấy mới biết nhà có chó. Nó chỉ rũ lông, không rít, không bao giờ cắn thành tiếng.
Tôi giải thích:
- Nhưng ở nông thôn khác ở thành phố, cụ ạ. ở thành phố không được nuôi chó. Nhỡ phải con chó gió nó cắn tung lên thì khốn nhiều người lắm. Thuốc tiêm chó gió phải cầu kỳ tiêm vào rốn, mà đắt tiền.
- Tôi không cho nó đi đâu bao giờ.
Dương láu táu chêm:
- Nó cắn ngay người nhà ấy chứ, chó dại mà.
Người con trai ở trong nhà ra, sẵng giọng:
- Xin phép ông trưởng ban, anh Dương nói đổ xuống sông xuống bể, phỉ phui, con chó cũng không nghe được.
Dương đứng lên, giơ gậy. Gã kia xông đến. Tôi nói to:
- Trật tự nào!
Tôi còn giảng giải một lúc về cái vô tích sự nuôi chó trong thành phố. Người con trai hầm hầm vào trong buồng, ông lão ngồi yên. Lát sau, ông lão chắp tay:
- Thưa ông, ông nôi thế cháu đã nghe ra, để rồi nhà cháu xin thu xếp.
Thật cũng khó khăn và khổ tâm, lão thu xếp thế nào. Gọi lái chó vào hay mấy nhà quanh đây đánh đụng. Nhưng nghe ông lão nói nhà cháu thu xếp, coi như đã ổn, tôi đứng dậy.
- Cụ làm ngay, cụ ạ. Năm hết tết đến rồi.
- Thưa vâng.
Rồi có lúc ngẫm nghĩ, tôi cứ áy náy. Con chó vàng to như con Bô Tô ngày trước bố tôi nuôi. Bố tôi đi Sài Gòn, để con chó ở nhà. Ông ngoại qui Bô Tô, nuôi Bô Tô nhiều năm đến khi già, Bô Tô ốm chết thì đem chôn, mấy hôm tôi khóc nhớ Bô Tô. Thế là ông lão sợ, nhà lão đem bán chó, nhà lão sẽ gọi đụng. Cứ bảo tết nhất ăn thịt chó hãm tài, nhưng năm ngoái, hôm ba mươi, ông Hộ trên Nghĩa Đô đã đem xuống cho nhà tôi đôi bánh chưng nhân thịt chó, nhà túng, không có tiền mua thịt lợn. Chẳng sao, tôi không sợ xúi quẩy nhưng gói cái bánh chưng nhân thịt chó thì nghèo túng đến rớt mồng tơi rồi. Nghĩ xa nghĩ gần, vấn vơ.
Dương gặp tôi.
- Nhà nó giải quyết xong con chó rồi.
- Thịt à?
- Nó đem gửi, dắt đi chiều qua.
Tôi cười:
- Thịt hay đem gửi cũng là con chó khuất đã mắt rồi. Đừng làm lôi thôỉ người ta nứa.
Dương không nói gì. Ông lão gửi con chó, có thể con chó không chết. Tôi nhớ mang máng ngày trướcTây cho nuôi chó trong thành phố, nhưng chó ra đường phải buộc mõm, luật lệ Tây ở đây hay tôi đã đọc trong truyện thấy nói như thế ở bên Tây. Giấc ngủ tôi chập chờn. Buổi tối, tôi vào nhà ông lão. Thấy tôi, lão chắp tay, vái một cái..
- Báo cáo ông khỏi bận tâm...
- Ông đem gửi chó rồi chứ gì.
- Không, giết rồi ạ.
Tôi hỏi:
- Thế a? Tôi đến nói cho ông biết có thể nuôi chó.
- Nhà nước cho nuôi chó?
Tôi lại nhớ thêm: ngày trước thằng Tây đi chơi, dắt con chó cái rọ da đóng vào mõm, bên cạnh có con đầm cầm bó hoa loa kèn trắng. Tôi nói
- Con chó phải có khoá mõm mới được ra đường.
- Chó nhà cháu quanh năm ở trong nhà.
- Vậy là được, nhưng mà làm thịt mất nó rồi.
- Từ hôm nọ cán bộ chẳng bảo nhà cháu.
Thế là nhà này thịt mất con chó. Nó dắt đi thịt chứ không phải đem gửi. Con chó vàng to đẹp thế, đã vào bụng người cả, hoài của.
Một chặp tối rét co ro. Có tiếng gõ cửa khẽ. Tôi mở cửa, thấy ông lão tay cầm cái xích. Con chó vàng cao lớn, quanh lưng xuống tận bụng buộc mảnh khố tải như áo ấm, cái rọ da to xủ đóng quanh mõm. Ông lão cúi chào rồi hỏi tôi:
- Báo cáo ông thế này được chưa, đúng luậ t chưa ạ?
Tôi còn ngẩn người. Con chó hay hồn ma con chó, thế là thế nào? ông lão nói như trả lời băn khoăn của tôi:
- May quá, nó sắp thịt.
Rồi ông lão vuốt đầu, ghé vào tai con chó, nói thầm:
- Con lạy ông nào!
Con chó bị đóng rọ mõm khuyu hai chân trước xuống, đến lúc ông lão lại vuốt nó, con chó mới đứng lên như lúc nãy.
Con chó giỏi như người, hơn người. Tôi buột miệng:
- Tài quá.
- Thưa ông, nó ngoan, dạy được ạ.
Tôi nhìn theo ông lão dắt con chó, đóng cửa rồi vẫn như còn trông thấy ông lão và con chó trong bóng tối rét mướt xa xa. Ông lão bảo giết chó rồi cơ mà, hay là con chó ma, chó ma mới khôn thế.
Dương đến nói như khoe:
- Nhà nó lại đem chó về.
Tôi bảo:
- Chó ra đường phải rọ mõm. Ông lão ấy đến báo cáo tôi rồi.
Nói xong, tôi lại chột dạ. Dóng rọ mõm, không biết nhớ có đúng không. Dương không hỏi thêm. Một tối, mừng cuộc họp đầu năm, có hai bao Tam Đảo, hộp mứt bí nhà mậu điểm mấy cục đường giả làm hạt sen, quà Tết tiểu khu gửi xuống. Ông lão đến cạnh tôi:
- Báo cáo ông, tôi đã nộp hai đồng tiền thuế nuôi chó cho ông Dương.
- Ai bảo ông đóng thuế chó?
- Ông Dương ạ.
Tôi không bực mình Dương làm tiền tợn quá, mà tôi nghĩ lại mọi việc tôi thật chậm hiểu hơn Dương và hai bố con ông lão nuôi chó. Chỉ có một con chữ mà người ta múa rối, người ta đánh phép, tôi đần độn đi. Xử sự, đối phó, giải quyết... vẩn vơ trong đầu thế thôi rồi tôi lại nghĩ bãi ra và tự yên ủi rằng việc gì cũng quấn vào mình thì có đến ba đầu sáu tay cũng hết hơi. Vả chăng, lại năm cùng tháng tận đến rồi, cho nó kiếm chác đôi chút.
Lẫn lộn với giấy tờ và bản thảo, một đệp biên lai, một cặp tem phiếu gạo và thực phẩm, một hộ mấy người trẻ con và người già, người không biên chế nhà nước, mỗi người một từ, chưa tính các hộ độc thân. Vẫn chưa đủ so với thống kê. Mai phải đi lĩnh đợt nữa. Sai số hay thừa thiếu thế nào, tôi lấy làm lạ trong ngần ấy năm làm tem phiếu, ký sổ, ký tờ rời không thấy trên hỏi lại, truy lại lần nào. Chẳng lẽ tôi lại chỉ có đúng, hay là không biết chừng trên đã có sổ cái, đã dò đã chữa hộ tôi. Ký miên man nhất vào các kỳ tem phiếu, phóng hàng nghìn chữ nguệch ngoạc, đến bây giờ chữ ký tôi chưa run nét có lẽ cũng nhờ những năm, những dịp luyện tay kịch liệt này..
Lại họp cán bộ cơ sớ, cả sáu tổ trưởng tổ phó, một đệp việc:
- Triệt để không còn chó thả rông, chó không tiêm phòng dại.
- Thông qua đăng ký đợt 1 tiểu thương (cua ốc, ngô luộc, chè tươi), tiếp tục lên danh sách các tổ.
Liên hoan tiễn 2 chiến sĩ tân binh, lên khu lĩnh 2 gói chè Hưong Sơn, 5đ mua kẹo bánh.
Việc đột xuất: mức nước cuối thình lình lên báo động số 2, một tổ xung kích dân phòng đi thường trực.
Dương cặm cụi sổ sách thì cô người hỏi. Chẳng ra giờ giấc gì cả. Đi cơ quan thì họp, bè bạn thì ở quầy bia bọt chiều chiều, khách trưa khách tối người khu phố, đêm đọc sách và đi ngủ lẫn lộn, không biết có ngày chủ nhật.
Vào cửa, một chị với hai đứa bé trạc năm, sáu tuổi. Ba mẹ con gày gùa, trong ánh đèn mà cũng nhìn được nước da xạm, bởi những con mắt trong leo lẻo khác thường. Dáng chị quen quen, chắc hay gặp đi họp phố.
- Thưa bác, mẹ con cháu đến xin bác...
- Việc gì thế?
- Có cái tem phiếu...
- Tem phiếu phát theo năm mới dương lịch mà.
- Cháu chỉ xin trước bác một tờ.
- Sao lại một tờ?
Thưa bác, nông nỗi nhà cháu...
Nghe chị kể, chị làm y tá cơ quan. Vừa rồi, đi khám, bị chớm bệnh lao. Hai tháng nay nghỉ chữa bệnh, vẫn được lương. Hai con trai đứa lớn mới lớp bốn. Chồng cũng y tá, nhưng đi tiêm tư. Anh ta bỏ nhà biền biệt cả năm, không biết đi đâu.
- Năm ngoái, cháu đã xin được, bác cho.
- Anh ấy nhận phiếu ở cơ quan nào?
- Không, nó ăn vào hộ khẩu ở nhà. Cháu phải bán phiếu của nó lấy vài đồng...
- Ngộ Tết anh ấy về thì sao?
- Mẹ con cháu cấm cửa nó rồi..
- Mà sao lại bán tem phiếu của nhà nước. Bán ở đâu?
- úi già, bác không biết chợ tem phiếu đông hơn chợ Đuổi dưới Vân Hồ. Cán bộ lĩnh tem phiếu rồi đem bán ngay, nhiều lắm.
- Rồi cả năm xoay xở làm sao?
- Chỉ xin trước bác tờ phiếu của nó thôi, còn phiếu cả năm của mẹ con cháu thì khi nào túng mới phải bán.
- Chị nói, tôi thông cảm hoàn cảnh. Hôm nào có thì tôi cầm đến cho.
Thật ra tôi đã có phiếu, nhưng tôi không dám đưa xé lẻ. Chị ta đã nói bịa “năm ngoái bác cho", như thật.
Trưa hôm sau, tôi tạt vào nhà chị ấy. Mới nhận ra tôi đã biết ngõ này có một bác đạp xích lô quê Thái Bình lên Hà Nội từ năm 14 tuổi, năm nay trên năm mươi mà chưa về lại quê lần nào. Bác làm nghề xe từ thời kéo xe bánh sắt chỉ được vào đến đầu ô Khâm Thiên. Thuê xe lùn của cai Mơ, cai Mơ người nhăn nhó như thằng bả gà, mà giàu nứt đố đổ vách. Bây giờ, bác có cái xe xích lô của nhà, về thì xích vào sau cột vách. Xăm lốp nhà mậu bán cung cấp. Mua chui xích Pháp, mới toanh chưa bóc giấy bóng. Đi họp nói toang toang cứ như bác ấy thì trên đời chỉ có đạp xe xích lô là sướng nhất, vì “không có ai đè nén” được.
Qua cái mái tôn nhà bác xích lô yêu đời, đến nhà chị ấy. Cái mái vảy ghếch vào lưng tường nhà bên cạnh, nước mưa ẩm rườn rượt mặt tường nổi rêu tối như cái hang. Ba mẹ con ở nhà, ngồi trước cái lò đun bằng giấy vụn, lá xà cừ.
Mẹ con nhà này trông ban ngày mới khiếp sao. Những đứa trẻ mặt ơ hờ như ngái ngủ, người mẹ ngôi rúm ró, đầu gối trắng nhợt lồi ra như hai củ đậu. Đêm trước mới chỉ nhìn thấy những con măt ho lao của người mẹ, con mắt trong veo bây giờ sáng rợn lên.
Chị ấy run run đứng dậy, nói:
- Bác đem phiếu cho các cháu.
- Chưa có đâu. Nhân tiện đi qua, tôi vào thăm ba mẹ con. Đun nồi gì đấy?
Người mẹ lặng yên như không nghe tiếng. Thằng bé lớn nhanh nhảu mở nắp cái xoong. Nồi rau muống đã sôi, mấy hạt cơm nhào lên nhào xuống trên mặt rau. Gọi là nồi cháo rau hay là nồi rau cháo cũng thế.
- Cơm trộn rau à?
Cái cười héo trên mặt người mẹ. Nhà cháu quanh năm cháo rau thế này, cũng quen rồi.
Chị lại kể về cái chợ tem phiếu ở trên đê. Không phải chỉ có tem phiếu đem bán, mà người ta mua tem gạo, bán lại ngay đấy cho người khác. Đổi chác cò con thế mà cũng có cai đầu dài, có buôn đi bán lại. Nhưng công an dẹp dữ, đương vơ vẩn vỉa hè, thoáng thấy bóng áo vàng đã biến sạch. Tôi chưa biết mặt mũi những cái chợ nhỡ độ đường này.
Tôi đưa chị ấy năm chục bạc.
- Cháu cám ơn bác, cháu không dám lấy.
- Tôi cho vay thôi. Bao giờ có tem phiếu bán thì trả, tôi không lấy lãi đâu. Chị cứ cầm.
Tôi đã ra tận vỉa hè, ngoảnh lại còn thấy những con mắt nhìn theo, trắng nhả như mắt người da đen ở tranh dân gian nước Kênia châu Phi.
Dương đi với một anh thấp bé, đội mũ tai bèo đã đứt một bên dây quai. Cái quần lính vá hai miếng đầu gối, nham nhở vết dầu, tay anh ấy cầm chiếc vành xe đạp. Chưa hỏi, đã biết anh nghề chữa xe.
- Giới thiệu anh: đồng chí Mẫn thương binh. Anh Thắng cán bộ tiểu khu bảo khối ta nhận đồng chí Mẫn về làm phó ban bảo vệ.
Dương thêm một câu nịnh “anh Thắng cán bộ tiểu khu”, mặc dầu không có Thắng ở đây và Dương đã quên mọi khi Dương vẫn khoe không cần phó chỉ một tay Dương làm hết, xong hết. Mà Dương nói:
- Công tác nhiều, tôi mong có người đỡ. May quá.
Tôi và Mẫn chỉ chuyện một thoáng đã ra đầu đuôi.
- Anh Mẫn thương binh mặt trận nào?
- Khu Năm.
- Bao nhiêu lâu?
- ở trong ấy hơn ba năm.
- Thế thì đã đánh nhiều trận lắm..
- Cũng phiêu lưu sơ sơ vài trận thôi. ở ngoài này đi bộ ba tháng vào đến nơi được bổ sung cho tỉnh Phú yên. Đi các xã huấn luyện, xây dựng dân quân. Hôm ấy đi vác gạo đến bờ sông Ba thì lộ. Trực thăng quần, định móc lên bắt sống cả bọn. Tôi nhảy xuống khe suối va vào đá, chết ngất. Tỉnh dậy, thấy nằm ở trạm quân y tiền phương. Gẫy xương đùi, mảnh đạn bây giờ còn nằm trong vai, tay này không giơ lên được. Anh trông tôi bước lê lê.
- Thế mà ra được tận ngoài này.
- Đâu chẳng đi được. Ra Bắc an dưỡng, nằm mấy tháng ở nhà dân trên Vĩnh Yên rồi tôi xin ra quân.
- Anh đi nghĩa vụ ở phố hay ở cơ quan?
- Nhà máy xe đạp.
- Sao không trở lại nhà máy?
- Chúng nó bảo tôi mới ở tổ hợp tác vào nhà máy, khi đi bộ đội chưa vào biên chế thì bây giờ nhà máy không phải nhận.
- Lạ nhỉ?
- Cần gì! Tôi lại ra vỉa hè chữa xe đạp. Công an đuổi, bực quá. Tôi thấy không ai dám đuổi công an, tôi vào bốt xin làm công an. Các ông ấy cho tôi xuống đây
- Đây là ban bảo vệ thôi, không có lương.
- Ban gì cũng cân. Cốt ngồi đầu đường chữa xe đạp không đứa nào dám đuổi là được rồi.
Tôi đùa vu vơ:
- Yên chí lớn!
Mẫn đi nửa buổi trở về với một cái xe đạp không có yên, không có xích - xe chỉ để dắt. Khung xe buộc hai cái vỏ phuy xăng, trong lỉnh kỉnh kìm, búa, lắc lê, lọ nhựa, mảnh sắt để vá chín, bó nan hoa. Đầu chiếc bơm xe đính cái hoa ni lông đỏ. Chất lên trên tất cả, một thùng gô có khoá, trong đựng, mọi thứ gia tài và quần áo. Mọi đồ chữa xe dở ra ngổn ngang vỉa hè. Các nhà trong phố đã biết anh phó ban bảo vệ mới, tối anh ngủ nhờ vỉa hè nhà có mái hiên.
Ngay tối hôm ấy, tôi với Mẫn lên đê sông Hồng. Báo động số mấy không biết.. nước đã vào lưng đê. Mùa kiệt mà nước lên, quái thật. Lối xuống bãi đã lấp, những chiếc xe lội nước của bộ đội đứng trấn đầu đê. Các tổ xung kích khối phố lên cắt canh từng quãng, đề phòng kẻ gian phá đê.
Hầu như ở mỗi gốc cây bên cột đèn điện buộc một con bò, những con bò người dưới bãì nuôi để kéo xe đã chạy nước lên đây. Bò đứng nhai thong thả một đống cỏ tươi. Một người đạp xe tới, hạ xuống cái thùng phuy, đổ ra một chậu đầy bia, vừa mua ở quầy. Con bò đứng uống bia, nó oàm oạp một hơi cả chậu, xem ra con bò khoái bia như người.
Tối hôm sau, tôi lại đi với tổ dân phòng lên đê. Báo động vừa được báo tin khẩn. Bởi không có báo động số 4, đến số 4 thì nước tràn đê vào phố rồi. Những ngấn đo nước 12m6, mà mặt bằng đê thành phố 13m50.
Mấp mé lắm, còn 90 phân nữa thì nước ngang mặt đê. Trông vào phố, vẫn êm ả như không. Những chiếc xe lội nước của bộ đội đứng im như cái gò đất. Con bò buộc gốc cây thong thả nhai cỏ, lại có ông bò với cái chậu bia, tiếng uống, tiếng thở oàm oạp. Hè phố bên, tôi mới nhận ra những dãy lều bạt của người dưới bãi chạy lên. Một đám cắt tiết những con ngỗng. Đằng kia đương mấy chỗ cạo lông lợn. Gà qué và lợn đem dưới bãi lên, phải chạy nước dài ngày, không nuôi nữa.
Trên trời, máy bay lên thẳng lấp ló ánh đèn bay tuần nước cả đêm.
Cuộc họp cuối năm sớm nhất để xin cứu tế cho người thiếu đói, kịp phát trước Tết. Kinh nghiệm lập danh sách cứ ghi cả chục người, trên cho ngữ từ hai đến bốn, nài thì được thêm một. Con số như thế, chọn ra bình bầu, cân nhắc, đã thống nhất thì viết tên và lý do túng đói rồi gửi lên. Kể ra người thiếu thốn khó khăn thì nhiều cả nút không biết hết. Bề ngoài, cũng chỉ thấy được bề ngoài, bởi vì ở phường phố đèn nhà ai nhà ấy rạng, lại là những nhà tứ chiếng ghép lại, khác ở trong làng xóm đã bao nhiêu đời thuộc nhau, cho nên cứ lên danh sách rộng ra rồi bàn, rồi trên cho thì vừa.
Có cô Đàng và Thắng tiểu khu cũng về họp, họp xong cán bộ Thắng đến nhà tôi, xuống bếp, có mấy con dao phay, dao rựa, anh cầm đi tất. Vài hôm sau đem trả, lưỡi con dao nào cũng sắc như nước. Tôi đùa: “Cứ thấy ông đến thu dao thì biết là sắp Tết. Ngày trước anh làm quân giới, phải không?”. Tôi hỏi tôn lên thôi, chứ tôi doán anh làm ở lò sát sinh vì để ý thấy dao phay, dao bàu mổ lợn được mài sắc hơn. Anh cười hì hì, không trả lời. Anh tên là Thắng, gọi là Thắng tiểu khu để khỏi lẫn với cụ Thắng điếc. Cô công an khối phố chưa bằng tuổi Đan Hà con gái lớn của chúng tôi Cô Đàng người Quảng Trị, bố cô hoạt động bên kia giới tuyến, vợ con được gửi sang Vĩnh Linh. Mẹ và các em còn bé, ra làm ruộng ở Nghệ An. Cô được học trường trung cấp công an, học xong ra Hà Nội tập sự. Phố tôi ít phức tạp, cô được về đây. Đến năm thống nhất, cô lấy chồng đồng hương, cùng ngành lại cùng quê, vợ chồng chuyển vào Tây Nguyên, nghe nói rồi công tác ở Đắc Lắc.
Trong số người phái cứu tế tôi đề nghị có Dương ban bảo vệ. Kể ra đưa tên người làm việc vào thì dễ bị nói mình lại chia phần cho mình, nhưng cả Đại cũng không phản đối, lại vun vào: “Công tác khối phố, cơm nhà vác tủ và hàng tổng, ông Dương thi cơm nhà cũng còn khó khăn, phải có cái cứu tế như cái thưởng cuối năm ấy mà". Cán bộ Thắng và cô Đàng không nói gì.
Năm nay, tôi thêm Mẫn. Mẫn từ chối ngay: “Chữa xe đạp cũng có ăn rồi. Khi nào đói thì tôi đem thẻ thương binh lên bộ Quốc Phòng, đừng lo cho tôi".
Chỉ một cụ Thắng năm nào cũng giơ tay: “Tôi có ý kiến. Tôi không đồng ý cứu tế anh Dương. Anh ấy đã làm ban bảo vệ, thế là cán bộ rồi". Cụ Thắng điếc ngồi họp câu được câu chăng, tuỳ cái máy nghe, nhưng cụ lại hay nói. Có lẽ cụ Thắng ngỡ Dương cũng đi làm cơ quan có lương. Mọi người đều bằng lòng đề nghị Dương, không ai để ý cụ Thắng phản đối. “Bàn với cụ điếc thì đến mai cũng không xong. Cho qua". Khi thấy xung quanh đứng lên, ý kiến mình vẫn treo lơ lửng hay giải quyết rồi không biết, cụ Thắng cũng chống gậy đứng lên.
Cụ Thắng về hưu, ở cơ quan nào tôi không hỏi. Thiệt thòi cái tai điếc đặc chứ cụ Thắng tích cực lắm.
Đương bàn mở lớp Bình dân Học vụ, cụ Thắng đã yêu cầu định ngày chiến dịch đánh chuột để cụ lên lịch đi lĩnh thuốc bả. Mọi việc cụ lo, cụ đều nóng nảy, sốt sắng. Tuy chưa khuya, nhưng cũng chẳng ai muốn nói đến chuyện chuột bọ vội, cụ Thắng cũng cất máy nghe vào túi xách, bước ra theo tôi.
Về nhà tôi, cụ Thắng lấy máy nghe đeo lên tai rồi hỏi tôi:
- Anh có biết anh Lệnh không, Trương Văn Lệnh.
Tôi ghé miệng, hét vào tai cụ Thắng:
- Tôi biết, tôi biết.
- Anh ấy mà còn sống thì tôi khác bây giừ rồi. Tôi vào Đồng Chi hội với Trương Văn Lệnh, tôi là đảng viên trước khi đảng ra đời. Thế mà bây giờ tay không. Tôi chẳng đi vào uẩn khúc. ở tuổi cụ, việc quen Trương Văn Lệnh có thể có. Không dưng, ai biết tên rõ ràng như thế được. Nhưng lan man từ ngày xưa trở về bây giờ, thế thì... Việc khu phố chỉ có tối mắt lại làm, làm mà thôi.
Có một người dân phòng vào gọi:
- Ông ơi! Có tiếng trẻ con khóc ngoài hồ. Đứa nào vứt trẻ con xuống hồ.
Mùa đông, chưa quá chín giờ, đã im ắng như khuya. Cụ Thắng thấy tôi đứng dậy, cụ lặng lẳng về. Tôi chạy ra cùng mấy người nữa. Cái tin ghê gớm quá, mà đứa vào gọi đã đi biến - nó sợ lôi thôi, hay nó đùa ác, hay lả nó trông ga hoá cuốc. Trên bờ đã lố nhố người. Mặt hồ mênh mang, sương buông mủ mịt, tôi cũng chợt nghe một tiếng e é như tiếng kêu chẹt chân, chẹt tay, rồi im. Làm sao lội ra được, trời rét thế này. Ai ra mượn thuyền đằng nhà thuyền. Một người chạy.
Giữa lúc ấy, tiếng Dương nói to:
- Kia kìa, trăng trắng kia kìa.
Thoáng gần ánh điện, bóng trăng trắng trên mặt nước thật. Dương đã lấy đâu được cái câu liêm. Dương men xuống bờ hồ cạn nước, gạt đưa được cát trăng trắng ấy vào, nó là cái nón trôi ngửa. Hai tay Dương bưng chiếc nón lên. Dưới chân cột đèn, nhìn rõ trong nón một cái thai cuộn mớ rẻ bê bết máu. Vừa còn khóc, chắc là tiếng kêu cuối cùng. Cái xác đã lạnh như hòn cuội. Nhiều người xúm lại. Người nào đã nhanh tay gài mấy nén hương lên chân cột đèn. Mùi hương ngai ngái, đã ra mùi hương đám ma.
Dương bảo Mẫn:
- Tôi cời được cái nón lên, thế là xong nhiệm vụ phần tôi. Bây giờ tôi đi báo công an tiểu khu.
Mẫn khẩn khoản:
- Tôi xéo vào xác thằng Mỹ, thế mà tôi hãi thây trẻ con. Anh Dương làm nốt, tôi đi báo công an.
Chẳng đợi Dương trả lời, Mẫn đi luôn. Dương chép miệng:
- Việc gì phải lôi thôi, cái thằng Mẫn bê quay thì làm chó gì. Cho tôi mượn xe đạp, tôi đem luôn cái này đi lên khu báo cáo rồi bỏ xuống nhà xác Bạch Mai. Sáng mai anh hỏi tiền bồi dưỡng công tác cho tôi.
Dương nói dễ như bỡn và rồi làm ngay. Chỉ bực Dương hay ganh tỵ, chỉn người khác giữa chỗ đông. ừ, cái thai cung như con chuột chết, như cục máu. Anh An dân phòng về dắt hộ cái xe đạ p của tôi ra cho Dương mượn, tay cầm thêm một bó hương đã cháy nghi ngút. Dương gói cả cái nón vào miếng ni lông rách, ai đã đem ra cho. Dương buộc cái gói, nịt vào dây cao su, với cả nắm hương đương cháy, nhảy lên đạp đi.
Người đã về cả, bờ hồ lại vắng lặng. Mặt nước sẫm như bóng tối, đôi chỗ ánh điện lung lay. Đã gần nửa đêm. Cái nón trên gói cục máu hon hỏn. Cái nón còn mới, nón của nó đội. Không biết đứa con gái ấy con cái nhà ai, phố nào.
Tự dưng tôi nhớ bài thư Cái thai hoang của Trần Huyền Trân và những chuyện buồn.
Tôi ít tuổi hơn Trân, nhưng một lứa hoạt động văn hoá cứu quốc ở Hà Nội thời kỳ chuẩn bị Tổng Khởi Nghĩa rồi được kết nạp vào Đảng ở những cơ quan khác nhau cùng quãng những năm 1945, 1946.
Cách mạng thành công, Trần Huyền Trân được phân công về sờ kiểm duyệt làm kiểm duyệt về sân khấu - Nguyễn Công Hoan thì báo chí, Như Phong văn thơ.
Chỗ làm và công việc vẫn giữ như tổ chức thời Tây, thời Nhật. Đến kháng chiến, Trân công tác về sân khấu, lên Việt Bắc phụ trách một đội kịch lưu động của Nha thông tin. Đội kịch đi diễn những đâu mấy tháng, khi trở về, Trân bị chi đảng ở Nha khai trừ đảng viên vì đã mất ba kỳ sinh hoạt. Trân giận dỗi, bỏ về với cơ quan văn nghệ bấy giờ đương ở Yên Dã ( hay Yên giã? ? ? ? ) huyện Đại Từ trên Thái Nguyên. Trong công tác sân khấu, Trân không ăn ý với Nguyễn Huy Tưởng, thường trực cơ quan.
Trân lại bỏ đi, lênh đênh đâu mất mấy năm. Tôi chỉ nghe tin Trân yếu phổi, bị ốm rồi về ở trong núi chỗ Đa Năng. Suối Đa Năng ngang giữa chặng đường Tuyên Quang sang Thái. Bên Tuyên xuôi Bình Ca đến bến Chương - để tránh máy bay, rồi vào cánh rừng Đa Năng. ở đấy có lối xuống Thiện Kế chân núi Tam Đảo, có đường rẽ vào châu Tự Do an toàn khu của Trung Uơng, thẳng thì qua Đèo Khế sang huyện Đại Từ đi Thái. Đa Năng, chặng dừng chân của lái buôn Tuyên - Thái, của cán bộ đi công tác, của những đoàn quân chủ lực lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, tôi theo Trung đoàn Thủ Đô xuất quân từ Kép Le ngoại ô thị xã Thái Nguyên qua Đèo Khế sang Đa Năng ra bến Bình Ca đi Yên Bái ngược sông Thao vào đèo Khau Vác xuống tấn công tiêu diệt tiểu khu Nghĩa Lộ.
Trần Huyền Trân ở phía trong Đa Năng, túp nhà tựa vách núi đá. Chỗ ấy cách dòng suối to hay ngọn sông Phó Đáy - cảnh xinh xinh như non bộ. Trân có cái tài làm cho chỗ ở thế nào ở đâu cũng gọn, cũng ưa mắt. Nhà tranh vách tre trúc, vườn cải, rau muống cạn ra bến đá. Sau này, Trân về ở Nam Đồng cũng vẫn cái nết đẹp ấy. Giữa phố phường huyên náo mà tựa như làng xóm, cửa sổ nhìn ra vườn, sau dậu trúc lưa thưa đưa lại mùi hoa sen, lá sen ở đầm nước xa xa. Những chậu cảnh, cây cảnh, cái ống bút, hòn đá chặn giấy trên bàn trông đều hay hay. Kim Lân cũng một tính đáng qui ấy. Mấy chục năm nay ở gian nhà như trong hang mà tề chỉnh lồng chim, cây cảnh đâu ra đấy. Kim Lân đùa triết lý: “Không chơi với người, nhát người thì vui thú con chim cây cảnh vậy".
Ngày ngày Trân ngồi câu bên suối, chỗ ấy tốt cá lắm. Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sắp trở về, Lành giao cho tôi đi tìm một số văn nghệ sĩ không ở hẳn cơ quan nào, cùng về tiếp quản Hà Nội.
Tôi đã đến “thảo lư” ở Đa Năng của Trần Huyền Trân. Tâm sự ông Lã Vọng với cái cần câu thời thế. Nhưng chẳng thắc mắc gì, Trân đi ngay.
Trân đậm nghệ thuật chèo nhất. Có phải những nghĩ ngợi và tâm trạng mấy năm náu mình đã đưa Trân đến mê chèo. Về thành phố, Trân lo nghệ thuật của đoàn chèo Cổ Phong. Và cho đến cuối đời, dẫu có khi tham gia quản lý văn hoá văn nghệ thành phố miếng nghề của Trân vẫn là chèo..
Tôi có vở kịch nói Giáng Kiều - loại kịch tôi viết để đọc. Trân bảo để Trân chuyển thể sang chèo. Tôi đã xem chèo Thạch Sanh của Trân. Khi Trân dựng Giáng Kiều, đến đoạn kết, tôi không biết nói thế nào, dẫu không được như ý mà cũng không muốn nói. Tú Uyên đã lấy được Giáng Kiều, Trân thể hiện thực thà như đếm. Giáng Kiều khuyên can, nhưng Tú Uyên không bỏ được rượu. Giáng Kiều thất vọng, Giáng Kiều lên tiên rồi lại thương, lại trở về đoàn tụ.
Kịch tôi viết kết thúc khác. Tú Uyên được Giáng Kiều, nhưng Tú Uyên không hiểu được Giáng Kiều chính là lý tưởng của mình. Thế là Giáng Kiều bỏ đi. Có lý tưởng nhưng tâm hồn ta thấp hèn thì lý tưởng cũng bay mất.
ở rạp Đại Nam, băng quảng cáo Tú Uyên- Giáng Kíều, tôi bảo Trân đừng đề tên tôi cùng tác giả - Trân đã đề quảng cáo. Vì ngay cách Trân đưa tên Tú Uyên sóng đôi với Giáng Kiều đã làm xa thêm Giáng Kiều của tôi rồi. Bên hàng rượu bà quán 73 cạnh rạp Đại Nam, Hoàng Trung Thông đương gật gù rượu suông với tôi Thông nói như vừa nghe sang rạp: “Chúng ông uống đây mà rạp hát bên kia tường chúng nó đương chửi những thằng uống rượu. Hay! Hay! ”. Thông không xem và không biết trong kịch những bợm rượu của tôi chỉ là cái cớ. Tôi bảo Thông: - Không, người ta không chửi đứa uống rượu. Thông hỏi: Thế chửi đứa nào? Tôi nâng chén lảng chuyện khác. Bởi không phải Thông hỏi thế rồi sang ngay rạp xem sân khấu chửi ai. Còn Trân thì lận đận và thôi hăng hái đã lâu rồi.
Trân viết theo góp ý và có khi Trân không nghe ra. Hay nghe ra mà mỏi tay, không để tâm viết lại. Vả chăng, xưa kia, dẫu Trần Huyền Trân đã viết nhiều câu thơ rất hay về rượu với Tản Đâ, nhưng Trân cũng không phải những hũ rượu như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Đinh Hùng.
Năm 1957, thành lập hội Sân khấu Việt Nam. Trân vào thường vụ được cử phụ trách tuần báo Sân Khấu, ra được vài số. Phải khi xảy ra Nhân Văn, Trân chẳng bận bịu đến, nhưng đòn hội chợ đương được đà, Trân cũng tai bay vạ gió. Tờ Sân Khấu không tên không tuổi bị chết bất đắc kỳ tử. Trân cứ mờ dần, ngụp dần, khô héo đi, chỉ còn áo quần tuy giản dị, nhưng bao giờ cũng trang nhã.
Trân đã gõ nhiều cửa xin phục hồi đảng tịch. Xung quanh khối người lầm lỗi bề bề, mà lấp liếm, dối trá, khéo ăn khéo nói họ đã được trở lại. Tôi cũng đã xác nhận giúp Trân nhiều lần. Mãi chẳng được, đến độ Trân không muốn nhớ, muốn nhờ nữa. Chỉ có cái lỗi hai ba kỳ không sinh hoạt chi bộ, mà việc xảy ra đã ba bốn năm rồi và từ ngày ấy vẫn công tác, vân hoạt động mà không được trở lại đang. Người rầu rĩ, càng âm thầm mãi đi.
Nhưng dù cố quên, thì số phận cứ đeo đuồi, cứ hành hạ. Trong nghệ thuật, anh chỉ buộc tội to nhất đến nhân vật bị ma men ám ảnh, thi trong đời, sấm sét đã khủng bố cả thân phận, cả hình hài anh.
Anh chị đông con, có một con gái học khá, được ra nước ngoài học cao học. Cháu đã yêu một thanh niên nước ấy. Một năm nghỉ hè, nó về Hà Nội, có ý ướm hỏi gia đình, nhưng xem ra bố mẹ không đậm.
Hồi ấy dan díu với người nước ngoài còn là cái xấu, cái lo lắm. Chúng nó cạn nghĩ thế nào mà khi trở lại bên Hung, con bé đã quyên sinh vào ngày sinh nhật, ngày cha mẹ đẻ ra nó. Thằng kia cũng đem cái chết của mình để tạ lòng người yêu, chết luôn. Cái lọ đựng tro đứa con gái được gửi về, anh chôn dưới chân giường ở Nam Đồng. Một hôm, nhà cháy. Chẳng biết có bới được lọ tro khốn nạn ấy không. Chỉ có mẹ Trân, bà lão thọ cả trăm tuổi ngồi tính từng ngày, đợi cháu, hỏi bao giờ cháu về.
Trân lâm bệnh hiểm nghèo rồi mất. Những tháng ngày cuối cùng của anh, tôi không dám vào thăm. Nhìn trong hố mắt đen xạm nước mắt rỉ ra tôi không thể nhìn, tôi không nỡ dày vò tâm tư anh khổ cực đến thế. Bệnh hoại thư đã lấy của anh mất hai bàn chân, rồi đầu gối, rồi dỡ đến cả xương đùi, anh chỉ ngồi lên được giữa cái săm ô tô.
Lê Quang Đạo đến nhà viếng Trân. Bí thư ban cán sự đảng thành phố thời bí mật trong bóng tối đã từng qua lại cái lều vó bè cúa mẹ Trân ở Cống Trắng. Trong mái tranh, Trân đã cất những tờ báo Cứu Quốc, báo Cờ Giải Phóng. Nhớ cái tình của người đồng chí thuở ấy, nhựng mấy ai thấu được cuộc đời Trân trầm luân đến thế.
Tôi thơ thẩn bên hồ đến mãi khuya. Những trang đời cũ mờ mờ trên mặt hồ sương, hay là mưa, trong mưa còn cái bóng trăng trắng trôi bài thơ Cái thai hoang.
Hôm sau, cô Đàng đến hỏi: “Tối hôm qua có đứa trẻ con bị vứt xuống hồ, hả bác?”. Cô Đàng trên tiểu khu xuống hỏi, thế là Dương không đi đến nơi rồi. Dương vứt cái xác vào đâu. Tôi bảo cô Đàng:
- Đồng chí Dương đã lên trình khu. Cái thai chết ngoài hồ từ lâu.
Cô công an mở sổ ghi sự việc. Một chốc, Dương đem trả xe đạp, khuyết mất ba cái nan hoa. Tôi hỏi:
- Đêm qua trình công an chưa?
- Tôi trình ngay rồi. Anh nhận tiền bồi dưỡng cho tôi không có thì anh cho mấy chữ, tôi lên lấy.
Mẫn lắp cho tôi nan hoa mới. Mẫn bảo:
- Cái thằng tù sổng chỉnh tôi là bê quay sợ xác chết, là thẻ thương binh giả, còn nó...
Đứa nào đã hớt lẻo với Mẫn rồi. Tôi nói:
- Đâu có!
- Nó nói chỗ gốc cây, anh đứng đấy. Thằng tù sổng, tôi sẽ truy giấy tờ bắt nó đi tù thật mới được.
Mẫn đã chữa xong. Mẫn nhảy lên, đạp đi thử một vòng rồi cúi xuống bơm dầu vào xích..
- Tôi sợ cả chuột chết. Cũng khỉ thật. Hôm lên đê chôn chuột chết bả, tôi nhường cho thằng Dương đi đào hố. Anh tưởng tôi làm thế để giúp cho một mình thằng Dương được nhận mấy xuất bồi dưỡng. Không, tôi ghê chuột chết. Cái thằng tù sổng, tôi phải làm cho ra nhẽ, nó không yên được với tôi.
- Thôi, đoàn kết làm việc.
- Tôi không đoàn kết với thằng phản động.
- Được rồi.
ở cơ sở, tất tật mọi việc lại dội xuống, thuế nhà đất tiêm phòng dịch, dẹp hàng rong, bộ mặt xã hội và cuộc sống thu nhỏ trong tổ dân phố. Tôi hay nói được rồi", “yên trí", “để đấy", nói nhiều quen miệng. Mai rồi mai lại việc khác đè lên. Không quên, mà gác lại Chẳng làm thì rồi cũng tới, cũng xong, không dở dang, cứ đưa đẩy, chống chế. Công việc cao su đã thành thói quen và cứ thế, cứ thế, ngày tháng qua.
Làm đảng uỷ, lại công tác thường trực. Hà Nội mời giúp, tôi giữ một chân ở hội Văn Nghệ và, với cơ cấu ban ngành của thành phố, tôi phó chủ tịch Mặt Trận phụ trách văn xã (đến tận bây giờ 1997) và tôi uỷ viên hội đồng nhân dân. Các công việc cứ đi thành luồng chẳng bận vướng nhau. Cuối năm, đoàn kiểm tra văn xã của Mặt Trận, ban Nếp Sống Mới đi xem xét tĩnh hình lễ bái, mê tín. Tôi làm mọi việc, có ý nghĩ như tôi đọc sách.
Sang giêng, mở lớp học chữ quốc ngữ. Không bỡ ngỡ, tôi đã mấy năm chăn các lớp truyền bá ở quê.
Chỉ khác thời Tây thì làm dấm dúi, bây giờ thành phố cấp không cho học viên giấy bút, biết chữ rồi mở thêm lớp chống tái mù. Cụ Thắng là giáo viên, là trưởng ban, là cổ động viên đi gọi học từng nhà. Bàn ghế và tiền điện, lớp ngay ở trụ sở, không phải đi quyên đồng nào. Mẫn bảo tôi bắt Dương học lớp tái mù. Dương chỉ biết vạch một chữ ký, không biết đọc, đích xác thế.
Mẫn nói Dương là ban bảo vệ, Dương phải học. Dương lắc đầu:
- Tôi không xấu hổ đâu, dốt thì tôi đi học. Nhưng bận quá, việc tư việc công vắt lên cổ, học không nhớ nữa. Thôi thì có bằng nào chữ thì phục vụ bằng nấy.
Người đến học ngồi kín chỗ, lại còn người ngấp nghé đứng ngoài. Hai lớp mới đủ, lại thêm lớp ở trụ sở dân phòng, đèn điện bắc ra cả vỉa hè. Tôi lên lĩnh bút giấy về phát cho học sinh, buổi đầu tiên cũng là khai giảng.
Cả mấy chục người hai lớp mờ cùng một lúc. Mỗi người nhận tập giấy, cái bút quản gỗ có ngòi, lọ mực xanh Cửu Long, như trẻ con đi học. Các bà các chị, người ở nhà, người chạy chợ, ông phó may, ông thợ cúp, người khuân vác ngoài ga... Rồi đến hôm bế mạc mà còn chục người đã là kết quả. Lớp truyền bá ngày trước cũng thế, không thể giữ đầu voi, nhưng được cái đuôi chuột đã quí. Tôi đã nghĩ trước thế, sao cũng lắm người mù chữ nhỉ?
Tôi phát biểu khai mạc. Nhìn mặt nhiều vị mọi khi đi họp thế mà hoá ra không biết chữ. Chỉ được cái bẻm mép tán gẫu. Người ta nhận xét tôi kỹ lưỡng đến tức cười. “Lúc ông ấy nói, ông ấy có cái gân nói nối với gân chân, cứ đương nói lại nhấc một bên gót.
“Các bà để ý mà xem". Bà xe gạo nói oang oang thế lúc đợi khai giảng. Tôi cũng để ý tật tôi. Quả là khi nói, chốc chốc tôi lại nhấc một bên gót chân. Tôi đương đứng nói. Bỗng “choang” một tiếng, vỡ cái bóng điện tối om. Nhớp nháp trên trán, tôi sờ thấy ươn ướt, nhưng ngửi không tanh, không phải chảy máu.
Chánh phó bảo vệ chạy sục vào trong ngõ. Có người lấy ngay cái bóng đèn ra cho mượn. Mẫn về nói:
- Một thằng vọt ra phố ngoài.
Dương hoảng hốt: “Quân phản động phá hoại... Anh có làm sao không?”. Tôi cúi nhặt được nửa quả mõ ném vào mặt tôi. Quả mõ đã chín nát nhoe nhoét, trơ cái hạt cứng. Trán tôi sưng bằng quả ổi. May. Nếu nh ích xuống một tý nữa thì trúng vào mắt. Về nhà, vợ hỏi, tôi bảo: "Điện tắt, đi vấp trán vào tường".
Ai ném, đứa lưu manh ngứa tay hay đứa phá lớp, để nó khỏi phải đi học, nó uất ức thù hằn tôi hay người nào, đoán già đoán non cũng không ra được căn do. Tôi chỉ lạ quanh đây không có cây mõ, phải lên tận bờ hồ Hoàn Kiếm, cạnh chỗ mấy cây lộc vừng mới có mỗi một cây mõ cổ thụ, mà chắc cũng ít người biết đấy là cây mõ, cây rừng.
Những lớp học bình dân mở ra vẫn kĩu kịt mỗi năm một kỳ thi tốt nghiệp. Quả là về sau vắng nhiều, nhưng cũng đến dạo báo động có máy bay Mỹ ngày nào cũng vào trinh sát thành phố, các nhà hát, rạp xiếc bị cấm tụ tập, các lớp mới nghỉ học.

Chương XIII

Đầu năm ấy, chiến dịch lao động đào sông Tô Lịch. Lao động công ích, mỗi năm một công dân thành phố góp bảy ngày bằng sức hoặc bằng tiền. Đào sông cũng như đắp công viên Thống Nhất, được trừ điểm lao động công ích lại được trả công đào. Không đi, thuê người khác đi hộ. Lấp mạch sủi đê sông Cái, đào hố chứa rác, vét bùn, đều được tính cả. ấy thế nhưng phải tổng vệ sinh trước lễ Quốc Khánh đã Sáng chủ nhật, sáu tổ lấy sáu người đem chổi và cái hót rác lên trường Trưng Vương tiễn đồng bào chạy nước về lại dưới bãi- thông tri viết thế, nhưng cung cách chỉ dẫn các thứ vậy thì hiểu nghĩa là lên quét dọn làm vệ sinh cho nhà trường các chỗ đồng bào đã tạm trú cả tháng qua.
Rồi tôi lên khu nghe về sông Tô Lịch và công việc đào sông. Sông Tô Lịch chảy qua làng tôi. Bút danh tôi có chữ Tô cũng bắt đầu từ dòng sông này - nhưng ấy chỉ là dòng sông mơ mộng trong sử sách và trong câu chuyện của ngườì già mà thôi. Sông Tô Lịch đã bị lấp cửa từ bao đời. Khúc sông còn lại chui ngay dưới lòng phố đã thành cống nước thải ra đến đầu làng Thụy thì nổi lên chảy qua các vạc nấu dó làng Hồ, làng Đông, làng Yên Thái. Những đầm nước để ngâm dó, đãi bìa, vào mùa hạ, trẻ con các làng ra câu cá, chỉ có sáng kiến của tôi là nói nhạt nhẽo không hung hăng như ông cán bộ nọ. Cái con sông Tô Lịch trong tưởng tượng đẹp ấy đến bây giờ hơn bốn mươi năm sau vẫn chưa ai trông thấy nó cũng những chuyện trên trời, như sự tích con Trâu Vàng mà sông Tô Lịch là vết thừng, là cái đuôi Trâu Vàng, là chuyện của cán bộ bốc phét.
Người đi đào sông thành tlểu đội, tập trung ở ngă tư giữa phố. Tôi ra nói động viên mấy câu rồi xuất phát. Mọi người lên xe đạp, buộc cái mai, cái sọt - công trường cũng phát dụng cụ, nhưng của mình làm thuận tay hơn. Việc được giao khoán cho mỗi tiểu đội. Tát nước, hót bùn, chặt cây, đào đất dánh đống xong ra trả thẻ, người công trường đến ngắm nghía kiểm tra, rồi về lẻ tẻ, không phải đợi cả lũ như lúc đi.
ở mỗi ghi đông xe treo cái cặp lồng nhôm. Bấy giờ chẳng cứ buổi lao động, mà đến sờ làm, đi bộ hay xe đạp, người người đều cặp kè cái cặp lồng ăn trưa. Tương tự, trong chiếc hộp nhôm dưới để cơm, lẻ bo bo như xôi nếp cái hay bột mì xào hành mỡ. Ngăn trên, miếng cà, vài ngọn rau muống xào, dúm tép kho, gói muốì rang. Đến trưa, mở cơm ra ăn rồi ngả lưng đâu đấy.
Tôi chưa tường mặt cái công trường sông Tô Lịch. Tôi chỉ đưa người đến một lần. Không ai bảo trưởng ban được miễn, nhưng tôi cũng không nghĩ tôi phải đi ít nhất tôi cũng khác người. Tôi đi tuần, tôi muốn đi, chứ tôi bảo "bận làm nốt báo cáo” thì tôi ở nhà cũng chẳng ai trên tôi nhắc tôi. Vả chăng, tôi vai thờ, đến chỗ gồng gánh khiêng vác, tôi biết xoay xở thế nào. Lần sau cùng tôi đi với tổ đến nửa đường tôi về. Tôi lại trông thấy Tiến thứ trưởng bộ ngoại giao, quần áo nâu, mũ lá, cái mai buộc dọc khung xe đạp, nhưng không thấy cái cặp lồng. Tôi khó chịu. Rồi nghĩ: ông này trước bán thuốc lào ở phủ Từ, đã quen quảy, thì lại thấy là thường. Ông không nhìn thấy tôi, mà tôi cũng không muốn trông thấy ông ấy có cái mai buộc xe đạp.
Lại đến việc cưới cũng nhộn nhịp. Hồi ấy, cưới xin nhiều cái cũng hay. ở ngoài "hậu phương” đưa vào thành phố mốt cưới tiệc trà vỗ tay "vui duyên mới không quên nhiệm vụ".
Những đám cưới giản dị khiến tôi nhớ lại ngày chúng tôi lấy nhau, còn "mới” hơn cả các đám cưới kháng chiến. Năm 1947, sau chiến dịch Thu Đông tôi ở chợ Rã trên Bắc Cạn về nơi gia đình tản cư ở Phú Thọ. Chẳng cưới, không đăng ký kết hôn, chẳng có gì nhớ mà nhớ suốt đời. Đã ra năm mươi năm qua, tình nghĩa đối với nhau, không có gì để soi, để thử bởi không soi thử được, như là tự nhiên và đã là tự nhiên thì mãi mãi.
ở Hà Nội, nếp sống mới thêm cái thiếp báo tin họ hàng và bạn bè. Có nhà hôm sau sửa vài mâm, thiệp đính kèm miếng giấy nhỏ mời dự "bữa cơm thân mật”. Đám cưới tất cả các con trai con gái tôi rồi cũng vậy. Có thế thôi.
ở phòng cưới nhà hàng Phú Gia chiều thứ bảy nào cũng liền mấy đám cưới phải đặt trước mới xếp được chỗ.
Cưới tiệc trà chỉ lắm trẻ con. Bàn ghế kê liền khít, khách hai họ chẳng ai biết ai. Tôi họp tình hình trị an trên khu nghe báo cáo, phòng cưới nhà Phú Gia bên Bờ Hồ đông người qua lại. Công an để ý một người mặc đại cán đóng khuy cổ cẩn thận đứng ngoài cửa, khi đông người vào, người ấy cũng bước vào, đám tiệc trà trước và đám sau liền như thế. Công an giữ lại, nhốt cho nhịn đói một đêm một ngày rồi thả. Tối thứ bảy, cũng như đi chơi vào cắn mấy hạt bí, lấy mấy cái kẹo, "tôi không phải là trộm cắp”, anh ta khai thế.
Nhưng hôm lên nhận đăng ký trên khu thì long trọng và ý nghĩa. Hội trường lớn, hai họ và bè bạn, cả ban đại biểu phố chúng tôi. Người nhà mời trầu nước, thuốc lá. Vị phó chủ tịch khu đứng lên nhắc nhở và mừng hạnh phúc cô dâu chú rể rồi đưa giấy đăng ký kết hôn, bắt tay chặt chẽ và chụp ảnh chung.
Năm cách mạng thành công, tôi đã đi dự đám cưới Trần Huyền Trân- Hạc Đính tổ chức trên phòng đăng ký kết hôn của ủy ban Giải Phóng cũng trang nghiêm như thế.
Một thanh niên đợi tôi ở cửa.
- Bác xác nhận hộ khẩu cho cháu.
- Việc gì thế?
- Cháu đi xin giấy đăng ký kết hôn.
- à nhớ rồi, cậu này. Hôm nào lễ nhận đăng ký trên tiểu khu nhớ báo sớm tôi mới thu xếp đi dự được. Hôm nào?
- Trên khu thôi không tó chức lễ đăng ký nữa ạ. Bảo tại đông quá, sắp hàng cũng hết chỗ, tổ chức không xuể. Chúng cháu chỉ lên nộp đơn, trên ấy hẹn ngày lên lấy.
Thế là lại như cũ. Lại đến uỷ ban ngồi ghế băng đợi gọi như đi làm khai sinh, đi đóng thuế thổ trạch, hay nhận biên lai chó đã tiêm phòng dại... Chẳng ra thể thống gì.
Nhưng việc cưới, ăn ở với nhau, đăng ký hay cưới, có hay không, ngổn ngang trăm nỗi không bận đến khu, đến thành phố mà ở đường phố thì lúc nào cũng rối bời bời.
Có đơn của cô Dung kiện người ta bỏ thuốc độc vào bát nước cơm của con cô ấy. Mới như hôm nào, Dung ở cữ thằng bé, thế mà đã được hơn một năm.
Bé kháu khỉnh như con chó con, lẫy cứng. Hàng phố bảo mặt thằng bé lau láu hệt mặt anh Bá - Bá ở cùng số nhà với Dung. Dung bỏ chồng, lấy nhau không cưới, không đăng ký, bỏ nhau cứ như không. Có lần người chồng lảng vảng về, mẹ con cô vác gậy, cầm dao đuổi đánh kêu: cướp, làng nước ơi, cướp! Thằng kia chạy bán chết. ấy thế nhưng thỉnh thoảng vẫn lại mò về, sáng sớm đi, có người nhìn thấy. Dung chạy chợ, gặp món buôn đi bán lại. Thằng cu mới đẻ, Dung cũng chẳng đi khai sinh. Chặp tối Dung ẵm bé đứng vỉa hè, cười nói nhởn nhơ với người qua lại..
Mấy hôm ấy vợ Bá ở quê ra. Mỗi vụ khi nông nhàn rảnh rỗi chị ra, có khi bốn mẹ con đi cùng. Nghề đời, tiếng đồn có gió bay, không bỗng chốc mà tốn kém cả ngày đường tử Ninh Bình ra, ở làng chị đã nghe tiếng thế nào rồi. Nhưng mà chị ấy hiền lành chít khăn vuông mỏ quạ, chúng tôi vào nhà thấy đương ngồi, đầu rũ xuống bên tường, như con gà dây. Bá đứng cạnh cửa điếu thuốc lá phập phèo, trông ra đường. Nhà này có ba hộ, người lớn trẻ con chui rúc một cái buồng, mỗi hộ mỗi góc.
Dương yêu cầu mọi người phát biểu. Cô Dung cô đơn được nói trước. Đương tự dưng, Dung nức nở vừa khóc vừa kể lể:
- Tôi đi chợ, bát nước cơm chắt để cho cháu ở chạn bát đầu hè, đậy cái rổ cẩn thận. Đến trưa về, thấy bát nước đục vẩn, vón từng cục. Tôi không dám cho cháu ăn. Nó hại mẹ con tôi, nó bỏ thuốc độc giết cháu ối giời ơi...
Dung bưng mặt khóc hu hu. Gian buồng đông ních người, thêm người ngoải cửa thò cổ vào. Ba hộ ba góc trong nhà ngoài hiên, nằm trải chiếu xuống gạch, nhà rỗng tuyếch như cái nhà trọ ngoài bến xe. Chẳng biết thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê ra sao. Người hàng rong, người chạy chợ đi vắng tối ngày. Cả chục người chui vào chui ra, thằng Bá có nằm lẫn với cái Dung nửa đêm gà gáy lúc nào chẳng được.
Bát nước cơm bảo vệ Dương đã bưng vào đặt giữa chiếu. Trông lờ lờ màu bột nước cơm loãng, biết sao.
Dương dõng dạc cất giọng.:
- Số nhà này có mấy hộ, tôi đã báo tối nay phải có mặt đầy đủ. Đủ chưa, thiếu ai không. Người ngoài cửa không được ngồi lẫn vào đây. Việc này nghiêm trọng, phạm đến an toàn, trật tự xã hội. Chị kia ở đâu đến, đến từ bao giờ, đã khai báo tạm trú chưa?
Vợ Bá ở quê ra, cả mấy nhà quanh đây đã biết mặt nhiều năm nay, có lần chị còn đi chào hỏi láng giềng, mà Dương cứ dửng dưng hỏi thế.
Bá đáp:
- Dạ, chưa ạ.
- Thế thì không được. Ra khai báo tạm trú ở mấy ngày ngay bây giờ, không thì sáng mai tôi đuổi.
Tôi nảy ra sáng kiến: Cho gà mổ thử bát nước cơm thì biết có độc hay không.
Dương nói vun vào:
- Sáng kiến ông trưởng ban hay đấy.
Tôi lại hỏi:
- Nhà này có nuôi gà không?
- Không ạ.
- Các nhà quanh đây có gà không? Cho thử, gà chết thì được đền. Nhà nào có gà?
- Không ạ.
ở ngoài cửa có người nói: "Gà chết thì được nhận cái giấy biên lai. Chả chơi! ”. Mọi khi, tôi vẫn nghe bốn phía tiếng gà gáy ran nửa đêm như ở trong làng.
Gà nhốt chuồng, hầu như nhà nào cũng nuôi. Nhưng cách trả lời ấy là không ai muốn cho mượn. Cái mẹo gà uống thử nước cơm của tôi đâm ra vu vơ, vớ vẩn, .
Ngoài cửa lại thì thào, rồi tiếng cười...
Dương lại nói như quan toà: .
- Cho gà uống nước cơm cũng chưa chắc. Có thuốc bả thì gà chết, nhưng có con chết ngay, có con khặc khừ vài hôm. Không được. Bát nước cơm này mai sẽ đem lên trên bộ Y tế xét nghiệm. Nhưng trong hộ từ hôm qua chỉ có chị này là người lạ, lại ở nhà cả ngày, chị là đối tượng bị tình nghi. Từ nay cho đến hôm nào trên cho biết kết quả xét nghiệm, cấm không được đến đây, chị phải về quê đợi toà án gọi. Chị mà thò mặt đến, đề nghị đồng chí Đàng công an cho bắt ngay. Tôi kết luận thế, anh trưởng ban có phát biểu, cô Đàng có ý kiến không?
Mẫn đã bỏ đi từ lúc nãy. Tôi và cô công an để im chẳng biết nói thêm thế nào. Thế là chính quyền đồng ý rồi. Hôm nay Dương hoạt bát hách dịch điều khiển, ở các cuộc họp khác Dương thường nhẹ nhàng... đề nghị anh cho... đề nghị đồng chí... Vợ Bá lại gục mặt xuống nữa, hức hức nảy cái cổ. Cuộc họp xử kiện chỉ một mình cái Dung nói và Dương phán xét.
Ra về, tôi hỏi Dương:
- Con Dung thuê anh mấy đồng đuổi vợ thằng Bá?
Dương đứng sững:
- ôi trời, trưởng ban phát biểu thế thì chết mẹ em. Không đâu, không...
- Có thì từ giờ chừa đi, không thì thôi. Trắng trợn quá.
- Thằng Đại, thằng Mẫn đã ton hót nói xấu em, em biết rồi.
Có hôm gặp Dung đi chợ, tôi nói:
- Cô Dung đuổi người ta khéo nhỉ?
Dung không chối giãy nảy như Dương, Dung cười tít mắt, ỡm ở hỏi lại:
- Bác phê bình em đấy a?
Vừa xong vụ hoà giải, đến một đám cưới buồn. Tôi nhận một cái phong bì đề giấy mời, nhưng lại dán kín, nét chữ Nguyễn Sáng. Hôm nào chúng tôi cũng đi uống bia, mà lại viết thư? Nguyễn Sáng đương ký hoạ tôi một tranh sơn dầu. Tôi không phải ngồi, Sáng nhớ dáng mà vẽ. Sáng đã mang đến nhà tôi treo. Tôi mặc áo sơ mi trắng, một tay chống lên má, trên một nền hoa cúc vàng. Sáng bảo: “Bà Cúc bà ấy gác đằng sau ông đấy". Nhưng mấy hôm sau, Sáng thấy tôi mặc áo nhung đen kẻ, cổ ni lông nâu giả lông cừu, Sáng nói: “Những màu này hay hơn”. Sáng xách cái tranh đi làm lại.
Hay là thư hẹn giả tranh, hẹn đánh chén mừng tranh. Không phải. Thư Nguyễn Sáng mời vợ chồng tôi chủ nhật này dự đám cưói Nguyễn Sáng lấy Thuỷ. Việc vui lớn này, một tối Nguyễn Sáng theo tôi đi tuần rồi vào uống bia ở ga Hàng Cỏ đã nói, lại một lần quán Gió trong công viên, Sáng nói lại, nhưng cũng chưa hẹn hôm nào. Và tôi cũng ử hữ biết vậy.
Đã lâu, hoạ sĩ Sáng thôi ăn kem bùa mê hàng Tiến Đạt Nguyễn Sáng theo đuổi Thuỷ, một cô ngồi mâu trường Mỹ Thuật. Thuỷ trắng trẻo, nhỏ nhắn, buồn bã gầy úa như giò hoa huệ héo. Đến nhà Sáng, những khi Sáng vắng thấy Thuỷ nhặt rau, bắc lò thổi cơm. Tôi nhắn hỏi Sáng xem cưới xin thế nảo, nếu nhố nhăng thì tôi không đi. Sáng bảo: cưới đời sống mới, khẩu hiệu là thanh lịch, tiết kiệm, lịch sự. Chương trình và thực đơn sẽ: Uống nước chè, cắn hạt bí, không kẹo bánh, không vỗ tay. Khách không mang đồ mừng. Không có hai họ, chỉ có cô dâu chú rể ra chào khách. Chỉ mời- Sáng đếm ngón tay, độ tám hay mười bạn, nếu đến đủ. Không tính dăm đứa cánh trẻ phù rể, phù dâu. Được không?
Tối hôm ấy cùng với vợ chồng tôi, có hai bác Nguyễn Tuân và Sỹ Ngọc, Mai Văn Hiến, hình như thế, tôi không nhớ thêm có ai nữa. Tôi ngượng nghịu và buồn buồn thế nào, không muốn trông tỏ mặt mọi người ngồi đấy Phòng họp của hội Văn Nghệ, đèn nêông sáng trắng, chiếc bình hoa lay ơn tím giữa cái bàn dài và mọi thứ hạt bí, ấm nhôm nước chè, cũng chị phục vụ mọi khi, như buổi họp thường ngày, đúng như Sáng đã báo trước. Chú rể Sáng đầu vẫn đội mũ cát két vàng ố kẻ ca rô thường ngày che cái trán hói, nhưng bộ đồ trôpican xanh nhạt còn mới, là thẳng nếp và đi giày da đen. Chú rể ra tận thềm đón khách.
Không nghe tiếng cắn hạt bí ti tách, cũng không ai to nhỏ trò chuyện. Chuyện gì ở cái đám cưới vừa như buồn cười lại như thương thương này.
Nguyễn Sáng trịnh trọng đứng dậy.
- Tôi thay mặt vợ tôi, xin cám ơn các bạn có lòng yêu đã tới dự lễ thành hôn của chúng tôi. Đến giờ rồi, các bạn ngồi chơi tôi xin phép đi đón dâu.
Rồi Sáng với mấy thanh niên, cũng giầy và quần áo mới- chắc mấy cậu sinh viên Mỹ Thuật, cả bọn ồn ào ôm những bó hoa xuống bậc thềm trước cửa. Không biết ra ngoài đường họ lên ô tô hay đi xe đạp. Chúng tôi ngồi chờ phút trọng đại của đôi vợ chồng mới.
Nhà Thủy ở phía sau phố Lò Đúc, nhà đông anh em, bố cô hình như đạp xích lô hay xe ba gác. Tôi đã uống rượu nem rán với bố Thuỷ ở cái gác con con nhà Sáng. Ông ấy kém tôi hai tuổi, chưa chắc đã hơn tuổi Sáng. Thế nhưng Sáng lễ phép, khúm núm xưng “con” nhẹ nhàng. Lần sau Sáng gọi tôi đến ăn bún chả, nhắn là Thuỷ làm và khách chỉ có “Ông cụ” và tôi.
Tôi không đến nữa.
Có đến ngoài chín giờ mới thấy chú rể về. Cái mũ lưỡi trai lệch vẹo một bên, vẫn bộ quần áo đẹp. Sáng ôm một bó hoa rực rỡ, mặt đỏ rừ. Chắc lại mới nạp thêm rượu. Các bạn trẻ phù rể xúm hai bên, không ra khoác vai, không ra xốc nách. Họ vẫn cười cợt, vui nhộn. Mọi người vào hết rồi mà chưa thấy cô dâu.
Nguyễn Sáng lại chắp tay, cất tiếng lễ phép như lúc đi:
- Kính thưa hai họ, đúng đến giờ đón dâu, Thuỷ bị mệt. Thuỷ nhờ tôi xin lỗi các bạn, vợ chồng tôi xin lỗi các bạn đã đến mừng chúng tôi. Bây giờ thì mời hai họ giải tán.
Hôm sau, Mai Văn Hiến kể tôi mới biết. Sáng đã sửa soạn đám cưới thân mật như thế. Buổi chiều, Thuỷ đi chợ Hôm, bị ngất ở chỗ hàng bán hoa. Thuỷ vốn bệnh tim. Xe cấp cứu đến chở Thuỷ vào nhà thương Phủ Doãn. Sáng đã biết cả những trắc trở ấy, nhưng im lặng, sợ nói ra ở chỗ vui mừng thì bị sái. Lúc Sáng bảo là đi đón dâu, nhưng Sáng và các bạn trẻ đã đi uống ở đâu rồi quay về.
Hồi này, làm mạnh công tác chống mê tín. Tôi cũng vừa đi chống mê tín hụt về. Công tác văn xă của Mặt Trận thành phố, chúng tôi chọn đi đền Ghềnh.
Tôi chẳng soạn kế hoạch thế nào, chỉ nghĩ nhẹ nhàng đến xem ra sao rồi về rút kinh nghiệm, điều cốt yếu trên dặn là phải từ việc cụ thể phân biệt ra cái mê tín dị đoan, cái tín ngưỡng. Đền Ghềnh bên kia sông, có tiếng xưa nay. Thuở trẻ, năm nào hội đền Ghềnh tôi cũng đi. Nhưng chỉ còn nhớ quà hội đền có bánh đa, đa vừng, đa đường, bánh đa gối và người trong làng ra bán những xâu khế cơm không ngọt không chua. Bao nhiêu năm rồi, bây giờ, ngoài cửa đền vẫn bán bánh đa và những xâu khế cơm - nhưng bánh đa bột sắn và con mắt, cái miệng tôi làm sao mà còn thấy được các thử ấy ngon ngọt như ngảy trước nữa.
Đền đông người lễ, nhà đền có tiệc. Chúng tôi đi như những người đi lễ, không giới thiệu trước, không ai biết đoàn công tác. Cho nên bị chèo kéo ngay vào chính điện, không kịp xuống nhà hậu xem có nhảy đồng không. Có lẽ nhà đền có vẻ nghi ngờ dạng cán bộ, công an, đã chặn khéo: “Nhà đền chúng tôi cúng thánh, không theo việc đường âm". Con công đệ tử đến tuần về lễ, ăn cỗ chay. Có đến cả chục mâm bày ba gian giữa. Dưới nhà hậu còn nghe tiếng hát, tiếng người nói, chắc dưới ấy cũng đương đánh chén. Chỉ không biết cỗ chay hay cỗ mặn. Ngay bấy giờ tôi không nghĩ có thể có người đã báo cho nhà đền biết trước đoàn kiểm tra đến.
Chúng tôi được mời ăn cỗ. Chúng tôi không phải đặt tiền thật vào mấy lá vàng lá đem để vào án thư.
Cỗ chay có rượu, lúc đầu vò rượu để khuất sau cột. Tôi cười, bảo một cụ đi lấy rượu: “Ta cứ tự nhiên, rượu cũng là cỗ chay không phải là sát sinh”. Được khách thành phố buông cương, ông bưng luôn ra cả mấy vò. Đến lúc về tôi còn ngây ngất cả hai chân, thế là thất bại, chẳng thu hoạch được cái mê tín, cái tín ngưỡng khác nhau thế nào.
Trên trời thì mênh mang nghe báo cáo được, nhưng việc ở sát sườn trong phố thì không thể lơ mơ để yên.
Dương nói:
- Người ta bảo nhà mụ Na hay xách túi ra chợ, túi có maý nải chuối xanh, bó hương. Mụ đứng trong cửa, mắt trước mắt sau rồi mới bước ra, tôi nghi mụ đi đồng bóng..
- Theo dõi kỹ xem sao.
Mấy hôm sau, Dương lại nói:
- Nhà mụ buôn chuối, buôn hương.
Tôi nói:
- Chắc là nó đi bán đồ cúng. ở bên đền Ghềnh người ta đem cúng nhiều chuối xanh, cứ ngày ngày nhà đền lại quảy gánh chuối với từng túi hương thẻ sang chợ Đồng Xuân.
- á à! Thế là nhà này mê tín dị đoan rồi.
Tôi nói:
- Phải cẩn thận không có phạm vào tự do tín ngưỡng.
Cúng lễ là tín ngưỡng, ngồi đồng, xem bói, sóc thẻ mới là mê tín. Cái này cho đặc công Mẫn lặn vào tận nơi xem đích xác ra sao.
Một buổi tối, Mẫn hí hửng nói:
- Đền thờ ở trên gác, lạ lắm. Chuông mõ rồi hát ê a, người ngồi đảo đầu như rượu say. Nhà dưới đóng cửa cài chặt, nhưng ngoài đường cũng nghe được tiếng chuông mõ chập cheng. Thế mà không ai đi báo.
- Ai dại mà đi báo để nó chửi cho ủng mả! Mụ Na đanh đá có tiếng.
Tôi nói như ra lệnh:
- Chúng ta phải giải tán cái mê tín dị đoan này, không để nó lây lan.
Tối rằm, tổ công tác đại biểu và bảo vệ đến nhà mụ Na. Một ông đứng tuổi, dáng bệ vệ công chức cũ.
Nhưng ông không sẵn cái cười xã giao tứ thời, mà ông lé mắt nhìn trộm. Bộ ria huê kỳ lốm đốm, hồi trẻ chắc du côn du kề, bây giờ trông còn cáo lắm. Ông chắp hai tay như ra sân khấu:
- Chào chư vị.
- Chúng tôi kiểm tra sổ vãng lai.
Ông lấy trong ngăn kéo ra quyển sổ bọc giấy bóng cẩn thận, đặt lên mặt bàn. Trong khi cô Đàng mở, chăm chú xem từng tờ các mục tạm trú, tạm vắng. Tôi hỏi:
- Nghe có tiếng mõ trên gác?
Ông ta cười hề hề:
- Các vị khéo vờ. Có bắt bỏ Hoả Lò bọn ngồi đồng ngồi kềnh thì xin cứ việc lên.
Rồi ông làm điệu giơ hai tay, xin mời. Lại lẩm bẩm, không biết rủa ai “Con giời đánh, cho mày chết bỏ mẹ mày! ”
Chúng tôi xộc lên gác. Cái gác lửng cạnh sân thượng, trong phòng mù mịt khói hương.
Góc trong, người cung văn già, áo đại cán, chòm râu lưa thưa, quần vải nhuộm cậy, cây đàn với người nghiêng ngả ê a bên một bà, tôi đã nhận ra mụ Na béo phục phịch. Mụ Na kéo trên đầu xuống một vuông nhiễu điều, miệng nhai trầu, mặt đỏ như uống rượu. Xung quanh, mấy bà nạ dòng đương rì rầm khấn vái.
Thấy người lố nhố, tất cả im bặt.
Trên bàn thờ, khói hương trắng mờ. Mấy nải chuối xanh chồng lên nhau giữa mâm ngũ quả. Hai bên chân án thư dán hai con thanh sà bạch sà bằng giấy viền trang kim vàng choé miệng há ngậm hòn ngọc giấy điệp nhấp nhánh. Cái đuôi con rắn ngoắt lên.
Mấy người quay ra, ơ mặt nhìn cô công an. Cô Đàng đội mũ lưỡi trai, áo kà ki vàng cứng nếp, nom oai vệ nhất. Tưởng cô ấy sắp lấy còng số 8 ra xích cả lại.
Mụ chủ nhà bỏ hẳn vuông nhiễu trên đầu xuống, trông rõ không phải vuông lụa vuông nhiễu, mà là hai ba cái khăn quàng đỏ của trẻ đi học khâu ríu lại.
Tôi hỏi:
- Bà là bà Na?
- Thưa vâng.
- Thế này là tụ tập trái phép làm mê tín dị đoan.
- Nhà cháu cúng người ốm.
Lúc ấy cái ông có bộ ria lởm chởm ở nhà dưới đã lên:
- Chúng nó đồng bóng nhảm nhi phạm luật nhà nước, các ông các bà cứ bắt đi cho tôi.
Bà Na bỗng cong cớn trỏ vào mặt lão:
- Bắt đứa nào! Bắt đứa nào! Bắt thằng tổ tôm, xóc đĩa, bắt thằng phản động việt gian đi tù về kia kìa.
Trong lúc hai vợ chồng to tiếng xỉ vả nhau, mấy bà hầu bóng đã lủi đằng nào. Ông cung văn già cũng biến mất, để lại cái nguyệt dựng trong tường. Cô công an Đàng mà mọi người đều hãi, vẫn đương tò mò ngây nhìn cái bàn thờ sặc sỡ, trang kim óng ánh, có hai con rắn...
Tôi nói:
- Tôi nhân danh chính quyền cấm gia đình từ nay không được phạm vào đồng bóng dị đoan. Chúng tôi tịch thu các đồ mê tín. Yêu cầu các đồng chí bảo vệ làm việc.
Cái mõ gỗ, cái cảnh, cải tìu, những bát hương cúng vọng, cúng hậu trên bàn thờ thì đổ hoa giấy và cát ra, Dương bỏ cả vào cái túi vải đã đem theo. Dương với tay lôi chiếc đàn nguyệt. Tôi nói. “Cái này là nghệ thuật, không tịch thu”, Dương để đàn vào chỗ cũ. Hai con mãng sà trơ ra hai bên chân bàn chưa ai đụng tới. Dương vơ vét mọi thứ, cả mấy nải chuối, nhưng có vẻ ngại con rắn giấy.
Tôi bảo cô Đàng:
- Cô bóc nốt cái mê tín này đi!
Cô Đàng như mới hết ngơ ngác, cô bước đến lột hai con rắn cuộn lại, kẹp vào quyển sổ.
Nhà dưới chỉ còn ông bà chủ nhà. Vẫn như mất hồn, như còn sợ, như hầm hầm giận dữ.
Tôi nói an ủi:
- Chúng tôi chỉ tịch thu đồ mê tín.
Bà Na nhăn nhó:
- Các ông bắt nạt nhân dân. Chúng tôi không phải quân mê tín!
Cánh cửa vừa đóng lại, tiếng đàn ông quát: “Con giời đánh! Con chết chém! Chúng tôi... chúng tôi... Ông bận gì đến cái mê tín của chúng mày”
Rồi huỵch huỵch, chát chát, không biết ai đánh ai, tiếng đấm đạp, tiếng phá tủ.
Tôi nói:
- Vào can người ta đánh nhau!
Mẫn bảo:
- Thằng chồng thế là tiến bộ, cho nó đánh con vợ mê tín dị đoan mấy cái.
Lệnh vào can của tôi không có hiệu quả, mà tiếng đấm đạp, tiếng kêu cũng im.
Tôi bảo cô Đàng:
- Cô cầm mấy thứ này lên khu báo cáo.
Dương nói:
- Cô cho tôi con rắn về làm mồi nhóm bếp.
Rồi chẳng đem thứ gì lên khu cả. Mấy cái bình hương mỗi ngưòì lấy một cái, đựng muối, làm phạng muối dưa, tôi lấy một cái để trên bàn làm ống bút. Đại xin chiếc mõ, chiếc cảnh đem về quê để gõ đuổi gà vào vườn bới.
Đến đợt kiểm tra vệ sinh chuấn bị toàn thành phun thuốc muỗi. Phát hiện ra ba nhà nuôi lợn trên gác, một nhà nuôi chó, bốn nhà hố xí phè cứt ra ngoài.
Tôi đi cùng các tổ trưởng và cô Nghệ phụ trách vệ sinh, rồi hội ý..
Tôi nói:
- Không được nuôi lợn trên gác. Bà tổ trưởng phải vận động người ta bán lợn, không có đến hôm phun thuốc trên khu về thấy thì không ra thế nào.
- Vâng, em sẽ vận động.
Bà ấy “vâng” rất nhẹ nhõm. Bà vâng để đấy, nếu tôi không đến xem lại, hỏi lại thì bà cũng chẳng nhòm đến con lợn người ta nuôi trên gác đâu. Cứ ừ, cứ vâng văng mạng, tôi đã dần dần quen như thế.
Tổ y tế xem đã phun thuốc được chưa. Thấy có thể phủn được. Đã hỏi cẩn thận, không có nhà nào không chịu cho phun như năm ngoái. Chỉ một buổi sáng thì phun xong. Tất cả các tổ trưởng, tổ phó, vệ sinh viên và hội viên chữ thập đỏ đeo băng đi hai ba người một kiểm tra khắp các phố. Một chiếc xe tải đã đưa các phuy thuốc tới. Sinh viên trường Kinh tế Quốc dân làm công tác xã hội, các cô các cậu cõng bình thuốc, tay cầm vòi, miệng đeo khẩu trang, vệ sinh viên hướng dẫn vào từng nhà, phun khắp từ hố xí đằng sau lên trước cửa, từ các phòng trên gác xuống nhà dưới. Mọi nhà đã được báo trước, nhưng cũng không phải đã dễ dàng. Nhà cẩn thận, chỗ này cho phun chỗ kia không.
Có người sợ mùi thuốc, đóng kín cửa, ra ngồi ngoài hồ. Cũng có nhà khoá trái, không ai ở nhà. Người ta không muốn cho phun thuốc, nhưng hôm nọ hỏi cũng cứ ừ.
Cả phố rộn rịch như đi mít tinh. Có người không phải ở ban vệ sinh cũng sốt sắng khuân thùng thuốc, chỉ dẫn nhà phun, chỗ phun. Buổi trưa, cả xe tải ra máy rửa tay chân rồi vào ăn liên hoan mỗi người một bát miến gà.
Vẫn cuối năm, nhiều việc dồn lại. Trật tự trị an lên hàng đầu chẳng khác dịp Quốc Khánh và các ngày lễ ngày Tết, - đến Tết cả thì dân phòng tuần từ giữa tháng chạp sang tháng giêng..
ở trụ sở dân phòng, bắc cái đèn, kê ra chiếc bàn với hai ghế băng, trên tường treo bảng mới kẻ chữ: trụ sở dân phòng thường trực tuần tra. Bắt đầu cắt lượt hai tiếng một tua, từ tám giờ tối. Hai ngưòì, bốn người hết tua về trụ sở đưa băng đỏ và chiếc đèn pin cho kíp sau tớì sáng.
Tuần tra đêm đêm, những góc phố êm ả. Ban ngày chỉ có hàng rong mua đồng nát, sách báo cũ, gánh củ khoai lang, lọ kẹo, ô mai, đôi khi hàng bánh tôm trước cửa trường học, phố này không có chợ xanh, chợ cóc.
Có khi, nứa đêm nghe tiếng kêu thét lên rồi im lặng. Không biết trộm hay người mất của. Bên cạnh, lô nhô những ngõ ngang, thoắt một cái đã lẩn sang phố khác. Có mỗi một lần bắt được trộm, năm ấy, tôi vừa dọn nhà lên được mấy tháng. Tiếng chân chạy rậm rịch.
Lố nhố người dẫn ra một người bị tóm trói ngoặt tay, tóc xoã, máu chảy bê bết, không trông thấy mặt. Thằng trộm không thuộc đường đã chạy húc đầu vào tường cuối ngõ cụt.
Đi tuần khuya tôi hay đến rủ Nguyễn Sáng ra quán Gió hay cửa ga hàng Cỏ, làm vại bia thiu. Bia đêm không phải sắp hàng, mà những ông mua bia cánh tay đeo băng, chẳng biết ông bẻ ghi, ông trưởng toa, trưởng tàu, ông “cờ đỏ", nhiều người đeo băng đỏ quá, và đều là người phải nể, nếu sắp hàng cũng được vẫy lên ưu tiên. Nguyễn Sáng nói: “Bận sau cho tớ mượn cái băng đỏ. Uống bia được mời, khoái quá".
Lại chuyện bất ngờ về trị an. Đằng sau những nhà lẫn lộn phố ga với vùng bờ hồ, có cửa sau dãy hàng ngoài Hàng Lọng. Quán nhà mậu, cơm bát bán xuất.
Người đủ loại, các tỉnh, người công tác, người đi buôn, không đoán đếm xuể được, cả đứa lang thang, gái điếm.
Cũng như chẳng phải địa phận cũng đánh dẹp cho chúng khỏi tràn lan. Cốt có công an, nhưng việc này cô Đàng lại không làm nổi. Vào xét nhà lão Vinh quét vôi, có người báo lão giặt xi líp thuê cho gái điếm. Cô Đàng đứng lại:
- Cháu không vào đâu. Phạt người đái đường, chỗ bến xe lúc nào cũng cả chục đứa uống bia rồi đứng lên đái, thấy cháu chúng nó quay ra đái vung vãi, cháu hãi lắm.
Tôi thông cảm những khó khăn của cô gái hai mươi mốt tuổi quê miền đồng khô cát tráng trồng ớt trong Quảng Bình. Trong nhà lão Vinh, Dương tịch thu đem ra cả túi những cái xì líp, xú chiêng sặc sỡ. Dương ra kể cho cô Đàng viết báo cáo, rồi cô ấy ký.
Cô công an hộ khẩu này còn một tật nữa. Cô sợ chuột. đến kỳ diệt chuột, thế nào cũng vắng mặt cô Đàng và Mẫn bảo vệ. Cô Đàng thì chẳng lạ, nhưng Mẫn sợ chuột thì thật quái lạ.
ấy đêm qua, phổ biến kế hoạch diệt chuột. Năm ngoái đánh bả được ngót một nghìn con, toàn chuột cống. Được giấy khen của hội chữ thập đỏ. Chỉ phải một khuyết điểm là để người vứt chuột chết bừa bãi, lần này phải cúng cố khâu nhặt chuột, chôn chuột. Buổi trưa, trên khu mang một bọc thuốc chuột xuống.
Cô Nghệ nấu một nồi cơm to, để nguội đổ ra ni lông rồi trộn thuốc đem phát. Cả phố đặt mồi cùng một đêm, rồi ba hôm liền, tổ hội viên chữ thập đỏ đi từng nhà nhặt xác chuột. Cuối ngày, xe đạp thồ những sọt chuột chết vôi bột rắc cả trong cả ngoài. Trên bờ sông, một dẫy những huyệt chôn chuột đã được đào sẵn cho các phố đem lên. Năm nay không đánh được cả nghìn con như năm trước. Không vứt bừa bãi hay chuột đã chết thối, đem bỏ vào xe rác, hay đã báo cáo thổi phồng.
Không hiểu tại sao. Có lẽ đã đánh bả mấy năm liền, những con chuột thoát chết bảo nhau thế nào, không đụng đến cơm bả. Năm nay, cơm bả nhà trộn lấy, hôm công bố kế hoạch dặn phải phi hành mỡ lẫn vào cho mồi có mùi thơm. Mà số chuột chết cũng kém hắn. Con chuột ở thành phố cũng ngày một khôn hơn.
Buổi sáng trông đồng hồ tôi thường có một ám ảnh buồn cười. Chợt nghĩ sắp có người đến, sắp có người đến, nhiều khi y như rằng. Nhưng cái ám ảnh có người đến hôm nay lại vào buổi trưa. Một người đàn ông mặc áo pydama, ung dung đi với Dương.
Anh này xúng xính quần áo ngủ pơpơlin lá mạ viền tím. Tôì nhớ năm trước người cửa hàng trưởng cao lâu Bôđêga phố Tràng Tiền. Ông ta cũng mặc pydama xanh. Chặp tối, Phạm Văn Khoa với Nguyễn Tuân và tôi vào nhà hàng. Cửa hàng trưởng ngồi ghế ngoài hiên, đứng dậy chào. Nhưng Nguyễn Tuân đã quay ra ngay. Sang bên kia Bờ Hồ, Nguyễn Tuân nói: “Mặc quần áo ngủ đón vào ăn, bẩn quá, không nuốt được". Lên quán cà phê Nhân, uống một cái phin rồi về. Ông Nguyễn bỏ luôn bữa ăn tối ấy ở nhà. Bây giờ mới lại trông thấy một ngườỉ mặc pydama đi công việc ngoài phố giữa trưa. Chàc là ông cửa hiệu Bôđêga báo cáo thành tích thì đua cải tiến đã tiết kiệm thời chiến, mặc quần áo pydama đi ngủ, ngồi bàn giấy, ra cửa chào khách, chỉ phải một bộ. Có thế nào, bộ quần áo mới được nhiều người trong ngành ăn uống, hàng quán bắt chước nhanh thế. Ông này cũng gày gù, khắc khổ, ngăm ngăm đen.
Nghe giọng nói đường trong, biết ông cùng quê với ông cửa hàng Bôđêga. Ông ấy nói:
Chào anh trưởng ban, tôi có việc đề nghị anh. Tôi phụ trách nhà trọ cửa hàng ăn uống Ga. Tôi luôn luôn giữ trật tự trị an nhưng có một bọn càn quấy, cứ mười hai giờ trưa đến thuê phòng ngủ. Chả là giờ nghỉ thì các đồng chí công an không đi xét giấy. Các anh phải đến triệt cho hết giống đĩ bợm thì thành phố mới sạch được.
- Công an đã quy định: người có chứng minh thư ở Hà Nội không được thuê khách sạn, nhà trọ. Nhà anh ở Hà Nội, sao đi ngủ lang, chơi gái à? Không được. Làm hắc vậy mà vẫn khe hở ấy là giờ nghỉ trưa, bọn ăn chơi hay thuê chỗ trọ vào luc ấy.
Tôi hỏi:
- Anh cho chúng nó thuê phòng lại còn kêu gì!
Người ấy trợn mắt, giơ bàn tay khía vào cổ.
- Không cho thuê, chúng nó cắt cổ tôi. Có thế mới phải nhờ anh can thiệp.
Tôi hẹn trưa nào có đứa đến thuê buồng để hủ hoá thì anh vào báo, chúng tôi sẽ ra.
Ông ta cám ơn rồi bắt tay, đi ra với Dương. Nhưng lại quay đầu, nói: “Ngay bây giờ anh ra cũng được, sắp mười hai giờ rồi.”
- Thôi hôm khác.
Chẳng lâu la gì, trưa hôm sau, người bồi xăm tự phong là phụ trách nhà buồng đã vào gọi: “Chúng nó đến! ”
Tôi báo với Mẫn và cô Đàng. Nhưng Mẫn đương bận chữa xe, cô Đàng thì họp trên khu chưa về. Chỉ có Dương và tôi Người pydama đưa chúng tôi vào nhà trong. Im lặng, trỏ tay vào cái buồng trên cửa có số 5.
Dương đấm chát chát như phá cửa. ở trong có tiếng hỏi ra: “Đứa nào đấy?”- “Mở cửa mau, kiểm tra hộ khẩu". Thấy lặng im, Dương lại đập cửa. Một cánh cửa bị đẩy hắt ra. Trán Dương cộc bốp một cái vào mặt gỗ.
Dương sừng sộ:
- Chúng mày chống lại chính quyền a?
- Không biết, tôi nhỡ tay. Ông tha cho.
Người ấy cười gượng ngượng nghịu. Không thấy nó vẻ du kê, du côn như người bồi săm nói. Nhìn vào gian buồng trống, trên giường góc trong có một người đàn bà đương ngồi búi lại tóc, áo đại cán tím, quần đen, đôi dép có quai hậu, như cán bộ ở tỉnh lên.
- Anh đưa gái đi hủ hoá?
- Không ạ, vợ tôi.
- Giấy giá thú đâu?
- Tôi để ở nhà.
- Không có giấy giá thú thì là hủ hoá rồi. Chứng minh thư đâu?
- Tôi quên ạ.
- Anh tên gì? ở đâu? Làm gì?
Tôi...ở Hải Dương làm nhà máy đồ hộp.
- Chị kia?
Anh nọ đáp hộ:
- Vợ tôi cũng ở Hải Dương.
Tôi nói:
- Mỗi người một tờ khai viết những điều tôi vừa hỏi. Tôi sẽ ghi biên bản. Một gửi về nhà máy ở Hải Dương, một gửi khu công an ở đây. Trước mắt, tôi cảnh cáo hai người từ giờ không được đi ngủ lậu thế này.
- Vâng ạ.
Người pydama đi lấy tờ giấy, người đàn ông nọ ngồi chép hai bản đưa cho tôi. Dương sẽ nộp khu và gửi về nhà máy. Người bồi săm cứ tấm tắc khen tôi giải quyết việc nhanh gọn. Rồi lấy trong túi ra mười đồng đưa cho tôi để các anh uống bia". Tôi không cầm, cũng không đưa cho Dương.
Có hôm đi qua hè phố lại thấy cái thằng nhà máy đồ hộp - nó không nhìn thấy tôi, hay là nó đã nhìn thấy tôi trước. Nó chạy vào nhà trọ ấy. Tôi về bảo Dương
Dương hỏi tôi:
- Có ra khám nữa không, lần này thì bắt...
Không hiểu sao tôi lại nghĩ ra và gạt đi.
- Chúng ta đã bị lỡm. Thằng pydama chứa trọ nhờ ta khám doạ thằng kia để nặn thêm tiền đấy thôi. Mà hình như cái dãy nhà này không thuộc địa phận phố ta.
Dương nói một câu lạ tai:
- Nó nhờ anh giúp mà, chỗ ấy là khối phố khác.
Tôi bực mình:
- Nó nộp anh bao nhiêu tiền?
- Anh lại nghi oan em. Em thề...
Tôi nghĩ bụng: “Nó đút tiền mày trước cả lúc vào gặp tao. Mà mày cũng vứt hai cái đơn rồi". Nhưng tôi lại không nói.
Ngày ngày Dương tha thẩn trong phố và các ngõ như con gà, con chim đi kiếm mồi, nhặt hạt thóc, hạt rền. Dạo này không thấy đi giữ xe đạp nữa. Tôi cũng không bao giờ cất công đi dò hỏi xem ở trong Nam có phải Dương đã bị án, ngày trước vợ Dương đi làm nhà thổ. Cái ngại của tôi cũng có lý vì ở đây túi bụi việc trước mắt- như thời hồng hoang, không ai biết gốc gác ai và chẳng có lương lậu ngạch bậc để nhấp nhồm chèn cạnh nhau, thế thì đi hỏi làm gì. Thằng Dương kiết xác không vơ váo kiếm ăn thì có khi phải đi ăn trộm nuôi sáu miệng ăn cũng nên.
Vẫn việc trị an, cái này mới thật sự to chuyện.
Cô Đàng trên khu về truyền đạt công tác đặc biệt. Cái nhà góc phố, một cơ quan nước ngoài thuê. Nhà này hay đem gái điếm vào. Chơi gái trong nhà ấy thì không ai làm gì được vì nhà thuộc ngoại giao đoàn. Không biết đã từng thoát bẫy ở đâu hay họ biết ta có thể chặn bắt ngoài đường, nên họ đề phòng lắm mẹo. Chở gái bằng ô tô, nhưng không ngồi ô tô che vải hoa lên cửa kính - xe nước ngoài không có thói che rèm như ô tô các cấp của ta, mà cửa xe Tây cứ thông thống, người nằm xuống ghế cũng trông thấy. Bọn ở đây cao tay, nó đặt cái thùng gỗ đằng sau xe, chằng dây cho khỏi bung lên, như tải về cái xe máy, cái tủ lạnh mọi khi vẫn làm thế. Chỉ khác, có lần ở trong ngồi một nàng Kiều..
Chúng tôi bố trí Mẫn gác ngoài đường, xế cửa, ngăn nó không tọt được vào cổng. Thấy bóng cái xe có thùng đằng sau thì Dương huýt còi, chặn lại. Tôi ra nói tiếng Tây và làm biên bản. Nếu xe cắm quốc kỳ thì tước ngay. Rồi yêu cầu mở thùng. Trong thùng không có người thì cắm lại cái cờ và cho qua. Có sai luật thì chúng tôi cũng chỉ như dân phố không biết pháp luật.
Cô Đàng và công an khu nấp đằng kia, có thế nào thì Mân chạy lại gọi. Kế hoạch tác chiến đã bàn kỹ và bố trí như thế.
Phố vắng, chặp tối đã im lìm. Đèn đường thấp thoáng, những cây xà cừ xào xạc rụng lá, vào mùa hạ nếu mưa to đường phố này có khi mấy ngày ngập ngang đầu gối. Có người thắc mắc quãng phố ấy có mấy nhà hộ đặc biệt, sao để đường tệ thế. Nhưng lại có người giải thích mỉa mai: ô tô kề thềm hè, biết lụt lội ra sao, đến tết Công Gô vẫn lụt, cũng chẳng lo.
Nhưng công toi đã mất mấy hôm. Mỗi lần, có một hai xe về lúc chặp tối. Trong nhà lên đèn sáng, tiếng máy hát mở to, chắc là họ vừa ăn vừa nhảy đầm. Vào khuya gần nửa đêm, một xe nữa về, xe vào khoá cửa sắt ngay. Đèn trong nhà không sáng thêm. Xe này đi tiệc đâu về. Không xe nào có cái hòm đằng sau.
Cô Đàng nói:
- Các anh ấy bảo gác nốt đêm nay thì rút.
Chặp tối, cũng hai xe, vẫn không có hòm xiểng buộc đằng đuôi. Xe bóp còi, trong nhà ra mớ. Gần nửa đêm, lại một xe về, vào khoá cửa sắt, không có vẻ gì khả nghi. Hai cánh cổng sắt đóng, ô tô đã tắt máy trong vườn. Dương đi từ hè bên kia đến. Dương đẩy một cô gái trong bóng tối gốc cây ra sáng điện giữa đường.
Như ở đâu hiện ra, người con gái mặc áo vét, đầu phi dê mốt mới “u xi” xoắn lên đỉnh. Dương lôi cô gái ra đứng giữa chúng tôi, nói to:
- Chị này núp gốc cây định theo cái xe vào.
Người con gái nói:
- Không phải. Tôi vừa đi đến đấy.
Tôi hỏi:
- Cô đi đâu khuya?
- Em đi làm ca về.
- Nhà ở đâu?
- Nhà em dưới Khâm Thiên.
Dương nói:
- Quần áo, đầu tóc thế kia không phải đi làm ca.
Tốp công an trên khu cũng đã ra tới. Một công an nói: “Việc tối nay thế là giải tán. Bây giờ đem chị này về trụ sở Hôm sau chúng tôi không phải đi rình nữa, cô gái bị dẫn về trụ sở rồi ra thế nào.
Có lúc tôi lại nghĩ hay đấy là công an thả người ra bẫy cò ke mấy ông Tây.
Không thì giờ đâu mà nghĩ lâu, những việc khác đã ập tới chúng tôi họp công tác bàu cử hội đồng nhân dân thành phố. Tôi cũng đương Hội đồng Nhân dân, mà ứng cử huyện Tử Liêm, khoá Quốc hội thì ra đại biểu trên huyện Thạch Thất. Chưa khi nào tôi thấy việc ở khối phố tôi bận gì đến các chức danh và công tác ở trên của tôi.
Việc nhiều đấy, nhưng cứ làm theo trên bảo rồi cũng tuần tự trôi chảy cả. Tài liệu thì đã có các tờ bướm chỉ dăn. Số người ứng cử có sáu thì lấy năm, bỏ một. Bỏ người nào thì gạch một cái, ở chỗ viết phiếu đã sẵn chiếc bút bi buộc vào cọc chân bàn. Trước kia có giải thích bỏ cho ai, bỏ cho ai. Nhưng lần này không thấy trên tiểu khu xuống bảo gì cả.
Hội đồng nhân dân thường họp ở hội trường uỷ ban thành phố. Đến năm xây xong khách sạn Giảng Võ thì xuống dưới ấy. Nhớ lại các cuộc họp cũng chẳng nhớ công tác, chủ trương thế nào, chỉ không quên những cái vớ vẩn. Lần nào tôi cũng chịu khó mấy hôm đi họp. ở hội trường uỷ ban trên Bờ Hồ, buổi trưa được ăn bồi dưỡng bát phở gà, phở bánh hẳn hoi và một quả chuối. Ngày ấy không phải ăn phở miến dong riềng, phở “không người lái” là nhất Hà Nội rồi.
Cái bảng với hàng chữ to tổ bố “Khách sạn Giảng Võ” thực sự nó là cái hàng cơm chứa trọ của ga bến Nứa. Cơm thì ngồi bàn ghép mâm, buồng thì nằm bốn người, sáu người. Mép cửa sổ đóng hai cái đinh khoằm vào nhau, bên cạnh dán mảnh giấy “chỗ mở bia". Nghiêng đầu chai vào, bật nút. Có hôm, tôi thấy bác sĩ Phạm Biểu Tâm- ở trong Nam ra họp, rửa mặt ở vòi nước nhà ăn. Hỏi thì bảo nước ở buồng không chảy. Nội qui ghi khách giả buồng thì giao chìa khoá cho nhà buồng.
Chúng tôi ra đứng ngoài cửa, cô nhà buồng cầm sổ vào đếm l, 2, 3 theo số: cái chén, cái phích, cái gối... Đếm xong, cô bước ra tươi cười: “Đủ rồi ạ, các đồng chí về mạnh khoẻ”.
Đấy nhớ vẩn vơ cái hàng cơm chứa trọ Giảng Võ như thế. Và nhớ buổi họp mỗi lần giải lao gặp nghệ sĩ chèo Diễm Lộc ra uống bia hơi. Cô Diễm Lộc uống hơi ác đấy.
Một buổi tối họp phố, tôi đương giải thích các tiêu chuẩn người ứng cử hội đồng nhân dân. Một ông Tây mặc sơ mi hở cổ, ria mép trắng lốm đốm, mặt rượu đỏ thậm lù lù vào ngồi xuống cái ghế băng cuối. Chết tôi rồi, đấy là lão tổng đại diện Pháp, lão P. Susini.
Hôm mới đây, Quốc khánh Pháp, tôi đến dự tiệc đứng trong vườn sứ quán. Tình cờ, ông ta đến mời rượu rồi nán lại chuyện linh tinh. Ông nói ông chưa đọc tôi, nhưng biết tiếng. Và hỏi tôi đương viết gì thú vị. Tôi bảo tôi đương làm một việc rất vui là làm đại biểu một khu phố, mà ở trong làng thi như người trưởng xóm. Tôi khoe đương có cuộc vận động bầu cử hội đồng thành phố. Ông hỏi: “Tôi đến xem được không?”- “Được, được lắm. Mời ông". Rồi ông đi bàn khác. Tôi tiếp tục uống và coi như những câu nói gió bay lên trời.
Nhưng lão Susini đã đến. Tôi không lạ người ta đến, nhưng tôi ngại cái sự lão tò mò chui vào cái phòng họp ở chỗ ngóc ngách và ngồn ngang như lớp học trong tranh thày đồ cóc.
Tôi ra chào ông. Và nói xin lỗi, tôi đương giải thích về bầu cử. Ông ấy nói không sao, không sao, ông ấy đi bách bộ chơi, nhìn thâý tôi thì vào, tôi cứ làm việc, mặc ông ấy.
Rồi lão P. Susini đi lúc nào không biết. Ông ấy nói xã giao- khó lòng, vì cái buồng phòng họp giữa nhà, ngoài đường không trông thấy người ở trong, hay là ông ấy thấy vẻ ngơ ngác của tôi- tôi không ba hoa chích choè như hôm uống vang Boocđô ở sứ quán, ông ấy đã lẳng lặng rút. Không có qui định luật lệ tiếp xúc với người nước ngoài, nhưng người ta đều tránh.
Cô bán bia Bờ Hồ kể chuyện. Có một Tây không biết người nước nào nói tiếng ta sõi, chiều chiều đến uống bia tán gẫu. Cô hàng bia bảo khách: “Đồng chí đến uống bao nhiêu chai bia cũng được, nhưng không nên đến nói chuyện với tôi. Nói chuyện với tôi thì mai tôi mất việc". Và cô đá mắt nhìn người công an đương thản nhiên như không đương đi đi lại lại bên ngoài.
Hôm sau, cô Đàng hỏi tôi:
- Bác có biết người Tây tối hôm qua đến chỗ phố họp không?
- Tôi không biết.
- Ông âý là đại sứ nước Pháp. Sao nó biết ta họp?
- Biết được!
- Nó hỏi gì thế, hả bác?
- Nó có hỏi gì đâu!
- Nhân dân bảo bác ra nói chuyện với nó.
- à người ta vào nhà thì mình phải ra chào hỏi, phép lịch sự quốc tế mà.
Cô Đàng lại ghi vào sổ, không hỏi thêm rồi đi.
Một người đến. Không phải cô Đàng quay lại, mà cô Nghệ. Cô Nghệ đã trên năm mươi tuổi, ai cũng quen miệng gọi là cô, bởi vì cô chưa có chồng. Người làng nhàng, quắt queo, hay gắt gỏng, mặt khó đăm đăm, lại bệnh đau gan. Cô hay nhờ tôi tìm thuốc tiêm bổ gan sêlêpa. Các hàng thuốc không có những thuốc quí hiếm ấy. Tôi mua hộ cô ở y tế cơ quan. Cô Nghệ làm ban vệ sinh, thành phố chuẩn bị phòng không cô kiêm thêm ban cứu thương. Lại có việc gì đây.
- Anh Vân đội viên dân phòng...
- Anh Vân lái xe ở phố bên ấy a?
- Vâng. Mấy hôm nay lôi thôi to. Cái hố xí hai ngăn của chung số nhà nước cứt đái ngấm sang cả mặt tường nhà anh ấy. Mấy hôm đã cãi nhau ầm ĩ, mà anh Vân thì ốm, con còn bé, nheo nhóc quá. Anh sang xem thế nào.
- Cô về báo số nhà ấy tối nay họp, tôi đến.
Cô Nghệ đã đi rồi, lại trở lại.
- Hay là trên đương giục báo cáo vệ sinh hố xí hai ngăn, anh để mai ta đi kiểm tra làm báo cáo rồi vào nhà anh Vân một thể.
- Thế thì chiều mai ba giờ tôi sang bên nhà cô rồi cùng đi.
Mấy lâu nay thành phố vận động các nhà làm hố xí hai ngăn. Việc ỉa đái của đất Kẻ Chợ từ thời Tây đã cứ không dưng như mưa nắng, như trời đất hết mùa hạ sang mùa thu. Hồi xửa xưa, chỉ độc mấy phố hàng Đào, hàng Gai, các nhà quan cách khá giả trổ ngõ sau ra phố tắt, ra vườn hoang, mọi đi lại, chợ búa, con cháu ở quê ra, người vào lấy phân tro đều đi cửa khuất ấy. Rồi quan đốc lý Tây cho thầu phân, các nhà làm hố xí đằng sau, nửa đêm có phu gọi cửa “đổi thùng! đổi thùng! ”- mà người nghe lúc ngái ngủ nhầm là “đổ thùng". Nhà có cửa nách cho phu thùng, nhà chật chội thì mỗi đêm phu cứ xách thùng phân qua suốt cảc phòng ra cửa trước. Năm 1956, về hoà bình rồi, buổi tối tôi vào hiệu vằn thắn phố Huế, đương ăn còn thấy người công nhân vệ sinh quảy đôi thùng phân đi ra, qua ngay giữa nhà. Đấy là nơi có phố, còn lều quán chưa thành phường thì vẫn ngồi nấp bờ đầm, bờ sông, bụi rạm. Làng tôi ở ven nội, người lớn trẻ con đều ra các chân tre đầu đồng, mỗi hôm có mụ “mũi thung"- những người đàn bà lam lũ trên mặt nổi vết chàm có lông như miếng da lợn, họ ở các làng vùng trong quảy thúng tro đi gắp phân về bán.
Nhà người Tây có hố xí máy, còn người ta ở Hà Nội thì cả trăm năm thuộc Pháp các phố cứ “đổi thùng” cho mãi đến những năm 1958. Không biết ai cải tiến ra cái hố xí hai ngăn đến bây giờ còn người khen, ngườì thì bài bác kịch liệt đòi truy cho ra đứa có sáng kiến ấy để bỏ tù. Tôi là người đứng giữa có thực nghiệm với tư cách nhà có một hố xí hai ngăn và bây giờ trông nom hơn hai trăm cái hố xí hai ngăn của hàng phố, tôi thấy không phải tội ở người nghĩ ra, mà tại những đứa xây và đứa cai quản với thói kẻ cắp bớt xén, thói lười biếng. Lý nhẽ và lề lối nghe ra thuận tai, vẫn cái hố xí mọi khi đem chia thành hai ngăn. Đầy ngăn này, đậy nắp lại cho phân ngấu. Khi ngăn kia sắp ứ lên thì ty vệ sinh đến hót hố bên. Hàng tuần, đem tro và mùn đất rắc vào hố phân, lại trát vôi cho khít nắp. Mọi việc đều được giải thích ra các thành tích và kết quả. Phân này đưa đến nông trường, tốt bằng trăm phân hoá học nước ngoài phải bỏ tiền ra mua nhập.
Cái tưởng là sẽ tốt đẹp ấy đều đặn tử tế được vài tháng đầu. Các người ở ngoại thành vào lấy trộm phân khốn khổ lắm. Công nhân vệ sinh bắt quang sọt, công an phạt tiền. Nhưng vẫn có người đi chui, có các nhà cho vào múc lậu. Chỉ ít lâu, đến khi chểnh mảng chẳng thấy công nhân đưa mùn đất, không đến chát nắp, lại những xe thùng cũng đỗ bất thường. Cả hai hố đã phè ra, chủ nhà phải ngồi ở cửa hóng người hót phân chui, lại phải dúi tiền để các bác ấy làm phúc vào lấy cho. Sự tích cái hố xí hai ngăn nẫu ruột là vậy, mà đêm ngày nhà nào cũng phải dùng đến, mà cái hố xí tự hoại, cái hố xí máy thì xa vời chưa bao giờ dám tưởng tượng đến, hoạ may chỉ có thật ở các nhà hộ đặc biệt cũng một phố tôi thôi. Nhà tôi nêu gương đã đợt đầu làm ngay hố xí hai ngăn. Xây thành hai hố, hai cửa, hai lỗ, lại chát xi măng lót tường, thợ xây đưa đến một xe ba gác mấy chồng gạch xỉ than. Tôi bảo:
- Gạch xỉ than thì vỡ ngay, thấm hết.
Anh thợ nề và anh công nhân vệ sinh cắt nghĩa quả quyết:
- Gạch xỉ than nhẹ và xốp, phân hả hơi càng chóng khô, phân sẽ rất tốt, bác ạ.
Tôi không thề hiểu biết hơn những người miệng nói tay làm này. Nhưng cái hố xí hai ngăn nhà tôi không thấm. Có lẽ người ta làm cẩn thận kỹ lưỡng cái hố xí nhà trưởng ban.
Tôi với cô Nghệ đến nhà Vân. Cái hố xí sát tường ấy không phải của một hai nhà mà chung năm hộ trong một số nhà. Trên gác, tầng dưới, nhà ở bếp, nhà vẩy mái đằng góc sân. Nhà anh Vân ở xưa kia là nơi để xe. Không biết chủ để xe nhà, xe đạp hay ô tô, nhà này trước là cái biệt thự nhỏ một chủ.
Chỉ một gian thông thống, trong cùng kê cái thùng gỗ đựng xống áo. Hàng hiên là bếp, có cái hoả lò đun củi. Anh Vân nằm, chưa phải mùa lạnh đã đắp chăn, chốc lại ho sù sụ- cái chăn rung nảy lên mới biết có người bên trong. Mọi khi, có lần đêm gọi Vân đi tuần tra, tôi chỉ đứng ngoài cánh cửa, không trông thấy cảnh tiều tuỵ này.
Tôi ngồi xuống.
- Chưa khỏi ho à?
Giọng Vân tự nhiên:
- Ho lao thì chỉ khi nào chết mới khỏi, anh ạ.
Tôi không dám động đến chuyện anh ốm nữa.
- Thế nào, cái hố xí...
Vân ngồi lên, trỏ tay bảo tôi và cô Nghệ vào chỗ góc tường. Tối như hũ nút. Bật điện cũng không sáng tới Khi này người ở các buồng nhà trên thấy “chính quyền” tới đã xúm đến.
Một bà phân trần:
- Cái cô Nghệ nghe báo cáo báo mèo thế nào mà hoá ra tôi cãi nhau với anh Vân. Cãi nhau đâu với cái anh ốm như con gà rù thế kia. Tôi chỉ nói rằng anh Vân ơi, anh làm ở sở nhà nước có ô tô, có thế lực, nhờ anh đi báo cáo cho nhà này được làm cái hố xí chỗ khác, cái hố xí này khốn khổ cả xóm, mà khổ nhà anh ấy trước. Có phải hố xí riêng của nhà tôi đâu. Thế mà thiên hạ chúng nó đã nói bẻ queo ngay đi.
Có người đem đến cho mượn cái đèn pin. ánh đèn lia vào góc tường, tôi thoạt thấy đã kinh hãi. Chân tường thâm kịt, tình cảnh này thì chỉ ít lâu nữa, chỗ thấm càng nhầy nhụa ra. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy hình như trong buồng có mùi thum thủm.
Bà hàng xóm mau miệng, lại nói:
- Ông xem có khốn nạn không, cháu nói vô phép ông, đứa nào ngồi phón bên kia, ở đây cũng nghe tiếng phèn phẹt. Đã nhục chưa!
Cái bà lão chết toi, ăn với nói!
Tôi sang nhìn cái hố xí. Vốn là một mảnh đất toen hoẻn bằng bàn tay, công nhân vệ sinh đã xây tường cửa, mặt ngồi, tường ngăn, nhưng không trát xi măng, lỗ hẹp quá, thế là phía trong để mộc. Bên trên mái lợp miếng ni lông với que chống. Không có cửa, người ngồi thò đầu gối ra thì ở ngoài biết trong có người.
- Hố bé quá, nó lại không lát đệm, cái tường con kiến để nguyên, không tráng xi măng...
Tôi nói như quan sát kết luận. Nhiều người thêm thắt:
Chúng tôi đi cả ngày, làm xong người ta giao cho thế thì biết thế...
- Tôi đã hỏi lại, chúng nó tô vẽ rồng phượng cái hố xí bền vững đâu ra đấy, cái quân bán mồm.
- Trăm sự nhờ ông.
Tưởng như tôi có thể sai, có thể ra lệnh hay là gọi ngay uỷ ban, công ty vệ sinh đến mắng cho một trận, bắt chữa lập tức. Tối hôm ấy tôi cũng làm một cái đơn kể sự tình- dùng chữ thời sự hôm nay, “để ô nhiễm môi trường đến vậy, đề nghị! ... Đơn viết ba bản gửi đi ba nơi. Mất hút, chẳng có tin trở lại. Tôi cũng đã đoán từ lúc chưa gửi kết quả sẽ như thế. ít lâu sau, anh Vân ho ra máu, chết ở bệnh viện Bạch Mai. Chị Vân rồi ẵm con đi ở nơi khác. Mỗi khi tôi đi qua vẫn thấy cái buồng đóng cửa, chưa có người đến ở. Cũng chẳng khi nào tôi vào hỏi thăm xem cái chuồng xí thấm ra tường rồi thế nào.
ở số nhà này đi ra, cô Nghệ và tôi sang một ngõ phố khác, làm việc cho cái báo cáo vệ sinh. Tôi đi suốt loạt hố xí một dãy nhà. Có đến mười mấy cái nhà một tầng, hố xí líền nhau đằng sau các gian nhà giống hệt nhau. ở thành phố có nhiều nhà như thế, trước kia của một chủ làm cho thuê. Các dãy phố quanh nhà thờ hàng Trống, ở Hăm Bốn Gian phố Huế, ngõ Yên Thái, ngõ hàng Cỏ, bây giờ phần nhiều đằng trước đã sửa sang lại, nhưng phía sau lưng thì vẫn như một trăm năm trước- một hẻm dài mỗi gian thò ra hai lỗ cửa chuồng xí, đấy cũng là lối đi cửa sau lấy thùng.
Tôi bảo cô Nghệ:
- Ta vào xem hết cái hẻm này đã đủ làm báo cáo được.
Cô Nghệ nhăn mặt:
- Anh vào à? Anh cho tôi đửng ngoài này. Tôi có chứng rức đầu.
Cô Nghệ không dám vào. Bẩn kinh khủng. Mùi hôi thối không trông thấy, nhưng có thể tưởng tượng như một cái cống, một cái bễ đương ngùn ngụt tuôn hôi thối nồng nặc ngạt thở. Hai bên tường, không quét vôi lở lói dưới hàng gạch lâu đời đã vỡ khấp khểnh xanh xám nhờn nhọt như màu tường nhà anh Vân lúc nãy. Cái chuồng xí cũ thì trống hốc, cái hố hai ngăn đã trát hai miếng vôi cát lờ tở, tôi đếm từng cái, mỗi thứ. Dưới rãnh, những con ròi trắng hếu bò lổm ngổm.
Nhưng không thấy nhặng xanh bay ngang mặt, có lẽ bí hơi quá, nhặng cũng không dám vào.
Đến cuối hẻm tôi quay ra. Cảm tưởng vừa xuống âm ty. Uám, nhơn nhớt, nghẹt cổ. ở Hà Nội, phố nào cũng đằng trước mặt hoa da phấn, đằng sau là cái lối vào chuồng phân như thế này, cả bao nhiêu năm nay thế.
Cô Nghệ bảo tôi:
Gớm cái anh, tôi ra kia mua nắm lá ngải cứu cho anh về đun nước tắm ngay đi.
Tôi cười:
- Có cái nãy khử hơi độc còn hay hơn. Mời cô sang bãi “chuồng cọp” uống bia với tôi.
- Chịu thôi, tôi không biết uống bia.
Việc chuẩn bị bầu cử đã vào độ rầm rộ cuống quít.
Tổ viết tên cử tri cả khối cọng lại, lên danh sách niêm yết ra trụ sở trước hai tuần lễ. Ai xem có tên mình, có sai sót thì báo ngay. Rồi phiếu đưa đến từng hộ.
Hôm đi bầu, cử tri đem phiếu vào khu vực tổ mình để người ta đánh dấu vào sổ đã đi bàu rồi. Quá trưa, soát thấy tổ nào còn người chưa đánh dấu thì tổ trưởng về gọi. Người đi bầu ra chỗ viết phiếu đã kê bàn từng ô có ngăn giấy che. Chẳng phải viết chữ nào, chỉ đọc một loạt sáu tên người rồi gạch một. Họp phố đã nghe dặn cách bầu nhiều lần.
Mỗi buổi chiều, đoàn thiếu nhi sắp hàng khua trống ếch inh ỏi. Chặp tối, đội dân phòng và thanh niên nam nữ lại đồng phục sư mi trắng, quần xanh công nhân, giày ba ta trắng, - không dội mũ sắt, hàng trăm người sắp hàng ba đi hô khẩu hiệu: Hoan hô bầu cử hội đồng nhân dân khoá... Hoan hô! Trông đội dân phòng lại oai, khác hôm thi cứu hoả phụt nước thua trên Cửa Đông, lỉnh kỉnh đẩy cáì xe máy bơm về, mặt ai nấy tiu nghỉu.
Bộn rộn nhất hôm sau cùng. Đêm trước đã họp các tổ trưởng, tổ phó, mọi người ra giúp việc rà lại giấy tờ, giấy mời, lại diễn tập hướng dẫn đi vào, lối ra, đến bàn đưa đóng dấu phiếu, vào viết phiếu, bỏ phiếu rồi hướng dẫn đi ra. Chặp tối mấy hôm nay các phố đã lên cổng chào tết lá dừa, chăng đèn kết hoa.
Trẻ con đùa chơi đến khuya. Tôi khoan khoái bảo Đại:
- Thắng lợi, phải thắng lợi chứ".
Từ tinh mơ, tôi sang sân trường nơi bỏ phiếu. Những người được phân công chuẩn bị các thử còn đến sớm hơn tôi, những cái thừng căng và những biển chỉ đường ra vào cũng đã cắm cẩn thận rồi.
Người ở các hộ đặc biệt đều ra đông đủ. Vài ba năm những cái phố eo sèo thường ngày mới có một lần long trọng thế này. Nhiều vị chủ hộ ăn mặc tinh tươm, có người thắt cà vạt đỏ, đội mũ phớt. Thời ấy mặc oách thế còn hiếm, đấy là dấu hiệu tôn trọng cuộc mít tinh bỏ phiếu. Các ông là bộ, thứ trưởng hay bí thư đáng đoàn, viện trưởng, vụ trưởng, trưởng ban nội chính, đại khái thế, tôi cũng đoán biết sơ sơ.
Dương đến ghé tai tôi:
- Hay quá, các kễnh ra hết.
- Nhiệm vụ công dân của các vị ấy chứ.
- Mời anh đến chào khách.
- Miễn! Các ông ấy không đến chào tôi thì thôi.
Chẳng ai đến chào tôi cả. Tôi cũng như mọi người ở ban bầu cử lăng xăng chạy đi chạy lại. Dương vẩn vơ muốn đến bắt tay các ông kễnh, nhưng thấy tôi không đến, Dương chỉ lảng vảng gần dăy ghế hàng đầu.
Còi ủ nổi lên xa xa gần gần, còi hiệu toàn thành bắt đầu mít tinh. Tôi đọc một bài phát biểu trước micrô.
Tôi đọc thong thả, rành rõ bài đã viết sẵn của trên khu gửi xuống. Năm trước, bài nói in chú thích: “Đọc nguyên văn, không thêm bớt nội dung". Có ông trưởng ban đại biểu nọ đã đọc nguyên tất cả câu ấy. Bây giờ chỉ dặn miệng.
Tôi đọc oang oang như lời mình viết, tai nghe cũng thấy oai. Tôi đọc xong, phó trưởng ban Đại hai tay giơ cao trước đám mít tinh cái thùng phiếu bọc giấy đỏ lại mở toang nắp, lật ngược lên, quay ra bốn phía để ai nấy chứng kiến cái hòm trong rỗng không có gì, không mờ ám gì cả.
Mười giờ, các tổ đi bầu đương đông. Trong các bàn, chỗ nào cũng tíu tít, có người đi bầu hộ cả nhà. Vẫn được ghi, vẫn bỏ phiếu vào hòm như thường. Có việc vội mới phải nhờ, người nhờ bầu cũng là hàng phố, xóm giềng thông cảm, biết nhau hết. Mấy phiếu người cao tuổi, có cả mẹ tôi, cụ yếu chân, lại không biết chữ, chốc nữa tổ công tác đưa hòm phiếu vào tận nhà, trưởng ban đi cùng, bảo vệ Dương bồng súng đi sau.
Quá một giờ, Mẫn phóng xe lên khu báo cáo cuộc bỏ phiếu khối tôi đã xong hoàn toàn lúc hai giờ bốn mươi phút. Nam nay sớm sủa, chắc ăn bằng khen rồi.
Còi ủ năm giờ, các nơi đều xong xuôi. Cái hòm phiếu được Đại dán giấy, niêm phong lại. Tôi viết lên tờ giấy, dán cạnh chỗ niêm phong: Hòm phiếu khối... bầu cử hội đồng nhân dân khoá... ngày... Theo chương trình, lúc ấy mít tinh bế mạc kết thúc cuộc bỏ phiếu thắng lợi Nhưng gọi loa các ngõ, chẳng mấy người ra mừng nữa. Chỉ có trẻ con đã nhảy rỡn à à. Tôi bảo ông Đại vác hòm phiếu, một bên vai khoác khẩu súng, đem vào trụ sở. Hai ban và đại biểu các giới bấy giờ mới ra đi theo, như đám rước. Hòm phiếu được đặt ngay ngắn lên- mặt bàn. Khi mọi người đã ra về, Đại cầm chìa khoá ra khoá trái cửa rồi bê hòm phiếu vào cuối phòng.
Chúng tôi bóc miếng giấy dán niêm phong, đổ cả thùng phiếu ra mặt bàn. Hai chúng tôi mở từng cái phiếu rồi lại bỏ vào thùng. Cả phiếu không gạch tên- phiếu trắng, cũng bỏ lại vào. Chỉ để riêng ra cái phiếu nào viết vẽ nhảm nhi hay viết phản động. Những phiếu này gói lại, tự tay trưởng ban đem nộp lên khu. Trong những năm tôi làm việc, mấy lần bỏ phiếu thành pbố hay toàn quốc đều làm như thế, theo kế hoạch mật của khu. Chưa lần nào tôi thấy có phiếu viết phản động, chính trị. Chỉ có vài phiếu để trắng. Phiếu vò lại rồi nhét vào hòm. Có phiếu vẽ nguệch ngoạc cái thẹo.
Các đội viên dân phòng đeo băng đỏ đã ra đứng gác trước trụ sở, trong có để hòm phiếu, cho đến lúc đưa hòm phiếu lên khu. Tôi về tắm, rồi đóng bộ đại cán xi măng xám, như Đại, như Dương, chỉ Mẫn vẫn quần áo bộ đội xác xơ thường ngày. Đại ghếch xe đạp, tôi ôm hòm phiếu ngồi sau xe. Dương và Mẫn hai xe đạp theo sau, mỗi người trên lưng khoác khẩu mút cơ tông của khu đội cho mượn. Đoàn cán bộ khối chúng tôi rước hòm phiếu lên khu.
Trời đã tối, trong ánh đèn đường nhấp nhánh người vào nhộn nhịp cũng thấy được vẻ ngày hội khác thường.
Bàn giao hòm phiếu, cầm tờ biên lai có đóng dấu ủy ban rồi sang nhận một chai rượu quít, hai bao thuốc lá Tam Đảo, quà của khu cho. Nhiều khối lúc ấy cũng đương lên. Có người ngồi đèo xe đạp như tôi, có người đi xích lô, hai tay bưng hòm phiếu bọc giấy đỏ, như cái quả đám ăn hỏi. Khối nào cũng có tay súng bảo vệ hòm phiếu.
Tôi bảo:
- Ta hoàn toàn thắng lợi rồi. Các cậu có uống rượu không?
Không ai trả lời. Tôi lại nói:
- Các cậu khéo vờ, sắp nói “không” đấy. Thắng lợi rồi, tôi thết các cậu chầu rượu.
Dương cười:
- Anh đoán sai. Tôi uống được chớ!
Tôi với ba vị chức việc khối phố vào quán rượu xế nhà thương Đau Mắt. Không phải lão 63 đặc sản ngầu pín, mà quán này có đậu nghệ nướng chấm muối, ông Be cắt tóc mách, tôi đã vào vài lần.
Dương và Mẫn dựng hai khẩu súng vào tường. Bà chủ quán đỏ đắn, béo tròn, mau miệng hỏi:
- Các ông đi giải tù về hả?
- ơ cái bà này lạc hậu! Súng danh dự gác hòm phiếu. Hôm nay ngày gì, không biết a?
- à à. ấy chết... tôi quên... Mà ai thuộc đâu được việc quan của các ông.
Phó Đại bảo tôi:
- Súng cho oai thôi, không có đạn. Tôi đã làm bầu cử, tôi biết.
Tôi hỏi:
- Thật á?
Dương đứng dậy, cầm một khẩu, kéo cò lách cách.
Tôi xua tay:
- Thôi đi ông!
Bà chủ quán quát to tướng:
Có ngươi nằm trên gác xép đấy. Đạn xuyên lên thì có mà vào nhà đá cả nút.
Nhưng đúng là không khẩu súng nào có đạn, như súng của trẻ con chơi. Tự dưng tôi thấy yên tâm hơn.
Chiếc đậu mát lạnh, phảng phất mùi khét, mùì nghệ quen thuộc từ thuở bé đã theo mẹ đi chợ Bưởi ăn đậu nướng. Bây giờ thì uống rượu giải nhiệt với đậu nướng, một ngày lôm lam cật lực.
Tôi ốm, có lẽ chuyến bầu cử thức khuya nhiều mà thói quen tôi hay ngủ sớm. Bệnh áp huyết tôi mắc từ năm trước, khi đang học trường Nguyễn ái Quốc. Thời gian đầu, thần kinh tim rồi áp huyết thấp, ít lâu sau hết các bệnh ấy thì đến áp huyết cao và bệnh lâu năm thành mãn tính. Mỗi lần bị choáng váng, đi khám, chẳng mấy khi không bị giữ lại. Đến lúc đã ổn định lại lên nhà điều dưỡng trên Quảng Bá. Tôi đi bệnh viện, rồi bệnh lại khỏi, tôi cũng thấy như việc phải tới, như thời gian qua.
Một lần kia, tôi có việc đi Cao Bằng với bác sĩ Phạm Khuê. Tôi hỏi Khuê:
- Tôi bệnh mà lại bia rượu, ông thấy sao?
Chỉ cấm không được nghiện nhưng cũng không nên kiêng.
Tôi thích thú người thày thuốc lão luyện nghề và đời đã nói như sấm truyền. Một câu có thể bàn ra cả một quyển sách.
Lần này, ở bệnh viện rạ, tôi lên nhà điều dưỡng trên hồ Tây. Vẫn còn phảng phất hãi cái chuyện mộng du - mộng du thật, mộng du không đẹp và và sầu não như người đàn bà mộng du nhân vật trong truyện Nguyễn Minh Châu - mà đây là một cụ mộng du.
Cụ Lý đã ngoài bảy mươi. Cụ nằm cùng khoa với tôi. Cụ gày làng nhàng kinh niên và mặt buồn hiu hiu kinh niên. Cụ là nhân sĩ trí thức. Thuở xưa làm tri huyện, bây giờ hoạt động đoàn thể trong mặt trận.
Tôi quen cụ vì công tác ấy. Giữa trưa, trong các buồng, người thức người ngủ, lặng lẽ. Một cô y tá lướt qua cửa. Tôi hỏi:
- Cái gì mà đi vội thế?
Cô ấy trỏ tay ra cửa sổ sau phòng, miệng suỵt suỵt khẽ:
- Ông Lý đương trèo tường. Bác sĩ bảo im hết, im hết, chẳng có...
Tôi ra cúi nhìn xuống thấy một cảnh hết sức kỳ quái. Cụ Lý đương lòng khòng bíu cái ống máng, hai chân run run, lúc quắp quắp, lúc quờ quạng vào cái đai sắt ống máng. Cụ đương tụt xuống tầng nhà dưói.
Trông mà rùng mình. Tôi quay đi, xuống cái ghế đá trong sân. Vẫn cứ thon thót sau lưng... này ngã... ngã... này ngã...
Bỗng cả nhà reo lên. Thì ra các buồng hầu như đều biết cụ Lý trèo ống máng, mà theo lệnh im hết, bấy giờ mới chạy cả xuống.
Cụ Lý không ngã. Cụ Lý ngồi giữa bãi cỏ, mặt tây ngây. Người ta xúm lại hỏi: Lúc leo tường, cụ có biết gì không?
Cụ Lý người nhợt nhạt, làc đầu, mặt vẫn hiu hiu.
Một người ra vẻ hiểu biết:
- Các bệnh thần kinh này, bấy giờ ai vô ý gọi to, cụ tỉnh ra thì cụ rơi vào thẳng nhà quàn kia rồi.
Lên nhà điều dưỡng, có nghĩa là bệnh đã lui, đi tẩm bổ ít ngày, thế mà còn cứ rợn cảnh cụ Lý trèo tường.
Nhà điều dưỡng Quảng Bá tiêu chuẩn hạng thường tem phiếu C mà ngày nào cũng tiêm thuốc bổ. Về sau và bây giờ bệnh viện bỏ lệ hàng ngày tiêm thuốc bổ. Khi đó y tá ném ống thuốc xoang xoảng và cơm thì bứa ba bốn món. Tôi có ông người làng công tác bên thương nghiệp, xưa ông đã làm chánh hội, ông cười to: “Bữa nào cũng ăn cỗ, chánh lý ngày trước cũng chẳng có đâu mà chén thế này". Các cô y tá kể chuyện có bệnh nhân một tháng, lên sáu cân. Hôm sau được ra viện thì nửa đêm ông lên cơn lăn lộn, đau đầu, nôn oẹ. Thày thuốc khám cấp cứu, tiêm một phát. Buổi sáng, khám lại, tiêm phát nữa, rồi cho xuất viện như đã định. Ông bệnh nhân nói: “Chân tôi còn run, đề nghị nằm thêm một tuần". Bác sĩ bảo. “Yên chí. Hai phát tiêm ấy chặn hết rồi. Trưa nay đồng chí sẽ ăn năm bát cơm cho mà xem". Bệnh nhân về rồi, các cô y tá đấm lưng nhau cười, nói vung lên: "Hai mũi B1 ấy mà".
Tổ phụ nữ khối phố lên thăm tôi. Các bà quở quang:
- Ông trưởng ban ở bệnh viện một tháng nữa thì về chị em chúng tôi không nhận ra.
Tôi chỉ biết cười trả lời. Câu nói đùa trong lúc ở ngoài đương trăm thứ khó khăn, chỉ có khu Ba Đình, khu Hoàn Kiếm là bộ mặt trung tâm thành phố, tem phiếu được đong gạo đôi khi mới kèm bột mì. Các khu khác, bo bo và sắn, bột mì Liên Xô đem nặn làm bánh luộc, bánh rán nhá cả tuần.
Dương đưa cho một nắm giấy tờ đọng lại từ hôm tôi đi bệnh viện. Cái cách cầm giấy mọt nắm, khiến tôi đoán có khi Dương chưa cắp sách đi học bao giờ.
Mọi thử đều nhét túi quần, giấy nhầu như mớ bạc lẻ của các bà các cô đi chợ về vo viên để khắp nơi.
- Có mấy giấy gọi nghĩa vụ quân sự, anh xem.
- Tôi đã bảo anh đừng đút công văn vào túi quần.
Tôi đã đưa anh cái cặp, sao không kẹp vào đấy.
Dương cười thật thà: “Tôi quên mất".
Thế là đợt này có năm giấy nghĩa vụ, ba người mới và hai người đợt trước đọng lại. Mỗi lần cầm giấy gọi nghĩa vụ, lại lo lắng thế nào cho đi được đủ. Sao có thể lên đường, những hô hào, những kêu gọi, những luật- lệ qui định, những đua anh đua em và tuổi trẻ ra đi, không biết thế nào. Máy bay Mỹ đã bắn xuống vùng ngoại thành mấy lần, có hôm thành phố báo động cả buổi. Dọc đường 5 xuống cầu Phú Lương, đường 1 ra cầu Giẽ, tiếng bom rền rĩ.
Các cơ quan đã lo các nơi sơ tán. Những cơ quan nặng đã đi rồi. Nhưng phố xá vẫn đông, tưởng như càng đông hơn mọi khi. Đã thêm nhiều lớp hầm nổi bên các ngã tư, ngã năm, lại đặt vào hố cá nhân những vành hầm, nắp hầm trát xi măng trộn sỏi cát, xỉ than.
Khu vườn nhãn cạnh nhà hát lớn thành phố từ lúc nào đã thành công trường phơi những giếng xi măng làm cốt hầm cá nhân. Những đợt gọi nghĩa vụ càng khít, không chỉ một năm hai vụ, mà mỗi qui một. Mỗi lần soát lại các sổ hộ khẩu, xem năm sinh thanh niên nam nữ đến tuổi thì báo cho nhà trường, cho cơ quan, nhà máy và khu đội, các nơi này trả lời khớp thì lên danh sách. Khu đội chọn lựa, đối chiếu tiêu chuẩn rồi chuyển lên uỷ ban phát giấy gọi nhập ngũ. ở nhà, ở khối liên hoan mặn và tiệc trà tiễn như mai đã lên đường nhưng mới chỉ là đến nơi khám sức khoẻ.
Nghĩa vụ không gọi phụ nữ, nhưng cũng xét những đơn tình nguyện. Đợt nào cũng có, lần này ba người.
It lâu sau, gặp hai cô bộ đội, mũ cát sao vàng, quần áo binh nhất, đi tới giơ tay ngang thái dương, nhoẻn cười: “Chào bác, bác có nhớ chúng cháu không? Tháng trước chúng cháu tình nguyện tòng quân âý mà".
- à bây giờ các đồng chí đóng ở đâu? – Chúng cháu về hậu cần...
Hai cô bộ đội trẻ, đi khỏi còn vẳng lại tiếng cười rúc rích. Có lẽ các cô cười cái tiếng “các đồng chí” nghiêm túc của tôi.
Tôi nhận được thư chúc Tết của các chiến sĩ mà tôi chẳng nhớ mặt ai. Có người ở chiến trường, có người được đi học chuyên môn, đi nước ngoài. Các thế hệ nhớn nhao nối tiếp, tưởng như ở một làng quần tụ đời đời có trên dưới ngôi thứ, có gốc rễ, có qua đình ghé nón trông đình... Các cụ ta ở quê ra Kẻ Chợ lập nghiệp đều xây đền miếu thờ vọng thành hoàng ngày trước đã vun xới ý nghĩa sâu xa, tinh thần khu phố thì cũng khác nào làng xóm.
Ba trường hợp mới không biết thế nào, nhưng hai tồn đọng thì cũng lôi thôi. Một trường hợp đã tránh mấy đợt không phải là mới gọi. Cậu này ở nhà phụ việc xén dép lốp. Nhận giấy báo gọi, người bố sốt sắng: “Cháu nó về quê mấy hôm. Vâng, chúng tôi nhắn cháu ra...
- Hai bác đừng để quá mang tiếng khối ta.
- Vâng, vâng... chúng tôi...
Cách một hôm, lại tới. Bác chủ nhà mời uống nước.
- Cháu biết tin rồi, cháu đã hẹn ra...
- Cuối tuần này đã tập trung...
- Vâng ạ. Cháu ra kịp...
Một hôm, Dương bảo tôi:
- Đã trông thấy thằng con nhà ấy rồi.
- Anh vào nhà nó à?
- Tôi trông thấy, báo anh ngay. Công tác tòng quân, trưởng ban nắm mà. Tối nay anh đến luôn, được không?
Dương đi cùng tôi. Chúng tôi uống nước, trong khi bác chủ nhà gọi lên gác:
- ấy ơi xuống bố bảo.
Một thanh niên trắng trẻo, hiền lành từ thang gác xép tụt xuống.
- Con chào hai bác chưa? Hai bác đến báo tin con đi nghĩa vụ đợt này. Qui hoá lắm.
Tôi lạ về cách nói niềm nở quá mức, không phải chỗ. Mà cũng không phải tôi mới chỉ đến đợt này và nhà này. Cả bốn nhà kia đều vui vẻ, tôi tin một cách mê tín chắc là ảnh hưởng dây chuyền tới đây. Không hiểu đối đáp thế nào cho hợp, tôi nói:
- Thứ sáu này, tôi đến đi đưa cháu ra tập trung nhé
Cả năm thanh niên khối đều đi đúng hẹn. Tôi ra tiễn tận bến xe tải đỗ trong sân trường học, hàng trăm thanh niên ở các khối phố khác ríu rít như đi cắm trại. Không ai khóc. Có lẽ những người mau nước mắt đã ở nhà, không đến đây. Nghe nói vào doanh trại luyện tập ở Miễu Môn giáp rừng Hoà Bình.
- Tôi đương đi trên Bờ Hồ. Một anh bộ đội bước nhanh nhanh tới, giơ tay chào. Tôi ngờ ngợ rồi nhận ra cái anh nhà làm dép lốp, dạo nọ tôi đã đến hôm sắp đi nghĩa vụ.
- Cháu chào bác.
- Cháu đóng gần đây à?
- Vâng, cháu được về thành đội.
- Thành đội ở chỗ kia hả?
- Không, cơ quan cháu ở xa. Đơn vị cháu sắp đi B.
Về thành đội lại sắp đi B, cậu ấy giấu đầu hở đuôi.
Vào lính mà ở cơ quan như thế người ta riễu cợt là “lính kiểng". ở đây cũng có lính kiểng, có cậu tối về nhà ngủ. Phải rồi, có thế nào nhà nó mới bỗng dưng thoải mái. Tôi đã ngờ ngợ. Việc cậu này “đi lính” ở nhà có người xì xào lão Dương ăn tiền. Nhà này có thể lo lót có chỗ, nhưng chắc chắn không phải Dương. Dương chỉ cò con ăn quẩn loanh quanh, chẳng ai đút lót đâu đến Dương. Có chăng, lúc con cái nhà họ đã trúng được ở gần, hôm nào đấy, Dương đến doạ khéo, có thể cung ra vài đồng. Dương đi lẩn thẩn các phố. Có khi trước cửa trường học, đứng bóc củ khoai luộc. Chị bán khoai vừa lót tay một củ khoai còn nóng. Tôi đi tránh sang hè phố bên này.
Đột nhiên gay go, buổi chiều, máy bay Mỹ bắn rải rác lung tung nhiều nơi trong thành phố. Bom bi rắc xuống cây đa cạnh đền Bà Kiệu, giắt khe rễ, tróc một mảng vỏ. Mái nhà và bóng cây cơm nguội nắng nhạt loang lổ tưởng như mọi khi. Nhưng khác. Sau cơn bom bắn, thành phố không vắng mà lặng lẽ hơn, mảnh nắng lao xao lặng lẽ vỡ ra trên mặt hồ và đầu đường. ở một vòi nước công cộng ngay trên phố, một loạt đạn đã xả xuống mấy người đương nhặt rau vo gạo làm cơm chiều. Mấy hôm không ai dám ra lấy nước, vòi nước vẫn mở, nước xối xả lênh láng suốt đêm.
Các hầm nổi lại được hối hả xây thêm. Đầu ngõ Khâm Thiên, các ngã tư phố Huế, quanh Bờ Hồ. Tưởng như làm thế cho người đi đường chỗ nào cũng có hố nấp, nơi nấp. Chao ôi, Hà Nội. Những cái hầm thế này, hơn ba mươi năm trước quanh chợ Đồng Xuân, chợ hàng Da... Cũng máy bay Mỹ - cái máy bay hai thân, bấy giờ là máy bay Đồng Minh đến đánh phát xít Nhật và Pháp Pê Tanh. Bây giờ có chỗ vẫn còn những hầm trú ẩn ấy, như cái gò cỏ nổi góc chữ nhật
Giữa vườn hoa bên hồ cạnh nhà bưu điện và trụ sở uỷ ban thành phố. Hầm của người Pháp, khi báo động máy bay, công chức Tây bên nhà dây thép và toà thị chính chạy ra, chui xuống.
Cả tổ vệ sinh cũng lên khu tập cứu thưong. Điểm danh mấy hôm, chỉ mấy chị trung niên nội trợ ở nhà hay chạy chợ vẫn chăm đi họp. Việc và người công tác ở phố bao giờ cũng đông và vắng chập chờn. Thanh niên đi học, người đi làm, theo thống kê hộ khẩu thì số người này ở phố nhiều nhất nhưng họ chỉ trách nhiệm với cơ quan và nhà trường, nhà máy đơn vị chẳng biết ở đường phố thế nào. Người thất nghiệp thì ngổn ngang không biết đâu là phố xá. Thanh niên cũng khó, cậu nào cô nào chưa có việc làm mà có tinh thần thì ra phụ trách thiếu nhi tập thể dục vui chơi dịp hè, dạy bình dân. Nhưng cũng nhấp nhem, lập loè như đom đóm. Thành thử mọi công tác, quen mặt nhất vẫn chỉ có các cụ các ông về hưu, các bà các chị ở nhà.

Chương XIV

Chi bộ đảng viên đường phố gồm các thầy cô giáo ở trường và công an trong địa phận với công chức hưu. Cũng lèo tèo vài người, không đại diện cho mọi tầng lớp người ở trong phố. Tôi chỉ họp chi bộ có một lần, cái lần đầu tiên Khang dẫn tôi đến. Rồi không bao giờ biết chi bộ ở đâu, có những aì. Bởi vì cả cái tổ chức ban đại biểu, ban bảo vệ khối, mặc dầu phụ trách sáu tổ dân phố, nhưng chưa hẳn là chính quyền, cũng không phải đoàn thể. Chỉ là tự nguyện và ngẫu hứng nhưng lại cáng đáng những công việc thiết thực liên quan sau cùng đến mỗi công dân. Hơn mười năm qua, từ khi tiếp quản đến bây giờ vẫn thế.
Những việc thật quyết liệt: sơ tán triệt để đối phó máy bay Mỹ có thể đánh mạnh. Thế mà tôi sơ tán cũng được, không cũng được. Nhưng lại cứ phải có mặt vì không làm thì không có ai khác. May, tổ len dạo này đói việc, thế là kéo cả lên học cứu thương.
Rồi cô Nghệ và mấy bà đi lĩnh đồ cứu thương về.
Bên dân phòng hỗ trợ lên khuân các thứ chất cồng kềnh một xích lô đem chia ra gửi các nhà. Bốn băng ca cáng thương, những bó nẹp, những cuộn bông băng, cả chục túi cứu thương..., các thứ mới nguyên nhãn hiệu Hungari, Balan, Tiệp Khắc...
Học trên khu, về tối lại tập. Tổ vệ sinh tập cáng thương, băng bó. Một cậu giả bị thương nằm trên cáng, cười hô hố. Hai cô khiêng bực mình buông phịch cái cáng xuống. Đội dân phòng lại đem đồ nghề ra luyện chữa cháy. Không có hội thi, tập ngay ở ngã tư đầu phố. Tô nô nước, vòi bắc lên bơm phụt phụt. Mẫn trèo thang buộc hai vành xe đạp vào nấc mười lăm, nấc mười tám thước. Lần nào nước bơm cũng phọt trúng vòng, có khi cao hơn. Tiếng reo ầm ầm, hay, hay quá. Chuyến này trên mà mở hội thi, khối ta ăn đứt! Cứu hoả, cứu thương, có đêm trong tiếng còi báo động, tai nạn thật sự đến nơi. Chuyện khẩn trương mà như trò đùa. Bốn cái cáng lại đặt một dãy.
Người giả bị thương nằm thẳng cẳng dưới đường. Chị cứu thương đeo túi đàng hoàng, lấy bông băng buộc bó garô cánh tay, ống chân xong rồi xốc lên cáng, hái người cáng đi. Người nằm cáng kêu ối giời ôi đau quá, sướng quá, lại cười hà hà. Y tế khu về quan sát, cho điểm. Lúc đọc lên, cáng nào đạt tiêu chuẩn động tác nhanh gọn, chính xác, được phần thưởng tràng vỗ tay đốp đốp hoan hô.
Chúng tôi phân công ban chỉ huy tác chiến khi có bom bắn, dù ban ngày hay ban đêm. Dương phụ trách cứu thương. Mẫn thì cứu hoả và tuần tra. Sắm thêm cả chục chiếc băng đỏ. Tôi và Đại trưởng phó ban đại biểu đôn đốc chung.
Cứ nghĩ ra việc mà cắt đặt như thế.
Cơ quan tôi dạo nọ sơ tán sang Quế Võ bên kia sông, sau trở lại Phủ Quốc, rồi về gần chùa Hương.
Vợ tôi làm ở cửa hàng thuốc cuối phố Khâm Thiên, luân phiên trực chiến thông tầm. Đến chủ nhật, đạp xe cả đêm mấy chục cây số vào bến Đục, đèo gạo, nước mắm, mỡ, dầu hoả, xà phòng. Các con lớn thì Phúc công nhân cơ điện đi bộ đội vào chiến trường Bình Trị Thiên. Đan Hà theo trường dược sơ tán đi Mai Siu Biển Động bên Đông Bắc. Đan Thanh sang học nghề ở Lêningrat. Mẹ tôi và ba con nhỏ của chúng tôi theo cơ quan, chúng nó đi học trường làng. Tôi ở thành phố về hàng tuần một. Hồi ấy đến phiên tôi làm tạp chí Tác Phẩm Mới, bài vở và việc nhà in phải đi lại luôn, khi ở phố khi sang nhà in bên kia sông.
Nhiều lần một mình trở ra thành phố. Không mua ngoài được cái gì ăn. Có phiếu nhưng cửa hàng chất đốt chưa có dầu hoả. Mà có cũng còn để nhà tôi đèo về nơi sơ tán cho bà cháu đun nấu. Thỉnh thoảng, tôi thổi cơm bằng giấy báo, giấy vụn. Có hôm ba giờ sáng, tôi đã đi mua mỡ cửa hàng thịt phố Tôn Đản mà người xúm xít đã vòng trong vòng ngoài.
Lại còn không thể thiếu sắp hàng bia... Dạo này người đường phố nạp bia rượu tợn, không còn tập uống bia pha sirô, cũng không cốc, mà vại, tay cầm vại bia làm một hơi mới đã và có hôm đôi ba vại thay cơm cũng thường. Đêm có báo động nghe tiếng bom thì ngồi dậy, đeo cái băng lên cánh tay, vào quán Gió trong công viên làm một hai vại cho tỉnh ngủ rồi mới lại ra đường. Vẫn còn báo động mà thấy người đi lướn phướn thì hơi bia của tôi quát: Chết cả bây giờ Xuống hầm! Xuống hầm!
Cái đêm máy bay biệt kích Mỹ nhảy dù đánh úp trại giam tù binh Mỹ ở sông Tích ngoại ô Sơn Tây, tôi đương công tác bên Li Băng. ở Saiđa lên thủ đô Bây Rút, thành phố ven Địa Trung Hải, buổi sáng xuống quầy khách sạn mua báo. Tờ Thế Giới ở Pari đăng đầu đề tin trang nhất: “Trận bất ngờ tập kích Sơn Tây ban đêm. Nhưng không kết quả". Trại tù bỏ không, tù binh phi công Mỹ đã chuyển đi từ lâu. Một máy bay lên thẳng của Mỹ gãy cánh quạt phải bỏ lại. Chúng nó lấy đi một cái vại và một con bò - có lẽ để kỷ niệm thành tích thật đã đến chỗ ấy..
Một cái tin ngắn, đọc cứ tưởng cả Sơn Tây, Hà Nội đương còn rung chuyển. Hàng đàn máy bay Mỹ đêm tối chui vào tận núi Ba Vì sâu như thế, trận đánh hiểm hóc, ác liệt như thế. Đến hôm trở lại Hà Nội, sân bay Gia Lâm vẫn vắng tanh như mọi khi. Chiếc máy bay IL 18 xuống, người đẩy cái thang, người ra đứng hai tay giơ hai mảnh cái quạt gỗ sơn trắng làm hiệu cho máy bay lăn vào chỗ đậu. Những ông này vừa ở trong phòng ra đường băng làm việc, sau lưng trên bàn nước còn cái bàn cờ quân gô và chiếc điếu cày dựng bên chân bàn.
Mấy anh dân phòng và Đại với Dương, Mẫn đến chơi. Họ kể cái tối Mỹ nhảy dù Sơn Tây ở Hà Nội có báo động, nghe máy bay ầm ì xa xa và vài đợt cao xạ rồi im suốt đêm. Sáng hôm sau đọc báo mới biết đêm qua thằng Mỹ nhảy dù trộm xuống Sơn Tây rồi lại cút ngay.
Lệnh trên xuống, diết dóng yêu cầu đi tuần đêm. Hà Nội lại thúc sơ tán. Người già, con trẻ cứ đi ít lâu, thấy yên yên lại về, nay lại rục rịch đi. Ngoài đường, xe ba gác, xe xích lô chở người qua câu Long Biên.
Không ai tản cư lên phía Sơn Tây. Lần này lại lục lại danh sách những nhà, những người có vấn đề. Lung tung quá, mọi người đã đi sơ tán hay đi đâu cả, ai biết được, biết đằng nào mà lần. Những mụ buôn lậu. Cũng chẳng có gì biết thêm nữa, không phải thuốc phiện hay buôn vàng mà là mấy bà chạy chợ tem phiếu, bánh mì, buôn gà... Mấy người pạc ti dăng, đội xếp cũ, xếp bốt dân vệ bỏ làng ra phố, có người thấy quyển sổ bảo vệ ghi từ đời nào là chỉ điểm, là tâm lý chiến, công chức Pháp, là nhạc vàng... Hầu hết những ông bà này đều đã ở dân phòng, ban vệ sinh và cũng gia đình năm tốt, vẫn đi họp mọi khi.
Thì cũng phải nắm lại.
Giữa trưa, vừa nổi còi báo động, lập tức nhoàng nhoàng tiếng bom, tiếng cao xạ dội vào các góc tường, đinh tai. Người hớt hải chạy đằng đầu phố lại: “Sứ quán Pháp ăn bom chết hết rồi". Cơ quan hội Văn nghệ ở láng giềng sứ quán Pháp. Bom rơi vào trong sứ quán, xung quanh tường vẫn nguyên, nhiều người còn đương chạy ra. Những ngày căng thẳng, ngưòì ở lại thành phố hay tránh quanh quẩn. Nhà gần cầu Long Biên thì xuống phố Huế, chiều mới về. Đến hôm giữa phố Huế bị giội bom lại nhảo lên. Bây giờ thì kéo đến ngồi ngoài tường các sứ quán, nhiều người đi đạo thì vào núp trong vườn nhà thờ hàng Trống. Thấy nói nước ý theo đạo Tin Lành không đi đạo Thiên Chúa, Mỹ đã choảng bom đổ cả nhà thờ dưới Phát Diệm, lại phân vân. Mỹ ném bom đến sứ quán Pháp, núp bờ tường quán nước ngoài cũng không yên rồi.
Nhốn nháo bấn lên. Thúc thêm được một số người lớn trẻ con đi sơ tán. Mấy cụ phụ lão trong phố ra ngoại ô. Cô Nghệ không đi. Cụ Thắng thì nhất định không đi rồi, ai hỏi cụ lắc đầu, trỏ ngón tay vào tai.
Cụ bảo cụ điếc không nghe tiếng bom hay ai nói gì cụ không hiểu. Đội dân phòng vẫn nguyên vị, mấy tay thủ công phất quạt giấy vót nan tre sửa soạn sang năm làm đèn tháng tám thì chẳng đi đâu. Hai ông xích lô xung phong tải thương, nhờ các ông này mà đội dân phòng, đội cứu thương không hụt người. Có hai người theo nhà máy, nhưng nhà máy chia rời bộ phận cũng chỉ ở dưới bãi bên kia sông, tối không làm ca lại về nhà. Trẻ nhỏ mỗi nhà cũng như nhà tôi, phải đi một nơi theo trường học, còn người lớn thì ai cũng thế, người đi làm, người chạy chợ, mọi người mọi nghề, không mỗi chốc xa phố xá được. Chúng tôi vẫn gần đủ quân số cắt lượt đêm tuần. Có thế vào mùa đông 1972, máy bay B52 ném bom giải thảm vùng Khâm Thiên mới có lực xuống khối bạn cứu sập, tải thương...
Hôm ấy máy bay bắn tên lửa giữa trưa đổ tầng chính toà nhà đại sứ quán Pháp. Ông tổng đại diện P. Susini bị thương nặng. Cô bồ của ông, Aléa El Hakim, người Ai Cập thì chết ngay lúc ấy. Con trai ông từ Pari bay sang, đưa bố về. Giữa đường, ông ta chết.
Có người chép miệng: “Lão này quan to mà số ăn mày, chết đường. Giá ở đây vào Xanh Pôn, Phủ Doãn có khi lại không tỏi. Nó chê thày ta, thuốc ta cơ". Cô Đàng hỏi tôi: “Có phải cái ông Tây đại sứ tối hôm ấy đến họp bầu cử ở phố ta? Tôi nói: “Hình như lão ấy đấy".
Máy bay quần ám suốt ngày. Bảnh mắt đã còi rú.
Rồi liên miên, chốc lại... alô, máy bay địch bay xa... đã bay xa... Loa phóng thanh to bằng cáì thúng úp treo trong cành cây khắp nơi công cộng, các loa hộp đài Hà Nội mắc ở mỗi nhà cũng dóng dả luôn đến đỗi rồi câu báo động lặn lẫn cả vào trong câu người mẹ chín đứa con ham chơi: cha đẻ mẹ mày, cứ suốt ngày đi xa về gần, bà mà tóm cổ được mày...
Mọi việc trong phố bận rộn chằng chịt không bao giờ một bề. Chợ đổi vai đêm ra họp ra tận Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, chợ Mơ, càng vất người kiếm ăn bám vào mớ rau, bó hành. Thế mà cách ngày lại tập cứu hoả, tập cứu thương. Kinh nghiệm bom phố Huế được khu phổ biến các khối tập thêm cửu sập, moi đất, trên phát cho cả chục cái xà beng.
Cụ Thắng điếc có sáng kiến, hỏi:
- Lúc đáo sự khó nhọc lắm, phải có người đem nước uống, tìm đâu ra chè tươi nhỉ, không có thì chết khát.
Một người nói trêu:
- Trên trời thì bom nện, dưới đất thì người chết, lòng dạ nào mà ngồi uống nước được. Thôi thế bây giờ chúng tôi phân công cụ nấu nước nhé.
Cụ Thắng hỏi lại: “Ông ấy nói gì thế?” Không dịch câu nói đùa cho cụ điếc nghe. Cụ Thắng lại nói với tôi:
- Tôi có việc báo cáo tiếp với anh.
Tôi lại đoán chừng việc gì. Tôi ghé tai cụ Thắng:
- Hồi này căng lắm, cụ về sơ tán với các cháu.
Cụ Thắng không nghe thủng câu tôi nói hay cụ không muốn ai bảo cụ sơ tán, cụ chống gậy, đủng đỉnh ra. Sơ tán gấp, sơ tán triệt để. Các cơ quan bàn giấy và các cửa hàng nhà mậu vắng hẳn. Đóng cửa các hàng mậu đi thôi, cho đỡ đứng đám xếp hàng rồng rắn, muốn đuổi theo đâu bán phiếu lít nước mắm, lạng mỡ, cân bột thì tìm ra ngoài kia. Nhưng cũng chỉ lơ thơ mươi hôm rồi người lại lác đác thập thò, chỉ có các trường thì vắng lặng hẳn. Biết bao người sinh sống ở thành phố không thể dứt đi được. Cụ Thắng đã tám mươi tuổi, lại điếc lác, chỉ còn lấy việc khu phố làm vui, các cháu đã thuê cả chuyến xích lô rước cụ đi. Cụ dửng dưng. Cụ cũng không biết hãi máy bay như tôi, vâng, cụ ung dung. Vài hôm, lại thấy cụ Thắng chống gậy lò dò đến.
- Báo cáo anh, tôi mới ra. Có việc thì phân công cho tôi.
Cụ Thắng thong thả ngồi xuống, lấy cái máy nghe đeo lên tai. Tôi đã đoán chuyện cụ sắp nói mà tôi biết khi nào cụ cũng ý tứ, chỉ lúc có một mình cụ với tôi.
Tôi nói trước công việc:
- Lớp bình dân phải nghỉ hẳn. Mà cũng không được phép tụ tập quá năm ngưòi. Chỉ bên tổ phục vụ còn nhúc nhắc cơm nồi nước sôi nhưng công tác này không hợp với cụ. Để tôi lên tiểu khu hỏi năm nay tem phiếu thế nào, nếu làm sớm tránh báo động thì nhờ cụ như mọi năm, chưa có thì mòt cụ lại về sơ tán, bắt buộc đấy, cho được an toàn. Khi nào có thì tôi cho nhắn.
Việc gì tôi cũng làm được.
Cái máy nghe hình như cũng chỉ giúp cụ câu được câu chăng. Cụ nhắc tôi:
Anh xem cái vệ sinh thế nâo, bây giờ sang mùa thu rồi chậm mất thuốc muỗi, nhưng còn cái bả chuột.
Thế là năm nay không phun thuốc muỗi như mọi khi Cái cô Nghệ cũng đoảng, tôi cứ phải giục cô ấy mới nhớ.
Tôi im lặng một lúc lâu, không đáp chuyện cụ. Nhưng cụ Thắng chưa về, cái máy nghe vẫn áp bên tai.
Cụ Thắng nói: Đồng chí là người trí thức, tôi rất quí. Tôi hoạt động Thanh niên Cách mệnh Đồng chi hội, tôi ở Thanh niên rồi sang cộng sản. Đồng chí biết Trương Văn Lệnh không?
Tôi có gặp Trương Văn Lệnh một lần. Sau khỏi nghĩa độ một hai tháng. Tôi làm phóng viên báo Cứu quốc. Hôm ấy có một cuộc họp ở Bắc Bộ phủ. Xuân Thuỷ, chủ nhiệm báo Cứu Quốc cho tôi biết một người to lớn bận đồ kaki kiểu áo Tôn Trung Sơn là Trương Văn Lệnh mới ở hải ngoại về. Tôi chỉ biết có thế. Tôi cũng chưa biết gì về đời hoạt động ngày trước của cụ Thắng. Việc khối phố hàng ngày có thế thôi, tôi cũng không muốn hỏi. Nhưng có thể đoán đại khái: cụ Thắng vào Thanh Niên với Trương Văn Lệnh rồi cụ bị bắt, đến khi được tha có thể là mất liên lạc, có thể là mất tinh thần, thực tế cũng là không hoạt động nữa. Và những uẩn khúc thế nào đó văn là một u uất cho tới giờ. Tôi tự chắp nối lại lý lịch cụ được đến vậy thôi.
Tôi cũng chưa khi nào trò chuyện hay hỏi han cụ về Trương Văn Lệnh, lúc ấy không hiểu sao, tôi lại nói:
- Tôi có biết ông Trương Văn Lệnh, người cao cao...
Cụ Thắng nhìn tôi, rồi thở dài:
- Phải, Trương Văn Lệnh chết rồi, chết đã lâu rồi.
Nhưng mà chuyện oan khuất của tôi thì không nói ra được. Mỗi khi nghĩ đến lại đau thắt ruột, không chợp được mắt. Khối đứa ngày trước là con chó, mà ngày nay...
- Chuyện cũ, bỏ đi, cụ ạ.
Nhưng nó sờ sờ trước mắt, nó chọc mắt trêu nguơi mình, có mù đi mới không trông thấy, mà không trông thấy cũng không quên được. Anh có biết thằng Thúc nghỉ hưu chuyên viên bảy trước cũng ra làm ban bảo vệ khối bên kia. Nó không phải Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học đâu, nó là phản động Quốc dân đảng. Hồi ở trong này, đáng nhẽ nó phải chết với Nhượng Tống ở chỗ chợ Hôm, nó cùng cánh thằng ấy mà, ban ám sát của ta lại chỉ khử có Nhượng Tống. Lý lịch nó khai láo thế nào hoá ra thành tích hoạt động nội thành...
Tôi không thể có điều gì hầu chuyện cụ Thắng được.
Cụ còn kể vô vàn những đầu lâu cuối lấu đâu đâu thế này thì tôi làm thế nào dứt ra. Vừa hay, ông Đại phụ trách “cơm nồi nước sôi” đến. Có người vào, cụ Thắng chống gậy, đứng dậy bắt tay tôi.
- Cơm nước ra sao đây ông?
- Ta bàn chuyện đóng cửa thôi.
Việc về kinh tế, tôi đã phân công cho Đại từ năm đầu. Cũng là cái cớ cho ông phó mộc có thể nhặt nhạnh thêm đồng ra đồng vào. Hôm trước đã tính nếu có bom đạn thì Hà Nội cũng vẫn còn người ở lại, ai cũng phải ăn phải uống thì vẫn duy trì, làm kinh tế, kế hoạch còn đương mở mang mà. Đã vận động mọi người tham gia công tác khối phố và ở cuộc họp dân phố kêu gọi mỗi người mỗi nhà đóng vài đồng hùn lại được một số tiền, như chơi họ, tổ phụ nữ đứng làm hợp tác xã có mục đích giúp bà con. Kế hoạch thành phố gọi là hợp tác xã mua bán đương vận động xây dựng khắp các nơi. Làm giỏi thì cũng như khiêng cả cái chợ về phố, cái gì cũng có, lại tự tay mình bán, tự tay mình mua. Và còn nghĩ rộng được nhiều sáng kiến, tổ phục vụ này cũng do nó mà ra. Tết nhất, các nhà đặt bánh, đưa bánh chưng gói sẵn, tổ hợp luộc bánh lấy công luộc, công củi. Lò than đỏ rực suốt ngày? nước sôi lúc nào cũng sẵn, nước phích, nước tắm gội bán phích, bán chậu. Cơm thì gạo các nhà vo đổ nước bỏ vào nồi, vào xoong đem ra đặt lên lò, hẹn giờ lấy.
Thức ăn, nồi cơm chỉ việc xách về, lại nhận tem phiếu mua hộ dầu, củi, đong gạo... Nàng dâu trăm họ, người khen trước mặt chửi sau lưng, người xói móc, nghi bớt xén. Nhưng mà vẫn gửi, vẫn “cám ơn”, vân “quí hoá quá", bởi thật cũng đỡ vất vả cho người ta. Đấy, đã được người tin, vốn hùn đã kha khá, mọi mặt đương trôi chảy.
Chúng tôi định sẽ lên một quán phở và bánh cuốn, phở bánh hẳn hoi không phải miến dong riềng. Sẵn lò than cả ngày, lại tráng bánh cuốn, cũng tiện một công. Tổ phục vụ này dựng lên được thế là tổ thứ 16, trong khu chỉ còn bốn khối chưa có. Làm quán phở đã. Dạo trước họp bàn khai trương Đại mời bà thương nghiệp, bà lương thực và công an khối. Họp xong, mỗi vị khách đã được mời chén một bát phở gà đầy có ngọn. Qui vị thưởng thức tự tay phó Đại trổ tài nấu nướng. Nhưng rồi ông Đại lại nói: “Múa võ thế thôi, chứ đến hôm làm phở thật thì miến dong riềng. Cái dong riềng hồi này trên Phùng quê tôi làm khá lắm, chẳng khác miến Tàu ngày xưa. Cốt cái nước thật béo. Bây giờ có bát phở, thịt gà thịt lợn ai cũng đều cân tất, thế đã hơn phở không người lái rồi”. Tôi gật gù khen tài giỏi ăn nói và con dao pha tưởng tượng của Đại. “Nhưng không đến nỗi thế, tôi đã rủ được một ông ở phố ta trước làm phở nhà mậu ở Quán Thánh mới về hưu. Ông ấy chuyên nấu nước phở rồi đứng chan, chan một giờ trung bình được một nghìn năm trăm bát, có nghề không- chiến sĩ thi đua chan phở mấy năm liền, ông ấy sẽ cộng tác với ta” Đại hào hứng bốc, thế mà bàn chuyện đóng cửa.
Tôi bảo Đại:
- Máy bay máy bò thì mặc kệ chúng nó, việc ai nấy làm, gì mà phải đóng cửa mở cửa, hết máu hăng rồi a?
Đại nói:
- Sơ tán loãng cả phố xá rồi. Bán hàng miếng sống mà ế một ngày thì thiu thối đi đứt vốn. Hai ngày vắng khách rồi, chạy ra chợ Hôm bán lại thịt ế lo bằng chết ông ạ. Cơm nồi nước sôi cũng chẳng còn mấy người gửi. Các bà nhà bếp ngồi giãi he cả buổi. Tính thế này thôi, xưa nay làm ta chỉ ghi thu chi vào sổ nháp, không kế toán thanh toán ra từng món, chuyến này xem lại sổ sách, rồi giữ lại nghe tình hình đã. Chẳng nhẽ thằng Mỹ cứ ở trên trời mà doạ nhau mãi a.
Tôi khoái những cái nghĩ về tổ phục vụ, hợp tác xã mua bán đương phấn chấn. Nhưng nghe Đại kể như thế tôi lại hình dung khác ra. Tôi đã trông thấy ông cháo gà Chữ cầm một túi những mảnh thịt gà ông Trí bán buổi trưa không hết về luộc lại làm cháo đêm. Phải, miếng hàng sống chỉ quá một buổi thì vứt đi, thì đóng cửa, thì mất khách. Chẳng biết bây giờ quán bánh tôm hồ Tây ngon lành thế nào, nhưng mấy năm trước, một sáng sớm, tôi chỉ nhá một miếng, biết ngay bánh ế hôm qua. Từ đấy, không đến cửa hàng này nữa. Thế là mọi tốt đẹp của tôi về tổ phục vụ lại hoá ra màu xám. Tôi nói theo đuôi Đại: Thế thì ông cho làm sổ sách đi. Tôi cũng chỉ biết nói vậy. Tôi đi qua chỗ đắp ụ than mọi khi lúc nào cũng rừng rực người ra vào người ngồi chơi, trước cửa một miếng ni lông đỏ giải ra, trên đặt lọ lạc rang, lọ ô mai hột mơ tẩm gừng và cái ấm giỏ chè chén- tiện lò than đấy, lúc nào cũng có nước sôi tới số, có cả chai nước trắng giấu trong kia. Đã hay mắt ra phết. ở trong làng cũng như ngoài chợ, chỗ nào dựng cái phên quán nước thì đấy có người đến, người ngồi tán gẫu.
Hôm nay đã vắng ngắt, trên cửa treo miếng cót ép đề chữ vôi trắng: Tạm đóng cửa, lệnh sơ tán. Tôi nhòm vào, một ông đeo kính trắng với ông Đại đương ngồi trước đống giấy má. Đấy là ông kế toán ông Đại thuê về tính sổ.
Hồi ấy, ở phố ở làng, các hợp tác xã mua bán mọc nhua nhúa. Nhà mậu cung cấp vật chất cho mọi nhà, cô đơn là lạc hậu, phải vào hợp tác mới hợp thời và tiến lên được. Đủ các thứ, hợp tác thợ mũ, thợ khâu, đẽo guốc, cả những ông vá giày, ông cắt tóc cũng vào hợp tác. Vì có vào hợp tác mới mua được cái làm. Sống cá lẻ bây giờ chỉ còn anh bán đóm, chữa khoá, lão mài dao kéo, móc cống, bổ củi và các cô cầu Giẽ bán rượu chui cứ quảy bìu rượu đựng ni lông xám hệt bọc phân đạm. đương phong trào như thế không vào chỉ thiệt, giấy tờ có hợp tác xã, có chữ ký chủ nhiệm thì thươngnghiệp nhà mậu bán hàng cho. Vào hợp tác, ông đánh máy chữ thuê ngoài vỉa hè mới mua được giấy pơluya, giấy than, dầu lau máy, ông cắt tóc mới được thương nghiệp bán định kỳ khăn mặt, xà phòng, than đá đun nước sôi.
Nhiều nghề kiếm ăn lần hồi mà vào hợp tác như là những trò chơi. Tôi đã lâu năm cắt tóc hàng ông Be, tôi biết. Hiệu cắt tóc ông Be đúng kiểu hay ho một thời. Trước kia, ông Be chủ hiệu, ông đứng cắt tóc và thuê hai ghế thợ. Đến đận cải tạo tư sản Be ta cũng ba đao lắm. Làm chủ với hai người làm thuê thì đúng tẩy lên thang tư sản rồi. Ông chỉ còn phân trần ông đứng một ghế, ông cũng lao động. Thế thì ông cũng như phú nông. Phú nông ngồi cùng chiếu địa chủ, cũng ghê bỏ mẹ. Ông Be nhanh trí xoay làm ăn đời mới, coi như ông canh ty với hai anh vẫn làm thường ngày, lại gọi thêm hai anh cắt rong nữa, cả nhà có năm ghế. Thế là đóng sổ biên bản họp xã viên lên hợp tác xã, báo cáo thương nghiệp khu rồi treo cái bảng kẻ chữ sơn đỏ: “Hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến". Hợp tác xã có cách hoạt động riêng chỉ biết với nhau. ấy là khách vào ghế ai người ấy làm rồi người ấy bỏ tiền vào túi. Khách thích một người làm, tôi chỉ cắt ông Be, mấy người tôi cũng đợi Chẳng bởi cầu kỳ mai trắng mai xanh, mà chỉ mỗi lần cắt tóc xong tôi lại thành bạn rượu đậu nghệ nướng chấm muối với Be. Bây giờ ông Be chỉ là xã viên, ông nhường anh khác làm chủ nhiệm mà ông vẫn còn hãi. Đến kỳ mua các thứ đồ nghề, cái khăn mặt, miếng xà phòng... mua bao nhiêu, cái gì, mỗi người xỉa tiền ra, một người mang sổ của hợp tác đi lĩnh mua cung cấp.
Ba tháng hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến thuê một ông kế toán già về hưu đến lập sổ, dựng lên các cột chi thu mua bán, cột lãi, cột cứu tế, cột linh tính... kẻ ngang dọc vui mắt. Rồi đánh máy cái biên bản gọi là đại hội xã viên, mọi người ký tên, đem trình lên thương nghiệp đóng dấu đỏ chứng nhận. Không có ông kế toán ấy đến vẽ vời cho vài con số ma đúng qui lát thì không lên được khung đình đám hợp tác. Chắc chắn trên cũng biết nó làm hợp tác xá dởm, nhưng năm thằng bờm đầu thì đến đời nào mới thành triệu phú được, cho nên trên dưới đều giả vờ không biết thế là trò chơi và không ai bới ra.
Tôi nói với Đại cho phải phép: “Nhớ phải sòng phẳng, không hợp tác xã ma đâu nhé". Đại cãi ngay và giải thích: “Các bà ấy kém chữ nghĩa, ông với tôi còn công tác cơ quan, thì giờ đâu mà gò đầu gồ cổ tính sổ sách. Tất cả trong bếp ấy, còn mỗi đống than để ngoài cửa, tối đã có người ngủ canh lò. Thuê người sổ sách mới ra tấm ra món được". Rồi Đại cười, cười cái gì không biết. Tôi cũng nói trống không thế, chứ tôi biết đằng mù nào những việc chi tiết và chuyện lén lút ma ăn cỗ.
Lại giữa trưa, như quen thói, máy bay Mỹ đến ném bom vào giữa thành phố, vùng Nhà hát Nhân dân, bộ giao thông, ga hàng Cỏ sang ngõ hàng Đũa. Cái ngõ hàng Đũa ấy, thời Nhật, máy bay Đồng Minh – cũng Mỹ đã thả bom triệt hạ cả phố. Hôm ấy, người ta nói Mỹ thả bom tia la de, bom biết tìm đến mục tiêu mới nổ. Bộ Giao thông, nền Nhà hát Nhân dân ngay bên kia, khác phố, nhưng cách nhà tôi vài ba trăm thước.
Tôi cũng đương ở nhà một mình. Nhớ như hồi ấy tôi đương viết cái tiểu thuyết Miền Tây. Ngồi đây tôi tưởng tượng lên với nhân vật mẹ con bà Giàng Súa bên Đào San, Phong Thổ, ở Sìn Hồ vùng thấp vùng cao.
Tôi kê mảnh ván bên thành giếng. Nếu bom rát quá thì trèo xuống giếng, cái giếng có hai bậc, thành trên tôi ngồi xổm mới kín đầu, còn thành dưới trong giếng có nước thì sâu nữa.
Gió lật tốc cả dàn cây móng rồng trên tường, hơi bom trút xuống cùng lúc với tiếng nổ. Tôi tụt vào giếng, trông lên vòm trời vòng tròn trên đầu. Bên cơ quan bộ Giao thông trúng bom hay tên lửa không biết, tàn than giấy bay đen trời rơi lả tả xuống đầu tôi.
Tôi đeo băng, vơ cái còi quàng vào cổ chạy ra trông về ga hàng Cỏ, thấy lạ hẳn. Toà nhà đồ sộ giữa ga vòm mái đá đen đã biến mất, chỗ ấy toang hoác như giữa bãi trống. Phía hồ Văn Chương sau ga, cao xạ ta vẫn nhả đạn từng đợt đoàng đoàng. Thế là máy bay lại bom bắn vào trong thành phố, lần này đánh nhiều chỗ. Có một cảm tưởng âm thầm cứ dần dà nghiêm trọng hơn.
Ban bảo vệ các khối lên họp trên tiểu khu, ở khu đội và công an dự. Dương và Mẫn về báo cáo: Trên thông báo lần này Mỹ sẽ đánh Hà Nội nữa mà đánh rộng có khi nó cho cả B52 đánh ác liệt. Đề phòng nó có thể bất thần nhảy dù tập kích như trận Sơn Tây.
Khu ta gần các cơ quan trọng yếu cũng là trọn điểm mặt trận. Phải triệt để sơ tán nhân dân, tuần tra mười hai tiếng suốt đêm, kiểm soát chặt chẽ sổ tạm trú, tạm vắng.
Nhiều việc “phải” nữa. Điều khó khăn, nhiều việc trái ngược và chồng chéo. Công tác chủ chất khối phố hầu hết bà con có tuổi, kể cả đội dân phòng, bây giờ sơ tán triệt để thì ai cũng vào diện đi, đi được, ấy là chưa kể những người bắt buộc phải theo cơ quan, theo xưởng máy. Mà cả trăm việc dồn xuống.
Quá nửa đêm, tôi đi với bảo vệ Dương từ phía ga hàng Cỏ ra hồ. Bom đã ném bay cái nhà thuyền góc phố đằng kia. Cửa hàng bia quán Gió vẫn đèn sáng, chỉ có quán bia cửa ga và quán bia nhà thuyền có nem nướng không nhân ăn rất hay thì đã hóa ra một lỗ trống hốc. Không biết các cô bán hàng cửa ga, các cô nhà thuyền mọi đêm, có ai còn sống? ánh điện ban đêm sáng lạnh, trời dìu dịu sang thu, sương mù hay là khói bom nhà cháy còn đọng luẩn quẩn trên các ngả đường
Nhưng đến gần thì không phải. Cái mờ mờ sương phủ ấy là lớp lớp những chiếc chông cắm nhọn hoắt nhấp nhô liền nhau rỡn lên như màu sương. Những bàn chông la liệt khắp nơi. Nhớ mùa đông năm 1946 trên đồng quanh các làng Nghĩa đô, Cổ Nhuế, sáng sớm trông ra chì chít liền mấy cánh đồng xám mờ những bãi chông tre cắm đề phòng Pháp nhảy dù. Bây giờ những chiếc chông sắt chống Mỹ nhảy dù cũng như sương phủ- không phải chỉ là phòng xa, mà trận tập kích đã xảy ra ở Sơn Tây.
Chúng tôi vòng về Nhà hát Nhân dân, cái nhà hát giữa trời này đã dỡ bỏ tử lâu, chỉ còn bãi cỏ hoang. Từ xa đã thấy trong ánh đèn phòng thủ nghiêng mờ mờ vun vút lên những ngọn chông. Mấy xe tải quân đội vừa đỗ, trên thùng xe đẩy xuống, tiếng gỗ, tiếng sắt loảng xoảng. Bộ đội khiêng vào trong bãi như những bó chông hay những bộ phận súng máy. Khu vực này bên nhà tù Hoả Lò- khách sạn Hintơn Hà Nội” nổi tiếng giam nhiều lái Mỹ không biết trong lúc quyết liệt này có còn người tù Mỹ nào trong ấy không. Vào Tết Noen mỗi năm, tôi hay đi với Nguyễn Tuân vào Hoả Lò gặp phi công tù binh. Giam nó ở đây, hỏi chuyện nó cũng ở đây, nhưng khi cho gặp chúng tôi thì người ta lại làm vờ cho chúng nó tưởng đi xa lắm mới đến chỗ các nhà báo. Mấy phi công Mỹ, trên xe tải bước xuống từ ngoài cổng vào, băng vải đen bịt mắt. Không biết nếu nghe tiếng loa phát thanh vang các góc tường và tiếng động ngoài phố đưa vào, những tù binh đã bị nhốt nhiều năm ở đây có nhận ra những tiếng quen tnuộc hàng ngày vẫn nghe không.
Tôi bảo Dương:
- Ta thử vào xem chỗ này chông tre hay chông sắt như chỗ kia.
Một bộ đội đứng gác trong gốc cây, đến tận nơi mới thấy bóng người và ánh lưỡi lê sáng nhoáng.
Tiếng quát giựt giọng:
- Đứng lại
- Chúng tôi dân phòng đi tụần tra.
Có lẽ anh bộ đội đã trông thấy cái băng đỏ và hai chúng tôi cầm đèn pin Anh nói nhỏ, tiếng vẫn đanh lạnh ngắt.
- Không được vào!
Chúng tôi quay ra, bước xuống đường. Dương nói: “Đằng kia thì chẳng thấy cấm". Và có vẻ ấm ức. Tôi chẳng thấy là phiền lòng, bảo Dương:
- Người ta cấm là phải chứ.
Tôi không băn khoăn chông sắt hay chông tre, nhưng lại nảy ra cái vẩn vơ so sánh: súng có lưõi lê của anh bộ đội hẳn đã lắp đạn, không phải súng lép như khẩu mút cơ toong hôm nọ khu đội cho mượn.
Sáng hôm sau, đi qua cửa ga và bãi cỏ Nhà hát, chẳng thấy gì cả. Nền nhà ga cháy đen và các bãi cỏ quạnh vắng. Như chuyện ma trong Liêu Trai. Mấy chiếc xe tải phủ bạt đậu dưới bóng vòm cây xà cừ, như những chiếc xe ban ngày tránh máy bay.
Người sơ tán các nơi nhiều, khu yêu cầu làm tem phiếu sớm. Vì không họp các tổ được, lên danh sách rồi phải nhắn đi các nơi soát lại người từng hộ, có di biến động thế nào. Đưa đi đưa lại vòng vo mất cả tuần, mà năm nay cũng không nhờ được học sinh giúp.
Đại và tôi mở đống sổ sách năm ngoái. Tôi bảo Đại:
- Tôi phải bàn với ông gấp một tý. Tuần sau, tôi có công tác đi ấn Độ. Ông ở nhà làm cho vào đà, đến hôm tôi về...
Đại nói:
- Ông yên chí, việc tem phiếu còn dài, ta chống Mỹ cũng còn dài. Chắc ông đi ấn Độ bằng tàu bay, không sợ gặp tàu bay Mỹ đánh sao?
Tôi cắt nghĩa Trạng Lợn:
- Sáng sớm nó còn ngủ, chặp tối nó đỉ ăn cơm. Bay những lúc ấy được.
- Tôi chưa trông thấy cái tàu bay lên xuống bao giờ.
- Thứ bảy này ông sang tiễn tôi thì được xem. Ông đi nhé.
Sớm tinh mơ trên sân bay Gia Lâm, phó ban Đại đứng trong đám các con tôi.
Tàu bay IL 18 lênh khênh sừng sững trước mặt rồi từng chiếc một, bốn cánh quạt lần lượt quay. Một ỉúc cả bốn cái cùng quay tít, bụi và lá khô mù mịt trước mặt.
Hôm về, Đại bảo tôi: “Nó rún lấy đà, quạt lên như bão. ừ, phải thế mới đẩy lên được".
Tối tối, tôi với Đại lại đếm lại các loại tem, đối chiếu từng hộ. Trong khi, các tổ đi tuần tra đến năm giờ sáng.
Cuối năm, xong đợt tem phiếu đến sang giêng hai dương lịch, thành phố sắp xếp lại các cấp hành chính được thông báo hết qui một, có thay đổi. Vẫn có uỷ ban trên thành phố, các tiểu khu nhập thành quận, trong nội thành có bốn quận. ở dưới mấy khối cộng lại thành phường. Các tổ vẫn còn. Ban đại biểu dân phố giải tán, ra đời bộ máy phường tương tự như xã ở ngoại thành. Chủ tịch phường có con dấu và ăn phụ cấp như lương.
Cán bộ Thắng tiểu khu mà mỗi Tết lại đến nhà tôi lấy dao phay, dao bầu đi mài, anh vẫn đến chơi Tết, anh đã xin đổi công tác về nhà máy sơn. Cái chạn bát, cánh cửa sổ nhà tôi cuối năm được sơn xanh lại tươi tắn. Dương ra giữ xe đạp cửa rạp chiếu bóng. Mẫn đổi chỗ lên ngồi chữa xe trên Bờ Hồ. Mẫn bảo dưới này đói quá, có hôm chỉ được vài nhát bơm.
Mẫn nói với tôi: “Anh cho em thôi cái bảo vệ đường phố, em còn phải đi bảo vệ cái dạ dày". Một năm, Dương đến mượn tôi cái va li, bảo là về Sài Gòn. Tôi đưa Dương cái va li cũ. Rồi Dương có về Phú Lâm hay đi đâu, tôi không biết.
Tôi thôi trưởng ban bao giờ, không nhớ. Khi làm, không ai mời, đến khi thôi thì thôi cũng không ai bảo.
Chỉ nhớ bấy giờ sau trận B52 máy bay Mỹ ném bom vùng Khâm Thiên, các khối dân phố đi cứu khối bạn, đội dân phòng, cả cáng thương và túi thuốc, cả xà beng như mọi khi đã tập, tôi vác cái câu liêm.
Chốc đã hơn bảy năm qua. Cái anh Khang đảng viên rủ tôi ra làm công tác phố ốm đã mất ba bốn năm nay. Nhiều ngưòi, cụ Thắng điếc, cô Nghệ, ông An cũng qui tiên cả rồi. Chẳng có cáo phó, khi ấy việc tang ma còn đơn giản, có người bảo tôi mới biết.
Nguyễn Văn Bổng và tôi vẫn hay vào quán Gió uống bia. Ngồi uống bia hiu hiu còm cõi, nhưng bên hồ nước, bao giờ cũng có cảm tưởng xa khoi. Không còn khi nào vào hàng nửa đêm. Mà các cô bán hàng thuở ấy không còn ai bây giờ và cũng không có bia hơi, cửa hàng đã lên cấp. Chợt nhớ anh phó mộc Đại.
Tôi tạt đến rủ đi cho vui. Cái nhà Đại ở mọi khi đã biến mất, chỗ ấy thấy quây bạt, lủa tủa cột bê tông, đương lên nhà tầng. Ông thợ may hàng xóm, trước ở đội dân phòng nhận ra trưởng ban.
- Ông đấy à, ông vào xơi nước- ông có đi uống bia thì đi với tôi - Mời hai ông. Nhà cháu bệnh áp huyết, bia rượu những cái ấy phải kiêng. Định vào rủ ông Đại- ông Đại thợ mộc trên quận đã nghỉ hưu. Ông ấy về quê Phùng được mấy tháng rồi.
Mấy năm mới lại vào ngõ này, khác quá, khác quá.
Chúng tôi đến quán Gió. Đọc báo thấy đăng tin có đàn cò về đậu ngọn cây ở cái gò giữa hồ. Đã bao nhiêu năm nay những đàn cò không về lòng hồ. Nguyễn Văn Bổng hỏi cô bán bia hôm nay đã thấy cò về trong hồ chưa.
Cô hàng nói:
- Buổi sáng còn bay loạn ngọn cây, bây giờ chưa về.
Chập tối, đã lên đèn. Chẳng thấy một bóng cò. Cô hàng nói một câu có ý nghĩa thế nào chăng.
Thời buổi này, con chim cũng vui đâu đậu đấy, có phải không hai bác?

Chương XV

Đầu mùa đông 1957, tôi đi Matxcơva, dự hội nghị quốc tế về văn học thiếu nhi. Người dịch tiếng Nga cho tôi là Marian Tkchôp. Năm ấy, Marich trên hai mươi tuổi đôi chút. Tốt nghiệp khoa tiếng Việt ở Matxcơva rồi làm việc ban đối ngoại hội Nhà Văn Liên Xô. Thoạt trông, tưởng người ít ra đã trạc bốn mươi. Một lọn tóc vắt che trán hói lên gần đỉnh đầu, cái đuôi tóc còn thừa thòng lòng ra đằng gáy. Vừng trán cao phẳng lặng thật lạc lõng với người trẻ tuổi mới có người yêu.
Năm 1994, ngót bốn mươi năm sau, một hôm chúng tôi ngồi trên gác nhà hàng Cây sấu gần hồ Hoàn Kiếm. Cái đầu hói của Marich vẫn thế. Vẫn cái trán lồng lộng như ngày còn trẻ. Chỉ khác đã lâu mất chiếc đuôi tóc hắt lên che trán. Vẫn như từ thuở trước nhưng giờ không cần che nữa.
Marich đi với nhà văn Ke Babaep cao lớn đội mũ nan ra ga xe lửa đón. Ke Babaep, người nước cộng hoà Tuyếcmêni. Ban Thường vụ Hội Nhà Văn Liên Xô có chế độ làm việc luân phiên, uỷ viên thường vụ các nước cộng hoà mỗi năm về Matscơva thường trực ba tháng.
Tôi vừa đi chuyến tàu hoả mười ba đêm ngày, từ Hà Nội lên Bắc Kinh qua mênh mông rầu rĩ rừng taiga Sibêri tới Matxcơva. Ba ngày tàu Trung Quốc cơm với măng xào nấm, lạ miệng nhưng ăn được. Mười hôm tàu Nga, bánh mì đen, thịt băm viên súp cải bắp, đã chối đến ngắc ngư. Bữa ăn bán phiếu theo vé, chỉ bia Thanh Đảo, bia Matxcơva mua được bằng tiền Tàu, tiền Nga. Thanh Đảo chỉ có chai to- hãng bia ra đời từ đầu thế kỷ vẫn một kích cỡ ấy tới giờ.
Qua sông Tùng Hoa chập chờn ngước lên nhìn quan ải Sơn Hải cheo leo núi đỏ từng tảng đến xa mờ, những chơi vơi đồn luỹ Trường thành đầu tiên, hơm năm trăm dặm nữa tới Gia Cốc quan, con đường Tơ Lụa đời Tần vắt ngang đấy sang châu âu đã từ nghìn năm trước.
Sibêri cuối thu, tuyết xuống tơi tả. Những vòm cối sắt nâng tàu thay bánh ở Dabaican. Chốc lát, cả đoàn tàu đứng dừng như sắp lút trong tuyết, chỉ đen săm nhô lên mấy cái cọc sắt. Tuần lễ sau đến Matxcơva, tuyết bắt đầu đóng băng như những miếng kính, người lội trong bùn trắng. Khách sạn Ukraina trông xuống sông Matxcơva, những buổi sáng từng mảng băng mỏng đọng trên mặt nước.
Cũng một cảnh, một việc ấy, nhưng thời gian qua đi lặng lẽ mà dữ dội. Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã trên bảy mươi tuổi. Tôi biết Người từ tuổi thanh niên, bây giờ, hôm nay bỗng nhiên tên Người bị xoá địa giới trên bản đồ. Làm sao mỗi chốc có thể dửng dưng.
Phút chốc ai kia coi như ván bài tú lơ khơ, cái người mà trong chiến tranh thế giới lần thứ hai mới lên mười, mẹ dắt chạy giặc vào Trung á. Goócbachôp bằng tuổi Marich. Marich thường kể khi tản cư thèm đường hay ăn vụng đường phiếu. Nó bỏ chế độ của nó như cất bàn cờ. Thế mà năm ngoái Goócbachôp lại ra ứng cử tổng thống. Nước Nga đã nhổ vào mặt anh ta. Goócbachôp không được nổi 0, 51 phần trăm phiếu bầu!
Hôm trước, sang ga Nội Bài đi Sài Gòn. Thấy trên sân bay đậu những chiếc máy bay Nga. Vẫn cái Airbus 87 và những họ hàng Tu, Il, An... nhưng thấy thiếu, thấy vướng thế nào. Mới nhớ ra bên cạnh chữ Aeroflot, cái chỗ trống ở dưới dạo trước vẽ hình búa liềm. Bao nhiêu năm đã nhìn cái hoa nở như thế. Cũng như tôi thật khó chịu – tất nhiên, một khó chịu vô lý, người ngoặc ra ngoặc vào cạnh chữ Liên Xô thêm chữ cũ. ừ thì là cũ, là đã qua, nhưng trong tâm tưởng tôi, tôi không biết có chữ ấy.
Trông cái 87 ở sân bay Nội Bài không hình búa liềm ngỡ như cái máy bay vừa bị cướp, quả là chúng nó quân cướp ngày. Đã quen thuộc anh em IL, đi đâu đâu rồi về qua sân bay Sêrêmêthêvô 2, đã như đến Gia Lâm, Nội Bài nhà mình. Sáng sớm, đêm khuya, đoán được cả quãng máy bay sắp xiết bánh xuống đường băng lấy đà cất cánh.
Cái IL 18 bốn cánh quạt đến Hà Nội từ khi Nội Bài còn là sân bay dã chiến và chưa hẳn hoi thành bãi ga trời giao du ra ngoài. ở Gia Lâm, tôi đáp chiếc Aigle d Adzur mà ủy ban Quốc tế thuê của Pháp đi vòng Đông Dương mỗi tuần, lần ấy sang Pnôm Pênh. Trở lại Hà Nội, các con tôi kể bà Năm và chúng nó đi tiễn, máy bay lên rồi về nhà bà Năm ra chợ Hôm mua hương hoa về cúng cầu bình yên cho tôi. Chẳng như sau này, máy bay như con thoi một lèo Hà Nội- Matxcơva rồi Hà Nội, Nam Ninh, Trường Sa, Bắc Kinh- Iếc Cút, Ômsơ. IL 18 ngắn hơi hơn đỗ quãng một, nghỉ ăn ở Trường Sa, ở Tatsken. Những mùa đông gặp bão tuyết, có khi chờ bão tan ở Sveclôp, ở Iếc Cút mấy ngày đêm. Chẳng sao, máy bay nhà. Có hôm sắp tới Matxcơva lại ngược lên đỗ Lêningrat. Sau mới biết có máy bay ở Kiep lên đáp xuống đâm vào rừng thông, sân bay phải đóng cửa.
Tôi đến Matxcơva ngót nửa thế kỷ sau Cách Mạng Tháng Mười Nga. Không biết quang cảnh và sinh hoạt Matxcơva ngày trước thế nào, nhưng những năm này đã mỗi năm mỗi khác. Chặp tối, ánh sáng điện hè phố như tạnh ráo hẳn. Những hạt tuyết khô bay loăng quăng, ràn rạt vào mặt, thế là sắp lạnh nữa, chỉ vài hôm thì băng đóng kín trên sông. Rồi trong chốc lát, trời lại xạm ngắt, mưa tuyết trơn ướt tơi bời. Sân bay vẫn đóng, không phải vì mới xảy tai nạn, mà thời tiết dữ quá, máy bay không cất cánh được.
Ngoài đường đã thưa ngươi mặc đồng phục đội mũ lừỡi trai, nhưng váy áo vẫn tương tự. Mùa lạnh, áo lông đen khoác, áo bông ô quả trám, mũ hai tai có dây buộc. Những cô gái Nga mặc quần phăng, các ông gác cửa không cho vào khách sạn. Nhưng tối đến thì tha hồ. Phòng ăn đông từ chặp tối, cả sàn nhảy giữa nhà. Các bà váy loà xoà đi qua sàn gỗ chưa có nhạc thì nhún chân.
Nền nếp ăn mặc thời ấy ở Matxcơva vừa phải với quần áo của tôi mà bộ Tài Chính cho mượn, cho thuê. Mũ lông, ủng da ủng nhựa, những cái áo khoác giả lông cừu nặng như cùm. Bởi có mấy khi đi đâu và tiền đâu mà sắm, hàng đoàn cả chục, mấy chục người ở đồng ruộng về chỉ đi dăm bữa nửa tháng thì nhà nước tất phảỉ lo. Tôi mượn Hoàng Cầm cái va li tô tổ bố. Không biết tại sao lão có cái va li da bò bự thế. Chắc của Hoàng Yến vợ lão. Nhưng hôm đến kho thử mỗi thứ một bộ, vừa cái va li giấy nhỏ, tôi đem trả anh.
Trong các bạn có dịp ra nước ngoài, Nguyễn Tuân không đến kho quần áo. Ông mượn của người có quần áo tốt, sau đó ông đã sắm cho ông lần đầu tiên đi Hensênhky, một bộ comlê chững chạc. Ông không coi thường cái kho, mà ông sợ. Những cái sơ mi trắng được đánh dấu bằng phẩm đen in hai chữ TC (tài chính) to tướng đằng lưng áo, ông đã hãi, ông miêu tả cả đoàn đại biểu áo sơ mi của ai cũng có cái dấu đằng lưng thế. Đôi giày, cái píp, cái can, cái cà vạt, các bạn Hà Nội lịch sự biếu ông hoặc cho mượn không bao giờ đòi. Có điều, không thấy ông Thiếu quê hương dán vào va li những mảnh bảng tên nhà ga, khách sạn các nơi đã đi qua. Ngày trước chẳng được xê dịch bao nhiêu, chỉ giang hồ trong sách, thì ông cho nhân vật Bạch cái thú dán nhãn phiêu lưu như thế.
Cái kho quần áo nhà nước to dần, bộ mặt thay đổi Đến kho mượn, rồi sau không cho mượn mà nhà nước cho thuê. Khi đem trả, nhà kho soát lại, quần có lỗ thủng tàn thuốc lá, rách sơ mi hay ố bẩn đều phải đền. Hồi đầu, kho cho mượn cả thứ lặt vặt mùi xoa, bít tất, áo quần lót... Nhưng gíày không có dây.
Cả thành phố không đâu bán dây giày và hộp kem. Tôi lại phải xin đôi dây giầy và mượn cái cà vạt của Nguyễn Văn Bổng, người hay chơi giày và cà vạt.
Kho quần áo những năm đầu chỉ một phòng, hai người thay nhau trông nom. Khách đến khách đi với ông coi kho trò chuyện, quen mặt. Đến khi kho dọn về đường Thái Hà đã thành lớp nhà tường bao cao cao như kho gạo, người nhộn nhịp, kho giày kho mũ và khăn quàng ở bên kia, ngoài cổng chính có phòng thường trực.
Ngày kho còn ở phố trên, có một ông già người khu Năm- mà tôi không sành tiếng, không phân biệt được ông người tỉnh nào. Chiếc khăn mặt bông được phát ở Sầm Sơn cái ngày dưới tàu tập kết lên, ông vẫn giữ, vắt trên lao màn dầu giường. Cái giường của ông ấy những đêm trực kê sau cánh cửa, khuất một mảnh ván gỗ. Cán bộ cao cấp đến thử áo, giầy, lấy các thứ mượn bỏ vào va li, có người xách về sau. Một đoàn người, nông dân công nhân đi công tác, tham quan, sắp hàng đôi bước đều, mỗi người ôm cái va li trước ngực. Tôi không biết mọi người đến đây thoải mái hay khó khăn thế nào. Tôi chẳng khi nào có gì phàn nàn, mà phàn nàn vào đâu. Ông coi kho lần nào đến cũng bắt tay tôi chặt chẽ, thân mật như người cơ quan.
Ông ấy hóp má gầy gùa, da nhăn nheo ngăm ngăm đen. Đầu bạc, nhưng húi cua, chỉ thấy chân tóc lấp lánh. Hai bàn tay gồ ghề xem chừng chẳng quen thuộc với những của hàng hóa trong kho. Nhưng ông trật tự ngay ngắn có sách của ông ấy, một cái khăn thủng, một cái khuy đứt cũng không qua được mắt ông. Ông hỏi tôi:
- Lần này đồng chí đi bao nhiêu ngày?
- Hai tuần.
- Hai tuần thì lĩnh một bộ vét, hai áo sơ mi, một đôi giày màu nào thì đồng chí vào kho chọn.
Lần khác, tôi nói: “Đi sáu tuần, bên ấy có tuyết rét lắm", thì ông bảo: “Hơn một tháng thì được mượn hai bộ, hai sơ mi. Rét thì áo dạ khoác, mũ lông mỗi thứ một cái". Ông lão chẳng cần xem giấy tờ, mà cũng bởi có đi đến mấy tháng cũng chỉ một đôi giày, hai sơ mi, lấy các thứ xong đem mở va li trước mặt ông coi rồi ông mới đưa chìa khoá. Cái dây thép vắt cà vạt loè loẹt loăn xoăn như những dải rút màu, tôi cho qua. Vừa cà vạt bẩn mắt, vừa tôi có thành kiến người châu á thắt cà vạt không đẹp.
Lấy va li trước rồi xách sang kho quần áo, kho giầy. Chọn giầy mà khó. Không vì kiểu dáng hay màu, mà cái bí mật của độ bền. Cái lần đi Rumani tôi nảy sáng kiến mượn đôi giày mới, chưa ai xỏ chân. Đến lúc vấp một cái, mỏm giày há như cái hộp mở. Thì ra người đóng giày ăn cắp, đóng mớm quá. May, đường phố Bucaret cũng lắm người vá giày và cũng được bà phiên dịch Madari sốt sắng, đã mượn khâu lại, ngồi đợi và lấy ngay. Lại kinh nghiệm mới, nên mượn đôi giày có người đã đi và còn có mã. Ông giữ kho đi theo người mượn, ông hay hỏi rồi lại trả lời lấy “Được chưa? Được rồi. Cái áo này thì mưa tuyết to mấy cũng không thủng được. Bên ấy rét thế thì phải bít tất len, kho mới về bít tất len có cổ, đồng chí có lấy không?”
Cứ kể mượn nữa cũng được, cánh hẩu mà. Nhưng đi về hai mươi cân không kể xách tay, mà xách tay cồng kềnh quá bị đè ra cân thì rầy rà. Đây mới lượt đi, còn để chỗ cho về, về mới là chính, bao nhiêu thứ đã tính toán, đã chờ mong. Thế thì phải phiên phiến. Tôi vừa chọn, có khi ông lão chọn, lấy ra hộ. Chỉ có một lần tôi được cầm phiếu đi hiệu may Tiến Thành, sắm bộ mới toanh- chuyến đi Campuchia 1963, cũng nhà nước cho mượn, nhưng được cắt một bộ tôpican mới. Bộ đồ ấy khi về cũng toan khai là đánh mất, rồi lại ngại, dẫu tôi cũng chẳng có bộ quần áo nào nên hồn.
Dần dà, sự trễ nải tạo cho tôi một ý nghĩ và thói quen cho mình yên trí và được bằng lòng. Người Việt Nam mặc Tây không ra mẽ gì. Vả lại, trên thế giới cái sự mốt là thích thú của trai gái đương thì hay của người giao thiệp ngoại giao, kinh doanh. Còn ta mặc thế nào thì cũng chẳng ai buồn để mắt. Lại nữa, khi có tuổi, người ta thường ăn mặc theo kỷ niệm một thời, ở nước nào cũng gặp những ông già đội mũ phớt lệch, gấu quần gấp lơvê, ve áo nhỏ, thắt lưng có dây treo, cà vạt đen, tay chống can...
Tôi mua biếu ông lão coi kho một cái mũ giả lông cừu lông gấu ở Matxcơva.
Tôi vừa đội thử lên đầu ông, ông đã hỏi:
- Đồng chí trông có được không?
Tôi đáp:
- Đẹp lắm. Như ông chăn cừu.
Ông lão ấn cái chỏm mũ xuống, nói:
- Ngày nào tôi cũng ắm sửa cho người đi các nơi, chẳng khác đã đi các nơi, mình đã thuộc cả. Đấy, tôi đội cái mũ tây vừa ngay. ở mà tàu thuỷ, tàu hoả biết cả rồi, chỉ chưa được ngồi tàu bay, mà tàu bay thì cũng bay trên trời kia chứ gì, tôi nhìn thấy cả rồi.
- Đâu cũng chỉ có trời, có biển, có đất thôi.
Ông lão im lặng rồi hỏi:
- Đồng chí đã trông thấy tuyết, phải không?
Tôi đáp như một người tai ngễnh ngãng:
- Khi nào có tuyết thì người ta đội cái mũ này.
Ông xoay ngắm mũ, nét mặt ông ngẩn ngơ. Không phải lúc nào ông cũng chỉ càu nhàu khó tính với người ta. Không, ông nghĩ đến bao nhiêu cái chưa biết mà tưởng như đã biết. Ông mơ mộng. Nắm tay cám ơn tôi, ông nói: “Đánh xong thằng Mỹ rồi, bao giờ tôi về quê, chắc tôi được đi tàu bay". Tôi nói: “Và đội cái mũ lông này”. Ông cười, cả hàm dưới không còn cái răng nào.
Ông lão hay nhăn nhó mà hồn nhiên, chẳng mấy đám khách mà ông không cau có, làu bàu, nhưng ông vẫn tìm từng cái khăn quàng và vác va ly hộ. Người thì ghét, người thì buồn cười cái ông lão chỉ rúc xó nhà mà hay chuyện bên Tây bên Mỹ như đâu cũng đã biết. Tôi biếu cái mũ, ông sướng ơ mặt, ông không biết cái mũ chẳng mấy tiền mà ông thấy đẹp kỳ lạ đến thế, và cái chỗ của chiếc mũ ở va ly hay để túi cầm tay thì đêm sau cùng đóng gói ra về mới công phu thử đi thử lại. Bây giờ ông đội mũ ngồi toẽ năm ngón tay trên đầu gối. Cái mũ lông hoá học đen nhánh có tai, có dây buộc lên buông xuống quanh chỏm cao chành ngang ra hai góc như mũ vua trên sân khấu, chỉ thiếu cái roi ngựa hay thanh kiếm. Tôi thấy mấy ngày đầu mùa đông ông đội cả mũ trong nhà.
Không thấy ông coi kho mọi khi ngồi trước cửa. Một anh mũ tai bèo, chắc là thương binh hay bộ đội chuyển ngành mới về đây. Anh đứng dậy, xem giấy.
Tôi liỏi:
- Cụ khu Năm chưa đến a?
- Cụ chết rồi. Chết bom.
Chủ nhật vừa đây ông về Tây Hồ. Quê vợ ông lão ở làng Tây Hồ. Bom ném, ông chết, mất cả cái xe đạp trên đê Nhật Tân. Chắc cái mũ cũng tan tành ở đấy.
Ai đã qua lại mượn quần áo tài chính có còn nhớ ông lão khu Năm đầu tiên giữ kho?
Tôi còn cái mũ lông nữa tôi biếu Vù Mý Kẻ, cũng mũ có hai tai vẫy như thế. Vù Mý Kẻ và tôi cùng một khoá Quốc Hội, tôi đưa chiếc mũ ở hội trường, nghĩ đến cái ]àng Sà Phìn cao nguyên Đồng Văn không có mùa hạ. Chắc mũ này được việc lắm. Vù Mý Kẻ thú vị ra mặt, cầm mũ, ngắm nghía. Chuyến ấy, một đoàn đại biểu Quốc Hội ta thăm châu Mỹ, đi từ Cu Ba lên Nicaragoa. Về Hà Nội, đại biểu Vù Mý Kẻ đến chơi. Mấy hôm ấy không còn những ngày nóng bức nhưng cũng chưa đã sang thu. Vù Mý Kẻ đi vào trong ngõ vẫn đội ngất nghểu cái mũ lông vàng vện của tôi. Anh muốn khoe anh qui cái mũ, anh muốn tôi nhìn thấy anh đã đội mũ đi công tác bên châu Mỹ về.
Tôi hỏi:
- Bên ấy nóng thế, đội mũ này hợp không?
Vù Mý Kẻ cười:
- Về Liên Xô thì rét, có mũ này mới chịu được.
- Quê nó ở đấy mà.
Nhiều năm nay, Vù Mý Kẻ nghỉ hưu đã về ở trên cao nguyên. Có người qua Sà Phìn, tôi hỏi thăm. Thấy bảo buổi chiều ngồi uống rượu trước cửa, ông lão vẫn đội ngất ngưởng cái mũ ấy.
Lần đầu đến Matscơva ăn bữa tối khách sạn Ukraina. Tôi hỏi Marich:
- Hôm nào phòng ăn cũng đông thế này a?
- Đông lắm. Còn người đứng đợi chỗ ngoài cửa. Nhưng không phải những người ngồi ăn đây đều ở khách sạn.
- Họ ở đâu?
- Chúng nó là người làm các cửa hàng quanh đây.
- Nhà nước cho ăn xuất ở khách sạn a?
Chắc là bọn ăn cắp. Tôi đã nhẵn mặt họ, ăn và nhảy đến tận lúc tan.
Tôi để ý mỗi hôm tôi xuống sớm mới tìm được chỗ ngồi khuất, đỡ có hàng xóm và loa nhạc hát chõ vào tai. Có khi bàn trống, người bồi bảo bàn đã có hẹn, và chỉ cho nhìn cái giấy đã ghi: dành riêng. Nhưng đưa tiền boa trước boa sau thì chỗ hẹn ấy cũng là của mình ngay. Diệu vợi thế, cho nên dến năm không còn kiểu ăn ghi sổ, khách văn được hội chủ nhà phát tiền ăn, tiền tiêu vặt thì nhiều nhà vănViệt Nam đến Matxcơva đều ra quán công cộng ngoài phố. Chịu khó chen vai và bưng bê lấy, được cái giá bèo bọt. Tôi cũng đã theo Thu Bồn ra ăn bụi, nhưng hôm nào cũng chỉ món băm viên, tôi kinh cái cục thịt hổ lốn ấy từ cái năm đầu tiên đi tàu hoả qua Sibêri.
Mai ngày họp, nhiều nhà văn các nước dự. Tôi gặp P. Nêruđa nhà văn Chi Lê hình như ở lưu vong. Nhà văn Matxăc đưa về nhà chơi. Matxăc chuyên viết cho thiếu nhi, nhưng ông cũng là một dịch giả nổi tiếng dịch thơ Anh. Mùa hè nào Matxăc cũng được nhà xuất bản bên Luân Đôn mời sang nghỉ. ở hội nghị, tôi có sẵn bài diễn văn, nhưng không phải dùng đến. Chỉ có một chuyện, tôi nhớ cả cái dáng B. Pôlêvôi đứng lên. Buổi tối khai mạc, Pôlevôi phát biểu kể chuyện con trai ông học phổ thông mải đọc Dế mèn phiêu lưu ký đến nỗi thiếu điểm thi học kỳ.
Dế mèn phiêu lưu ký vừa được in, Marich dịch, Ngô Mạnh Lân đương học mỹ thuật ở Matxcơva vẽ tranh. Chuyện Pôlêvôi nói ở hội nghị được tường thuật trên tờ tạp chí Phụ nữ Liên Xô rồi các phóng viên Lê Trung và Trần Đĩnh biên tập lại cho in trên báo Nhân Dân. Bấy giờ ở ta đương quét những cái hơi hướng xét lại. Có người phát hiện: “Dế mèn đi tìm thế giới đại đồng là quan điểm xét lại”. Hai chàng phóng viên bạn tôi bị kiểm điểm. Nhà xuất bản ngừng tái bản Dế mèn... việc cứ thế tấy lên đến tai anh Lành. Lành phán: “Không nên qui kết lịch sử các thời kỳ khác nhau". Có thế mới thôi. Tôi viết quyển ấy từ năm 1940, khi nước ta còn thuộc Pháp, khi ấy Khơrutxôp còn dưới trướng Xtalin trên thế giới chưa có danh từ xét lại trong lý luận chính trị. Có lần gặp, Lành nói chuyện ấy: “Dế mèn thì vẫn Dế mèn, nhưng lôi thôi ở đứa viết quảng cáo bìa bốn". Trời ơi, ông ấy bấy giờ ngày đêm lo những chuyện tày đình cả nước, mà vẫn đọc quái thế.
Sau hội nghị, tôi đi Lêningrat rồi xuống thành phố cảng Ôđetxa, sau đó sang nước cộng hoà Cadăcxtăng.
Marich có nhiều bạn ở Leningrat- trong đó có nhà vật lý Borit bạn chí cốt cùng học và cùng quê Ôđetxa.
Marich bố Nga, mẹ Do Thái. Bố mẹ đã ly dị từ thuở Marich lọt lòng, người mẹ ở vậy nuôi con, Marich lớn lên giữa họ hàng đằng mẹ, quê mẹ. Cả cái tên Marian cũng gốc Do Thái. ở Ba Lan, các trại tập trung Ôchiuych, Ôvetkin của phát xít Đức con số tù tới cả triệu, đã bị thiêu sống hết. Do Thái ở Ba Lan, áo, Bỉ, Pháp, Hy Lạp, Nga, Ru, Hung cả người Di Gan. Lại có lẫn một người Trung Quốc, một người Ai Cập... Tôi trông thấy những mảnh thiếc viết chữ sơn đen tên những người Do Thái bị chết thiêu... những Marian... Marian... Marian... treo cửa buồng khắp các trại tập trung.
Marich đã đưa tôi về Ôđetxa choi. Những chuyến đi hội nghị, chẳng nhớ bao nhiêu những ăn nói đấu tranh, những lập luận và câu chữ ở hội nghị đã quên ngay, mà chỉ còn lại những gặp gỡ, những vui buồn bạn bè. Trách nhiệm của tôi mờ nhạt hay là tôi không có sáng kiến gì hơn ở các cuộc họp nghề nghiệp và công tác xã hội của các hội hữu nghị châu á, châu Phi mà tôi có gánh vác. Chủ trương thì đã bàn ở nhà, mà là cần thiết. Tôi đến hội nghị ở Ai Cập, đọc một bài phát biểu về G. Nêru trong dịp kỷ niệm một trăm năm sinh Nêru, thì bài đã viết ở Hà Nội. Tôi làm sao được, có trao đổi cũng là những vặt vãnh. Cái cần thiết là sự có mặt của Việt Nam ở đấy là uy tín của cả đất nước, không phải của một nhà văn.
Cũng có khi chủ động đấy. Nhưng tôi chẳng mát tay, không nên cơm cháo gì. Nhớ lại có một việc định làm, đã làm mà không làm được. Bấy giờ là những năm sau 1975, Nguyễn Đình Thi có quen một nhà văn Anh trong ban chấp hành hội Văn bút quốc tế. Ông này gợi ý Nguyễn Đình Thi: trong tình hình mới, việt Nam nên gia nhập tổ chức quốc tế này. Cũng trong thời gian ấy một số nhà văn ở Sài Gòn đã ra nước ngoài cũng đương vận động vào lại Văn bút với tư cách Văn bút của các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại. Hội Nhà văn Việt Nam được trên đồng ý cho tìm hiểu cách thức gia nhập, Nguyễn Đình Thi giao cho tôi lo liệu.
Văn bút quốc tế là một tổ chức văn học ra đời đã lâu, trụ sở ở Luân Đôn. Không thu nhận các hội nhà văn đã có sẵn, họ chủ trương kết nạp cá nhân nhà văn có tiếng hoặc các nhà văn tập hợp lại thành nhóm và trở thành hội của Văn bút ở nước ấy. Văn bút Quốc tế không có báo chí, không xuất bản. Nó chỉ họp hội nghị, đại hội bàn tròn, dung nạp mọi ý kiến khác nhau, không có kết luận và ai đi họp thì bỏ tiền túi ra mà đi.
Tôi đã tham khảo thái độ một số nước xã hội chủ nghĩa đối với Văn bút quốc tế. Mỗi nước một khác nhau. Ba Lan, Rumani, Đông Đức và ba nước biển Ban Tích đã vào Văn bút quốc tế từ lâu. Ban đối ngoại hội nhà văn Ba Lan trả lời diễu cợt: “Chúng tôi cũng vào cho biết cái hội tự do và tự túc này thế nào. Có tiền mua vé máy bay thì đi họp, không thì ở nhà. Ngồi họp, ai công kích ai, ai bênh vực ai, cứ tha hồ”. Họ kể cho tôi tên những nhà văn Ba Lan trong Văn bút quốc tế Ba Lan. Có cả nhà lý luận văn học Karon Giôdep Môgityla, tức là Gioan Pôn 2 giáo hoàng ở La Mã bây giờ, ông ấy là hội viên hội nhà văn Ba Lan. Tôi đã đến Ba Lan trong dịp ông đăng quang giáo hoàng. Vacsôvi mừng xả cờ vàng- cờ công giáo, ra cửa sổ và các nhà đều đưa đài vô tuyến truyền hình dặt trước các vỉa hè.
Nhưng cũng không chỉ bông lơn hay lắm vẻ như hội nhà văn Ba Lan, hội nhà văn Liên Xô nói: “Chúng tôi không vào Văn bút quốc tế. Văn bút này đã kết nạp nhiều nhà văn Nga lưu vong. Nếu họ công kích chúng tôi, ở đấy đã có nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa bênh vực Liên Xô và văn học Xô viết".
Vào Văn bút Quốc tế, chủ chốt sẽ không là tổ chức có sẵn và không phải người có cương vị chính của hội nhà văn Việt Nam. Tôi đã đề nghị danh sách ban chấp hành lâm thời Văn bút Víệt Nam gồm một số nhà văn tiếng tăm và uỷ viên chấp hành Văn bút trước đây ở Sài Gòn (Thanh Lãng , Mộng Tuyết, Sơn Nam, Vũ Hạnh) và các nhà văn lão thành (Chế Lan Viên, Bùi Hiển, Xuân Diệu, Lý Văn Sâm), các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ (Chu Văn, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng). Tôi đã trao đổi với Nguyễn Văn Bổng và dự định Tổng thư ký là Nguyễn Văn Bổng.
Thường vụ Hội nhà văn được triệu tập bàn về vấn đề này. Hội nghị chưa thảo luận về tổ chức cũng như mọi công việc thế nào, mà có ý kiến đầu tiên cho rằng vấn đề rất quan trọng, ban thường vụ không thề quyết định mà cần có một hội nghị ban chấp hành mở rông.
Một số ý kiến thì phân vân.
Đến bây giờ, đã hơn hai mươi năm, qua mấy khóa chấp hành và mấy Dại hội, cũng chưa khi nào khoá nào đem bàn lại. Tôi cũng chẳng để tâm gì hơn, lại nghĩ bãi ra, thế cũng là cái sự thường. Bởi vì đọc bản tin, chỉ sau hội nghị thường vụ của chúng tôi ít lâu, trong cuộc họp Văn bút quốc tế ở Mêchxich, Minh Đức Hoài Trinh đại diện hội Văn bút các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại đả kích tưng bừng Văn nghệ Việt Cộng.
Công việc văn nghệ ngày rộng tháng dài, có có không không cứ đều phảng phất, hiu hiu. Đại hội Nhà văn á Phi ở Bâyrút, đến hôm thông qua Tuyên bố Bâyrút, ở tổ văn kiện, đại biểu Hoàng Trung Thông yêu cầu thêm một chữ - chữ gì, tôi quên. Mấy người trong tiểu ban, trao đổi dằng co đến quá nửa đêm. Sáng hôm sau, báo buổi sáng được đưa các phòng. Mở xem, vẫn nguyên thế Hoàng Trung Thông đi tìm hỏi nhà thơ Azimôp trưởng đoàn nhà văn Xô Viết. Azimôp nói: “Khuya quá, nhà in in rồi. Khi in văn kiện này vào tạp chí á Phi sẽ sửa". Hoàng Trung Thông băn khoăn hỏi tôi: Trưởng đoàn có ý kiến gì không?”. Tôi bảo: “Thôi".
Mấy tháng sau, ở Hà Nội, đọc những tờ tạp chí á Phi được gửi tới, chẳng thấy sửa, thấy thêm chữ nào.
ở Lêningrat, đêm đến chơi nhà cô Pecman Inna, kỹ sư hoá, thím của nhà vật lý nguyên tử Biếcbơlai Bôrit. Người đàn bà đã quá lứa ở một mình với một con mèo đen to xù. Lúc mở đĩa vui cũng ôm bế con mèo cùng nhảy. Tôi còn gặp ở nhiều nơi những người tuổi đã nhỡ như Inna, đã bỏ tuổi đương thì vào giữa cuộc chiến tranh thế giới đương ác liệt.
Khách sạn Astôria vẫn cổ kính nguyên dáng thế kỷ trước. Nghe nói nhà thơ Exênhin đã thắt cổ chết ở toà nhà bên cạnh. Tôi cũng không hỏi có còn giữ di tích tuần trăng mật với người vợ lai Mỹ Jecđôra Duncan, Exênhin chết một mình hay chết cùng vợ và khách sạn Astôria có phảì khách sạn Anh ngày trước.
Cái khách sạn này nhà chủ cũ vẫn có đơn kiện đòi lại. Các nước đương đòi nợ nhau dài dài. Trung Quốc đã thu lại được cả vùng đất Hồng Kông. Nếu Trung Quốc không như bây giờ thì con cáo già Anh đời nào chịu trả đất. Thế thì bây giờ Liên Xô đã vào dĩ vãng rồi, các chủ cũ khách sạn Astôria Ôđetxa chắc lại sang Nga đòi nợ. Sự ấy đã nhãn tiền ở nhiều nơi, báo đã đăng tin vua giày Bata lưu vong sang Canađa mới trở về nước Sec chiếm lại các cơ ngơi nhà máy. Không biết thế nào, tôi bây giờ có nên đòi vài đồng lương hưu nhà vua giày Bata đã nợ tôi không?
Sông Nêva đóng băng phẳng lặng như phủ cát trắng.
Sông thành con đường băng xe vận tải chạy được ra tới mặt hồ Lagôđa- con đường bí mật mùa đông đã nuôi sống Lêningrat suốt ba năm bị phát xít Đức vây hãm. Giữa quãng trời đất trắng ngần kia, một người đương cuốc băng khoét một lỗ xuống mặt nước. Người ta ngồi câu cá giữa hồ.
Mấy hôm sau xuống Ôđetxa. Sân bay hải cảng này cũng như sân bay Simphêrôpôn ở bán đảo Crưm, có cảm tưởng đương đến giữa một vườn hoa khổng lồ.
Ban đêm ngủ lại tưởng như Simphêrôpôn rạt rào gió biển. Sáng ra mới biết đương trông ra cửa sổ giữa công viên và rừng thông, cách bến Yanta cả trăm cây số.
Cái ga trời vườn hoa Ôđetxa ở đất phương nam khi mùa đông tới, cả nước Nga về đây tránh rét- ấy là thói quen và tập tục đã bao đời. Biệt thự nhà văn Sêkhôp trông ra biển. Nhà văn M. Gooky từ hồi còn nghèo cũng có nhà nghỉ đông trên bờ biển. Khi cả nước Nga đóng băng thì ở Ôđetxa, những cây catstan bờ hè mới bắt đầu rụng từng chiếc lá vàng. Cây táo, cây mận mọc hoang, những chùm quả chín đỏ. Đứng đợi máy bay, Vlat ra ngắt từng ôm: “Cái giống quả dại này chua lắm, ăn cho dã rượu thì chiều mới uống nữa được".
Máy bay nhẹ nhàng đỗ, khách bước ra lặng lẽ. Thành phố vườn hoa trong tĩnh mịch.
Nhưng thời kỳ ấy đương còn cái lặng tờ ma quái, cách đây có một ga bay. Từ Đông Phi lên, máy bay xuống lấy khách Bâyrut. Sân bay quốc tế này mới mở lại. Không một bóng người. Thành phố sau lưng, khói những đám cháy nham nhở. Đã có vạch xanh hoà bình kẻ ngang chia đôi mặt đường, con đường và từng vùng ngăn các phe công giáo và đạo hồi tràn sang nhau, nhưng tiếng súng vẫn râm ran, cả súng cối. Chỉ một đường bay này phẳng lặng, rùng rợn chết chóc. Người ả Rập xưa nay tự hào “Bâyrut, Thuỵ Sĩ Phương Đông yên lành giàu có". Các cửa ống dẫn dầu Trung Cận Đông đều trổ ra cảng này. Các nhà băng thế giới đều đặt bàn giấy ở đây. Những đêm yến tiệc cung đình. Tôi đã được một đêm đội mũ vua ả Rập uống rượu hồi với nhà văn chúa đất Gium Blat. Bây giờ tan tành dinh cơ Gium Blat trong khói súng, Gium Blat bị giết giữa lặng lẽ khủng khiếp kia. Cảm tưởng về hoa và người thảnh thơi phải về tới Ôđetxa mới thấy lại. Chẳng biết đến khi nào sân bay Bâyrut có lại được phong độ xưa.
Ôđetxa không thành chiến trường như Bâyrut năm ấy Nhưng Ôđetxa hôm nay cũng như những cái máy bay hãng Aêrôflôt bị lột mất hoa búa liềm, cái đau thật thấm thía. Năm ngoái, Marich đi Mỹ về, viết thư cho tôi, kể là vợ chồng Marich đương sửa soạn về Ôđetxa mừng thọ dì Luxia 85 tuổi. “Ông có biết không, đi Ôđetxa quê tôi bây giờ phải có hộ chiếu như đi Mỹ, đến Ôđetxa đã là sang nước khác rồi".
Những rắc rối của cuộc “cách mạng nhung” – chúng nó mỉa mai vẻ đắc thắng bằng cách thêm chữ “nhung".
Cụ Nicôlai, nhà văn Grudia hội viên hội nhà văn Liên Xô đã ngoài tám mươi tuổi. Cụ Nicôlai từ Tbilitxi lên ở Matxcơva đã hơn ba mươi năm nay. Chẳng biết cụ có bị trục xuất về nước Grudia không. Và cụ còn ở đây ai nuôi cụ, có khi đành bò về chết ở quê cũ cũng nên. Tôi đã đoán thế mà rồi đúng.
Thôi, ta trở lại ngày xưa. Mấy hôm ở Ôđetxa, ăn món Do Thái xúp lạnh, bánh manta nhà ông bác, nhà bà dì và các con cháu. Bà ngoại của Marich, bà lão Phayin Chilia Xôlômônôva quây quần họ hàng xa gần, họ Phayin cũng như người Digan thường đi và ở từng bọn, khác nào ở cảng Ôđetxa cá scumbria nhiều hơn nơi khác. Người Do Thái ở đâu cũng thành xóm, thành phố. Không phải tình cờ mà nhà văn Pautôpsky, những ngày hoang mang vô định sau 1917 đã xuống Ôđetxa định chạy sang Trung âu. Luật pháp xô viết, các dân tộc bình đẳng, nhưng trong đối xử và chung đụng thì có nghi ky. Người vợ lấy lần thứ hai của Marich ở Lêningrat. Về Matxcơva, mẹ vợ cũng đi theo. Bà này ghét con rể, thường ra công an quận báo cáo mật: thằng ấy tụ tập bọn Do Thái, bọn Do Thái nói xấu nhà nước... thằng ấy... Do Thái... Rồi sau Marich mất vợ, mất cả nhà. Xử ly dị, pháp luật bênh người phụ nữ hơn. Một đời, hai lần mất nhà, đắng quá.
Đấy là những sau này. Lần ấy, tôi đi với Marich về Ôđetxa thì Ira, người yêu và người vợ đầu, hai người chưa cưới nhau. Mẹ Marich làm việc văn phòng hội mỹ thuật ở Mônđavia. Gọi điện, bà về Ôđetxa được ngay, có bốn mươi phút máy bay. Cả bà nữa, người đàn bà bị chồng bỏ từ thuở trẻ với các bà em đều nhỡ nhàng, người làm thợ máy, người bán bách hoá.
Họ uống rượu rồi nhảy với nhau, chẳng biết nhảy nhót thế nào, cứ ôm quây tròn, béo núng nính, ai cũng lôi vàọ vòng nhảy. Anh không biết nhảy a? Cứ ôm vai, nắm tay, đưa chân lên xuống. Nhớ không giẫm chân người khác. Đấy, đấy, được rồi. Nhảy được đấy.
Cuộc vui tràn trề thâu đêm rồi thì người đi, người ngủ ngồi ở các ghế đệm quanh.

Chương XVI

Mùa hè 1997 này tôi đương đánh vật với Chiều chiều đây ở thành phố cao nguyên Đà Lạt. Tôi viết thư mừng sinh nhật bà Phayin Luxia Macôna tám mươi tám tuổi. Phòng tôi trên gác tĩnh mịch giữa đồi thông và những cây liễu Nhật hoa đỏ. Bà công nhân Luxia tnà tôi quen biết từ chuyến đi Ôđetxa ấy. Mỗi lần gặp lại ở Matxcơva, lại nghe bà kể chuyện nước Đức. Hè năm nọ công nhân nhà máy được sang Đức chơi. Thế vậy từ đấy cái gì bà cũng nói kèm... ở Đức... Cái nước Đức của bà Luxia không còn, bà có biết không. Có biết thì chắc là bà bạn thân yêu cũng không tin, bà vẫn có cái nước Đức... bà chỉ có nước Đức một lần đã được ở bên Đức... nước Đức của bà khác, mãi mãi thế. Bà Luxia cũng đại khái người như ông lão quê khu Năm giữ kho quần áo tài chính nước tôi.
Cái thông minh và hóm hỉnh của Marich đã khiến nhiều người lầm Marich gốc Do Thái. Trẻ con Do Thái học lớp nào cũng giỏi nhất và người Do Thái cư ngụ mỗi nước đều nhiều những nhà tư tưởng, nhà văn, những triệu phú và chính khách có tiếng. ở Marich, tính nết và nghị lực rất Do Thái. Marich khiêu vũ giỏi, nhưng không chơi. Marich uống rượu chẳng kém Vlat và Mixen nhưng không rượu một mình và khi một mình thì ăn uống đạm bạc, khắc khổ.
Marich lúc nào cũng chỉnh tề, kiểu diện đứng đắn của người làm ra vẻ có tuổi. Marich mê mũ đẹp. Hàng chục cái mũ đặt trên giá như triển lãm mũ. Mũ của Marich hiệnđại, nhưng không phải kiểu mốt xăng nghiêng vành mà Marich đội ngay ngắn, mốt mới nhất, mốt không có mốt. ấy cũng vì mũ đẹp, diện mũ mà người đội mũ đã gặp tai nạn về mũ, suýt chết. Đứa nào chắc thèm cái mũ đẹp, nó đã ngắm rồi tăm sẵn. Marich đến nhà cụ Nicôlai ăn tối. ở thang máy ra, đi qua mấy bụi lila có đu trẻ con chơi, thằng trộm thình lình xông tới, giựt mũ của Marich. Rồi nó phang một phát, không biết chiếc ba toong hay mảnh gỗ vào cái trán đồ sộ của người đội mũ. May, chỉ chảy máu và phải buộc băng, nằm nhà ít hôm. Tôi nghe kể rồi đến hôm gặp lại vẫn thấy Marich đội mũ và trên giá lại chiếc mũ mới, mũ vơlưa mượt mà, cái đen thẫm, cái màu xám nhờ nhờ... Đắm đuối thì phải luỵ, cũng là cái thú, cái oan nợ chăng. Chẳng khác chị Ba Valenska bên Ba Lan. Nhà văn Monica Valenska chuyên viết phóng sự. Chị Ba đã đến khu giải phóng, chẳng những thế chị đã đóng vai y tá đi với phái đoàn quốc tế Ba Lan vào ở nội thành Sài Gòn. Nhưng tác phẩm về Việt Nam của chị là một phần quan trọng sự nghiệp nhà văn của chị. Chị thích khăn quàng đẹp. Bọn lưu manh cũng chẳng cần biết chị thế nào. Mấy lần chị bị kẻ cắp lột khăn quàng trong cầu thang máy. Chị vẫn chơi khăn đẹp nhưng rồi hôm nào quàng khăn đắt tiền, chị đi bộ lên nhà ở tầng bốn.
Marich nuôi mộng rồi trở thành cây bút trào phúng. Nhưng trước mắt, Marích mới xin được việc ở hội nhà văn, may mà công việc gần gũi với ước mơ. Marich sáng tác truyện vui về bóng đá. Không đưa các báo ở Matxcơva, Marich gửi cho báo các nước cộng hoà.
Có cái được đăng, có cái không. Marich cũng không có nhiều thì giờ, ở đây thì giờ cho lao động trí óc cũng hơi hướng công nghiệp. Người ta trả lương cho công tác anh, không cho anh ăn lương ngồi nhà viết.
Bước đầu, Marich dịch văn học Việt Nam. Đến năm anh thôi việc ban đối ngoại thì dịch văn học Việt Nam là nguồn sống và giúp xây hoài bão cho nhà văn trào phúng. Dịch tiếng Việt có thành tựu đã đưa anh vào hội viên hội nhà văn Liên Xô ngành dịch thuật.
Marich dịch không nhiều, cẩn thận nhưng chậm. Văn học hiện đại, Marich dịch chuyên một số tác giả: Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi. Và Marich dịch cổ điển: truyện ngắn Lê Thánh Tông, Truyền kỳ mạn lục, Vũ trung tuỳ bút. Không biết có người giới thiệu hay Marich đọc, tác phẩm đầu tiên Marich dịch là Dế mèn phiêu lưu ký.
Của tôi, Marich dịch Đám cưới chuột, tiểu thuyết Miền Tây, tập truyện ngắn Người ven thành, Tuyển tập Tô Hoài, tiểu thuyết Đảo hoang. Cái kỹ tính khi dịch của Marich thật cực kỳ. Trong Đảo hoang tôi miêu tả một ngôi sao có tên là sao gông cỏ. Marich hỏi bằng thư: “Xin anh trả lời cho tôi sao gông cỏ mọc lúc mấy giờ, ở vị trí phương hướng thế nào trên trời. Và tên khoa học của sao gông cỏ. Tôi moi đâu ra tài liệu về sao gông cổ. Chỉ bởi vì tôi muốn bạn đọc thiếu niên ta phân biệt gánh cỏ, quang cỏ, bó cỏ gông cỏ. Gông cỏ là một từ cổ, cái gông cỏ, cũng như cái gông, cái cùm gông vào cổ, cùm vào cổ. Cái gông cỏ là hai cặp tre kẹp cỏ vào giữa rồi gánh đi.
Tôi bịa ra tên ngôi sao cốt làm cho bạn đọc chú ý chữ gông. Tôi không thể bảo cho người bạn nghiêm túc biết cái ẩu ma mãnh của tôi. Tôi đã cắt nghĩa ba hoa cho Marich rằng nhà nông ở đồng bằng sông Hồng đêm đêm nhìn lên vòm trời thấy bao nhiêu là sao: sao tua rua, sao gầu dai, sao gầu sòng, sao con vịt, sao mũ vua Thần nông, có ngôi sao hai tên tối là sao hôm sớm là sao mai và cả một giải ngân hà chi chít li ti sao nổi lên một vòng cung làm cầu Ô Thước cho vợ chồng Ngâu tháng bảy gặp nhau. Sao gông cỏ thuộc sự tích chú Cuội. Chú Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời... Sao gông cỏ ở trong đám sao các đồ nghề nhà nông... gầu dai gàu sòng, mũ vua Thần nông, Marich được tôi cắt nghĩa kỹ lưỡng đến như thế, không thấy hỏi thêm.
Năm sau, Đảo hoang được in lại. Marich dịch tiếp tiểu thuyết Hoàng Văn Thụ cho nhà xuất bản Văn học Matxcơva. Nhưng quyển này gặp trắc trở. Mọi bản thảo dịch đều được nhà xuất bản tổ chức ban giám định kiểm tra dịch và nội dung sách. Tiểu thuyết của tôi không lọt qua được ban này không phải vì trình độ dịch của Marich mà vì trong tiểu thuyết “nhân vật Hoàng Văn Thụ hoạt động cách mạng ở Trung Quốc nhiều quá". Vào lúc ấy, Liên Xô không muốn in một quyển sách nói đến Trung Quốc, đề cao Trung Quốc. Sách không in, Marich chỉ được trả một số tiền công dịch như tài liệu.
Marich rủ Mixen và Vlat, chúng tôi đến nhà hàng Bắc Kinh. Không được in vì tác phẩm đề cao Tàu thì chúng tôi đi cơm rượu Tàu cho hả. Những năm này, khách sạn Bắc Kinh không còn đầu bếp Trung Quốc với các món thịt cá tươi và rau quả được máy bay hàng ngày đưa từ Bắc Kinh sang. Nhưng vẫn sẵn hàng khô súp yến, long tu và rượu Mao Đài. Không đủ tiền ăn sang, chúng tôi uống vốt ca Nga với miến sào mộc nhĩ, canh măng trúc, ăn thì cầm đũa và cơm bát. Rồi bước vào những năm đầu thập kỷ, Matxcơva đương lên cơn sốt cải tổ thì khách sạn và nhà hàng Bắc Kinh được sửa chữa lớn, sang trọng bội phần. Thợ xây dựng và nhà bếp từ Bắc Kinh sang. Phòng ăn tầng lầu nguy nga như những mái đình. Nhưng tôi đến Matxcơva chỉ dửng dưng đi qua cái nơi đã từng ghé, cũng như năm vừa rồi Marich tới Hà Nội chỉ có nguyện vọng được vào cái khách sạn Thống Nhất mà thôi.
Đến cái buồn sau cùng thì buồn quá. Giáo điều và xét lại căng nhau, không in tiểu thuyết Hoàng Văn Thụ Marich bắt tay vào dịch tiểu thuyết Chuyện nỏ thần. Đất nước xô viết đương rã rời ra từng mảnh, một hội nhà văn bỗng dưng thành năm bảy hội nhà văn- cải tổ mà, khó lòng nhà xuất bản nào còn in một cuốn tiểu thuyết Việt Nam. Mọi sự đảo lộn, người ta bận cãi nhau về cải tổ, cải tổ. Không biết số phận Chuyện nỏ thần ra sao.
ô hay, giữa những lung tung xòe như thế, Goócbachôp cấm rượu. Rượu không được bày quảng cáo. Giá rượu trong và ngoài giờ làm việc đều đắt và khác nhau- một trăm gam vôtca uống trong giờ trả nhiều tiền gấp đôi, người mua rượu sắp hàng dài cả dãy phố. ở khách sạn chỉ bán rượu trong bữa ăn – cả bia và rượu đều bán có hạn. Chẳng biết ở các nơi khác còn bao nhiêu điêu linh. Quanh tôi, khách sạn Nước Nga đồ sộ và hiện đại nhất thành phố mà quanh cảnh tất tả như tan chợ vẫn chưa mua được gì. Không bán cho người ngoài phố, nhưng người ta cứ vào, khách ở buồng phải giơ chìa khoá, mỗi người chỉ được mua một bánh xà phòng tắm và một lọ nước eau de Cologne. Trong khi tôi trông thấy những gói xà phòng thơm của người bán hàng nhét vào ngăn tủ riêng, rồi bán cho người ngoài phố vào mua lén lút. Lọ nước thơm đem về đun lên tách cồn ra, không có rượu thì người nghiện uống cái cồn nước rửa tay ấy.
Những sâu rượu không vào được cửa hàng, bâu cả ngoài cửa. Chán rồi kéo ra cuối phố. Đằng ấy có một cái đài to như đài nước xây đá tảng ở vườn hoa hàng Đậu tại Hà Nội- nhưng cái đài to cao ngoại hạng này không bằng đá, mà chẳng biết là sắt hay tôn lá sơn đen kịt đứng trên hàng cọc sắt chi chít. Đấy là trạm trung chuyển bia hơi đặt rải rác các phố vành đai ngoại thành vào trung tâm, bia nhà máy theo đường ống ra đấy, các xe téc đến đỗ chìa lưng ra cho vòi xả bia xuống, rồi phân phát đi các cửa hàng. Biết những các téc ấy chạy đi đâu, vào hồi khó khăn này chẳng mấy khi cửa hàng nào có một giọt bia hơi. Và cũng chẳng biết cái hồi chứa chan bia rượu thì thế nào, bây giờ người bu như kiến quanh cái vòm bia này từ bảnh mắt. Họ mua xỉ qua người đánh xe, người bắc vòi bán chui hay người ta hứng can dưới những cái bể tràn, chốc chốc lại một bọn rùng rùng xô ra, mỗi tay xách một xô bia, mặt mũi bừng bừng. Cả một quãng hè, la liệt người uống bia từ sáng sớm. Say rồi lăn ra đấy, lúc dậy lại uống, có khi qua ngày...
Tiểu thuyết Chuyện nỏ thần thế là gác lại.
Có thể Marich bận những chuyện khác. Marich cũng đương hung hăng ủng hộ cải tổ. Vẫn ở cái trụ sở mọi khi, tượng L. Tôntôi ngồi trên bệ giữa vườn táo suất mùa hạ sang mùa thu, những con chim sẻ, con bồ câu đến đậu trên đầu, trên vai ông. Nhưng mà trong nhà bây giờ người ta chia buồng, ngăn vách ra thành những hội nhà văn khác nhau. Marich là một tay hoạt động đả đảo kịch liệt hội Nhà văn Liên Xô. Marich thường nói lỡm: "Tôi bằng tuổi lão Goócbachôp". Có nghĩa là trong chiến tranh, Goobachốp cũng như thằng bé Marich lên mười đi tản cư vào Trung á với mẹ, lúc nào cũng thèm ăn đường. Marich hăng hái trong một hội nhà văn nào đó mới được lập ra. Marich không phải đảng viên cộng sản. Tôi cũng không bao giờ nghĩ anh có thể là một người có quan điểm macxit. Anh là người vui tính, nhìn cái gì cũng trò đùa. Nhà văn trào phúng thì chưa thấy đâu, nhưng trong cuộc đời thì Marich hay nhặt ra những triết lý khi nào cũng mỉa mai và buồn cười. Marich chỉ cho tôi một câu trẻ con viết phấn nguệch ngoạc ở vách thang máy: "Tao không bằng con chó. Con chó đứng đâu cũng đái, không ai cấm được” Khi xe buýt chạy qua phố nhà in báo Sự thật, Marich nói: “Cứ hôm nào tôi buồn quá thì tôi lại phải đi qua đây, có thế tinh thần mới lên được một chút".
Mất hút hy vọng in Chuyện nỏ thần. Không nghe Marich nói gì về nó nữa. Không phải cứ truyện ngắn truyện dài Việt Nam là được người dịch và nhà xuất bản vồ lấy, nhất là tình hình bây giờ. Tôi biết có tập truyện, có tiểu thuyết ta dịch ra tiếng Nga số in có 500 cuốn- in cho có đầu sách báo cáo. Cái lần Niculin sang bàn in một số tuyển tập của nhà văn Việt Nam, Thường vụ Hội nhà văn Việt Nam gợi ý bạn nên in nhiều hơn các tác giả đương thời và các tác phẩm đề tài mới. Niculin trình bày “cũng đã chú trọng, đã in nhưng các nhà xuất bản của chúng tôi quan tâm hàng đầu vấn đề tác phẩm với đối tượng bạn đọc".
Tác phẩm văn học Việt Nam ra thế giới còn là cả một quá trình mà trước nhất phải có được các nhà dịch thuật giỏi tiếng Việt, tiếng Việt văn học. Một nền văn học lớn như văn học Trung Quốc, những người có trách nhiệm đến bây giờ vẫn nhận xét văn học Trung Quốc chưa ra được thế giới bao nhiêu, bởi chưa có được lực lượng các nhà dịch thuật giỏi.
Buồn hiu hiu, trời thì lạnh, ước lượng cả lũ sẽ uống hết chỗ rượu này mà không mua thêm được. Chưa đủ liều, chẳng bõ chua miệng. Các bạn cử Marich và tôi đi lùng vôtca. Tôi đi với Marich, không phải tôi là chủ tiền mà bởi dẫu tôi không biết tiếng, nhưng có việc phải bàn thì còn có thể biến báo và có phải sắp hàng thì có thêm một nhân mạng. Cái cung cách mua bán ở đây vào cửa hàng, mua mấy lưỡi dao cạo râu, nắm ruột bút bi đều qua ba khâu nhà hàng ở ba nơi. Người bán ghi phiếu, người mua đem phiếu ra quĩ trả tiền, cầm phiếu trở lại chỗ lấy hàng. Ba chỗ đều phải xếp hàng. Đi với Marich, một buổi sáng chỉ mua được mấy cái dây mai so. Khuya rồi, chắc các cửa hàng có bán rượu đều đã đóng cửa. Người nghiện thì đã ở nhà uống cồn, hay là chui lủi ở những đâu, người rượu ở Matxcơva bây giờ như con chuột cống.
Marich bảo người lái taxi:
- Đi đâu à? Tôi đi tìm rượu. Anh giúp cho nhé.
Người taxi nhìn chúng tôi và nói:
- Bây giờ sang Mông Cổ may ra mới có rượu. Nhưng mà cứ đi xem.
Những dãy đèn huỳnh quang sáng trắng lần lượt tắt. Còn lại những ngọn đèn vàng khè. Người taxi có vẻ thạo và thương người đi săn rượu đêm trong lúc khốn khó này. Qua mấy phố, vào mấy cửa hiệu khác nhau, có cửa hàng đã đương đóng cửa. Nhưng không đâu tìm được rượu.
Một lát, xe vào một ngõ hẻm. Phía bên tường cao cao sấp bóng, nhận ra đương đi vào con đường cổ kính bên chân tường pháo đài điện Kremlin tối âm thầm.
Nhưng đằng xa còn có nhà mờ cửa sáng đèn. Xe đến trước một hiệu thực phẩm. Người lái đỗ xe, lại nhanh nhẹn bước vào trước. Một lát quay ra vẫy Marich theo.
Rồi lát sau trở ra, mỗi người ôm một bọc ni lông. Lên xe mở gói, bốn chai vôtka loại 75, ối giời ôi. Đã lâu mới trông thấy một người cầm mấy chai một túi rượu to như thế.
Người lái xe nói:
- Chẳng ai phải ngạc nhiên đâu. Goócbachôp cấm rượu, rượu chỉ bán có giờ, mỗi giờ một giá, nhưng quán này ông đến lúc nào cũng được. Cửa hàng này dành riêng ông ta mà.
- Goócbachôp đi mua rượu a?
Lái xe của ông ấy ra mua. Có thế cánh lái xe chúng tôi mới biết tận tổ quỷ chớ. Chúng nó nhầm tôi đi mua rượu uống khuya cho Goócbachôp. Các ông được làm Goócbachôp một lúc, oai không.
Ai cũng cười hê hê. Câu chuyện bịa tạc ba lơn của tôi Marich biếu anh taxi một chai. Chúng tôi chỉ uống tiếp cho khỏi nhạt miệng. Người taxi còn quay đầu lại hỏi to: “Mai các ông Goócbachôp có đi mua rượu không?”
Đêm ấy ngủ nhà Marich, khuya quá, không muốn về khách sạn. Tôi ở nhà Marich cũng đã quen, có khi mê đọc ở luôn năm ba ngày. Phòng làm việc của Marich với thư viện là một, tôi nằm ngồi giữa giá sách, nhiều sách Việt Nam xưa và nay. Có cả quyển “Năm Việt Nam so sánh âm lịch dương lịch", tôi tò mò lần đầu tiên tìm ngày sinh năm dương lịch của tôi. Khai sinh của tôi 16 tháng tám là năm âm lịch. Tôi được sinh ở làng, thời ấy chưa có lệ làm giấy khai sinh. Đến năm ra học trường tiểu học Yên Phụ mới đi xin khai sinh và lậu xuống ba tuổi cho không quá tuổi lớp bét. Mẹ tôi bảo: “Đẻ con chặp tối ngày 16 tháng tám ta, hôm ấy trăng tròn hơn trăng đêm rằm". Nhớ thế, giấy tờ nào về sau, cả khai sinh tôi đều lấy ngày tháng âm lịch như dương lịch và năm thân là 1920. Bây giờ nằm ở Matxcơva mới tìm ra tôi sinh ngảy 23 tháng chín dương lịch.
Nhà Marich căn hộ bé bỏng tầng bốn, có một buồng ngủ và buồng khách cũng là phòng làm việc. Buồng ăn và bếp cũng một. Bác sĩ khoa sản Ina Ivanôpna đi làm cả ngày. Tôi làm khách, buổi tối chỉ việc ngả cái giường gấp bên cửa sổ. Trên tường gắn mẩu gỗ chạm làn mây đuôi rồng sơn son thếp vàng nhặt được ở bãi cỏ trên đồi vườn đền Bà Triệu ở Thanh Hoá, cái lần đi với Simônôp vào tuyến lửa Vĩnh Linh. Cạnh tường đặt chiếc đôn sứ Bát Tràng mua ở chợ Đồng Xuân- kỷ niệm ê chề cho tôi. Tôi cắt nghĩa mãi, anh cán bộ đối ngoại đi phục vụ đoàn cũng không cho đem ra cân gửi máy bay, vì “nó là đồ cổ cấm xuất khẩu". Marich đã toan bỏ lại.
Chỉ gặp Marich ở nhà hàng và nơi chơi nhởi không thể hiểu được con người Nga có máu Do Thái, thông minh và sinh hoạt đạm bạc. Bữa chiều lắm hôm dùng xúp lạnh vừng đen, miếng bánh mata như chiếc bánh đa nướng. Có hôm tảng xương bò, xương cừu hầm xúp, buổi tối uống nước chè đen, bánh ngọt. Marich lấy một thìa nước mắm nhưng phết vào dăm bông hun khói nước mắm Marich đã mua trữ mỗi lần đi Hà Nội hay đôi khi quà của Nguyễn Tuân, chè xanh và nước mắm Cát Hải mà bà Nguyễn đã chưng cô lại, một lít nước chỉ còn được một lọ kem.
Chúng tôi không uống rượu. Bàn ăn chỉ có rượu những hôm thết bạn và thường rượu các bạn mang tới. Có những bạn đã đến Việt Nam nhiều lần, như Marich đã trải biết mọi thời tiết chính trị cũng như thiên nhiên đất nước ta và đã đến Hà Nội bằng nhiều đường khác nhau. Lại Misen phóng viên thường trú báo Tin Tức ở Hà Nội liền ba khoá mười hai năm rồi ở Hà Nội về đi thường trú ở ý đến tận bây giờ. Aliôsa- Simônôp con, nhà đạo diễn điện ảnh kể: “Năm ngoái, một chiếc tàu đại dương mới hạ thuỷ, mang tên bố tôi, tàu Simônôp. Tôi được mời đi chuyến khánh thành đầu tiên tàu Simônốp đi vòng quanh thế giới". Chỉ thương Vlat và Êmin, bao giờ gặp cũng hỏi: “Tôi có nên đi Hà Nội không? Bao giờ đi?”. Cán bộ Vlat ở bộ phận đối ngoại tiếng Pháp hay sang giúp ban tiếng Việt. Vlat nói: “Tôi đến Việt Nam, tôi sẽ lấy vợ và ở đấy không về Matxcơva nữa".
Vlat thì còn may ra, nhưng cái người chẳng bận chút nào đến công việc chúng tôi mà vẫn ao ước thế, ấy là Êmin. Êmin diễn viên kịch nói nhà hát thành phố. Không biết Êmin đóng thế nào, nhưng tôi đã xem Êmin vào vai Đôngkixốt. Anh mảnh khảnh, cao lêu đêu, làm Đôngkixôt chẳng cần độn vai, ủng cao gót.
Có điều Đôngkixôt đi chu du cứu nhân độ thế tưởng tượng, uống nước lạnh mà khen là mỹ tửu vua chúa ban cho, còn Êmin Đôngkixôt thì uống rượu cả lít.
Tối ấy, Êmin có vai. Từ chiều, chúng tôi đã tụ tập trong quán bên kia đường trước nhà hát. Êmin nốc như trút nước vào hũ, và chuyện tưng bừng. Marich dịch cho tôi nghe rằng anh ta đương kể về những vui chơi thuở bé ở Ôđetxa. Êmin cũng là con một bà dì, một ông bác nào đó của Marich. Lại những người quây quần ở một xóm Do Thái ngoài cửa cảng, ở đấy chỉ đi quá vài bước, vài giờ thuyền thì đã sang nước khác. Êmin kể chuyện ngày nào cũng kéo hội đi đánh nhau với trẻ con Nga, đánh nhau vui lắm. Bất chợt, Êmin xem đồng hồ rồi đứng dậy. Chúng tôi theo Êmin vào nhà hát. Êmin bước như không vào sau sân khấu. Nếu không cùng bàn rượu lúc nãy không thể biết Êmin vừa uống vô hồi kỳ trận. Thế mà kìa kìa Êmin đã ra, Êmin trong cánh gà bước ra, ông Đôngkixôt Êmin lênh khênh giữa sân khấu. Rượu hay không thì cái dáng Đôngkixôt cặp kè với thằng lùn đầy tớ Păngsô vẫn ngất ngưởng lêu đêu thế.
Êmin vẫn đi bước một quay lưng, ngửa mặt, mỗi tiếng Đôngkixôt quát Păngsô thì cả rạp rào rào vỗ tay.
Có lẽ vai kịch thành công được nhờ rượu lúc nãy. Tan hát, lại sang quán uống. Êmin nói “Vai hôm nay giỏi, được thưởng". Rồi xoè ra mấy đồng rúp giấy bạc mới.
Một năm kia tôi nhận được thư Marich báo tin Êmin đã mất vì bệnh phổi. Cây rượu Hoàng Trung Thông của tôi cũng mất bệnh phổi. Hay là cái rượu chỉ bổ máu, không bao giờ thành bệnh gan bệnh ruột.
Nguyễn Văn Bổng gửi tôi đem đi một bình hương bằng sứ mua ngoài chợ để đặt ở mộ Êmin. Nghĩa trang để Êmin cũng ở vùng trung tâm- một nghĩa trang vẫn nền nếp ngày trước. Những cây cổ thụ âm u như rừng. Đương mùa thu, màu cây và mặt đất vàng rượi, nhưng trên các lối đi được quét gọn ghẽ, người đến viếng nghĩa trang đông cả ngày chủ nhật. Những dãy mộ giản dị. Êmin nằm giữa hai hòn đá tảng, cái đĩa sứ in hình Êmin vẫn phảng phất ông hiệp sĩ Đôngkixôt trang nghiêm, say rượu cũng như không, thật cười ra nước mắt. Sắm sửa ra mộ, Marich đã sẵn một thẻ hương- ở nhà Marich lúc nào cũng trữ hương và trầm, Marich đã quen bà bán con bột giống và hàng hương bên cửa chợ Đồng Xuân, và chúng tôi đem theo cái bình hương mới của Nguyễn Văn Bổng. Marich kể mỗi chiều thứ bảy mẹ Êmin lại mang hoa đến mộ con. Chúng tôi ngồi bên mộ Êmin đến tàn nén hương. Marich cầm cái bình hương, đổ đất ra rồi bỏ vào túi xách. Marich nói cắt nghĩa: Để đây thì người ta lấy mất.
- Có thể gắn xi măng vào tảng đá này.
- Không được. Cái bình hương lạ mắt thế này có gắn vào tảng đá nó cũng nậy ra. Tôi đem về, khi nào đi viếng lại mang theo, thế mới chắc chắn và bền lâu được. Ông về nói với ông Bổng cách tôi giữ cái bình hương ông ấy cho Êmin như thế, chắc ông ấy bằng lòng.
Những chuyện mơ màng, bao nhiêu chuyện mơ màng.
Marich kể một chuyến ở Việt Nam về đã bay lên đậu Khatmanđu nước Nêpan chân dãy Hymalaya. Trở về, chỉ có một chuyện làm quà: ở kinh đô nước này có cụ Dir Narayan Chouhury, năm ấy được 138 tuổi- người đương già nhất hành tinh, ai đến Katmanđu nghe tiếng cũng đến chơi. Hai nhà văn đến thăm người có tuổi thọ để cầu phúc. Nhưng cụ lại muốn chết. Cụ nói: Chúa ơi, đời tôi dài quá. Chúa hãy nghe lời tôi nguyện, cho tôi về ngay nước Chúa". Nhưng rồi hỏi khách: “Các ông đã gặp đức vua chưa? Tôi ước được thấy đức vua ngồi tàu bay đến chơi với tôi”.
Những chuyện kỳ lạ nhưng vẫn chưa giang hồ bằng Marich với Acanôp ở Việt Nam về đã đáp một tàu đại dương chở chuối và dứa, cả tháng trời lênh đênh ven Thái Bình Dương lên cảng Vlađivôttôc, rồi sang tàu hoả về Matxcơva.
ở Hà Nội tôi quen M. Ilinki phóng viên thường trú báo Tin Tức. Misen ở tầng hai khách sạn Thống Nhất, cửa sổ trông ra bụi tre đằng ngà vườn hoa Con Cóc.
Bây giờ đi qua khách sạn đã tân trang lộng lẫy nhưng vẫn giữ cái cửa sổ màu vàng nhạt như thế. Năm đầu Misen ở một mình. Cô Nhã làm nhà phòng cho Misen ít lâu, rồi bị khách sạn đuổi việc. Phòng khách nhà Misen ở Matxcơva treo bức ánh cô Nhã phóng to. Tôi chỉ trông thấy và biết như thế thôi. Năm sau, vợ Misen sang và ở liền hơn mười năm, tới khi Misen về. Con trai Misen học lớp mẫu giáo trên đại sứ quán. Nó nghịch hơn quỉ giãy, mọi người làm ở khách sạn nói đùa: “Thằng bé này nó đốt khách sạn lúc nào không biết chừng”.
Và người ta cũng gọi đùa Misen là “quan năm tình báo". Misen cười, nói thêm, “Tôi là quan năm tình báo bằng giấy".
Tôi hỏi Misen:
- ăn thịt chó được không?
- Rựa mận thì cũng như sasơlich thịt cừu nướng.
- Hôm nào về quê chén thịt chó.
Misen đã xin được giấy phép xe ra ngoài Hà Nội.
Người nước ngoài ra khỏi thành phố phải có giấy, mà chỉ được phép từng chuyến. Nhà thơ Eptuchenkô ra Hạ Long. Chương trình có cuộc thăm ủy ban tỉnh. Nhưng giấy phép chỉ được đi đến khu nghì mát Băi Cháy, sang tỉnh thì phải có giấy khác. May thay, thoát được việc cập rập xin giấy, bởi vì chàng Eptuchenkô tự do chủ nghĩa suốt cả ngày ở biển cởi trần nằm trên mái thuyền ăn tôm hùm nướng chấm muối rồi mở đài và làm thơ. Anh ta xua tay “Tôi không muốn nghe con số. Cứ cho tôi ngồi trên mui thuyền thế này! ”
Lúc về Hải Phòng lại rắc rối khác. ở Hà Nội, Eptuchenkô đã gặp người chỉ huy một tàu đại dương của Liên xô. Vừa vào cảng, ông này mời Eptuchenkô có dịp thì xuống tàu nói chuyện thơ với thuỷ thủ. Đến đây mới được gặp nhà thơ lớn này, chứ ở Nga không phải dễ đã mỗi lúc gặp được. Qua Hải Phòng, người chỉ huy tàu chưa về mà Eptuchenkô thì không có giấy vào cảng. Eptuchenkô nói: “Tôi là người Nga không phải người Mỹ". Người gác cảng nói: “Tôi biết đồng chí là người Nga, nhưng chúng tôi cần giấy phép! ”. Thế là chúng tôi đành chào thua.
Chúng tôi về Nghĩa Đô, nhà anh Ba- anh em họ tôi và đồng tuế. Anh Ba giỏi làm thịt chó. Món anh nấu hợp với tôi, tôi ưa thịt chó mộc không gia giảm nước đường, bột ngọt. Chẳng bao giờ, chẳng bao giờ có nữa, Nguyễn Tuân, Phạm Văn Khoa và anh Ba về đất cả rồi. Những ngày tháng mười rét ngăn ngắt, Nguyễn Tuân, Kim Lân với tôi cùng anh Ba ra đồng bắt chuột rồi về nhà đánh chén. Các nhà văn đi xem bắt chuột thôi, còn thì hai ông bạn tôi uống rượu thịt gà. Đến hôm nay chỉ còn hiu hắt, nhóc nhách có tôi với anh Hạc- Kim Lân đóng vai lão Hạc trong phim truyện Chi Phèo của Nam Cao. Những tối vào quán Cây Sấu đi với nhạc sĩ Xuân Đào, Viện trưởng bộ Giao thông Vận tải con trai cụ Nguyễn được các em, các cháu láo lếu gọi “Anh Hạc, anh Hạc ơi, anh Hạc! ”
Nghe cứ vui ít buồn nhiều thế nào ấy.
Quả là Misen bằng những người Tây táo tợn nhất, cũng chỉ đả được rựa mận và chả chó, không ăn được thịt luộc. Hôm ấy cả vợ Misen, một cô bạn Nga và thằng nhóc nhà Misen. Rựa mận, thịt nướng, bún mắm tôm, bún sáo. Misen vui chén, bốc: “Tôi sẽ đề nghị khách sạn Thống Nhất làm món mới, thực đơn đề: Cừu nướng, cừu hấp Hà Nội. Tôi sẽ mời anh Ba ra chuyên trách bếp".
Với tôi, ăn uống cũng là cái thú thưởng ngoạn. Quán Grudia thịt cừu nướng. Tranh Pirômanivili vẽ hoành tráng hầm quán ăn phố Putordi, thịt cừu treo, ông lão vác bìu rượu, những sừng rượu. Quán Praha xúc xích hun khói... nhạc Tiệp. Cũng như vào quán Bắc Kinh ngự thiện nơi cung điện choáng lộn. Bây giờ mà “thịt cừu Hà Nội” của Mixen có tên trong thực đơn khách sạn, cũng hay.
Có tiền thì nhung nhăng, nhưng mấy khi có tiền.
Theo cách trả tiền nhuận bút ở Matxcơva, nhà xuất bản trả công cao người dịch, bởi người dịch là người lao động truyền đạt áng văn thơ tới bạn đọc. Tôi được một nghìn rúp về Dế mèn phiêu lưu ký, trong khi Marich ăn mười nghìn. ấy là quyển sách in số lượng lớn. Và không phải cứ tác phẩm Việt Nam in ở nước ngoài thì nhất thiết được nhuận bút. Không có đâu. Chỉ vì Việt Nam không có chân hội bản quyền quốc tế. Mà ta cũng không nên vào. Cả chục năm, chưa chắc đã có nước in một tác phẩm Việt Nam, mà một năm các nhà xuất bản nước ta in hàng trăm, hàng trăm sách dịch. Thế thì người ta sẽ mở văn phòng ở Hà Nội, ở Sài Gòn để thu tiền bản quyền. Chẳng chơi. Trước kia, các nước xã hội chủ nghĩa đưa nhuận bút sách cho ta là vì tình, không phải vì luật. Một nhà xuất bản ở Thái Lan in Dế mèn phiêu lưu ký, ở Nhật in Truyện Tây Bắc. Tôi nhận được mười quyển sách biếu và thư cảm ơn trân trọng và “lấy làm tiếc không được trả bản quyền ông vì...” ấy thế nhưng vẫn có những ngoại lệ lắt léo. Nhà văn Việt Nam nào đó có bài, có sách in ở nước ngoài, một ngày kia nhận được nhuận bút qua bưu điện hay là có người đưa đến tận tay. Nhà xuất bản Aube ở Pari mới năm ngoái 1996 in Tuyển tập Truyện ngắn Việt Nam đã đưa sách và tiền đến Hà Nội trả các tác giả. Cũng nhà xuất bản này cũng mới năm ngoái in Dế mèn phiêu lưu ký, không hỏi tôi, không một lời cám ơn tôi và cũng quịt luôn tiền và sách biếu. Không lơ đãng đâu, họ có thủ đoạn của họ cả.
Và cũng lại vô khối những ngông nghênh ngang trời của người cầm bút mà tôi biết, các nước khác thôi, tôi chuyện cho sướng tai. Cái năm tôi đến nhà xuất bản Văn học ở Matxcơva nhận tiền bản quyền Tuyển tập Tô Hoài in lần thứ nhất. Trong chuyện qua lại, được biết nhà xuất bản đợi nhà văn Hêminuây sang lấy bản quyền, ông ấy đang xem đấu bò tót ở Tây Ban Nha. Rồi Hêminuây trả lời ông sẵn sàng đến Matxcơva, đề nghị nhà xuất bản mời cùng đi với ông một người bạn của ông đấu bò tót, ông chịu tốn phí. Nhà xuất bản đã không được phép mời như vậy. Hêminuây không đi Matxcơva. Lại như G. G Mackêt đã bỏ tiền đi thăm Việt Nam. Đi chơi thôi, mà về G. G Mackêt cũng viết được một phóng sự dài về Việt Nam. Vợ chồng con cái đáp tàu biển từ Thái Lan sang. Đi xem hát, thằng bé mười tuổi thích cái sáo. Khôi Viên cán bộ hội Văn nghệ Hà Nội dẫn nó đến đoàn chèo Hà Nội nghe thổi sáo và mua cho nó một cái sáo. Mackêt kể: Nhà xuất bản ở Matxcơva đã mời ông đến lấy nhuận bút tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Thư ký của ông xem lại tập sách dịch, thấy một số đoạn bị tước bỏ. Mackêt đã trả lời phản đối nhà xuất bản lược dịch không đến lấy nhuận bút và huỷ bỏ chuyến đi Matxcơva. Mackêt cũng có một ý muốn thú vị. Ông sẽ tặng giấy, nếu ta in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ yêu cầu không bỏ đoạn nào. Bấy giờ sau 1975 mới một hai năm. Hơn hai mươi năm đã qua, mọi chuyện vào quên lãng..
Thỉnh thoảng qua lại Matxcơva nhận được đôi chút bổng lộc như thế. Các bạn còn nghĩ ra cách lấy tiền nhuận bút sao cho thuận tiện. Bởi ở Matxcơva đi lấy tiền sách cũng lỉnh kỉnh tương tự mua hàng. Trong tuần, có những buổi trả tiền nhất định. Đứng trước chấn song lưới sắt, đưa hộ chiếu qua cửa mắt bò, nhặt cái bút bi đã buộc một đầu dây vào góc bàn, ký ngoằng một chữ. Những tờ giấy bạc và đồng xu lại đưa ra qua cửa mắt bò. Làm thế nào chỉ đi qua cũng có thể có tiền ngay được. Ira đã mua cho tôi hai sổ tiết kiệm, cái đứng tên Marich, cái thì tên Ina Dimonina. Tôi có tiền nhuận bút sách hay bài báo, nơi lấy tiền gần nhà bạn nào thì bạn ấy nhận hộ. Sáng kiến gửi tiền sổ tiết kiệm cũng gần gũi với thói quen người thành phố bấy giờ. Người ta có tiền, cả tiền lương cũng gửi tiết kiệm, thường tiêu đến đâu lại đi lấy.
Năm 1990, tôi còn một sổ tiết kiệm đứng tên Marich. Trong sổ chỉ có một rúp- một cách giữ để khỏi mua sổ mới. Marich hỏi tôi: “Ông lấy một rúp ở sổ ra, giữ làm kỷ niệm Liên Xô” Bây giờ cả nghìn rúp mới mua nổi mẩu bánh mì gối, tôi giữ cái thương đau ấy làm gì”. Tôi bảo Marich đốt cái sổ tiết kiệm ấy đi..
Kể ra thì từ lâu sổ tiết kiệm đã cạn kiệt tiền. Chỉ còn vài ba đồng, mà anh em mừng lại gặp mặt nhau thì đông đủ sẵn. May gặp khi nhà phóng viên Misen có ở Matxcơva. Làm thế nào cho có tiền, mọi người tính kế. Tôi được đề nghị viết một bài “đọc sách” trên báo Sự Thật. Marich đi lĩnh được một trăm rúp, vừa đủ tiền. Tôi “đọc sách” một quyển sách chưa đọc bao giờ hồi ký Dải đất hẹp của Brơgiênep!
Misen đã hết nhiệm kỳ sau cùng ở Việt Nam, bây giờ thường trú ở Rôma. Trong cuộc chén Misen doạ sẽ tìm cách cho tất cả bọn ngồi đây đi ý chơi. Rượu hẹn thế chứ chẳng cơn cớ nào, mà Misen tiền đâu.
Thế mà Misen đã có mặt ở Sai Gòn ngay trong năm 1975. Có lẽ vì cả mười mấy năm ở Hà Nội, việc của Misen, bài viết của Misen tất cả tinh thần vì sự nghiệp giải phóng miền Nam Việt Nam, bây giờ Misen phải đến, Misen phải tận mắt nhìn thấy, phải bước chân trên thành phố giải phóng, Misen đã từ Rôma bay sang Việt Nam.
Tình cờ làm sao, tôi gặp Misen ở Sài Gòn. Chúng tôi đưa nhau đến một địa chỉ đặc biệt của thời cuộc, quán ăn của luật sư thượng nghị sĩ Phước Đại. Bà nghị sĩ và thày cãi có cỡ ấy mở quán nhậu- quán nhậu vừa khai trương đã có tiếng. Bà Phước Đại hàng ngày đi chợ mua thức ăn và phụ bếp. Khách vào phòng ăn ngồi giữa những giá sách đóng gáy mạ vàng, có lẽ những bộ luật các nước trên thế giới. Những cô thiếu nữ bưng bê mà chủ nhân giới thiệu là các cháu trong nhà, những sinh viên luật, những luật sư mới tốt nghiệp. Rồi những năm về sau bà Phước Đại càng có tuổi càng đẹp lão và có duyên trong mọi công việc, ly kỳ và mới mẻ hơn cả thời kỳ cái quán hàng mà tôi nghe đồn Tổng thống Pháp Mittơrăng thăm Sài Gòn cũng đến đây nhậu. Có lúc muốn làm thiếu nữ, và đi thi nói tiếng Pháp, giật giải nhất, được thưởng một chuyến đi thăm Pháp- đất nước mà bà đã ở cả thuở thiếu thời. Bà đã đưa một đội các lão bà thái cực quyền và đồng ca của câu lạc bộ ngoài trời vườn Tao Đàn ra giới thiệu với câu lạc bộ ngoài trời hồ Hoàn Kiếm. Và không biết ai lĩnh xướng, bà hát, bà hát...
Hơn hai mươi năm trời, vẫn con người bay nhảy yêu đời Misen. Misen và tôi ngồi quán Phước Đại đến khuya, khách đã vãn. Misen nói với Phước Đại chủ nhân: “Thưa bà, nếu có thể được, xin bà cho xếp những chồng sách luật xuống đây kê làm giường, làm gối. Nằm trên một núi trí thức thế, chắc ngày mai chúng tôi sẽ thông minh hơn".
Lâu lắm không gặp Misen. Nghe tin mẹ anh đã mất. Thằng con như quỉ sứ làm loạn khách sạn Thống Nhất năm xưa đã vào đại học từ lâu. Lại biết chuyện không vui lúc này Misen bệnh dạ dày, phải kiêng. Misen mà bỏ rượu thì còn đâu là Misen. Báo Tin tức vẫn ra. Misen có còn làm việc hay là bị cánh cải tổ đuổi đi rồi?
Còn đến bây giờ là đời vợ thứ ba của Marich. Không phải Marich bỏ vợ mà Marich mất vợ, mất cả nhà. Trở về mối tình đầu Marich với Ira, hai người lúc nào cũng quyến luyến trân trọng đến với bạn bè. Dự tiệc nhà ông Simônôp, ăn cơm Grudia cụ Nicôlai nấu, đến sinh nhật Sôlukhin hàng trăm khách. Sôlukhin đã viết bút ký Bưu thiếp Việt Nam rất thơ, mà một lần ở Hà Nội tôi đưa vào hiệu nem Cát Tần ở phố Hàng Cót.
Thành phố đương qui đấu tư sản, nhà hàng lơ lửng hé cửa nghe ngóng. Trên bàn trơ trọi mấy chai bia, chẳng thấy cái cốc nào. Chủ hàng thì đương sợ bạt vía, khách thì về khoe cả trong sách là được uống bia bằng bát kiểu phương Đông.
Nghỉ hè, Marich đưa Ira đi chơi Buđapet. Oách quá. ừ anh ả đã cho cô ả thấy được cái đáng yêu của nhà văn cũng đi du lịch nghỉ mát mùa hè, như ai. Đến khi tôi trở sang Matxcơva đã thấy Marich ở một mình.
Thì ra chuyến chơi nước Hung, gã đại lý hàng không Hungari ở Matxcơva đã quyến được lra. Đi nghỉ trở về Ira đòi ly dị. May mà cô ấy lấy chồng nước ngoài giàu có nên Marich lần này chưa mất nhà. ở Liên Xô kiện ly dị thì cả đôi bên đều bị phạt nặng và toà án thường xử bênh phụ nữ. Đồ đạc trong nhà phải chia đôi. Cô ấy lấy một số tranh và đĩa sơn mài của Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng mà Nguyễn Tuân và tôi đã tặng Marich. Marích nói: “Tôi làm vẻ cao thượng, không cần gì. Cứ để nó lục lọi. Sau xem lại mới biết nó ăn cắp của tôi nhiều quá, tất cả đĩa sành, đĩa sơn mài mấy tập ký hoạ giấy đó tôi đi Việt Nam các bạn cho".
Cô Ira ấy vỡ cái mộng lấy chồng nhà văn, dẫu cho họ đã từng yêu nhau. Cái cô thư ký kế toán này đã làm con tính: nhà văn trẻ rồi thành nhà văn lớn, nhà hai buồng rồi nhà bốn buồng, sáu buồng có nhà nghỉ, có xe riêng, như các ông Simônôp, Mikhancôp...
Nhưng đã mấy năm rồi vẫn chỉ tàng tàng, những sang trọng phú qui cứ bay phất phơ như diều trên trời. Còn cái chàng gà tồ Marich thì mất tiền đưa vợ đi chơi, lại để mất vợ lúc nào không hay.
Marich ngoài ba mươi tuổi đã lâu rồi. Cái trán hói đến đỉnh đầu không còn cần phải vắt cái đuôi tóc lên che bớt. Chưa đến nỗi lụ khụ nhưng phải một quả đắng thế cũng đau điếng, phờ phạc nhiều rồi, già rồi. Cô sinh viên Tania làm luận án tốt nghiệp bằng tiểu thuyết Miền tây của tôi. Tania nhờ người dịch là Marich giúp đỡ Một lần đến làm việc khuya quá, đón taxi về không được. ở phố nhà Marich không khuất nẻo mấy mà đêm gọi taxi rất cực. Những năm ấy, taxi Matxcơva chưa có điện thoại đón đưa khách như bây giờ ở Hà Nội.
Tania phải ngủ lại. Tania cầm chìa khoá buồng làm việc của Marich rồi khoá trái. Marich bảo Tania: “Tôi sắp chết rồi, cô khoá buồng hay cô mở buồng cũng thế".
Nhưng Marich không chết. Marich chỉ bị một đòn chí tử. Đến khi lại người, lại được xơi đòn khác. Một cuộc tình sét đánh. ở một đám cưới trên Lêningrat, Marich làm quen với Ôcsana. Mươi hôm sau, nàng sách vali xuống Matxcơva ở với chàng.
Ôcsana kém Marich cả hai chục tuổi. Người đẫy đà, khuôn mặt không ra Trung á, không ra Nga. Ông nội cô ấy là người Trung Quốc. Marich nói người Trung Quốc ở đâu chẳng có, đội tự vệ đỏ bảo vệ Lênin những ngày đầu Cách mạng Tháng Mười cũng có hai người Trung Quốc đấy thôi.
Cuộc tình mới êm đềm. Ôcsana sinh cho Marich được một con trai, thằng Alêchxanđơ. Alêchxanđơ kháu khỉnh đáng yêu như con chó con. Bà nội ở Mônđavi về chơi luôn. Bà ngoại trên Lêningrat thì xuống ở hàng tháng rồi ở hẳn. Tôi cũng được làm quen với bà ấy. Bà nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, chắc khi còn trẻ bà đẹp hơn cô con gái. Rồi mới biết ngày trước bà là nghệ sĩ múa. Bà nói là nhớ con gái, nhớ cháu, bà qui con rể, bà phải xuống ở với chúng nó. Bà thành người hộ khẩu Matxcơva. Nhà có một buồng, nhưng cái vui là chính.
Hai con mắt Alêchxanđơ lay láy hệt bố và mới đầy năm mà vầng trán to đã vằn ngang một vệt mờ mờ, chắc rồi lại hói sớm như bố. Nhưng cái vui với trẻ thơ cũng không hẳn làm êm thấm được trong nhà. Dần dần nảy ra những rắc rối, mà tất cả bởi bà mẹ vợ.
Ôcsana không có việc làm, bây giờ mới đương học đánh máy. Bức tranh tiền bạc tiêu sơ trong nhà thì cũng tương tự như cái hồi Ira. Mẹ vợ có lương hưu tự cho là không phải nhờ con cái. Nhưng nhà có con nhỏ thì tốn kém lắm không thể tính trước được. Mỗi tháng một thứ tã lót, xống áo và đồ chơi- con cái người ta, ngồi xe dạo vườn hoa quần lành áo tốt thế nào thì nhà mình cũng phải thế ấy. Mà tiền bạc của Marich lúc này có phần còn khó khăn nhiều. Marich vẫn chỉ là người làm, lĩnh lương tháng. Lại đã thôi việc ở hội nhà văn, sang tạp chí Văn học nước ngoài với hy vọng gần gũi hơn với giấc mộng văn chương.
Đến năm tôi gặp lại Marich thì anh chàng đã mất nhà, mất luôn cả vợ con rồi. Câu nói bông lơn của Marich có thể thấu suốt mấy năm gian khổ vừa qua: Họ có mưu đổi Lêningrat về Matxcơva, thế là Trung Quốc đã về Matxcơva chiếm nhà tôi, ông ạ". Ly dị xong, Marich phải ra khỏi nhà. Alechxanđơ còn nhỏ, ở với mẹ. Tháng tháng, Marich đem tiền ra bưu điện gửi cho Ôcsana nuôi con, như toà án đã qui định.
Nghe Marich kể thế. Và lại bao nhiêu năm đã qua, Marich bây giờ ở với bác sĩ khoa sản Irina. Bác sĩ Irina Ivanôpna goá chồng có một con trai. Họ gặp nhau thế nào không biết, tôi cũng không bao giờ hỏi. Marich ở nhà của Ina, tầng hai cạnh ga cuối xe điện ngầm ra ngoại thành, cũng gần sân bay nào, ngày đêm máy bay thường qua. Marich bảo vùng này có tên ngày xưa là rừng Vua Săn Cọp.
Lắm lúc nhìn cảnh mà ái ngại. Marich xuống hẻm trước nhà nghịch đá bóng với thằng con trai Ina, trong khi thằng Alêchxanđơ thì chơi bóng ở đâu, với ai. Những năm sau, mẹ Marich yếu, nghỉ việc, từ thành phố Kisinhiôc ở Mônđavi cũng về đấy. Rồi bà ốm, cô con dâu săn sóc mẹ chồng cho đến khi mất.
Marich lại thôi việc ở tạp chí Văn học Nước ngoài. Marich muốn được hoàn toàn tự do, dẫu cho biên tập tạp chí cũng ít phải khuôn phép giờ giấc. Marich đã là hội viên hội nhà văn ngành dịch, từ dịch thuật đến sáng tác, Marich vẫn theo đuổi mơ ước mà Ira mối tình đầu và Ôcsana đều đã tan mộng nhà văn nổi tiếng.
Nhưng với bác sĩ Ina thì đã êm đềm dài dài, họ không còn ở tuổi loăng quăng.
Việc mà Marich nghĩ bao giờ cũng giản dị nhưng thực thì công phu, kiên trì. Dịch văn học Việt Nam, lấy đấy làm chỗ đứng cho tương lai nhà văn trào phúng sẽ vang lừng thế giớl. Thỉnh thoảng, Marich lại khoe một truyện đả kích bóng đá tỉnh lẻ, một truyện diễu cợt và khinh bỉ một giám đốc nhà xuất bản văn học như chỉ ham chơi ngựa thi. Đến năm không còn Liên xô, các thứ in ấn loạn xạ tràn lan trong lúc “cải tổ”, tôi được Marich tặng một tập truyện ngắn trào phúng khoảng trăm trang, in ở Matxcơva hẳn hoi. Tôi đã nhờ dịch in truyện ông giám đốc văn học chơi ngựa thi trên báo Người Hà Nội.
Phạm Vĩnh Cư là anh em kết nghĩa của Marich, từ khi Cư còn ở tuổi thiếu niên. Cư học phổ thông ở Matxcơva. Marich có hai bạn trẻ thân thiết là Cư và Tước. Tước học khoa báo chí đại học Lômônôsôp. Tước về nước, hồi đầu Marich có dịp đến Hà Nội, Tước đều gặp Nhưng đến khi có chuyện canh chừng thằng bệnh xét lại, Marich vào khách sạn Thống Nhất phải xách va li và làm thủ tục lấy thì Tước cũng biến. Không bao giờ Marich nhắc đến tên Tước nữa. Chỉ có Cư vẫn bền chặt tình nghĩa đến bây giờ. Cư cho tôi biết Marich dịch cẩn thận, nhưng chậm, thêm cái tính rề rà bẩm sinh. Marich mua được cái bàn viết cũ mà Marich nói bàn này từ thời Nga hoàng, vua Nga đã ngồi". Vua Nga đâu không biết, nhưng anh ta cứ ngồi tha thẩn cả ngày không được một hột việc, dã đôi phen khiến bác sĩ Ina phải mất công đi các nhà xuất bản khất hạn nộp bản thảo dịch cho Marich.
Ông nhà văn tự do và thất nghiệp, thế là Ina phải gánh mọi việc trong nhà. Ina quê ở một tỉnh trên sông Đông. Hầu như anh em họ hàng nhà ấy đều làm nghề y Nghề này ở tỉnh nhỏ còn lắm bổng lộc. Nhờ vậy, dưới quê thường có gửi đỡ đần. Rồi lại lâu năm trong nghề, Ina đã là chủ nhiệm khoa sản một bệnh viện lớn. Ina mới tậu một chiếc Matda hàng ngày lái đi làm. Marich bảo tôi: “Ông nên cố gắng có dịp trở lại đây mà ngồi xe của bà ấy. Tôi thì không bao giờ đi xe phụ nữ lái. Tôi sợ chết”.
Bố mẹ thì già đi, trẻ con mỗi năm mỗi lớn. Alêchxanđơ của Marich đã vào đại học, bác sĩ Ina đưa nó đi học y. Thằng bé mê bóng đá, đương sinh viên đại học y đã làm phóng viên tường thuật bóng đá trên đài thành phố. Thằng con riêng của Ina thì tết nghiệp khảo cổ, bây giờ có khi nó đi dạy ở Ixraen, khi sang Mỹ như thằng con trai anh vật lý Bôrit trên Lêningrat. Từ lâu, vợ chồng Marich đã vào ở trung tâm, cái nhà gần ngoại ô hay có máy bay bay qua nửa đêm, thằng khảo cổ ở.
Cho tới nay, vợ chồng Marich đã đi Mỹ mấy lần ở chơi hàng tháng. Không phải là theo thằng con Ina sang Mỹ có lớp giảng bên ấy. Mà vì cùng lứa tuổi học với Marich ở Ôđetxa, Marich có mấy người bạn thân như Bôrit vật lý. Bôrit bây giờ có tiếng, ở biệt thự trên Lêningrat, nhưng cũng chẳng có mấy tiền. ở nhà Marich, tôi bổ quả dứa đem quà ở Hà Nội sang, vợ chồng Bôrit nhặt vỏ dứa ăn hết cả mắt. Anh bạn Ilya cũng tốt nghiệp vật lý như Bôrit nhưng không tìm được việc, phải di cư đi nước ngoài. ở Mỹ, Ilya chỉ làm chuyên môn, nhưng đã triệu phú. Anh về nước chơi nhiều lần. Tôi có nghe điện thoại anh ấy chúc sức khoẻ và gặp ở nhà Marich.
Marich cho tôi xem tập ảnh vợ chồng Marich chơi nhà bạn bên Mỹ. Thôi thì buồng khách, bể bơi, vườn bên sườn núi và bãi cát giả, nhà có ba người thì ba ô tô...
Mới đây, tôi viết thư khoe với Marich tôi đi Quảng Châu về. Marich lại đùa một cách mỉa như thói quen: Vợ chồng tôi lại sắp đi chơi nước Mỹ. ừ, những người danh tiếng như chúng ta thì nhất định phải đi du lịch các cường quốc trên thế giới".
Cũng như Misen, khi Sài Gòn giải phóng, vợ chồng Marich đã cố tới Việt Nam. Bác sĩ Ina kể lại chuyẽn đi huy hoàng, kỳ ảo đến đôi tôi nghe dịch lại không tưởng đấy là những chuyện Việt Nam. Ina thích nhất cái áo dài và bãi biển Vũng Tàu. Tôi nói cho Ina sửng sốt tiếc: “Trời ơi! Nếu cô được đến Đà Lạt nữa thì những cái đẹp kia xếp đằng sau hết”. Ina tin như vậy, ước sao có ngày trở lại.
Nhưng Marich không thể hồn nhiên thế. Bao giờ trở lại, khi nào lại gặp nhau. Tình bạn hơn ba mươi của chúng tôi phút chốc bồng bềnh như mây nổi ngang trời. Việt Nam và nước Nga bây giờ cũng thường tình đậm nhạt như mọi nước. Sách báo Việt Nam, - ngoại ngữ duy nhất mà Marich thuần thục, Marich không có tiền mua vì đắt và hiếm. Thỉnh thoảng cũng trông thấy sách bán ở các ốp, các chợ người Việt, nhưng không mua nổi. Trước kia, Marich có nhiều báo Văn Nghệ và nhận cả báo Nhân Dân hàng ngày. Tôi thì hàng tuần báo tiếng Pháp Tin tức Maxcơva và hoạ báo Liên Xô tiếng Việt. ấy thế mà tình cờ ma quỉ làm sao, năm 1996, tôi lại gặp Marich ở Hà Nội, trong phái đoàn văn hoá nước Nga đến Việt Nam. Bởi vì Marich có bạn trước kia là phó giám đốc trường viết văn Gooky, bây giờ là bộ trưởng văn hoá. Marich cũng là giảng viên và phụ trách sinh viên Việt Nam trường ấy, chuyến đến Hà Nội này đã được bạn cánh hẩu kéo đi ké. Marich ở một nhà trọ mini trong hẻm phố Hai Bà Trưng.
Mấy năm mới lại gặp, không nghĩ là còn gặp. Marich đã đến đây trải mưa trải nắng, khi thì tấp nập cả ngày khách gõ cửa, khi thì vắng teo không một ai bén mảng, nhòm ngó, và bây giờ thì có lẽ nhiều người đã quên hẳn rồi. Xa quá, khác quá, không dưng chỉ còn có ngậm ngùi. Marich cũng đương một nỗi niềm ấy, Marich nói:
- Ông ạ, chỉ có tình nghĩa thì bao giờ cũng thế.
Chúng tôi đi vẩn vơ trong thành phố chẳng có mục đích gì, cũng không phải đi lùng xem các hàng đồ cổ thật đồ cổ giả như mọi khi Marich hay tìm kiếm thế mà cứ muốn tha thẩn mãi. Buổi trưa, Marich với Vương Trí Nhàn và tôi đến quán nhậu còm Cây Sấu có cái cầu thang leo lên quanh co như tới đỉnh núi, như những gập ghềnh trong gặp gỡ của cuộc đời chúng tôi.
Vương Trí Nhàn lần ấy ở Matxcơva đưa tôi đến cái hầm xưởng vẽ của hoạ sĩ Yuri chồng Ina Dimônina.
Kể ra những người quen và thân ở Matxcơva của tôi chỉ có Marich, cô Ina và vợ chồng Niculin- Nicôlai Ivanôvich Niculin và Ivêta Glêbôva, Glêbôva đã dịch truyện ngắn Truyện Tây Bắc của tôi. Các bạn đều nói và dịch giỏi tiếng Việt. Và đã quen nhau lâu, thuộc mỗi người một tính. Niculin không đùa, nhưng lại mê và dịch thơ Hồ Xuân Hương, truyện trào phúng Nguyễn Công Hoan. Ina thay Marich ở ban đối ngoại khi Marich sang tạp chí Văn học nước ngoài. Ina học tiếng Việt ở Matxcơva rồi sang Hà Nội thực tập. Hà Minh Đức đưa Ina đến nhà tôi. Tóc vàng sáng như ánh nằng, sóng tóc các cô gái Lêningrat. Thế mà lần ấy đón tôi ở sân bay tóc cô đen óng ả. Tôi không nhận ra, tưởng là vợ người lái xe. Ina tức lắm. Nhưng về sau biết tôi hay quên mặt người, cứ sắp gặp ai, Ina phải rỉ tai nhắc tên trước.
Ina gắt gỏng, khó tính, các nhà văn nữ Việt Nam sang thăm Liên Xô đều ngại. Nhưng Ina nhanh nhẹn, thật được việc. Mọi người vừa phàn nàn lại cũng vừa bằng lòng cô. Cô dịch văn học Việt Nam. Cô dịch cũng nhanh như mọi công việc. Marich loay hoay cặm cụi tra cứu và viết cả năm chẳng xong bản thảo dịch Thánh Tông di cảo thì Ina đã dịch và đưa in cả hai tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu và Ma Văn Kháng. Nhưng Ina vẫn chưa được là hội viên hội nhà văn. Điều ấy khiến Ina bực bội, cáu kỉnh. Khi Ina lấy Iuri, có điều kiện sinh sống dễ chịu, Ina đã bỏ việc ở đối ngoại, chán cái hội Nhà văn Liên Xô lắm rồi- Ina bảo thế.
Tôi cũng còn đi với Ina nhiều chuyến khác. Tôi chứng kiến tính cứng cỏi của cô và cảm thông những đau khổ trong đời tình của cô.
Ina hay nhăn nhó bẳn gắt, đáo để mồm miệng đến như Xuân Quỳnh cũng phải chịu. Có những việc với tôi cô cũng tự ý làm băng băng. Hội nghị về ăn học á Phi họp ở Tăcken, Ina đi cùng. Thông thường các hội nghị quốc tế họp ở nước nào thì các đại biểu sở tại được đến đông. ở các nước Trung á, nhà văn các dân tộc Udơbêch, Tắcdich, Cadắc, cũng nhiều nhà văn Nga gốc Đức, Nhật, Triều Tiên. Trong chiến tranh thế giới vừa qua, nhiều người Đức ở sông Đông, người Nhật và người Triều Tiên ở Viễn Đông đều phải di vào ở các vùng sâu trong Trung á. Đã mấy chục năm qua, các miền định cư ấy đã trở nên những nông trường, nông trang giàu có ở lẫn với các dân tộc thiểu số. Tôi cũng thường gặp ở câu lạc bộ Hội Nhà văn những nhà văn khuôn mặt Nhật mà quê ở Sveclôc, ở Iêccut, ở Nôvôxibiếc...
Trong các đại biểu vào hội trường, có một người thâm thấp, bộ ria cắt ngắn, mắt một mí, xách cặp và đội mũ lông phảng phất có thể người Uyagua, người gốc Nhật. Nhiều đại biểu còn tụ tập ở các sảnh quanh hội trường. Nhà văn Aimatôp bước lại, bắt tay tôi muốn nói gì. Lúc ấy Ina vừa đi đâu ra ngoài. Cái người thấp, đội mũ lông để ria trông như Nhật cũng bước lại và nói với tôi:
- Chào anh. Tôi là Lê Vinh Quốc. Tôi có thể dịch hộ anh.
Tôi không quen Lê Vinh Quốc. Nhưng tôi đã đọc trên báo ở Hà Nội của anh bài thơ “thi sĩ máy” hay “thi sĩ gỗ” thế nào đó, tôi không thuộc. Lê Vinh Quốc sang học bên này rồi ở lại.
- Vâng, nhờ anh hỏi giúp ông ấy...
- Aimatôp mời anh vào chỗ ban thư ký có tài liệu tiếng Pháp. Tôi xin đợi anh ở đây.
Tôi vào lấy tài liệu rồi trở ra chỗ lúc nãy. Không thấy Lê Vinh Quốc. Mà cô Ina nhỏ nhắn, tươi cười của tôi đã đứng đấy.
- Cô có thấy một người Việt Nam...
- Lê Vinh Quốc.
- Phải.
- Tôi đuổi nó đi rồi.
- Sao cô lại đuổi khách của tôi?
Ina không trả lời câu hỏi, mà hỏi lại tôi một câu rất tinh và ác:
- Ông hỏi thật hay hỏi đùa?
Rồi lại nói:
- Tôi ghét những người ý kiến khác lại trốn đi ở nước khác.
Ina có hai chị em, đều sinh ở cảng Hacbin bên Trung Quốc. Bô Ina là thợ máy hàng không- anh hùng không quân xô viết, nhiều năm ông làm chuyên gia trong hồng quân Trung Quốc. Chị của Ina dạy học. Mẹ Ina làm báo đã nghỉ hưu, bệnh áp huyết. Trước kia ở Lêningrat, khi tôi quen Ina thì cả nhà đã về Matxcơva. Cụ thợ máy tàu bay gày yếu nhưng vui lắm. Có khi chơi nhà khuya, trời lạnh, cụ lấy quần áo ấm cho mặc thêm rồi đưa tôi về khách sạn.
Tôi đi với Ina, đoàn tàu Mũi Tên Đỏ, tám trăm cây số một đêm Matxcơva- Lêningrat, mờ sáng đã trông thấy mùa xuân về nở hoa vỡ ra đậu trên tảng băng trôi mặt sông Nêva. Nhưng tôi nhớ nhất chuyến đi Mông Cổ. Chúng tôi ở nhà khách trong núi Chúa, hoàng hôn xuống trông ra đồng cỏ mênh mông, những con hươu trước mặt đứng nghển đầu lên trên ngọn cỏ tranh, ánh trăng lẫn bóng với người. Ina kề chuyện nỗi buồn thân phận và những cuộc tình của mình.
Ina làm việc thay Marich được ít lâu thì lấy chồng, cũng lấy chồng muộn. Lêon người Acmêni về Matxcơva học rồi ở lại. Lêon học triết học, tốt nghiệp đề tài về Giăng Pôn Sac. Trời ơi, những đề tài Puskin, Giăng Pôn Sac, L. Tônxtôi cả nghìn người các nước theo đuổi thì ra trường còn nhoi lên kiếm ăn làm sao. Tất nhiên, ở nhà ăn bám vợ. Lêon có bộ râu rậm, mặt ngơ ngẩn vẻ triết nhân. Chỉ được cái uống rượu khoẻ. ở khách sạn Nước Nga đồ sộ anh ấy đã uống với Hoàng Trung Thông đến độ chúng tôi không tìm thấy cửa ra. Ina khó nhọc lắm vì nhà triết học ẩm ương này. Ina than thở: “Tôi đi làm, tôi dịch sách, tôi làm ra tiền, nó không kiếm nổi một đồng rúp. Nó bắt tôi ngày ngày tỉa râu cho nó và phải làm bếp. Nó bảo ở nhà này nó mới là trí thức". Đêm Mông Cổ, đêm thảo nguyên như trở lại đêm cổ tích, nghe chuyện đời người đàn bà tưởng như nghìn năm vẫn u uất thế.

Chương XVII

ít lâu sau, Ina và Lêon ly thân. Rồi Lêon nhảy cửa sổ tự tử. Không khi nào tôi hỏi Ina những chuyện ấy Một lần Ina đến Hà Nội. Trong một buổi tiếp đoàn nhà văn Liên Xô trên khách sạn Thắng Lợi, Hoàng Trung Thông đứng lên, nâng cốc, sốt sắng. Không ai kịp cản, bởi không biết Hoàng Trung Thông nói một câu như thế. Thông nói: “Lêon dạo này thế nào? Đã xong quyển sách về Sác chưa? Cho tôi gửi một chén chúc sức khoẻ Lêon". Ina cúi mặt, không nói gì.
Mấy năm sau, Ina lấy hoạ sĩ Iuri. Rổ rá cạp lại, nhưng mà yên vui. Hoạ sĩ đồ hoạ Iuri chuyên phục chế tranh cổ, nghe nói làm ăn khá. Vương Trí Nhàn đưa tôi đến gặp Ina chỗ đấy là xưởng vẽ của Iuri. Vợ chồng có một nhà nghỉ cách trung tâm hai trăm cây số. Ina nói: “Chúng tôi bây giờ ở chùa xa lánh trần gian". Thế cũng là thoả. Đời người ta còn có hậu.
Tôi với Ina vô duyên, nhiều khi chỉ vì những rắc rối không đâu rồi giận nhau. Có lần tôi gửi thư đi Ba Lan lại bỏ nhầm phong bì cho Ina, Ina trả lại, đánh mấy dấu than. Có lần đi với Iuri đón tôi đi chơi nhà ngoại thành, hôm sau tôi về Hà Nội. Khách sạn Nước Nga mênh mang, cửa trông ra bốn phía. Vợ chồng đợi ở cửa tây, thì tôi lại ngóng cả buổi bên cửa bắc, mà tôi yên trí đấy là cửa tây. Từ bấy tới bây giờ không lần nào gặp lại, thư chúc tết cũng không thấy đáp lại.
Nếu Ina vẫn giận tôi cái tật không nhớ đường và quên mặt người thì có còn khi nào để xin lỗi được. Nhưng biết đâu nhỉ, như cuộc gặp không hẹn với Marich đây.
Quán Cây Sâú, bác sĩ Nam Thanh mở quán chẳng biết để kinh doanh hay là một sự hoài cổ cho nó khuây khỏa bóng chiều. Những khuya vui, bà đệm đàn hát cho vài người nghe những bài hát ngày đầu kháng chiến của Phạm Duy, của Tử Phác... Lưng khoác chiến y. Mà hồn mang bóng quốc kỳ... Quay quay thương nhớ quyến vào tơ... Bà đưa rót rượu ngâm nam sâm, nhẹ và dịu của bà pha lấy. Marich khen ngon và bà biếu ông khách xa một chai.
Marich lại khẩn khoản bảo:
- Làm thế nào cho tôi được trông lại cái khách sạn Thống Nhất, một phút cũng được.
Khách sạn Sôphiten Mêtrôpôn bốn sao nhất thành phố. Không nguy nga như Đai U, như Bảo Sơn, Sôphiten Mêtrôpôn hơn người vì dinh cơ này đã vào hạng lão lai trăm tuổi, vẫn dáng lâu đài Pháp thế kỷ 19. Bên trong chắc là bây giờ không còn những buồng hạng cuối, quạt trần quay lọc cọc trên đầu và khăn trải giường lấm tấm những chấm ố vàng của thời Hà Nội ngày nào cũng có báo động khách phải chạy ra hầm trú ẩn ngoài sân cạnh cái chuồng khỉ mà Marich đã được nếm mùi. Cả cái cửa ra vào quay như cối xay gió mà Đôngkixôt huơ gươm đánh, ngót trăm năm người trong làng ra Kẻ Chợ đã đứng xem cái cửa quay cả buổi cũng bị vứt đi rồi. Sôphiten hiện đại lại có cả khách sạn nhánh trên Đà Lạt.
Hôm sau, tôi điều đình được một chuyến cho Marich đi “xem” khách sạn. Chúng tôi vào quầy rượu, ngồi lên cái ghế đẩu ngật ngưỡng. Trước kia, cô Linh Phi kịch sĩ đổi nghề đã ngồi bên cái két trong kia. Tráng lệ quá, các cô bán hàng yêu kiều giữa cái quầy lóng lánh như gian thờ mẫu đền Cửa ông. Cô đang nhoẻn nụ cười với một ông Tây. Cái khi tôi hay còn lai vãng đây cô ấy chưa chắc đã đến tuổi học lớp 1.
Tôi giới thiệu với cô:
- Ông này người Nga, trước kia năm nào cũng sang và ở khách sạn này. Ông ấy muốn nhìn lại chỗ ở cũ.
Cô hàng đon đả:
- Mời các ông lên gác hai, hỏi ông quản trị người Pháp. Ông ấy sẽ bảo met ô ten đưa đi. Khách sạn này cũng hay có khách tham quan như các ông.
Nhưng Marich buồn buồn nói:
- Tôi ngồi đây cũng được. Ngày trước tôi vẫn ngồi đây uống bia và trông thấy tất cả. Cái lối xuống nhà ăn, à cái chuồng khỉ ngoài sân, còn không?
Cô hàng đáp: “Không biết. Trước ở đây nuôi con khỉ à". Rồi cô khen: “Ông ấy nói tiếng ta rành quá".
- Thì người Nga với ta là anh em một nhà mà".
Cô hàng cười, nửa ngờ: “Cháu có thấy mấy người Nga đâu. Ông nói đùa thế nào...”
Tôi bảo:
- Cô cho hai lon huyckên. Chúng ta uống bia như ngày xưa.
- Khách nước ngoài trả đô la.
- Tôi thì trả tiền Việt Nam chứ, cô?
Rồi chúng tôi cũng chỉ uống bia Hà Nội. Marich nhấm nháp vài ngụm rồi lặng im.
Khi trở ra, Marich nói:
- Chắc không bao giờ còn vào đây, mà cũng không vào nữa.
Tôi cũng nghĩ tương tự như Marich về những Matxcơva, Lêningrat, Ôđetxa... Bởi vì chẳng may mà tôi đã chứng kiến những ngày tan rã năm 1990 ở những nơi đấy bây giờ ra sao? Tôi sợ, tôi không muốn biết.
ở các quán Grudia nghe tiếng nhạc núi uống một sừng rượu, ăn lobiô đậu răng ngựa với trađi bánh ngô, hào hứng chuyện văn chương Việt Nam ra thế giới tiếng Nga đương vùng vẫy năm châu. Lại ra vùng Bachicharai thắng cảnh Yanta, lên cổng đá nhìn... Kéo quân ra cửa Hùng quan. Chim muôn tiếng hót, hoa ngàn hương đưa... Bây giờ thì Chuyện nỏ thần, Nhà Chử mà Marich đã dịch, bỏ xó. Tôi xin chào tôi nhớ lại buổi đầu xiết bao hớn hở gặp Matxcơva năm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga bốn mươi tuổi.
Tôi đưa Marich một ít tiền. Marich cầm tiền, nhìn tôi, mắt rưng rưng, nét mặt và cử chỉ phảng phất ngượng nghịu, lại thân thương.
Marich nói: Tình bạn của chúng ta không biết có thời gian đâu. Tôi vẫn thế, ông ạ. Tôi không buồn như lần sau cùng ông ở Matxcơva năm trước. Tôi không xin lỗi vì chẳng đại diện cho ai mà xin lỗi được. Cho tôi gửi lời thăm ông Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc.
Năm trước, cái lần sau cùng tôi rời Matxcơva, sự tan rã thật trở trêu và khốn khổ. Tôi đi nghỉ Pitsunđa bờ Hắc Hải khu tự trị Apkhadi nước Grudia. Tôi đi với con gái tôi, con Sông Thao. Bấy giờ thì còn yên, nhưng sau đấy, chiến tranh đã xảy ra. Apkhadi nổi lên đánh nhau với cộng hoà Grudia đòi độc lập. Đã hơn mười năm rồi đôi bên vẫn giằng giựt từng đường phốvà mỗi ngôi làng, không biết bây giờ bờ biển Pitsunđa đổ nát, hoang vắng đến thế nào rồi.
ở Pitsunđa trở lại Matxcơva, bố con tôi mua vé xe hoả đi Đức. Con trai tôi, Đán đương làm thợ bên Laixich. Từ Nga qua các nước Đông âu đương náo động lung tung. Những mắt thấy tai nghe trên đường đi đã khác lạ lắm. Người nhà tàu Ba Lan uống rượu từ chặp tối rồi suốt đêm chúi vào xó nào, chẳng thấy ai.
Hải quan đi từng tốp khám ráo riết. Nhiều người Việt Nam bên Ba Lan- sinh viên, người đi lao động, cán bộ, sang Nga buôn thịt hộp, bánh mì. Vacsava đương khan tết cả cái ăn cái uống. Họ chỉ cho tôi những người Hà Lan cùng toa, cũng những tay buôn, buôn lậu cò con. Hai bên đã ăn với nhau, chỉ khám làm phép. Cả một toa buôn trá hình, hải quan soát từng người, từng ghế mà chẳng bắt được ai, cái tàu rầm rập chạy thâu đêm. Các cô các cậu si nh viên mời tôi: “Bác xuống Vacxava với chúng cháu vài hôm, hay lắm". Chẳng biết hay thế nào. Đến Beclin vẫn thế, nhưng cảnh khác, những cô cậu ta bán hàng, đứng như người gỗ trên vỉa hè, cánh tay vắt đệp khăn mặt, cà vạt, áo gió. Thuốc lá thì nhét ngực áo, dưới mũ. Chốc chốc, cảnh sát xộc đến, lại chạy. Hàng xén rong và cảnh sát rình nhau, đuổi nhau đến khuya. Cả người đương đi học cũng ra đứng đường hết. Không phải ham buôn, mà không đâu cho phụ cấp, không trả lương, phải ra đường kiếm cái ăn lấy.
Đông Đức rỗng không chính quyền. Mọi mặt xã hội và đời sống sinh hoạt cứ trong cái guồng có sẵn. Còn hai tuần nữa mới bầu cử. Trên tường, các thân cây dán chi chít áp phích cồ động của các mặt trận, các đảng: PSD, CDV, CDS, đảng Xanh cổ động đi xe đạp... Nếu ở Mỹ người ta vẽ con bò, bắp ngô để nhớ mà bỏ phiếu thì ở đây là những chữ tắt ấy, in to tướng. Cũng không buồn hỏi xem đảng Xã hội Thống nhất nó là CD nào. Bởi chắc chắn nó sẽ thua phiếu.
Đương nô nức “cải tổ”, vứt cái cũ đi mà. Phố xá vẫn tấp nập bình thường. Cái xe phun nước, những chuyến tàu điện chạy đến khuya. ở các nhà nghỉ con con trong góc vườn, bếp nấu đun củi, trên bờ rào lila một làn khói vẩn vơ. Chỉ lạ mắt có một đám đầu trọc một nửa, tóc nhuộm đỏ. Năm ngoái tôi đã trông thấy bọn đầu trọc đi cả đàn thế này trong các phố bên Tây Beclin.
Bây giờ chúng kéo lũ sang đây, có những đứa vác gậy, cái thang gấp, đi nhông nhông. Trông thấy cảnh sát, chúng nó xỏ ngón tay vào lỗ mũi, cười hích hích.
Tôi ở ngoại ô Lai Xich một tuần. Con tôi có ý muốn ở lại Lai Xích vài năm. Nhà máy vỡ nợ, đóng cửa. Nhưng nó đã tìm được việc ở một trại trồng hoa, bán hoa.
Tôi đã đến chơi chủ trại có hai đứa nhỏ rất quyến luyến con tôi. Chả là Đán nhiều tài vặt, dễ làm vui bọn trẻ con.
Trở lại Matxcơva, phố xá chợ chiều, mua bánh mì sắp hàng. Cảnh nhốn nháo xảy ra trong các cơ quan.
Một người ở ban đối ngoại gặp tôi và nói: đáng lẽ đồng chí về Việt Nam tuần trước, lại đi Đức, thế là quá hạn một tuần, “chúng tôi không còn trách nhiệm với đồng chí nữa".
Tôi không nơi ở, không còn được đưa tiền ăn và dẫu muốn cũng không còn gặp được ai, không phải vì không muốn gặp tôi, mà cả cơ quan hội nhà văn đương lung lay, nháo nhác, không làm việc.
Ira cầm vé máy bay đi đăng ký cho tôi về Hà Nội. Thật ra vé máy bay không phải việc của Ira, nhưng các bộ phận khác không còn ngưòì, Ira đã đến Hà Nội một lần và Ira đã lo mọi việc hôm tôi đi Pitsunđa. Đến trưa, Ira về, nói hồi này nghỉ hè, người đi Việt Nam nhiều quá. Cứ ghi tên ông vào đấy, nhưng có lẽ hàng tháng mới đến lượt. Ira lại nói: “Tôi đương bận việc sửa cái nhà nghỉ ở ngoại ô. Tuần lễ sau tôi mới đến đây”. Đối ngoại ở bộ phận này có mỗi mình Ira. Tôi không có chỗ ở. Không tiền ăn. Có nghĩa là cô ta bỏ khách thẳng thừng. Marich đến hỏi đã đăng ký được vé Hà Nội chưa. Tôi kể chuyện. Marich nghĩ ngợi gì một lát, rồi nói: “Ira nói dối thôi. Công việc đi đăng ký vé là của người khác. Con mẹ này vẫn nói nó rất ghét Việt Nam. Thế là các mụ mất dậy bỏ việc đấy". Bây giờ mới nghe tận tai có người nói ghét Việt Nam. Cũng có khi có người đã nói, mà tôi chỉ đi với các bạn, nếu bạn không nói lại thì làm sao tôi biết được thế nhưng cũng có khi biết. Lần ấy, Marich và tôi đi Lêningrat, buổi chiều xem tàu Rạng Đông rồi về nhà Bôrit. Trong bữa ăn, một anh bạn Bôrit nói: “Chưa bao giờ nước Nga hùng mạnh nhất thế giới như bây giờ, nhưng tại sao nước Nga vẫn nghèo, vẫn thiếu. Bởi vì của cải nước Nga bị đem rải ra khắp nơi, châu á, châu Phi, Mỹ La tinh, trong đó có Việt Nam của mày”. Marich cười nói với người kia câu gì rồi bảo tôi: “Thằng này say rồi nói mất lập trường, tôi không dịch".
Tôi cũng chỉ đảo qua đến hội nhà văn Liên Xô. Không còn là cơ quan như mọi khi, không ai ngồi trong phòng, nhưng túm tụm ngoài sân. Marich cũng không đến đây, bởi anh nói: “Tôi đả đảo cái hội nhà văn bảo thủ. Chúng tôi lập hội nhà văn đổi mới rồi”.
Marich đã tìm cho chỗ ở tạm tại trường Goocky.
Không phải ở phòng khách, mà cái phòng chứa đồ đạc, mền, đệm linh tinh. Marich và hai bố con tôi khuân dọn lại cho gọn. Tôi ở đấy mấy hôm, hai lần người quản gia mời xuống bảo phải đi. Marich nói thế nào đấy hay Marich đã đút tiền cho nó, thế là lại yên yên và hồi hộp. Buồng bên cạnh, vợ chồng một người Trung á hay Mông Cổ và một đứa con nhỏ, ở bình thường. Người chồng mặt lầm lầm, có vẻ lén lút, chắc cũng trọ chui như tôi. Mỗi ngày, Marich đên, ngơ ngẩn chơi rồi chúng tôi ra quán nhà mâu ăn cơm bụi, Mỗi người bưng một khay bánh mì đen và mấy viên rán thịt lợn băm viên. Bia rượu thì không ngửi thấy mùi đâu nữa rồi. ở vỉa hè bên kia đường, một xe tec bia hơi đến đậu đấy. Người xúm xít như những con kiến bâu quanh miếng mồi. Người tay không, người cầm chai, cầm cái xô. Đám sâu bia kia mặt bệu đỏ đã uống ở đâu lại đến xông vào mua uống tiếp. Tôi chỉ nhìn các bợm bia, sâu bia xoay xoả lộn bậy với tình thế này. Bia nhạt thếch, chỉ bia chai nhỏ Matxcơva còn vị đậm một chút, nhưng không đâu đó. Nhìn người chen chúc, hung hăng, đã xa lắm rồi, đã thôi rồi cái hồi cô Ina Dimonina cứ đi mua bán giữa đám đông sắp hàng, nói Việt Nam, Việt Nam, là người dãn cả sang hai bên.
Đến ở chui ở nhà trường Goocky- tưởng như ở đấy là những chốn nơi, những gian buồng có ma ghê rợn như nhà Hôp Man. ấy là đương dịp nghỉ hè, vắng người lên xuống tấp nập. Các học viên Việt Nam còn ở lại có Trần Đăng Khoa và Trần Nhuận Minh mới sang chơi với em. Đương giữa con sầu não được Khoa thết bữa cơm có canh tai chua, tưởng như đã thoát được về đến nhà.
Trời rét cóng cá, nhưng tắm giặt vẫn phải theo lệ Cái ngày đến nông trường Cờ Đỏ ở Udơbêkistan, cả lũ trần truồng tắm hơi, lại như thuở nhỏ đến trường bị đi tắm chữa ghẻ. Cũng chưa kỳ hình dị tướng bằng tắm ở đây. Một chục người đứng dưới hai cái vòi, nước xả xuống, người ghé vào, người chạy ra, như những con nhộng có chân. Tôi bỗng liên tưởng năm xưa trông thấy tù binh Anh bị giam ở Pnôm Pênh, lính Nhật giải ra sông tắm, nắng rám mình mẩy đỏ như con tôm luộc. Tôi thấp lũn chũn đứng vào một vòi giữa đám thanh niên cao lớn, lông lá. Quần áo thì đút trên khe cửa sổ trước mặt. Cũng chẳng ai để ý tôi.
Nhưng tởm nhất cái chuồng xí. Tôi đã được biết kiểu chuồng xí công cộng lộ thiên ở chân Vạn lý Trường thành, liền cả chục cái lỗ, không vách, không tường, người đứng lên, người ngồi xuống nhăn nhó, người lẳng lặng bước vào. Đằng này là một kinh rợn khác. Mỗi lần đi phải mang một tệp giấy báo để lót chân, lót đít. Cái nhà xí hỏng đã lâu, nhưng hàng ngày vẫn dùng, vẫn phóng vào đấy. Những ụ phân chồng chất, tràn trề, không biết một ngày, mấy ngày người ta tháo đi thế nào, lấy đi thế nào.
Hơn ba mươi năm trước, ông thường vụ Kec Babaep ra ga xe lửa đón tôi, trang trọng thân tình. Ông mất đã lâu, ông không được chứng kiến những ngày tàn tạ này. Tôi kể cho Marich nghe những cái tôi thấy và tôi đương nghĩ. Marich phân trần khéo: “ ở Hà Nội của ông, trước mặt cái nhà thì nhìn được, đằng sau cái nhà thì cũng nhiều thứ không được, à nói cho chính xác, nhiều thứ chưa được". Nó nói cũng chẳng ngoa gì. Có lần tôi đến khách sạn Hoà Bình thăm G. Buđaren. Anh ở tầng ba, nhưng phải xuống nhà vệ sinh tầng một. Trên ấy ngập nước, khoá trái. Marich bảo tôi: “Hay là ông và con gái về nhà tôi đi vệ sinh, tắm giặt".
Cũng đến phải như thế mới ra khỏi chỗ quỷ ám này, nhưng hôm sau chúng tôi được vé về Hà Nội. Ban tiếp tân của sứ quán ta đăng ký được ngay. Không phải chờ hàng tháng như cái người hội nhà văn đã doạ thế. Ira gọi điện thoại cho tôi. Vẫn nghỉ phép và ở ngoại thành chữa nhà. Nó xin lỗi bảo có người khác đưa chúng tôi ra sân bay. Tên anh ta là Vichto và Ira cho tôi số điện thoại. Thôi tôi chỉ mong đi được. Cũng chẳng có phàn nàn gì. Cả nước người ta còn đương loạn lên cơ mà.
Marich gọi điện thoại cho Vichto rồi bảo tôi: “Chỉ có thằng say rượu lảm nhảm...”. Tôi cũng gọi. Nghe đáp tiếng Nga, tiếng Pháp lè nhè líu lưõi.
Sớm tinh mơ, lại gọi điện thoại Vichto. Bây giờ thì không có tiếng đáp lại. Tôi nói: "Có thể anh ta ra sân bay rồi". ở sân bay, chỗ cửa về Hà Nội chen chúc hỗn độn nhất. Người chạy ra chạy vào như úi lên. Người đứng rình những ai hành lý nhẹ, đưa tiền cước nhờ mang hàng hộ. Người đẩy hàng qua rào sắt, cái rào bị chen lung lay sãp đổ. Cảnh sát đến vung roi cao su lên vi vút đánh xuống đầu, xuống vai. Tôi chưa trông thấy ở sân bay này cảnh đánh người thế bao giờ. Người ngồi, người chạy, người khóc hu hu.
Vì bị đánh đau, vì lạc mất hàng...
Giữa đám nhốn nháo, tôi cầm mảnh bìa các tông có chữ Vích to giơ cao trên đầu. Chẳng thấy Vichto đâu.
Không phải nó đi sân bay. Bây giờ Vichto ngủ giữa cơn say rồi. Và Ira đã nói dối, nói láo. Mảnh giấy bìa tôi cố giơ lên kia như là cái dấu hiệu sau cùng gọi:
Vich to... Liên Xô... Liên Xô... Nhưng không có tiếng thưa. Rời Matxcơva, chỉ nghe trong đầu tiếng adieu Moscou. Cái “vĩnh biệt Matxcơva” này mới thấm thía, mới đau làm sao.
Thôi thôi, để tôi kể nốt về những người bạn những thuở còn ngày tháng tiêu dao. Chính ra, anh Vlat chẳng bận đến tôi. Cũng ở ban đối ngoại như Marich, như Ina, nhưng Vlat lo về các nước châu Phi nói tiếng Pháp.
Mỗi khi châu Phi ngơi việc thì Vlat lại giúp bên này. Vlat có cái băn khoăn ngây ngô là Việt Nam rất xa châu Phi, xa nước Pháp mà lại có người nói tiếng Pháp.
Vlat là người hướng dẫn và phiên dịch đoàn nhà văn Việt Nam đầu tiên thăm Liên Xô năm 1956, trưởng đoàn Nguyễn Văn Bổng. Trong những bạn phiên dịch thường gặp, tôi đã đi nhiều với Vlat.
Vlat không phải người Nga. Vlatlen nguời dân tộc nước cộng hoà tự trị Chu Va. Dân tộc thiểu số ít người và ở phân tán, Vlat không biết quê ở đâu, nhưng chẳng bao giờ đi tìm. Chỉ nói: “Thằng người Chu Va đã thành người Nga cả rồi, như tao". Bố Vlat là người hoạt động trước 1917, có cương vị lớn ở khu tự trị nhưng ông đã bị xử bắn trong một đợt thanh trừng của Xtalin.
Bấy giờ Vlat còn nhỏ, học tiểu học. Có lần đi thăm cộng hoà Grudia, Vlat đã cung tôi về Gôri quê Xtalin. Chúng tôi ngắm bức tượng Xtalin đồ sộ đứng đầu làng- bức tượng hiếm hoi, từ Matxcơva đến đây mới thấy một bức. Và xem túp nhà của bố Xtalin thợ giày, Xtalin đã ở đấy cả thời niên thiếu. Nhà có mỗi một gian, ông cụ khâu giày, đóng đế, lại cũng ngủ và ăn uống ở đấy.
Cả túp nhà được đặt trong một lồng kính sáng choang. Vlat nói: "Lịch sử là lịch sử, không ai thù lịch sử bao giờ". Vlat ở Matxcơva với mẹ và em trai. Chiến tranh thế giới, em của Vlat đương học đại học thì phát xít Đức đánh đến ngoại ô Matxcơva. Cả Matxcơva ra trận, em Vlat đã hi sinh ở ven đường mà Vlat ra sân bay đưa đón khách thường đi qua, bây giờ là những chiến luỹ và dây thép gai tượng trưng sáng đèn suốt đêm.
Còn lại một mình Vlat với mẹ. Khi tôi biết Vlat thì mẹ Vlat mất bệnh mới hơn một năm nay. Từ khi mẹ chết, ít lúc Vlat về nhà. Đêm đêm, Vlat vạ vật ở nhà bạn nào đó.
Đi Lêningrat, tôi muốn có một vài cuốn sách đọc ban đêm. Vlat bảo về nhà tìm, có thể có. Nhà Vlat trong một ngõ hẻm nhưng ở trung tâm thành phố, trông ra thấy tường điện Kremli ngang trước mặt. Ngoài đại lộ lúc nào cũng ngộn người và xe cộ, trong hẻm thì yên tĩnh, tiếng ồn ào chỉ vang lại, gợi một cảm tưởng hẫng kỳ lạ. Vlat ở căn phòng tầng hai một toà nhà cổ. Vlat vừa cho khoá vào ổ, vặn lạch cạch, buồng bên
cạnh đã có người hé nhìn ra. Chủ nhà lâu không về, biết là ai động cửa, có thể kẻ trộm. Nhà Aliôsa “Simônôpcon” ở tầng một, trần nhà treo chùm đèn đẹp ánh thuỷ tinh rực rỡ gian phòng. Thế mà, trộm đã vào nẫng mất. Khi biết là Vlat, cánh cửa lại ập lại. Căn buồng đã lâu không người. Cửa sổ mấy lần kính mà trên mặt chồng sách bụi phủ về vệt. Cái điện thoại cắt dây từ bao giờ, chỏng trơ giữa bàn. Chiếc giường gấp dựng một xó. Một chiếc giường đệm ở góc buồng. Vlat bảo: “Mẹ tôi nằm giường này, tôi vẫn để nguyên". Chiếc gối ghếch một bên, tấm chăn hoa mỏng gấp một nửa, như người vừa trở dậy.
Vlat lục được một quyển sách nghiên cứu về mèo đưa cho tôi mang đi. Vlat nói: “Nhà tôi trước nhiều mèo lắm. Phải mua sách này để hiểu chúng nó. Mẹ tôi chết, chúng nó bỏ đi cả. Anh đọc trong sách sẽ thấy những con mèo rất giang hồ cũng rất gia đình. Có thằng mèo bỏ đi chơi mấy thành phố lúc quay lại vẫn tìm về được nhà cũ. Tôi thì ngủ đâu cũng được, tôi đi khỏi thì quên nhà. Tôi không bằng những thằng mèo".
Không phải tôi đến Lêningrat lần đầu. Tập ký sự Thành phố Lênin của tôi xuất bản đã được mấy năm.
Nhưng mà nhớ Lêningrat bao giờ cũng nhớ đầu mùa xuân, những tảng băng tan ngổn ngang sông Nêva, suốt đêm va vào nhau như con sông nghiến răng, sáng ra còn rùng rùng chuyển động. Mùa xuân đã về, sông nhánh Môica của tôi hé mặt nước sáng trong, người đi đường cao hứng cũng không bước qua những tảng băng ngang sông được nữa. Lại nhớ sáng sớm chiều tối ở Hà Nội uống bia hơi với hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười, càng nhớ, chao ôi...
Thế là đi Lêningrat, để lại những lo toan và chơi nhởi hàng ngày ở Hà Nội mà vẫn vương vấn Lêningrat.
Thế mới lạ. ở bờ tường bên kia viện Mắt, phía chợ Hôm đi xuống, thấy treo một cái bảng con con chữ sơn xanh: “Ragu, bít tết thỏ và các món". Những năm ấy, cái quảng cáo thế khá lạ mắt. Bởi vì trước các nhà dọc phố chỉ thường thấy thòi ra mảnh giấy dán cánh cửa sổ: Nhận lộn cổ sơ mi hay một miếng bìa: Cơm nồi nước sôi – Khối phố...
Tôi nói với Nguyễn Tuân:
- Dưới kia mới có quán thịt thỏ, các thứ ragu, bít tết..
- Được đấy
Tôi khoe thịt thỏ với ông không phải vì biết ông ưa thịt thỏ mà chỉ vì biết răng ông đã kém, đến cao lâu 202 chỉ nhấm nháp được món phá xi cua hấp. Ông Nguyễn bảo “được đấy” có thể chỉ vì thịt thỏ mềm. Chúng tôi đến quán nọ. Cái bảng quảng cáo lắc lư đỏng đảnh bên tường trên hai cửa sổ rèm vải hoa xanh nhạt. Nguyễn Tuân đứng lại ngắm rồi gật gù “Được", sau mới bước vào.
Một ông đã đứng tuổi, áo đại cán kaki ximăng, người nhỏ nhắn, nhanh nhảu, lịch thiệp, hai tay giơ mời khách.
Những chiếc bàn kê góc tường, khăn bàn trắng. Đằng kia, trên quầy bày hai hàng chai rượu quí, có chai còn bọc rơm. Chắc chỉ là chai không để trang trí. Giời đất này đào đâu ra những của hoạ may mớt có ở trên thiên đình. Đến nhà hàng Bôđêga trên Tràng Tiền cũng chỉ bán một thứ vang nước Bun chua như dấm- mà mỗi lần được mua tiêu chuẩn có một chai.
Không thấy ngưòì khách nào. Vừa chiều, chắc chúng tôi đến hơi sớm. Tôi hỏi:
- Mấy món đề ngoài bảng hôm nay có đủ chứ?
ông chủ vui vẻ đáp:
- Xin lỗi hai cụ, chẳng có món gì cả.
- Hôm nay nghỉ hàng à?
- Bẩm, nhà cháu đóng cửa rồi. Chưa kịp bỏ cái bảng.
Chúng tôi cũng chưa kịp tò mò đầu đuôi ra sao thì ông đã cắt nghĩa- nét mặt bình thản như chuyện hàng phố, không phải chuyện nhà ông vỡ nợ.
Tại hàng ế thôi. Bán hàng sống mà vài hôm vắng khách thì đi đứt ạ.
Tư dưng, cũng cửa hàng này, lúc nãy trông trang nhã, đẹp đẽ gọn gàng thế bây giờ bỗng đượm vẻ quạnh vắng, ủ ê, nhìn thương thương, tội tội như khi ta vào nhà hiếm trẻ, chỗ nào cũng quá gọn ghẽ, quá ngăn nắp.
ông chủ quán cười cười, chào chúng tôi: .
- Tuần sau, nhà cháu với mậu dịch canh ty mở bia hơi. Mời hai cụ...
Cái thư ngày 26- 6- 1966, Nguyễn Tuân gửi lên Lai Châu cho tôi, có câu:
“Ông cao lâu nhà thương đau mắt chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay tại đó, ấn vòi bia theo giờ nhà nước, tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút không viết bài nào...”
Ông cao lâu Ragu thỏ ấy đấy. Tôi cũng chưa bao giờ hỏi tên ông.
Tôi đến quán bia ông Ragu lâu dần thành lệ. Tôi đến theo thói quen, dửng dưng không để ý, uống bia giết thì giờ, tôi lơ đãng cả với ông Ragu hễ vừa thấy tôi ông đã rảo bước ra, mời vào một góc lau bàn, ông dẹp mấy cái cốc uống dở. Dần dà, tôi cũng nhận ra giữa đám người uống đứng uống ngồi, cũng có người như tôi, đến uống vào quãng chiều. Cái ông ngồi trước mặt cũng có tuổi, người cao xương xương, thanh mảnh, trắng trẻo. Nghe tiếng Nam Bộ thì chắc là cán bộ tập kết. Ông uống từa tựa tôi, mỗi cốc làm một hai hơi rồi ngồi thừ ra, không nhắm nhót lạc ngọt, nem chua, mực nướng gì cả.
Chúng tôi mỗi người đến một lúc, nhưng hàng ngày hay gặp nhau. Những khi ấy dù ông Ragu có đương tíu tít rót sirô vào bia cho khách, ông cũng vội ra lấy hai cái cốc vại, bấm vòi bia cho xuống đầy ngấn, ít bọt. Tôi tò mò đoán về ông uống bia ngày nào cũng gặp Bộ đại cán không mới nhưng có nếp là, không dây dầu mỡ. Bàn tay chắc chắn, nhưng không thô.
Người bàn giấy thì phải rồi. Nghề gì, làm kế toán, cán bộ nghiên cứu, nghề văn hoá hay nghề y. Đây gần nhà thương, các con nhà y cũng hay ra uống tợn.
Nhưng nhất định cái ông nói giọng Sài Gòn này cũng dân chơi. Có khi ở tuổi ông, xưa đã từng uống bia bốc buổi chiều ở cái xe téc đậu chỗ bùng binh chợ Bến Thành. Ông uống khá điệu. Ông thảnh thơi uống lâng lâng, uống lẳng lặng. Được, được lắm, nhưng ông là người thế nào. Xem ra ông cũng không để ý có hay không có ai trước mặt.
Không biết đã bao nhiêu buổi chiều. Đôi khi đi vắng lâu về, đến đấy vẫn thấy ông như dạo trước. Rồi tôi chịu thua, không thể đoán ra ông và cũng không tài im lặng được như ông.
Một hôm, tôi hỏi:
- Anh công tác ở đâu?
Tôi là Mười, hoạ sĩ.
- A, anh Nguyễn Văn Mười.
- Dạ.
Rồi hoạ sĩ Mười cười dịu dàng, giơ tay cho tôi bắt, và nói:
Tôi cũng đã biết anh.
- Thế mà bao hôm nay không nói.
Hoạ sĩ Mười lại mỉm cười:
- Chúng ta đương uống bia. Uống bia chẳng bận gì đến vẽ, đến viết cả.
Câu nói chí lý tuyệt. Cứ cái sự anh uơng bia đúng kiểu từng hơi dài đã rõ can trường ấy. Chúng tôi lại trầm ngâm uống. Chúng tôi đương uống bia, có bia vui, có bia buồn và thế thôi. Hơi bia không bốc phét chích choè. Hơi bia chỉ phục vụ chúng tôi lặng im.
Có lần, Nguyễn Tuân đi với tôi uống bia hơi ở quán trước ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân đến chào một ông khách ngồi bàn gần, mọi khi tôi vẫn hay trông thấy, ông nhỏ nhắn, điềm đạm, áo vét tông và mũ phớt. Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tiên sinh Cao Xuân Huy.
Mỗi buổi chiều, chúng tôi cũng uống bia im lặng. ừ uống bia chẳng bận đâu đến thế thái nhân tình. Tôi chỉ nhận thấy một sự lạ, có lẽ Hà Nội còn mỗi một người mặc tề chỉnh đi uống bia hơi và giữ vệ sinh như ông. Ông Cao Xuân Huy, khẽ ho rồi khạc đờm vào mảnh giấy báo đã mang sẵn và gấp lại, bỏ vào túi áo.
Hoạ sĩ Mười cắp một cái cặp bìa đen cứng khổ rộng, trong đựng một tệp ký hoạ. Mười nói:
- Tôi đem cho anh xem mấy cái vẽ sông Nêva và nhưng sông nhánh. Có những ba trăm mấy con sông nhánh của Nêva, anh đã viết đấy.
Tôi hỏi lại:
Anh đã đến Lêningrat?
- Tôi đã ở Lêningrat lâu lâu.
Hoạ sĩ Mười chỉ bức ký hoạ một bến đá trơ trọi mấy thanh lan can sắt.
- Đây là sông Môica. Nơi anh đã gặp Vêrônica.
Trời ơi! Hoạ sĩ Mười đã đọc đến thế, những bút ký tôi viết về thành phố này. Mỗi lần, mỗi hôm, mỗi lúc tôi lại biết thêm về hoạ sĩ, nếu anh có trò chuyện với tôi. Quả thế, không phải cứ gặp ai thì đã là biết và chắc đâu đã biết. Mới cốc bia trước thôi, tôi chưa một chút nào rõ được hồi đầu thập kỷ sáu mươi, hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã nhiều năm ở Lêningrat. Hoạ sĩ kể những ngày ở cái lâu đài khổng lồ trên phương Bắc trái đất ấy, hoạ sĩ mê nhất sông nước và những đầu mùa xuân, khuya nghe tiếng những tảng băng tan va vào nhau gãy răng rắc, vang động dòng Nêva ban đêm qua thành phố.
Tôi lơ đăng nhìn qua bóng bia trong cốc thấy người hoạ sĩ đương tha thẩn bên dòng sông, đôi lúc ngước nhìn ra những tảng băng trôi. Tôi cũng soi mặt vào bóng bia xem có thấy cái cửa sổ nhà ai nhìn xuống bến sông Môica?
Vlat đi Lêningrat không va li. Đi đâu cũng xách mỗi cái túi, ấy thế mà kiểm lại các thứ cũng thấy đã bỏ quên bộ dao cạo râu điện, không biết quên ở nhà ai. Chẳng lẽ sáng nào cũng xuống tiệm cạo râu phòng ngoài khách sạn. Tôi không hỏi Vlat làm thế nào, nhưng mỗi hôm đều thấy Vlat mày râu nhẵn nhụi.
Chúng tôi ở hồ Lagôđa về. Băng đóng trắng mờ chân trời, xe đi trên đường cũng như mặt sông. Khi mùa đông tới, con đường tiếp tế qua mặt hồ này đã nuôi Lêningrat sống chiến đấu được trong vòng vây mấy năm trời. Bây giờ chỉ có từng đàn hải âu. Bọn khách du lịch ném bánh mì lên cao cho hải âu bay xúm lại xâu xé cái bánh tan biến giữa trời. Trẻ con chỉ nhớ hồ Lagôđa có trò chơi ấy, chiến tranh đã qua ba mươi năm rồi. Vêrônica cùng đi với chúng tôi. Marich đã cho tôi biết Vlat là bồ của Vêrônica. Vlat thì lắm bồ, đi đâu cũng có được, kể cả ở bàn ăn câu lạc bộ. Những năm sau này, Vlat ở hẳn với cô Lọ Lem bồi bàn. Chúng tôi gọi là Lọ Lem vì cô thấp bé, đen đủi. Vlat nói:
"Lúc túng thiếu và về già, tôi lại trở về với dân tộc tôi”. Nghe nói cô Lọ Lem cũng người dân tộc Chu Va.
Mới được mấy ngày đã hết tiền. Mỗi hôm đều tốn chỉ vì uống, nếu để Vlat mỗi ngày uống mấy lần, chắc còn hết tiền nhanh hơn. ở thì vẫn Astôria, tiền phòng trả séc, không lấy ra ăn được. Nhưng tôi yên trí vu vơ thế nào và bao giờ Vlat cũng xoay xoả ra. Vlat cười:
“Có thể! Có thể! Chúng ta cũng như con hải âu, rồi cũng có người ném bánh lên trời cho ăn.”
Buổi tối, Vlat bảo tôi:
- Chúng ta đến ăn tại nhà Vêrônica.
Tôi hỏi lại Vêrônica: có phải thế không? Vêrônica gật đầu.
- Tôi mời hai ông làm khách.
Chẳng biết Vêrônica có rõ chúng tôi đã cạn tiền. Vêrônica ở một phòng trong toà nhà ba tầng. Nhiều phố Lêningrat được giữ cổ kính nguyên như cả trăm năm trước, chỉ sửa nội thất. Cửa sổ phòng Vêrônica trông ra sông Môica. Con Nêva ngang qua thành phố toả ra bao nhiêu sông nhánh nước trong xanh, hai bên bờ lan can sắt và dòng sông cũng thành con đường khi mùa đông đóng băng. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã ký hoạ khúc Môica chỗ bến này đây.
Tuyết cuối mùa còn phơi phới xuống trên sông mỗi lúc càng mù mịt hơn. Người lác đác dưới đường, bóng lướt qua bên những thanh lan can đen xẫm. Tưởng tượng như Đốttôepski đương với các nhân vật của ông lang thang trong Những đêm trắng. Hôm trước, đã thăm nhà lưu niệm Đốt ở một chung cư năm tầng. Tường căn buồng nhỏ nhà Đốt đương được bóc giấy báo ra, tìm lại ngày tháng ở những tờ báo hồi Đốt ở đây, mùa lạnh đã dán cho ấm tường. Cũng như ở quảng trường Cỏ Khô, nơi tử tù Đốt đã đứng đợi để đến lượt bị hành hình treo cổ, đã được khắc cái biển đá về sự tích ghê rợn ấy. Vào mùa xuân năm này, các tác phẩm của Đốt mói được in lại, bán khắp các hiệu sách.
Thành phố bắt đầu gắn biển và sửa sang những nơi có dấu vết của ông. Tôi tưởng như, nhớ như ở thành phố chỗ nào cũng trông thấy ông và các nhân vật, những cái bóng ngất ngưởng, người gàn dở, một bà già không chồng, một trọc phú uống máu người không tanh... tấm lòng thương bao phủ tất cả các con người, con sông, những lan can trơ trụi bên đường, trên cầu ông đã vịn tay. Ông viết càng rùng rựn bao nhiêu, càng thương đau bấy nhiêu. Heinơ nói rằng: “Người ta kể lại không bao giờ đúng, bỏi vì con người luôn luôn nói dối khi nói về mình". Không, Đốt nói: “Người ta có cố gắng nói sự thật, chỉ có điều là sự thật ấy không bao giờ đầy đủ". Vẫn một lòng thương cảm xâu thẳm, không biết đến đâu.
Ngoài kia vẫn mờ mờ, chẳng biết đã đêm trắng hay còn ngày. Vêrônica uống cũng ra trò. Một lúc, Vlat nói:
- Đêm nay mày ngủ ở đây với Vêrônica. Tao về chiếm cái giường của mày ở khách sạn.
Tôi không nói gì. Vlat không biết tôi đã khiếp sợ từ hôm mới đến chơi, trông thấy chiếc xe đạp cuốc treo ở sau cánh cửa. Mỗi sáng sớm, Vêrônica đã cưỡi nó, đạp thể dục hai mươi cây số ra ngoại ô. Những Vlađia ở ga Gian Côi trên tàu hoả qua Kiép, những Vêrônica, những Madari xa lạ quá rồi.
Mấy năm sau, gặp lại Vêrônica ở Matxcơva. Cô đã đổi về làm cho đài truyền hình dưới này. Tôi giật mình. Võ vàng, tiều tuy đến độ thoạt nhìn không nhận ra được. Hỏi thì cô ấy khóc. Cô đã lấy chồng và sinh được bé gái. Đứa con chết và người chồng bỏ đi. Từ đấy Vêrônica mê mụ không hồn như nhân vật mụ Tường Lâm trong truyện của Lỗ Tấn. Gặp lại tôi, có điều cô được an ủi là tôi vẫn nhớ cô, tôi đã đem tặng cô bức tranh sơn dầu Cây chuối của Nguyễn Sáng. Xem tranh Nguyễn Sáng, tôi có nhận xét Nguyễn Sáng ở rừng Việt Bắc mà sao ít vẽ cây chuối. Nghyễn Sáng đã cho tôi đem đi bức tranh cây chuối, cũng chẳng hỏi tôi mang bán hay mang cho ai. Khi về, xách về đền ít hộp sơn trắng, thế là mừng rồi.
Dương Bích Liên bảo cái sơn trắng quét lót, lúc nào cũng cần. Biết thế, tôi hay mua sơn màu trắng cho Sáng và Liên. Hồi ấy, cái tranh chẳng đáng một giá nào. Vẽ vì thèm vẽ, vẽ rồi cho, vẽ rồi xếp lại. Tôi đã đem những đĩa sơn mài vẽ mèo, vẽ chân dung của Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng cho Marich, cho Ina Dimônina.
ấy thế nhưng hoạ sĩ uống tách cà phê, ăn bữa cơm nhà Lâm Toét cũng được coi như bán tranh, không phải là đem cho tranh không. Đồng tiền thời ấy hiếm vậy. Ai tò mò cũng biết Lâm Toét bán cà phê đầu tiên chơi tem rồi chơi tranh. Nhưng ít người biết Lâm Toét chơi tranh và chơi sách. Anh khoe với tôi lùng mãi mới săn được tập thơ Tản Đà và hai quyển Tục ngữ phong dao của ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nhà Minh Đức xuất bản, có chữ ký của ông Nguyễn Hữu Đang.
Tôi lên gác xem tranh bày trên ấy. Lâm Toét chỉ cho tôi một chồng báo cao cao. Anh ta nói thì thào nhỏ nhẹ, lễ phép: “Ông Hoàng Trung Thông mới đề lại cho em đấy". Tôi ngơ ngẩn cả người. Tôi không còn đủ sức lấy hơi đến nhìn xem nó là những báo gì. Cái thằng cho tranh lấy vài đồng và tách cà phê thế mà còn bớt đau hơn thằng bán sách một bậc.
ấy thế mà rồi tôi và Vlat đã đi một chuyến vung vinh thú vị không lúc nào phải lo tiền, chúng tôi làm khách nhà nước Udơbêkitstăng. Mỗi khi đi đường dài, xuống nghỉ ở sân bay Tasken, máy bay là là dọc đường băng, trông thấy ven cỏ một toà nhà xinh xắn, đấy là lầu đón khách Chính Phủ. Đêm ấy, đèn nhà khách sáng trưng, ô tô rước chúng tôi từ thang máy bay tới.
Bộ trưởng ngoại giao Adimôp đón tôi, ông mời tôi chơi nước ông. Nhà thơ Udơbêch Adimôp năm trước làm đại sứ ở Libăng, bây giờ về nước cộng hoà này làm bộ trưởng ngoại giao. Gặp lại Adimôp ở câu lạc bộ hội nhà văn, Adimôp nói: “Có đi Tasken chơi không?”. Thế là đi.
Nhà khách chính phủ thênh thang như cả chục cái đình làng ta, mà chẳng có một mống khách. Vlat nói: “Có thể chúng ta uống rượu say ở đây rồi thắt cổ chết mấy ngày mới có người biết". Mỗi đêm, xa xa tiếng gà gáy. Nếu có tiếng còi tàu hoả nữa thì chẳng khác nghe đoàn tàu chạy đêm hun hút gió trên cánh đồng chiêm bên kia cầu Giẽ, cầu Guột...
Chẳng đâu lạ mà ngẩn ngơ thế nào, cũng không vì cơn cớ gì. Con người đương vui lại buồn, nghĩ ngợi vẩn vơ vắt vào nhau chẳng ra làm sao. Không còn cái ông đại biểu Adimôp tranh luận với Hoàng Trung Thông về một chữ trong thông báo của Đại hội các nhà văn á Phi ở Bâyrut, cũng không phải ông đại sứ, ông bộ trưởng ngoại giao nước cộng hoà. Chỉ thấy một lão chăn cừu ngồi giữa đồng cỏ, cốc rượu bằng sừng dê và đọc thơ, đọc thơ, đọc thơ. Thơ ông về thảo nguyên, về cây dâu, cây thông và con cừu, đàn cừu. Năm sau, tôi lại đi Apganixtăng, cũng với Adimôp và ở nhà nghỉ, Adimôp cũng đọc thơ. Lạ thay, nghe giọng thơ mà một lúc tưởng như trên mặt đất bụi mù mịt, những con cừu nhiều hơn con người ở làng mạc và thành phố. ở Adi Abba, ở Đaet Salam buổi chiều người cõng cừu qua phố về nhà. ở Angiêri, ở Mông Cổ lúc nào trông xuống mặt đất cũng thấy những đàn cừu chân bước liên liến, đi từng đàn, chập chờn vàng như khói, người chăn cừu cầm gậy đứng chơ vơ như cái cọc, sóng cừu mênh mang xung quanh. Adimôp đọc thơ cừu. Vlat dịch lại, chẳng biết thơ hay thế nào, lại chỉ thấy bề bộn những cừu là cừu, cái cảm tưởng thơ cừu của mình là đúng. Quả là trên đồng cỏ những stăng của người, những làng Udơbêch, đâu có cừu thì có người. Cũng hay.
Tôi đọc mấy câu thơ Nguyễn Bính. Tôi vốn không thuộc hết một bài thơ nào. Những câu thơ tôi nhớ được chỉ vì ngày trước Nguyễn Bính đến chơi trên Nghĩa Đô đã viết chữ tung hoành cả bài thơ vào tờ giấy lệnh dài cao hơn thước tây dán lên vách đầu giường tôi.
Lúc nào cũng nhìn thấy, nên phải nhớ mà cũng chỉ lõm bõm. Câu thơ Nguyễn Bính, cái tranh Tô Vũ chăn dê đã vào ký ức đời mình.
... Mùa xuân chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi...
Adimôp khen tôi hát hay lắm. Vậy là tôi bằng lòng rồi, các bạn đã được nghe cái tiếng Việt trầm bổng như chim hót.

Chương XVIII

(Nhật ký)- Hà Nội đã vào tháng chạp 1972. Hàng ngày cứ căng thẳng rồi lại bình thường. Nhưng với tâm lý muốn bình yên thì tưởng tượng của người ta ngả về bình yên nhiều hơn. Đường phố đông người khác thường, hình như ai cũng ra đường. Vẫn giục từng nhà đi sơ tán. Nhưng trong bụng người giục cũng cho là nếu có bom xuống thì hoạ may người ta mới đi.
Họp khối phố, thu được 150 đ, hôm nào thu đủ thì đem lên khu lấy tem phiếu đợt 1. Nửa đêm, tiếng bom bên kia sông phía Gia Lâm. Tháng vừa rồi yên yên, lại ra vẻ bắt đầu đây. Gần sáng, tiếng bom kéo dài nặng nề hơn. Phúc thức giấc, nói: “Con nghe như tiếng B52". Nó có kinh nghiệm chiến trường. Mình đoán vu vơ: “Không có lẽ". Tiếng bom đến tận tảng sáng, trời cứ vừa hửng vừa sẫm lại.
Bom B52 đã ném suốt dọc sông Hồng, Yên Viên, Giang Biên, Đông Anh...
Nửa đêm, lại một đợt bom đến sáng. B52 đánh vào tận Đuôi Cá, hay phía nảo, như tiếng trên trời say thóc ỳ ỳ.
B52 dội Khâm Thiên.
Gần sáng, phố và đường không một người. Dạo một vòng thấy rõ ràng những quả B52 đầu tiên ném xuống bờ hồ Thiền Cuông rồi rải qua bến xe Kim Liên vắt sang vùng Khâm Thiên. Hố bom chi chít nhưng nông lòng. Một cái ô tô chở khách đỗ nghỉ đêm ven đường văng xuống hồ. Khúc đường nhựa cong lên như cái cầu vồng một màu đen. Biến mất dãy cây si buông rễ trông sang cổng công viên.
Sáng sớm, đài Tiếng nói Hoa Kỳ đưa tin Ních ra lệnh ngừng ném bom ngoài vĩ tuyến 20 từ sáng 30.
Trông ra phố, đã thấy trẻ con gánh chăn, nồi xoong, nhanh thế, ở đâu về không biết. Đến trưa, người đã đông bộn lên xếp hàng mua gạo, mua dầu. Tấp nập khác mọi khi.
áp Tết, việc khu phố:
- Giải quyết cho 6 thanh niên tòng quân đợt này. Cố gắng đi được cả. Lên đưòng ngày 6, đêm 5 phố liên hoan tiễn.
- Soát lại con số gia đình khó khăn, bổ sung cứu tế, trợ cấp. Mở rộng diện: năm ngoái 2, năm nay 12.
- Treo đèn ra cửa trụ sở. Tuần tra canh gác bắt đầu đêm 28.
- Tổ phục vụ nấu bánh chưng. Nhận gói 0. 15. Nấu O. 05. Chuẩn bị than. Tới 27 đã nhận gói và nấu 2. 700 chiếc.
- Tổng vệ sinh. Trọng tâm: các hầm nổi, hố cá nhân.
- Mùng một Tết, chúc Tết các gia đình liệt sĩ, thương binh, quân nhân tại ngũ. 7 giờ sáng tập trung nhà trưởng ban. Đến tổ nào có tổ trưởng đi cùng. Nếu Hoài vắng, cụ Trượng thay, đi với các cụ Ninh, cụ Bính.
Trên bàn thờ mỗi nhà mâm cỗ cúng gần giống nhau: cái bánh chưng, đĩa xôi gấc, đĩa thịt gà luộc, bát canh bóng.
Trưa mùng một, ra vườn hoa Thống Nhất. Những cây quất thi được giải, quả chín vàng thậm trong lá.
Không trông thấy cây mộc mà mùi hoa mộc ngan ngát trong mưa bụi.
Lên hồ Gươm. Cây và hồ nước, sóng hồ xanh kỳ lạ Đã quen mắt cả đòì, từ khóm lộc vừng, cảy mõ, cây gạo- trong lòng, trong kỷ niệm. Khác phong cảnh nước ngoài, thấy mà không thấy.
Tối làm va li. Chuyến máy bay chậm, được thêm một ngày ở nhà ăn Tết. Cô Phụng văn phòng hôm cuối năm nhờ mua dây mai- xo bếp điện, mấy cái cũng được.
Mai đi Bucaret.
Lại IL 18 bay giữa trưa Gia Lâm. Thảnh thơi. Có lẽ vì Ních ngừng ném bom. Trời trở lạnh.
Mỗi lần đến Matxcơva, muốn mua gì. Tôi lại kê một tờ sớ dài đưa cho Thiên, cho Hân nhờ mua. Các bạn Marich hay Vlat và cả cô Ina nữa không thể xoay xoả mua nhanh được. Một lần, có lẽ Marich cũng áy náy, Marich nói: “Có một cửa hàng bách hoá tên là Một nghìn thứ lặt vặt, hay lắm. Cái gì không tìm thấy ở đâu thì ở đây có, mà đều ở một chỗ. Chúng ta đi xem. “Cửa hàng Một nghìn thứ lặt vặt, quả là một cửa hàng xén lắm thứ linh tinh, từ cái đinh vít, cái búa đanh đến cái bát, thỏi xà phòng giặt. Chỉ phải cái vẫn ba nấc sắp hàng, lấy phiếu, ra quĩ trả tiền rồi trở lại nhận. Cả buổi sáng, Marich mua cho tôi được con dao phay. Các bạn ấy chẳng đến chỗ này bao giờ, không như Hân, như Thiên, cả trăm cửa hàng, các nơi bán đồ cũ, bán vải mảnh- cửa hàng bán vải mảnh ở Matxcơva và xe đạp Phượng Hoàng phế phẩm ở Bắc Kinh đều đông khách hàng Việt Nam. Lắm người chịu khó đến đọi mua từ sớm chưa mở cửa. ở nhà chỉ mong và dặn những thứ ấy và túi tôi thì sang nhất cũng mua được cái đồng hồ đeo tay, cái đồng hồ báo thức. Những búp bê gỗ matriôtca đồ chơi Nga một con đẻ ra năm con tôi chẳng đụng đến bao giờ.
Thiên hỏi tôi: “Bác có giấy vào cửa hàng quốc tế không?”. Tôi đáp: “Không. Có cửa hàng quốc tế a?” - “Có chứ. Vào đấy có nhiều hàng hiếm: máy khâu Nhật, nồi áp suất, các thứ vải đẹp... Các cán bộ theo các anh sang hay vào cửa hàng đặc biệt này”
Tôi không được biết cửa hàng Tôn Đản ở Matxcơva ở đâu. Mỗi ngày, hội nhà văn hay cơ quan uỷ ban hoà bình đưa cho tôi 5 rúp hay 10 rúp, ấy là ở Nga, còn đi các nước châu Phi, các nước Trung Đông, Nam á thì chẳng đâu đưa tiền tiêu vặt. Chắc người ta không nghĩ mình ra thế giới mà không có đồng nào. Những khi đường xa, cây chà là, cây thết nết, chùm hoa vàng hây như hoa cau, thèm bẻ xuống làm bát nước ngọt, đương khát nước. Cả khi ở Nga thì số tiền hàng ngày nhận cũng không ăn nổi ra bữa, chỉ mua được bánh mì và trứng luộc. Ngày nào cũng xuống buýp phê mua, đã quen mặt những cô bán, nhớ cả lượt họ thay ca.
Không thể xuống phòng ăn, bởi hai trăm gam cô nhắc, uống cho đủ liều thì chỉ rượu đã hết cả ngày tiền ăn. ở khách sạn Ukraina, có hôm tôi trả tiền ăn, Phan Tứ cám ơn và nói: “Xin lỗi, hôm nay chúng tôi ăn của anh hết hai cái bàn là". Nghe tục và thảm quá, nhưng mà thật vậy. Tôi xuống Bacu thăm Đan Thanh, con gái tôi học dưới ấy. Nó đi tìm mua một cái mâm nhôm, rồi lấy vải thô, dây gai chằng lại. Cái mâm vào bí mật bỗng thanh nhã như chiếc đàn bạn tặng lưu niệm. Chiếc mâm nhôm vững chãi đã thọ nửa thế kỷ, - cái mâm luyện bột chẳng bao giờ thủng, bây giờ vẫn hàng ngày hầu hạ trong bữa ăn ở nhà tôi.
Những tờ kê cả chục thứ mua, đưa cho Hân, cho Thiên đại khái những là quạt tai voi- có dạo quạt tai voi và bàn là điện hiếm, thấy bảo vì Việt Nam mua nhiều, phải đợi chuyến tải từ các nước Trung á lên.
Sắm quần áo giầy dép thì Hân đưa đến cửa hàng thiếu nhi. Cái quần, cái áo vét của tôi chỉ bằng đứa trẻ mười ba mười bốn. Mọi thứ cho thiếu nhi giá rẻ nửa đồ người lớn. Rồi thì đem về làm quà cái khoá cửa, nan hoa, líp xe đạp, một nắm ruột bút bi, chia tặng mỗi người một hai cái. Qua Bắc Kinh, ca sĩ Mai Khanh mua cho lọ Hà sa đại tảo hoàn, lại cân thang thuốc và chép kèm cái đơn “thuốc bổ của bác Mao". ở Pnôm Pênh, ở Angiêri về thì hộp chà là khô, lụa bombay, xì líp, xú chiêng... Nhứng năm tám mươi, các thứ đem đi cho đủ cân thì áo gió, áo bay, áo phông, cả túi khuy đồng quần áo bò Lơvit, nhờ bán để sắm những cái không mua được ở nhà, cả đến lưỡi dao cạo râu...
Nếu không có khi mênh mông tưởng tượng bay lên trời trên biển Hắc Hải, thì những chuyến đi đây cứ lầm lũi, cặm cụi như thế. ở hội nghị ra, dạo phố, khách đi tìm mua các thứ lưu niệm còn ta thì chưa bao giờ.
Làm thế nào.
Cũng như, mỗi lần gặp lại Hân và Thiên tôi mừng hú, chỉ vì các cậu ấy mua được chóng vánh và chịu khó nhặt nhạnh từ cuộn chỉ trắng và đủ loại kim khâu, dây mai- xo... trong khi Hân đương bảo vệ bằng tiến sĩ ngữ ngôn vào loại những người đầu tiên ở nước ta và chỉ có Phan Hồng Giang dịch Pautôpski tôi mới đọc được. Và Thiên, Trần Mai Thiên, tiến sĩ cá nước ngọt nước lợ ở viện Cá Lêningrat- mà Nguyên Hồng gọi là thằng đốc Chép. Tất cả đều là những kiệt hiệt hơn người. Nhưng hãy để đấy, để đấy, giúp tôi đã, giúp tôi.
Đi Yanta, lại ra người phong lưu nhàn nhã rồi và lại đi với Vlat. Trong những nơi nghỉ tôi ưa ở vùng đồi Sinaia nước Rumani và các thành phố trên Hắc Hải. Nhà ở, đồi núi và bãi biển liền nhau. Lúc nào cũng là đi tắm, quần đùi áo may ô dạo phố Vanta mua báo hàng ngày và uống bia hơi Tiệp máy bay tải tới.
Ba tuần lễ ở đồi Sinaia giữa mùa phấn thông vảng. Bây giờ mới thật thấy ngày đêm phơi phới nồng nàn mưa phấn thông vàng của Xuân Diệu. Nhưng hàng ngày cũng lắm lo toan đột ngột như cái hôm giày bị vấp há mõm. Cố nhiên, không phải là chiếc giày, mà là cái khó chịu đáng yêu của bà phiên dịch Madari.
Madari chạc trong ngoài năm sáu mươi, phốp pháp, phúc hậu, xôm xốp như người nặn bằng tuyết ở biển băng Bắc Cực.
Tôi cũng đem bản thảo Chuyện nỏ thần đương viết. Trời cao nguyên mát rượi vào mùa hạ thuận cho công việc viết. Nhưng làm được hay không, có thể lại bởi cái bà hồi xuân này.
Tôi chuyện với Madari:
- Ba tuần lễ, không biết tôi có sáng tác được không".
- Cửa buồng anh trông ra rừng thông đương mưa phấn thế kia, sẽ gây cho anh nhiều hứng thú.
- Nhưng tôi ốm, nhiều bệnh. Bà cho tôi đi kiểm tra xem thế nào.
Madari đưa tôi đến phòng khám bệnh viện quận dưới chân đồi.
Người bác sĩ đã đứng tuổi, đo áp huyết rồi bảo:
- Ông bình thường. Ông có thể yên tâm nghỉ ở vùng núi.
ở Bucaret nhiều người nói tiếng Pháp. Các báo ở Pari hàng ngày được máy bay đưa tới. Tôi ngần ngừ:
- Tôi hay đau đầu, mết ngủ. Ông có thể cho tôi...
Người bác sĩ nhìn bà Madan ngồi ngoài cửa, rồi đột ngột hỏi tôi:
- Ông muốn uống thuốc cường dương?
Tôi cười, lắc đầu:
- Không, tôi đến Sinaia nghỉ và làm việc.
- Tôi hiểu, tôi hiểu. Ông bảo bà phiên dịch là ông phải chữa bệnh áp huyết, hàng ngây đến đây tiêm B1.
- Sao lại Bl?
- Chỉ cần ông không được nói tên thuốc với bà ấy, ông hiểu chưa?
Ngày ngày, tôi ra trạm tiêm. Không ngờ mà tôi lại giống cái ông giả vờ ốm muốn ở lại nhà an dưỡng trên Tây Hồ, bị tiêm những mũi B1 ăn khỏe của một thầy thuốc tốt bụng và tinh quái. Tôi được biết nghệ thuật tiêm của các cô y tá khéo tay. Các cô vỗ cánh tay tôi một cái, thì mũi tiêm cũng vửa xong.
Madari viết thư cho tôi, lần nào cũng hỏi thăm bệnh và gửi thuốc, khuyên tôi giữ gìn. Người thật hiền và dễ tin. Rồi nghe tin Rumani phải một trận động đất dữ dội, thành phố Bucaret bị đổ nhíều dãy phố. Người con gái Madari cho biết mẹ cô chẳng may đã chết trong trận dộng đất rồi..
Marich đã biết lần trước chuyến đi Lêningrat với Vlat tiêu lung tung hết tiền mà Marich cho là Vlat đã uống hết. Lần này chỉ nhận tiền hàng tuần, tuần sau lại gửi. Tôi đưa Vlat giữ. Của đáng tội, tiền có là bao, chẳng khi nào Vlat tiêu cái gì khác, chỉ lỡ miệng uống quá, mà uống thì cả tôi uống. Nhưng Vlat chửi Marich đã xui kế toán hảnh chúng tôi: “Thằng Do Thái, nó gửi tiền từng tuần lễ, chỉ đủ ăn không có uống. Nhưng không lo, không thể đói rượu được, đã có cách. Chúng ta sẽ lao động làm ra tiền, người lao động chân chính là chúng ta".
Chưa biết cách gì. Trên Lêningrat thì chắe lại đến ăn vạ Vêrônica. ở đây Vlat cũng có một Vêrônica chăng.
Rồi có hôm nó bảo tôi đi nói chuyện ở nhà trẻ quốc tế Atếch, lại khi đi đài phát thanh đài truyền hình thành phố và viết bài cho báo đía phương. Tôi biết thế là lao động những cách ấy. Dù sao cũng không còn lo lắng nhờ các mẹo vặt của Vlat.
Nhà sáng tác ở biệt thực trên đồi, dinh cơ của một nhà quí tộc trước kia. Thành phố bờ biển, những thắng cảnh và di tích lịch sử. Các trang đài của vua Nga, lâu đài Livađia nơi hội nghị Yanta của thủ lĩnh ba cường quốc Anh, Mỹ, Liên Xô trong chiến tranh thế giới lần thử hai, vườn bách thảo nhiệt đới, biệt thự của Sêkhốp, hòn núi Gấu đẫm mình trên mặt biển...
Tôi tha thẩn một mình ven bờ, lắm hôm tận khuya ở bãi tắm và xem cảng thức suốt đêm có người đi câu ngồi im lặng. Cát trắng lẫn những hòn sỏi thuỷ tinh huyền ảo rạt rào trong tiếng sóng.
Chúng tôi ghé hầm rượn vang đỏ nhãn hiệu Rừng Crưm, vang ngon. Những khúc gỗ, những cặp sừng hươu trong bóng nhập nhoạng ánh điện giả lửa sưởi, như những người thợ săn ở cửa rừng ra, gác súng bên gốc cây, làm cốc vang chát cho ấm người. Vách giả đá như tường hầm, người ngồi lên các thùng vang rông. Ô hay hôm nay lắm các bà xuống hầm rượu. Các bà các cô uống và hát. Ngoài phố, cờ búa liềm đỏ phấp phới. à các bà các chị rượu mừng Quốc Khánh. Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng mười Nga năm thứ 52.
Vlat và tôi cũng mừng Quốc Khánh với hai người thợ mỏ vùng Đông Bắc ra nghỉ biển. Họ hát như gào liên tiếp những bài dân ca về tình yêu và chiến tranh.
Mười giờ đêm vẫn còn quán bia hơi máy bay Praha chở đến. Đến đâu lại hợp thổ ngơi ấy, bia Sinha Thái lan, chai Stema Ai Cập cũng đường được, nhưng vẫn nhờ bia Kon nhãn vẽ hình móng ngựa của Hà Lan. Uống từ bao giờ ở Pnôm Pênh nay vẫn nhớ vị nó. Nhưng ở đây chúng tôi đứng uống bia hơi quán Cua Bể. Đấy là treo biển vẽ con cua- chứ không có cua bán, quán mở cửa từ bảnh mắt, cho người đến uống bia súc miệng. Nhưng chẳng có bảng hiệu cũng có thể biết có quán bia vì các chân tường quanh bên đều quét chữ hắc ín dòng chữ: cấm đái. Ra ở đâu uống vào cũng đái bậy. Một bàn dài suốt gian nhà, không phải lồi lõm vì mối mọt, mà bỏi vết bào mấp mô làm vẻ thô kệch.
Các bợm bia uống đứng hai bên. Những chiếc cốc to tổ bố nâng lên phải đỡ hai tay, thật khoái. Chiếc bánh vòng ròn xốp cho thấm bia, uống được nhiều. Đôi khi có người câu cá dưới biển lên lẻn vào bán dúi con cá ướp muối, mặn thì càng uống tốt. Nhưng cũng chỉ có thế khác ở ta. Cụ tổ bia có sống lại mà đến Hà Nội cũng phải trợn mắt vì cách uống bia của ta. Nước giải khát có cồn được gọi thẳng là rượu bia và uống nhắm đậu rán, lòng lợn, tiết canh, phở, thít chó, thịt dê. Cái cốc gọi là cái vại và các bợm Hà Nội uống cả chục vại bia vẫn ngồi bần thần.
Vlat lấy bia uống một hơi rồi ra đứng ngoài phố.
Tôi tưởng Vlat chỉ uống rượu mạnh, nhưng một lát đã thấy vào, uóng cốc nữa, rồi lại ra. Vlat bảo: “Tao không thể đến cạnh những thằng giâ ở Yanta, tao chỉ muốn đấm vào mặt chúng nó. Bọn ấy trong chiến tranh đã chạy chết ở các nơi về Yanta. Em tao bỏ xác ngoại ô Matxcơva, chúng nó trốn đến đây rồi thành triệu phú, có nhà cho thuê nghỉ mát”. Vlat đã chỉ cho tôi những biệt thự rải rác thấp thoáng sau những hàng rào lila.
Nhìn ra mặt biển, hôm trời quang trông thấy núi Gấu. Hệt cái đầu gấu đen thẫm vục mõm xuống mặt nước. Bao giờ cho chàng Gấu si tình trong cổ tích kia uống cạn nước Hắc Hải để cho Gấu có đường đi tìm người yêu. Dọc xuống chân đồi, những ổ mèo hoang trong bụi lila. Cũng quây quần như chuồng mèo ở nhà ấm áp, mèo mẹ vờn mèo con dưới chùm hoa lila đung đưa mới nở tím ngát cho đến khi hoa tàn màu nhàn nhạt. Mai kia mùa lạnh, tuyết sa phủ khắp vườn cây, mẹ con nhà mèo đi đâu? Đứng đây cũng nghe tiếng sóng. Không phải sóng cát âm thầm mà tiếng những hòn thuỷ tinh được đổ xuống bãi giả sỏi. Sau đồi, tiếng chó sủa trăng. Đêm trăng suông, mặt đất tựa hồ đâu cũng như nhau. Tưởng như những đêm xóm Đồng ra biển Diêm Điền dưới Thái Ninh, mặt nước sông Diêm lờ lững ngoài chân tre cũng thế này.
Nhiều nhà văn nước ngoài được mời đến đây nghỉ và sáng tác. Đêm đêm phảng phất rào rào tiếng máy chứ ở một buồng nào. Mỗi khách một buồng, có người đi cả gia đình. Người phiên dịch đi theo khách thì ở tập thể phòng tầng dưới. Vlat hay ngủ ngay ở buồng tôi, Vlat kêu: thằng ở cùng buồng tao ngáy to quá, không chịu được. Vlat nằm ra sàn. Tôi rút khăn trải giường đắp cho.
Vlat uống lắm thế, nhưng không có thì thôi. Nhiều hôm cũng thương, tôi rủ xuống quán ăn dưới phố. Tiền chỉ đủ ăn, không có uống. Ra hàng mà không uống thà ăn trại lính ở nhà cho gọn bữa. Vlat nháy mắt:
- Cách thần diệu, nhớ ra rồi.
Tôi nhìn xem cách thần diệu ra sao.
Nhà hàng dưới đường ven biển, Vlat đưa tôi tới một buồng nhỏ trước khi vào phòng ăn. Khách sạn này tôi vẫn đi qua, nhưng không biết cái phòng nhỏ là chỗ bán rượu. Có thể vào đấy mua rượu uống trước. Đứng làm một tợp mỗi cốc rồi ra. Nhiều người uống như thế, có lúc khách đông nối đuôi. Rượu không có hầu bàn, rẻ khác hẳn trong quán, vẫn vôtca, vẫn cô nhắc nhãn ấy.
Uống rồi vào phòng ăn hay đi đâu, không ai để ý.
Có ăn lại cả uống, đôi khi cũng vào cho biết. Nhưng cũng không dám la đà tiêu không đếm, bởi tiền gửi xuống đều đặn mà quá ngặt. Hôm trở về, Marich hỏi:
- “Ông có giận tôi không? Tôi bảo gứi thế cho thằng Vlat mất tiêu hoang". Tôi đáp: “Không sao. Ngày ngày vẫn ăn và uống bình thường". Tôi kể Marich cái sáng kiến mua rượu uống trước của Vlat.
- à ở Matxcơva các quán ăn cũng đều có bán rượu uống trước như thế.
Có lúc Vlat cho tôi xem thư của nhà văn nhiều nước châu Phi mà Vlat đem theo để làm việc. Lắm khi nửa đêm Vlat dậy thức suốt sáng. Những năm về sau, Vlat yếu và mắc chứng ho. Nếu không nương nhờ được cô Lọ Lem thì khốn đốn. Nhưng Vlat vẫn là tay giỏi xoay. Marich bảo Vlat chơi bida rất nghề. ở câu lạc bộ, khoảng chín giờ tối trở ra, người ta đánh bida ăn tiền. Hôm nào Vlat cũng được bida. Vlat về bằng taxi. Buổi sáng dậy muộn, cô Lọ Lem đi làm rồi. Vlat ra vẫy xe cứu hoả. Gần phố ấy có nhà chứa xe cứu hoả. Vlat lên xe, đưa tiền. Xe cứu hoả bon bon hết cỡ, đến gần cơ quan, thả Vlat xuống. ít lâu sau, Vlat ốm bệnh rồi mất. Một lần kia, Ina đã đưa cụ Nguyễn Tuân, người bao giờ cũng chu đáo, đem hoa đến nghĩa trang viếng mộ Vlat. Hội nhà văn Liên Xô mời Nguyễn Tuân đi nghỉ. Nguyên Hồng cũng đi dự kỷ niệm về Puskin. Nhưng Nguyễn Tuân chỉ đến Matxcơva rồi ở lại đấy ngắm đầu mùa thu tuyết rơi.
Hôm tôi trở lại Matxcơva, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đã trở về Hà Nội. Mà Nguyễn về trước cả thời gian được ở lại. Nguyễn Tuân chưa đến Yanta bao giờ, nhưng mà mỏi chân quá, cũng chẳng thiết nữa rồi.
Tôi bỗng nhớ cái buồng bỏ hoang của Vlat trong hẻm chân tường Kremli. Quyển sách nói về mèo, tôi vẫn giữ. ở Yanta hay khi đi vùng di tích Samakan ở Trung á, Vlat thấy tôi cứ nghe tiếng máy bay thì nhìn lên trời. Vlat hỏi: “ ở Việt Nam không có máy bay?” Tôi bảo: “Nhiều lắm, máy bay Mỹ. Tôi phải nhìn nó để liệu hướng chạy tránh bom”- Đây không phải máy bay Mỹ- Mà tôi thành thói quen chạy rồi.
Vlat bảo: “Việt Nam nhiều cái lạ, tôi phải sang Việt Nam một lần mới được. Mỗi bạn nuôi tôi một ngày rượu, có ở được tuần lễ không, anh tính xem". Vlat chưa đến Việt Nam lần nào. Vlat chẳng bao giờ đến Việt Nam được nữa.
Lại xuống Yanta, đi với Hêlena. Người không đậm, không nhạt chỉ phải cái hút thuốc lá thở khói như kéo bễ. Hêlena nói: “Bây giờ trên thế giới, đàn bà hút thuốc kỷ lục hơn đàn ông".
Các bạn ăn tiễn ở nhà hàng Bắc Kinh. Dẫu chỉ đi ít tuần, nhưng đến với biền khi nào tôi cũng trân trọng và háo hức như được đến với những mới mẻ, mặc dầu đã biết. Chỉ có một lần chối quá, bỏ đi ngay.
ấy là ở bờ biển Vacna nước Bun. Gặp nhà văn Ba Lan Giucôpxki- người đã đến mặt trận Điện Biên Phủ làm phóng viên, Giucôpxky bảo tôi:
- Tôi đưa anh đến nhà dưỡng lão, cũng ở Vacna này. Anh thích thì ở lại đấy cũng được.
Rồi lại nói:
- Quan sát những người già cởi truồng.
- Không sao!
Vùng bãi này có rào chắn cách với các khu khác.
Tôi trông thấy thật đông những đàn ông đàn bà nằm, ngồi và đi lại trên cát, mọi người đều lông lá trần truồng.
Toàn người có tuổi như chúng tôi, lễ mễ, lôm nhôm như cái xác. Tôi ngán như vừa ra cửa gặp mụ Digan mời chìa tay để xem tướng. ở La Havana, đến sàn nhảy Tropicana khiêu vũ cởi truồng, nhìn người nhảy như con ếch, chán ngắt, tôi chẳng đụng đậy mảy may.
Tôi quay ra, bảo Giucôpxky:
- Đi thôi.
- Không bằng lòng a?
- Xem làm gì những con trâu con bò về già. Tôi chưa muốn trông thấy tôi như thế, ông bạn ạ.
Uống cô nhắc, nhắm thịt cừu nướng. Bàn bên, hai gă Ba Lan và một cô Nga. Ngỡ thế, vì thấy chúng nó gọi bia Ba Lan. Chắc đoán tôi là người Nhật, họ chào lễ phép. Người Nhật đến đây thì đượ giá. Những cô chiêu đãi viên hàng không Nhật ở sân bay về khách sạn Ukraina nghỉ, đồng phục mũ và váy áo tím than, các cô yểu điệu xinh như mộng, ẩn chiếc xe va li nhỏ, ai đi qua cũng ngoái nhìn lại. Tôi ra dạo công viên khách sạn, một cô điếm Nga mặt nhợt nhạt gọi: “Giapan... Giapan... Ông già Nhật Bản rởm này vẫn im lặng đi.
Ba giờ sáng ra sân bay. Hêlena chỉ đi hai tuần rồi về trước để đi nghỉ biển ở Riga với chồng.
Lại xuống Ximphêrôpôn. Những mảnh nắng rải vàng dịu. Ga mới ra vẻ ga trời quốc tế không mộc mạc cái ga tỉnh lẻ mọi khi. Cây táo hoang, Vlat đã ra ngắt quả xanh ăn cho dã rượu đã bị chặt, cũng chết- cái cây không phải chết bệnh. Hồ nước mênh mang, không cạn như mọi khi. Ra đến Yanta giữa trưa, mặt biển còn sương mù bốc lên quanh núi Gấu. Bản thảo tiểu thuyết Đảo hoang của tôi, đem theo ra đây lần trước mà đoạn mở đầu tôi ngồi viết trên núi đá hang Phai Vệ giữa thị xã Lạng Sơn- cái hang tôi ngồi viết tránh bom máy bay, tôi tả hệt cái hang đá nhà An Tiêm bị tạm giam trước khi bị đầy ra đảo. Đến yanta, cỏ tích núi Gấu cung đã vào tiểu thuyết tôi thành nhân vật anh em Gấu ở đảo hoang với cả nhà An Tiêm. Lần này, tôi đi Luang Prabang về, đến Yanta cùng với bản thảo Họ Giàng ở Phìn Xa đương viết.
Trên đường, ngọn núi giống hình mặt người từ đời nào đã được đặt tên là mặt nàng Catêrin, tuyết phủ mờ mờ tảng trán. Các làng ven núi trồng táo và những luống dàn nho. Nhớ thế, nhớ Xín Vàng, Vằn Chải, Sùng Đô bao giờ các xóm núi ở ta có mái ngói, có nước máy thế này?
Mây mù mây tảng dâng từ mặt nước lên các vườn nho lan ra tận mép bãi. Hệt trên đường từ Bâyrút sang Đamát, những dây nho được chặt gốc, nho đợi nảy mầm ủ trong băng qua mùa đông.
Hoàng hôn thành phố biển. Máy bay phản lực gầm thét- những tiếng rống của công nghiệp và quân sự hiện đại. Bờ bên kia là nước Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ đặt những bệ phóng tên lửa vượt đại châu ở nước Thổ. Nhưng tiếng cuộc đời muôn thuở vẫn đây. Con chim gì thấp thoáng hót nho nhỏ trong lá. Cây bạch dương càng vàng lá thì thân cây càng trắng như bột. Từng đàn hải âu bay qua trên cột ống khói tàu vào đậu cảng Yanta. Tiếng trẻ đùa râm ran bên kia bờ tường. Trước mặt, sương xuống đậm hơn, những dãy đèn màu lên lóng lánh, như những cây Noen giữa không trung.
Một ngôi sao dưng dưng mọc bên trời nước Thổ. Vẫn như năm năm trước, mười năm trước, dinh thự nhà sáng tác hai tầng, trông ra biển, cơ ngoỉ này đã xây năm 1916. Nhà ăn vẫn hai món chí cốt trại lính: súp cải bắp và thịt băm viên. Cô nhà bàn như nhân vật tiểu thuyết Poil de Carotte, cái mũi vẫn đỏ hơi xẫm. Chỉ khác đã già úa và đẫy ra. Cô hỏi thăm Vlat. Không nói Vlat đã chết, tôi bảo: “Ông ấy có việc không đi được". Chẳng nên để ai bận lòng hơn.
ăn sáng xong tôi lên buồng sửa soạn những dòng đầu tiên một chương mới, trong khi Hêlena xuống bãi sớm. Tôi đương nhớ lại những làng người Mông mà mới tháng trước đi qua. ở Luang Prabang, người Mông sinh sống đông hơn người Lào. Tôi lại nghĩ loăng quăng về dân tộc Mông mà từ lâu tôi đã định viết trình bày với Quốc Hội về những hiểu biết và đề nghị của tôi.
Thế là lại ngồi vẩn vơ, tôi chưa gọi được hồn các làng xóm vùng cao ở Phìn Sa có họ Giàng, nhưng cứ đặt bút lấy đà.
Nửa đêm chập chờn như mới chập tối, tiếng hát dưới cửa sổ. Chắc là rượu hát.
Dọc đường biển, cây hoa ô môi nở hồng. ở bờ hồ Gươm cũng có một cây ô môi, rồi cây ô môi cổ thụ ấy bị đàn đi từ lúc nào. Có lẽ vì cái thân cây già lão còng rạp xuống mặt cỏ. Người ta không để ý cây ô môi hoa mùa hè, miền Nam nhiều, cả Hà Nội chỉ có vài ba cây. Thế mà tôi chiêm bao vẫn thấy Bờ Hồ có cây ô môi còng lưng.
Đường dốc lên, những gốc mận mọc hoang, quả chín vàng chín đỏ. Nẫu ra thì rụng, chẳng ai hai đến, như cây táo ở sân bay Ximphêrôpôn. Chặp tối- theo mẹo của Vlat dè xẻn tiêu tiền, xuống phố làm trước cốc 200 gam vôtka rồi lên phòng ăn. Cô Hêlena không uống, đi theo xem tôi uống. Quán rượu có cốc tay chanh, Hêlena lấy một cốc. Ông già làm rượu hỏi: Có đi với ông người Nga năm trước không? Hêlena dịch câu trả lời của tôi: “Ông ấy chết rồi". Ông già nói: “Tội nghiệp, ông ấy chết trẻ". Hêlena nói trêu: “Sang năm tôi cũng chết, cụ cũng chết, ông Việt Nam này giết được nhiều người lắm". Ông già nói: “Tôi chết là vừa phải, còn cô thì nên cố uống vài triệu cái cốctay nữa hẵng chết”. Rồi ông rót ba cốc vôtca không tính tiền. ông mời chúng tôi uống không chạm cốc. Chúng tôi uống tưởng niệm Vlat.
Cũng như ở mâm rượn với bạn, Vạn Lịch hay để ra cái bát, đôi đũa và châm nén hương, bảo để mời thằng Nguyễn Sáng. Phong tục nhớ người đã khuất, đâu cũng tương tự. Vạn Lịch ơi, bây giờ mày chết rồi thì ai mời mày. Nhưng phút tưởng niệm Vlat cũng chỉ giây lát, bỏi người uống rượu chay đã vào đông và những thùng loa nhạc trong phòng ăn và sàn nhảy trên kia đã oang oang hết cỡ. Thế giới bây giờ, tiếng nhạc đâu cung ầm ĩ rên la, chói tai.
Bãi tắm của du lịch Inturit riêng một góc, nhưng ở Yanta chưa có bãi tắm truồng như bên Vacna. Bãi đây nhiều sỏi thuỷ tinh nhân tạo ít cát, tôi xách một mảnh giường ván đi nằm đâu cũng được. Hêlena đã mua vé cho tôi cả tháng.
Hôm qua Hêlena ngâm nước nhiều, kêu chán nước, chỉ ngồi khoả chân, hút thuốc và lại trêu tôi: “Trái đất quay ngược, bây giờ chỉ có đàn bà hút thuốc". Chẳng khác trước hôm xuống đây, phải đi kiểm tra, tôi kêu tôi ít ngủ. Ông bác sĩ già nói: “Ông đừng lo. Ngày nay trái đất quay cũng khác, cả thế giới đều ngủ ít như ông". Tôi có nhận xét tưởng tượng người Nga vào thế kỷ này hay triết lý châm biếm chán chường.
Cô nhà bàn mũi đỏ mỗi bữa bưng cho tôi một đĩa hanh ngâm dấm, ngoài những món cố định đã có trong thực đơn. Cô ấy thật nhớ lâu, cả người và thức ăn.
Mới đến, cô đã bảo Hêlena: “Tôi đã biết ông khách này như người Mỹ không thích ăn cá, mỗi hôm ông đòi một đĩa hành, cá mới đắt, còn hành thì dễ quá.”
Hêlena đi trong mưa, không mang đồ tắm. Cô ấy lên rủ tôi ra mua vé máy bay cô về Matxcơva. Chóng thế đã hết hai tuần. Chúng tôi ở đại lý hàng không ra, xuống quán hầm rượu vang Rừng Crưm. Vẫn đông nghịt và những mẩu gỗ, những thùng gỗ làm ghế. ánh đèn mờ mờ trong những cây nến giả. Hêlena uống hai cốc. Cô ấy không thích rượu mạnh, nhưng vang thì uống tốt. Nhớ Vlat lạ lùng. Bố chết oan, em chết trận, mẹ chết già, Vlat thì chết một mình.
Hêlena đi rồi, tôi xuống bãi tắm đã quen. Cái may- ô, cái quần lửng với cái mũ quần rách- chả là ở đầu phố Hàng Gai có cụ chủ hiệu mũ Triphooca ngày trước, bây giờ cụ khâu mũ thuê. Đưa đến cụ cái quần kaki rách gối cụ may cho cái mũ vải. Cụ lấy công bằng chỗ vải thừa. Cứ cái mũ vải quần rách tôi tha thẩn dưới bãi lên phố, mua báo, bia, người ta tưởng một ông già Nhật đi du lịch. Tôi cũng cố đóng vai lão Nhật, lặng im như hôm gặp cô gái điếm ở vườn khách sạn Ukraina.
Vào quán, ai nâng cốc, tôi cũng nói được “cạn chén” tiếng Tàu can pây, “can cây” tiếng Nhật giả cày.
Tôi yêu Yanta đêm nhiều hơn, không phải vì hay thức đêm viết. Mà đêm Yanta nghe sóng rồi xuống giỡn được với sóng ngay dưới kia. Ban đêm nghe tiếng sóng nhởn nhơ dễ tưởng như hồi còn thơ dại. Khuya trong nhà lều người Mông Cổ ở cánh đồng Đakhan, gió hú trên ống khói bếp nhớ thuở bé bẻ cong chiếu làm tùm hum chui vào bóng tối, hai tai dỏng lên. Đêm ở làng chài Nghi Sơn, Biện Sơn bờ biển Quảng Xương, tiếng sóng bủa quanh mình chỉ nghe thế thôi, không dám thò chân ra. Những con rắn hổ lửa hay quăng mình đi ăn đêm. Tiếng đêm thăm thẳm, con cú rúc từng hồi trên búi tre lép nhà ông Ngải ở xóm Đồng. Đêm Yanta, tiếng sóng và sáng điện hiền lành, bình yên, tôi lững thững đi bên mép nước... Nửa đêm đã thưa tiếng xe, bấy giờ mới nghe thấy rảm ran tiếng dế kêu.
Gió thổi vào những cành liễu trước cửa sổ. Gió thu xào xạc rụng lá khác gió vờn trong cây mùa hạ. Có cô Galina ở Matxcơva xuống thay Hêlena. Đi tắm, bà già giữ cửa hỏi giấy tôi. Vừa hay, Galina tới. Cũng chạc Hêlena, nhưng Galina gầy, võ vàng. ở bãi lên mua chai vang uống mừng Galina. Galina không phải cây thuốc lá, mà là một cái ông rượu không đáy. Galina kể trên Matxcơva đã lạnh, nửa đêm tuyết rơi.
Tôi hẹn với nhà văn Tiệp Khắc Givi Vôrisêch và cô phiên dịch của ông ngày mai đến quán thịt nướng Lơnôi hồ Kavagon giữa rừng, năm trước tôi và Vlat đã đến đấy vớt vợ chồng Simônôp. Ngồi ăn giữa những khẩu súng săn treo trên vách, như kiểu những người thợ săn vừa ở rừng ra. Lá bạch dương vào thu đã vàng choé. Những bụi hoa lila nở chậm khác lila ở Bucaret bên hồ Hêrêch trên gió thổi bay hoa “tuyết mùa hè”, nở tím bạt ngàn từ tháng năm. Mưa tầm tã, nhưng người đi tắm đi chơi không biết mưa.
Ba giờ sáng trở dậy. Trăng vằng vặc trước cửa sổ. Còn hai chương nữa thì xong Họ Giàng ở Phìn Sa. Làm sao cho những chương cuối nổi lên được vấn đề người Mỹ mà cụ thể là bọn biệt kích Cia mũ nồi xanh mạo hiểm đến vùng dân tộc Mông hoang sơ. Họ nhảy dù xuống, lấy tư cách người văn minh đem đến những cái hiện đại: tàu bay, súng đạn, quần áo, mũ, rượu và đòi ngủ với đàn bà. Người ta thất kinh. Và đến khi chúng nó ở lâu, thì con người với con người chỉ còn có căm thù.
Bà nhà văn Đức Indơ Richte và ông Tiệp sang chơi. Bà 81 tuổi. Chỉ bánh mì đen mà bà ngoạm khoẻ như thần trùng. Bà kể đêm qua nhà văn Tiệp đi chơi ba giờ đêm mới về. Ông trèo cửa sổ buồng cô Tania phiên dịch. Tôi hỏi ông Tiệp: ông vào ngủ với Tania?
ông Tiệp nói:
- Tôi đi chơi với nhà văn Ukraina mới tới. Tôi chỉ trèo nhờ tường buồng cô Tania, tôi về buồng tôi.
ông ấy cười. Tôi khoe đã viết xong chương cuối tiểu thuyết. Ông hỏi:
- Ông viết chữ Trung Quốc?
- Không, chữ Việt Nam
- Tôi thấy các nhà văn Nhật viết chữ Trung Quốc.
- Không, chữ Nhật đấy.
Tôi mở tập bản thảo. Hai nhà vãn Indơ và Giri cùng nhìn và reo lên:
- ơ, chữ Việt Nam cũng giống chữ Tiệp, chữ Đức
- Chữ nước tôi đã latinh hoá từ lâu.
- Tôi sai lầm quá, cứ tưởng chứ Trung Quốc cũng là chữ Nhật, chữ Việt Nam.
Rồi ông nói to:
- Viết xong chương cuối một tác phẩm tôi phải ngủ với một người đàn bà để tự thưởng. Anh thế nào?
- Bà hàng xóm tôi 81 tuổi.
- Hêlena thì chưa già, được lắm.
- Hêlena về Moscou rồi, Galina vừa mới tới.
- Cô nào cũng thế. Galina đẹp đấy, uống mừng một cốc nào.
Chúng tôi uống cô nhắc với mận ngắt ngoài vườn, mận còn chát phải chấm muối. Các nhà văn nước Tiệp, nước Ukraina, nước Đức đều chúa rượu cả.

Chương XIX

Tối ấy, tôi viết một thư gửi Quốc Hội.
Yanta 28- 8...
Kính gửi Hội đồng Dân tộc của quốc hội khoá 7
Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá 7 tôi đã đề đạt nguyện vọng cho tôi được đổi từ ủy ban Văn hoá Giáo dục của Quôc hội sang làm thành viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Nguyện vọng của tôi đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ở kỳ họp Quôc hội vừa qua. Tôi chân thành cám ơn.
Tôi xin trình bày một số hiểu biết và đề nghị của tôi về vấn đề dân tộc Mông ở nước ta.
l
Trong giai đoạn nước ta thuộc Pháp nhíều quan cai trị và những người truyền giáo đạo Gia Tô thường chú ý nghiên cúu các vấn đề dân tộc. Sabachiê công sứ Đắc Lắc sưu tầm dân ca Đam San và viết nhiều về các dân tộc ở Tây Nguyên; Cờretxông, công sứ Yên Bái nghiên cứu dân tộc Tày, quan ba Bôniphaxi biết chữ Hán đã viết về dân tộc Dao. Linh mục Savina tu ở Sapa đã soạn từ điển Pháp- Mèo và Lịch sử dân tộc Mèo linh mục Hiền (tên Việt Nam) đã tu ở Nghĩa Lộ (Yên Bái) từ 1924 tới 1950, soạn Từ điển Pháp- Mèo. Tât nhiên, những việc làm về học thuật trên đều có liên quan tới vấn đề chính trị, xã hội.
Dân tộc Mông có ước chừng trên hai triệu người cư trú ở 5 nước nhưng liền một khu vực (Trung Quốc, Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện), đông nhất ở Trung Quôc (hai tỉnh Quí Châu, Vân Nam) và ở Lào (ba tỉnh phía bắc). Về tính cách và những đặc điểm của người Mông: trung thực, lao động, dũng cảm cưỡi ngựa, bắn súng giỏi. Họ ở tập trung, tin tưởng và phục tùng dòng họ, ít quan hệ các dân tộc xung quanh, đem thuôc phiện đi chợ chỉ cần đổi muôí, mua muôí. Người Mông tin tưởng (cách mạng) hay không tin tưởng phản động) rõ ràng và hiếm khi thay đổi.
Trong thời Pháp đô hộ, cho tới 1919, dân tộc Mông đã nhiều lần nổi dậy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914- 1918, linh mục Savina viết trong Lịch sử dân tộc Mèo: đế quốc Đức đã tìm cách giúp người Mông chống Pháp ở Đông Dương. ở Hà Giang (Việt Nam), ở Xiêng khoảng (Lào) binh lính Pháp phải đi đánh dẹp, linh mục Sa vina làm cố vấn chính trị trong các binh đoàn.
Cuối năm 1919, Sa vina đã họp được với các vua Mèo ở bắc Việt Nam và Lào ở Xiêng Khoảng. Hội nghị này công bố một hiệp định của chính phủ Pháp ký với các thủ lĩnh Mèo có mặt và đại diện. Trong văn bản hiệp định, điều khoản 1 là: (nguyên văn) Từ nay dân tộc Mèo ở Đông Dương thuộc quyền bảo hộ của nước Pháp, không thuộc các quan lại annam, thổ, thái... Người thay mặt nước Pháp ở mỗi tỉnh là quan công sứ: (Hiệp định này in toàn văn trong quyển Lịch sử dân tộc Mèo của Savina).
Chế độ bảo hộ này đã có ảnh hưởng thực tế. Năm 1973, tôi lên Sùng Đô (Nghĩa Lộ) còn nghe người già ca ngợi và khoe mỗi năm đến Tết, người Mèo được “đến chơi nhà quan công sứ”. Người Mèo ở Phìn Hồ được sang nước Pháp chơi. Gần đây, nhà thờ Phìn Hồ không có cha xứ, đến tết Nôen nhiều người Mông đã về lễ tận nhà thờ Hà Nội, như vợ chồng nhà Pàng Dơ (Nghĩa Lộ).
Không phải ngẫu nhiên, giữa chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, quan ba tình báo Pháp Givơ đã đem toán biệt kích nhảy dù xuống vùng người Mông ở Thượng Bằng La (Nghĩa lộ).
Âm mưu của địch đối với các vùng Mông là liên tục. Những vụ người Mông xưng vua trên biên giới phía bắc, tây bắc năm 1955 là một mưu lược rõ rệt suốt từ Hà Giang qua Lào Cai sang Lai Châu, Son la.
2
Từ 1975, nước ta đã hoàn toàn thống nhất, cách mạng Lào đã thành công, nhưng mọi thủ đoạn và những âm mưu vẫn tồn tại và phát triển. Con cháu Vàng Pao vua Mèo ở Lào được đưa về Mỹ học trường quân sự cao cấp. Người Mèo di cư ra nước ngoài tập trung thành làng ở đảo Guyan do Mỹ nuôi có linh mục Pháp tới truyền giáo (phóng sự báo Express 1988). Nếu trước kia thủ đoạn của Pháp chỉ có tính cách đối phó- như hiệp định Xiêng Khoảng, thì nay Mỹ có chủ trươg và kế hoạch lâu dài. Trên thế giới có bốn đài phát thanh hàng ngày có giờ phát tin tức và ca nhạc tiếng Mông. Các đài: Tiếng nói Hoa Kỳ, Châu á tự do, Manila, Vatican. Nhiều báo Pháp thường bàn tới một nước Mông, người Mông đương ở 5 nước hiện nay, cho là vùng này có thể trở thành một nước “Itxraen phương Đông”. ý đồ đó không phải một phương hướng hành động mà họ đã làm cụ thể, như kể ở trên. Và như trong kháng chiến, người Mỹ đã soạn và in sách học chữ Mèo latinh hoá, từ Lào đã phổ biến sang vùng người Mông ở Kỳ Sơn, Mường Xén (Nghệ An. Nhiều nơi ở bắc Lào, Mỹ đã tổ chức những đội mũ nồi xanh” (quân riêng của CIA). Phóng sự Lính mũ nồi xanh của nhà báo A. Villiers đã miêu tả biệt kích Mỹ được thả dù xuống làng Mèo để huấn luyện đánh du kích chống quân đội Lào.
Miền Bắc nước ta, người Mông ở trên biên giới phía bắc, giáp Lào và Trung Quốc có trên 30 vạn người dân số đứng hàng thứ tư trong 54 dân tộc anh em. Từ trước tới nay, với chế độ ta người Mông trung thực, một lòng một dạ.
Tuy nhiên, từ Cách mạng tháng Tám 1945 tới nay chưa hình thành được một đội ngũ cán bộ người Mông thật sự có trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn vững chắc. Việc đi học, đi công tác với người Mông chưa thâý phải là đòi hỏi và cần thiết. Đi học, đi công tác hay ở làng, làm nương cũng thế, chẳng thành một băn khoăn so sánh đi công tác hay ở nhà.
Về văn hoá, chữ Mông đã đuợc đặt ra, đã in sách giáo khoa, đã mở lớp học tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông, nhưng không qui định biện pháp sử dụng, mọi giấy tờ từ xã lên vẫn chỉ dùng tiếng phổ thông. Cho nên, học thì biết rất nhanh rồi bỏ đấy.
Về sản xuât và đời sống vật chất có vấn đề trồng cây thuốc phiện.
Kinh tế thuốc phiện không phải chỉ một khu vực mà là vấn đề kinh tế và chính trị người Mông ở cả 5 nước, đã nổi tiếng thuốc phiện và bạch phiến khu “Tam giác vàng” ra khắp thế giới...
Sự sinh sống của người Mông xưa nay trông vào 3 nguồn chủ yêu: trồng ngô lấy cái ăn, nuôi lợn lấy thịt và mỡ làm dầu thắp; làm nương cây thuốc phiện để có tiền mua sắm. Ta đã vận độn không trồng cây thuốc phiện vì thuốc phiện khó về trị an (trộm cắp, buôn lậu) và hại cho sức khoẻ vì mắc nghiện... Theo nhận xét của tôi, người Mông cũng không thiết trồng thuốc phiện, nhất là chị em phụ nữ. Vì người đàn ông nghiện thì ốm yêú bỏ sản xuất. Nhưng không trồng thuốc phiện thì cây gì thay thế để bán cho có tiền mua sắm. Đã được khuyến khích và hướng dẫn trồng tam thất, đậu tương xuyên khung, hạt giống rau... đều không thành công vì cây chết, vì giá quá rẻ. Trong khi, vài đồng cân thuốc phiện đã bán được một nắm tiền và cái nương thuốc phiện thì nhỏ bé, dễ làm... Người ta vẫn trồng thuốc phiện khi nào ngơi lệnh cấm thì trồng ở vườn, khi nào cấm ngặt thì trồng lậu trên các đỉnh núi cao.
Lại những tình cờ tôi đã gặp ngót bốn mươi năm trước, lần đầu tiên đến Matxcơva bây giờ nhớ lại mà như gặp lại, cái gì không bao giờ còn có thì lại như có.
Cụ Lêôn Chức hay cụ Hồng, ông lão giác ngộ cách mạng ở Pháp năm 1923 trốn sang nước quê Cách mạng tháng Mưòi. Thế nào mà rồi ông lại theo phái tờ rốt kít. Ông bị bắt, bị đày chung thân đến Xibêri. Hơn hai mươi năm sau ông được thả, ông lấy vợ người dân tộc Cômi ở giữa đồng hoang taiga. Mãi đến năm ấy, nghe tin nước nhà độc lập, ông lặn lội về Matxcơva tìm đến sứ quán ta. Ông chỉ còn nói tiếng Việt lơ lớ, ông kể quê ở Thái Bình. Ông già yếu quá rồi. Ông ngồi khóc. Ông cũng không có nguyện vọng về nước.
ông không còn nhớ hẳn tên ông là Hồng hay là Lêôn Chức, là Lêôn. Người bé nhỏ, bước lủi thủi. Nhà nghiên cứu văn học Niculin có viết về cụ Lêôn Hồng trong một bài bút ký. Tôi đã được gặp cụ lần ấy nầm 1957. Về sau tôi hỏi thăm, ở sứ quán ta nói không thấy ông đến nữa. Chắc ông khuất núi đã lâu rồi.
Cũng một cảnh đi đày, trong chuyến những người tờ rốt kít bị bắt đày đi Xibêri có Tưởng Kinh Quốc, con trai Tưởng Giới Thạch. Ông thống chế Quốc dân đảng này gửi con sang du học Liên Xô. Hoạt động tờ rốt kít, cũng bị bắt tù luôn. Sau nhờ bố can thiệp, Tưởng Kinh Quốc được thả. Tưởng Kinh Quốc về Trung Quốc, đem theo người vợ Nga quê ở Sveclôp. Bà Tatiana đã ăn ở với chồng đến đầu bạc răng long. Khi tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc chết, bà đi sau xe tang.
Báo chí thế giới đã đưa tin về chuyện lạ ông tổng thống Tàu lấy vợ Nga này.
ông Lêôn Hồng, ông Tưởng Kinh Quốc, những tay rờ rốt kít phải đi đày, nhưng khác nhau, số phận và những tình cờ.
Nhưng số phận khác nhau. Tôi quen Platôn từ năm ấy. Platôn quê ở Ukraina vùng Cuốc cách thành phố Kiep sáu mươi cây số. Tốt nghiệp trung học hai mươi tuổi, Platôn tòng quân. Năm 1942, cả binh đoàn vào trận đánh, bị bao vây và bị phát xít Đức bắt ở Khacôp.
Tù binh Platôn phải giải về Đức, học lái xe rồi làm tù binh lái xe tải của quân đội Đức đóng ở Đan Mạch.
Phát xít Đức thua trận. Tù binh Nga được giải phóng. Platôn cũng đượe về nước, nhưng phải nhốt trong toa tàu những tù binh đã cộng tác với địch. Platôn sẽ phải ra toà án quân sự.
Đến một ga xe lửa giữa đường gần biên giới Nga, Platôn nhảy xuống, chạy trở lại. Platôn sang Pháp. Thấy các nơi dán áp phích lấy lê dương, Platôn vào lính lê dương Pháp. Năm 1947, đội quân lê dương ấy bị đưa sang mặt trận Đông Dương. Đơn vị của Platôn đóng ở Phú Nhuận rồi Bến Tre, rồi Vĩnh Long. Vào lê dương, Platôn lại làm nghề cũ. Ngày ngày lái xe tải chở thức ăn uống, dây thép gai, dây điện thoại đi các bốt. Cuộc đời phiêu đãng khốn cùng, chỉ còn biết uống rượu giải khuây. Platôn kể: thường nhờ người vào mua rượu trong làng, vì vậy Platôn liên lạc bắt mối được với du kích Việt Minh. Du kích đưa cho Platôn xem tài liệu về Việt Nam kháng chiến, thế nào là chiến tranh chính nghĩa, là phi nghĩa. Và truyền đơn kêu gọi binh lính phản chiến, đòi trở về quê hương. Platôn quyết định ra vùng tự do, đã định ra ở Phú Nhuận, nhưng rồi mối hỏng. Rồi xuống Bến Tre, Platôn tìm bắt liên lạc được với một du kích tên là Mô, Platôn theo du kích Mô ra vùng kháng chiến. Chèo thuyền suốt đêm mới tới được điểm hẹn. Platôn đem theo được hai khẩu súng trường làm chiến lợi phẩm.
Platôn kể với tôi là vừa tháng trước, Platôn được quân đội ta mời sang Bến Tre dự lễ kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307. Platôn gặp lại du kích Mô. Mô đã già, rụng hết tóc, đã lẫn cẫn. Một lúc mới nhớ ra Platôn, thế là ôm Platôn, hai người khóc hu hu.
Platôn được tên là Nguyễn Văn Thành, phiên chế vào chủ lực tiểu đoàn. Cấp trên cứ ngỡ là Pháp, là Đức, là Nga tất nhiên phải biết về súng nặng. Thành được ngay chức khầu đội trưởng súng cối. Thành đâu biết cái khầu súng cối ra sao. Nhưng mầy mò rồi cũng bắn được cói, cối hóc Thành cũng chữa được. Đội trưởng Thành nghiễm nhiên hóa ra tay thạo và đã đánh nhiều trận. Có trận chỉ thổi tin cho nguy biết trận này có Tây bắn súng cối, bên kia đã bỏ đồn chạy êm. ở khu giải phóng đan cài vùng địch vùng ta, tiểu đoàn cũng có quê mỗi khi dưỡng quân, luyện quân- đấy là một phố tản cư bên sông ven rừng dừa. Anh em làm mối vợ cho Thành. ở đấy có một bà trước kia là vợ một người Pháp lai Mangat đã đi lính rồi làm công chức nhà dây thép tỉnh. Không ai biết ông Tây dây thép bỏ bà ấy về Pháp hay ông bị Nhật đem đi giết khi đảo chính. Chỉ có một bà ấy và cô con gái ở bờ kênh trong khu giải phóng. Cô Mai còn có tên Tây là Côlet. Tuổi dậy thì xinh đẹp, mắt nâu, tóc vàng óng. Nhiều chàng trai mê cô nhưng đương đánh Tây, không chàng nào dám bập vào cô Tây lai. Thế là Thành được xe duyên. Đám cưới bộ đội giản dị, nhưng cũng tiệc bánh kẹo, rượu đế và đàn ca hò hát cả đêm.
Vợ Thành về thị xã ở cữ, sinh được con gái. Thành ở đơn vị được tin, nửa đêm bí mật vào gặp vợ. Con gái giống bố quá. Thành đặt tên con là Giênhia. Thành ẵm con được một lúc, lại đi. Mẹ vợ rất qui cháu Giênhia và con rể. Trong cuộc đời gian truân của Platôn chưa bao giờ Platôn được những ngày mong nhớ yêu thương như mỗi khi có dịp về hậu cứ thuở ấy.
Một ngày kia, Thành về. Mẹ ẵm cháu Giênhia ra đón, chỉ khóc mà không nói. Những người hàng xóm đến an ủi, cho Thành biết Côlet đã bỏ con lại, đi theo người thợ bạc về Sài Gòn. Thành làm sao trốn đơn vị đi tìm vợ được!
Vả chăng, nó đã tham vàng, tham bạc bỏ ngãi đi theo người ta, bắt về được nao. Thế là rồi Thành lại lăn lộn trận mạc với khẩu moochiê.
Chiến tranh kết thúc. Bộ đội tập kết, Thành cũng được ra Bắc. Mẹ vợ và cả Côet Mai ở Sài Gòn nghe tin; cũng xuống Năm Căn tiễn Thành. Côlet đã có hai con với người thợ bạc. Giênhia thì đã lên sáu tuổi, bà cho đi với bố.
Thành và con gái Giênhia ra Bắc. Những chuyến tàu Nga, tàu Ba Lan đưa bộ đội và cán bộ từ các mũi tập kết đi. Cả mấy tháng trời Platôn được giao nhiệm vụ làm phiên dịch trên những chuyến tàu ra Sầm Sơn.
Rồi hai bố con ở Hà Nội có đến hai năm. Không phải lưu luyến nhớ cảnh nhớ người ở đây mà tù hàng binh Platôn phải ở lại lo giấy tờ gửi về nước trình bày nông nỗi, toà án quân sự bên Nga xem xét huỷ cho tù binh Platôn cái án tử hình đã cộng tác với phát xít Đức.
Rồi cũng xong. Năm 1956, hai bố con về Matxcova.
Rồi Giênhia đến tuổi trưởng thành vào làm đài phát thanh Matxcơva nói tiếng Việt. Platôn cung xin vào đài, nhưng không được nhận, vì lý lịch phức tạp. Buồn nông nỗi, trở về quê ở Cuốc. Cả vùng quê không ai ngờ Platôn còn sống. Mẹ Platôn chỉ mới mất cách đấy hai năm.
Rồi sau Platôn cũng được làm ở đài, nhưng chỉ làm hợp đồng. Hợp đồng ba mươi năm cho đến năm ngoái mới nghỉ, Platôn tự nhận xét và an ủi: “Ba mươi năm người ta viết cho tôi ngồi đọc, chỉ có cái miệng làm việc. Vậy chỉ hợp đồng cũng phải".
Đến năm 1980, được tin mẹ Côlet mất. Còn Côlet, chỉ sau khi Thành tập kết ra Bắc ít lâu Côlét chết bệnh ở Sài Gòn. Mẹ già sống cô đơn, từ ngày miền Nam thống nhất. ở Matxcơva, Thành vẫn thường gửi biếu tiền, có khi là vải, đồng hồ và quần áo về Bến Tre. Thành thương mẹ vợ như ngày ở chiến khu.
Vừa rồi, được trở lại Bến Tre dự kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307, khấu đội trưởng moochiê Platôn Nguyễn Văn Thành đã đi thăm mộ mẹ và vợ. Hai ngôi mộ mẹ con được đưa về đặt cạnh nhau trong nghĩa trang. Thành đưa cho tôi xem cái ảnh Thành thắp hương đứng chắp tay vái giữa hai ngôi mộ, người mẹ hiền từ và người vợ bạc phận ở nghĩa trang Hanh Thông Tây. Cuộc đời lưu lạc đứt từng quãng, nhưng trong một con người lúc nào cũng có sợi dây vô hình nối thắt lại quãng đau, quãng vui, quãng ngậm ngùi.
Nhà Platôn ở gần đường ra sân bay quốc tế giữa một rừng cây castan. Đương mùa lá castan rụng vàng rơii xung quanh ngôi nhà các căn hộ ở năm tầng. Giênhia đã lấy chồng, Platôn ở với bà vợ goá một ông tướng, hai người đều đã ngoài bảy mươi. Bà ơgiêni trưóc là giáo viên dạy tiếng Pháp. Truyện thiếu nhi tính ác của tôi năm trước Platôn đã dịch chữ sang chữ rồi ơgiêni dịch ra tiếng Nga. Sách đã in từ hơn mười năm trước bây giờ mới gặp và tôi thành bạn của hai dịch giả.
Hôm chúng tôi đi Alma Ata, Platôn đem quyển Tính ác xuống cho một nhà xuất bản ở Cadăcstan dịch in ra tiếng Cadăc.
Tôi đã đi với Platôn ba lần, một lần họp ở Alma Ata, hai lần ra bờ Hắc Hải nghỉ ở Pitsunđa. Platôn tự giới thiệu: Tôi là Thành, hai Thành, Nguyễn Văn Thành, Platôn Thành.
Platôn nói, giọng và tiếng hoạt bát hệt một người Việt Nam, hai người Việt Nam trò chuyện, cả những hấm hứ cưười mũi, cười khẩy và các thứ tiếng lóng. Platôn đã chung đụng, lăn lộn nhiều năm từ Nam ra Bắc.
Platôn lại kể chuyện Bến Tre, mà Platôn đã nói mấy lần rồi, lại bày ra cho tôi xem những bút máy, bút bi, đồng hồ, sổ tay, huy hiệu ma các bạn đồng đội 307 mới cho và được đơn vị tặng.
Platôn cao hứng lỗ mỗ hát vang:
Ba trăm lẻ bảy! Ba trăm lẻ bảy! Cửu Long giang sông trào nước xoáy! Ba trăm lẻ bảy! Anh hùng biết mấy! Đánh đâu được đấy! Ba trăm lẻ bảy! Lẻ bảy!
Platôn sinh 1922, người cao lớn phốp pháp, vẻ ra trễ tràng và khệ nệ của một người về già. Không thể tưởng tượng được ra con người mà cuộc đời đã chìm nổi đến như thế. Ông lão hiền hiền, trầm ngâm ít nói. Đôi khi, Platôn nhấp một chén rượu, phảng phất thấy Platôn thuở nào ở những bước khiêu vũ như vờn của thời trẻ, một hôm chúng tôi đi chơi núi. Nhanh nhẹn nhẹ nhàng, uyển chuyển ông lão nhảy sánh vai với một cô gái trẻ nhất hội.
Tôi lại đem ra bài mua rượu uống trước khi vào phòng ăn của Vlat hồi đi Yanta. Platôn chẳng lạ khoé ấy.
- Platôn uống bao nhiêu, mấy trăm gam?
- Cho tôi 50 gam.
- ít thế. ở Bến Tre, Platôn nốc một ngày mấy chai đế cơ mà?
- Ngày xưa với bây giờ khác. Hai Thành đi tu đã lâu, lên sư ông rồi.
Platôn đột nhiên kể:
- Tôi có một người bạn Việt Nam làm ở nhà xuất bản Tiến Bộ.
- Tên là gì?
- Tên Nga là thằng Ivan.
Tôi đoán là Văn Doãn hay Lê Vinh Quốc mà có lần Marich kể họ hay đến thư viện câu lạc bộ Hội Nhà văn mượn sách.
- Có phải thằng Văn Doãn?
- Anh quen nó a? Nó nói chuyện rất vui.
- Tôi chỉ biết, chưa hề gặp.
- Platôn muốn rủ nó đi Pitsunđa. Nhưng Ivan tự tử rồi.
- Sao nó chết?
- Không biết. Những ngườii uống rượu nhiều hay tự tử. Có lẽ tôi bớt uống rượn vì thế.
- Platôn thì chết sao được. Nếu chết, chắc Platôn chết đã lâu rồi.
Hôm sắp đi, Platôn hỏi tôi:
- Tôi đem một bà bạn đi được không?
Tôi cười:
- Platôn đi tu lên sư ông rồi cơ mà.
- Mục sư Tin Lành vẫn có vợ, có bồ, tôi là mục sư. Anh lấy làm phiền thì thôi.
- Chẳng bận đến tôi, anh cứ cho bà bạn đi.
Tôi hỏi:
- Cái năm Platôn đi Pitsunđa với Nguyễn Văn Bổng Platôn có đem bồ đi không?
- Có.
- Giới thiệu với Nguyễn Văn Bổng?
- Không. Phải bí mật chớ.
Platôn kể: “Đi đường tôi chỉ chuyện với bà ấy như người trên tàu xe làm quen với nhau. Tôi ở nhà nghỉ với anh Bổng, bà ấy trọ ở nhà vườn trong đồi, nhà nào ở Pitsunđa cũng có nghề chứa trọ người đi chơi biển. Thỉnh thoảng chúng tôi ra biển gặp nhau, chui vào bụi lila, đắp chăn cát. Có vậy thôi".
Platôn đã giới thiệu bà ấy với tôi trên một chuyến xe điện ngầm. Người đàn bà không còn trẻ, cũng chưa già mấy. Nhưng rồi bà ấy không đi. Platôn bảo người ta bận việc nhà. Phải thế không hay thế nào, tôi không biết.
Chợ nông trường ở Pitsunđa. Hàng quán lèo tèo mầy bàn thịt bò, thịt cừu. Những giỏ đào, giỏ mận. Treo cao cao từng tảng sáp tổ ong cả khoái. Platôn uống đúng một trăm gam rượu trắng và nói một câu triết lý: “Lắm lúc tôi nhớ Bến Tre, không muốn nhớ mà không được. Anh biết tại sao không?” Chẳng hỏi cũng biết đấy là những ngày hạnh phúc, những ngày đau đớn, những kỷ niệm gậm nhấm mòn mỏi cả đời người không thể bao giờ quên đi được cuộc sống xã hội mà người lính, người tù, người lê dương giang hồ đã trải. Chẳng có ngày tháng ai bằng phẳng, chỉ nhìn nhận thế nào, sống thế nào cho còn là thằng người nữa mà thôi.
Không hiểu tại sao, tôi đương viết về chợ nông trường Pitsunđa, lại nghĩ đến Trần Đức Thảo và Đặng Đình Hưng. Tôi phải nói lại hai người ấy không hề bận đến nhau, chỉ có tôi quen hai người. Họ chìm nổi mà họ cũng phẳng lặng, lẫn lữa như dửng dưng vào cuộc sống như Platôn, buồn quá đến không biết thế nào là buồn.
Những cuộc đờì một mình thui thủi. Mỗi người mỗi khác, biết hay không biết, nhưng chung một nỗi buồn. Là Trần Đức Thảo, là Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platôn Hai Thành, ai thấu cho, mà biết thế nào được. Hay là những chuyến đi của tôi nặng nhọc, vớ vẩn và buồn. Không phải có những chuyện không muốn nhớ, không bao giờ muốn nhớ mà cứ nhớ, cái sự đời thế vậy, ấy là lần sau cùng qua Matxcơva bỗng rồi Liên Xô thành “Liên Xô cũ”, hỡi ôi, và những lần ấy đến Mông Cổ, qua Trung Quốc.
Bốn mươi năm trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc sống xã hội và đời mình. Tuổi nhiều thì ngại đổi thay, mà cứ như định mệnh không tránh được.
Đi Mông Cổ lần này khác trước rồi. Tôi đã đến Mông Cổ có lần với Nguyễn Quang Sáng, có chuyến với Vi Hồng và bây giờ đi một mình.
Đến Ulan Bato với Nguyễn Quang Sáng phải chạy máy bay Mỹ bom ga Đồng Đăng, thì cũng là chuyến đi trọn vẹn. Với Vi Hồng, ở Hà Nội đến Matxcơva rồi từ đấy vòng sang. Thế là đã có khó khăn, hai phen Mông Cổ hai sự tình đi khác nhau. Đến lần này, còn thế nào nữa hơn, chưa biết. Đón tôi ở Ulan Bato, Somon Đacsơven có tên Việt là Viên. Viên tốt nghiệp đại học văn ở Hà Nội và là người dịch Dế mèn phiêu lưu ký in ở Mông Cổ.
Hôm nay Mông Cổ lại đã khác những ngày xưa và Đacsơven đương kim chủ tịch hội hữu nghị Mông Cổ- Việt Nam, cũng như Gadunôp hội hữu nghị Nga- Việt bây giờ, Gadunôp đã dịch tiểu thuyết áo trắng của Nguyễn Văn Bồng, hai hội hữu nghị thật năng động, dẫu thời thế đã qua rồi, vẫn còn thấy được cái tìh cái nghĩa của các bạn đối với đất nước ta thấm đằm nhường nào.
Đi một mình đã là oái ăm, lại đi tàu hoả, lại vào cuối năm 1979 trời đất khác trước. Tàu hoả Hà Nội Bắc Kinh liên vận quốc tế nhưng ở Hà Nội đi vẫn đường Sắt hẹp. Sang Bằng Tường tàu đổi ỳ ạch cỡ lớn hơn. Thế mà Mỹ đánh bom, không còn cây cầu nhỏ nào sống sót. Đến cầu Bắc Lệ sau cùng phải bỏ tàu, ôtô tăng bo lên Đồng Đăng. Máy bay giặc vẫn đuổi eo, thả bom từng hố sâu ngay trước cửa quan Hữu nghị đã chặp tối, còn vài bước chân thì sang đất Trung Quốc. Cỏ tranh bị vùi trong hố bom đất đỏ như miệng giếng mới đào. Những đợt trước ném bom miền Bắc chưa khi nào máy bay Mỹ lên tàn phá tận đây.
Ven sườn núi biên giới trời còn tối đất, đến Bằng Tường đã le lói sáng những ngọn điện. ở đâu kéo ra dòng người sang chợ đêm bên Đồng Đăng. áo váy, tay nải chàm dưới vành nón lá, người Tày người Nùng hai bên biên giới về chợ. Hầu như cũng tự nhiên, cột mốc thì đánh dấu phân chia, nhưng dòng sông Kỳ Cùng mải miết chảy không biết đâu đất nào nước nào. Hai bên núi cũng là núi, người lấy vợ lấy chồng, họ nội họ ngoại, tắt lửa tối đèn đi lại thế. Năm trước, tôi đây có lần đã lên Khơ Đa đi với Mã Hợp sang ăn cỗ đám cưới bên ải Khẩu. Làng Lũng Nghìu bên ấy cũng dân tộc Nùng, thời kỳ đen tối trước 1945, đồn Tây ở Đồng Đăng lùng bắt, ông Mã Thành Nhân bố Mã Hợp đã đem các con chạy sang nương náu ở Lũng Nghìu bên ải Khẩu.
Người thị xã Lạng Sơn còn kể trên cửa quan Hữu Nghị năm ngoái năm kia, nhà mậu bên Bằng Tường đã lên mở hiệu cao lâu bán mỳ vằn thắn. Ngày chợ Đồng Đăng và chủ nhật, cả người dưới phố thị xã cũng nô nức lên nếm vằn thắn Tàu, tuyệt ngon so với vằn thắn Hà Nội chỉ có sợi mì gạo và lá kiệu thay lá hẹ. Chỉ vài bước về xuôi, máy bay Mỹ đêm ngày bắn phá, phở chua chợ Kỳ Lừa không còn thì được húp cái nước dùng vằn thắn ấy đã tỉnh người- đào đâu ra các thứ thiệt không thấy bóng cả ở phố phường Hà Nội lúc ấy.
Trên cửa quan Hữu Nghị có còn quán vằn thắn ngon không, lại một câu hỏi ngao ngán. Tàu hoả lượn vào trông lên sườn núi tường thành thấy lơ thơ dây dợ ăng ten. Lên trên kia, bên này Da Bai Can hay ga Nhị Liên, các ga biên giới, mái nhà và chim bồ câu thảnh thơi đồn biên phòng hai bên, bây giờ chất ngất những gò đống dây thép gai xám như sương mù. Rừng núi ngoài kia chắc cũng thế, lại trở lại Trấn Nam quan, Mục Nam quan có phải không?
Đã lâu mới đi xe hoả- như bốn mươi năm trước, lần đầu tiên qua Trung Quốc, tầu lên Đông Bắc, cơm trên tàu ngon như cỗ ngày Tết. Bây giờ cũng vẫn trang nhã thế, người nhà tàu lễ phép, lịch sự. Cửa sổ trông ra phong cảnh dọc đường. Những gốc liễu rủ, những cây cầu thảnh thơi như trong truyện Tam Quốc, Thuỷ Hử. Tưởng như không có những khó khăn và xích mích, bởi chỉ thấy cảnh đẹp vẫn như bao giờ.
Nhưng chỉ một lát đã ập đến những cái lo, những ngần ngại. Người công an trách nhiệm an ninh toa tàu bưới tới. Anh chạc ngoài hai mươi tuổi, dáng người Hoa Trung, Hoa Bắc cao lớn đẹp trai, quần áo sắc phục mới. Anh đến trước buồng tôi, giơ tay chào thân mật.
Anh nói được tiếng Pháp. Tôi đã ngợ về hiện tượng hiếm có ấy. Tàu quốc tế vắng teo. Ban chiều, qua cầu Bắc Lệ đã bị đổ gục, vài người khách ôtô tăng bo đi tiếp sang ga Bằng Tường không có khách lên.
Anh công an xin phép vào buồng tôi chơi. Một lát, nói:
- Xin lỗi đồng chí... đồng chí có thể cho tôi hỏi.
Đồng chí cứ tự nhiên.
Tôi đọc báo thấy tin Việt Nam và Campuchia có chiến tranh. Tại sao các đồng chí đánh đồng chí Pôn Pốt?
- Tôi cũng chỉ biết trên báo như đồng chí đã đọc.
Nửa ngày đường, cho tới Nam Ninh, chốc anh lại đến chơi lại xin lỗi, lại hỏi một câu tương tự và tôi cũng trả lời đại khái vậy. Đích là người công an đã được chọn làm trách nhiệm toa này.
Tôi bảo:
- Ta nói chuyện khác nhé.
- Chuyện gì?
- Đồng chí được đến Hà Nội chưa?
- Tôi chưa biết Hà Nội.
Đồng chí nên đến Hà Nội.
- Hà Nội đẹp lắm a?
- Cũng như Vũ Hán, như Bắc Kinh.
- Thế thì tôi biết rồi.
- Có điều đồng chí chưa biết. Con gái Hà Nội rất đẹp.
- à!
Từ lúc ấy, câu chuyện lạc ra ngoài những hỏi đáp lăng nhăng phức tạp vừa rồi. Đất nước Việt Nam và vẻ đẹp con gái Hà Nội mà người con trai quê gốc Hoa Trung theo gia đình lên lập nghiệp vùng kinh tế mới Tân Cương cứ hỏi tôi mãi mà chưa hết chuyện.
Ga Nam Ninh, ga địa đầu làm thủ tục vào Trung Quốc. Nghỉ đây lâu, mọi lần đều như vậy. Khi tàu đương vào ga, người trưởng tàu đến bảo tôi:
- Các thứ hành lý đều mang xuống.
Tôi lặng lẽ làm như lòì dặn. Nhưng mọi khi, chỉ một mình xuống với chiếc cặp xách tay. Tôi cũng không hỏi, e phiền phức. Bây giờ không phải như trước. ở phòng hải quan có cả chục nhân viên. Tôi gặp lại niềm vui quen thuộc mọi khi. Những người đi lại trước mặt tôi đều chào lịch sự, họ nói tiếng Việt. Các khách nội địa đã ra cửa ga. Trong phòng hải quan trơ trọi cái và li và tôi
Một người bước đến chào tôi:
- Đồng chí đi một mình?
- Vâng, tôi đi một mình
- Đồng chí ra bàn ngồi đợi.
Một người hải quan khác thân mật:
- Chào đồng chí. Trông đồng chí không được vui?
Tôi cười như đùa, nhưng nói thật:
- Mọi khi ngồi đợi tàu chạy được uống nước, hút thuốc.
- Xin lỗi, xin lỗi.
Một cốc trà có nắp đậy và bao Đại Tiền Môn được đưa ngay ra. Tôi nhấp ngụm nước chè nóng. Đến lúc làm việc, người cán bộ hải quan bảo:
- Mời đồng chí vào. Đem cả va li.
Tôi biết là phòng khám. Nhưng tôi cũng biết, bình thường ra, đi máy bay hay tàu hoả, không khám dọc đường Tôi lại biết bây giờ khác. Trong phòng có ghế ngồi lịch sự. Cái va li được đặt giữa tôi và người hải quan. Tôi lấy chìa khoá.
Người hải quan ấy giơ tay như cản lại và nói:
- Tôi không khám. Lát nữa chúng ta sẽ cùng ra.
- Có ai hỏi, đồng chí nói là khám rồi.
ở mỗi ga lớn mà tàu dừng, từ Vũ Hán lên Trường Sa, đều có nơi tổ chức khám. Nhưng lệ nghiêm ngặt chỉ ở bàn giấy và khi một tổ hai ba người, còn một người với nhau thì cười, không khám. Cái va li của tôi chỉ bị mở có một lần và hai người hải quan cũng nhìn qua, không đụng vào một thứ gì.
Bấy lâu qua lại, cứ khi xa lại khi gần mỗi lúc. Điều đó khiến tôi vừa xúc động lại vừa buồn. Dường như ở đâu cũng tương tự, những khúc quanh của tình thế cứ qua đi, chỉ có tấm lòng con người vẫn ấm và đượm lại. Mấy năm ấy, dẫu có những ngăn ngại và éo le, nhưng đường từ Hà Nội ra nước ngoài, vẫn quá giang qua Bắc Kinh, qua Matxcơva, tôi đã chứng kiến những xử xự biết bao phức tạp, cái thì nhìn thấy, cái thì chính mình trải nếm trên đường đi.
Hoàng Trung Thông và tôi đi Cận Đông, chặng nghỉ đầu tiên ở Bắc Kinh. Trước sân hội nhà văn Bắc Kinh có hai lò luyện thép xây đá, ống khói tuôn ngùn ngụt, tấp nập người đi lấy than, người ra kéo bễ. Ngoài đường, phấp phới như bướm đỏ bay, mỗi chiếc xe đạp cắm trên ghi đông một lá quốc kỳ xinh xinh. Chín giờ sáng, mọi người đứng ra ngoài trời, cầm quyển Mao tuyển bìa đỏ, kể cả ở sân bay các đội bay đương sửa soạn đi. Nghe nói thắng cảnh Di Hoà Viên không còn, ở đấy đã dựng lên những khẩu hiệu “công nghiệp gang thép 20 năm đuổi kịp nước Anh. Chúng tôi đã chơi Thập Tam lăng và Di Hoà viên. Đó là lời đồn thổi nặng nề, những cảnh đẹp và di tích vẫn nguyên vẹn. Chỉ có, nếu để ý kỹ thấy đôi chỗ trên tường, trên bức hoành ở một vài đền đài còn mờ mờ vết mực hay sơn đen xoá chưa được sạch hẳn mà thôi.
Ngủ lại Hán Khẩu ở một khách sạn cũ của người Anh. Từng đoàn hồng vệ binh sắp hàng mười hai mươi, bước đi khi thế ngùn ngụt và trong khách sạn, trên mặt tường phòng ngủ, phòng ăn đều kẻ khẩu hiệu đả đảo đế quốc. Nhưng hai bên vỉa hè, người ta vẫn đi lại bình thường và chặp tối những bà lão ngồi lẳng lặng ngâm chân vào chậu nước nóng. Trên các ụ súng ở tường thành lẫm liệt nhô ra khẩu cao xạ, đại bác nghênh nòng hướng phía biển. Bên kia xa xa ấy là các đảo Kim Môn, Mã Tổ ngoài Đài Loan- đôi khi xảy ra những trận đấu pháo liền mấy ngày đêm. Đến khuya, hàng phố đã đóng cửa, dưới lòng đường, các đoàn hồng vệ binh vào thành phố vẫn cuồn cuộn như con trăn quăng mình.
Trên Bắc Kinh đương dán các áp phích báo chữ to, Hoàng Trung Thông đọc báo là báo và khẩu hiệu đả đảo tác giả tiểu thuyết Đá đỏ.
Những vụ án văn, từ hồi Đinh Linh rồi Triệu Thụ Lý và những ai, cũng không thấy rợn nữa, vì nhiều. Vả lại, đến ông Đặng Tiểu Bình mà còn bị đày đi Tân Kiến ở Giang Tây, từ 1969 đến 1973, năm năm làm thợ sửa chữa xưởng máy kéo. May mà thuở trẻ ở Pari, ông đã học cơ khí. Kiên gan kiên tâm đến thế, mỗi tối trở về ở cái nhà “lều trâu”, trước khi ngủ, ông đi bách bộ. Mấy năm trời trong vườn cỏ vệt nhẵn một lối đi.
Cái lạnh sa mạc Gô Bi đã đưa về Bắc Kinh buốt xám ngắt. Chặp tối, một bà lão mặc áo bông xách cái làn mây ra các bức tường bóc những mảng báo chữ to giấy đỏ đã khô cong, đem về đốt sưởi. Vào khu chợ Đông An cũng những bức tường, có người đeo túi đi gỡ mảng báo cũ, bên cạnh những tờ giấy đỏ, giấy trắng mới được dán lên. Sáng sớm, những đoàn hồng vệ binh đi thâu đêm ở xa về không biết từ vùng nào, vẫn đông nghịt.
Trên máy bay, các cô chiêu đãi viên đồng loạt tóc cắt ngắn, áo quần xanh công nhân. Máy bay lên tới độ cao, khách được thoải mái đi đứng rồi. Hoàng Trung Thông ra chỗ mượn báo anh nói chuyện với các cô chiêu đãi. Được biếu một quyển Mao tuyển sách đỏ. Lại được uống bia Thanh Đảo và cả một cốc Mao Đài.
Bởi Hoàng Trung Thông đã bút đàm, lại hát lơ lớ được Đông phương hồng bằng tiếng Trung Quốc. Khi Hoàng Trung Thông hát tiếng Việt thì tất cả các cô đều hát nhịp đệm. Thế là thưởng rượu, thưởng rượu và tôi cũng được ơn thưởng lây.
Trông Hoàng Trung Thông mặt rượu đỏ lựng bao giờ tôi cứ ái ngại. Tôi không lo Thông say, mà có say cũng rất vui và khi tỉnh thì khi nào anh cũng nói dài, tỏ ra ta chưa say. Và lý sự những cái đúng trong cái say. Nhớ hôm ở khách sạn Thắng Lợi trên hồ Tây, Thông nâng cốc với Ina Dimônina chúc sức khoẻ Lêon Lêon đã chết từ năm trước. Lúc ấy Ina lặng im và cúi mặt.
Hôm sau, ở quán rượu phố Huế, tôi kể với Thông câu chuyện Ina đã nói với tôi.
Tôi bảo:
- Ina không nên buồn. Ông ấy không biết nên đã lỡ lời.
- Tôi không buồn đâu. Khi người ta không gặp nhau thì chết rồi cũng vẫn là như còn sống.
- Vả lại, Lêon có tốt gì với Ina. Hãy quên đi.
Tôi ở với anh àý đã mười một năm, tôi phải nhớ, quên thế nào! ông tàn nhẫn quá. Ông Thông biết thương người hơn ông.
Hoàng Trung Thông sảng khoái, giơ chén: Đấy, đấy con bé triết lý và kết luận hay. Câu chúc của mình có ý nghĩa vưọt vũ trụ chứ". Tôi lại nhớ một hôm ở cơ quan. Chúng tôi họp đảng uỷ buổi trưa. Mặt Hoàng Trung Thông cũng đỏ phừng phừng. Mùi rượu sực nức.
Tôi thường khó chịu khi ngửi hơi rượu ở miệng mình hay mùi rượu quanh người khác. Tôi không ngại Hoàng Trung Thông rượu vào rồi nói lằng nhằng ở một cuộc họp nghiêm chỉnh. Trông thì tôi biết Hoàng Trung Thông uống lệ, uống giữ, không thể bao giờ mỗi chốc anh đã nói không chủ động. Nhưng không thể có mùi cồn ở cuộc họp vài ba người mà lại có phụ nữ, chị Vũ Thị Thường.
Một lúc khác, tôi bảo Thông:
- Đi họp đừng uống rượu.
Hoàng Trung Thông không nhìn tôi và lặng im.
Cũng lúc ấy, anh tặng tôi tập Thơ Mao Trạch Đông anh dịch, nhà xuất bản Văn Học in đã lâu. Đưa tôi tập thơ đã đề tặng, Hoàng Trung Thông nói:
- Tôi rất yêu, rất phục Trung Quốc. Tôi rất buồn về tình hình Trung Quốc, Trung Quốc với ta, tôi buồn lắm.
Tôi thật không phải. Có thể tôi mang lỗi với cả người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ anh nghiện rượu vì quen miệng thôi, không phải bởi những cái yêu ghét to tát và sâu xa kia.
Máy bay đỗ xuống sân bay Trường Sa, khách xuống nghỉ lữ quán. Các chiêu đãi viên vào phòng trong cởi thay áo đại cán xanh Sĩ Lâm, các cô đã hoá ra những nàng tiên sơ mi trắng nõn, má đỏ, cổ tay trắng ngần.
Thế nào thì con gái vẫn có cách làm đẹp của con gái. Lần này tôi một mình qua Bắc Kinh khác nhiều những lần ấy, kể cả tôi đương trên đường. Xung quanh đường như hớn hở, tâm sự mình thì không được vui, lạnh lẽo thế nào. Bắc Kinh cổ kính và Bắc Kinh hiện đại lại lồ lộ sức sống, vừa uy nghiêm vừa trẻ trung. Những bức tường nào không chi chít báo chữ to thì lộ ra hàng gạch vồ nghìn năm chân phương. Tửu lầu lừng danh đặc sản tái dê lẩu dê Đông Lai Thuận lại mở cửa, hai chiếc đèn lồng chao nghiêng thắm đỏ.
Trên cột đèn có chỗ còn vết dán kẻ chữ đổi tên phố mớt ở nhưng tờ giấy gió tuyết quét còn sót lại từ bao giờ. Những cây hoè cổ thụ, Vũ Xương toàn cây thông, Hán Khẩu những hàng dương liễu, Bắc Kinh thành phố cây hoè, và những cây bồ liễu cành quang đãng đương ủ mầm sắp sang xuân.
Bắc Kinh đã phảng phất hơi xuân thì trên Ulan Bato vào trong giá rét kinh hồn. Mặt đất đóng băng trắng toát, nhà lều và người ủ trong hộp băng. Nửa đêm, đội quân cảnh xô viết tuần tra bước rào rạo, như đàn gấu trắng đi ngoài hè. Tôi lại ở nhà khách chân núi Chúa như cái lần đi với Ina. Nhưng hồi ấy tháng tám mặt trời rực rỡ tận chặp tối- tháng ấy nhiều nắng nhất trong năm, những đàn nai nuôi trên đồi cỏ tranh nhởn nhơ rỡn vào tận thềm. Bây giờ lạnh quá, cái lạnh khiến chỗ nào cũng khô cong bật ra điện. Cởi áo len, điện loé xanh tanh tách như nổ sọt. Cầm chốt cửa, điện giật thót ngón tay. Người ta như không ai để ý, còn tôi phải lấy khăn lót tay mỗi lần mở cửa, cho đến hôm quen.
Trong phòng, ngồi một phụ nữ váy đỏ sẫm, trông đã thấy ấm. Chị nhà buồng quay ra, mỉm cười. Tôi hiểu có thể cô gái này ở lại với tôi. Tôi lắc đầu, chắp hai tay. Cô ấy đứng dậy lấy áo khoác và xỏ đôi bốt. Tôi đưa cô ra quầy buýp phê. Tôi uống vôtka chống lạnh. Cô ấy dùng một cốc nước chè sữa, rồi đi. Hôm sau, Đácxơvên đến, tôi kể lại chuyện. Anh hồn nhiên nói: “Không phải gái điếm. Có khi người ta muốn lấy giống của anh".
Chúng tôi đến sứ quán Việt Nam. Đại sứ trò chuyện thân mật ngay. Ông hỏi tôi: “Thế nào, anh Lê Nguyên Hồng hồi này có khoẻ không?”. Đại sứ đã đứng tuổi, ngày trước đã phải phát vãng đi tù căng Bắc Mê với Nguyên Hồng. Tôi đáp: “Anh Lê Nguyên Hồng rất khoẻ, vẫn uống rượu tốt". Ông cười to, nói: “Hôm nào anh về tôi gửi biếu Lê Nguyên Hồng chai vôtca Mông Cổ. Cái này quí lắm, bên Nga khan rượu phải sang đây mua đấy". Và ông đại sứ vẫn gọi Nguyên Hồng với họ Lê. Chắc ông thuộc sử Tàu hồi đầu thế kỷ, các nhân vật lẫn lộn Nguyên Hồng với những Lý Hồng Chương Trương Học Lương, Bạch Sùng Hy...
ông đại sứ vui tính, tôi lây ngay cái vui của ông. Quần áo tôi không thể chống nổi cái lạnh phương bắc. Ông đem ở kho ra đôi ủng da, cái áo lông cừu cổ lông kín nửa mặt. Kho sứ quán trữ những thứ ấy cho mượn, nếu khách đến vào lúc quá rét, nhưng cũng tuỳ công tác tùy người mới được mượn. Lạnh đến đỗi hôm trở về tôi vẫn áo lông và bốt cao cổ thế lên khoang tàu. Ông đại sứ phải vào tận buồng, tôi mới cởi áo và bốt đưa ông cất vào túi ni lông đã mang theo sẵn. Đến đây có hai cái hãi, mùa đông dữ tợn và sinh viên ta sang học chăn nuôi sợ bị lây bệnh cừu khó chữa vì ở nước ta không có bệnh cừu.
Tôi thì hợp hơi cừu, thịt cừu. Mùi cừu ấm người, ăn thịt cừu như thịt chó và thở ra mùi cừu. ở cửa hàng, trên ô tô, trong khách sạn đâu cũng thoang thoảng mùi cừu ấm áp. Cừu nấu cari ngon chẳng khác thịt chó rựa mận Đông Lỗ trứ danh. Lạnh đến không cần tủ lạnh. Tôi đã đến một nông trang trong thung lũng Đakhan, trước mỗi cổng nhà lều có cái móc xích treo một con cừu đã mổ sẵn. Mỗi hôm, cầm dao ra xẻo thịt, chặt khúc xương, đem vào bếp nấu nướng. Cứ nhờ những bữa ăn ả Rập và Mông Cổ thịt cừu, sữa cừu, nước chè cừu. Trên thế giới này, người chén thịt cừu nhiều lắm chứ.
Đại hội Hội nhà văn Mông Cổ. Thong thả, bài diễn văn đọc tại hội trường đã viết và được dịch từ nhà. Chẳng nhớ hội nghị thế nào, cũng không có gì phải nhớ. Tôi làm hội Hữu nghị á Phi, đã dạo hầu khắp các nước châu á, châu Phi, đã gặp nhiều ông tên tuổi bây giờ còn rầm rĩ, tổng thống Ađam Hutxen nước Irắc, nước Syri thì tổng thống Atxat, Hailê Mariam chủ tịch cuối cùng nước Êtiôpi tiến bộ, chẳng qua trời sai đi đâu thì đi đấy, nên chưa khi nào đến Tây âu, Bắc Mỹ, Bắc á, chẳng biết những nước Pháp, nước Mỹ, ở đâu.
Đácsơven đã cho in lại Dế mèn phiêu lưu ký vào dịp này, có lời tựa tôi viết cho bản in mới. Vợ chồng anh ấy và con nhỏ, chúng tôi ăn mừng Dế Mèn lại sang Mông Cổ. Ngoài kia, thành phố nhà tầng và nhà lều vẫn một màu băng trắng long lanh và tuyết lại rơi.
Viên nói:
- Tôi sẽ lấy tiền bản quyền cho anh. Có ít thôi nhưng ở Ulan Bato không có gì mua hợp đem về Hà Nội. Tôi lấy ngân phiếu, anh về Bắc Kinh đổi ra nhân dân tệ, ở Bắc Kinh có nhiều thứ, anh biết rồi.
Viên học và ở Hà Nội năm năm, đã thạo cả. Viên lo cho tôi còn hơn những cái tôi có thể làm. Đấy, tôi đã vào bách hoá Ulan Bato, thấy quần bò rẻ quá. Mua một chiếc đem về xem cái nhãn trong cạp quần, mảnh vải có chữ: Nhãn hiệu Việt Nam Hà Nội.
Tàu rời trong gió tuyết tơi bời. Xe lửa xuyên Xibêri đến quãng này có hai nhánh, đường trên quanh hồ Bai Can, được xem mùa đông đóng băng phủ con hồ lớn nhất trái đất. Đường dưới này chắc chỉ những ai có việc đến Ulan Bato mới đi, bởi mênh mông mịt mù ngày đêm rừng và đồng hoang. Những khách cùng toa thoạt đầu tôi tưởng người Mông Cổ, áo dài lót lông cừu, thắt lưng bụng nhụng cả trước mặt sau lưng như cái túi tròn quanh mình, có thể nhét vào lấy ra cả cái bánh mì, tảng thịt xấy bọc giấy bóng. Nhưng rồi nghe nói tiếng Trung Quốc, mới nhớ Hoa kiều ở Mông Cổ cũng nhiều. Tôi cùng buồng với hai người, đoán là vợ chồng.
Những người ra ga tiễn vác từng bịch lớn cất dưới gầm ghế, bên trên để các túi quần áo, chăn và những bọc quả táo đỏ. Chúng tôi chuyện với nhau bằng miệng cười và bàn- tay, ngón tay. Chẳng bao lâu, tôi cũng biết những bịch cất trong gầm ghế là những bao gạo.
Vừa xảy ra trận động đất nặng nề ở vùng Đường Sơn cách Bắc Kinh có trên trăm cây số, nhiều người sợ chạy xuống thành phố. Hôm tàu lên Mông Cổ tôi đã thấy khoảng hè đường ngay ở ngoại ô Bắc Kinh những cái hố đào ngang lòng đất, đắp mái lên chống tuyết- những hang hốc trợ thời như mùa đông ở các sa mạc Đông Bắc. Các ngả đường khác thế nào không biết, nhưng gạo và bột mì ở Mông Cổ tải về nhiều. Không biết hàng lậu hay đi tự do, nhưng dường như có khám xét, mà cũng trễ tràng thôi.
Anh ấy làm hiệu tay nhấc tôi đứng dậy rồi chỉ xuống nguyên chỗ. Tôi hiểu anh muốn bảo tôi cứ ngồi đấy, công an và hải quan không khám tôi. Mọi người đều phải ra ngoài cửa. Công an xem hộ chiếu tôi rồi giơ tay mời tôi vào chỗ cũ, chỗ mà dưới gầm chất những bì gạo của vợ chồng nhà kia.
Tàu chạy, anh ấy bắt tay tôi, nói rối rít. Anh xuống toa ăn mua về cả chục cái quẩy. Quẩy trên tàu ròn nhai gau gáu. Thấy thế đã ngon, lâu rồi ở Hà Nội bán quẩy bột sắn nặn rắn như hòn cuội.
Địa đầu Mông Cổ, ga Đường Lạc Đà Chamôuti. Sang Nhị Liên, đã vào đất Trung Quốc. Không được biết ga này xưa kia yên lành thế nảo, bây giờ chỉ thấy mịt mùng dây thép gai. Xa xa, nhấp nhô những doanh trại mái tôn, những ụ pháo lạnh lùng không một ý nghĩa. Vào ga Nhị Liên tàu dừng lại hai giờ. Xuống tàu, mọi người được mời vâo hội trường mười lăm phút xem phim. Những tranh ảnh và khẩu hiệu chống chủ nghĩa xét lại và cuốn phim miêu tả bọn xét lại Liên Xô đã làm hại các nhà máy, đường xá và đồng ruộng Trung Quốc như thế nào. Trong lúc khách xuống sân ga thì hải quan lên khám các toa.
Hai vợ chồng người láng giềng và tôi cùng xuống.
Anh không bảo tôi phải đóng vai ngồi lên chỗ giấu những bao gạo. Trong khi chúng tôi thu gọn hành lý để xuống, người chồng đưa cho tôi nhìn một phong bì cứng có chữ Kodax, chắc những cuộn phim. Rồi anh nhét cái phong bì dầy cộm ấy xuống dưới cái gối của tôi rồi anh chắp hai tay quì xuống vái tôi. Tôi không biết làm thế nào. Những người hải quan đã nhấp nhô lên bậc thang sắt cửa tàu. Tôi đành bước ra, rồi thế nào thì thế nào. Có đến một tiếng sau, trở lên tàu, mọi thứ ở chỗ của tôi vẫn nguyên như cũ. Người chồng cầm lên cái phong bì Kodax dưới gối tôi. Anh chàng lại cuống quít chạy đi mua quẩy, lần này mua mấy chục cái.
Về Bắc Kinh một đêm một ngày nữa, nhưng không còn trạm khám.
Tôi chẳng bụng dạ nào cắn nổi cái quẩy như lúc trước. Tôi đưa tiền, ra hiệu bảo anh ấy đi mua cho tôi chai bia Sin Tao. ở dưới nhà khách ga, tôi vừa bị ăn một quả đau. Chuyến đi đã lường sẽ khó khăn, mà không lường hết. Tôi có cái ngân phiếu Viên đưa cho để đổi ra nhân dân tệ. Tôi nghĩ cẩn thận: đem ngân phiếu nước ngoài về tận Bắc Kinh có thể bị khó dễ, bởi ở ga Nhị Liên đã có bàn đổi ngoại tệ. Tôi đổi ở đây.
Tôi phải giữ gìn và đúng luật. Trong quầy đổi tiền, người cán bộ tiếp tôi, nói tiếng Việt như tôi. Sự ấy không làm cho tôi mừng mà lại chột dạ, như hôm đi gặp người công an nói tiếng Pháp. Tận cùng trời, vẫn nghe được tiếng mình, tôi vừa lo vừa mừng.
- Tôi có một ngân phiếu Mông Cổ muốn đổi lấy nhân dân tệ.
Người ấy cầm tờ ngân phiếu, vào trong. Trên bàn trước mặt tôi có cốc nước đậy nắp, bao Đại Tiền Môn mới đã bóc sẵn. Tôi ngồi yên, không biết tôi có khát, tôi có muốn hút thuốc không. Tôi chăm chắm nhìn vào cửa phòng, chiếc màn cánh sáo che khuất.
Không một tiếng động. Không biết trong ấy có bàn bạc, có gọi điện thoại, tôi chẳng là cái gì mà sao người ta phải để tâm thế. Khách xem phim, khách xem mua đồ lưu niệm, uống giải khát đã lục tục lên tàu. Trưởng toa nghiêm túc, cẩn thận, bao giờ cũng đứng dưới thềm đợi khách lên hết. Tôi cũng bồn chồn, dường như trắc trở thế nào đây.
Người quầy đổi tiền thong thả trờ ra, tử tốn nhẹ nhàng. Vẫn chỉ một mình như lúc nãy, nhưng không giấy tờ không bút, không thấy cầm tờ ngân phiếu của tôi.
Thưa đồng chí, chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi đã thôi trao đổi loại ngân phiếu này với Mông Cổ từ một năm nay. Tôi đã hỏi lại Bắc Kinh. Bắc Kinh xác nhận thế không có ngoại lệ, không đổi được.
Tôi lặng im rồi nói:
Cho tôi lại tờ ngân phiếu.
- Chúng tôi xin phép được giữ.
- Tôi để làm kỷ niệm thôi.
- Tôi đã được điện của cơ quan yêu cầu thế.
Người ấy nói tiếng Việt như tôi, tôi nghe rõ mồn một, không lạc chữ nào, tôi cũng không muốn nói nữa.
Người ta đã bàn ở đâu rồi, nói lại cũng thế.
Đi qua quầy nước, tôi muốn uống bia. Nhưng lại sợ trong kia trông thấy, biết mình còn tiền người ta ra ra khám lấy hết vài đồng trong túi thì từ giờ đến Bắc Kinh phải nhịn đói là cái chắc.
Tàu chạy ra khỏi ga Nhị Liên tôi mới uống giải phiền chai Sin Tao nhờ đi mua.

Chương XX

Về đến sứ quán ở Bắc Kinh thấy đông nhộn khác cái thoáng vắng hôm trước. Giữa vườn cây lê cây táo trơ trụi mùa đông, những đống cao lù lù như cây rơm phủ kín ni lông xanh, ni lông xám. Hỏi mới biết đấy là những núi đồ đạc mới đưa về, để trong nhà không có chỗ, phải chất ra giữa trời. Bắc Kinh đương mưa tuyết, mưa cả đêm. Những mảng băng đầu mùa bám ngoài ni lông, khi tuyết rơi nhiều, băng xụt xuống như bùn trắng nhão quanh chân các gò đống đồ đạc.
Người về ở đông kín các phòng chiêu đãi sở, khắp cả nhà cơ quan làm việc. Xe lửa Matxcơva về Hà Nội bị cắt lưng chừng, giữa khi qua Cát Lâm trên Đông Bắc. Sứ quán phải thuê xe lên đón. Cán bộ và sinh viên đi công tác, về phép, về hết hạn, người và hành lý đưa cả về đây. Tạm ở, đợi bao giờ lại có đường có tàu thì chưa biết.
Quang cảnh ngổn ngang như đồn bốt, như cái nhà đương xây cất vá víu. Ngoài cổng, chốt đóng mấy lần cửa. Trong nhà, cả khách và cơ quan được chia thành tổ, phòng khi bất trắc. Hàng ngày, cả cơ quan cũng như khách mỗi người mỗi việc gọn ghẽ đâu vào đấy chẳng khác quân sự hoá. Ba hôm, nhà bếp đi mua gạo một lần về cơm nước cả trăm con người. Phức tạp, phấp phỏng, nỗi buồn mất tiền của tôi hoà vào cái lo này, tan mất.
Tự dưng tôi cũng cộng với đám khách chờ không biết khi nào có tàu hoả, có máy bay. Dần dà, hàng tuần qua rồi và đếm từng ngày nhớ lại, cứ thấy gian nan dài dài. Tôi quen Quyền Sinh ở chuyến ấy, Quyền Sinh giám đốc du lịch Sài Gòn, đi hội nghị quốc tế du lịch ở Beclin về.
Bỗng được tin đột ngột đường bay Bắc Kinh- Hà Nội đã được nối lại. Chưa biết nối thử hay nối thật, chỉ chắc chắn ngày kia có chuyến Hà Nội đầu tiên.
Cái may và vui nữa, tất cả khách đọng lại ở đây mấy lâu đã đăng ký và mua vé được về chuyến TU 134 này. Nhưng vẫn còn hồi hộp, quá lo rồi đâm quẩn quanh, từ nay tới ngày kia còn có bất thường nữa không. Biết thế nào, những cái rớp. Và thời gian trôi qua trong những trận mưa tuyết ngoài vườn lúc đậm lúc nhạt, mờ mừ.
Lại một lo lắng khác. Nhiều người phải lo, hầu hết đều là khách đi tàu hoả, nhiều người công tác dài ngày, có khi đã đi học năm bảy năm, hành lý mang theo về cũng bề bộn, không phải như tôi hai mươi cân theo qui định đi máy bay. Thế là cả nhà bỗng hoá cái chợ. Đem cái gì, còn để lại xếp đống giữa vườn, ôi thôi, bao giờ mới lại lấy đi tiếp được.
Đóng va li thử, mặc thử, rồi lại bỏ ra, xếp lại, lại mặc lại. Đống đồ lều ủ trong băng tuyết ngoài kia vẫn cao lừng lững. Nhưng cuối cùng cũng xong. Mỗi người bỗng phổng lên thành ông hộ pháp, may mà trời đã lạnh. Bởi vì quấn đồ đạc vào người và xách hai tay không phải cân, thôi thì lụa vải, cả bàn là, cả quạt tai voi tháo cánh, cả máy khâu không chân gấp vuông nhét bụng nhét lưng được tất. Tôi không nhìn mà cũng không muốn nhìn, chỉ thấy người lên được máy bay rồi ngồi ềnh xuống, nhưng rồi ai cũng đứng lên, đi đàng hoàng và xuống ga Nam Ninh ăn cơm hẳn hoi. Đến Nội Bài, máy bay vào đỗ ngay trước phòng làm thủ tục nhập cảnh. Không phải trèo leo lên xe xuống ngựa gì nữa, nhác trông ai cũng phì nộn mà ung dung, đĩnh đạc. Bởi vì đã về được tới nhà, sức bật vô biên!
Nhớ mãi một cam go sau cùng ở Nam Ninh, bữa cơm sân bay, chẳng có gì đáng nhớ thế mà nhớ. Như mọi khi phiếu ăn cầm kèm vé. ở sứ quán, Quyền Sinh mải xếp đồ đạc, để rơi phiếu ăn lúc nào không biết.
Mọi người đã vào phòng ăn. Quyền Sinh mất vé ngồi ngoài hiên, các túi xách lỉnh kỉnh xung quanh.
Tôi hỏi, Quyền Sinh chép miệng: “Mất vé! Mà cũng sắp đến Hà Nội rồi". Tôi nói: “Cứ vào với tớ, không sao ăn bữa tạm biệt cũng hay". Tôi nói cứng, thật trong bụng nửa tin nửa không. Nhưng niềm tin mơ hồ mà mạnh hơn, bởi suốt chuyến đi, những người hải quan khám rồi lại không khám, cử chỉ nhỏ bé thân thương ấy, dẫu đương cơn sóng gió mà đối với nhau có trước có sau.
Chúng tôi ngồi vào bàn. Người nhà bàn tới. Người ấy bước đến một mình, tôi mừng thầm. Tôi giơ vé ăn của tôi với cả mấy đồng nhân dân tệ vét túi nữa, lại đưa kèm chiếc vé máy bay không có phiếu ăn của Quyền Sinh. Người nhà bàn cười, xoè tay ra hiệu bảo chúng tôi ngồi. Rồi anh bưng khay đến hai chai bia Xin Tao. Lát sau, mỗi người một bát mì vằn thắn hảo hạng.
Tôi nhớ thế, nhưng hôm vừa rồi mở sổ tay xem lại đoạn nhật ký chuyến đi Mông Cổ 1979, lại thấy ghi: ăn sân bay Nam Ninh. Uống nốt chai vôtka Mông Cổ với Quyền Sinh”. Có lẽ chai bia thì mang về âu là nhớ lẫn lộn lúc đương vui. Người nhà bàn ấy cao hứng, quên cả thu vé ăn của tôi. Những cốc bia, cốc rượu đã trút đi bao nhiêu lo toan vặt vãnh, tủn mủn.
Mamađu Triôp Điôp người Sênêgan. Điôp là giáo viên. Điôp viết kịch, làm thơ, làm công tác xã hội và ăn lương dạy học. Điôp thường đi dự Đại hội các nhà văn á Phi với tư cách uỷ viên chấp hành. ở cái cộng đồng bé nhỏ của thành phố Đaka, Điôp cũng là một nhân vật cứng cựa. Có khi Điôp đưa tôi một bài thơ tiếng Pháp đã đăng báo. Tôi đem về Hà Nội, nhưng chưa báo nào nhận dịch đăng.
Điôp hơn bốn mươi tuổi, có thể là một người đàn ông đẹp theo mẫu châu lục ấy. Mỗi sáng, Điôp bôi dầu bóng nhẫy lên mặt. Tóc Điôp xoăn từng đám như những con ốc bươu bám quanh đầu. Trên khuôn mặt đen bóng, lòng trắng con mắt và hàm răng óng ánh, thế là anh ta làm dáng đấy- Điôp cưòì. Mỗi khi Điôp nói chuyện về Việt Nam cứ như lẫn cổ tích với bây giờ. Bởi vì, Điôp đã được nghe nhiều chuyện và đã tưởng tượng về Việt Nam từ thuở ấu thơ. Nước Sênêgan thuộc địa Pháp cũng như Việt Nam, cho nên biết bao chuyện của lính khố đỏ, lính chào mào ở xứ An Nam đâu đâu sang và lính “mặc váy” người Sênêgan đã đến Đông Dương, họ khoác những cái áo choàng trắng, các cụ ta gọi là Tây đen mặc váy. Điôp lấy làm lạ tôi biết lãnh tụ khởi nghĩa ở Marốc, ở Sênêgan tên là Apđen Krim, lại có tên mà lính khố đỏ An Nam gọi là giặc Mạc Đình Kim.
Chú tôi làm ruộng xưa nay chỉ biết có cái chợ Nghệ rồi phải bắt lính khố đỏ sang Pháp rồi sang châu Phi đánh nhau với Mạc Đình Kim. Đi dẹp giặc nhưng ở lính mà không biết cầm súng, chỉ giữ chân cắt cỏ ngựa, vào vườn bới trộm khoai tây. Chú tôi bảo rằng nước Pháp đồng trắng nước trong, nước Sênêgan có khoai tây giàu hơn nước Pháp, cho nên nước Pháp phải đi cướp nước Sênêgan, nước An Nam ta. Điôp và tôi cười ha ha những chuyện ngày xửa ngày xưa của chúng tôi. Tôi kể với Điôp ở nước tôi ai cũng làm thơ, không biết chữ cũng làm thơ. Mỗi người khố đỏ đều làm những bài thơ kể đời lính từ khi bước xuống tàu thủy chạy sang Tây. Điôp càng lạ hơn. Nhưng rồi nghe tôi kể nhiều chuyện nữa thì Điôp reo lên: “Dân tộc Việt Nam văn hoá cao nhất thế giới". Không phải chỉ vì những chuyện thơ, mà nhiều chuyện khác đã khiến Điôp có ý nghĩ ấy. Tôi kể chuyện về chiến dịch biên giới phía bắc 1950, cả nghìn lính binh đoàn Tabo của Pháp bị bắt làm tù binh trong rùng núi Đông Khê, Thất Khê. Có nhiều lính da đen, thể nào cũng có người Sênêgan.
Tôi kể: “Mày biết không, tao đã trông thấy một buổi chiều trời rét mưa phùn dưới chân núi cạnh đồn Đông Khê vừa bị bộ đội tiêu diệt, chủ tịch Hồ Chí Minh ra đứng bên đường nhìn đoàn tù binh đi qua. Người đã cởi áo sơ mi đương mặc quàng lên vai một tù binh da đen cởi trần đi trong mưa. Người tù binh được áo sơ mi chắc không bao giờ biết ông già cho áo là ai".
Điôp nghe im lặng. Rồi Điôp thở dài:
- Tao sẽ nói tên với mày về mấy người trong họ Mamađu của tao, một người bác, một anh họ và mấy người trong làng phái đi lính sang Đông Dương. Ghi vào sổ tay đi, rồi mày cũng có thể gặp, hay là họ đã chết rét cái năm ấy rồi.
ở thủ đô Bon nước Tây Đức tôi cũng đã gặp những người Sênêgan, người Marôc sang làm culi, làm gác cửa khách sạn hay hỏi thăm tôi về ông nội, về chú bác đi lính Pháp đã mất tích bên Đông Dương năm xưa.
Trên máy bay nhìn xuống phía đông Địa Trung Hải, sóng bủa lên ngang núi. Những mũi đá nhô ra như trăm nghìn đầu cá sấu khổng lồ đương húc ra doạ lại mép nước trắng xoá, như ôm lấy những cột đá phế tích Pompêi kỳ quan thế giới.
Máy bay đỗ hai mươi phút ở Itămbơn. Sân bay xa thành phố, nhưng các nhà ga châu âu trang nhã, không ngợp bãi cỏ như những sân bay dã chiến giữa cỏ tranh như Luang Prabang, như Điện Biên Phủ. Tôi nhặt vài quyển sách bỏ túi: truyện trinh thám Sas và Thám tử Megrê chăng bẫy của G. Simơnông, khách vứt lại trên ghế. Vào quầy sách, trên giá bày bán tiểu thuyết Nỗi buồn của A. Môravia- nhà văn hiện đại ý tôi vẫn ưa đọc.
Loại sách bỏ túi, giá một đô la rưỡi. Không có tiền lẻ cô hàng sang đổi ở quầy khác. Lát sau, quay về, vẫn chưa đổi được tờ năm đô la của tôi mà tiếng loa đã báo giờ máy bay cất cánh.
Về Matxcơva, Marich bảo tôi:
- Tôi chưa được đến sân bay Itămbơn nước Thổ, nhưng đã nghe nổi tiếng mánh khoé các hàng quán ở đấy lấy cắp tiền khách. Ông là người khách khù khờ thứ bao nhiêu triệu rồi đấy.
Đến lúc xuống sân bay cảng Saiit thì tôi ngồi suông. Không phải vì còn bực mình, ta đã đần độn nên bị hố thì còn bực bội nỗi gì, mà chỉ băn khoăn thương cái túi tiền eo hẹp đếm từng đồng của người đi xa.
Lại mơ bao giờ đến sân bay Bắc Kinh, dẫu cho thời tiết chính trị thế nào và trong thắt lưng lép kẹp đến đâu cũng uống tự nhiên được cốc nước chè thơm nóng đậy nắp tử tế. Nhớ đời cái chuyến máy bay hãng Hà Lan đi Libăng, lại đi với Hoàng Trung Thông. Cô chiêu đãi viên đẩy đến cái xe lanh canh những chai cốc màu sắc đẹp mắt.
Xe chờ các thứ uống không mất tiền, nhưng trên máy bay các hãng qui định khác nhau. Hoàng Trung Thông đã trông thấy chai Mácten.
Hoàng Trung Thông trỏ chai rượu. Cô phục vụ nhấc chai, đặt ly trên thành xe. Nhưng cô chưa rót. Cô nói, Hoàng Trung Thông cũng võ vẽ tiếng Anh, nhưng có lẽ mùi Macten đã át cả, chỉ thấy anh gật gật. Cô hàng, tay vẫn nghiêng chai rượu, tay kia bật ngón làm hiệu đếm tiền và trong cặp môi hồng dịu của cô thánh thót rơi ra hai tiếng “đô la". Ông bạn rượu cực nhanh trí, quay mặt lại cắt nghĩa cho tôi: “Rượu thì bán, chỉ nước giải khát mới gratuit". Thông đã tán ra rất đầy đủ, mà tôi không nghe cô ấy nói.
Từ lần ấy, đến trước quầy nước giải khát nào dưới đất hay trên trời tôi cũng xem ngắm kỹ. Nhưng ở sân bay cảng Saiit này thì không phải băn khoăn, không có xe được đẩy đến. Cuối phòng, quầy rượu lớn Tôi ngồi lặng yên như một người không thèm nhạt gì cả.
Điôp bảo tôi giữ hộ cái cặp rồi biến đi. Không nhìn thấy nó ở quán rượu. Điôp cũng không phải tay rượu, mặc dầu trong các cuộc dạ hội anh hoa chân múa tay, múa may hăng đến lăn đùng ra trên sàn như người quá chén rồi lại đứng lên đánh trống. Điệu múa lăn thế, Điôp không say.
Chao ôi, nhớ lại một chuyện ngẩn ngơ- một kỷ niệm khi mới cầm bút, tôi đã viết về cảng này, vâng, cảng Sait mơ hồ, tôi nào đã biết Sait ở xứ sở nào.
Ngày ấy tôi vớ ở đâu được một quyển lịch năm Anmanach của nhà xuất bản Haxet. Tập lịch mấy trăm trang có đủ chuyện tò mò, ly kỳ và tranh vui, truyện vui, thơ và quảng cáo, các thứ đọc giải trí. Về sau, kiểu sách lịch này ở ta hàng năm cũng làm bắt chước, như Niên lịch thông thư của Nguyễn Văn Vĩnh. Và năm 1946, Tết âm lịch đầu tiên sau cách mạng, chúng tôi làm báo Cứu Quốc cũng cho in một quyển niên lịch tương tự thế, tên là Lịch Cứu Quốc. Định sẽ mỗi năm ra một quyển. Rồi kháng chiến...
Tôi bấy giờ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, đã thôi học, chưa đi đâu khỏi làng, chưa biết cái xe đạp, mới được ngồi cái tàu điện vào thành phố. Đọc quyển lịch năm của nhà Haxet, tôi tưởng tượng ra một câu chuyện hoang đường: có một chàng thanh niên kia thất vọng vì tình, lang thang xuống làm tàu biển rồi đi biệt xứ. Giữa đại dương mênh mông, anh gặp khách đi tàu là người đồng hương, anh đã kể câu chuyện tình đau khổ đã khiến anh phải cất bước giang hồ.
Tôi chẳng còn nhớ cái lệ sử của nhân vật ấy, nhưng tôi vẫn nhớ trong truyện tôi đã tả tỷ mỉ những hải cảng mà con tàu đại dương đã ghé ăn hàng, đón khách.
Cảng Madrat, cảng Sait, cảng Macxây... Những công viên, những tên phố, tiếng chuông nhà thờ, các cửa hàng, hiệu ăn... Chuyện như thật, mà toàn sự thật nhờ quảng cáo và bảng chỉ dẫn khách du lịch tôi đọc được trong quyển lịch năm của nhà Haxet, biết bao nơi mà đến bây giờ tôi cũng chưa khi nào được tới.
Dưới truyện, tôi ghi: Trung Nha, mùa thu... và truyện ngắn ấy tôi đặt tên là Những chuyện khó hiểu – khó hiểu thật. Tôi gửi báo, cả một mặt trang phụ trương văn chương báo hàng ngày Đông Pháp đã đăng. Mấy năm sau tôi mới viết các truyện ngắn Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông và những truyện loài vật trong đó có Con dế mèn...
Cảng Sait! Cảng Sait vào Hồng Hải đây. Tôi chẳng biết gì về nơi xa lạ này ngoài câu chuyện ngây ngô nửa thế kỷ trước. Trước mắt, nước thuỷ triều ban ngày rút xa xa, mặt bãi lổn nhổn đá sỏi xám quanh những gốc chà là dại rũ rượi. Một lá cờ Anh trên ống khói một tàu vào cảng. Sân bay gần cầu cảng, trên sườn tàu và thân máy bay, chữ ả rập rối loạn màu sơn xanh thẫm. Địa đầu châu á châu Phi với những tiềm năng dầu lửa và kim cương, bề ngoài đều cằn cỗi, hoang dại, như cảng Sait đây.
Điôp và tôi đi Adi Ababa. Máy bay tạt xuống Đông Phi, dưới kia đại dương ấn Độ lại mịt mờ. Điôp ngủ gật gưỡng.
Tôi hỏi:
- Lúc nãy mày đi đâu?
Điôp choàng tỉnh, cười nhe hàng răng trắng nhả:
- ở sân bay anh có để ý những đứa con gái đứng cửa phòng khách.
Tôi cũng cười:
- Tao không thích môi chúng nó bôi màu nghệ.
Tôi lại hỏi:
- Mất bao nhiêu?
- Một đô. Chưa bằng một góc giá tiền thật cuốn Moravia của anh
Điôp diễu tôi. Tôi đã thấy ở sân bay Karachi, ở Cairô bọn gái điếm hóng khách “đi tàu nhanh, chúng nó da dẻ ngăm ngăm, môi màu hoa hiên, màu vàng nghệ”. ở Sait thì môi vàng sẫm, da đen nhãy, người đẹp theo gu từng vùng.
Ađi Ababa, cả nửa thế kỷ loạn lạc. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, thành phố đã đẫm máu trong súng đạn xâm lược của phát xít ý. Vua Haliê Hatsiê lưu vong, khi trở về nước thì chết già chết đói giữa những thế lực chính trị và bộ tộc kình chống nhau. Chỉ mới tạm yên được ít lâu nay..
Tôi ở khách sạn Hintơn Ađi, đầu giường đặt một quyển Kinh Thánh ba thứ tiếng. Phòng ăn hiện đại lộng lẫy, người ta phải làm cho đượm vẻ man rợ bằng mái lá cọ, cột cây cổ thụ xù xì và ghế gỗ nguyên cả vỏ. Nhưng cái hoang sơ thật thì ở ngoài kia, trên tầng lầu nhìn ra cửa sổ trông ra thấy còn dữ dội hơn nhiều.
Tít tắp xa trước mặt, chồng chất chập trùng những xóm bi đông, rợn lên xám ngắt như sóng đất. Nghe ánh ỏi tiếng trẻ con đá bóng hò hét ở đâu vang động.
Những trái ngược này đã thấy ở Sait, ở Ađen, ở Dibuti hai bên Hồng hải mỗi lần đi qua. Quang cảnh đâu đâu cũng tương tự, bãi lầy lội khi nước triều xuống, tường nhà đoan cao như pháo đài và những lô cốt cả trăm năm còn đấy. Địa đầu các châu lục, nơi qua lại những mưu lược, những tội ác, khi đổ máu, khi phẳng lặng ngỡ là bình yên. Hầu như một phần gốc gác văn hoá văn minh của nhân loại phát tích trên nửa trái đất đã nảy sinh quanh nơi này, thế mà vạn triệu năm ở đây vẫn xác xơ, hiu quạnh, vẫn ngã ba, ngã năm những giàu sang và cái nghèo khó chen nhau. Con chim sẻ trong hốc lô cốt, những đàn hải âu lượn trên cửa biển, chúng nó có cộng đồng xã hội như con người, tiếng kêu tiếng hót có nghe được nhau không, cả nghìn đời có giống nhau không.
Cũng như ở Ađi Ababa này sang Trung Cận Đông, vào châu Phi, ở đây hay ở Bâyrut, ở Batđa, những cao ốc Hintơn A, Hintơn B, những xóm liều, chỗ nào cũng người đông như ruồi quanh đống vỏ hộp đi nhặt về nạo lấy cái thừa thãi người ta vứt đi.
Các thành phố Trung Phi mà A. Moravia tới chẳng khác Ađi Ababa ở Đông Phi, cái muôn thuở trong cái hỗn độn hôm nay.
Đây là giữa thành phố Libơrơ. Cửa hàng, cửa hàng, cửa hàng. Nhà trọc trời cao ngất, lại vửa phải, lại bé nhỏ, kỳ quặc như những cái hòm đã mở toang hết các ngăn, lại những cái chỏm cao ba ngọn, những cái hộp bằng thuỷ tinh, bằng sắt, đôi chỗ nhô ra một hàng hiên giả vờ xiêu vẹo, như ở Nữu ước. Chúng tôi đương đi trong những công trình kiến trúc siêu hiện đại và siêu, siêu, siêu hiện đại thế nhưng mà chỉ bước thêm hai bước, ba bước là đã vào đến cửa rừng, rừng thật.
Thành phố không rộng không thẳng như đường phố ở nước Mỹ, nhìn phía nào cũng thấy những cánh rừng bao quanh như đại dương mà các toà nhà là ốc đảo cô đơn, trong ấy chỉ có người châu âu tấp nập, nhốn nháo vớt mọi công việc và mua bán” (Đi chơi châu Phi- A. Moravia 1993)
Tôi đến nước Tandania cũng dự kỷ niệm 100 năm ngày sinh G. Nêru danh nhân ấn Độ được ủy ban á Phi của quốc tế làm mít tinh tưởng nhớ ở châu Phi.
Không phải cuộc họp của giới văn học, nhưng gặp nhà văn của nhiều nước: nhà thơ Mukecgi của ấn Độ, Adimôp LiênXô, Atsadoula của Afganixtan, Mamađou Triôp Điôp của Sênêgan, Alex La Guma Nam Phi. Alex đi thay E. Sêbai tổng thư ký Hội Nhà văn á Phi.
Sêbai cũng là bộ trưởng văn hoá Ai Cập. Tháng trước Sêbai bị bọn khủng bố chính trị bắn chết ở Cairô, ở Hà Nội tôi đọc tin đã biết. Các nhà văn làm chính trị ở các nước đương phát triển gặp lắm hiểm nghèo.
Diện mạo châu Phi có những nét khác các lục địa- những vệt trắng dài đến ngút mắt, không biết sa mạc hay rừng cằn cỗi về vệt kẻ dài hoà vào chân mây. Qua Kênia, hiện lên vùng trời nước đảo Dandiba nổi như con đồi mồi khổng lồ, bên này dải đất Tanika viền một khơảng tuyết trắng phau giữa trong xanh không gợn mây. Đột ngột như cái đầu bạc khổng lồ của một ông già ngồi tư lự giữ thinh không, đấy là niềm tự hào của châu Phi, đỉnh núi cao hạng nhất thế giới, núi Kilimangiarô. Quanh núi viền những vùng rừng xanh li ti mà thoạt nhìn, nắng và băng nghìn năm đọng đỉnh núi loá trắng không nhận ra được.
Châu Phi có hai con sông lớn, Nin Xanh bắt nguồn từ hồ Victoria nước Su đăng, Nin Trắng thì ngọn nước từ các thung lũng chân núi Kilimangiarô này.
Khách sạn Kilimangiarô trên bờ biển trông vào chỏm núi Kilimangiarô hùng vĩ. Nhưng đấy lâ ở chân trời xa thẳm, còn xung quanh thành phố- lại như A. Moravia đã ký hoạ những nhà và đường ở nước Cônggô, những ngăn kéo hộp xi măng chồng lên giữa rừng, giữa cát trắng, giữa những xóm bi-đông mà sự sống thoi thóp đôi lúc inh ỏi vọt lên tiếng hò hét của đám trẻ chơi đá bóng.
May thay, cái sân thượng nhà mười tầng đã cho tôi hoang tưởng tôi đương chơ vơ ở một ốc đảo sa mạc trông ra thấy đỉnh Kilimangiarô đột lên ngang trời châu Phi, dưới chân tuôn ra ngọn nguồn sông Nin Trắng chảy về Ai Cập.
E. Hêminuây đã viết truyện Kilimangiarô. Con người cầm bút viết nhiều đi nhiều này cũng có thể vào hộ khẩu châu Phi. Cuộc đời và sáng tác của ông gắn bó nhiều với những vùng đất quanh Kilimangiarô.
Năm 1954, Hêminuây đi săn ở rừng nước Kênia, trong sáu tháng hai lần rơi máy bay lên thẳng mà không chết. Sau đó ông về Kêtinga dựng lều bạt lên làm trại viết giữa ốc đảo và ở đấy suốt năm.
Năm 1999 này, kỷ niệm 100 năm sinh E. Hêminuây.
Cuốn tiểu thuyết tự truyện sau cùng của E. Hêminuây 850 trang sẽ được xuất bản. Ông viết tác phẩm này rải rác từng mảng, ở nhiều nơi. Phần cuối xong ở bang Idhahô nước Mỹ.
Rồi cũng ở đấy, E. Hêminuây đã bắn hai phát súng vào miệng, tự sát. Mấy năm qua, có vài phần trong sáng tác đã được ra mắt bạn đọc, nhưng đây là lần in đầy đủ nhất.
Các tác phẩm của E. Hêminuây đều pha trộn tự thuật, hổi ký và sáng tác. Nhà văn cố ý không phân biệt rạch ròi các thể loại này khi cầm bút. Ông đã từng nói: “Những tác phậm hay đều có một điểm chung, ở đấy sự thật còn hơn cả thực tế". Có lẽ cũng là châm ngôn viết của ông.
ở tác phẩm sau cùng, có một nhân vật đáng yêu. Cô Đơba mười tám tuổi người bộ lạc Vakamba. Có thể xem nhân vật ấy là người yêu, là vợ tác giả, là người thật và người trong mộng, Đơba đã cùng ông đi khắp các cuộc săn bắn và ở rừng. Đến bây giờ báo chí, các nhà nghiên cứu văn học vẫn tranh luận cô Dơba có thật hay không. Nhưng với bút pháp thể hiện như E. Hêminuây đã từng nói, bí ẩn ấy thiết tưởng không bao giờ tìm ra được.
Hêminuây quyến luyến nhất với vùng Tanganika và Kênia có ngọn Kilimangiarô. Hêminuây sáng tạo tung hoành nhưng lại yêu kỷ niệm cụ thể ở trang viết ông đã lấy tên núi mà đặt cho truyện.
Khi về Cu Ba, nhà ông ở ngoại ô La Havana, trên đồi Phinga Vigia, ở đấy trông xuống bãi biển. 1952, Hêminuây viết truyện ông già và biển cả tại đây, trên cái bến hoang vắng này, cái bến và nghị lực những con người được miêu tả trong sáng tác tuyệt vời này đã đưa ông vào giải thưởng văn học Nôben. Tôi đã có lần đến thăm nhà Hêminuây trên đồi Phinsa Vigia. Người ta kể ông hay lên cái chòi cuối vườn, nhìn ra bể, tưởng như Hêminuây đã ngồi viết trong chòi, đôi lúc ngẩng mặt lên trước trời nước mênh mang.
Kalimangiarô, câu chuyện một người bị tai nạn máy baý nằm đợi chết trên lưng núi. Người hấp hối chiêm bao chập chờn thấy mình bay qua đỉnh núi với người yêu. Sự sáng tạo đã buộc sự từng trải của người cầm bút vào vùng đất vùng núi đã có những kỷ niệm sống chết. Ta hiểu thêm những miếng nước đầu nguồn hư ảo và hiển nhiên ở mỗi chữ của ông.
Trên sân thượng này nhìn lên ngọn Kilimangiarô trọc lốc phủ băng trắng trong nắng chang chang, tôi có cái tò mò ngẩn ngơ thử đoán xem nhà văn cho cái máy bay lên thẳng bị rơi trên ngọn nước đã được ông đặt ở quãng nào. Đoán mơ màng thôi, chứ từ đây vào chân núi những một trăm ba mươi cây số.
Tôi đương nhìn về núi Kilimangiarô từ thành phố Đaét Salam thì được đọc báo có những tin kỳ lạ. Một người Việt Nam, một phụ nữ Việt Nam vừa lập kỷ lục trèo lên Kilimangiarô. Hãng tin RFI đã phát đi: 9 giờ 30 sáng 7 tháng mười một, một phụ nữ úc gốc Việt, cô Nguyễn Thu Hương đã leo tới mỏm cao nhất đỉnh Kilimangiarô. Cùng đi với cô có kỹ sư hàng hải Geri. Hành trình liền sáu ngày đêm. Những người dân tộc Maxai khiêng vác đồ đạc và dẫn đường hai nhà leo núi lên theo phía thung lũng Maxam. ở đây cũng người làm nên kỳ tích mà không bao giờ được kể đến, những người Maxai cũng như người Xecba bên dãy núi Himalaya châu á cả đời chuyên nghề mang vác, dẫn đường các nhà du lịch leo núi lập kỷ lục đến chóp núi mà không khi nào được cắm cờ chụp ảnh phát đi thế giới.
Tin điện miêu tả lúc ấy đỉnh Kilimangiarô trời nắng, có mây trắng bay qua trong tuyết rơi. Lác đác, cây thạch anh, cây lôbêli trồi ra trong tảng băng. Một đàn gà gô trắng. Những con gà gô chưa biết sợ người, đã được đứng chụp ảnh chung với cô Nguyễn Thu Hương và bạn đồng hành.
Đêm giã từ Tandania trong rừng dứa dưới bãi biển, có cuộc vui nhộn của làng chài tiễn khách. Không biết làng chài hay làm nghề đánh chão. Hàng ngày, không thấy lưới thấy thuyền, chỉ từng đám đàn ông, đàn bà xúm xít tước xơ thân dừa ra đánh thành những cuộn chão chồng cao hơn đầu người.
Chão dừa neo buộc thuyền bè đi biển không bị hà ăn, mòn xác xơ cũng không đứt. Trong đêm, các làng chão ven bãi sôi nổi trống và người rập rờn nhảy.
Từng đám mấy chục cô gái đứng thành hàng. Những khuôn mặt đen nhoáng đương múa lưỡi, những cái đầu lưỡi trong miệng thò ra uốn éo múa lên nhấp nhoáng quấn quít đỏ như ánh lửa. Tiếng trống rồn rập, những chàng trai cởi trần lăn trên cát như làn sóng. Không phải một Điôp múa lăn mọi khi, mà cả trăm Điôp đương cuồn cuộn. Năm trước, ở Tân Đêli ngắm thần Lửa thần Nước nghệ sĩ đứng múa bụng cả giờ trên sân khấu đã thấy hãi công phu điêu luyện, bây giờ ngốt lên nghệ thuật bốc lứa cá trăm con người, hầu như mọi đàn ông đàn bà trong làng đều biết chơi đánh lưỡi, lăn mình. Tiếng trống dồn dập, thoắt biến thoắt hiện, lại thấy nhô ra một trăm chàng Điôp cởi trần ôm tang trống, đánh trống bằng những cùi tay, những bàn tay. Dãy trống kê vòng quanh người người lăn lượn, mặt trống cùi tay và những ngọn lưỡi rừng rực lên giữa bãi cát, lửa củi, lửa người.
Các nhà nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người đã công bố một số liệu phân tích: châu Phi đương đuổi và đuổi kịp mọi mặt châu á. Những dị dạng, những kỳ lạ, không gì khuất phục được sức mạnh từ ngọn núi Kilimangiarô đến những con người đồng bằng sông Nin lên có lẽ là đây.
Tôi lại có dịp với Mamađu Triô Điôp đến bang Tây Băng Gan rồi lên nghỉ trên cao nguyên Đacgiơlinh biên giới nước Nêpan chân núi Hymalaya. Cùng đi có nhà thơ Tây Băng Gan Kecmugi. Kecmugi đã hai lần đến Việt Nam. Tôi đã đưa Kecmugi thăm Hoà Bình lên một làng Dao ở Tu Lý gần Toàn Sơn. Anh ăn thịt gà, chấm nậm bìa- nước ở lòng bò vắt ra, như mọi người trong làng. Trong khi, một lần khác cũng đến núi ấy, nhà văn Xevun ở nước cộng hoà Trung á và Marich thì không dám đụng đến các món dân dã này.
Tôi và Điôp ở buồng cửa trông sang nhau. Tôi vừa đọc một tờ báo đăng tin một nước, không nhớ Camơrun hay Marôc, không phải Sênêgan, ông tổng thống mới được bầu có tên trùng với Điôp. Tôi kể, thì Điôp nói: “Họ Mamađu nhà tôi ở nhiều nước, nhất là ở Trung Phi và cũng lạ lắm, nhiều người làm tổng thống, cũng nhiều người điên. “- Mày đương làm quan to hay mày đương điên?
- Tôi a, có lẽ tôi đương cả hai.
- Cả hai là Liên Xô hay Mỹ?
Điôp cười, không nói. Cũng không phải không có lý Mặt trận nào thì Liên xô Và Mỹ cũng đều có người của họ. Có thể thế này có thể thế kia. Phải tính chứ, mỗi lần Điôp đến sứ quán Liên Xô ở Đacca nhận giấy mời và vé máy bay đi nước ngoài. Không là bình thường. Vlat ở Hội nhà văn Liên Xô làm đối ngoại về châu Phi đã kể tôi nghe những mưu mẹo tranh thủ lắt léo đầu làm việc này đuôi lại sang kết quả khác, không ngay thẳng bao giờ.
Buổi sáng, vào phòng tắm, Điôp hun tóc rồi mới rửa mặt. Điốp đánh từng que diêm, nhìn vào gương hơ cho tóc quăn lên. Tay xoe khéo đã có cỡ thoảng mùi khét, nhưng không hẳn tóc cháy. Rồi tóc Điôp cuộn thành búi, thành cục tới đỉnh đầu. Làm đẹp những hôm long trọng, đầu Điốp xoắn ốc kỹ lưỡng và hai hàm răng trắng rợn.
Điốp cho tôi một mẩu rễ cây, như rễ cây duối, để cọ răng. Dễ cây swek này tôi đã thấy bán ở chợ Casablanca, như cau khô đánh răng. Đám rễ ấy Điốp bỏ trong cặp, đem tử nhà đi. Lúc thong thả một mình và trước khi đi ngủ, Điốp cầm một mảnh rễ cọ răng.
Điốp cắt nghĩa cho tôi hiểu vẻ đẹp trai gái.- Nhìn thấy nhau, là khuôn mặt đen bóng, hàm răng trắng và đôi mắt loáng như gương. Đấy là những màu nổi nhất, nhận ra nhau trước nhất từ xa trên mặt người thanh niên châu Phi. Tranh dân gian châu Phi khi nào vẽ người cũng có hai mắt to choán nửa mặt, con ngươi và lòng trắng mắt mới tình tứ sao- Điôp bình luận thế.
ở Đácgiơlinh tôi cũng gặp lại Ôta. Nhà văn Nhật này viết tiểu thuyết, nhưng tôi biết Ôta bởi Ôta năm ấy ở Tôkiô là thành viên một tổ chức phản đối Mỹ xâm lược Việt Nam. Ôta đến Việt Nam có công việc khác nhưng vì Ôta là nhà văn nổi tiếng nên Ôta cũng là khách của chúng tôi.
Còn công tác của Ôta đến Hà Nội thì thật xa lạ với bút mực. Tổ chức nhân dân Nhật chống Mỹ xâm lược Việt Nam của Ôta hoạt động sâu rộng, được sự ủng hộ của các giới và có tác động trong binh lính Mỹ. Lính Mỹ đánh nhau ở Việt Nam được thưởng phép thường về nghỉ ở Băng Cốc, ở Hồng Kông, ở Nhật. Tổ chức của Ôta bắt mối được với nhiều lính Mỹ đã chán nản không muốn trở lại chiến trường. Những đứa này tìm cách ở lại Nhật, mỗi ngày một đông. Tổ chức của Ôta giúp họ trốn, đã bi mật nuôi giữ nhiều người. Ôta sang Việt Nam có ý hỏi ta có việc gì cần đến bọn Mỹ đào ngũ này, như viết tài liệu, phát thanh...
Đấy là những việc Ôta giao thiệp với những cơ quan khác, và rồi Ôta có được việc không, tôi không biết. Nhưng Ôta là khách, tôi đã trò chuyện văn chương với Ôta và gặp Ôta đến tận hôm tiễn. Ôta uống nhiều, khen Lúa Mới ngon đậm hơn rưọu sakê.
Tôi có cảm tưởng là người Nhật lặng lẽ và nghiêm túc trong mọi công việc. Như các nhà văn Nhật thường gặp ở hội nghị, kể cả Kauabata nhà văn có tiếng . Họ ít nói, đi thành bọn và vào phòng ăn hay mang theo thức ăn mua sẵn ở Nhật. Họ đã biếu tôi những hộp dưa cải muối, lạc muối. Những thói quen và sinh hoạt giản dị này tôi đã quen biết từ những năm kháng chiến ở Tuyên Quang, cơ quan tôi có Nguyễn An Nghệ Shoisi Aki. Khi Nhật hàng Đồng Minh, anh sinh viên kinh tế Aki đã chạy ra với Việt Minh ở Nghệ An rồi Aki được đưa ra Việt Bắc ở với chúng tôi. Nhưng Ôta thì khác. Ôta mơ màng lảo đảo ra tận sân bay. Hôm sang Nội Bài suýt lỡ chuyến bay. Sân bay dã chiến cánh đồng Nội Bài, máy bay Mỹ hàng ngày đến bom bắn. Cả đài chỉ huy bay đã bị bom huỷ- ngày nay hãy còn đứng sừng sững cái cột loang lở trơ trọi như một chứng tích thời chiến. Có lẽ vì sân bay Gia Lâm đã hư hại nặng, cho nên ở Nội Bài cứ sáng sớm và chập tối chớp nhoáng những chuyến bay dân sự.
Nhà đợi bay chỉ mấy mảnh tôn, vách gỗ dán. Mỗi hôm, khi vàng mặt trời, những chiếc TU 154 cả ngày ẩn ở đâu được xe tải kéo ra đậu trước nhà đợi, khách lật đật lên rồi máy bay lao vút lên vòm trời xâm xẩm, trông lại thành phố đã sáng đèn.
Ôta lẩn thẩn ra ruộng một lúc, không biết ngồi nôn hay đi vệ sinh. Chúng tôi phải ra dắt, chỉ là Ôta quanh quẩn ngoài bãi cỏ không nhớ lối vào. Ôta nằm trên cái ghế dài trong nhà đợi. Ôta ngủ luôn. Ai cũng lo, chốc nữa có lẽ phải cõng anh ra máy bay. Rắc rối quá, khi đó chưa có cái xe bậc lên xuống, mà chỉ có thang sắt ngoặp vào bụng tàu bay cho khách bíu bước lên.
Nhưng, như là linh tính, tiếng động cơ máy bay nổ ngoài sân thì Ôta ngồi dậy. Một bà khách Pháp đương ngồi rũ ra, mắt nhắm, bây giờ cũng ngẩng mặt.
Hành khách ra sân bay thời ấy, phụ nữ cũng uống rượu- tôi đã trông thấy các bà đầm Rumani mặt đỏ tưng bừng. Máy bay Mỹ sắp ném bom sân bay, cả lên trên trời kia cũng có thể gặp nó, cái rượu cũng làm cho ta lẫn lộn nhãng đi đôi chút. Một người Tây, một người Nhật loạng choạng bước ra. Anh lái xe và tôi xốc vai Ôta, đủn Ôta bám vào thang sắt, Ôta như bò lên, những cô chiêu đãi viên người Nga ra kéo vào khoang từng vị khách. Trời vừa chạng vạng tối.
Lần này, gặp Ôta ở Đacgiơlinh, Ôta tiều tụy hẳn. Vẻ người nhầu nát vì rượu, thân hình to lớn mà hốc hác nhợt nhạt. Được mấy hôm, rồi cả ba nhà văn Nhật về Canquitta trước. Không biết họ có việc phải về hay bởi Ôta yếu không chịu được cái lạnh núi cao.
ở Đacgiơlinh, ô tô hai mươi cây số trên núi trong rừng ra mới gặp sân bay. Tôi đi tiễn Ôta tận nơi. Ôta quàng vào vai tôi cái đài Natiônan nhỏ hơn bàn tay và khổng nói gì. Đến lúc ra máy bay, Ôta nước mắt đẫm trên má ôm tôi rồi giơ tay: Hà Nội! Hà Nội!
Từ bấy tới nay không gặp lại. Chẳng biết có còn sống không.
Chỉ có Điôp vẫn như thường, răng trắng nhởn nhơ.
Điôp không rượu, chỉ ăn khoẻ. Ngày nào cũng đi chùa. Điôp bảo ở Sênêgan không có chùa, hỏi ở Việt Nam có chùa, phải không? Người Tây Tạng chạy sang Đacgiơlinh đã nhiều năm, họ ở trong chùa đông đúc. Đacgiơlinh giáp giới Tây Tạng với Nêpan và ở sườn núi. Điôp lạ mắt, cái gì cũng muốn biết. Có hôm, Điôp bảo tôi: “Chúng ta nên leo một chuyến lên Hymalaya, xem trên ấy có gì mà người ta thích lên chết ở trên ấy".
Điôp vào những ngõ hẻm có người Xecba trú ngụ. Người Xecba bé nhỏ, nhanh thoăn thoắt, chuyên đi vác đồ đạc và dẫn đường cho khách du lịch và người leo núi Hymalaya. Điôp thường chỉ quen bốn phía sa mạc phẳng đến chân trời, thấy những khác thường ngày thì háo hức. Tôi đã thuộc tính Điôp, nhiều cái lạ không trả lời được.
Điôp hỏi:
- Những người Sênêgan về bảo bên Đông Dương nhiều nước lắm, phải không?
- Nhiều lắm, nước suối, nước sông, nước giếng, nước mưa...
- Trời ơi, ở Đacca, cả năm chưa chắc đã được trận mưa. Khi có mưa, cả châu Phi chạy ra nhảy múa trong mưa.
- Huế, Đà Lạt biết chứ?
- Biết trên bản đồ.
- Những nơi này có khi mưa cả tháng, mấy tháng.
- Ôi chao, tôi có thể đến Huế, đến Đà Lạt được không?
- Được chứ, Eptuchenkô vừa đến Hà Nội. Bây giờ đương ở Cu Ba hay ở Mỹ đấy.
- Thằng ăn mày Điôp ví sao được với Eptuchenkô!
ở Đacgiơlinh đi, nhớ Điôp, một nhà văn chưa có tác phẩm mà tôi gần gũi nhiều trong các chuyến đi, con người như một pho tượng hồn nhiên và đau khổ.
Cái gì, ở đâu cũng khác Sênêgan. Điôp là người như thế nào? Không biết anh thế nào, nhưng tôi tưởng như tôi có thể biết. Một tiểu trí thức, tầng lớp gần dưới đáy đông đảo nhất châu Phi. Anh không muốn ra đồng kéo cày với con ngựa, nhưng anh là ai đứng đây thì anh cững không tự biết, hay là biết mà như không.
Người có đôi chút chữ nghĩa như anh thì đi lính dễ có cơ hội đổi thay nhất, sẽ lả tướng tá, là tổng thống lúc nào không biết chừng. Nhưng anh ghét vào lính và anh buồn nỗi thấy ở đâu cũng hơn Sênêgan. ở Sênêgan không có hội nhà văn, anh cũng chưa biết anh sẽ là nhà thơ, nhà viết kịch hay nhà gì, bốn mươi hai tuổi rồi mà tất cả còn ở trước mặt. Anh ra nước ngoài bởi được mời, mỗi lần về có khi vui hơn, có khi buồn hơn, lo hơn và lại ngày ngày bước vào cái lớp tiểu học chữ Pháp của anh.
Tôi đi Cu Ba dự hội nghị phong trào đoàn kết á Phi Mỹ la tinh. Vẫn như chuyến trước đã đến Cu Ba, ở Matxcơva sang Buđapet xuống Tuyni rồi Sênêgan, bỏ châu âu lại đằng sau lưng, chỉ thấy xanh thẫm. Angiê, Tuyni bên biển, thành phố trắng nhạt trong bóng tường đá và vòm lá chà là. Xa xa, những đồn điền bậc thang trên đồi ô liu. Như vẫn ở khách sạn En Riadh, tiếng sòng ỳ oàm vào những hang hốc cửa sổ suốt đêm.
Đến Sênêgan, máy bay đỗ lâu hơn một tiếng ở Đacca trước khi bay dài trong một đêm khác thường qua Đại Tây dương. ở Matxcơva tôi đã gửi điện cho Điôp ra đón gặp một chút chơi. Sân bay trong ánh điện, những cây chà là, chùm hoa chín vàng xuộm, chà là họ nhà hoa cau, hoa dừa. Ngoài trời tối đen, tiếng sóng rào rào như mép biển ngay kia.
Điôp ra sân bay với vợ và một con nhỏ. Tôi hỏi vợ làm gì. Điôp nói vợ ở nhà. Tôi hình dung những người đàn bà đội những cành bạch đàn khô, tay dắt con cừu chiều đi ngoài rừng vào trong phố. Lúc này Điôp giống người chăn cừu về, đương vui, sắp lăn ra múa như lên cơn.
Tôi tặng Điôp một chiếc đĩa Bát Tràng treo, trong lòng đĩa vẽ in chú bé cưỡi trâu, tóc để trái đào. Nhưng Điôp thích nhất, hớn hở nhất tôi đem đã cho Điôp một số báo Văn Nghệ đã dịch in một bài thơ của Mamađu Triôp Điôp.
Điôp lật đi lật lại trang báo rồi đưa lên môi hôn... chữ Mamađu... Điôp... và kêu lên: Tên tôi... Tên tôi... Mamađou... Điôp... chữ Việt Nam, chữ Việt Nam, tôi đọc được ngay... chữ Việt... Hà Nội...
Điôp bảo vợ:
- Tôi sẽ đi Việt Nam. Con tôi sẽ cưỡi con trâu như thằng bé này.
Vợ Điôp bảo tôi:
- Điôp đã kể nhiều lần, ở Hà Nội đã in thơ của anh ấy, rồi sẽ in kịch, diễn kịch nữa. Điôp có tiền bản quyền, sang sống ở Việt Nam. Điôp đi ngay chuyến này với anh, có được không?
Ba chúng tôi cùng cười. Chỉ có chú bé ngơ ngẩn nhìn ánh đèn ngoải xa lóng lánh.
Chốc mà đã ra mười mấy năm rồi.

Chương XXI

Tôi lại về xóm Đồng.
Chẳng phải vì thế nào. Mỗi người đều có thói quen, nếp nghĩ, sinh hoạt, đi đứng... Tôi hay nhẩm lại những nơi tôi thèm đến mà chưa khi nào được đặt chân, càng thèm: huyện Sông Mã ở Sơn La, đảo Phú Quốc ngoài biển Đông... Tôi lại về xóm Đồng, cuốn sách người đã đến đoạn ấy, bây giờ xem tiếp.
Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỷ niệm từ thuở bé. Năm nào cũng vậy, tháng mười giỗ ông tôi lại thấy bà Bống về. Người lớn bảo bà ở tận trên ngược, bà là em ông tôi, bà quảy về một gánh những bó sắn, củ mài và đôi gà trống. Trên ngược đây là huyện Lập Thạch. Nhưng thuở ấy Lập Thạch với tôi đã là rừng xanh núi đỏ xa xôi tận đâu và tôi cũng không bao giờ biết tại sao bà em ông tôi lại phải đi lấy chồng xa thế. Hàng năm, bà Bống về với họ hàng ăn giỗ ông tôi, lại khiến tôi cảm thương tình máu mủ ruột thịt. Và sau này, lại một điều trông thấy đã khiến tôi nghĩ đến sự thăm hỏi và tình nghĩa.
Năm ấy, chúng tôi ở Phia Biooc tỉnh Bắc Kạn, trên núi những làng Dao Dỏ. Tết đến, từng đoàn người, cả trẻ con, khăn chít và váy áo đỏ rực rỡ, đeo túi.
Tôi hỏi: “Đi đâu?”. Bà con nói: “Đi chơi tết với người trong họ". Người trong họ ở các núi tận trên Cao Bằng hay dưới Thái Nguyên, có khi đi rừng mấy ngày mới tới. Nhưng mà năm nào cũng đi, không hề quản ngại.
Tình nghĩa cũng trong lẽ sống tự nhiên, khi nào nhớ những chuyện trên tôi cũng thấy một niềm vui đầm ấm rồi lại bùi ngùi.
Cảm thấy đã quên mặt, quên tên nhiều người. Thế mà vẫn nhớ cái hôm tôi buộc cây hóp làm cột dây đồng vào thân cây cau, ông Ngải ngồi trong nhà lim him mắt, tay cầm cái galen to bằng trôn bát “cứ nói eo éo như con ma nói". Hoàng Trung Thông- tôi nghe Trần Lê Văn kể, thỉnh thoảng gặp, Thông hay hỏi: “Dạo ấy mình thế nào” Tổ trưởng Thông ngại những chuyện lố lăng gì chăng hay là anh cũng vẫn nhơ nhớ những ngày ấy.
Tôi đi xe hàng, không đáp tàu thuỷ và không mang theo xe đạp như hai lần trước. Bạn bè hay đi bảo bây giờ xó xỉnh nào cũng nhan nhản xe ôm, tội gì mà chen chúc ô tô hàng, còn khiêng cái xe trâu để mà chết a. Mà từ thị xã xuống Thái Ninh thì cũng chẳng mấy bước đường.
Phố xá Thái Bình đã nhiều cái khác xưa. Những lần trước trông chỉ loi thoi vài ba ngôi nhà, gió thổi rào rạt cuốn rối lên những búi cỏ tranh. Từ ngày hoang vắng ấy, nhưng có cái hay là đã sẵn vết đường bằng phẳng dễ cho những đại lộ sắp mở, đương dọn cỏ.
ở đây mấy năm nay đã lên thành phố giữa những bước tiến giằng co. Một dạo, vô số xe và máy với chuyên gia nước ngoài đổ về khoan dò dầu khi khắp một miền ven biển. Báo Nhân Dân đã đăng ảnh một mũi khoan có khói và dầu (hay nước) phụt toé lên. Thật thì đã tìm được khí. Nhà máy sành sử Tiền Hải chạy điện lấy từ khi khoan này. Nhưng ai tầng qua lại Nam Định, Thái Bình đã biết tử thuở xa xưa ngày trước có nơi ở vườn, ở ruộng chọc lỗ xuống, trong đất nhả ra hơi nóng ngùn ngụt. Có thể bắc bếp thổi cơm, cả thui chó được. Người ta đã làm như thế. Giờ mới biết đấy là khí, rồi sẽ có ét xăng, rồi mở mang khai thác qui mô. Những người hay đọc báo nói rằng Thái Bình sắp giàu đến nơi, nước ta sẽ nhiều mỏ dầu khổng lồ như Brunây, như Trung Đông.
Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu một thành phố công nghiệp. Giữa những bãi lau sậy ngập đầu nguy nga nhô lên các nhà trụ sở uỷ ban, nhà thư viện, nhà bảo tàng đã lên tường cao cao, cái khách sạn năm tầng cho chuyên gia và khách du lịch được khánh thành trước tiên. Dưới bãi Đồng Châu quanh năm nước xuộm đỏ các cửa sông đổ ra biển, nhưng đất bồi màu mỡ, nhiều nhà nuôi vịt, chiều đến, người ta đi nhặt trứng vịt đẻ trên cát, đội hàng thúng về.
Bây giờ đồ sộ ngôi nhà nghỉ Công Đoàn. Mọi cơ ngơi đã huy hoàng nhưng vẫn là cái sự hóng. Cho nên nhiều công trình còn dang dở. Đường xuống Đồng Châu sẽ tráng lệ còn đợi, chưa nâng cấp, ô tô chạy chồm chồm trên ổ trâu. Cái nhà bảo tàng giữa thị xã chẳng biết bao giờ mới xây tiếp, tường nhoe nhoét vôi vữa, những lỗ cửa chưa có khung, như cái hàm răng móm.
Thành phố vẫn đương đợi vận hội. Dù sao, không đến nỗi “Cao Biền dậy non” như Xuân Hoà, Xuân Mai, những thị trấn vệ tinh tưởng tượng quanh Hà Nội.
Thái Bình không bị đứt đoạn, mà chuyển đoạn quang cảnh hôm nay hiện ra vẻ nhộp nhịp cũng em em mấy phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng náo nhiệt hàng hoá trên Hà Nội. Đường Cầu Bo qua cổng tỉnh sang Nam Định không còn nhà vách đất lợp phibrô xi măng xám, đã nhấp nhô những nhà một tầng mái ngói, mái bằng.
Trước cửa thừng ni lông chăng, vắt từng đệp quần áo loang lổ đủ các màu trên đòi, đòn ngang nối liền với những chiếc bàn, những cánh phản phủ tấm nhựa đỏ trên bày tú ụ bánh kẹo gói bọc giấy bóng nhấp nhoáng, Tết trung thu ngày trước cũng không được như thế. Phố “siđa", lại phố “quân khu” và choáng lộn bánh kẹo lạ mắt rối mắt như Hà Nội lan xuống dưới này đông như chợ. Người trong làng kéo lũ ra, đi xem, đi sắm. Anh kia trả tiền rồi đến đứng tựa lưng vào gốc cây tụt quần cũ xỏ quần mới vào rồi bước ra, người nọ ngắm người kia, vỗ tay cười hê hê như được bạc. Rồi lại tạt sang các bàn kẹo bánh xanh đỏ đến hoa mắt.
Đầu cần Bo, mấy nhà lá hàng cơm chứa trọ năm trước đã lên nhà gạch cả. Không còn cái gậy tre chống tấm phên cửa lên, mà buông phất phơ một rèm vải hoa, lụa trứng sáo, ở trong đi ra một cô mặt mũi nhẹ nhõm, kẹp tóc. Cô chào: "Mời bác vào nghỉ hàng nhà cháu” Cô này hẳn ở trong làng mới ra, chỉ mai kia thì mắt xanh mỏ đỏ tới nơi. Vẫn bến tàu, nhưng người không đeo vai cái tay nải, cái bọc mà hàng chục gánh nối nhau đi một dãy. Mụ nọ khoác cái túi giả da bóng nhoáng hộc tốc chạy xuống chỉ trỏ tốp người gánh thúng bọc lá chuối khô đặt dọc lòng tàu, trên boong, cả khoang lái Đấy là những thúng trứng vịt lộn từ vùng biển lên. Tàu thuỷ thì mất một ngày đường nhưng của hàng hoa không lo bị xô đẩy dễ vỡ như gác nóc lên xe tải.
Cả chuyến tàu ngược Phà Đen chở trứng vịt lộn. Mụ đeo túi, áo kếp trắng viền đăng ten, môi son phơn phớt, đương cau có chỉn diết gióng, lại cười cợt bả lả. Kiểu người này năm trước mộc mạc hơn, đã gặp ở Cầu Bo, ở Hải Dương, tôi tưởng như bọn đây là con cái chúng họ xuôi ngược nối nghiệp. Ông bạn tôi quanh năm ngồi xó hàng nước, nghe hóng đủ chuyện, chẳng cần đi đâu mà mách đúng cho tôi. Chỗ nào bây giờ cũng lắm giống xe ôm. ở Hà Nội chỉ có xe máy ôm, dưới này vô khối xe đạp ôm nữa. Cái xe hàng vừa vào bến, đã cả chục xe máy, xe đạp ôm xô đến hỏi bác về đâu, xe đạp giá mềm, cam đoan chạy suốt, không bán khách... mời bác, mời...
Một thanh niên áo xắn tay kẻ carô tím, đội mũ lưỡi trai. Trông vạm vỡ khoẻ mạnh, tôi đã ưng ý. Chợt nghĩ lại ngại. Đường xa, mấy chục cây số đồng vắng, nó lực lưỡng thế kia mà trấn thì mình bỏ đời. Nhưng nghĩ lại, thấy là tôi cũng lẫn lộn thời sự. Hồi này khách bỏ thuốc mê, khách giết lái cướp xe ôm nhiều lắm. Tôi bèn chọn anh tài chắc chắn ấy. Anh ta rõ cẩn thận. Anh lấy dưới yên một khúc dây da quấn quanh bụng tôi rồi mắc hai đầu móc xích xuống đệm ghế. “Đây an toàn, bác ạ. Tha hồ ngủ gật, có ngã cũng không văng ra được. ở bên Đức, bước lên xe là cài dây an toàn, đội mũ bảo hộ, luật đi đường thế, không thì phải phạt ngay". Nhớ rồi, tôi đã thấy bên thành phố Quảng Châu, chẳng biết khách ngồi đèo có buộc dây an toàn thế này không, nhưng người lái, người đằng sau đều đội mũ bảo hộ, nom như hai cái đầu con dế mèn tròn bóng. Tôi bằng lòng sự cẩn thận mà tôi nghĩ nhân lên là có tính hiện đại, tính quốc tế của anh tài này.
Anh lái có vẻ vui chuyện. “Tên cháu là Khế, khách quen gọi là Khế ôm. Bác vào đến đầu phố huyện hỏi Khế ôm, trẻ con cũng chỉ nhà Khế ôm đúng ngay".
Tôi hỏi:
- Cháu đã sang Đức à?
- Bốn năm.
- Cháu ở tỉnh nào, Béc Lin a?
- Không ạ, Lai Xích.
- Cháu ở quận nào dưới Lai Xích?
Tôi buột miệng hỏi câu ấy để làm gì. Anh lái có trả lời hay không, tôi không nghe. Đán, con trai tôi đã ở Lai Xích, đã chết ở Lai Xích, tôi đã có lần tới Lai Xích, tôi vẫn nhớ địa chỉ, cả số nhà, phố, quận...
Một lúc lâu, tôi không nói được.
- Bác đã đến Lai Xích rồi a?
- Chưa, cháu ạ.
Khế nói:
- Bác mà đến Lai Xích thì bác phải mê. Nhà ga xe lửa mái lợp to bằng trăm cái chợ Bo mà cấm thấy một cái rác. Tài chưa!
Tôi hỏi Khế chuyện khác.
- Đi bốn năm rồi về?
- Cháu chẳng thiết ở đâu cả. Cháu sốt ruột về nhà. Mẹ thì già. Vợ còn con nhỏ. Hết hạn lao động mà lại không còn nước dân chủ Đức nữa mới chán chứ. Cháu về thẳng. Khối đứa trốn ở lại.
Đương khoái chuyện, Khế kể:
- Tổ cháu có sáu đứa ở lại, cả bọn con gái. Tìm việc bên ấy chẳng khó. Nhổ cỏ cũng ra cái ăn. Nhưng chúng nó thích đi buôn. Chúng nó bảo đi buôn kiếm tiền nhanh.
- Buôn thế nào?
- Buôn đi bán lại vớ vẩn ấy mà. Đứng đường bán thuốc lá, thấy công an thi lủi. Dễ ợt!
- Đầm với đìa, bác ơi! Sẵn quá, bọn đầm lười như quỉ, chỉ nằm ườn bắt thằng bồ nuôi.
- Buồn cười nhỉ!
- Cơm nhà, cơm nhà, cháu cứ là cơm nhà...
Khế cao hứng, ngêu ngao:
- Ta về ta tắm ao ta. Dù yrong dù dục ao nhà vô tư, có phải không bác?
Xa xa, đã trông thấy bóng đen những thanh sắt trên cống Trà Linh. Xóm Đồng kia rồi. Mặt cỏ vệ đê cống Bắc phẳng mờ, đến gần nữa, hoa cỏ may trắng như hơi sương. Mỗi khi nghĩ đến đồng quê, tôi lại cảm giác như thuở bé, mong mãi chưa thành người lớn, ký ức dừng lại, xóm làng ở đâu cũng chẳng khác, mà khác cũng cứ nhớ ngày xưa thế.
Mấy nóc nhà lèo tèo và cây đa chợ Thượng không còn. Một trường tiểu học, dãy nhà quây trong bốn phía tường gạch quét vôi vàng. Trơ trọi không một bóng cây. Tôi nói:
- Đến nơi rồi. Tôi xuống làng bên chân đê kia.
Khế hỏi:
- Làng bác ở đấy à? Bác về quê chơi.
- Không, tôi thăm người quen.
Rồi tôi dặn Khế:
- Tôi vào làng, nếu chẳng gặp người quen thì tôi lại nhờ cháu cho về tỉnh ngay. Bằng như gặp được thì ta tính sau. Có khi mai mới về cũng nên. Giá cháu cũng ở lại, mai đưa tôi về thì vui quá.
Khế sốt sắng:
- Bác cho cháu đi cùng xuống làng. Để xem thế nào.
Khế dắt xe đi với tôi. Xóm Đồng ngay kia. Cái mà tôi nhận ra, ấy là mặt nước con sông nhỏ cong cong quanh xóm. Còn những khoanh tre thì đã bị phát quang. Cái xóm trọc lốc, giống nhiều nơi bây giờ. Có điều ngạc nhiên mà không lạ đối với tôi, ở nơi nước ngọt nước lợ tít mù thế này mà các đầu xóm cắm biển cũng đánh số xóm l, xóm 3 như ở Cầu Giấy, ở Nghĩa Đô đất Kẻ Chợ. Lổm nhổm bát úp cao thấp, không một mái lá, một tường đất, nhà nhà mái bằng, nhà tầng, nhấp nhô tường xám xi măng. Vẫn lối ấy vào xóm, nhưng đã mất hai bờ rào ô rô và những cây xương rồng, bụi duối, mà so le trồi ra thụt vào những góc tường, ba người cùng đi thì đụng vai nhau.
Tôi bỡ ngỡ đôi chút khi nhớ chỗ ấy là một cái ao. Bây giờ mọc lên nếp nhà hai tầng, dưới sân trên giại bể có dàn trầu không, cồng sắt khoá. Tôi đương vào ngõ nhà ông Ngải mà cứ vừa quen vừa lạ. Cái nhà vẫn trong kia, nhưng không vách đất mà tường lên vàng khè. Đầu nhà trổ ra vườn chỗ áv đặt chõ nước đái, chúng tôi đã làm hố ủ phân xanh, ngoài kia những cây chè khẳng khiu. Bây giờ xi măng trát phẳng, mất cả mấy cây cau lùn đằng trước. Nhưng dòng sông vẫn thấp thoáng sau bờ rào búi hóp. Cái chuôm thả vịt còn nhưng chỉ như vũng nước bên chân tường.
Trên bờ chuôm, lạ lùng chưa, vẫn đám tre lép phờ phạc chết khô. Không phải, những cây tre vào mùa hanh hao đều xơ xác vậy, búi tre đã bề thế ra thành một vòm tre hẳn hoi. Ô hay, ai như ông Ngải. Như mấy chục năm nay, từ hôm ăn bữa thịt vịt rắn cắn rồi tôi lên tỉnh. Có phải chỉ là một cảm tưởng, một mong mỏi eái bóng. Không, ông Ngải đấy, ông Ngải tựa lưng vào bờ tre, hai chân duỗi. ống chân tóp như cái ống giang ngày Tết chẻ lạt gói bánh chưng và nước da ông Ngải trời hanh nhờ nhờ mốc trắng.
Ngày trước, ông ngồi búi tre thường cầm con dao chẻ lạt vót nan đan rổ rá, cái đăng, cái lờ. Khi này ngồi im. Một bức tranh tĩnh vật: chân tường, mặt đất, một búi tre lưa thưa, một ông lão không có tuổi, một chuôm nước cạn.
Pho tượng phật nhịn ăn gày giơ xương trên chùa Tây Phương, đấy là ông Ngải. Cái nước da vẫn nhờn nhợt như một ông Phan Khôi- nhận xét hay hay ngộ nghĩnh của Phùng Quán hãy còn đây. ở nhà ông Ngải, tôi còn thấy cả chân tay, mình mẩy ông Ngải cũng bềnh bệch ít bắt nắng. Ngày ấy và bây giờ, ông Ngải vẫn thế, ngót hay là hơn bốn mươi năm đã qua, dễ thường ông Ngải có hàng trăm tuổi. Người Mông ở trên núi cao, nhiều cụ không nhớ tuổi. Lắm cụ ở trong làng như ông Ngải cũng không nhớ, cứ thong dong ngày trời tháng bụt mênh mông thế. May ra, có cụ bảo tao sinh năm con mèo, năm con gà thì con cháu còn tính được. Ông Ngải da bọc xương, mặt trắng nhọt, lại càng hệt ông Phan Khôi hơn. Ông Phan Khôi nằm trong đất từ 1959, cái năm lần đầu tiên tôi ở Thái Ninh về. Không lẽ ông Ngải là ông Phan Khôi, ông Phan Khôi dưới suối Vàng mới lên ngồi đây sao.
Nhẽ ra tôi cũng chẳng rõ ông Phan Khôi mất bao giờ. Tôi mà biết cũng chẳng vì cơn cớ gì. Hồi ấy, nhà tôi thuê ở đầu ngõ cuối đường Bà Triệu cửa sổ trông chếch ra phố chính. Buổi sáng, chợt thấy đi qua ngoài đường một cái xe tang một ngựa phủ vải đen. Sau xe, có mấy người khăn trắng bước theo. Tôi nhận ra có chị Hằng Phương. Chị Hằng Phương là cháu gọi ông Phan Khôi bằng cậu. Tôi liên tưởng đoán chắc đám ma ông Phan Khôi. Ông đã ngoài bảy mươi, ốm đã lâu, từ độ dọn lên ở gác trong một nhà phố Thuốc Bắc. Ngày tháng chạp cuối năm âm u, đám ma lạnh lẽo ra ngoại ô ngoài ngã tư chợ Mơ.
Tôi vốn thích đọc Phan Khôi, dù vẫn biết đã nhiều năm ở cùng cư quan ông chẳng coi tôi là cái đinh.
Viết báo, tạp văn, ngòi bút Phan Khôi sắc đọng, ngang như cua mà đọc lại chịu, như ăn gừng cay. Phó Chi Ngô Tất Tố là phó lý, phó cối cãi nhau văng gạch vào mặt; Ngô Đức Kế, Phạm Quỳnh thì chữ nghĩa trang trọng cân đối; Hoài Thanh là nhà thơ viết lý luận... Đọc Phan Khôi ngang ngạnh vẫn muốn đọc.
Cái ông gia trưởng này cũng không một bề, mà ông không nổi nóng khi tôi cãi với ông, có khi lại hăng hái biện luận là khác. Ông khó hiểu mà dễ hiểu, vừa người lớn lại vừa chất chưởng trẻ con. Vừa khờ lại cũng khoái được đưa lên mây. Ông không để mắt đến tôi nhưng ông cũng hãi tôi chứ. Cũng như ông không biết tôi lắm lúc cũng cho ông như con trẻ. Thật vui.
Ông ra tắm ngoài suối. Hồi ấy anh Trần Ngọc Danh đã mất. Tố Hữu bảo lên đưa chị Thái Thị Liên về cơ quan. Chị Liên với cháu Hà từ Quặng trên Chiêm Hoá xuôi sông Lô. Chị ở tạm với chúng tôi trước khi sang công tác ở đoàn Văn Công bên kia sông. Chị đã học nhạc ở Tiệp Khắc. Ông Phan Khôi chúa chùm tiếu lâm. Chị Liên cũng được một mũi. Suốt ngày, cái gian nhà chỗ ông “con, cây, cục, cái này” cứ chốc lại om lên tiếng cười. Ông Phan Khôi bước vào, lưng trần còm nhom, khăn mặt ướt vắt vai. Ông nói:
- Tư Mã Thiên mỗi khi nhớ là đã bị thiến thì rùng mình, toát mồ hôi. Tôi bây giờ mà trông thấy đàn bà được mắt thì có một luồng điện chạy suốt sống lưng. Ông kia bị người ta cắt, còn tôi là đồ bỏ, điện toát ra ngoài.
Mọi người lại cười rầm lên khi ông kết luận “Tôi cũng là cái xác thuốc hết thuốc. Võ Tắc Thiên vứt ra vườn". ấy là lúc vui, nhưng cũng có lúc khác, tôi giở trò cật vấn ông. Tôi hỏi:
- Cái năm 1945, ở Quảng Nam, có phải ông suýt bị bắt rồi anh Hoàng Hữu Nam cứu ông ra Hà Nội?
- Anh là Việt Minh thì anh phải biết việc ấy, hỏi tôi làm gì
- Tôi nghe nói.
Ông chừng mắt:
- Không biết thì đừng mở miệng.
Tôi chỉ muốn hỏi ông.
- Thì hỏi nữa đi.
- Ra Hà Nội, ông đến 80 Quán Thánh ở với Nguyễn Tường Tam.
- Thì đến xem chúng nó làm ăn thế nào.
- Ông bị bắt ở báo Việt Nam, ông lại được bàu làm Trung ương Việt Nam quốc dân Đảng.
- Bao giờ chứ? Ai bảo anh thế? Anh làm mật thám à?
- Tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc. Báo có đăng tin
Thế là tôi đã khơi được nguồn cơn. Ông đăm đăm mắt rồi thở dài:
- Kể anh nghe. Anh nói tôi mới biết, chớ tôi có họp hành với họ bao giờ. ở ít ngày, nhìn ra mặt thật chúng nó. Chè chén, hám chức trong Chính phủ liên hiệp lắm, lại làm ra bộ. Cái hôm bị bắt ở báo Việt Nam là tôi đã định đi, nhưng chưa tìm được chỗ ở. Tôi mang tiếng là ghét con cháu, con cháu không ưa tôi tôi xung khắc không nhìn mặt con cả tôi là Phan Thao. Không phải, không phải vì nó cộng sản, tôi không là cộng sản. Tôi chỉ ghét sự nhờ vả con cháu. Cái hôm Phan Thao ở trong Nam ra, trước khi nó đi nhận công tác, đã về đây ở với tôi cả tháng, anh biết đấy. Anh có thấy cha con tôi cãi nhau không? Nói láo. ở trong kia ra, tôi đến Quan Thánh còn vì lẽ nữa, tôi không muốn nhờ cậy Phan Bôi quá. Sau cái việc ở báo Việt Nam, tôi về Cầu Giấy ở nhờ ông Tú Mỡ. Anh bảo nó cải tổ Quốc dân đảng tháng mấy? Tôi đi khỏi đã lâu rồi.
- Ông về ở nhà ông Tú Mỡ, ông làm bài ca dao “đốt nhà” tiêu thổ kháng chiến, ác lắm. Tôi không nhớ...
- Anh biết lắm thế! Tôi nhớ tôi cũng không đọc cho anh nghe...
Ông Phan Khôi mất rồi, mất lâu rồi, mà da dẻ như ông Phan Khôi nào vẫn ngồi tựa bụi tre lép kia.
Năm trước sang sân bay Gia Lâm, tôi tiễn ông đi Trung Quốc dự kỷ niệm năm sinh Lỗ Tấn, máy bay ấy ghé Côn Minh rồi mới lên Bắc Kinh. Cà vạt màu đỏ thậm dưới bộ râu lưa thưa. Tướng ông giống một học giả Nhật Bản, vẻ phương đông mà hiện đại. Tri thức của ông xứng đáng ra thế giới kỷ niệm Lỗ Tấn lắm chứ.
Lúc này thì tôi quên những hoang dã ngang ngược của ông ở Việt Bắc, ông đau dạ dày phải mổ cấp cứu. Thể lực đuối, lại trọng bệnh giữa rừng, ông không chết nhờ nơi bác sĩ Tôn Thất Tùng trên Chiêm Hoá mới nhận được máu khô ngoại viện. Khi ông bình phục, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mừng ông bộ quần áo lụa.
Hoạ vô đơn chí, ông thường kể chuyện vui “trời đánh ông cũng không chết” là cũng có sự thực của nó. Hồi ở Phú Thọ, đêm mưa sấm sét dữ dội, ông trông thấy một con sét hòn xanh lẹt ngoằng giữa nhả. Mà ông không việc gì. Tôi nghe ông kể chuyện ấy, nhưng việc này thì tôi chứng kiến. ở Tuyên Quang dự lớp chỉnh huấn, buổi sáng ông ngồi trước lán. Một cành cổ thụ to như cột nhà gẫy rơi ngay trước hai chân ông duỗi ra sưởi nắng. Rồi về Hà Nội, ông viết bài Ông năm Chuột.
Tôi cũng không gần ông liền năm, tuổi tác lại chênh đến ngót ba con giáp. Tôi biết ông ương bướng, mà cũng không phải chỉ thế, ông vốn trọng công việc. Khi đương tập kết ông được mời vào khu 5 nói chuyện kháng chiến thắng lợi với đồng bào ở Bình Định, Quảng Ngãi lúc ta chuyển quân ra Bắc. Ông đi ngay. Và mỗi khi tôi nhờ việc, nhờ viết bài, ông làm đến nơi đến chốn. Tôi đã cậy ông so sánh các bản dịch tiểu thuyết Mặt trời trên sông Tang Càn của Đinh Linh, ông soát và viết báo cáo nhận xét cẩn thận, kỹ lưỡng.
Ông thích nói tiếu lâm chọc cười, cũng như không biết giận, tưởng như ông cốt nói ngang hơn, to tiếng vặc lại, chỉ vì ông không để bụng lâu. Chao ôi, không ương bướng thì đã không phải là Phan Khôi, cái câu giễu “Lý luận Phan Khôi” mà các báo Phong Hoá, Ngày Nay đã đặt cho ông chẳng đã thành tiếng thuở nào.
Tôi lại mơ màng rồi, trông cái ông Ngải không biết chữ mà lại hoá ra học giả Phan Khôi một bồ chữ sao được.
Ông Ngải ngồi như đống đất, thế mà ông nghiêng tai, lối nghe của người ngễnh ngãng, ông đã đánh hơi được có người đi tới.
- Ai thế?
Tôi gọi to.
- Ông Ngải!
- Ai...
- Cán bộ Tư chào...
Tôi chưa dứt câu, ông Ngải đã run run gối đứng lên.
- Anh Tư đấy à?
Ông lão lại nghếch mặt hỏi:
- Có anh Quán đấy phải không?
Ông lão nghe rất thinh. Khế cười ngặt nghẽo:
- Khế ôm đây, cụ tổ ạ.
- Anh Quán...
Tôi nói:
- Anh Quán mất rồi.
- ối sao thế?
- Giỗ đầu, giỗ hết rồi.
- Khốn khổ
Ông Ngải nắm cánh tay áo tôi. Tôi đỡ ông ngồi xuống, lại tựa vào bờ tre. Ông Ngải bảo tôi, như ngày trước, như mọi khi: “Anh ra vườn ngắt mấy cái lá chè". Rồi ông hỏi: “Anh vẫn uống nước chè vò chứ?
Mảnh vườn chỉ còn một luống đất. Không biết chỗ nào cái hố phân xanh ngày xưa. Nhưng tôi vẫn nhớ bài học hái chè ông Ngải dạy. Bỏ lá già, tôi ngắt một ôm lá đương bỡi. Bên bờ tre, Khế đã đun nồi nước.
Rồi Khế vò chè, luộc chè, đổ nước cho ngấm. Như ở nhà chú và cả đất Thái Bình này đều biết món chè vò.
Để ý kỹ, búi tre xác xơ nhưng đã lan ra thành hũm vững chắc trông như trong cái hang có ổ mái lợp những tàu cau, xung quanh táp phên vách, trên đặt một giát giường to hơn cái mâm chõng, như túp nhà trẻ con dựng chơi đình chùa.
Tôi hỏi:
- Ông vẫn ngủ trong bụi tre à?
Ông lão đương ủ hai bàn tay xù xì trên mặt cái ấm vừa sưởi để xem chừng hơi nóng mà biết chè chín đến đâu. Tôi hỏi lại rõ từng tiếng, ông Ngải mới à à ừ ừ: “Ngủ ngoài này chứ ở cái nhà trong kia thì chết ngạt chẳng ra bộ gì. Thế các anh bây giờ...”. Tôi hiểu ý ông Ngải hỏi anh em chúng tôi dạo ấy. Tôi kể: tổ trưởng Thông mất rồi, anh Chu Ngọc đã được sang nước Tiệp Khắc ấy mà, cũng ốm chết rồi. Cả tổ còn anh Trần Lê Văn, anh Hoàng Cầm và tôi. Ông Ngải trầm ngâm nhm ra rồi nói: “ ở ngoài tỉnh hại người lắm. Anh Quán còn ít tuổi, khoẻ mạnh thế mà cũng đi rồi. Tội nghiệp, ở tỉnh làm quái gì! ”
Trên cành tre tay tre vẫn cái bát đàn, thêm chiếc ca nhôm, cả ống điếu cày treo lủng lẳng. Chắc vẫn có người qua lại, ghé ngồi. Ông Ngải nói: “được", rồi bảo Khế rót nước trong ấm đất ra bát.
- Người ta miếng giầu làm đầu câu chuyện, tôi cả đời chỉ có miếng nước". Ông Ngải tưởng tôi vẫn uống chè vò như ông.
Đã lâu, một lần tôi đi Hà Tnh về làng có uống chè vò bây giờ mới lại được nhắp, nước nóng vào đến đâu thấy chát ngọt lìm lịm đến đấy. Nhớ những tinh mơ ông Ngải dậy từ gà gáy uống hết hai ấm vại chè vò mặc cả nhà ăn cơm đèn rồi ông xách cuốc ra ruộng, lòng không dạ đói đến quá trưa mới về, đeo một giỏ ếch nhái, cá cua sau lưng. Trông ông lão vẫn phảng phất đồng áng bờ bụi thế. Hai con mắt toét nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí. “Lúc nào tôi cũng thấy trời sắp tối, anh ạ". Nhưng ông nhìn bằng tai, cái tai ông dở điếc mà vẫn nghe ra tiếng người, mấy người và tiếng chó, tường lắm.
Ông Ngải đưa tôi vào trong nhà. Tôi trông thấy trên giường thờ ảnh cu ốc, mặt trang nghiêm, đội mũ cát sao vàng.
Ông Ngải nói:
- Cái thằng ốc lại mải đi theo anh Quán tập dân quân rồi. Cả bà nó nhà tôi cũng đi chơi với nó. Mẹ con nhà mày ạ, có anh Tư về chơi.
Tôi bấm Khế ra sân.
Tôi ở lại, sớm mai về. Nếu cháu ở lại được...
- Để cháu xem.
- Bây giờ cháu lên trên Cống mua thẻ hương, tìm đâu được con gà. Tôi cúng cậu ấy, cả bà cụ...
Khế nổ máy xe, đi ngay. Tôi rút nén hương trên bàn thờ rồi lấy diêm châm cái đèn hoa kỳ. Tôi đã đến nhiều nhà thấy trên bàn thờ ảnh và tryuền thần chân dung các chiến sĩ. Tôi cứ tưởng như không phải người đã khuất. Anh ấy ốm đau gì đâu, cái ảnh lại trẻ đẹp thế kia, ý nghĩ ngây dại thường trở lại trong tôi.
Nhà ông Ngải chỉ khác cái mái bằng và tường xây để mộc, giường phản vẫn tuềnh toàng thế. Nhà kín bưng, ẩm mốc. ở trong làng bây giờ cứ đua nhau nhà tầng, nhà gác, có người méo mặt vì ganh nhau làm nhà.
Ông Ngải thắp nén hương rồi lại lò dò ra ngồi bụi tre. Ông Ngải nói:
- Xóm này nhà ngói, mái xi măng hết. Bữa ăn bữa nhịn, cũng lên nhà tây. Anh Quán mà về thì không kiếm ra đất bức vách ủ phân.
- Thời buổi mới, đâu cũng ăn nên làm ra, ông ạ. ối người đi vay lãi, bán lúa từ lúc vào đòng để làm nhà. Chỉ khác ngày xưa lý trưởng, phó lý giầu có bây giờ chủ tịch, bí thư, xà đội, dạo trước còn chân chủ nhiệm, kế toán nữa cũng trộm cắp mà nên giàu có cả. à anh biết chủ nhiệm Sự...
- Ông ghét ngói hoá, bê tông hoá nên ra nằm đây.
- Có mà hoá điên hoá rồ. Hồi còn thằng Tây tôi đã sợ cái hầrn lô cốt. Tôi không chịu được ở nhà hầm, tôi mà ở trong nhà hầm ấy thì tôi chết đã lâu.
- Sao ạ?
- Suốt ngày nắng nung sân xi măng, mái xi măng, đêm vẫn oi như trong chảo rang. Tôi làm thằng kéo vó, ra đây chui vào cái lều vó cạn. Chẳng nắng gió nào động được lông chân. Chân mễ tôi kê cao cho con hổ mang, hổ lửa lấy đường đi, tôi nằm trên. Chỉ có thằng rắn ráo thì đợi nó leo lên, tôi tóm cổ. Thịt rắn ráo ngon hơn thịt gà. Anh chưa được ăn nhỉ?
Tôi rụt rè hỏi về ốc. Nhưng ông Ngải nói như đương chuyện với ma:
Nó tập bắn súng gỗ với anh Quán. Rồi đến dạo ngày đêm máy bay ngoài bể vào, bay ngang mặt đê.
Đến mùa nước có đứa đồn máy bay Mỹ sắp phá đê cho cả tỉnh chết đuối. Các làng lên đê đặt ụ súng bắn cho nó không dám xuống thấp, bắn súng thật.
Cả đêm cũng đòm đòm.
ấy thế mà thời buổi tàu bay tàu bò lại kiếm ăn được. Chuyện này cô Hến về đã kể cho nghe. Chặp tối, đàn máy bay chúng nó đi ném bom về qua ném xuống hàng trăm cái vỏ thùng hết dầu. Đầu tiên tưởng nó ném xăng đốt làng. Ra xem mới biết cái thùng rỗng, thế là vớ bở. Thôi thì làm nồi, lảm vại, làm thùng, làm muôi, bán đồng nát, bán cân cho nhà mậu giũa làm lược, làm hình máy bay đồ trẻ con chơi...
Thanh niên ca cẩm: ngày nào cũng bắn mà cấm nhặt được thằng Mỹ nào. Rồi có đợt tuyển quân.
Thế là đi, ốc cũng theo. Nhà con một, xã cho miễn. Nhưng ốc bảo làm tiểu đội trưởng dân quân thì phải đi với quân, đi ít lâu xem sao rồi về thôi mà. Được một năm rưỡi, giữa tháng tám nhận được giấy báo hy sinh ở mặt trận phía Nam. Một năm sau thì mẹ cũng mất.
Cô Hến kể:
- Bố em bảo thôi thì nằm xuống ở đâu cũng là nằm. Bố em hãi cả ai nhắc đến, bố em sợ nghe ai nói thương binh liệt sĩ. Nhưng chúng em không yên lòng. Giải phóng rồi, nhà em đi tìm mộ. Đeo một tay nải thẻ hương, tối nào cũng thắp một nén khấn, rồi c thế đi. Run rủi thế nào lên núi Trường Sơn đến khu mộ liệt sĩ Thái Bình có hơn một nghìn ngôi đã bốc về đấy. Dò hết một ngày, tàn nén hương thì gặp mộ anh, rõ ràng cả quê quán, cả tên ở nhà, tên lúc đi bộ đội. Nhà em đã lấy giấy rập khuôn đá bia đem về tạc hệt cái bia ở núi Trường Sơn trong kia.
Trên bàn thờ, sau tấm ảnh ốc, một tấm đá bia khắc dòng chữ: Liệt sĩ Kiên Cường tức Lại Văn ốc hy sinh ngày...
Ngày trước, có lần ông Ngải đã kể như tâm sự với tôi ông vào hợp tác sớm vì ông tin ở Chính Phủ, con ông lớn lên trông vào hợp tác, chứ vợ chồng già rồi chết rồi, con cái biết nhờ cậy ai. Nhưng bây giờ ông Ngải không nói chuyện ốc, có nói thì cứ như ốc vẫn đứng đâu đấy trong nhà.
Tiếng xe máy xè xè ngoài đê. Khế về. Con gà trống, thẻ hương buộc trên túi trước tay lái. Tôi bảo Khế:
- Bây giờ cháu về...
Khế nói:
- Cháu ở lại với bác.
- Nhà mong thì sao?
Cháu đã vào uỷ ban gọi nhờ điện thoại, nhà cháu yên chí rồi.
Ông Ngải bỗng nói góp:
- Xã này có điện mồm rồi, chưa có điện đèn. Chỉ nghe nói mà tôi đã ghê cái điện đèn. Thấy bảo có nơi mắc điện bẫy chuột bãy cá, điện chạy sang người giật chết nhiều người lắm.
Khế đã nhanh nhẹn bắc bếp ngoài bờ ao đun nước làm gà. Tôi vào đặt thẻ hương lên giường thờ, thắp nén hương mới. Ông Ngải lại đã ngồi ngoài búi tre.
Cả ngày ông quanh quẩn đấy. Ông đem ra cái áo bộ đội- chắc áo của ốc để nhà, ông mặc thêm vào.
Trời chiều đã se lạnh. Tôi đỡ ông xỏ tay áo, lộ mảng xương sườn gồ ghề. Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Tôi cũng đã móm mất cả một hàm răng rồi mà ơ hay, ông lão vẫn còn răng cửa như ngày trước, buổi chiều vàng mùa lúa, mùi rơm mùi thóc mới, con trâu kéo đá. Không biết có còn cái sân trâu kéo đá không. Nhưng vẫn đây, cái búi tre cổ thụ búi tre thấp lè tè đốt thẳng không gai, búi tre trâu cọ lưng nhẵn thín trông ra miếng ruộng xuống bờ sông, bàn tay ông Ngải đã cuốc nên. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đòi hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã.
Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:
- Mẹ con nhà nó.
Nói rồi ông ngước mặt:
- Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!
Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.
- Anh mới về. Mấy chục năm rồi...
- Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.
- Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.
- Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?
- Em vào trong xóm mua chuối.
- Có lần tôi đi với vợ chồng cô khiêng buồng chuối xuống chợ Diêm.
- Anh nhớ dai quá. Nhưng bây giờ không khó nhọc thế nữa. Em đi các nhà có chuối, được giá thì mua để đấy Đến hẹn có xe công nông về chở xuống Diêm.
Mà cũng không phải bán chợ, đem xuống tàu hết. Làm sao mà các nước người ta ăn chuối xanh khoẻ thật lực bao nhiêu cũng bỏ vào tàu tải đi bằng hết.
- Thế thì cô là lái chuối.
- Lèo lái chẳng ra sao, có điều cũng đỡ vất. Nhưng thừa người lại thiếu việc. Không còn gian dối như cái hồi hợp tác năm xưa cứ bầy việc ra để gãi công điểm.
Tôi hỏi:
- Anh Toàn nhà cô đâu?
- Đấy thừa người thiếu việc là cái tích ấy. Nhà em đi bộ đội về, cả nhà em với ông, bác ốc liệt sĩ vẫn được tính, có mấy sào mẫu ruộng, con trâu với cái máy đập thuê nó nuốt sạch việc, nửa năm làm nửa năm chơi nhong nhóng. Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn, dưới ấy bây giờ còn vui hơn Hà Nội. Cả làng, cả vùng kéo ra Diêm bốc vác, có nguời sắm xe máy chuyển hàng cho nhanh. Để nhà em về, chuyến này chúng em tính. Có khi nhà em cũng về làm dưới Diêm cho gần gũi cửa nhà, anh nhỉ?
Cô Hến lại kể:
- Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.
Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:
- Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ
- Thủ đô đấy, mà cô chê a?
- Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.
- Anh ấy ở Hà Nội cả năm, cả tháng thì sao!
- Có cái chiếu nằm tơ hơ không màn mùng, muỗi như chấu. Em bảo cho nhà em ở trên ấy tha hồ vơ váo con nào cũng được. Nói ra nặng thế chứ nhà em hiền lành, vài ba tháng lại đem tiền về, cả quần áo các con cũng lo tươm tất. Tội nghiệp, anh Quán còn trẻ, khéo chỉ bằng tuổi nhà em, thế mà đã mất, ốm thế nào ạ?
- Sau này chú ấy để râu, lọm khọm lắm.
- Để râu thì để râu, trẻ thì vẫn trẻ chứ.
ở sân sau, con trâu giẫm đứt cái mành mành che chuồng xí, hai con cô Hến hí hoáy buộc lại, xong rồi ra xúm quanh anh Khế ôm. Khế đã nhanh lại khéo tay. Khế làm gà, cô Hến vo lẻ gạo nấu cơm nếp. Đun bếp lá tre, một mình Khế tay dao tay thớt làm cả.
Tôi khen thì Khế bảo: “ ở bên Tây cháu cũng chân bếp núc, những thằng lười đi làm về thuê mình làm. Cũng kiếm thêm tí ti".
Ông Ngải bước vào trong nhà. Mới biết lúc nãy ông mặc thêm cái áo bộ đội không phải vì chiều gió heo mà ông mặc áo cho tề chỉnh. Ông lấy thẻ hương, rút hai nén cắm lên bình rồi vái, lẩm nhẩm khấn, lại nói như nhắn:
- Anh Tư về chơi, có mâm cơm cúng. Mẹ con nhà mày về ăn với cả nhà.
Mọi người đã vào mâm. Ông Ngải ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ơ hờ. Cô Hến nói: “Ông em dạo này có chứng nghẹn, mắt lại kém, cứ vừa ăn vừa thở, lâu mới xong bữa". Ông Ngải cầm đũa. Ông và miếng cơm, nhai mãi. Quả là ông hay nghẹn. Cô Hến đã mua về một lẻ rượu. Ông Ngải vẫn không rượu như ngày trước.
Còn tôi, đụng đến rượu thì phải có sự thế nào, chẳng vui cũng chẳng cơn cớ gì mà uống, tôi và Khế cũng chỉ đểnh đoảng một chén. ánh cái đèn phao treo sáng cả gian nhà, bữa chén buồn buồn.
Ông Ngải nói:
- Có anh về tôi vui không biết nói thế nào cho hết, không ăn được mà cái lưng không cho ngồi lâu. Hai ông cháu cứ cơm rượu tự nhiên, tôi phải đi ngả lưng.
Sang canh tôi dậy nấu nước thì anh ra uống với tôi.
Ngày trước hôm nào anh cũng uống chè sớm. Rồi anh có nghiện không? ừ mà rượu Tây rượu Tàu, chứ nghiện đâu cái nước chè nhà quê!
Cô Hến nói:
- Đêm nay giở gió, ông không được ra ngoài bụi. Mà nhà có khách, ai lại nằm bờ ao. Ông em lẩn thẩn lắm, cứ bảo ra ngoài ấy dễ ngủ.
Ông Ngải nói:
- Hay là bố con anh ra với tôi. Cái lá chuối khô, ấm hơn chăn bông.
Cô Hến lại bảo ông Ngải:
Cháu nó giải lá chuối phản trong nhà rồi. Cả chỗ nằm cho hai ông con anh Tư.
Ông Ngải ngồi im rồi đứng dậy, nhưng ông không ra búi tre mà sang cái phản bên. ổ lá chuối khô hai thằng cháu đã ôm vào từ lúc nào.
Tôi nói:
- Ông Ngải này!
Ông Ngải sột soạt cựa quậy trong ổ lá. Tôi ghé xuống:
Có cái quà biếu ông. Ông có nhớ hôm tôi buộc cọc dây galen lên cây cau ông nghe galen nói eo éo, cái này còn hơn galen nhiều.
- à!
Tôi lấy trong ba lô ra chiếc đài National bằng bàn tay chạy điện chạy pin đều được, mà nhà văn Nhật Ôta đã cho tôi hôm chia tay ở Đacgiơlinh. Tôi cũng dùng từ ngày ấy, cái đài vẫn tốt. Từ lúc Ôta cho đài, không hiểu liên tưởng thế nào tôi đã nghĩ có thể rồi một ngày tôi đem về biếu ông Ngải. Xuống đây, cũng có phần trong ngụ ý việc vui ấy.
Ông Ngải nghiêng đầu lên. Tôi nói thong thả lại câu vừa rồi và giơ cái đài. Ông Ngải lắc đầu.
- Tôi không... tôi quên cả rồi.
Cô Hến nói:
- Ngày trước ông cháu mê galen nghe suốt đêm. Sau có cái đài chạy pin, rồi ông cháu đem bổ đài ra bóc vỏ làm đóm.
Khế hỏi ngơ ngẩn:
- Lạ nhỉ, đài hát vui lắm.
Cô Hến rầu rầu:
- Cứ nhở nghe nói đến thương binh liệt sĩ ông cháu tắt đài ngay. Ông cháu sợ.
Có một bóng người lù lủ dật dờ vàò. Tiếng thều thào:
- Anh Tư về chơi, còn nhớ tôi không? Sự, thằng Sự đây mà...
Tôi reo lên:
- Anh Sự! Quên thế nào được. Mạnh khoẻ chứ. Định sáng mai sang anh.
- Không mạnh, cũng không khoẻ. Sang tôi nhé.
Sự ngồi ghé vào ánh đèn. Trông rõ một bộ xương run run ngồi. Chưa thấy người nào gầy vêu vao nhường này. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa:
- Lo nghĩ sao mà rạc cả người thế? Chị ấy với các cháu thế nào?
- Tôi phải cái chứng ho, ho bệnh anh ạ. Trông anh cũng già, chúng mình già cả rồi. Chóng quá Thôi đã khuya, anh đi nghỉ chả mệt. Mời anh sáng mai, anh với cậu này sang bên tôi rượu cháo lòng. Ông Ngải nữa, mời ông. Ngoài đầu xóm có nhà mổ lợn lòng sốt ăn được.
Không đọi tôi trả lời, Sự lại lù đù về. Bước lẩy bẩy mà cái cách ăn nói “dứt điểm” vẫn nóng như lửa.
Cô Hến nói:
- Không phái bác ấy ốm, mà bác ấy nghiện đấy.
- Nghiện cái gì?
- Thuốc phiện ạ, nặng lắm. Bác gái thấy để ở ngoài Diêm không tiện vì khách khứa, buôn bán ra vào. Mà nghiện ngập thì ở làng nước còn thông cảm chứ ngoài Diêm người ta bắt đi cai rồi.
- Nhà bác Sự ra ở Diêm rồi sao?
Cô Hến kêu lên:
- ấy chết, từ nãy quên kể, nhà bác Sự bây giờ giàu nhất vùng chứ lại chả nhất làng. Bác gái với cái Soi, đảm lắm. Hai mẹ con buôn hàng tàu đỗ ở ngoài bể. Mối lái các nơi về cất hàng lúc nào cũng đầy nhà khảch. Đủ thứ, xe máy, đồng hồ, tủ lạnh, buôn cả người nữa. Nhà em mà bỏ xế lô cũng phải ra xin việc nhà ấy. Con Soi diện mốt ăn đứt gái Hà Nội kia. Sáng mai anh sang chơi, bác Sự tốt bụng mời thật đấy. Nhà trong này cũng sang hơn cả nhà chủ tịch. Điện thoại nói chuyện bắt vào tận tai, sướng chưa!
Nhưng rồi cô Hến chép miệng:
- Nứt đố nổ vách thế mà con cái hỏng ráo. Hai thằng con trai thì ngồi ăn cơm nhà đá. Còn cái Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả mẹ nó...
- Già mõ ra rồi.
- Bà lão cũng chẳng tha thằng nào. Có thế mới giàu như điên.
Tôi tặc lưỡi:
- Những nhà có của ở đâu cũng thế.
Trong ổ lá chuối, ông Ngải đã nằm im từ lâu. Ông vẫn quen ngủ sớm hay là ông trằn trọc trong im lặng.
Khuya rồi, tôi quá giấc cũng không chợp mắt được. Quả nhiên, ông Ngải đã ra ngồi uống nước từ lúc gà chưa gáy. Mọi thứ chè vò, ấm bát các cháu đã sắp sẵn. Thói quen đã khoẻ hơn cả nỗi già nua. Ông Ngải vẫn một mình một bóng in trên vách. Tôi ra với ông lại bởi không ngủ được. Đã lâu mới lại được nếm cái vị chè vò chát mà đậm giọng. Ngày trước thì ông đã chuyện ran rỉ, nhưng bây giờ chỉ lặng im.
Nhà anh Sự khang trang thật, không còn lù lù đống cây rơm ở góc sân. Năm gian mái ngói âm dương, sân lát gạch hoa từ thềm ra tận bờ ao, cổng xây hai cột trụ như cổng đình. Tôi đã nhắc là hôm qua anh Sự mời ông Ngải sang ăn sáng. Ông lắc đầu “Cả đời có ăn sáng bao giờ. Anh biết đấy. Anh kiếu hộ tôi".
Trong nhà, gian giữa, bộ ghế xa lông bóng cánh gián. Trên mặt tủ chè, đặt chiếc choé đồng sáng nhoáng. Gian bên trống hốc, mọi cái sang trọng lẫn với lạnh lẽo, tựa như cái nhà không người. Lạ là trông thấy máy điện thoại kia, nhưng không thấy đài, vắng tiếng nói tiếng hát rộn rã mà các nhà hợm của hay mở cả ngày. Có lẽ bởi người nghiện sợ tiếng ồn. Trên cái sập gụ; Sự quấn chăn chùm đầu, đương hi hoáy nạo sái. Anh đẩy cái gối, mời tôi nằm bên chiếu. Đã lâu mới lại trông thấy cái bàn đèn kiểu cách cấu kỳ. Năm mới giải phóng, vào Sài Gòn, Điều rủ tôi đi tiệm hút ở chợ Cũ. Tôi đã toan đi, rồi lại thôi, bởi vì nhớ có lần Nguyễn Tuân đem ra Hà Nội cái gối đầu lấy ở một tiệm hút, vẫn cái gối sành trắng hếu, rỗng ruột, trong nhét cái giẻ lau đen xỉn, trước kia đã thấy những cái gối lạnh rợn mắt này trong tiệm hút chui rúc ở Hà Nội, ở Chợ Lớn, ngõ Sầm Công cũng như đường Cây Mai, tôi ghê ghê lợm giọng.
Rồi ông Nguyễn cũng vứt cái gối ấy ngoài hiên, chỗ chai lọ đồng nát. Dẫu ở nhà ông Hy Chả Cá, cái bàn đèn riêng gọn ghẽ, rồi lên vùng cao, chiếc dọc tẩu làm bằng đốt hóp đá, tôi cũng không để ý, nhưng bàn đèn của Sự thì chưa được thấy ở đâu. Chiếc khay gỗ đen tuyền, chụp đèn pha lê xanh nhạt, cái dọc tẩu khảm trai lấp lánh, những cái tiêm, cái nạo, cái khoe bằng kền bằng bạc nhoang nhoáng. Các thứ đồ lề của làng bẹp khác mắt này chắc phải chuốc tận các tổ hút lò hút bên Ma Cao, Hồng Kông mới có được
Tôi bảo Sự:
- Để tôi tiêm cho.
Sự cười, miệng mếu nhợt nhạt như rách ra.
- Anh cũng biết tiêm thuốc a?
Thật tôi cũng chỉ trông người ta tiêm, thấy chẳng phức tạp gì. Tôi hơ thuốc rồi vê lại, nghiêng vào ngọn đèn vun thành cục nướng xèo xèo bên lỗ nhĩ rồi đưa miệng dọc tẩu sang cho Sự.
Sự nói:
- Mời anh hút trước.
- Vui với anh thôi, tôi không hút.
Cũng không ép tôi thêm, Sự gò lưng đến rụt cổ, cong hai vai kéo điếu thuốc rồi ngồi lên, chiêu ngụm nước hãm bát nước chè vò đặc sánh.- “Anh tiêm được đấy. Biết tiêm mà không hút, ừ, tôi phải học anh, nhưng tôi đắm đuối quá rồi, anh ạ. Sáng ngày ra tôi kéo sáu điếu cả thuốc cả sái mới mở được mắt. Tôi đã bảo cả rồi, các thứ ăn uống đều làm bên kia, sắp mang sang.”
Tôi hỏi Sự về những người, những việc tôi còn nhớ. Tôi không động câu nào về nhà anh. Nguồn cơn buôn bán giàu có; tại sao vướng vào vòng nghiện ngập; anh có còn là đảng viên không. Tôi e Sự khó nói hay là tôi ngại. Có lẽ cả hai.
- Ông Dũng trong làng hồi này thế nảo?
- Ra tỉnh mở hàng cơm một dạo. Chết đã lâu rồi.
- Lại thắt cổ à?
- ốm bệnh già thôi.
- Cậu Quốc...
- Đại uý Quốc. Rồi cậu ấy đi bộ đội thiết giáp. Xe tăng vào chiếm dinh Độc Lập đấy.
Nói câu ấy, Sự nhô vai, cổ nổi gân đũa, hăng lên như khoe chiến công của mình.
- Bây giờ làm hội Cựu chiến binh, chủ tịch xã kiêm bí thư đảng uỷ...
Chỉ hỏi qua loa mà ra bao nhiêu chuyện và đời người khác nhau. Nếu ở lại đây vài hôm, vào trong làng, gặp lại những cô Dăm, cô Vĩnh thì chắc đêm nào cũng còn mất ngủ nữa.
Tôi nhận ra Sự nói vẫn sang sảng, anh Sự bẹp tai mà làm như vẻ ta đây. Tôi không hào hứng chuyện đồng ruộng và làng xóm, tôi hỏi chuyện khác.
Nghe ngoài Diêm đương xây cảng lớn, tàu nghìn tấn vào được. Anh có hay xuống Diêm chơi không?
Sự chau mặt:
- Không! Xuống làm chó gì!
Một cô bé quảy một gánh hai cái thúng con con bước vào. Một bên nồi cháo đương sôi bốc trắng kẽ vung, bắc trên cái bếp dầu vặn nhỏ lửa. Quang bên kia, cái mâm đậy lồng bàn- “Mày giái chiếu rời dọn ra". Đã gọn gàng cả, hai đĩa to đủ cả lòng, dồi gan, cổ hũ... Cái rổ con xếp mở húng chó, mùi tàu, quả chanh và mấy quả ớt chín vàng bên bát mắm tôm. Chai rượu trắng đã đặt đầu mâm với đũa bát tình tươm. Con bé không phải người nhà hàng, nó được thuê cơm nước hầu ông bẹp Sự.
Tiếng xe máy xình xịch vào đầu xóm.
Sự lẩm bẩm, không nhìn ra.
- Mẹ con nó về. Tôi đã điện thoại bảo có anh sáng nay sang chơi.
Vào trong ngõ, một cái đrim màu mận chồm thẳng qua bậc cổng. Người đàn bà cưỡi ghì như hiếp cái xe. Cứ như những chuyện cô Hến nói thì tôi đoán nó là cái Soi, chứ làm sao tôi nhận ra con bé ngày trước đứng ơ mặt nhìn nghe cái galen ở nhà ông Ngải và con bé xúc thóc trộm hợp tác, mấy mẹ con suýt đánh nhau với bố. Nó đã cứng tuồi, nhưng ăn mặc như trẻ trung đương thì. Một cô “tiếp thị” đúng mốt, áo thụng tám túi, đeo cái túi xách hai ngăn. Tóc cắt vét tém, bôi son môi, quầng mắt xanh, váy bò cỡn trên đầu gối, thừa ra nửa bắp chân trên đôi giày da nâu đế cao. Đằng sau, ngồi một bà béo ục ịch, chắc mụ Sự đây. Mụ cũng sấy tóc cũn, quần phăng đen, sơ mi hồng dài tay, mặt bự phấn, cổ đeo dây chuyền vàng to như cái xích mèo. Nước hoa đã phả vào nhà thơm sực nức.
Hai mẹ con bước vào, như không trông thấy bố Sự ngồi đấy. Tiếng cười khành khạch và một câu chào hàng:
- ối kìa anh Tư. Vẫn thế, trẻ ra đấy.
- Tôi không nhận được chị.
- Cái thời mỡ màng theo con gà ngày mùa nhặt thóc đã đút bếp rồi, anh ơi!
Mụ hỏi:
- Xe anh để đâu, ngoài đình à? Khéo nó tháo mất..
- Để bên ông Ngải. Các cháu nhà cô Hến cẩn thận, đã chằng cả cuộn chão vào hai bánh. Chú lái của tôi đây.
Tưởng cái ô tô hóa ra cái xe ôm, thế là mọi chuyện đểnh đoảng dần rồi nhạt thếch. Cái Soi ngồi bên sa lông, chốc lại vóng sang giục mẹ: “Nhanh lên! Nhanh lên! ”, chẳng giữ ý khách lạ. Mụ Sự cũng không để mắt đến mâm cháo. Có lẽ vì tôi và mụ câu chuyện chẳng còn ăn nhập gì. Mụ nói: ” Sáng nay khách tôi ngoài tàu hẹn. Có thong thả thì mời anh ra Diêm chơi". Rồi cười rung má, đá mắt nhìn Khế ôm. Mụ nói lửng, ỡm ở không vẻ mời mọc, hiểu sao thì hiểu.
ấy thế mới là đời bây giờ. Tôi nghĩ chua chát. “Thằng Sự còn mấy hơi mà chặt cổ thằng nào nữa, chuyện cổ tích lắm lắm rồi".
Cái Soi vùng vằng cứ ra nổ máy xe. Tôi không thể còn đầu mối nào chắp được chuyện những cái cô Dăm, chị Sự, cô Vĩnh năm xưa nói “chúng em như con gà, ngày mùa thì gà béo” với mụ Sự bự rự son phấn này. Đến lúc tôi trông thấy mụ ngồi, đôi dép đặt lên cái vấu sau xe, chỗ gót chân mụ còn hằn vết sẹo khía đen nẻ miếng thì tôi gật gù khoan khoái như đã được an ủi là tìm ra cái dấu nối rồi.
Sự ngồi yên, hai con mắt như lồi ra. Khi tiếng xe đã lên trên đê, Sự văng một câu dõng dạc:
- Đồ đĩ rạc!
Sức lực gân cổ Sự dồn cả vào câu chửi sau lưng ấy. Rồi rót rượu, nói:
- Mời anh nhắm tự nhiên. Nồi cháo sôi cạn cả.
Bữa chén cụt hứng, đâm loãng hẳn.
Tôi về, ông Ngải đã ra ngồi bên búi tre lép đan rỏ. Hai thằng cu nhà Hến đã đi kéo riu tép. Con trâu lên trên mặt đê gặm cỏ. Rỗi rãi, trâu được thả đi ăn từ sớm. Xóm làng bày ra những trái ngược, nhưng cũng dễ cắt nghĩa. Chỉ không biết rồi mai kia sẽ thế nào.
Tiếng gọi nghé văng vẳng trong cánh đồng.
Nghé ơi... nghé ơ...
Chân đi thon thót
Vọt chẳng bén lưng
Bé ăn chơi dưng
Lớn phải đi cày
Đi cho đến bờ đẽo lại
Đập rợ vào lưng, là vặt bước vào
Đi cho thẳng đườig cày, cho ngay đường bừa
Chân đi tai nghe, dạ nhớ lâý
Chớ đi quàng, phải đòn
Nghé ơ...
Bốn phía phẳng lặng đồng không. Chẳng trông thấy ai gọi nghé. Chỉ là tai tôi phảng phất tưởng nhớ mà thôi.

Chương XXII

Đường về tỉnh, bây giờ mới để ý xe của Khế len lỏi giữa những xe máy, xe tải xuôi ngược, che đậy bịt bùng. Chốc cái bạt lại tốc lên. Những tủ lạnh, quạt điện, máy khâu, các máy móc gì nữa, quần áo vải len sặc sỡ. Thấy nói ngoài khơi biển Diêm Điền có một cái chợ trời, tàu các nước chở hàng lậu đến đậu từng đám. Hàng trăm thuyền ra rút hàng suốt đêm.
Cái năm tôi qua thành phố Đaét Salam nước Tandania, trên vỉa hè người đứng bán từng đống xống áo cũ, hết mốt. Tôi về đã viết một bài báo chễ riễu châu âu đương mở mang công nghiệp tống phế thải sang thị trường châu á, châu Phi. Nhưng ở Việt Nam không thèm những cái bần mắt ấy. Bây giờ thì những cái bẩn mắt ấy tràn khắp chợ thì quê ta.
Viết đến đây, tôi vẫn đương ở Đà Lạt. Tháng chín, thành phố cao nguyên mưa và lạnh. Tôi không đem theo áo ấm, cháu My xuống chợ mua cho ông cái áo bludông vải xám có dọc kẻ đen như áo tù. Tôi đương mặc cái áo ấm cu người mới ta ấy và ngồi viết. ở đây nhiều người đã phất lên, cũng như mụ Sự kia béo mầm chỉ nhờ những cái ôi thối của thiên hạ. Lại những tình cờ, phải chăng. Những sa sút của Sự, ngày tàn tạ của Vêrônica, cái chết của Madari, bước đường phiêu bạt không thể định trước của Platôn Thành, ông Ngải vẫn ngồi ở búi tre lép, không biết đến bao giờ.
Đường tấp nập đông, khi trở về bao giờ cũng ngỡ như nhanh hơn. Chẳng mấy lúc đã qua phố huyện.
Khế tự dưng hỏi tôi- câu hỏi như kết luận những quan sát của Khế từ hôm qua.
Bác là nhà báo à?
- ừ
- Nhà cháu ngày trước cũng có người đăng báo, bác biết không?
- Tôi biết thế nào được!
- Bài báo Bà ký Đường ấy mà!
Tôi giật mình, nhúc nhích cả sợi dây chằng ngang lưng. Cái truyện ngắn của Nguyễn Khắc Mẫn đăng báo Ngày Nay, một chuyện có thật. Tác giả đã đi hát ả đào phố huyện Vũ Tiên đầu tỉnh. Nhà hát bà ký Đường được tiếng không phải vì sang, vì người đẹp hát hay mà vì nó không giống kiểu các nhà hát khác.
Ông ký làm sư lục lộ, kém mắt, bị mất việc. Ông ký về mở nhà hát, làm kép đàn, bà ký và cô con gái hát. Nhà hát bà ký Đường không nuôi đào rượu hầu hạ ôm ấp khách. Không có chầu mặn chè chén và khách ngủ lại đêm. Hát chầu chay xong, chi tiền rồi- khách ra về. Được tiếng mà lại vắng khách, cái nhà hát còm cõi ấy.
Ông Dương một ta giỏi võ làng tôi, chủ xe ôtô con thỏ Mỹ Mâm thuê đứng chùm du côn tranh khách đường Thái Bình- Hà Nội. Chúng tôi hay xuống chơi với ông, có khi dăm bứa nửa tháng. Tôi kể ông nghe cái truyện ngắn Bà ký Đường. “ừ, có cái nhà hát bà ký Đường. Chỉ nghe hát suông rồi cút, chán bỏ mẹ. Chúng mày muốn đi thì tao cho đi". Ông Dương bảo thế.
Rồi tôi được rõ hơn lai lịch nhà hát này cũng không phải chỉ một màn “chán bỏ mẹ", như ông chùm du côn làng tôi nói khinh thế. Hát cô đầu phố phủ, phố huyện ở đâu cũng tẻ nhạt- dẫu sao cũng chỉ là nơi chốn ăn chơi cò con của mấy ông chánh lý có việc quan, những đám kiện cáo bên nguyên bên bị có máu mặt lên công đường và những dịp sưu thuế. ở Vũ Tiên, đất này có nghề nhà trò hát cứa đình cửa đền, đến mùa đám thứ thì đi hát thờ, có khi gặp dịp vào hát trong dinh quan bố, quan thương, quan án. Đã tàn tạ rồi, nhưng còn giữ lề. ả đào Vũ Tiên vẫn có nếp, còn kiêng: hoa là huê, lễ là lỡi, liễu thì hát là lão... còn giữ hơi giữ tiếng con nhà nòi họ Tam, họ Ngàn tử xưa nghề hát.
Chúng tôi được lang võ sư Dương dẫn đến nhà hát bà ký Đường. Đúng như Nguyễn Khắc Mẫn đã tả trong cái truyện ngắn. Nhà phố huyện, vườn thưa hai bên bờ rào. Mái ngói, vách dứng chát vôi cát. Có hai gian, gian ngoài làm nhà hát. Ông ký khoảng trong ngoài năm mươi, người gầy kheo khư, cổ lộ hầu, áo the khăn xếp. Ông ngất ngư nghiêng ngả cả người vớt hai bàn tay khô đét nắn phím gảy tửng tửng cây đàn đáy ba dây. Võ sư Dương kể lão ký Đường nghiện nặng, trước làm cai phu sở đạc điền ca đát, người ta gọi tôn lên chân ký lục. Nhà hát tiêu sơ thế này đào đâu ra tiền mua thuốc ty, lão chỉ nuốt sái, càng gầy rộc, mà lại hay ghen, bởi vì bà ký Đường còn mẽ người, bà vấn khăn sa tanh bỏ tóc đuôi gà, ngồi xếp thẻ hai đầu gối quần lĩnh. Tiếng hát khi thánh thót khi dịu dàng trong khổ phách mau thưa. Chúng tôi đã cơm rượu từ chiều ngoài hàng ở bến xe, như mọi khi. Tôi không biết cầm roi chầu, nhưng cũng nghe biết ông Dương say cứ gõ tom chát loạn xạ. Cả nhà có ba người đều phục dịch vào hầu chát. Cô con gái vừa đun nước, lại mời nước. Cô mặc áo the nâu, cô còn nhỏ nên vấn khăn lượt chưa bỏ đuôi gà. Cô hát hàng hoa nhẹ nhàng đỡ mẹ những bài dễ, khi mới khai trống chầu, nào Bầu trời cảnh bụt... nào Hồng hồng Tuyết tuyết... Cô bé chừng mười ba mười lăm tuổi, người mỏng như cái đóm, lại có cái tên ngồ ngộ, cô Thẹn.
Tôi cũng chỉ đi “che tàn” theo ông du côn cho biết, nhớ đâu được cái nhà hát sài đẹn này. Tối hôm ấy ông Dương cũng chỉ đánh trống nghe hai ba bài rồi kéo chúng tôi về. Bây giờ bỗng dưng nghe nói tên “bà ký Đường”, lại đương về qua Vũ Thư rồi...
- Bà ký Đường là thế nào với Khế?
- Bà cháu, ông ạ. Bà cháu mất đã lâu, cháu cũng không biết mặt.
- Mẹ cháu tên là Thẹn, phải không?
- ối giời ôi! Sao ông biết tên cúng cơm của mẹ cháu, sao...
Mặc cho anh chàng cứ kêu giời rồi sao... sao. .., tôi không trả lời. Có gì mà trả lời, những chuyện nhà trò cô đầu đã xếp xó, như tuổi cậu này bấy giờ còn ở trên trời dưới âm phủ mô tê nào, biết đâu được.
Chao ôi, lại một tình cờ giữa đường...
Về đến thị xã, Khế ôm nhất định chưa nhận tiền công tôi trả mà nằng nặc “mời bác vào nhà cháu... mời ông... Ông ở chơi với bà cháu, với vợ chồng cháu, mai hẵng về. Mà bây giờ đã trưa rồi, ông cũng đến đi tìm nhà trọ chứ đi đâu".
Khế đoán đúng, tôi đã tính ra cầu Bo lại vào những cái hàng cơm chứa trọ trên bến. Thế là tôi theo Khế về nhà ở phố huyện cũ. Có lẽ vẫn chỗ cái nhà hát bà ký Đường năm xưa mà tôi không thể nhận ra.
Khế sắm nắm đi, lúc đèo lúc dắt, hớn hở ra mặt.
Tôi cũng chẳng có kỷ niệm gì ở đất này, chuyện “bà ký Đường” thì vì Khế nói đến mà nhớ. Có lẽ mỗi khi qua Vũ Hiên, Thư Trì lại nhớ anh bạn vong niên Vũ Đình Cự nhà vật lý chất rắn cự phách đã cùng anh em trổ tài hiện đại kết hợp với thủ công phá thuỷ lôi Mỹ thả vây cảng Hải Phòng. Chẳng biết anh chàng đã lấy vợ chưa, hay không. Và tôi nhớ bài thơ Xuân Diệu vàng ngời những vườn hoa ngâu chín làng Thuận Vi.
Biết đâu Khế chẳng nghĩ ráng mẹ Khế gặp tôi thì có thể hai cụ đã thế nào với nhau ngày trước.
Ôi, tôi lại nhớ chuyện Hoàng Trung Thông viết bài giai thoại trên báo Văn Nghệ về Hoàng Trung Thông và Nguyễn Tuân sang chơi Lỗ Khê huyện Đông Anh.
Lỗ Khê, một làng nghề ả đào. Nguyễn Tuân hỏi thăm một danh ca có tiếng ngày trước hát ở Khâm Thiên, người làng này. Bà con nói cụ nhà trò ấy mất rồi.
Đêm ấy trời sầm sập mưa, Nguyễn Tuân uống rượu gõ chiếc đũa vào lưng cái bát làm trống cầm chầu và Nguyễn Tuân hát, nước mắt ứa ra. Hoàng Trung Thông đã viết lại cảnh ấy. Bạn đọc có thể ngậm ngùi với người đãng tử một thuở đưong khóc cố nhân.
Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tao có nhân nghì nhân ngãi gì với bà ấy đâu.
Biết thì hỏi thăm vậy. Nghe chuyện bả bị bắt lúc cải cách ruộng đất, bả đã thắt cổ chết thì tao nghĩ thương cho một cái tài hát kiếm được ít tiền tậu mấy sào ruộng lại phải chết vì cái tài ấy. Thương là thương thế!
Tôi hỏi:
- Hoàng Trung Thông không biết như ông?
- Nó biết. Nó cùng nghe mọi chuyện với tao. Nhưng nó viết thế thôi. ấy đấy!
Hai chữ “ấy đấy” ai hiểu thế nào thì mặc lòng.
Cái nhà của một người đi kiếm tiền ở nước ngoài về như Khế có đầu óc thu vén thật chỉn chu. Nhà một tầng- giàn hoa ti gôn đỏ hây trên đầu tường phủ xuống trước cửa, phảng phất dáng một căn nhà nghỉ ngoại ô Beclin- hay là tôi tưởng tượng ra thế, nhưng dẫu sao cũng là một gian phong quang, nhẹ nhõm được mắt.
Dắt xe vào giữa sân, Khế nói to:
- Bà ơi! Có khách.
Một bà lão ngồi cái chõng trong nhà ngước mặt ra. Cái nhìn của một người kém mắt, nghe cũng là nhìn, như ông Ngải.
- Ai thế?
- Chào cô Thẹn
Bà lão đứng lên, nghẹn ngào, mếu máo:
- Ông nào...
Trong khi Khế dựng xe vào tường hoa, hỏi mẹ:
- Nhà con trưa nay có về không?
- Có, nó vừa ra chợ.
Rồi Khế nói bô bô, như mọi việc đã xếp đặt cả.
- ối giời ơi, từ hôm qua đi với ông, con sướng quá. Các cụ ngày xưa cũng lắm chuyện chứ chẳng chơi. Thế nào con cũng phải giữ ông ở lại đây xơi cơm với bà cháu, với vợ chồng cháu. Mai con lai bố về tận đầu ngõ trên Hà Nội. Con phải bảo nhà con về sớm làm con vịt đánh chén mới được.
Rồi Khế vào trong nhà, nhấc điện thoại, gọi ríu rít.
Tôi nắm tay bà lão, đốt ngón tay lạnh ngắt- cái cô bé đun nước, mời nước, hát hàng hoa tiếng e é chua như mèo rên ngày xưa đây. Hàm răng móm làm cho môi và cằm rúm trũng xuống. Nước mắt bà lão chảy ra, không biết cái nước chết lưu niên ở hai con mắt lòa lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên mí, hay là nước mắt. Cô Thẹn ấy nhỏ thó, gày rạc, cái bóng ngày xưa ngồi sau lưng bà ký Đường đợi hát đỡ mẹ, tiếng đàn đáy lắc lư.
Cô Thẹn ngày ấy đây. Bà lão vẫn nắm tay tôi cất giọng phều phào, rè rè:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Câu Kiều này, đầu mùa đông 1959, Nguyễn Đình Thi đã ghi sổ lưu niệm bảo tàng L. Tôn Tôi trong điền trang Jasnaia Poliana ở Tu La.
Mỗi khi mơ màng lại cái chuyến về Thái Bình này, là thật hay chiêm bao. Hai câu lẩy Kiều tình nghĩa kia đã thấy ở Tu La hay đã nghe cô Thẹn, bà cụ Thẹn nghẹn ngào.
1997, Đà Lạt
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
CHIềU CHIềU
Tô HOài
NHà XUấT BảN hội NHà VăN
65 Nguyễn Du. Hà Nội- ĐT. 822235
Chịu trách nhiệm xuất bản:
NGô VăN pHú
Chịu trách nhiệm bản thảo:
BùI HòA
Biên tập.
VươNG TRí NhàN
Trình bày bìa:
- - - - - - - - - - - - - -
Sửa bản in:
NGUYễN SôNG ThAO
In 1. 000 cuốn, khổ 13x19cm tại Công ty In KHKT- Hà Nội.
Số in: 181- Giấy đăng ký kế hoạch XB số: 3l123lCXB
In xong và nộp lưu chiểu quí II năm 1999

Cát bụi chân ai

Chương I

Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi. Trước kia, tôi không quen Nguyễn Tuân.
Quãng đầu thập kỷ bốn mươi, báo Hà Nội Tân văn, báo Chủ Nhật mới in của tôi mấy truyện ngắn: Nước lên, Mê gái (Con gà ri), Bãi ô-tô, Một đêm sáng giăng suông. Hình như Nguyên Hồng đã chỉ cho tôi biết Nguyễn Tuân đương lững thững bên kia hè đường Bờ Hồ. Những tiểu thuyết Thiếu quê hương đương in từng kỳ trên tuần báo Hà Nội Tân văn và những truyện ngắn của Nguyễn Tuân đăng các báo Tiểu thuyết Thứ bảy, Tao đàn, Thời vụ, Bạn đường cũng có phần hơi hướng dấu vết trong chữ nghĩa bước đầu đời viết của tôi mà Vũ Ngọc Phan, ở sách Nhà Văn Hiện Đại đã đe tôi nên dè chừng cái giọng khinh bạc học đòi ấy.
Đi bên này hồ Gươm thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà hàng Hoàng Gia, cái quán rượu kiểu Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn chơi chua khác đời. Khăn lướt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định. Năm ấy, Nguyễn Tuân cũng chỉ khoảng trên ba mươi đôi chút. Ngoài đường phố chẳng ai ăn mặc kiểu cách khác thường thế, nếu không phải quan tri phủ, quan thương tá ngồi xe nhà, áo sa phủ áo gấm, áo đoạn, vừa ý tứ vừa khoe chiếc bài ngà dây kim tuyến thấp thoáng trong ngực áo. Quán Tavec Royan này chỉ Tây lui tới. Bên trong, nhảy đầm, dàn nhạc. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát vươn cổ cò trên cái đại vĩ cầm cao ngang mặt người chơi, những tiếng nảy ra rên gầm gừ.
Nhưng những con người dị dạng này cũng chẳng làm khác mắt mấy cái thành phố không còn đìu hiu, vài năm nay đã nhốn nháo bọn dựa thế Nhật, đầu trọc để trần, áo ka ki ống tay rộng vàng nhạt đi ghệt da cao, lầm lì và nhâng nháo. Chẳng đoán được, Nhật thật hay Nhật mỹ ký. Rồi thì tôi xem Nguyễn Tuân đóng vai người đi săn ở kịch Ngã ba của Đoàn Phú Tứ. Tôi thấy Nguyễn Tuân thoáng mấy giây một cái bóng người y tá khiêng cáng trong phim Cánh đồng ma của Đàm Quang Thiện.
Cũng thấy chán. Nhưng đọc bút ký Một chuyên đi viết về Hương Cảng thì bâng khuâng nhiều. Mấy lần ở cuộc họp tổ bí mật, nghe Như Phong báo cáo thuyết phục Nguyễn Tuân vào Văn Hóa Cứu Quốc, chưa có kết quả. Nguyễn Tuân bảo Như Phong : ở Hà Nội này, đứa nào Việt Minh, đứa nào tờ-rốt-kít, đứa nào Đại Việt, Quốc dân đảng, đứa nào bố láo cách mệnh mồm khoác lác, đứa nào ăn tiền mật thám, tớ biết cả. Nghe nói tợn tạo trắng trợn, Như Phong mượn một quyển sách rrồi ra về.
Những cái biết của tôi về Nguyễn Tuân hồi ấy chỉ mang máng thế.
Đem cái duyên đẹp đẽ mọi bề quàng cho Nguyễn Tuân có thể chưa kín nghĩa, mà cũng không hẳn đúng. Về văn và cả về đời. Có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh khạng. Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong thang thuốc bắc, ghẻ bổ một tý, lại vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu đựng được. Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ.
Nhớ lại năm ấy, ở gian hàng quà chợ Đồng Xuân còn cái bà nạ dòng khăn nhung áo cánh phin nõn đeo chuỗi hạt cẩm thạch phơn phớt xanh - hàng bún thang ngon có tiếng. Chỉ một bát thang con bún lá, giọt cà cuống thơm một cách khó chịu mà lại không có không được, cũng có thể viết lên một cái gì. Nói bâng quơ, chẳng ra nhủ mình, chẳng ra cho người khác. Những cái ấy phải viết, viết. Như những đêm áp tết, năm cùng tháng tận, lại lấy ra mấy cái đĩa hãng Pa-thé mua được ở chợ Giời, mà nghe ả Đàm Mộng Hoàn... Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán... Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong... Thế nào ông ấy cũng lại nói: Cái hơi của Mộng Hoàn thì sang, nhưng không đẹp bằng giọng bà Chu. Phải viết, cái này phải viết thôi. Những năm về sau, Nguyễn Tuân vẫn làm việc cho viết, khắc khoải sự viết, mà không viết bao nhiêu. ở đây nữa, chính bởi hơi sức và trong tâm sự. Phải đến Nguyễn Tuân viết ra thì cũng một vùng phố xá ấy mới thành tên gọi, mới thành Phố Phái - hai chữ của Nguyễn Tuân sáng tạo đặt tên cho tranh Bùi Xuân Phái. Và trong cuộc chơi, ông cửa hàng trưởng Bôđêga, chú nhà bàn, nhà bếp khách sạn Thống Nhất hay bác Chữ bán cháo gà gõ ống thổi làm phách hát ả đào giọng chèo ở ngã sáu dốc Hàng Kèn, hay khi lên chơi nhà ông Ba trên Nghĩa Đô thì dẫu cho Nguyễn Tuân chưa hề quen, cũng không phải là trùm trò, các chủ quán, chủ nhà đều trân trọng như ông ấy mới là chủ cuộc. Cái duyên ấy xưa nay vẫn như một.
Những năm trước 60, cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng lắm. Những cây sấu, cây sữa cũng chưa như mấy năm sau phải một trận bom Mỹ đánh sập hai ngôi nhà và mấy gốc cổ thụ. Bờ hè dưới hai hàng cây hiu hắt khơi lại cảnh xưa cũ, còn cái bờ tường đắp dòng chữ xi măng nổi Phúc Đình cha, tên hiệu thuốc sốt rét nổi tiếng một thời. Nhớ Cây Thị Hàng Kèn đầu Lê Lợi, cuối Hàng Giò nhiều hơn tên phố mới, đối với chúng tôi. Mấy hàng phở gánh và quán cóc. Nơi ăn đường ăn chợ này không chè chén xô bồ như trên ngõ Sầm Công, chim quay Tiểu Lạc Viên, cà phê phin Ca, cà phê đá Lý Hảo... cũng không ví được với cơm tám Tân Việt, Việt Hương quanh chợ Hôm gần đấy.
Dốc Cây Thị không còn cây thị, hàng quán chỉ rải rác có buổi. Ngồi đây, đầu phố Hàm Long nhìn sang sở Văn Tự, tưởng như lão Tàu Bay còn gánh phở bán buổi sớm. Cũng cạnh đấy, bên dãy nhà mà thời tạm chiếm Pháp đặt đài phát thanh Con Nhạn của quân viễn chinh, hồi Tiền Khởi Nghĩa, đội AS (ám sát) của Việt Minh đã bắn chết Thiên Nga, nữ đặc vụ của Nhật trong quán cà phê này. Nhưng không phải chỗ hàng cà phê của ông cắt tóc ở hợp tác xã chỗ ngã sáu mới về mở, đêm B52 ấy, một vỏ tên lửa rơi gãy võng cái mái hiên. Những biến thiên của con người phố xá, chắp nối lại mà chỉ có ngòi bút Nguyễn Tuân mới phát hiện cho người đọc thấy được những lăng cạnh gốc gác, như muôn vật trong trời đất, khác nhau mà lại dính líu với nhau. Những ngã năm, ngã tư, ngã bảy, người đi lại sinh ra đường cái và mọi sinh hoạt, làm ăn, đắp đổi, người hút thuốc lào thì có người bán đóm, phường chợ thì có người đóng đinh đế giày, ông bán hàng nước chè tươi, ông lão chữa giày dép với khách dừng chân.
Phở Tàu Bay - mà bây giờ ở Sài Gòn có vài ba quán của các bà phòng nhất, phòng nhì và con cháu ông Tàu Bay đã quá cố, cũng đôi chút phảng phất mùi vị phở Bắc, gánh phở ông Tàu Bay xưa đỗ cạnh dốc bên gốc cây thị đầu sân vào sở Văn Tự - không biết tại sao người qua đường lại đặt tên công sở ấy là sở Văn Tự. Có lẽ cũng như chỉ tình cờ một câu bông đùa cái mũ da lưỡi trai hơi dài khác thường của ông hàng so sánh với chiếc mũ phi công mà thành tên phở Tàu Bay, một hàng phở gánh buổi sáng. Thời ấy, sáng, trưa, tối đều đặn cho người ăn quà phở mà không phải là dùng phở đến no. Hiếm cửa hàng phở, hiệu phở, rặt phở gánh, chuyên phở nước. Phở hiệu xào ròn, xào mềm, tái lăn, sấm vang, bát phở bên đĩa mùi, húng và cút rượu trắng. Phở gánh, món quà nhẹ. Ngủ trưa dậy, tối khuya trước khi đi ngủ. Không ai khai tâm chén rượu lúc ăn phở bát. Thịt bò chín từng tảng, cũng chưa rạch ròi mấy chỗ nạm, gầu, mỡ hay nhừ. Trong cái bát chiết yêu loe miệng thắt đáy, nước dùng bốc khói mà trong như nước mưa li ti nổi chút váng mỡ vàng, lơ thơ mấy lát hành hoa, rau mùi. Làm bát nào, thịt thái bát ấy. Đảo phở, bánh chồi lên quá, bánh chương, ăn phải bỏ dở. Nhưng đạo ăn phở của Nguyễn Tuân có cách riêng.
Trong lòng và vỉa hè ngã sáu quang đãng cứ khoảng mười giờ tối trở đi mới lập loè hàng quán. Những tối thứ bảy, từ đầu Hàng Đào xuống Tràng Thi, đến tận chợ Đuổi, mọi ngã ba ngã bảy đều kê bục, cắm cờ. Các đoàn văn công nhảy xạp ràm rạp. Tiếng Trần Chất hát Chiếc khăn piêu đến đinh tai trong loa. Người xem chen chúc lúc ấy mới vãn. Đội quân cảnh đeo băng đỏ đã bắt đầu đi tuần đêm thiết quân luật. Các gánh lục tào xá cháo gà phải hai ba giờ sáng mới hết hàng. Đã quảy về còn có người gọi theo. Bình yên, chẳng ai nhớ thành phố hãy còn phải quản trị theo chế độ quân sự. Dọn hàng quá khuya đã thành lệ.
Khi có hàng quà, những ngã ba đã văng vắng lại hiện ra bộ mặt khác. Chốc chốc, thong thả qua một xe đạp lênh khênh, tiếng vòng nan hoa quay gió vù vù. Cái xe trâu Trung Quốc nặng như cùm được người ta vác từ chiến khu Thái Nguyên Việt Bắc về. Gánh cháo gà bác Chữ đã dênh hẳn xuống mặt đường nhựa. Chiếc chậu nhôm đựng nước, cậu con trai thả chồng bát vào chậu rồi nhặt ra từng cái, khăn lau miết quanh miệng chiếc bát rếch của những khách ăn mở hàng. Rồi bác Chữ thừ ra. Như còn tiếc đám múa xạp lúc nãy hay sao. Bác Chữ cầm chiếc ống nứa thổi pho pho vào cửa lò mới được cời, mẩu củi hồng rực.
Rồi lại quay ra, ngồi lên bó củi, một tay đấm lưng, tay kia gõ cái ống nứa giả vờ điểm tiếng róc phách, chốc lại tom chát đánh nhịp xuống thành thùng bát, miệng ư ừ giọng mũi như rên :
Nam nhi đứng ở trong trời đất
Quyết ăn chơi cho đủ mùi đời
Sự cùng thông bĩ thái tự trời
Sông có khúc con người có lúc...
Bộ quần áo nâu dày mo nang dưới ánh ngọn điện chao lắc lư trên dây giữa đường. Mặt nhăn nhó đăm đăm, chẳng biết đương phởn hay buồn nỗi hóng khách. Chốc lại cầm ống nứa thổi bếp, xong lại rền rĩ: Nam nhi đứng ở.... Tôi không trông rõ thật mặt cái bác cháo gà Chữ ấy ban ngày bao giờ. Như người với ma, nửa đêm đến rạng sáng thì lặn. Bác Chữ nhìn hò háy trước ánh lửa, mắt ấy không viền vải tây điều tất cũng lông quặm. Dần dần người ngợm ở đâu cứ lẩn thẩn ra, như cỗ tam cúc phải đủ xe pháo mã với năm quân tốt hỉn. Gánh lục tào xá lù lù đến ghé cạnh. Cái ông chè đậu xanh lục tào xá thoạt hiện ra thật oai. Như đức Quan Ngài hồi tiền nhật còn ở ẩn kết nghĩa với ông cháo gà Lưu Bị dưới gốc dâu cây sữa xoè tán lá ba tầng ba lọng vàng điềm về sau làm vua. Lão râu đen dài, trán nhẵn hói bóng lên nửa đầu, khi chưa gặp thời thì quảy hàng mà thôi. Nhưng ngắm kỹ, chưa chắc lão đã bằng tuổi tôi băm lăm lúc ấy. Có lẽ chỉ mới năm trước còn thói quen nuôi râu giả già để trốn quân dịch, nhiều người mắt đảo như chớp, nhưng râu ria lõng thõng.
áp chân tường số nhà 81, ông hàng cà phê bít tất. Cũng là trông hình thù mà tưởng ra, cà phê pha vào ấm nhôm, mảnh vải lọc thõng xuống như chiếc bít tất nâu. Ngọn đèn hoa kỳ lom đom giữa mặt chõng tre, ngổn ngang mấy cái ghế con đặt quanh. Khách ngồi xuống, trông lên mới thấy mặt ông hàng lom khom, bóng loáng nắng gió đồng chiêm. Bộ quần áo nâu non nhờ nhếch, dáng ngơ ngơ như đương lẩm nhẩm ai trả tiền, ai lỉnh mất. Nguyễn Tuân không thích cái cà phê hâm nóng đầu đường thế này. Nhưng vẫn thường ghé xe đạp dựng lên gốc cây xà cừ. Không biết có phải chỉ bởi thói quen xưa cũ cứ tối tối, tôi lại rước tôi ra đường!. Những đêm gió lùa rào rạt mặt nhựa, nhồi thêm thuốc vào tẩu, ngồi tránh vào bên gốc xà cừ gồ ghề - Nguyễn không chịu được mùi hoa sữa, ghét lây cả cái cây. Chén cà phê sành nâu lồi lõm, có khi chỉ nhấp một ngụm, rồi bỏ lạnh ngắt. Dường như ngại tôi có thể vì ông ấy mà áy náy không biết cà phê hạt muồng hay ngô rang.
Nguyễn Tuân nói: Mặc kệ mình. Cậu cứ việc hồi tưởng. Ông anh nghĩ tôi đương nhắm phía một kỷ niệm đâu đó nên mới ưa lai vãng tới đây, bởi biết tôi vốn cũng lạnh nhạt với cà phê. Vào quãng giữa thế kỷ này thành phố và con người đều trải nhiều quãng đời chằng mắt xích với nhau. Tôi cũng như vậy. Tôi đến cái ngã năm, ngã sáu này không phải ngẫu nhiên. Mười năm trước, ven hồ đằng kia, còn những toà biệt thự mọc lên giữa những bụi chuối um tùm. Mặt trận đã lan đến đấy, tan hoang cả. Tôi làm phóng viên của báo Cứu Quốc thường qua lại đây, khi xuống tuyến phòng thủ phía chợ Mơ. Có hôm ngủ đêm lại trong ngôi nhà bỏ không. ở chỗ chúng tôi đương ngồi, tiếng súng và người núp ngã xuống bên mỗi gốc cây. Báo Thủ Đô đăng tin chiến sĩ Nguyễn Thành ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch từ hồ Thiền Cuông tới. Quả bom đầu tiên của quân giới ta tự tạo có lẽ được tung ra ở chỗ kia đấy. Thành phố đương tổ chức tìm đào hài cốt liệt sĩ và người chết đường. Ban ngày, trên vỉa hè đặt hàng dãy những chiếc tiểu khói hương nghi ngút.
ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lét ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và lửa bếp thùng cháo bác Chữ. Mấy cái xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng có thể đoán được tông tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy Tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở ta hốt chết trốn vào thành, trẻ hơn và đỡ lầm lì, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia. Nguyễn Tuân bảo: Cậu có để ý đường phố bên Bắc Kinh lúc gần sáng, những xe la, xe lừa bánh gỗ cao lênh khênh, những lão đánh xe đầu hói như quả dưa hấu ngồi ngất ngưởng trên đống củ cải, vẫn oai phong chẳng khác Tưởng Giới Thạch, Uổng Tinh Vệ thất thế! .
Tôi bàn theo:
- Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định là tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi:
- Có nhớ Két không?
- Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
- Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.
Khói thuốc trong nõ tẩu phầm phập bốc xanh trắng um lên.
Thì ra, ở cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị mấy chút, chính Nguyễn Tuân mới đương hồi tưởng. ở mỗi cái cùng trông thấy, nhưng từng người lại ngờ khác nhau. Thế nào mà ở đây Nguyễn Tuân lại nhớ tới Két chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949. Chập tối ấy, bộ đội qua sông xuống đò bến đền Đông Cuông gần Mậu A, rồi hành quân suốt đêm vào hậu địch để kịp chiều hôm sau đánh đồn Đại Bục. Tình cờ, chúng tôi gặp lại Két ở Mậu A, Nguyễn Tuân quen Két của Trung đoàn Thủ đô. Chiến dịch ấy, trung đội trưởng trinh sát Két đã hy sinh, nằm lại bờ bên kia sông Thao.
Đi và đi thực và mộng cả đời Nguyễn Tuân. Làm thế nào đi được, chỉ cất đi được. Năm 1937, Nguyễn Tuân ra Hương Cảng làm tài tử màn bạc. Phim truyện Việt Nam, chủ Trung Quốc thuê một số người ở Hà Nội sang đóng. Tôi đã xem Cánh đồng ma ở rạp Hiệp Thành phố Hàng Bạc - rạp chèo cải lương, thỉnh thoảng chiếu phim phong thần, kiếm hiệp bán vé một hào đồng hạng. Phim Cánh đồng ma đầu Ngô mình Sở. Nguyễn Tuân đóng một vai phụ - có thể lôi người đi ngoài đường vào sắm vai cũng được, đấy là người y tá mặc áo lui trắng, nâng đầu cáng thương, lừ lừ qua ống kính chớp nhoáng một hai giây. Có thế thôi, mà Nguyễn Tuân lặn lội sang Hương Cảng trong lúc năm hết tết đến.
Cũng không phải chơi bời đua đả. Đám hổ lốn đóng phim còn lục đục lừa nhau, chửi bới nhau vì các chủ phim tranh nhau xé đám phu mộ đóng phim này đã làm thêm phim Trận phong ba tồi quá gửi về nước tranh khách trước nhưng không có người xem. Nguyễn Tuân ở trong đám phu đóng một phim. Cũng không ăn cánh với ai. Bà phô tô Phú ho lao gày rạc dâm đãng đến quái dị, chùm trò Đàm Quang Thiện và Nguyễn Doãn Vượng, điểm mặt cũng không phải ai tri âm tri kỷ khiến Nguyễn Tuân phải đắm đuối bỗng dưng lênh đênh đi. Mà cái thúc giục vẫn là những cơn đói đi của mình. Không khó không dễ, không biết ai, chỉ biết một mình. Nguyễn Tuân muốn đến Hương Cảng, nặng nề và nhẹ nhàng, thế thôi. Trong đêm trừ tịch ở hòn đảo phồn hoa nhất châu á, hứng thú và buồn với hồn cốt những trang bút ký Một chuyến đi, chỉ có tâm sự ấy đã giục giã nhiều.
Một đời ao ước phương trời với một cung cách đi. Trong tiểu thuyết Thiếu quê hương, cả một chương mười mấy trang về vùng than với những cảng Rơđông, cửa Điền Công, những cơn gió ngoài vịnh vào đen nhuyễn màu than trùm lên phố biển Hòn Gai. Hồi ấy, Mộng Tuyết - Đông Hồ trong Hà Tiên ra chơi Hà Nội. Hôm về, Nguyễn Tuân tiễn ngoài ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân có viết về cuộc tiễn biệt ấy trên báo Bạn Đường ở Thanh Hoá, đã cười tiên sinh Đông Hồ, tàu sắp chạy, mà vẫn cùng bạn bè lắc lư ngâm vịnh thù tạc suông không có chén. Còn cô Mộng Tuyết thì lại khéo tưởng tượng ra như trông thấy con người ấy hôm nào mới ở vùng gió than, bão than còn cuốn theo đến tận sân ga. Trên khuôn mặt cháy nắng của người lữ hành, hai lỗ mũi cũng xám đen những than là than.
Cô con gái làm thơ ở Phương Thành nhìn Nguyễn mà cảm động, bởi từ xưa kia cô đã ước mơ thèm một hơi gió lạ, khát thở một bầu không khí trời, nước lênh đênh hàng tháng trên biển cả để rồi đổ bộ trên một bến bờ xa. Trải qua khắp kinh tuyến, vĩ tuyến của địa cầu, để đi tới chỗ bốn mùa tuyết rơi, băng đóng đến vùng sa mạc gió nắng lửa than, trèo tuyết núi Hy Mã Lạp Sơn lạnh cóng và tắm nước sông Hằng, vượt biển Đại Tây dương, qua Hy Lạp, rồi trên lưng lạc đà xem Kim Tự Tháp rồi trở lại thưởng hoa anh đào trong một ngày hội ở Nhật Bản. Ngày hè thì lưu liên các vùng bãi biển ý Đại Lợi. Thu về thì ngồi xem lá vàng rụng theo các pho tượng của Lúc Xem Bua. Bao nhiêu tiếng gọi của Cao Rộng Xa Xăm đã thúc giục ám ảnh mãi lòng thích sống một cuộc đời bấp bênh có nhiều xê dịch, biến đổi của thiếu nữ. Cô thiếu nữ mà ngày còn thơ đã có ý muốn đi tận chân trời. Thuyền khách sông Hương đêm thất tịch. Lạnh lùng trăng nước khúc nam ai... mà ai cảm chung một mối tâm sự não ruột của khách Giang Châu Tư Mã (Trạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, bút ký, Phương Thành một ngày thu muộn 1939 của Mộng Tuyết).
Cũng một nòi tình mơ màng như cô Mộng Tuyết, chỉ có rày ước mai ao, thật ra Nguyễn Tuân chưa đi đường bộ quá Mông Dương và đường nước chưa ra khỏi cửa Điền Công tới Móng Cái bao giờ. Phải đến hơn hai mươi năm sau viết trang sách về vùng than, Nguyễn Tuân mới tới Hải Ninh lần đầu, cùng đi với Nguyên Hồng, Vạn Lịch và tôi. Tưởng như khó tin, mà sự thật như thế. Thiên bút ký mênh mang sóng biển Cửa Đại kia, đọc kỹ thì nhận ra phải nhờ tác giả có người nhà ở Cửa Đại, mới đến được. Ngày ấy, Nguyễn Tuân đã viết một truyện ngắn đăng báo Tiểu thuyết Thứ bảy, trên đề: Tặng ông Đỗ Ngọc Côn, nhà máy đèn Móng Cái. Khi này, Phạm Duy làm thợ phụ nhà máy điện, ở nhờ ông Đỗ Ngọc Côn (Phạm Duy: Hồi ký thời cách mạng, kháng chiến - Californie, 1989). Mà ông bạn làm nhà máy đèn Móng Cái ở phố chính Clamoocgăng ấy cũng chưa lần nào gửi tiền tàu xe rủ Nguyễn Tuân ra chơi thưởng thức cái hiu hắt nơi địa đầu. Hàng chữ đề tặng chỉ là một ao ước. Mà phải đến dịp nhờ xe của cán bộ Vạn Lịch, mới ra được bãi Trà Cổ, xuống lái thán ngược sông Mang lên cầu Bắc Luân - Móng Cái, đến Thán Pún - sự bôn tẩu của chúng tôi có công lệnh và dấu đóng giấy đi đường cẩn thận.
Cầu kỳ và khó tính cũng là tính riêng trong cái thích thú ham đi mà không được đi. ở phương Đông còn có cái chơi đi mà không đi, ngồi nhà ngắm tranh sơn thuỷ, nuôi muông thú lạ, uốn cây, gẩy cái lá trúc rụng xuống thế giới bể nước nho nhỏ rêu nổi hòn đá cây si bên hòn non bộ có ngôi chùa mái cong, có chú tiều vác củi qua cầu. Cho thoả cái tưởng tượng mà thôi.
Nguyễn Tuân ở vế người thứ nhất, không phải các ông ngồi rung đùi chơi trời đất thu nhỏ vào cái bể sành và núi non bộ. Mà đôi khi chơi cây cảnh, một chút chắp nối. Ơ hờ, hờn dỗi, bực bội, nhớ thương không đâu gửi vào một nhánh địa lan cánh tím, một con chó đá canh cửa, một quả phật thủ, một hòn cuội suối, một chiếc gối sứ mới đây được bưng ra từ một tiệm hút chợ Cũ Sài Gòn. Nguyễn Tuân chỉ thích đi, nhưng trong mọi sửa soạn còn kỹ lưỡng hơn đi. Mùa hạ năm 1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54 Trung đoàn Thủ đô tiến quân vào mở chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao án ngữ Tây Bắc, các đồn Đại Bục, Đại Phác, Khe Pịa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu Phố Ràng. Chuyến áy, tôi đi cùng Nguyễn Tuân - được làm quen với Nguyễn chuyến đi đầu tiên. Tôi đã ghi lại:
Nguyễn Tuân xắm nắm quanh cái bi đông nước bọc dạ xanh của anh. Lần đầu tiên ở mặt trận, đi lâu với Nguyễn, tôi mới thấy quá nhiều đức tính của người lên đường. Khoẻ, vững, hành trang không thừa, cũng không thiếu một cái gì. Trên lưng, gọn gàng chiếc ba lô Nhật. Một sợi dây nhỏ cũng có chỗ để rồi dùng đến sợi dây. Cuối cùng, mọi thứ giấy má có thể lộ liễu của riêng mình đều phải để lại căn cứ, không được đem theo vào vùng địch. Chỉ một cuốn sổ nhỏ, cái áo mưa, bỏ vào ba lô vừa phải. Một bao cơm nắm, thêm cái thắt lưng lương khô cuốn chéo ngang mình. Đầy bi đông nước, Nguyễn Tuân đã cẩn thận buộc ghì vào thắt lưng cho khi bước đỡ xóc (Ngược sông Thao, phóng sự, Nhà xuất bản Cứu Quốc 1949).
Trong nghề đi - nghề, chứ sao, cẩn thận đã thành thói quen và cầu kỳ đến đam mê. Sửa soạn cũng là khai thác để thưởng thức được chu đáo. Không phải cứ đứng đắn và khôi hài như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. ở trường lục quân bên Vân Nam về, anh Khoát dạy tôi thuật đi đường giữ được dai sức của Bát lộ quân. Nhanh mười bước lại thong thả ba bước, cứ thế cả ngày chân không biết mỏi. Cẩn thận, mọi thứ trên mình và trong ba lô đều gọi thành con số. Ví như cả thảy đồ đạc có mười lăm thứ. Sáng ra, trước khi đi đếm chỉ có mười bốn. Thế là còn thiếu một. Rõ thật buồn cười, nhưng nếu cười, anh Khoát không bằng lòng. Mọi cẩn thận của Nguyễn Tuân thiết thực hơn, nhưng không thành con số như trên. Ngòi bút chì gài trên túi áo, ngồi đọc cũng ghi lên sách. Không biết đến thế kỷ nào có cái hơn, chứ bút chì trên giấy thì không bao giờ phai. Một tiệp bìa cứng với cái bút chì. Lắm lúc thấy ông bạn đường chịu khó đến vậy, mình vừa để ý, vừa thích vừa ngán ngẩm cho những khó nhọc của nghề đi không biết thế nào là cùng. Lo cho việc đi là yêu đi và biết hưởng thụ đi. Mải mê quên ngày tháng, nhưng tính đếm sửa soạn cho mải mê thì phải nhớ từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy không lẫn với buông tuồng, cẩu thả.
Mà sự chuẩn bị tỉ mẩn của con người muốn khi ta chết đi, da ta được thuộc làm cái va ly cũng khá khác thường. Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi, nhưng vẫn lại là về rừng, lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc màn, không quên chiếc bi đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám các thứ lỉnh kỉnh, một xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy thẻ hương mua thửa ở hàng quen cửa chợ Đồng Xuân. Khánh thành đường mới trên rừng thì nhà khách cũng là mấy cái lán cắm ven đường. Hương chống ẩm, chống muỗi đây. Hương chống muỗi, chứ Nguyễn Tuân kỵ mùi tỏi và không chịu được mùi thơm ở các thứ hương ấn-độ cứ thoang thoảng rờn rợn như có ma lẩn quất trong nhà.
Quả nhiên là những nơi ngả lưng dã chiến ở Hoàng Su Phì khách nghỉ đêm ở các lán dân công, nền đất và phên vách mới được sửa sang lại đôi chút. Tối đến, mùi hương ở lán ông khách văn ngào ngạt ra. Vù Mí Kẻ, bí thư huyện Đồng Văn hỏi nhỏ tôi:
- Nó cúng ma hả?
Làm thế nào cắt nghĩa cho ông bạn người Mông này hiểu cho cái thú chơi sưởi mùi hương như thế. Mới như hôm qua, Vù Mí Kẻ năm trước lần đầu về Hà Nội. Nhiêu khê quá, xe liên vận Đồng Văn xuống Hà Giang, lại chuyển ô-tô khác về Phú Thọ. ở đấy, lên tàu hoả. Đoàn tàu xuôi về đến ga Hàng Cỏ, vẫn ngồi thản nhiên ngắm ra phố phường, đường xá, nhà cửa ngoài cửa toa thấy mãi chưa tới Hà Nội. Khi tàu lên đến Bắc Giang mới hỏi ra.
Tôi bảo Vù Mí Kẻ:
- Không phải bác ấy cúng ma. Bác ấy đốt hương cho ấm như ta ngồi sưởi lửa ở trên quê, lại chết được muỗi. Mùi hương sưởi thơm cũng như khói củi gỗ thông ấy mà.
Có lần, Vù Mí Kẻ về Hà Nội, đến chơi uống rượu nhà Nguyễn Tuân. Tôi nhắc lại chuyện hương sưởi ấm ở Hoàng Su Phì. Vù Mí Kẻ trả lời: Bây giờ nói thế thì mình hiểu ngay.
Hồi ấy, Vù Mí Kẻ không tin câu cắt nghĩa của tôi. Có những việc...
Nhưng thôi, lại trở về chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949. Nguyễn Tuân gặp lại Két - người chiến sĩ trinh sát mà Nguyễn Tuân vừa hỏi tôi có nhớ không, lúc nửa đêm giữa cái ngã sáu bên gốc cây sữa, cây xà cừ này.
Lần đầu tiên, quân chủ lực mở trận đánh phối hợp lớn, mặt trận dài suốt bên kia sông Hồng ở Yên Bái vắt sang sông Chảy, lên Lào Cai. Chúng tôi theo tiểu đoàn 54, đơn vị chủ công của Trung đoàn, Nguyễn Tuân bỗng gặp lại Két, không ngờ, khi qua sông.
Chập tối, tập kết ở Mậu A. Các chiến sĩ quần áo bà ba đen như chúng tôi. Bộ đội được phát như thế nào thì mặc nấy, áo nâu, áo đen, có khi nhuộm lá cơi, nhuộm pin xanh sẫm, thâm xịt. Đã xế chiều, người ngồi đen ngòm sân đền Đông Cuông. Trung đội trưởng Két trong đám chiến sĩ, người hầu bàn nhà hàng Thuỷ Tạ Bờ Hồ năm trước, bây giờ là trung đội trưởng trinh sát đã trông thấy cái ông nhà văn hay uống uýt ky, quăng trô xếch ở Thuỷ Tạ lúc chặp tối sao ông ấy lại lên tận đây thế này. Mà đội mũ vải ka ki xám, mặt lành lạnh như phái viên cấp trên xuống. Két đến trước mặt Nguyễn Tuân:
- Ông...
Nguyễn Tuân giơ cái gậy tre, nắm tay Két.
- Anh Két! Đồng chí Két! Tôi cũng sang sông đêm nay. Đồng chí ở 54 à?
- Vâng ạ.
Chỉ một thoáng, mọi người hối hả về sửa soạn. Suốt chặng đường vào sâu trong kia, Nguyễn Tuân mong gặp lại Két. Như còn bao nhiêu chuyện máy năm qua chưa nói hết. Suốt đêm ấy, mù mịt bóng sương, hơi nước và lầy lội, hầm hập. Liên tiếp, từng chiếc thúng, chiếc tam bản của các vạn chài cả mấy tỉnh từ Vĩnh Yên, Phú Thọ lên Yên Bái đưa bộ đội qua sông. Đi suốt đến sắp sáng, qua mấy làng tề gần đồn Đại Bục, trông lên quả đồi đồn Tây lù lù đây rồi mà tiểu đoàn bộ với các đơn vị trực thuộc vẫn loanh quanh lố nhố dưới ruộng chưa tìm ra nơi ém quân. Du kích địa phương dẫn lạc đường! Chúng tôi lõm bõm trên những cánh đồng nước. Sau lưng, anh nuôi quảy nồi chảo va vào nhau lông chông, như nhạc ngựa đồn Tây ra đuổi.
Ban chính trị trung đoàn có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác và cả hai người Pháp hàng binh thu được trong trận tiểu đoàn 54 luồn sâu tập kích đồn Bá Giang ở chỗ Phùng ra cửa sông Hát. Hai lính Pháp đã lái xe vận tải chạy ra giữa đồng. Bây giờ họ làm công tác địch vận. Ra trận, mỗi gã đeo một cái loa giấy bìa các tông dài ngoằng như chiếc sừng trâu. Mấy hôm trước đóng quân tập kết ở bàn đạp. Mỗi ngày mổ lợn, các cu cậu được anh em thương tẩm bổ thêm cho miếng gan, quả tim ngoài xuất ăn. Hành quân ban ngày từ Phú Thọ qua dọc sông lên, dưới mưa rào vẫn đi. Hai người Pháp gày nhẳng, tóp lại, cao lêu đêu, tóc ướt bết trán, vai nhô lên, cung cúc như con gà chạy mưa.
Nhưng rồi tất cả cũng lên được một quả đồi nứa um tùm, trước khi trời rạng. Vừa tới lưng dốc đã ran tiếng súng dưới ruộng. Tiếng nổ lúc sáng bạch nghe toác toác như cháy rừng nứa. Có người làng ra làm đồng sớm thấy nhiều vết chân lạ dẫm nát lúa mới cấy. Sợ quá, về bẩm chánh tổng, chánh tổng lên báo đồn. Quan đồn đoán đêm qua có du kích về. Sắp đến ngày 19 tháng 5 kỷ niệm của Việt Minh. Đồn cho một tiểu đội lính Thái ra sục các đồi. Bọn lính Thái với người cai Tây cởi trần, xách súng, bắn vào bụi rậm rồi hô nhau xông lên. Thế nào mà chúng nó lại lên đúng đồi ban chỉ huy tiểu đoàn và cả ban chỉ huy Mặt trận.
Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng cho hai tiểu đội xuống chặn. Lệnh: Tuyệt đối không lộ hoả lực mạnh, chỉ được bắn súng trường, phát một. Nếu giáp lá cà, đánh dao găm.
Chúng tôi ngồi xổm cạnh bụi tre xế đỉnh đồi. Ngổn ngang gồng gánh, những càng chân SKG - súng không giật, từng bộ phận súng cối chưa lắp và những đùm lá cọ trong gói từng chồng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Thái. Hai người pháp địch vận mắt xanh nhờ đứng chơ vơ như hai cái cột. Giữa im lặng thấp thỏm, không biết bao nhiêu con người núp trong cỏ, trong bóng lá những quả đồi có thể sắp nổ tung trong ánh nắng. Nguyễn Tuân chống hai tay lên chiếc gậy tre, lom khom nhìn xuống đất. Tôi ngồi không yên chỗ, lại nhấp nhỏm đứng. Quái đản, Tây sắp đánh lên đây mà lại có hai thằng Tây lù lù cạnh mình thế này! Đại đoàn phó Cao Văn Khánh - chỉ huy phó chiến dịch đến bên, nói nho nhỏ, trấn an chúng tôi:
- Đạn không bao giờ dính tôi! Các anh ngồi yên đây, không có gì phải lo.
Câu nói nửa đùa nửa thật về cái mệnh con người. Nguyễn Tuân đã gặp Cao Văn Khánh trong chuyến đi Nam Trung bộ giữa năm 1946. Cũng năm ấy tôi vào mặt trận phía Nam cùng Cao Văn Khánh và Thu Sơn đã làm một chuyến đi ngựa từ Tuy Hoà qua Củng Sơn lên tiền tuyến Cheo Reo. Đã biết nhau và câu nói thân mật của con người trải trận mạc có tác động tâm lý. Tôi cảm thấy thánh thơi hơn, không bị hút vào sự im lặng ghê rợn. Chỉ còn thấy hai người hàng binh Pháp lớ rớ loay hoay cạnh bụi tre. Họ cũng tự biết chớ có loanh quanh đi lại. Chiếc loa giấy khoác bên nách chốc chốc lại đổi bên lắc một cái. Những con ruồi vàng bụng mọng máu to thô lố ở ống chân lông lá lăn xuống. Ruồi vàng, bọ chó, gió Than Uyên...
Bỗng súng rộ lên một chặp dưới lưng đồi rồi lại tắt ngay. Trong im lặng, liên lạc lên báo ta đã tiếp cận đâm chết một thằng. Tiếng nổ, đấy là chúng nó bắn chặn để khiêng xác thằng chết về. Rồi cứ im im thế đến quá trưa. Vẫn quạnh như tờ (sau mới biết trong đồn vẫn đoán là sắp đến ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh, du kích đến quấy). Đồn Tây ra lệnh phòng thủ và canh gác nghiêm ngặt hơn. Trèo lên cây đồi bên này, tôi trông rõ những người vác hòm đạn vào lô cốt như kiến tha mồi. Chúng tôi lo bữa ăn cho chắc dạ, ăn cơm nắm, thịt rang, các bếp đã chuẩn bị từ chiều qua.
Mặt trời đã ngả vàng khè trong làn sương các khe núi dâng lên. Năm giờ chiều, giờ này máy bay dưới xuôi không lên nữa. Một tiếng ầm, vang bốn phía. Đại bác ta nã thẳng nổ xanh lè bên lô cốt. Nhưng chỉ đoàng đoàng được vài quả, nền đặt pháo của ta bị lún, pháo câm. Một khẩu súng, ngay phát đầu đã văng cả chốt đuôi, suýt chết thằng Tây địch vận ngồi đằng sau. Nhưng các khẩu cối thì nhả đạn đều đều, tiếng rền liên tiếp. Lương Ngọc Trác ngồi trên cây nhìn sang phía bên trái, kêu lên: Bên Đại Phác nổ súng rồi.
Bộ binh xông lên đồn, lúc ấy trời đã tối hẳn. Khoảng gần tám giờ tối chúng tôi vào được sân đồn Đại Bục, cái chỗ lúc trưa trông sang thấy lính Tây, lính Thái trần trùng trục vác hòm đạn. Bóng tối và khói mù mịt. Bờ rào dây thép gai tan tác. Thằng đồn Tây mặc váy áo giả làm đàn bà Thái chết dưới chân một luỹ đất. Nhưng trên cái lô cốt cao cắm cờ tam tài giữa sân, đạn vẫn nã xuống. Những mũi xung kích chiến sĩ cầm mác dạt được vào núp ngay bên bờ tường lô cốt, chặn bọn trên chòi thoát xuống. Chúng tôi vào làng tề cạnh cổng đồn đương đùng đùng cháy. Không biết lửa du kích chiếm làng đốt hay đạn trên lô cốt bắn xuống. Chiếm được đồn rồi mà khắp nơi cứ loạn xạ.
Cái trống nhà chánh tổng treo đầu hồi ngoài sàn không biết ai đã khiêng ra vứt lăn lóc đấy. Một đám vác xác người chạy qua. Nguyễn Tuân, quần áo đen như hung thần hiện lên, tay cầm dùi trống, mấy chiến sĩ quay ngược nện báng súng vào mặt trống. Cả đám người đánh trống ngũ liên thúc trận hạ lô cốt cuối cùng lừng lững trước mặt. Mấy tên lính Thái gan lỳ vẫn dai dẳng bắn xuống phát một. Nhiều chiến sĩ ta bị đạn tỉa chết. Một tổ tiêm kích bắc thang trèo lên thả lựu đạn vào lỗ châu mai. Im lặng hết trong lô cất. Đã hơn tám giờ tối. Những cái đầu lâu được ném từ trên lô cốt xuống. ở tấm ảnh Hạ đồn Đại Bục trong pho sử Quân tiên phong, giữa hàng quân ta có hai chỗ chấm trắng trên đầu gậy. Đấy là vết hai thủ cấp hai thằng trên lô cất cố thủ.
Nửa đêm, cả ban chỉ huy lên một cái nhà sàn còn sót lại trong xóm xung quanh vẫn cháy rực. Chiếc dùi trống thò một đầu trên ba lô Nguyễn Tuân. Cạnh bếp, một thùng rượu vang to bằng cái vại sành bên gốc cau đã toang một mặt ván. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng, mới chiều hôm qua ở bên kia sông, mặt mắt còn phẳng phiu, bây giờ hàng râu quai nón đã trổ đen ngòm. Tiểu đoàn trưởng giơ bát rượu vang: Đúng hẹn với các anh nhé. Chúng ta vào uống rượu vang giữa đồn Đại Bục. Nào, các anh? Mời ông Nguyễn? Một lúc, Nguyễn và tôi nâng hai bát trước mặt, nhưng không mừng đụng cốc. Chúng tôi vừa được tin về Két, Két đã ngã xuống ngoài lô cốt. Chúng tôi uống im lặng viếng hương hồn người bồi bàn chiến sĩ trinh sát trung đội trưởng Két.
Mấy hôm sau chiến dịch chuyển sang sông Chảy, Nguyễn Tuân vẫn ở lại với 54. Tôi theo đội võ trang tuyên truyền lên các làng Mán Sừng trên rặng núi Voi rồi xuống với Trần Đăng lên mặt trận Phố Ràng.

Bao nhiêu lâu rồi, chúng tôi vẫn thường có dịp thăm hỏi 54, tiểu đoàn em nuôi. Trú quân ở Kép Le, về Lai Xá, ở Hoà Lạc. Luyện quân ở Định Hóa, lửa trại đêm Hà Nội giữa rừng. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952. Lại mới năm trước, cuộc tiễn đưa đơn vị tiến vào đánh bao vây Khe Sanh. Lần lên với đơn vị đóng quân trên Hoà Lạc ở Sơn Tây, thoắt đấy mà ba mươi năm đã qua, cả đoàn người chiến dịch sông Thao bấy giờ còn lại mỗi một bộ đội Sửu thợ rèn, tự vệ Ô Cầu Dền, nay là chính trị viên trung đoàn.
Cái tình với chiến sĩ và với trung đoàn Thủ đô của Nguyễn Tuân tuyệt nhiên không phải ngẫu nhiên. ấy là thói quen đến nơi đến chốn, chăm chút, ý nghĩa của một kỷ niệm. Người con trai lớn của Nguyễn Tuân đã là một trong những cán bộ chỉ huy đầu tiên của đơn vị từ sáu mươi ngày đêm chiến đấu trong lòng Hà Nội ở Liên khu I. Có khi, đi chơi với Nguyễn Tuân và Xuân Trường, người con trai ấy bây giờ là một tướng lĩnh trong quân đội. Chúng tôi về quê Nguyễn Huy Tưởng ở Dục Tú. Ba cái xe đạp thong dong sang Đông Anh. Thời cụ tú Hải Văn bố dắt con vào nhà ả đào Hàng Giấy, đến thời bác Nguyễn, khác mà không khác, cái tình vẫn một cha con ấy. Cũng như khi gặp lại Két trên bến Mậu A. Ông khách kỳ lạ để nhớ vẫn thường khai vị bằng rượu mạnh.
Hai người cũng vào Đại Bục nhưng không bao giờ còn gặp lại người nhà bàn cũ ấy nữa. Mỗi khi ngồi trông ra sóng hồ lăn tăn lẫn bóng liễu, bóng chiều, bóng bia hơi và sáng đèn quanh chân cột sàn nhà Thuỷ Tạ, lại nhớ. Thế mà là thật, những gắn bó xưa sau. Vui chuyện, Nguyễn Tuân hay nói một câu, một câu nói đi nói lại:
- ừ! Phải viết chuyện ấy rồi phải viết.
Những từng trải và kỷ niệm cả đời thúc giục, đã viết ra đấy, nhưng chưa được mấy. Mỗi ngày qua trở thành một thấm thía, khi chợt nhớ, đêm nay ngồi quán cóc ông lão 81 lại nhớ người hầu bàn nhà Thuỷ Tạ Bờ Hồ xưa kia.
Những cái thích và vui ẩm thực của Nguyễn Tuân không chỉ dễ dãi vì miếng ăn miếng uống sang trọng, mà phải là hợp khẩu vị, ngon theo ý mình. Lọ muối vừng, hộp nước mắm chưng, cái gác-măng-dê trữ trên ba lô, thời chiến và thời bình, vẫn thế. Nguyễn Tuân sành ăn và kỹ tính tuyệt nhiên không xô bồ. Nắng oi quá, nhắm rượu mướp đắng giải nhiệt, nhưng không xơi mướp đắng mắm tôm như người ta. Không bao giờ đụng đến mắm tôm chợ. Ăn tinh đến thế, mà lại kỵ tỏi, mùi tỏi.
Tôi vừa đến, mới ngồi đã bị hỏi:
- Có phải cậu vừa ăn tỏi?
Nếu tôi ừ chắc Nguyễn Tuân sẽ bảo tôi đi đâu mai hãy trở lại. Tôi đáp:
- Không phải.
Cái mũi thính có vẻ bớt khó tính với tôi, nhưng lại lẩm bẩm:
- ở nhà dưới lùa lên?
Sợ mùi tỏi, ông voi to đùng sợ con kiến. Cũng lạ, cái lạ mà bình thường. Bài bút ký Phở đã đưa tác giả vào hàng những tay cực thạo món quà này. ít ai biết Nguyễn Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở chín, phở thịt bò chín. Không đụng đũa vào bất cứ thứ phở nào khác. Thịt bò chín, nạm hay mỡ, bánh vừa phải không nẫu vồng lên, không thái săn và thái máy như Sài Gòn mà Nguyễn Tuân gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong, thái thịt lồi bày lên rắc hành hoa và hạt tiêu - không ớt, mặc dù thích ớt cay. Ông nào phở xào, tái sách, tái dúng hay tái lăn, sốt vang lại đập quả trứng, thêm một cục mọc thịt lợn, một miếng giò lụa, hay phở thịt gà, thịt ngỗng, thịt chó rựa mận, thì tùy. Tôi không ăn phở để tẩm bổ. Lùa thật nhanh, ăn thật nóng, lên hết chất phở, thú nhất. Không hành tây, mùi tầu, húng chó, không thêm nước mắm, dấm ớt, tương ớt, không mỡ váng, không mỳ chính, cốt thưởng thức cái tinh tuý của nước dùng xương.
Tập ký Băm Sáu phố phường của Thạch Lam khen cái ngon của một hàng phở gánh đỗ cạnh cây hương trong sân nhà thương Phủ Doãn, bát phở rỏ mấy giọt cà cuống. Cả thành phố chỉ có một hàng phở cà cuống ấy. Nguyễn Tuân thường cười: cái nước chè tươi nóng bỏng môi, cái bánh đậu xanh ngọt xít cổ, lại đến phở cà cuống, cái sự thích của anh nghiện vừa buông dọc tẩu xuống ngon hay không ngon kể cũng đáng viết cho ra nhẽ.
Khoảng những năm 55, đôi lần Nguyễn Tuân còn ăn phở gánh ở tầng trệt nhà Địa ốc Ngân hàng, chỗ quán rượu Hoàng Gia cũ. Hàng phở này mở từ những năm thành phố còn bị chiếm. Rồi đến dạo quà phở thành cơm phở, người thành phở ăn phở lấy no, thì Nguyễn thôi ăn phở. Bút ký Phở cũng là vang bóng một kỷ niệm mà thôi.
Nguyễn Tuân có nhiều cái không thật bất ngờ. Nguyễn chưa bao giờ cưỡi ngựa, không biết ngồi ngựa. Đạo diễn Phạm Văn Khoa làm phim Chị Dậu, Nguyễn Tuân đóng vai chánh tổng cưỡi ngựa đi đốc thuế. Chủ nhiệm phim đi thuê ngựa, phải thuê cả người chủ ngựa đóng vai dõng đứng giữ cương cho ông chánh tổng ngồi trên yên, chưa đến nửa phút. Nguyễn Tuân chỉ đi chơi biển, không tắm biển. Dễ hiểu: Nguyễn Tuân không biết bơi, dù bơi chó hai chân đạp tầm phòng. Đọc ký sự Ra đảo của Nguyễn Khải kể về hành trình Nguyên Khải vượt biển ra đảo Cồn Cỏ, Nguyễn Tuân khoái riêng cái anh nhà văn trẻ này ngồi thuyền ra Cồn Cỏ dưới bom và tàu chiến địch quần xung quanh mà không biết bơi, nhát nước chẳng khác Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân chẳng thiết cái quán bát nháo của ông lão 81. Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít tất hay chén rượu có nhạt, cũng không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ Nguyễn Tuân kéo mẩu ghế ngồi. Dáng ông lão gày gày, bộ quần áo nâu non còm cõi, lom đom. Nguyễn Tuân nhớ những cái khác. Mỗi đêm ngã sáu, từng người lại tìm về những kỷ niệm của mình. Những năm ấy chưa có mấy quán cà phê, quán nước bán kèm nước trắng. Tôi không được biết Nguyễn Tuân thời xưa kênh kiệu tàn nhẫn thế nào, chỉ thấy bây giờ cũng chịu khó chơi tạp, chỉ có điều là ngồi đối diện đấy, nhưng không nhìn mặt ai. Cái ác khẩu của nhà văn này thì khỏi nói. Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình, ai đã bịa ra mà kể lại thế, nhưng giá ở dưới âm ty, thằng phê bình chẳng may nào đó bị chôn sống, lại mời ông đi uống rượu rồi đi chơi đảo Cát Hải thì chắc ông cười xoà, làm lành ngay. Vẫn cái khó khăn hay cái dễ dãi chỉ vì mình. Đã thích thì cứ cầm lấy, một quyển sách mượn không bao giờ trả, một nhánh hoa địa lan cắt thẳng ở chậu vừa hỏi chủ nhân vừa cắt.
- Ông 81 mới đổi mặt hàng. Có cái rượu hay lắm.
Trước cái chõng, ngọn đèn hoa kỳ nhoè nhoẹt. Cũng không ai để ý những bày biện mới, lọ lạc rang lại lọ kẹo bi xanh đỏ nhờn nhợt, quà dỗ tiền trẻ con. Ông lão đương cù rù, lẩn mẩn bóc củ hành khô. Vỏ hành kêu tanh tách như bật ngón tay. Cái chảo mỡ bắc ngay cạnh. Đậu nghệ chấm muối hay đậu rán, những mặt hàng mới. Thêm mấy cái ghế lõi giấy ép cuộn chỉ nhà máy sợi bên gốc cây đã xây vuông viền quanh thành cái bàn. Bập bênh như chiếc ghế ngất ngưỡng trước quầy rượu, cũng hay hay.
Tôi nói:
- Ra cái ông 81 này đã làm bồi cho Grapphơi ở Huế, ông Nguyễn ạ.
Nguyễn Tuân gật gật:
- Grapphơi công sứ Trung Kỳ.
- Tôi mới nghe ông ấy kể.
Chờ đợi sự ngạc nhiên, nhưng Nguyễn Tuân chỉ ừ thế rồi nhìn bộ quần áo nâu bạc của ông lão đồng chiêm xa lạ. Ông lão mọi khi cứ lặng lẽ lúc có khách, tự dưng bỗng bật nói:
- ở Huế làm bồi, tôi kiêm cả chân bếp. Chả là mỗi lần cả nhà nó đi pích ních, Bạch Mã tôi phải lo các thứ, đâm ra thạo. Miếng giăm bông hun khói tôi cũng làm lấy được, khét bỏ mẹ lại khen ngon. Người Tây lắm cái ngược đời, còn An Nam mình thì khôn ngoan, hay xỏ ngầm. Thế mới chết chứ. Tôi làm ăn lương gấp rưỡi. Nấu nướng cho Tây chẳng khó như cao lâu Tàu. Hành mỡ phi thơm lừng, Tây nở mũi, thế là khen buồng. Các ông để ý xem, hèn nhất là cái mặn muối, thế mà Tây ăn cứ phải có lọ muối trắng như bát hương mả tổ nhà nó để giữa bàn. Động một tý lại rắc muối, thế thì mất hết mùi vị, các cụ nhà ta kén đến hàng chục loại nước mắm vẫn còn chưa bằng lòng kia mà.
Câu chuyện của ông lão quê mùa mỗi lúc một sang trọng phố phường, bắt đầu từ Huế lên Bạch Mã đến khi Grapphơi hết hạn ở Đông Dương về Pháp đem theo cả thằng bếp giỏi. Thế là tôi phú bà đầm nhà tôi về quê, bảo là cho tôi đi kiếm cái vốn. Tôi đi xêlibạt ba năm bôông bêêng bên Tây. Các ông ạ, nói thực chứ ngủ với đầm chán bỏ xừ. Nó bắt phải đùa cả đêm, nhọc lắm.
Thế là ông lão hơn đứt chúng tôi rồi. Cao hứng, Nguyễn Tuân chốc lại hỏi một câu về núi Bạch Mã, chén rượu để vào vè gốc cây sấu đã cạn từ lúc nào. Phong tục và khách khứa ở những quán còm cõi chủ hàng hay đuổi khéo khách không uống thêm mà còn bè nhè, thế mà ông lão vẫn để yên. Những câu chuyện của ông 81 đã làm chúng tôi lẫn lộn gốc sấu, gốc xà cừ, gốc cây sữa với những gốc thông và bậc đá tảng boongalô trên Bạch Mã. Tôi ngồi hớp những chuyện trên vùng núi nghỉ mát ấy và chuyện chơi bời bên Tây mà tôi chưa được biết đến bao giờ, chỉ nghe cũng như thuộc. Ông lão 81 vẫn bóc hành. Bây giờ tôi mới để ý bàn tay bồi bếp suốt đời ấy to bè bè, mỗi ngón như trái chuối mắn khác hẳn khổ người thấp bé, gày úa. Gia vị chuyên có củ hành Cái hành củ già mới hăng, không như hành hoa, hành lá nhạt thếch. Rồi khách hàng cũng đâm ra nghiện hành khô theo chủ quán. Các ông ạ, hôm nay có ngầu pín. Từ dạo chú khách ngoài phố Huế đóng cửa món cháo ngầu pín, thỉnh thoảng ông 81 xuống lò mổ mua chui được mấy cái. Da bò, thịt tái và dái trâu dái bò hồi này hiếm hẳn. Nghe nói mậu dịch thu mua, da thì vào nhà máy thuộc da, còn ngầu pín để xuất khẩu đi Hồng Công. Lão 81 hay khoe của lạ, mà không bao giờ vui chén với khách.
Lão chỉ nhìn người ta uống và đợi được khen hành phi thơm sực mũi. Lão giữ đúng quy lát nhà bếp nhà bàn có cái thú ở sự ngắm người ta thưởng thức - Nguyễn Tuân bảo thế. Nhưng vẫn rôm rả chuyên Bạch Mã và bên Tây. Mỗi câu đối đáp như nói cho mình nghe. Lão ấy cũng khoái nhớ chứ! Nhớ vui hay nhớ buồn, nào biết được với lão. Có lần tôi nói với Thanh Tịnh khi đọc những hồi ký ông viết về thời làm nghề hướng dẫn du lịch rằng ông nhớ lâu quá, Thanh Tịnh sáng tác ra một câu ngạn ngữ, nhớ lắm, khổ nhiều. Ôi tội cho những người nhớ lâu.
Chúng tôi đưa một khách Ba Lan ra ngồi gốc cây ở đấy. Nhà văn Dukôpsky đã lên mặt trận Điện Biên nhưng A.Covanepsky, nhà văn Ba Lan này đến Việt Nam khi hoà bình đã lập lại. Ông nhà văn hình thù cổ quái ấy chuyên viết phóng sự về đời sống loài vật. Covanepsky đã ở rừng châu Phi, đã qua suốt mùa hè trên ngọn sông Amagiôn và ở cả năm trong vùng muỗi rừng đương khai hoang mở đồn điền chuối bên Braxin. Ông đã lặn lội hầu khắp rừng núi thế giới, chụp ảnh và viết về những con vật kỳ lạ. Cơvanepsky đã bảy mươi lăm tuổi, thế mà bạn đọc ông nhiều nhất lại là thanh thiếu niên.
Ông đến làm khách của Hà Nội cuối tháng chạp. ở lại tết Nguyên Đán, mấy khi được ăn cái tết cổ truyền mùa đông ở một thành phố nhiệt đới, nhưng Cơvanepsky lại muốn đến xem mùa xuân tận nơi rừng thẳm có muông thú hoang dã. Ông lên Lai Châu. ở tỉnh lỵ, tết xoè Mường Lay trên các nhà sàn cũng không quyến rũ nổi ông. Ông đã cưỡi bốn ngày ngựa lên Mường Tè. Những địa danh Mường Thanh, Lũng Cú, Mường Tè, Mèo Vạc, ngay đối với người Việt Bắc cũng tận đâu đâu.
Trời rét ngọt, gió cuốn dưới lòng đường lên như cắn vào mặt. Chúng tôi vác đến một chai rom Sanh Giam mua ở khách sạn Mêtrôpôn. Uống cà phê bít tất pha rượu hảo hạng Nhưng không ai lưu tâm cà phê hạt muồng với cái rượu ngon nhất nước Pháp mà là ngồi ở chỗ này để tưởng tượng ra đồng không mông quạnh cho ông nhà văn rừng rú quê ở châu Âu ấy trò chuyện. Ông kêu chán phòng ăn, phòng ngủ khách sạn từ hôm ở Mường Tè về. Ông đòi đổi khách sạn Mêtrôpôn cho ông đi ở nhà sàn. Kiếm đâu ra của hiếm ấy ở đây.
Nhưng rồi vài hôm đã quen lại dần. Cây sáng kiến ăn chơi Nguyễn Tuân nghĩ ra cách tối ấy đưa khách ra ngã sáu. Vừa đẹp trong ý nghĩ chúng tôi. Cái lão nhà văn thế giới Cơvanepsky này có thể được gợi hứng thú khác. Rằng ở giữa nơi chơ vơ trông nghiêng qua mặt đường nhựa phẳng lặng bóng ngọn cây cao cao đằng xa, ánh đèn lốm đốm nhứ đêm sa mạc. Tôi đã cưỡi lạc đà qua sa mạc Gô bi, vào Mông Cổ. Nhưng chưa được tới nơi nào như Mường Tè - Ông cười, một chiếc răng hổng. Có điều không nơi nào như Mường Tè, ông vừa kể lại và đưa tấm ảnh chụp ở sân huyện uỷ.
Cơvanepsky vịn vai một con gấu ngựa, gấu thật. Con gấu áng chừng hai ba tuổi cao to bằng người. Hai chân sau đứng, một chân trước đặt lên vai áo. Một tay ông nhà văn, ông già tuyết Nôen để trên đầu con gấu.
- Không phải gấu độn rơm của thằng thợ ảnh ở vườn hoa các nước châu Âu. Gấu thật. Tôi chưa được thấy đâu nuôi gấu trong nhà. Đến bữa ăn, gấu ngồi chầu gầm bàn, nhặt cơm vãi. Lạ nhất thế giới!
Tôi không dám nói, làm ông cụt hứng. ở giữa thành phố này người ta cũng nuôi gấu, mua bán gấu như chó con. ít lâu sau, tôi trông thấy con gấu Mường Tè ấy ở một trang họa báo Ba Lan của một ông nghề chào hàng phụ tùng ô-tô đem đến. Nguyễn Tuân vốn thích tranh áp phích Ba Lan. Ông chào hàng mới quen này lại là một ông Ba Lan. Cũng chuyện thường ngày mà lạ, cái ông chào hàng bỗng nhiên chúng tôi quen. Hôm ấy, sân khấu ngoài trời Nhà hát Nhân dân diễn tuồng hồ quảng tích Lương Sơn Bá Trúc Anh Đài của một đoàn hát Quảng Tây sang. Chúng tôi đi xem, tình cờ ngồi cạnh một người Âu. Trong lúc đợi mở màn, ông ấy đã mau miệng tự giới thiệu. Biết tiếng Pháp, tiếng Anh, Mariam Stvensky người của hãng sản xuất phụ tùng ô-tô du lịch chuyên đi chào hàng. Nghe đệm họ Mariam, đã biết là một người Do Thái Ba Lan. Ông nói lần đầu tôi đến Việt Nam. Lần thứ hai tôi đi xem nghệ thuật kịch Việt Nam. Nguyễn Tuân bảo là tuồng Trung Quốc. Ông Stvensky nhất định rằng đây là kịch hát Việt Nam. Hôm nọ tôi được xem rồi. Có những người tốt bụng, nhưng tính ương bướng thế. Không thể lay chuyển được cái điều lão đã đinh ninh.
Nhưng lão rất vui, nhận lời hôm sau lại gặp nhau để tiếp tục tranh luận xem vở kịch hát là của Trung Quốc hay của Việt Nam
Gặp cái lão gàn dở vô lý cù không cười kiểu Saclô, Nguyễn Tuân tỏ ra thú vị. Chúng tôi hẹn Mariam đến nhà Buđa. Buđa ở phố Hồ Xuân Hương yên tĩnh, lại ở một mình, tha hồ nói to. Thực đơn: chai rượu vang của Nguyễn Tuân, lão kia sẽ đem đến rượu vốt ca Ba Lan và xúc xích hun khói - đúng khẩu vị Nguyễn Tuân và kết thúc bằng bát cháo gà ở ngã sáu dốc Hàng Kèn gần đấy. Buđa không biết lão Mariam, nhưng tôi đến đặt tiệc thế, Buđa nhận lời ngay.
Tôi mới quen Buđa những ngày ở Thái Nguyên về Hà Nội, nhưng đã nghe kể về Buđa từ khi còn trên Tuyên Quang. Làm việc nhà xuất bản Ngoại Văn, Buđa đã dịch ra tiếng Pháp Dế mèn phiêu lưu ký và Truyện Tây Bắc của tôi. Giáo sư một trường trung học Sài Gòn, Buđa đã trốn ra kháng chiến ở miền Đông rồi được lệnh vượt Trường Sơn bảy tháng ròng rã ra Việt Bắc năm 1952 để làm việc ở đài phát thanh. Cuộc đời thật dữ, mà anh chàng thì ngơ ngác hiền lành. Bạn bè gọi tắt chứ tên anh là Gioóc Buđaren! Buđa cũng có nghĩa là ông phật, hợp với con người lù đù ấy. Có những tù hàng binh Pháp, thằng An, thằng Bình hay đóng các vai Tây trong các phim Chung một dòng sông và Vợ chồng A Phủ - những bộ phim vỡ lòng của Xưởng phim truyện, bọn này cả ngày loăng quăng xe đạp lượn phố tán gái. Khối cô mê thằng An. Buđa thèm lấy vợ mà đành chịu. Anh chàng chỉ thạo sách vở. Một lần, Buđa đi thăm Điện Biên Phủ, gặp ở Tuần Giáo một cô gái Thái lai Tây. Buđa mê quá. Nhưng cả một buổi tối ngồi uống cà phê cô ấy pha và im lặng. Chỉ say sưa khi về Hà Nội kể lại. Và câu chuyện tình ngậm miệng ấy cũng qua đã nhiều năm rồi.
Chai vang Pháp của Nguyễn Tuân đặt giữa bàn. Lịch sự, chủ nhà mua thêm hai chai Boócđô. Mặc dầu chỉ nửa cốc vang Buđa đã bị dị ứng mẩn ngứa đỏ khắp người không chịu được. Tây mà không uống được rượu.
Ai đã tổng kết từ lâu rằng uống vang với phó mát - cách uống cổ điển, ngon nhất. Ông bạn tình cờ đã tự đổi thực đơn, tự khen mình và có nhận xét thế. Bởi vì cái ông Ba Lan vui tính bán phụ tùng ô-tô đã mang vốt ca đến với một bọc phó mát và bánh mỳ gối. Ông này cũng không bợm rượu mấy. Thành thử, chỉ còn có hai người chúng tôi không tế nhị. Cái vang Pháp đỏ sẫm sao mà nó chát sướng đến thế.
Một Tây, một Ba Lan khoái chí nâng cốc và nhìn hai tôi cạn cả cốc như uống bia. Ông Ba Lan nói to:
- Tôi đã nghe Dukôpsky nói chuyện về Việt Nam trước khi sang đây. Một người Ba Lan đã có mặt trên chiến trường Điện Biên Phủ. Tuyệt vời. Còn con gấu chụp ảnh với một nhà văn đồng bào của tôi đây này, tôi tặng các bạn tờ họa báo. Rồi lão lại giở chuyện hôm qua.
- Vâng, những tối kịch hát Việt Nam, hay lắm. Không thể thêm một câu nào khác với một người chỉ cho là mình đúng. Nhưng Buđa ngơ ngẩn hỏi:
- Đoàn kịch hát Trung Quốc đương diễn ở nhà hát Nhân Dân?
- Không, đoàn nghệ thuật Việt Nam. Tôi đã đến Bắc Kinh, Trung Quốc hát khác.
- Có diễn viên Hồng Tuyến Nữ nổi tiếng.
- Đều là Việt Nam. Tôi biết mà.
Câu chuyện đùa cợt dằng co, miên man, buổi tối không hẹn mà nên. Mariam Stvensky kể bốn giờ sáng mai đã sang sân bay. ở đây về là xếp va li.
- Không sao, phải tranh luận cho đến được sự thật, sự thật chỉ có một!
Chốc chốc lại hura: nghệ thuật muôn năm. Ông Ba Lan ôm tôi đứng dạy nhảy, một tay giơ cái ảnh con gấu Mường Tè. Hu ra, hu ra. Phụ tùng ô-tô, phụ tùng ô-tô cũng là nghệ thuật. Buđa hào hứng: Cho tôi uống! Cho tôi uống! Rồi sẽ nằm gãi một tuần lễ, không sao, không sao.
Mariam tiếng Pháp giọng mũi, giơ cốc trịnh trọng:
- Hãy nghe tôi nói. Người bán phụ tùng không chào hàng đâu, mà nói về triết học. Thứ nhất, chúc con người tiến tới bằng cái ô-tô, nhân loại sẽ đến được thời kỳ trong người hỏng hóc bộ phận nào thì thay bộ phận ấy. Thứ hai, bấy giờ ở ô-tô cơ thể của các bạn có cái gì cũ, cái gì hỏng hãy cho tôi biết. Hãng tôi sẽ gửi sang, tôi sẽ đi theo, tự tay lắp máy mới cho các bạn, máy liệt, máy hóc lại chạy ngay. Con người bằng cái ô-tô, hơn cái ô-tô. Hua ra... hua ra...
- Nhưng không có bánh mata (*)
(*Bánh mỳ Do Thái mỏng như bánh đa, người Do Thái ăn với súp lạnh trong các dịp lễ lớn)
- Cũng được. Đây là một lời chúc hạnh phúc.
Khuya rồi, chúng tôi mới ra ngã sáu. Không nhớ chốc nữa ông bán phụ tùng ô-tô - và tương lai, bán cả phụ tùng người phải sang sân bay Gia Lâm. Hơi vang đã nhạt, người cười nhiều quá cũng đâm buồn, những cái bóng chúng tôi đi lẳng lặng.
Phó mát làm bứ bụng, không muốn ăn cháo gà. Vả lại, các bạn Tây không khoái chén súp đêm. Chúng tôi vào chõng cà phê bít tất của lão 81. Làm như phong tục Nga, khi tiễn đưa, mọi người đặt tay lên đầu gối ngồi im với nhau trong giây lát.
Một bác xích lô về khuya, ghếch cái sàn xe rên ken két lên bờ hè. Bên gốc sấu bành rễ sù sì, mảnh gỗ làm bàn, những mẩu gỗ, cái lõi cuộn chỉ dựa cây, dựa tường, mỗi người trầm ngâm nhìn đi đâu. Cả cái lão cà phê số nhà 81 kia nữa, chắc đã làm một chén trước khi dọn hàng. Biết đâu ông lão này, bác Chữ cháo gà, những ông xích lô đầu hói râu rậm, các cụ ngơ ngác vác cả luỹ tre trong làng về đây, hỏi ra thì lão nào, lão nào cũng đã đi bồi bếp, cho tây đầm ăn ra sao thì chúng phải ăn thế đấy, lại đã sang đánh nhau bên Pháp, bên Ma rốc từ thế chiến thứ nhất. Ai cũng đã bôn tẩu sông hồ bằng mây chúng tôi. Ông cà phê đương lơ mơ trời đất ở đâu. Thấy người lố nhố vào, hai cái đầu gối quần nâu lòng thòng đứng dậy.
- May quá, còn cái ngầu pín.
Bác xích lô ngồi ngủ gà trên cái đệm xe, chọt tỉnh nói to vào:
- Tôi, tôi, để cho tôi.
- ừ, chứ bảo mấy ông Tây này ăn dái bò thì các ông ấy chết khiếp.
Lão bếp già 81 cười tủm, vẻ thành thạo:
- Cứ bảo xúc xích nhồi, thì cũng nuốt tất.
Bác xích lô lại nài:
- ấy, để cho tôi. Người mình thì phải dùng cái bổ thẳng một lèo mới kiến hiệu được. Ông Chữ cho tôi bát cháo trắng, rồi thì tống vào đấy dái bò, dái dê, dái chó bao nhiêu cũng cân.
- Được được. Ai cũng đủ. Các vị chơi khuya thế? Ông này người nước nào mà trông giống quan công sứ Grapphơi. Các vị dùng cái đen hay cái trắng?
Lại vẫn quan công sứ, quan công sứ với cà phê hay rượu trắng, lẩn thẩn ăn người đấy.
- Này cụ bít tất, năm nay tuổi giời cụ được bao nhiêu?
- Thưa ông, nhà cháu thất thập rưỡi.
- Thế thì cái thằng quan công sứ của cụ xuống chơi với giun lâu rồi.
Ông cà phê bít tất nói một câu ngắn thôi, nhưng ý nghĩa thì địch được với câu triết lý của ông Ba Lan sắp bán phụ tùng cơ thể con người.
- Các cụ xá cho. Chuyện chiêm bao ấy mà.
Đêm thành phố trên ngã năm ngã sáu bờ hè. Khách đến, khách đi, lủi thủi trong bóng tối, không có báo in, báo tường mà mọi chuyện đâu cũng theo người tụ lại, mỗi người đem đến một chuyện. Những ông Ba Lan và Buđa và ông Aki chẳng bao giờ gặp nữa, mà cứ nhớ như hôm qua, như lão 81 lúc nào cũng quan khâm sứ Grapphơi. Vâng, đã là nhớ lại thì dẫu vui xưa kia cũng là nỗi buồn bây giờ.
Shoisi Aki, mà có tên là Nguyễn An Nghệ, cái người Nhật ấy đã ở với chúng tôi suốt chín năm kháng chiến. Aki đến khi chúng tôi ở núi Thượng Yên, trong một làng dân tộc Dao đỏ giữa một cánh rừng rậm bờ sông Lô trên bến Bình Ca.
Chưa bao giờ cơ quan rúc vào một nơi hóc hiểm đến thế. Nguyễn Tuân ngại nơi này nhất. Đến Thượng Yên, trong cánh rừng ẩm ướt Nguyễn Tuân mới thực sự bị những cơn sốt rét hành hạ. Trước, tiếng là yên rừng, nhưng còn ở ngoài đồi chân Tam Đảo và bên sông Thao. ở xóm núi Yên Dã, đi một quãng ra huyện lỵ Đại Từ, đã là Hà Nội nhỏ của chúng tôi. Câu thơ ngao ngán Sớm nay ra khỏi u tì quốc của Xuân Diệu là để lưu niệm nơi này. Thế mà đến khi chui vào rừng sâu Thượng Yên u tì và ma quái nhà thơ Xuân Diệu lại lặng im. Có lẽ đã quen rồi, mặc dầu ở đấy, trong cơ quan, nửa đêm anh Truật làm kế toán quê Thái Bình đã chết sốt rét ác tính. Nguyễn Tuân cứ đi đâu về, chỉ nằm giữa tre nứa âm u mươi hôm lại sốt, lại rên rẩm thấp khớp. Trần Mai Thiên, con trai Nam Cao, khi bố cháu hy sinh, chúng tôi đón được Mai Thiên, mẹ cháu gửi ở Đại Hoàng hậu địch chiến trường khu Ba ra, cháu đương ở với chúng tôi. Có hôm, cả buổi Mai Thiên ngồi bóp chân cho bác Tuân. Cụ bếp Ban vác củi ngoài rừng về qua, đi xuống bếp, lại lẩm bẩm: Rõ nhà giàu đứt tay. Mời ông vào rừng với tôi đi vài chuyến củi thì khỏi chân ngay thôi. Chẳng khi nào Nguyễn Tuân bớt nghiến ngả tôi về cái chỗ mới của cơ quan ở Thượng Yên. Có khi giận cá chém thớt. Tôi ở Tây Bắc về, đem theo trong ba lô một cái sáo Mèo. Sáo Mèo như ống trúc có cái lưỡi gà bằng đồng. Tôi không biết thổi, những chập tối trong rừng sâu hay lấy sáo ra rên rỉ lên độc một tiếng toè... toè... tôi nhớ tiếng sáo vắt vẻo núi cao trên những thung lũng ruộng bậc thang.
Nguyễn Tuân bảo:
- Ông cất đi cho tôi nhờ. Nghe ông thổi sáo, tôi đau tai hơn đau chân thấp khớp.
Tôi ở bên báo Cứu Quốc đổi công tác về, được phân công tìm địa điểm mới. Cơ quan chuyển ở cây số 7 đường Hà Giang trong xóm Động Móc chân núi Là sang đây. Nguyễn Tuân rỉa róc: Chỗ núi Là không đủ kín mà lại phải chui sang rừng Thượng Yên. Theo thằng này rồi thì sốt rét, rồi bụng báng chết hết. Có thể nhiều người nghĩ như thế, nhưng không nói ra. Chỉ Nguyễn Tuân không dứt ca cẩm. ối giời ơi, ông ở Chợ Rã, ở Tủm Tó, ông nằm đất, ông rang bọ hung ăn, ông xơi thịt lợn không muối thối um lên, ông uống rượu men lá cũng khỏi ốm, ông còn thiết, còn nghĩ đến ai.
Bác Ngô Tất Tố chén thịt lợn lửng cụ bếp Ban đã kho riềng cạn khô vẫn tanh đến lộn mửa. Nguyễn Đỗ Cung ngoài bờ sông vào bắt châu chấu ăn sống. Nguyễn Tuân từ lán ở xuống nhà bếp lững thững đi sau con kỳ đà ra rình bắt gà. Có con trăn gió nằm phơi mình ở bãi cỏ ven suối trên đám lá cải soong chúng tôi sắp xuống hái. Những cái đó thấm đâu với khi tôi ở suối Lửa trong vùng rừng Yên Thế Thượng, ở Píc Cáy núi Phía Bioc làm báo Cứu Quốc Việt Bắc. Tôi hoá ra máu cá, khi nghe những lời ca thán.
Đến Thượng Yên, Shoisi Aki sốt rét dòng dã, mặt trắng nhợt. Đặng Thai Mai chủ tịch ủy ban Hành chính Kháng chiến Thanh Hoá đã gửi Aki ra cho chúng tôi. ở Tokyo, Aki sang Đông Dương thực tập tốt nghiệp đại học kinh tế. Đương ở Vinh thì Nhật thua trận đầu hàng Đồng Minh. Aki trốn vào trong làng. Đặng Thai Mai nhắn: Aki biết tiếng Anh, có thể dạy Aki tiếng Việt để Aki dịch tiếng Anh. Ai cũng gọi Shoisi Aki là Nguyễn An Nghệ, cái tên Nghệ An kỷ niệm nơi Aki đi với kháng chiến Việt Nam.
Lán chúng tôi ở và làm việc bên bụi nứa rậm rạp góc đồi. Mỗi lán thành một tổ tăng gia. Nuôi gà trồng đậu, rau muống, cải soong. Nguyễn Tuân, Aki với tôi và Nguyễn Đình Nghi. Đôi khi có Phan Khôi Đào Duy Anh, Phan Ngọc bên bến Ngọc sang. Nguyễn Đình Nghi ít tuổi nhất, chủ lực cuốc xới, làm chân tổ trưởng tăng gia.
Mấy năm ở rừng Thượng Yên mà nhớ lại tưởng như đâu một vài ngày. Bởi chỉ khi ra ngoài, đi công tác, đi chiến dịch, quang cảnh và mọi việc mới đổi khác. Trở về trong rừng, ngày ngày lại như thế. Dậy theo hiệu còi, tập thể dục, vác xẻng cuốc xách ống vầu nước tiểu xuống sườn đồi tăng gia rồi lên làm việc, đến giờ sang nhà bếp ăn cơm, họp kiểm điểm cuối ngày, vào xóm người Dao dân vận, dạy học, làm vệ sinh quét dọn nhà, chuồng trâu... Aki nằm phủ phục trong màn, lồm cồm chui ra. Sáng sớm, mở mắt trong đám sương đặc quện. Hình như nằm ngủ, các đốt xương dính lại, bấy giờ duỗi chân tay ra đau ê ẩm.
Aki đã ra ngoài đầu nhà lúc nào. Chắc đã dứt cơn sốt. Mặt vuông bạnh quai hàm, khung xương người cao to gầy rạc. Không phải Aki tập thể dục. Aki ngồi phệt trên mặt đất ẩm. Hai chân xếp bằng tròn, tay đặt trong lòng, mắt nhắm nghiền, mặc mọi người vung tay vung chân, vặn mình, nhảy nhót. Đến lúc ai nấy đã xuống vườn sườn đồi, Aki lẳng lặng đứng dậy, cầm ống nước đái, bước theo. Thỉnh thoảng Aki lại ngồi như thế. Chưa bao giờ tôi hỏi vì sao.
Suốt ngày, Aki cắm cúi bên cái bàn vỉ tre trước giường nằm. Aki chỉ đứng dậy ra cạnh bụi nứa khi nghe tiếng khu trục Spitphai, kinh côbra cổ ngỗng theo sông Lô lên lướt qua. Aki dịch sang tiếng Anh các truyện anh hùng chiến sĩ của chúng tôi viết về Nguyễn Quốc Trị, Giáp Văn Khương, nữ du kích Nguyễn Thị Chiên, lão nông Hoàng Hanh... Bản thảo giấy tờ ngổn ngang trên mặt dát giường nứa ngộ.
Những hôm trời nắng, Aki ngồi lặng yên ngoài rừng. Mặt nhợt nhạt màu đau gan. Aki đăm đăm như ban sáng nhập thiền. Một lúc lâu lại vào ngồi trước bàn. Ngày nào cũng thế không nói một câu. Nếu không trông thấy Aki đọc sách, tưởng Aki không biết tiếng Việt. Nghe tiếng gà kêu quét quét, Aki nhỏm lên. Aki ra đuổi kỳ đà. Con kỳ đà mốc thếch như con thằn lằn to bằng bắp chân từ hang hốc nào ra cả ban ngày đương rướn cong cổ nghe ngóng. Cái chuồng gà của mỗi người đặt giữa sân trước mặt, tối lại khiêng vào trong nhà. Những khi con cáo, con rắn bò đến Aki cầm cái sào nứa ra đuổi.
ở nhà bếp, Aki ngồi một góc, ăn nhai hững hờ, nhưng bao giờ cũng hết xuất cơm muối vừng. Không có lọ kem nước mắm, ống bơ thịt kho, nhưng thỉnh thoảng, Aki tẩm bổ một món đặc biệt: chuối tiêu thái từng khoanh mỏng để vào bát, rồi đập quả trứng gà quấy lên. Món sống sít hổ lốn ấy không ai dám bắt chước.
Thế rồi nghe đồn tù binh ở Điện Biên Phủ được giải về thị xã Tuyên Quang. Chỉ mấy hôm không ra mà ven sông Lô đã san sát một dọc những nếp nhà mái nứa. Thị xã mọi khi ban ngày vắng ngắt bỗng đông như hội. Bọn tù ốm nặng và tù bị thương ngày nào cũng được đưa xuống bè xuôi về nơi trao trả dưới bến Việt Trì. Tây trắng Tây đen đi lêu đêu, ngất nghểu. Người da đen chỉ còn thô lố hai con mắt trắng dã. Những tù binh gày yếu quá trước khi thả được giữ lại vỗ béo cho ít ngày.
Quanh thị xã đổ cả ra xem tù binh. Không còn những máy bay cổ ngỗng, B26 lên bom bắn. Người đi đông như mít tinh. Aki ra thị xã, trở về đứng trước lán, nước mắt ràn rụa. Không biết khóc buồn hay khóc vui. Nhớ chín năm trước, khi chạy vào làng, bây giờ Aki bồi hồi sắp được trở về. Vợ Aki dạy đàn piano. Đứa con gái, khi ra đi còn nhỏ. Nếu được bình yên, năm nay mười một tuổi.
Thế rồi về Hà Nội. Mỗi tháng có một chuyến tàu Nhật vào cảng đón những người Nhật lưu lạc còn sống sót ở Việt Nam. ở thành phố mọi việc mới bận rộn. Một hôm, Aki đến chào mọi người, Aki sắp xuống Hải Phòng. Bấy giờ bỗng thấm thía cái xa cách.
Chúng tôi đêm hôm ấy la cà ra ngã sáu. Lui hủi ánh đèn chai, đèn hoa kỳ, gánh cháo gà, chõng cà phê, rượu trắng, đậu nghệ, ngầu pín, lạc luộc như ngày trước đầu xóm các nhà hát ngoại ô hiu quạnh bên Thượng Cát, trong Ba La Bông Đỏ. ở Khâm Thiên bây giờ vẫn còn lác đác vài nhà tom chát không bỏ đi Nam. Loáng thoáng tiếng đàn tưng tửng, tiếng phách... Nhưng chẳng hiểu sao, không phải vì sợ phạm nội quy vào vùng mới giải phóng, chúng tôi chẳng còn háo hức thú chơi như năm xưa. Mà chỉ lang thang tha thẩn các hàng quán phố đông, phố vắng, quanh các rạp Chuông Vàng, Kim Phụng, đương diễn các vở cải lương diễm huyền La Mã kèm cái kịch ngắn chống di cư chẳng mảy may ăn nhập với nhau.
Tôi bảo ông lão 81, ông này là người Nhật. Ông 81 kêu lên: ối giời ơi, nước ta lắm thứ người quá. Lúc nghe ông Nhật sắp về nước, ông 81, quên cả thói tục dửng dưng của người hầu bàn, đã uống góp một chén với khách. Chúng tôi ra ngồi sưởi trước cửa lò sau nồi cháo đã cạn sôi sùng sục. Dễ đã quá nửa đêm. Gió ào ào lòng đường, sột soạt miếng ny lông trên lưng ông xích lô đầu quả gáo như lão quan tàu Tưởng thất thế vào giờ này tà tà đến làm chén rượu với bát cháo ấm bụng rồi ra ga Hàng Cỏ đón tàu chợ dưới Phòng lên. Lão cà phê bít tất nói vọng ra như khoe cho mọi người biết:
- Ông ấy là người Nhật?
Bác cháo gà Chứ nhăn nhó ngước cặp mắt lông quặm kèm nhèm nhìn đám khách muộn. Chắc chẳng rõ ra người nào người nào, nhưng bác gật gù: Nhật à, giô tô nay, giô tô nay. Tự nhiên nhớ mấy chữ cóp nhặt chế giễu của người thành phố này mỗi thời kỳ biến động đều vẽ nên được bức tranh thế sự bằng chữ nghĩa, ai cũng xì xồ vài ba câu: mét xì bô cu, măng giê ca ca... hẩu sực, tả lớ và vài năm có người Nhật đến lại thêm arigatô... giôtônay... Bác Chữ chắp tay, cung kính: Mời các ông ngồi . Mấy chiếc ghế con được khớp lại thành bàn. Những mẩu củi trong lò đã vạc than được vét ra mặt đường làm đống lửa sưởi cho mấy ông khách sau cùng. Bác moi ra cái chai rót đều, lại bưng một chén vào lão 81.
- Chẳng nói giấu gì chư vị, nhà em vừa làm một chén rồi. Lâu lắm mới lại trông thấy ông giôtônay, em xin hầu chư vị chén nữa.
Gió sởn quanh gáy, không ai biết cơn lạnh thít người. Bác Chữ cất chai vào ngăn kéo lại lôi ra hai thanh tre mà mỗi hôm vừa đặt gánh, thằng con trai bác đã đi các phố quanh quanh chõ vào đầu ngõ gõ sực tắc, sực tắc cho mọi người biết cay hạp trúc sực tắc cháo gà đã đến.
Thanh tre kê xuống mặt đường nhựa, thanh tre sực tắc thành cái phách.
- Nhà em xin hầu cán bộ một khổ.
Hãy còn giăng gió gió giăng
Đừng lo lắng thanh xuân bất tái
Biết rằng ai đã hơn ai...
Nguyễn Tuân hứng chí cầm cái ống khói bếp gõ ngón tay đánh trống chầu nhịp. Ông xích lô đầu quả gáo tưởng đi ngay, nhưng đã lại đương thiu thiu lúc ấy cũng nhỏm dậy. Mỗi người một tâm sự ở cái ngã sáu đường đời này. Chẳng ai đoái hoài đến Aki ngồi yên, nước mắt lã chã. Aki khóc. Cũng không ai để ý những câu ư ử rên rỉ bát nháo gió giăng của bác hàng cháo. Im lặng một lúc lâu. Nguyễn Tuân vỗ lưng Aki:
- Mai đã đi rồi, Tokyo đương đợi anh. Tôi hò chúc Aki một bài đường trường từ biệt Hà Nội.
Hãy giữ lâu được nỗi nhớ cái đêm đạm bạc này.
Chiều chiều mượn ngựa ông đô
Mượn kiệu chú lính đưa cô tôi về
Ngựa ô đi đến quán Lau
Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau gò Điền
Không rõ mấy câu ca dao Phú Yên ấy Aki hiểu đến đâu. Tôi thì tôi bồi hồi nhớ xưa kia những khi họp mặt thanh niên hay truyền bá quốc ngữ nghe Trường Đình Thi giọng Bắc lại hò Phú Ơn kể về người đàn ông lặn lội dắt vợ cõng con vượt đèo xa xứ kiếm miếng ăn. Người đứng cất tiếng hò cũng hốc hác não nề như người tha hương kia. Mỗi khi uống và buồn, Nguyễn Tuân thường bắt chước giọng Trường Đình Thi hò Phú Ơn. Có phải những câu hò ngơ ngẩn não lòng trong đêm lạnh giữa những con người đã trải mấy cuộc đời làm rơi nước mắt xuống đường thành phố như dòng sông miên man, nhớ nhà, mà mừng trở về, không còn lệ ai chan chứa biết đi đâu về đâu như khi ở rừng Thượng Yên, mà khóc cũng chẳng vì lẽ gì. Nguyễn Tuân nhìn Aki. Nguyễn Tuân rút khăn tay chấm mắt. ở câu hò Phú ơn của con người ấy còn ngổn ngang bao nhiêu hơn cái thằng Aki trở về. Làm sao hiểu được những giọt nước mắt kia vì nỗi niềm ai.
(Về Tokyo, Shoisi Aki làm tổng thư ký đầu tiên của hội Nhật Việt hữu nghị. Hai năm sau, Aki lại sang Hà Nội. Nguyễn Tuân gửi tặng vợ và cô con gái Aki đương học nhạc viện mấy thước lụa vân tím màu mận hậu. Chuyến ấy về, Aki bị bệnh gan và mất).
Cụ tú Hải Văn đã cho cậu con trai mới lên mười theo đến nhà hát ả đào Hàng Giấy. Thơ Đỗ Mục, cụ tú dịch:
Mười năm tỉnh mộng châu Dương
Hời thêm một tiếng phũ phàng ngày xanh
Cụ tú Hải Văn, tác giả bài thơ tám chữ độc vận Ai, mà năm 1981, Nguyễn Tuân in tuyển tập đã viết tay trang đầu để trả lời một người chị có nhã ý hỏi về thơ cụ tú H.V. nhớ Huế, xin chép hầu chị bài thơ độc vận ai.
Những là dặm liễu bay hồn khách
Nào thấy mành hoa thoáng bóng ai
Buồm thuận gió xuôi vui mặt bạn
Canh tàn rượu tỉnh giật mình ai
Cầm tay dặn với ba câu chuyện...
Cuộc đời phóng túng và nếp nhà quan các cụ nội đại thần trị nhậm đất Sơn Tây, đã in đậm, đã mờ chồng lên ngày tháng đời con đời cháu từ bao giờ. Nhiều lần Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và tôi thường lên Sơn. Chúng tôi ngồi bên hào thành, dưới cây sữa. Mặc Nguyên Hồng với bà cai ách bán hàng - khuôn khổ người đẹp kiểu của ông ấy. Tôi hỏi Nguyễn Tuân: Chữ người tử tù, Đỉnh non Tản và tất cả vang bóng của ông đều phảng phất Sơn Tây, thế ông đã đi ả đào ở Đông Tác chỗ gần chốt Nghệ kia chưa?, Nguyễn Tuân tủm tỉm và lặng yên.
Truyện ký Vang bóng một thời, hình ảnh những ngày qua xa xưa. Vang bóng một thời Tây mà Nguyễn Tuân lúc nào cũng định viết, đã công bố trên trang Cùng một tác giả từ khi tập truyện ngắn Vang bóng một thời in lần thứ nhất. Thời ấy, thời Tây, mới thực Nguyễn Tuân, những nông nỗi, những vang bóng của Nguyễn Tuân. Cái này tôi phải viết... Cái này ông phải viết... Viết chứ! ở Tuỳ bút 1, Tuỳ bút 2, Một chuyến đi hay Chiếc lư đồng mắt cua, hay ở những tuỳ bút kháng chiến, những cái đã viết và những cái chưa viết mới chỉ là mành hoa thoáng bóng ai chứ chưa bao giờ Nguyễn Tuân thực đã viết.

Chương I I

Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp Cầu Đen trên Nhã Nam. Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, cả nhà bác Ngô Tất Tố cũng lên quây quần trên cái đồi thấp bấy giờ còn hoang vắng. Những vùng ở Xuân áng (Phú Thọ) hay Quần Tín (Thanh Hoá) cũng tụ hội lại những làng văn nghệ sĩ kháng chiến. Nghe kể hoạ sĩ Trần Văn Cẩn được xã cấp cả ruộng, anh đi cày đã thạo. Tên cúng cơm ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng đặt lại là ấp Đồi Cháy.
Chẳng hiểu vì sự tích gì. Các nhà ở đấy cho đến khi hoà bình lập lại. Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác hai một nhà ở phố Miriben cũ bên cạnh viện Mắt gần chợ Hôm. Nhớ những lần Nguyên Hồng rủ đến chơi nhà thường vào chiều thứ bảy. Dựng xe đạp ở cái sân chung nhớp nháp nhà dưới rồi lên gác. Nhà một buồng lủng củng ba lô, tay nải. Chẳng khác trước kia ở dưới bãi Nghĩa Dũng. Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít nhít rối cả mắt. Chị ấy đã xin được làm nhân viên cửa hàng quốc doanh sách, đứng bán ở quầy góc nhà bách hoá tổng hợp bây giờ, phía cửa đường Hàng Bài.
- Ngồi vào đây lấy chỗ cho mẹ nó kê cái hoả lò. Chả rán phải chén nóng tại chỗ mới hay.
Nguyên Hồng lui cui dẹp quanh cho tôi ngồi tựa lưng vào tường trông ra chằng chịt dây điện ngoài cửa sổ, lá xà cừ rụng bay rào rào. Nguyên Hồng không nói, nhưng tôi đã biết cái chả rán này rồi. Nguyễn Tuân chỉ nghe, đã lắc đầu, rủa chả rán Nguyên Hồng đãi cái thằng xơi được bọ hung thì nó còn từ cái gì. Nguyên Hồng không khi nào mời Nguyễn Tuân và biết tôi thưởng thức được món tiểu táo cao cấp ấy, chủ nhà cũng chẳng cần báo trước. ấy là cái nem Sà Goòng nhân rau đàn bà đẻ đã xin hay mua được ở nhà hộ sinh nào đấy. Nguyên Hồng thường ca tụng sức thần kỳ bổ và chứa bách bệnh của rau đàn bà đẻ. Khi bị đày lên Bắc Mê, tao ngồi viết được cả tập bút ký Cuộc sống lại còn sống mà dò được về đến Nam Định rồi lấy vợ cũng là nhờ cái phải gió ấy của trẻ sơ sinh. Mẹ tao ngâm rượu mật ong gửi lên Bắc Mê. Bây giờ thi một cái rau ăn tươi cả nhà được tẩm bổ!. Nguyên Hồng cười hể hả.
Miếng chả giò nóng ròn. Bát dấm pha không có ớt - chủ nhà không ăn ớt. Đĩa xà lách trắng ngần. Nhân trộn mộc nhĩ và miến. Kể ra cũng cảm thấy hoi hoi khác vị, nhưng vốn tính dễ ăn, tôi nhắm ngon lành bình thường.
Giữa năm 1957, Hội Nhà Văn được thành lập. Nguyên Hồng phụ trách tuần báo Văn của Hội. Đã nhiều năm làm nghề viết và trong kháng chiến có làm báo, làm xuất bản nhưng cũng là ngồi trong rừng điều khiển đôi quang gánh sách báo đi các chiến khu, chúng tôi bỡ ngỡ và háo hức những công việc mới.
Chín năm ở rừng, không có lương, quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt cũng lĩnh ở kho từng miếng. Cơ quan sắm dao kéo, tông đơ mọi người húi đầu cho nhau. Văn Cao cắt tóc đẹp có tiếng, chỉ dùng kéo. Trở lại thành phố, khó đâu chửa biết, nhưng thức ăn và hàng hoá ê hề. Chiều chiều, uống bia Đức chai lùn bên gốc liễu nhà Thủy Tạ. Nhà hàng Phú Gia, vang đỏ vang hồng vang trắng vỏ còn dính rơm như vừa lấy ở dưới hầm lên. áo khoác da lông cừu Mông Cổ ấm rực, người ta mua về phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung Quốc thôi thì thượng vàng hạ cám. Kim sào, kim khâu, chỉ màu, củ cải ca la thầu, sắng xấu, mì chính, xe đạp cái xe trâu cao ngồng. Cả xi rô ngọt pha vào bia cho những người mới tập tọng uống bia. Bắt đầu được lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng có thể la cà hàng quán được. Có cảm tưởng cả loài người tiến bộ đổ tiền của đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ.
Chúng tôi ngỡ ngàng một cách khoan khoái. Đất nước như cánh đồng cày vỡ, chưa biết cấy hái ra thế nào. Vết thương cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức còn đỏ hon hỏn khắp chợ thì quê. Các thành phố đã bắt đầu cải tạo tư sản. Báo chí hô trăm hoa đua nở, tràm nhà đua tiếng. Chẳng biết căn do của nước người ta ra sao, nhưng nghe khẩu hiệu khá sướng tai. Đến khi thấy nói có hoa thơm, có hoa thối! lại mới ngỡ ra là có hoa thơm, có hoa thối!. Năm 1956, Hungari đề xướng đổi mới. Thủ lĩnh Jmrê Natgiơ bị treo cổ.
Chưa kịp ngỡ ngàng, lại đùng đùng đổi khác lại ngay cả trong thành phố. Nhà máy diêm, nhà máy gạch thời Pháp họ đã để làm trại lính, tanh bành như bãi hoang. Điện Yên Phụ, xe điện Thuỵ Khuê cổ lỗ 1899, nhà máy rượu cạnh nghĩa địa Tây, Chính phủ phải mua lại của các công ty tư nhân Pháp. Nghe nói mỏ Hòn Gai, đường sắt Hải Phòng Vân Nam ta cũng chuộc mất nhiều tiền. Chiến thắng rồi mà cũng chẳng lấy không được. Các thành phố đương cải tạo tư sản. Cách làm dịu dịu và lặng lẽ. Nhưng cũng xanh mắt. Nhà máy thuộc da Thuỵ Khuê, nhà máy gạch Cầu Đuống mấy vị có tiền vừa chung nhau tậu, bây giờ lo sốt vó phải lên tư sản. Nhà giàu khoá cửa im ỉm, người ra vào khuân lén đồ đạc lúc chập tối. Quanh tường, đại sứ quán Pháp cắm tấm biển đất riêng. Cơ quan lãnh sự Mỹ đã dọn vào Sài Gòn, bây giờ chỗ ấy là căng tin của sứ quán và Pháp kiều. Tổng giám mục Đuy-lây ngày ngày sai mấy bõ già đến mua đồ và thức ăn về dùng. Từng bao tải các thức được thuê xích lô kéo sang nhà thờ Hàng Trống.
Bỡ ngỡ và sôi nổi, những trái ngược và mới mẻ ấy dội vào mỗi chúng tôi. Bây giờ nhìn lại, nghe kể chuyện lại, tưởng như câu chuyện lạ lùng một lúc. Nhưng đường đi và những quanh co bối rối đến mỗi con người lẵng nhẵng cả mấy năm trước và sau 1957. Ngại nhất những lần họp chi bộ ở cơ quan. Cuộc chiến đấu lớn đã kết thúc ở Điện Biên Phủ, nhưng chúng tôi lại không êm ả như ở Tuyên Quang. Thêm nhiều tổ chức mới có cán bộ các khu và từ miền Nam tập kết ra. Họp cơ quan, họp chi bộ, tranh luận miên man. Dần dà, hình thành cái nhìn ở một số người, thành mốt chỉ trích cơ quan cản trở, hạn chế, có thế mới là mới. Mọi việc không phải của cơ quan hình như đều đúng hơn.
Tôi làm nhà xuất bản Văn Nghệ rồi nhà xuất bản Hội Nhà văn. Khi in tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng, tôi về Mọc xin phép gia đình tác giả, gặp chị Phụng và bấy giờ cụ bà thân sinh Vũ Trọng Phụng vẫn còn. Mẹ chồng nàng dâu sinh sống gieo neo ngày ngày cắp cái thúng mấy lọ thuốc viên ra chợ Ngã Tư Sở. Bao nhiêu năm, sách của Vũ Trọng Phụng bây giờ lại được in, cả nhà mừng lắm. Quý tôi như bạn bè cùng thời với nhà văn đã khuất. Thật ra, tôi không biết mặt Tản Đà và Vũ Trọng Phụng. Tôi vào nghề viết, các nhà văn này đã qua đời. Khi ấy, các nhà xuất bản Minh Đức, nhà Thép cũng rục rịch in Vũ Trọng Phụng, quảng cáo rầm rộ. Ngay ở cơ quan cũng lây nhau cái cảm tưởng tư nhân in mới phóng khoáng, nhà xuất bản của đoàn thể gò bó và dường như lỗi thời. Người ta lên nước và cạnh tranh như thời trước. Nhà Minh Đức yêu cầu được kỷ niệm Vũ Trọng Phụng chung với chúng tôi ở Nhà Hát Lớn thành phố vì lý do nhà ấy cũng in Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi định in lại tiểu thuyết Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng. Tôi tìm gặp chị Vũ Bằng. Biết tin, lão Minh Đức nhưng nháu mắt trố xộc đến luôn. Chúng tôi in kịch Kim Tiền của Vi Huyền Đắc, Nhà xuất bản Minh Đức cũng in Kim Tiền, đã đưa đơn kiện vi phạm bản quyền tác giả. May, được bác sĩ Vi Huyền Trác, con trai cụ Vi bảo đảm, nhà xuất bản chúng tôi không bị thua kiện.
Chỉ được trôi chảy khi in lại tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Cũng ngẫu nhiên không bị giành giật. Nguyễn Tuân không để ý tướng số nhưng Nguyễn Tuân bảo: Trông mặt thằng Minh Đức đã thấy khó chịu. Mình cũng đã đả tiền nhiều nhà xuất bản, nhưng chưa cầm của thằng này một xu. Vả chăng mưu sĩ Nguyễn Hữu Đang của nhà Minh Đức thậm ghét văn Nguyễn Tuân. Văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Hữu Đang đọc một đoạn cũng không nổi. Âu cũng là lẽ đời, các đấng cao ngạo thường không nhìn mặt nhau.
Nguyễn Tuân nhớ lâu và ghét dai. Không biết bao nhiêu năm, Minh Đức đi tù về vẫn ôm mộng xuất bản. Anh phác một kế hoạch chiến lược về xuất bản nhờ tôi giới thiệu với những cơ quan có trách nhiệm. Việc không đến đâu, Minh Đức rnở quán cà phê và bán sách cũ trên phố Hàng Bút. Khai trương quán, Minh Đức nhờ tôi mời Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân không trả lời. Rồi Minh Đức mất bệnh, Nguyễn Tuân cứ vặn tôi: Sao ông đi đưa đám thằng ấy?. Tôi bảo trong đầu tôi không thấy có câu trả lời nào về việc như ông hỏi tôi. Nguyễn Tuân vẻ không tin. Song cũng không vặn nữa, chúng tôi tránh đi bằng cách đụng cái chén hơi mạnh.
Hồi ấy, đến nhà xuất bản Minh Đức, tôi quen Minh Đức và Tô Thuỷ Nguyễn Văn Kiện, cùng người Thái Bình, một trong những cây bút làng thơ mới, thời kỳ đầu, lúc đó làm thư ký nhà xuất bản. Từ năm 1945, Minh Đức ở Thái Bình lên Hà Nội làm xuất bản. Nguyễn Công Hoan giới thiệu cho tôi làm quen và bảo bố thằng này ở phố Pi kê buôn đồng nát mà giàu có, chẳng biết thực hay đùa. Nhà xuất bản Minh Đức ở phố Phan Bội Châu. Trương Tửu như chủ nhà ngồi đấy. Tôi cũng chưa được biết Trương Tửu trước kia. Ông Trương mở rượu, đàm đạo. Dễ thường chỉ có tôi uống, cảm thấy dễ chịu. Lững thững về cơ quan. Buổi trưa, trải chiếu, Nguyễn Bính, Hoàng Tố Nguyên và tôi nghỉ lại trong buồng làm việc. Hoàng Tố Nguyên hỏng một chân. Nhưng có một chiếc giày đánh bóng lộn, đặt tượng trưng trên ghế - chiếc giày đẹp đẽ, không bao giờ được xỏ chân. Khi đó mọi người tự do ra báo, mở xuất bản.
Trong thành phố nhan nhản báo hàng ngày Thời Mới báo tuần Nhân Văn, Tre Xanh, Trăm Hoa và những tập san định kỳ Giai Phẩm, Đất Mới... Ông Phùng Ngọc Long nhà xuất bản Hưng Văn ngoài khu 8 về tìm tôi bàn mở xuất bản. Ông Long chính là chú Luyến ngày trước ở phố Hàng Mã mà tôi đã xuống ở hai năm, đến khi thi trượt vào trường Cửa Đông mới trở về quê. Nguyễn Công Hoan và tôi đến nhà ông Vũ Đình Long. Những năm về sau, ông yếu bệnh tim, bệnh thở. Vẫn chịu khó ngày nào cũng đi quanh hồ Hoàn Kiếm. Và hăng hái muốn mở lại nhà Tân Dân. Nguyễn Công Hoan bảo: Làm gì thì làm, đừng làm xuất bản, ông ạ. Mặc dầu khi ấy có ông Thuật hiệu sách cũ dốc Bà Triệu, em ông xuất bản Đời Mới Trác Vỹ xưa kia, ông Thuật định làm xuất bản sẽ in mở đầu hai tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, thì Nguyễn Công Hoan không khuyên can câu nào. Hai nhà giáo bè bạn lâu năm, Nguyễn Công Hoan nói thật điều mình nghĩ và tính toán hộ ông Long.
Dần dần, ở cùng cơ quan tuy hằng ngày gặp và làm việc, nhưng cách sống của mỗi người cũng úp mở nửa thật, nửa giấu. Chơi với nhau đấy, rồi đi đâu, làm gì không biết. Và xem nhẹ cả những việc tình nghĩa. Tôi đã lo toan cho Lê Đạt bỏ được cô Nguyện người vợ lấy lúc đi cải cách ruộng đất, Hoàng Cầm êm thấm ra toà dứt khoát với cô hàng xén chợ Hanh. Sự giao thiệp hai mặt và cánh hẩu nảy nở ngay cả trong việc đáng lẽ một lòng và phải trái cần ngang mặt, bởi tôi làm bí thư, Lê Đạt phó bí thư chi bộ Đảng. Nhưng cũng chỉ thế thôi.
Tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính mới xuất bản. Nguyễn Bính tập kết ở miền Nam ra. Mấy năm sau ở trong ấy Nguyễn Bính thôi không công tác đâu nữa, nhưng vẫn ở vùng giải phóng Đồng Tháp Mười. Vui thú điền viên nơi kênh rạch và bạn bè qua lại giúp đỡ. Khi đất nước bị chia đôi, Nguyễn Bính được gọi đi tập kết, cũng như cán bộ được phân công ra miền Bắc. Nguyễn Bính về công tác nhà xuất bản, cùng làm việc với tôi. Gặp lại nhau thì hơn mười năm đã qua mà tưởng như mới hôm nào cùng anh em nhà thơ Việt Châu Lông ngỗng gieo tình và Tân Phương đi ăn cháo cá chợ Cũ. Những người lang thang bất đắc chí ngày ấy như xưa nhưng cũng thật khác xưa:
Có lần tôi xuống Nam Định, đến tìm Võng Xuyên công tác ở thư viện thành phố. Người nhỏ nhắn, già đi nhưng vẫn khoẻ. Tay bắt mặt mừng xong cung cách thì thưa gửi đồng chí, báo cáo anh, đề nghị thủ trưởng, lôi thôi quá. Trong khi tôi tưởng như vừa mới đấy, cái thằng Võng Xuyên tên là Truật mở bàn giấy biện sự phòng mà chúng tôi gọi đùa là sinh sự phòng, ông thày cò chạy kiện tôi không nhớ ở cái phố vắng, phố hàng Nâu hay bến Củi. Thày cò Truật với Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương đốt thuốc phiện và làm thơ, đọc thơ suốt đêm trong cái phòng hẹp nhà Truật được gọi là lò luyện linh đan. Khách ròng rã ở chơi không chịu nhổ rễ, hôm nào cũng say thuốc đến bóng môi, bóng mắt. Chị Truật người đãy đà, phúc hậu vẫn cơm rượu đãi bạn chồng ngày hai bữa tươm tất Không hiểu tại tôi hay tại anh mà bây giờ lại ra sự cách bức và khách sáo đến thế. Cái năm Võng Xuyên về hưu rồi, lên ở với con trên Hà Nội tôi mới rõ hồi ấy ở cơ quan, anh chỉ làm việc giữ mấy quyển sách thư viện mà cái ông sinh sự phòng kiếm ăn hồi xưa đương bị đấu cật lực vì ly lịch thầy cò và những chơi bời. Cái vô ý của tôi thật tàn nhẫn.
Khi đó nhiều người còn ăn và ở cơ quan, phòng làm việc cũng là nơi ở. Tính nết Nguyễn Bính thì chẳng khác xưa. Đời là một cuộc chơi dài, mà thiên hạ phải cung phụng nhà thơ. Bọn mắt trắng, hiểu thế không? Những trò ấy nhiêu khê, tần phiền, cổ quái lắm. Tôi nghĩ thế. Làm biên tập báo, xuất bản như làm khoán, chẳng cần giờ giấc bàn giấy. Mà cũng vẫn không hợp với Nguyễn Bính. Có mỗi việc giao cho Nguyễn Bính tự tuyển tập thơ Nước giếng thơi - tác giả làm lấy tập thơ cho nên mới có được cái tên sách không phải tên một bài thơ nào trong tập, mà cũng trầy trật mãi. Hứng làm thơ lên thì tung hê công việc, thích đi chơi thì vay tiền, cơ quan lúc nào chẳng có tiền. Cho tao vài ba đồng là bao. Say khướt tối ngày, uống tợn hơn xưa nhiều. Nhà hát lớn có kỷ niệm Nguyễn Du. Nếu tối ấy không có ban tổ chức Hoàng Châu Ký ra can thiệp, còn lôi thôi nhiều. Đã muộn, ở cuộc rượu nào vừa đứng lên, Nguyễn Bính ngồi xích lô đến Nhà Hát Lớn.
Những người giữ cửa không cho vào. Thế là Nguyễn Bính làm toáng lên:
- Không phải giấy má gì cả! Giỗ Nguyễn Du mà Nguyễn Bính không vào được a!
Người ta phải lập lại trật tự với người say rượu. Rồi Nguyễn Bính cũng vào được. Chắc được vào rồi cũng ngồi ngủ mà thôi.
Một lần Nguyễn Bính bảo tôi, giọng bình thường không hơi men:
- Mày phải kết nạp hội viên Trúc Đường chứ!
- Nói anh Trúc Đường làm đơn rồi hai thằng chúng mình giới thiệu anh, theo thủ tục.
Nguyễn Bính nổi cáu, hỏi lại:
- Trúc Đường mà phải làm đơn xin vào Hội Nhà Văn à?
Rồi vùng vằng bỏ đi.
Tập thơ Cửa biển của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Dần đã được Hoàng Cầm chọn xong và đưa in. Vẫn phải chòng vòng chèo chống hàng ngày với Nguyễn Bính những chuyện tương tự trên mà chưa xong được Nước giêng thơi. Những cố nhân như Yến Lan và tôi bây giờ đã mát tính, không như các bạn Mai Lộc, Đoàn Giỏi ở miền Đông trong Nam, trên ghe đò hay trong rừng, phải cho chính thằng mắt trắng ấy một bài học, chứ chẳng phải thiên hạ nào, giã cho nó một trận rồi mới lại thương lại. ít lâu sau, Nguyễn Bính cũng thôi, không công tác ở đâu nữa.
Không biết ai đã giúp tiền cho Nguyễn Bính ra những số báo Trăm Hoa đầu tiên. Tôi vẫn đến chơi, hồi này có tiền, tôi được Bính rủ đi đánh chén luôn. Cái cô mọi khi vẫn giới thiệu là người yêu thơ, là thư ký đánh máy, bây giờ đã là vợ. Nhà thuê một tầng dưới rộng rãi, gần phố Hoà Mã treo bảng Trăm Hoa - máy chữ đánh rào rào, người ra vào toà báo nhộn nhịp.
Trên có sáng kiến lấy giấy và tiền nhà xuất bản giúp báo Trăm Hoa. Tôi được giao thuyết phục làm sao ra được một báo tư nhân nhưng có tiếng nói chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân Văn. Công tác không khó khăn đối với tôi, nhưng đã thuộc tính lung tung của Nguyễn Bính, tôi liền kéo cả anh Trúc Đường đến. Nguyễn Bính cảm kích được giúp đỡ. Trúc Đường đã có kinh nghiệm làm báo lâu năm, từ ích Hữu đến Đàn Bà và rồi Công Dân ở đồng bằng sông Hồng trong kháng chiến. Chúng tôi bàn về Trăm Hoa lâu dài và cả từng số báo. Tôi mua hộ giấy in, xe đến. Tờ Trăm Hoa rõ ra một vẻ khác. Không về bè với Nhân Văn, như chẳng đi với ai. Trên nhận xét từng số, từng bài cho là vẫn chưa đủ hơi sức hỗ trợ cần thiết. Tôi bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính cười mỉa:
- Trăm Hoa phải thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ. Nếu không thì mày làm quách, cho xong?
Tôi nghe cũng có lý. Có lẽ vì thế tôi không còn hào hứng vận động cho chuyển được Nguyễn Bính. Có lần Nguyễn Bính nhắn tìm tôi. Chắc lại đòi giấy và tiền. Tôi không đến. Mấy lỵ cũng không phải tiền của tôi. Biết ăn nói thế nào. Một buổi tối, Nguyễn Bính rủ tôi ra nhà hàng Lục Quốc, phố Huế. Nguyễn Bính nói:
- Hôm nay ăn cỗ đám ma Trăm Hoa!
Tôi hỏi:
- Trúc Đường đâu?
- Ông ấy không đi.
Có thể vì tôi bỏ Trăm Hoa anh Trúc Đường không bằng lòng tôi.
Mấy lâu sau, Nguyễn Bính được giới thiệu về ty Văn hoá Nam Định. ở Hà Nội một dạo, vài ba tháng hay một hai năm cũng không để ý, thỉnh thoảng gặp chỉ thấy nhăn nhó, rầu rĩ. Xưa nay thì cái thằng này vẫn thế. Những cùng quẫn tự chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi.
Người con gái ấy yêu thơ tuổi đương thì. Những mối tình như thế của Nguyễn Bính, chẳng rõ khi ở Huế, ở miền Nam thế nào, nhưng ở ngoài này, bạn bè đã biết tính, biết tật Nguyễn Bính, thấy gái như quạ vào chuồng lợn, như ếch vồ hoa. Thề bồi đấy rồi lại nhăng cuội ngay đấy. Kiểu như những câu thơ đố tài hoa: Nhà em ở dưới cây mai trắng (Bạch Mai) Bên gộc mai vàng (Hoàng Mai) cạnh đế kinh (Phố Huế), những người con gái, biết bao nhiêu con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa thơm bướm lượn không giống thơ, không như thơ. Thế thì lại vứt bỏ. Người con gái đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm Hoa cũng chẳng ở được bao lâu. Chỉ tội đã có với nhau một mụn con.
Từ lâu, tôi muốn viết một truyện ngắn. Chưa viết nhưng đặt tên trước truyện ngắn: Tên cháu là Hiền. Câu chuyện đôi vợ chồng bỏ nhau. Đã được một con trai tên là Hiền, mới bập bẹ. Mẹ cháu trẻ quá, còn như ở tuổi son rỗi, đã đi bước nữa. Mẹ đem Hiền về trả bố Hiền.
Hiền bụ bẫm, phúng phính rồi chẳng bao lâu Hiền còm nhom, ghẻ lở, mụn nhọt ghê người. Ngày ngày bố ẵm vác Hiền trên một bên vai, như mèo tha con. Đến đâu, từng đám ruồi nhặng xanh xám đuổi theo. Một tối kia, bố rượu say rồi bố bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu - Ô hay, làm sao mà bao nhiêu tâm sự nước mắt nụ cười của người viết truyện này, trong những năm ấy, cứ quẩn quanh chỗ cái dốc Hàng Kèn oan nghiệt thế nhỉ?
Chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một người đàn ông đương đi tới. Trở về, cơn say vật bố thiếp đi. Quá nửa đêm, quờ tay không thấy con. Bố vụt nhớ lại tất cả. Bố lật đật chạy đi đấm cửa nhà mấy người bạn. Chúng tôi đã đi báo hầu khắp các đồn, các trạm công an trong thành phố. Nguyễn Bính thất thểu suốt đêm. Sáng ra, nhợt nhạt thẫn thờ bước giữa trống không. Tìm thế nào bây giờ vì không phải là cháu lạc. Chỉ còn cầu mong biết đâu là cái người hốt nhiên được có người dúi cho đứa bé, lại chẳng là một người đương hiếm trẻ.
Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu tối hôm ấy - nếu trời để cho chứng sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền. Thôi bây giờ viết vào đây câu chuyện thương tâm ngày ấy. Biết đâu, chuyện này - như một cái nhắn tin tìm người ruột thịt thường đọc trên báo. Chẳng đã có bao nhiêu cha mẹ anh em ly tán những năm đói những năm chiến tranh ngót nửa thế kỷ, mà rồi cũng tìm được nhau. Đột nhiên, tôi hy vọng. Tên cháu là Hiền nhé.
Có lần qua Nam Định, được nghe Kim Ngọc Diệu kể rằng câu chuyện đau đớn ấy, mỗi khi nhắc lại lần nào Nguyễn Bính cũng khóc.
Báo Nhân Văn đã ra được mấy số. Có dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy. Báo Nhân Văn đương hô hào dân chủ và in một số sáng tác phong cách mới. Bạn đọc chú ý và chờ đợi sự đổi mới của văn nghệ. Nhưng không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào trăm hoa đua nở. Mấy cây bút cộng tác với báo Nhân Văn không biết được tình hình thật sự như trên. Đâm ra ngộ nhận tai hại về hoàn cảnh, về văn học và cả về tài năng của họ nữa.
Chiến thuật thâm hiểm ấy gây nên cách nhìn lẫn lộn số đông tác giả với lòng chân thành ở mỗi người và ở tổ chức. Khí còn ở rừng, chúng tôi đã thuộc tính Nguyễn Huy Tưởng, đôi lúc còn chế giễu, những lúc Nguyễn Huy Tưởng tròn miệng tròn mắt thao thao ca tụng khấn vái L.Tônxtôi, Ifxen... và ở mỗi người bạn mà anh quý, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra những ưu điểm tô hồng rầm rộ. Ai nấy đều cười và quen đến độ, Nguyễn Huy Tưởng sắp khen, đã biết khen thế nào rồi. Nhưng về thành phố, từ lúc nào xuất hiện một Nguyễn Huy Tưởng lầm lỳ, đăm chiêu, ít nói và nói cũng khác mọi khi. Nguyễn Huy Tưởng không bằng lòng mấy anh em quanh mình giấu diếm làm báo Nhân Văn, nhưng Nguyễn Huy Tưởng cho rằng chúng nó cũng vẫn là chúng mình cả thôi, chẳng lẽ chỉ biến đâu một lúc, trở lại là thằng khác à?
Những cơn nghĩ dày vò Nguyễn Huy Tưởng lúc ấy là tình hình thế giới. Vốn phục Ti tô, Nguyễn Huy Tưởng không bằng lòng với việc nước Nam Tư bị đuổi khỏi cục Thông tin quốc tế - một tổ chức tập hợp lực lượng dân chủ và tiến bộ thích ứng với tình hình mới. Dồn dập, tháng mười năm 1956, xảy ra sự kiện Hungari. Mấy đêm Nguyễn Huy Tưởng không chợp mắt được. Mở cửa trông sang cái hiệu Tàu vằn thắn mì hôm trước đông khách suốt ngày tới khuya, bỗng có thì thào: vằn thắn thịt chuột. Khách vắng hẳn. Buồn thiu như Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng nói:
- Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.
Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các báo. Nguyễn Huy Tưởng vốn kỷ luật, chịu khó viết nhật ký và sưu tầm tài liệu. Nhưng chắc Nguyễn Huy Tưởng đã không ghi lại những trăn trở, những khủng hoảng như tôi vừa kể trên. Bấy giờ, những ý kiến khác lạ không mấy ai dám nói ra và ghi lại. Thà chôn sâu trong lòng. Trò chuyện với Nguyễn Huy Tưởng cái cười vẫn đôn hậu thế, nhưng khác trước rồi. Có người bảo gần đây bác sĩ Phạm Ngọc Khuê dưới Hải Phòng hay lên chơi với Nguyễn Huy Tưởng. Khi còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng mê và phục thuyết Sinh lực mới của anh bạn có khuynh hướng tờrốtkít này. Nguyễn Huy Tưởng thân với Nguyễn Hữu Đang. Chúng tôi đã cùng hoạt động hội truyền bá Quốc ngữ và Văn hoá Cứu Quốc. Nguyễn Huy Tưởng quý bạn, bao giờ cũng phát hiện ra những khía tốt của bạn, nhưng tôi không tin Nguyễn Huy Tưởng thay đổi vì ảnh hưởng ai. Con người chân thành ấy chỉ nghĩ thực, nói thực Có khi tôi đùa:
- Ông là thằng cộng sản dân tộc.
Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.
- Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải.
- Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.
Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm rên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.
Bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng đang ấp ủ dự định viết tiểu thuyết Sông mãi với Thủ đô. Sự tích hai tháng chiến đấu trong lòng Hà Nội của Trung đoàn 102 những ngày đầu. Đề tài ấy Nguyễn Huy Tưởng theo đuổi đã lâu, từ khi trung đoàn được thành lập giữa liên khu 1 ở nội thành, đến hôm trung đoàn vượt vòng vây ra, chúng tôi đã đi đón ở cánh đồng Gối, Nguyễn Huy Tưởng càng mê. ở Việt Bắc, Nguyễn Huy Tưởng đã có dịp đi nhiều chiến dịch với Trung đoàn Thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng vốn có nghị lực và thiết thực, đã chuẩn bị thì phải viết và viết được.
Nhưng từ khi về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng có hoàn cảnh được về luôn Lai Xá, doanh trại trung đoàn nhà cao cửa rộng ở đấy. Nguyễn Huy Tưởng đã đến ở lâu với trung đoàn. Ngót mười năm chinh chiến, hầu hết các đại đội trưởng, trung đội trưởng đã không còn. Những trận đánh nhanh nhẹn tài hoa phong cách thanh niên Hà Nội của Trung đoàn Thủ đô đã nổi tiếng khắp Việt Bắc trong các chiến dịch Biên giới, Trung du, Hoà Bình, Đông Bắc, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Giữa những cuộc chiến dũng mãnh ấy, các chỉ huy đại đội, trung đội đã ngã xuống nhiều. Và cũng biết bao nhiêu tâm trạng phức tạp, éo le, trái ngược trong một con người chiến sĩ. Mấy tháng trời, Nguyễn Huy Tưởng cất công về Lai Xá. Kết quả thu được, Nguyễn Huy Tưởng sẵn hào hứng mới về một tác phẩm khác hẳn bản thảo ban đầu đã viết. Trung đoàn Thủ đô mới được Nguyễn Huy Tưởng phát hiện, khí thế và truyền thống, coi cái chết như không. Bao nhiêu chiến sĩ tín nghĩa, trung thực và cũng thật tàn bạo, - anh hùng và hoang dại, đằng nào cũng đều cực kỳ. Vẫn cái nhìn và phong cách Nguyễn Huy Tưởng, cái gì cũng tới chuẩn tối đa, nhưng không còn Nguyễn Huy Tưởng lúc nào cũng ngạc nhiên và trố mắt, khen không tiếc lời. Nguyễn Huy Tưởng định xây dựng và sáng tạo lại nhiều mặt cuộc sống mãnh liệt và phức tạp, tinh thần chiến đấu quên mình, sắc sảo tính cách Hà Nội, lẫn lộn và chống chọi với tâm địa hèn nhát, thói mặc cả tình thế. Trung đội trưởng Bạch Ngọc Liễn còn sống sót đến bấy giờ đã hiện ra như một nhân vật tiêu biểu và cũng là người cho Nguyễn Huy Tưởng thấy được những góc cạnh u tối trong cuộc đời. ở chiến dịch Sông Thao năm 1949, tôi đã được đọc nhật ký của Bạch Ngọc Liễn. Cái hôm Bạch Ngọc Liễn đứng gác trên sân thượng nhà in Lê Cường phố Hàng Bồ nhấc khẩu trung liên lia một băng đạn vào chiếc phi cơ spitphai vừa xà xuống bắn phố Hàng Thiếc khu Đông Thành. Chiếc máy bay ấy rơi ngoài bãi Nghĩa Dũng bờ sông, có lẽ là chiếc máy bay đầu tiên của địch bị hạ trong cuộc trường kỳ kháng chiến. Những người còn sống mà Nguyễn Huy Tưởng đã gặp và những người đã chết Nguyễn Huy Tưởng được nghe bạn bè kể. Kỷ niệm làm sống lại những sự thực đã cho Nguyễn Huy Tưởng những khám phá mới. Nguyễn Huy Tưởng có ý muốn viết lại Sống mãi với Thủ đô.
Một đợt nghiên cứu chính trị của văn nghệ sĩ và cán bộ quản lý văn hoá văn nghệ ở Trung ương. Hai mươi ngày, lên hội trường ở cái gác làm sàn nhảy trên sân thượng khách sạn Rít ở Bờ Hồ. Ngoài cửa sổ, vòm lá sấu xanh rì, thấp thoáng bên kia mặt hồ Hoàn Kiếm. Giữa tình hình áy, lớp nghiên cứu thật quan trọng. Nhưng chúng tôi không có trách nhiệm đáng kể và thói quen nhởn nhơ của tôi thì vẫn thế. Đường sắt Hải Phòng - Lào Cai vừa khôi phục nối với Côn Minh bên Vân Nam. Tôi đi dự khánh thành trên một đoàn tàu khách, có cả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng... Làm thế nào mà Nguyễn Tuân cũng mò đi! Lúc ấy, Nguyễn Tuân đương làm Tổng thư ký hội văn nghệ cơ mà. Có lẽ xưa nay văn nghệ văn nghẽo vẫn thế, bảo là cần thì cần lắm, mà là thường thì cũng thường thôi. Dong duổi đó đây thích hơn.
Những chiếc tà vẹt tám tấc, những thanh ray cổ lỗ nhất thế giới. Chúng tôi muốn được thú vị ngồi trên toa mà đường ray là những thanh tà vẹt bánh tàu đương lăn dưới kia, khi kháng chiến tiêu thổ, người các làng bên Đoan Hùng lên Tuyên Quang ven sông Lô đã sang tận sông Thao dỡ từng chiếc khiêng về làm cầu khỉ, cầu ao, cọc bờ rào. Giữa mùa mưa lũ, đường đất thó sống trâu trơn như đổ mỡ, ở Ao Châu, Gia Điền, Đan Hà, Đại Phạm, Ba Quanh, Thinh Cù, người chống gậy qua những cầu ray nhún nhảy. Những thanh sắt lưu lạc bây giờ được vác về đặt tên taluy mới, các làng ven đường lại đổ ra cắm cờ lên, đắp đất bắc đường cho chóng thấy tàu hoả chạy qua, thật hăng hái làm cũng như khi cật lực đào phá đường tàu. Những kỳ diệu, bấy giờ chúng tôi cho là thế cả như trong thành phố, cái tàu điện cải tiến, ông vát man có ghế ngồi không phải đứng lái như xưa. Trong khoang bỏ ghế hạng nhất, chỗ ngồi đồng loạt à thế là dân chủ. Và không biết cái đường xe lửa Hà Nội - Vân Nam này của công ty hoả xa Việt Điền được mua lại hay là ta đã sung công, cứ cho là ta sung công cho oai? Còn thật là sướng mắt khi thấy báo đăng tin kèm ảnh chụp, rồi một hôm nhìn được hẳn hoi chạy ngoài đường cái ô-tô đầu tiên của quân giới lắp ráp được. Sau đít xe, chiếc biển kẻ ba số 0 rồi mới đến con số một đỏ choé - nhà máy quân đội ta đã sản xuất được cả ô-tô! Những đồ đồng nát đem chữa chạy vá víu lại mà khiến ta có thể vỗ tay lên được chủ nghĩa xã hội thì đến ngơ ngẩn cả người thật.
Nguyễn Tuân không nhiều tâm trạng và băn khoăn thời sự với chính trị như Nguyễn Huy Tưởng. Con người ấy quan niệm về tự do là không bờ bến không chính trị, nhưng cũng không bao giờ lung tung, đúng nghĩa ra là một lối sống nền nếp. Cùng Nguyễn Tuân, nhiều lần tôi tiếp khách nước ngoài. Nguyễn Tuân chuyện thật vui, mà lại rất nghiêm chỉnh. Cái ngang ngang Nguyễn Tuân một mình một tính làm cho người ta hiểu lầm và dễ vui chuyện phóng đại lên. Những tiệc đứng tiệc ngồi trong dịp các lễ lớn ở một số sứ quán.
Thông thường, khách ăn uống đủ, trò chuyện qua loa với người bên cạnh rồi chỉ còn đợi vị khách cao nhất của ta chào chủ tiệc, thì mọi người lục tục ra theo. Nguyễn Tuân không thế. Nguyễn Tuân làm những sự khác thường, khác thường nhưng tế nhị. Nguyễn Tuân vốn khảnh ăn. Đôi khi sắp đến hẹn đi, Nguyễn Tuân vẫn ăn uống như thường, không bỏ cơm nhà. Nguyễn Tuân thích trò chuyện với mấy người phóng viên thường trú ở Hà Nội của báo ý, báo Pháp, báo Liên Xô: Cầm dĩa, lấy một miếng thịt sấy, một ít trứng cá. Không cầm rượu rót sẵn ngoài bàn, Nguyễn Tuân vào cái quầy ở phía trong phòng tiệc - mà chỉ khách thạo uống mới khám phá được chỗ góc rượu thân ái ấy. Nguyễn Tuân lấy một cốc rượu mạnh, cô nhắc hay uytky rồi ra đứng một mình. Như nhấp nháp và nhìn ra xem người ta đương xúm xít quây quanh bàn.
Hôm ấy cao hứng - vâng, thật cao hứng mà không phải vì say, ở sân cỏ vườn sứ quán Pháp, khách đã vãn, Nguyễn Tuân vẫn cầm dĩa, lại châm thuốc hút và đủng đỉnh đứng đấy. Cuộc chiêu đãi không phải đã kết thúc sau lúc tiễn khách. Nguyễn Tuân biết kiểu Tây ăn cũng chẳng khác phong tục lâu đời ở quê ta, nhà có cỗ bàn đám cưới, khách khứa đi về gia chủ mới dọn ra một mâm - không phải cỗ vét mâm bát mới hẳn hoi, nhưng là mâm người nhà. Bao giờ những mâm người nhà cũng thật sự vui nhất. ở sứ quán này cũng thế. Tôi đã được dự mâm người nhà thế tại sứ quán Trung Quốc ở Tân Đê Li bên ấn-độ, và ở Êtyôpi đến bấy giờ ai cũng mới uống say. Cho hay cái ý nhị trong ăn uống vốn là tính người và kinh nghiệm nhân loại từ tiền sử cho đến ngày nay thật phong phú. Người nhà, suốt buổi lo đưa đón, phục dịch, bây giờ mới vào cuộc cho mình. Ông đại sứ đầu trò - cuộc chè chén kéo dài không biết khuya đến đâu. Cái vị khách từ lúc tiệc chính vẫn đứng một mình đằng kia, bấy giờ bước lại bàn chủ tiệc người nhà và nâng cốc. Nguyễn Tuân lịch sự cạn một cốc của ông đại sứ Pháp vừa mời lại. Rồi khách mới ý tứ chào, ra về một mình. Đường khuya đã vắng ngắt, chỉ còn người công an đứng trong chòi gác. Những khác người trong lối sống, những tế nhị, kiểu cách mà không ồn ào. Cả trong văn Nguyễn Tuân, từ triết lý đến mỗi câu mỗi chữ. Những ai có trách nhiệm đọc Nguyễn Tuân đã bỏ công soi mói, bẻ hành bẻ tỏi chỉ là thói quen gò ý và trịch thượng. Thời chống Mỹ, Nguyễn Tuân viết một loạt ký về Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, thế mà vẫn có những bút chì đỏ gạch từng quãng lưu ý cấp trên. Tôi gặp khó khăn bởi những chuyện ấy, vì Hội Văn nghệ Hà Nội đã in lần thứ nhất tập bút ký này. Công việc gọi là theo dõi ấy thật sự là đố ky và bề trên, khác nào ngày nay người ta dùng lẫn hai chứ theo dõi mà nghĩa một thời của nó không đẹp đẽ lịch sự như bây giờ đài báo cảm ơn bạn đọc và người nghe đã theo dõi. Không, chỉ có mật thám theo dõi người bị tình nghi, đội xếp theo dõi kẻ cắp sắp móc ví. Nghĩa thời trước của hai chữ theo dõi là vậy. Xem lại những bút ký Phở, Tình rừng, Tờ hoa, có thể đọc một lần rồi đọc lại lần nữa. Không vì thích thú mà còn vì ngạc nhiên. Đấy chỉ là những áng văn bộc lộ những nét riêng với cái nhìn đáo để và trang nhã, mài những cái ấy đi thì còn đâu văn Nguyễn Tuân.
Mấy chữ Nguyễn Tuân viết cho tôi, từ Sa pa - không đề ngày tháng. Dấu bưu điện trên cái bưu thiếp ảnh màu rừng thông, mái nhà nhô ra trong sương mù và bóng Hoàng Liên Sơn.
Hoài,
Mình leo Hoàng Liên Sơn cả lên cả xuống mất 5 ngày. Người đang mệt và đau gối. Khoe khoẻ là xin huyện uỷ thuê ngựa cho và sẽ đi tiếp vào Phong Thổ. Mình ở trên đỉnh ca nhất, được thấy hoa đỗ quyên nở rất đẹp. Đỗ quyên màu hồng điều, cánh sen vàng nở giữa rừng trúc phất trần. Trong đời mình, trong mọi mùa xuân, mình chưa bao giờ thấy mây và hoa nhiều đến như thế. Lên đây lạnh, mưa gió như bão, túi luôn phải có chai rượu mạnh để chống khí núi. Hết 2/3 lạng cao hổ rồi.
Nguyễn Tuân
Khi lên cao, mình có bị ong đốt, mặc dù chẳng có trêu phá gì nó.
Cái câu tái bút ong đốt vu vơ chỉ gửi cho tôi này, chắc nếu đăng báo, in sách cũng lại điêu đứng đấy. Ôi là trời, cái tính người ta thế, chứ xỏ xiên gì đâu.
Có một thời, những người theo dõi báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. Không biết vì tổ chức đặt ra công tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được làm thầy thằng bị (được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường chưa bao giờ giảng cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý nghĩa, trước hết bài văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:
- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi!
Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có gì khác.
- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi.
Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:
- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ!
Những câu Nguyễn Tuân nói thế, Nguyễn Tuân bảo thế đến tai Nguyễn Tuân quá nhàm. Càng khó khăn, càng gay go, khi cả buổi tay khư khư quyển sổ đứng vẫn chưa đong được tháng gạo. Mỗi hôm mua bó rau muống, rau dền, phải sắp hàng dài hơn - may thay, nhà văn già, hay là nhu Nguyễn Tuân đã vỗ ngực xưng với Mộng Tuyết: hàn sĩ đỏ, nhà văn đỏ và cao tuổi ấy đã được bà lão và cô con gái út cáng cho những vất vả về gạo nước mà ông chỉ trông thấy đã đủ mệt nhọc rồi. Cái đèn điện không chao cứ nhè đến bữa ăn chập tối thì tắt ngỏm. Thế là buông đũa thở dài ca cẩm, tưởng tượng như bí thư thành uỷ đứng trước mặt:
- Đấy điện khí hoá thành phố của ông ấy đấy. Trong khi vẫn lặng lẽ với tay lên giá sách lấy cây nến đỏ. Và vẫn tuân thủ, làm việc và đọc mê mải. Nửa đêm qua sông sơ tán sang huyện Quế Võ. Tang tảng sáng, vào quán chè tươi uống bán nước sớm xem người ta ăn phở thịt chó rựa mận. Trở về thành phố, báo động và máy bay còn rền rĩ trên đầu, Nguyễn Tuân đạp xe lên hồ Trúc Bạch. Thấy bảo có thằng giặc lái rơi xuống đấy, nhưng bị xách cổ đi rồi, còn thằng nữa nhảy dù xuống đường Thụy Khuê ven hồ đằng kia. Nguyễn Tuân đội cái mũ sắt khối Nato nông choen hoẻn - dạo trước có cái mũ lính cứu hoả có mào của Pháp, mới đổi được chiếc mũ Nato này. Nguyễn Tuân đến dự đám cưới của đội tự vệ tổ chức trên trận địa pháo cạnh cầu Long Biên. Rồi viết bài đăng trang nhất báo Nhân Dân.
Thế nhưng, những câu Người ta bảo ông nói thế này... thế này... vẫn vo ve đến. Cho hay cũng là thói đời. Câu nói mát mẻ, xỏ xiên, các thứ tiếu lâm thời thế ở đâu đâu hay quàng đến mượn tiếng Nguyễn Tuân bất mãn. Nhiều đến độ người nọ thổi vào tai người kia, nếu tò mò cộng lại, cũng không thể tin cái ông nhà văn dẫu có tiếng là ngạnh trê đấy, nhưng chắc cũng không hơi sức đâu bịa ra lắm chuyện đổng giả thế. Nhưng đồn thì cứ đồn.
Nguyễn Tuân lại nói:
- Kể ra mình cũng có tội. Cái tội hay nói bô bô, không kín võ được như cậu. Mà tớ chẳng có võ gì cả. Cũng không biết bơi, không biết cưỡi ngựa. Bởi thế mới sinh chuyện. Nhưng cũng không bực mình vì mọi thứ người ta đổ lên đầu đâu. Mình không nói thì thằng khác nói. Các nhà văn hoá dân gian nên sưu tầm và nghiên cứu tiếu lâm tục ngữ, ca dao thời sự, văn hoá dân gian đấy chứ.
Ông nói vui thế chứ ông cũng không phải người đa ngôn. Cũng như ở những thói quen khác, cái nỗi vẫn là, một mình một tính. Khi bực bội, chẳng kể to nhỏ, cái gì cũng vặc. Đuổi một người gõ nhầm cửa. Dửng dưng trước một người mình không ưa, dù người ta giơ tay định bắt tay. Lại thấy cái ông ấy vào cùng buồng trong bệnh viện, nhất định đổi sang buồng khác. Phàn nàn mùa này Hà Nội đến chết sặc vì mùi hoa sữa. Cười những cán bộ các tỉnh gà vịt đội lông công, cũng áo cánh lụa mã gà phe phẩy cái quạt giấy, cười cười như uỷ viên bộ chính trị. Chửi các báo địa phương làm măng xét hệt báo Nhân Dân Trên bảo chúng nó phải làm thế à. Rồi lại khó chịu với cả mình. Mình là cái chó gì mà có thằng cũng bắt chước. Cái tóc cái râu, cái batoong khệnh khạng vào nhà hát lớn. lên máy bay.... Ôi vui nhiều, cáu nhiều quá, bực mình quá.
Nguyễn Tuân nói:
- Thế này thì mình xin ra Đảng.
Nguyễn Tuân hay nói câu ấy khi bực bội. Nguyễn Tuân nhớ và ghi con số không thua Nguyễn Công Hoan thuộc sử. Ngày nào năm nào sở Liêm phóng Bắc Kỳ cho mật thám giải từ Hoả Lò lên căng Vụ Bản, châu Lạc Sơn vùng rừng núi Hoà Bình, Ninh Bình. Bị bắt ở Vọng Các, tống về Sài Gòn, xuống tàu thuỷ ra Bắc, tàu Chantilly ngày mấy tháng mấy. Đi hội nghị hoà bình thế giới ở Henxanhky qua Trung Quốc ở lại bao nhiêu hôm. Những lần lên Lai Châu, lên Hà Giang, năm nào mùa nào...
Chúng tôi ở Lào Cai về, đợt nghiên cứu 21 ngày vừa hết, còn buổi sau cùng. Tiếng vỗ tay bế mạc rầm rầm ngập cái sân thượng. Ông Phan Khôi ngang như cua ưa chơi trội, chống batoong bước ra về trước, còn quay lại phang một câu thế nào đấy, dường như bảo là người đi chợ Hôm sung sướng mua được quả chanh cốm, hỏi ra mới biết chanh xuất khẩu bị ế. ờ, người trồng chanh phải được ăn quả chanh ngon nhất chớ! Chẳng hiểu lão chửi bóng hay nói vỗ mặt. Nhưng mà cách nghênh ngáo tợn tạo của ông thì không ai lạ. ở Yên Dã trên Đại Từ, một lần tư lệnh Nguyễn Sơn đến chơi, Nguyễn Huy Tưởng mời anh em họp mừng ông tướng mới ở khu 4 ra và nghe ông tướng nói chuyện Kiều. Quá mười giờ đêm rồi, Nguyễn Sơn vẫn nói và hét toang toang. Phan Khôi nằm trên nhà đồi không ngủ được. Ông xuống, thò đầu vào cửa phòng, quát:
- Nói to thế mà không sợ đứt cổ a?
Rồi quay ra, lại lên chui vào màn.
Chúng tôi bị kiểm điểm qua loa: bỏ lớp học quan trọng đi ăn mừng đường xe lửa được khôi phục, việc không cần thiết. Báo Nhân Văn ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn. Nhà xuất bản Minh Đức tự đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ, cuối năm 1956.
Thành phố vẫn đương âm thầm cải tạo tư sản. Dẫu cho thường được nghe phân tích là ở nơi đô hội, thị dân chỉ có tiêu thụ thì giai cấp tư sản bé bằng con muỗi mắt.
Nhưng làm sao không đụng chạm đến từng nhà. Lại thêm biết bao nhiêu người họ hàng xa gần vừa bị chìm nổi sóng gió đấu tố ở nông thôn, từ Nghệ An, Hà tĩnh ra, Hải Dương lên. Nhiều địa chủ đã được sửa sai vẫn chưa dứt cơn hốt, bỏ quê về thành phố. Càng thêm nháo nhác, nhộn nhạo những đồn thổi.
Các đoàn thể tổ chức kiểm điểm và kỷ luật nội bộ những cán bộ tham gia viết và hoạt động chò báo Nhân Văn và tập san Giai Phẩm của nhà xuất bản Minh Đức.
ở hội Nhạc, Đặng Đình Hưng bị khai trừ đảng. Văn Cao, phải cảnh cáo, chỉ được ở hội nhạc không được ở hội văn, hội vẽ. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra đảng. Trên có nghị quyết không khai trừ, mà đồng ý cho được thôi. Có lẽ đến bây giờ, Nguyễn Tư Nghiêm vẫn giữ cuốn sổ tay ghi số đến thứ bao nhiêu lần những cuộc mời họp mà Nguyễn Tư Nghiêm không đi. Khoe với tôi như thế, anh có vẻ thú về những con số tỉ mẩn ấy. Khác Nguyễn Sáng, Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến. Những năm sau, trong lúc Hà Nội bị máy bay Mỹ quấy báo động liên miên, Nguyễn Sáng đã lo rất đứng đắn. Rồi giải phóng miền Nam, tao về thăm quê, họ hàng bà con hỏi chú đi làm Việt Minh, Việt Cộng bao nhiêu năm thế mà trên ngực không có cái mề đay nào? Mày bảo tao trả lời ra sao? Tao buồn lắm. Hoàng Cầm bị ra khỏi ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về sở Văn hoá Hà Nội. Phùng Quán nhờ có chú Phùng Thị, chánh văn phòng bộ Văn hoá đưa lên làm ở vụ Văn hoá quần chúng. Nhưng ai cũng bức bối không yên. Hoàng Cầm thì mở quán rượu, Phùng Quán câu cá hồ Tây, hiu hắt, dông dài, cho tới năm về hưu non. Đi Bắc Kinh dự kỷ niệm Lỗ Tấn về, ông Phan Khôi hào hứng viết về chuyến đi. Nhưng rồi nhạt dần. Ông ngồi yên. Ông vẫn được đãi chế độ nhân sĩ lương cao và tiêu chuẩn có người phục vụ, nhưng chẳng ai hỏi tới. Ông nằm yên. Mấy năm sau, lâm bệnh mất. Đám ma bác Phan Khôi, đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu. Trần Dần và Lê Đạt ra khỏi cơ quan, chuyên dịch không ký tên cho nhà xuất bản Văn Học. Nhà xuất bản Sự Thật thuê Trần Đức Thảo duyệt dịch sách lý luận kinh điển. Ban chấp hành Hội Nhà văn quyết định truất ba năm hội tịch Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán đăng tin trên báo Văn Học, cơ quan của Hội. Tôi không nhớ việc ở các hội nghệ thuật khác.
Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông Nhân Văn cả nước, mà tràn lan đến những Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm, chẳng bị kỷ luật gì, nhiễu người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn. Hữu Loan không ở nhóm nào cũng bỏ làm báo Văn Nghệ về Thanh Hoá. Nghe nói sinh nhai bằng nghề đi xe thồ và vào núi đập đá bán. Những cây bút trẻ, như Vũ Bão, như Lê Bầu, có mấy truyện in sách, đăng Văn nghệ Quân đội tươi mát lắm, cũng chột luôn. Triền miên lẳng lặng bề ngoài bình thường như đã xoá đi, nhưng bên trong thì khác. Người có vấn đề thì lo đối phó.
Người canh gác thì cảnh giác. Tập ký của Nguyễn Tuân đưa nhà xuất bản Văn Học lần nào cũng được trả lời : Phát hành người ta chưa lấy được đủ số lượng. Nhà xuất bản có nhã ý gửi tác giả ít tiền ứng trước, thỉnh thoảng lại ứng trước. Nhưng rồi cũng không hẳn yên ổn. Đôi khi lại tòi ra Đống rác cũ, lại Vào đời, lại Cái gộc, lại chuyện Bác Hồ đi tắm bãi Titốp ngoài Hạ Long...
Những người theo dõi lại vất, lại nhộn nhịp. Mấy năm đầu, đôi khi Lê Đạt, Phùng Quán cũng viết ký tên khác cho sách bướm sở Văn hoá, Công Uẩn, Lê Đạt hay Phùng Quán truyện dự thi về Lênin, truyện cho thiếu nhi Tâm Trọc về thăm nhà, nhà xuất bản Kim Đồng in, Trần Dần dịch tiểu thuyết Những người chân đất không ký tên. Chỉ vài người quen có biết. Sau có lẽ cũng buồn, vì tên tuổi chẳng đi đến đâu, các anh thôi. Hoàng Cầm thì vẫn thế. Ai bảo thơ Hoàng Cầm hai mặt, một mặt, không, Hoàng Cầm có thể cắt nghĩa thành ba mặt, bốn năm mặt cũng được. Chỉ có tâm hồn thơ và cái giọng vàng mười hát thơ trên đài Tiếng nói Việt Nam, là không ai quên với vẻ đẹp thơ lấp lánh vàng mã trang kim - nhận xét của Lê Đạt. Đặng Đình Hưng dịch tài liệu cho hội nhạc, buôn rượu lậu và làm thơ. Từ dạo làm cái bài hát theo thời Nông dân là quân chủ lực. Đặng Đình Hưng chán nhạc. Oái oăm như Văn Cao chỉ được sinh hoạt ở hội nhạc, thì lại kiếm ăn bằng vẽ bìa. Văn Cao làm bìa độc đáo, có nét riêng. Đặng Đình Hưng viết một tập thơ Nhân, có chỗ buồn tay làm mấy trang đánh dấu chấm như mưa. Hiện nay, tập thơ ô mai của Đặng Đình Hưng cũng nhiều bài lấy ở tập Nhân thơ đầu tay. Ông cử Hưng - như người làng gọi, túng kiết lắm. Xách bị buôn chuyến rượu trong quê Chương Mỹ ra để được uống ghé vào đấy. Nhưng vẫn những tưng bừng bất thường. Đặng Đình Hưng rủ tôi lo đêm Trần Khánh hát. Đặng Đình Hưng biết tôi thích cái giọng sạn sạn của Trần Khánh, người hát hay mà chưa học hát bao giờ và lận đận vì lý lịch. Đêm ấy, cả buổi tối, một mình Trần Khánh hát. Hai đứa con lớp năm, lớp ba chi đó ngồi chầu hẫu dưới này rồi rối rít giơ tay đánh nhịp theo bố hát. Tôi tặng Trần Khánh bó layơn hồng - Trần Khánh chẳng thể biết tôi không chơi hoa mua hoa bao giờ. Đặng Đình Hưng kèm vào bó hoa một chai rượu. Chắc cái bị khoác vai đeo rượu đi bán để ngoài cửa. Đặng Đình Hưng ôm tôi, thì thào :
- Thành công, thành công, Trần Khánh!
Như chuyện Kim Kiều tái hợp, đời người cũng có hậu, những năm sau này Đặng Đình Hưng được con trai gửi tiền nuôi. Mua một căn hộ 23 thước vuông, thuê một máy điện thoại. Cứ chặp tối lại nghe giọng rè rè 44639, 201 C4 Hưng Giảng Võ đây Đặng Đình Hưng bày ra chiếu giữa nhà cả chục hũ thuỷ tinh rượu ngâm tắc kè, rắn, ba kích, dái dê, quất hồng bì, bẩn gớm chết. Hôm này nếm rượu nhà Đặng Đình Hưng về tôi cũng bị tào tháo đuổi. Khách ghé gẩm uống nhiều nhiều. Ông chủ đã để những chai rượu chợ ra phía ngoài. Cho người ta uống chạc, ngồi nhìn mà trong bụng khinh. Bây giờ Đặng Đình Hưng lại bỗng thấy trong văn nghệ thì nhất hội hoạ. Đặng Đình Hưng vẽ lụa, sơn dầu, sơn mài... Đăng Đình Hưng nguệch ngoạc xuống giấy rồi thuê người làm sơn mài. Đặng Đình Hưng bảo tôi :
- Em vẽ ông anh ngồi uống rượu đấy.
Rồi trỏ vào mấy chấm vàng và một nét nửa chữ V trên nền sơn then. Trần Lưu Hậu và Trọng Kiệm gật gật, giơ chén.
Tiểu thuyết Người người lớp lớp về Điện Biên Phủ của Trần Dần, bắt chước giọng như tiểu thuyết Trung Quốc đương bày bán ở các hiệu sách của Triệu Thụ Lý, của Mã phong, những Anh hai Đen lấy vợ và ánh lửa đằng trước, cũng chương hồi, cũng : Lại nói về chỉ còn thiếu có câu hồi sau phân giải. Và cái kiểu nhân vật tên kép hai ba chữ Hùng Sinh, Trần Hoàng, Ngô Thiên Lý của Trần Dần đã được nhiều người bắt chước theo. Trong khi, theo cách từng thời của văn ta, tên người chỉ một chữ và khi dùng hai, ba chữ đều do những yêu cầu riêng. Đến thời văn chương Tự Lực đã dọn lại thành Mai, Chương, Tuyết, cần lắm mới thêm chữ tú, chữ hai, hay hai ba chữ tiếng lóng. Năm Sà Goòng, Bảy Sẹo... Tên hai ba chữ là trở ngược lại một giai thoại văn học đã qua. Mấy năm ấy, Trần Dần loay hoay với một tiểu thuyết - mà tôi được đọc bản thảo, không nhớ tên, hay là chưa có tên. Kết quả công phu Trần Dần đi vùng phố Khâm Thiên làm quen với những người thời pháp đi lính nguy và viết về họ.
Cuốn tiểu thuyết ấy như tác phẩm của các nhà văn phái tiểu thuyết mới của văn học Pháp hiện nay, những tiểu thuyết Năm ngoái ở Marinba của A.R.Griê, Người lạ mặt của N.Sarôt, Thay đổi của M.Buto... Các ông này viết khó hiểu, mỗi quyển trên đằng cuối in thêm một trang hướng dẫn người đọc Mới đây, trên một tờ phụ san văn nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh, Dương Tường có trao đổi về một bài báo tôi viết về vấn đề những cái dấu trong câu văn. Dương Tường không đồng ý với luận điểm của tôi. Vấn đề này chúng ta còn tiếp tục bàn nhưng tôi đọc của Griê, của Buto loại in phổ thông, thật có tờ chỉ dẫn cách xem ở trang cuối Tôi không bịa dựng đứng ra đâu.
Lời tựa tiểu thuyết mới này của Trần Dần đại để: Nông nghiệp nước ta đương tiến lên công nghiệp, những cánh đồng đã bờ vùng bờ thửa, văn tôi cũng bờ vùng bờ thửa. Trang sách bờ vùng bờ thửa của Trần Dần, một chương chữ như kiến bò đều đều từ đầu tới cuối không xuống dòng. Nhân vật trò chuyện và câu văn không có dấu. Người ta nói có ngừng lại để đánh dấu đâu. Rất nhiều tiếng lóng hủi, hủi - Văn tiếng lóng, văn hiện đại nhất. Thơ văn tiền phong hướng về tương lai, phải chôn hết cái cũ để cái mới xuất hiện. Trần Dần bảo thế.
Tuần báo Văn của Hội Nhà Văn mà Nguyên Hồng phụ trách vẫn ra đều. Nhưng hầu như số nào cũng lọt những bài mà các cơ quan trách nhiệm cảm thấy ẩn ý sao đấy. Kể cả một truyện ngắn của Nguyên Hồng. Truyện rất ngắn ấy, câu chuyện một con hổ người nuôi ở nhà như con chó. Phường săn kia bắt được trong rừng một con hổ bé tý tẹo. Con hổ được đem về nuôi trong nhà, cho đến khi con hổ to đùng. Hổ hiền lành bè bạn với con cún, con mèo, con gà. Nguyên Hồng đã có lần kể cho tôi nghe về nguồn gốc truyện này.
Mẹ Nguyên Hồng đã chấp bút đấy. Có lẽ cụ thấy từ thuở trẻ tới giờ, người con trai độc đinh của cụ quanh năm viết các truyện rồi đem bán được tiền, dễ quá. Ôi chao, một đời cụ, nỗi nhà và miếng cơm đã khiến con người đầu sông cuối bến sóm hôm, thiếu đâu chuyện, vô khối chuyện, chôn đi vẫn nhớ, vẫn không hết. Nhưng tội một nỗi cụ không biết chữ. Một hôm, cụ kể cho các cháu chép lại câu chuyện tại sao con hổ hoá ra như con chó vàng nằm hiền lành trong xó cửa. Hổ đã như con chó rồi, nhưng cả xóm ai cũng vẫn sợ. Bời vì nó là con hổ chứ không phải con chó. Thế là các ông phường săn đem hổ thả lên rừng. Nhớ nhà, hổ lại lững thững về nhà, lại phải đem thả. Cụ đưa cái chuyện các cháu đã chép như thế cho Nguyên Hồng. Nguyên Hồng cặm cụi viết lại, đăng trang cuối báo Văn. Câu chuyện nguồn gốc con hổ, tức cười và thực bắt đầu như thế. Nhưng với cách đọc soi lên gạch bút chì đỏ và suy diễn ra thì lại không thấy thế. Đời người thuở nào mà người lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì, nói ai? Xỏ xiên thế nào đây, không hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề.
Năm 1956, báo Nhân Văn bị đình bản. Tôi có cái yếu bẩm sinh thường không nhớ ngày tháng của sự việc. Bây giờ viết lại những chuyện này, nhớ đâu viết đấy, nói được năm nào, năm nào, đã là tự cố gắng lắm rồi. Tôi thường cũng được tiếng là chịu khó ghi chép, nhưng thực chẳng bao giờ chú ý đến năm tháng và ghi đều. Năm 1957, đại hội thành lập các hội chuyên ngành. Hội Nhà Văn Việt Nam ra đời. Liền ngay, Hội tổ chức các cơ quan: báo, nhà xuất bản (có Trần Dần, Hoàng Cầm, Nhân Văn vẫn làm việc ở đấy), ban nghiên cứu sáng tác, ban liên lạc văn học nước ngoài (có Lê Đạt) câu lạc bộ (để Nguyễn Tuân nói về Đôtôépky và cười cợt mỉa mai, cứ đà này thành câu lạc bộ Pêtôphi lúc nào không biết), quỹ sáng tác (chẳng khác đánh trống gọi người đến lĩnh tiền, chia tiền)... Trên cho là cơ quan Hội Nhà Văn đã bị xỏ mũi. ở nhà xuất bản Văn Nghệ rồi chuyển thành nhà xuất bản Hội Nhà văn, tôi cùng làm việc với Hoàng Cầm, Trần Dần... Nhiều người tố cáo họ làm cả, Tô Hoài chỉ phổng mũi lên ký duyệt. In Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Truyện ngắn và tiểu luận (Thạch Lam), Nước giếng thơi (Nguyễn Bính), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân), tập thơ Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao... và đã quảng cáo in nhiều tác phẩm phức tạp khác của Vũ Bằng, của Vũ Trọng Phụng... Những tác giả ấy, người thì có vấn đề người thì đã di cư vào Nam và hầu hết viết trước cách mạng, tại sao đề cao nhiều những cái đã xếp xó đến thế. Tất nhiên là không bình thường, cái gì đây?
Báo Văn mà Nguyên Hồng phụ trách đã in trong nhiều số có những sáng tác còn khó chịu nữa. Kịch ngắn gợi lại vết thương cải cách ruộng đất những vở kịch của Hoàng Tích Linh ( Cơm mới), Nguyễn Khắc Dực (Chuyến tàu xuôi), Chu Ngọc (Ngày giỗ đầu). Ca khúc buồn bã và những phát biểu lệch lạc về âm nhạc của Tử Phác, của Nguyễn Văn Tý. Rồi thơ Phùng Quán (Lời mẹ dặn), truyện ký Phan Khôi (Ông năm Chuột) và truyện ngắn Đống máy của một cây bút trẻ gửi đến. Truyện tả một nhà máy nhập thiết bị nước ngoài rồi để chất đống ngoài trời đến hỏng nát. Người ta truy ra người viết là một kỹ sư và quy là anh nói xấu công nghiệp ta và tình hữu nghị quốc tế.
Chúng tôi lo lắng thực sự. Mấy bài xã luận của tôi trên báo Văn như Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp ý kiến về vấn đề xây dựng con người đều bị nhiều báo và dư luận nhận xét là lệch lạc thứ nhất, phải là tổ chức học tập và đi vào thực tế đời sống và không phải xây dựng con người chung chung mà là con người xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản...
Lại trước đấy, sau đấy, truyện ngắn Ông lão hàng xóm của Kim Lân nghi ngờ thành tựu cải cách ruộng đất, những bài bút ký yếu đuối tinh thần đấu tranh thống nhất, như Thao thức của Đoàn Giỏi, Một ngày chủ nhật của Nguyễn Huy Tưởng (*) (*Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại in năm 1992, kỷ yếu kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà Văn (1957-1992), tuần báo Văn xuất bản 1957/1958 không được nêu tên kể tên là tờ báo đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam)
Nhân Văn vẫn sờ sờ ra đấy, chứ đâu. Những người đã đánh Nhân Văn vừa qua khẳng định thế, cộng với những rì rào sang tai nhau, không khí nặng nề, ngao ngán, triền miên, thường hiện ra ở những chỗ này. Cái chuyện nuôi ông ba mươi trong nhà, cụ thân sinh ra Nguyên Hồng nghe được ở đâu từ đời thuở nào. Người đọc tha hồ nghi, nhưng mà sáng tác không có ước ao được người đọc nghĩ ra mênh mông thì cầm bút để làm gì? Một vòng người họp tổ, như các cụ trong làng ngày trước ngồi xếp bằng quanh chiếu tổ tôm. Những lời đao búa truy dồn. Thế là Nguyên Hồng khùng lên, khóc oà.
Năm trước đã nghiên cứu cả tháng rồi, bây giờ báo Văn lại sa vào hữu khuynh tệ hại như thế. Báo Văn phải ngừng xuất bản. Hội nghị bất thường Hội Nhà Văn - nhiệm kỳ mở đầu ngoi ngóp được hơn một năm, tất cả các cơ quan của Hội được chấn chỉnh lại, tuần báo Văn của Hội thay người phụ trách và đổi tên mới là tuần báo Văn Học. Chuẩn bị cho đại hội bất thường, nhờ địa điểm trường tuyên giáo dưới ấp Thái Hà, làm một cuộc thảo luận và kiểm điểm dài ngày. Cái tổ 18 của chúng tôi có Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân... với một số nhà văn vững vàng làm nòng cốt. Trêu ngươi ai, Kim Lân lại mới in truyện ngắn Con chó xấu xí. Con chó cũng như con hổ hiền lành, không ai tin con chó chỉ là con chó, lại xấu xí nữa, có khi tác giả ám chỉ con người nào cũng nên. Nguyễn Huy Tưởng đã về làm nhà xuất bản Kim Đồng. Đương bị tơi bời kiểm tra nhau mấy cái bản thảo, trong có một truyện đồng thoại ao cá ao rùa chi chi đó của Sao Mai - lại con cá, con rùa, con ba ba, lắm con quá. Cũng chẳng ai bảo đảm người vào tổ 18 ấy là một bọn hay một cánh, nhưng cứ ang áng biết thế, và cái kiểu hiểu như bên Trung Quốc kiểm thảo nhóm Đinh Linh đã xuất hiện cụm từ đầu mày cuối mắt thì dù chẳng nói một câu, cũng là cánh, cũng cho được vào xiếc một bọn rồi.
Cùng liên quan, liên quan một nỗi buồn mà thôi. Nhiều hôm tan họp tối, đạp xe về trong thành phố, tạt vào cái Hà Nội 36 phố phường ăn chơi cũ, lông bông khuây khoả đôi chút, sáng mai lại lóc cóc xuống lớp học dưới ấp sớm. Chẳng ai dư dật, nhưng thời ấy đồng bạc có giá, hôm nào cũng đóng vai khách hẩu của gánh cháo gà lão giải phóng quân, gói cơm rang bọc lá sen quán Tiểu Lạc viên, phở Lâm rồi cà phê lão Ca. Cái khu lúc nhúc này vẫn riêng một phong vị, dẫu cho những năm gần đây đã tàn tạ nhiều. Những cao lâu lớn Đông Hưng, Tây Nam, Nhật Tân không còn cái nào. Các chủ hiệu sang trọng này trước kia hẳn là đặc vụ Tưởng Giới Thạch, là cánh Uông Tinh Vệ là mật thám hai mang bên Tàu bên Nhật. Hàng quán và cả con người bị xoá đi theo giông bão của lịch sử. Chỉ còn lại cao lâu Mỹ Kinh mới mở vài năm trước đảo chính Nhật, cùng với những quán cơm tám của người ước Lễ, thì nay Mỹ Kinh đã hoá nhà hàng quốc doanh, được đeo cái tên của thời cũ, còn nhớ thời ấy trộm cắp như rươi, chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt đinh vít xuống khay. Mấy năm Tây vừa trở lại, tửu quán Siêu Nhiên, Lục Quốc và Nguyên Sinh mới mở. Siêu Nhiên đặc sản món óc đậu nhồi, ngon được tiếng. Chủ đã di cư, cũng như nhà Lục Quốc phố Huế, cánh nhà bàn nhà bếp đứng ra hùn vốn. Nhưng cũng chẳng mấy khi vào Siêu Nhiên, Lục Quốc, chúng tôi chỉ ngồi vỉa hè tường rạp Chuông Vàng, nghe tiếng phèng la tích cải lương La Mã diễm huyền. Như cảnh la cà hàng quán dưới ngã sáu dốc Hàng Kèn mà bây giờ đêm hôm người qua lại nhiều, không ngồi lan xuống lòng đường được nữa, ông 81 thụt hẳn vào trong nhà, gánh cháo bác Chữ thì quảy về cạnh cửa chợ Hôm, cũng tan trò.
Nhưng ở vùng ăn chơi lâu năm trên này, hè và đường lẫn lộn, người đi dong đông hơn khách xem cải lương Kim Phụng, chèo Lạc Việt. Tiệm cà phê Phúc Châu như đám chọi gà. Cô Tàu ngồi két váy đen, thắt lưng to bản đen bóng nhoáng mết Đài Loan đương thịnh hành. Khói thuốc lá lùa ra cửa sổ như ống khói tàu thuỷ phun xanh mờ. Bốn bên trong nhà cũng như ngoài phố, la liệt lao xao, đàn sáo nhị réo rắt, cò cử, tiếng rao bát bảo lèng xà, lục tào xá, người nườm nượp, nhiều nhất cán bộ miền Nam tập kết.
Tôi nhớ ngày xưa cũng đông na ná thế. Năm tôi sáu bảy tuổi, ngày Tết, thường theo các dì tôi ra Kẻ Chợ xem hát bói tuồng đầu năm ở rạp Quảng Lạc - mà ngõ Sầm Công, quen gọi là ngõ Quảng Lạc, cái quán Tiểu Lạc viên bây giờ ở trong hẻm này. Mồng hai, mồng ba tết năm nào rạp Quảng Lạc cũng diễn tuồng tích Giang tả cầu hôn cho người năm sớm bói lấy may. Trên cửa vào trong rạp, bàn thờ thần tài dán giấy điều trang kim khói hương ám đen kịt cả vành khám. Tuồng có vai Quan Công mặt đỏ bồ quân, râu đen từng chòm tuôn xuống. Quan Công ra, cả rạp im rùng rợn, thành kính đốt vàng hương vái lên sân khấu. Khi lớn, tôi một mình đi xem phim kiếm hiệp Tàu chiếu ở rạp Hiệp Thành, rồi rạp Tố Như, bây giờ là Chuông Vàng Thủ đô, trước cửa, gắn tấm bảng đá ghi chiến tích đội quyết tử liên khu 1 đã được thành lập ở đấy giữa 60 ngày đêm Hà Nội chiến đấu trong vòng vây.
Phía Hàng Da, ngõ Yên Thái, cũng như ngõ Sầm Công, những phố hẻm có nhà chứa, không hiểu tại sao lại gọi là nhà thổ, mà người ta nói lóng tiếng Tây bồi là medông đờ te (nhà đất). Trên tương đầu phố treo hộp đèn kính sơn đỏ nhoè nhoẹt. Khách chơi biết đấy là dấu hiệu trong phố có ổ gái điếm. Đi nhà thổ trả tiền giờ, nửa giờ, trò tiêu khiển mạt hạng, người đứng đắn không dám bước chân vào cái dãy phản bày bán người ấy. Cô nào cũng lông lá cạo nhẵn, trắng nhễ nhại, hãm tài lắm. Bần cùng, cánh thợ xẻ, thợ nề cũng chỉ thậm thụt chốc lát, chứ chẳng mảy may ham hố, đắm đuối. Chập tối, các cô nhà thổ quần áo trắng hồ lơ, mặt bệch tròn chảy trễ, ngồi một loạt trên cái ghế dài trước cửa ngóng ra, vây vây ơi ới người đi qua. Thấy quen thì chạy ra, kéo lại ở làng tôi, những anh thợ còn táo tợn, ngày phiên có tiền xuống phố chơi nhà thổ, hôm sau về phải nghỉ dệt, nằm đờ cả ngày, con ruồi đậu mép không buồn xua. Tôi không dám lảng vảng đến những cái ngõ nhầy nhụa ấy. Chỉ vì sợ bệnh. Nghe nói thuốc nớp xăng cát tó hiệu nghiệm, nhưng đắt. Cũng chưa thấy bao giờ, chỉ nghe nói phải đâm mũi tiêm vào dái, đau lắm. Thời áy, tim la, lậu, giang mai, ai mắc những bệnh xấu hổ thì chỉ muốn chết.
ừ, Nguyễn Tuân hay dạo mấy phố này lại có thể cũng vì những cái nhớ. Nguyễn Tuân được sinh ra và nhớn nhao lên ở Hàng Bạc. Phố Hàng Bạc, số nhà 49, năm 1910 - Nguyễn Tuân ghi lại như thế ở mép một quyển sách Hướng dẫn du lịch Ba Lan, có lẽ vì đương đọc chợt nghĩ đến một kỷ niệm. Trong quyển Đường phố Hà Nội của Nguyên Vinh Phúc tặng, chỗ phố Hàng Bạc và ngõ Gạch, Nguyễn Tuân đề bút chì đình Cổ Lương ngõ số 28 án sát Siêu và câu ca dao về phố phường ấy, dễ chừng ông đã thuộc từ tuổi thơ.
Nên ra thì múa tứ linh
Không nên thì lại nằm đình Cổ Hương
Lão hàng cháo gà giải phóng quân, cũng là cái tên của Nguyễn Tuân đặt cho. Ông Tàu ấy to cao, khệ nệ, đội đúng cái mũ ka ki của Bát lộ quân ố vết mỡ đã úa vàng màu nước dưa. Hàng ông bán muộn, nhiều tôi ở dưới ấp về vẫn còn gánh hàng sáng đèn giữa mấy chiếc ghế xếp lỏng chỏng trên hè. Lão giải phóng quân lầm lì chẳng mấy khi hé răng. Cũng hợp, chúng tôi lặng lẽ. Chẳng ai nói một câu, thế mà lúc nãy ở tổ, gay go đốp chát nhau ra trò. Vẻ mệt mỏi hiện nên nét mặt từng người. Tôi nhận ra Nguyễn Tuân đến hàng cháo gà này còn vì ông giải phóng quân có lọ xắng xấu Nam Ninh chính hiệu thơm và béo ngậy mùi vừng. Bát cháo lót cải cúc của Nguyễn Tuân được lão cầm lọ xắng xấu vảy lâu hơn bát của tôi. Rồi nở nụ cười nhà hàng, lão đút lọ xắng xấu vào trong ngăn kéo - ai không biết thì thôi chứ chẳng phải ai cũng được nhà hàng cho nếm mùi đâu. Vẫn là chăm chú cái mình thích, mình muốn, một giọt xắng xấu hợp khẩu vị, một câu văn hay gạch đít, một chuyến đi...
Có hôm, vào Tiểu Lạc viên ăn cơm rang bọc lá sen. Ông chủ Tiểu Lạc viên này là tay nhà bàn hảo hạng. Khách đông cũng vì cái duyên lão ta. Hỏi các món khách dùng, rồi nhanh nhanh đũa bát thìa đũa và gia vị ra bày trước mặt từng người. Đôi mắt kính lấp lánh, cái câu có ngay, có ngay luôn miệng như hát. Thực khách vào bàn, tuy chẳng thấy có ngay ở đâu, nhưng được cái cảm tưởng món ăn món nhắm sắp bưng ra.
Lão Tiểu Lạc viên tri kỷ vì chúng tôi biết thưởng thức món cơm rang bọc lá sen lão khoe nhất Hà Nội, không nhà nào còn làm được đúng kiểu cách thế. Lão chỉ mới ngước kính, chưa hỏi, Nguyễn Tuân đã gật đầu, đưa thưởng một điếu thuốc lá Thủ Đô hiếm. Thế là đã biết khách lại xơi món quen. Lão hô có ngay, có ngay rồi đặt bát đũa bày ra bàn. Nguyễn Tuân nói, vừa nghiêm vừa đùa:
- Này, không cần có ngay đâu nhé!
Lão cười, nheo mắt. Sang bàn bên, hỏi khách xong, chưa bước vào cửa bếp, đã: Có ngay! Có ngay! Có ngay!
Phải, cơm rang bọc lá sen thì có ngay sao được. Xong một tuần rượu suông, món nhắm mới ra - chỉ gọi độc một món ăn, cũng như nhắm. Kể thì người ăn xô bồ bây giờ chẳng mấy ai thiết chờ đợi các thức lích kích này. Gạo tám thổi niêu đất chín rồi đổ vào chảo rang, được rồi lấy chiếc lá sen khô lót xà xíu, vịt quay gỡ xương chặt miếng rồi đổ cơm rang vào, buộc khéo cái lạt. Nhà bàn bưng ra túm lá đặt trên đĩa. Mở ra, hơi cơm, các thứ xì dầu, thức ăn toả lẫn mùi lá sen già đầu thu. Một năm, về Hưng Yên, tham quan đào kênh thấy sân kho các hợp tác xã phơi đầy lá sen, hỏi bảo lá sen khô để xuất sang Hồng Công (Nguyễn Tuân xin về mấy cặp lá). Những chiếc lá sen già sẽ được xuất đi Hương Cảng để gói món cơm rang bọc lá sen ở các hiệu cao lâu.

Cũng có thể ấy là những lúc Nguyễn Tuân nhớ khi xế trưa vắng khách ngồi trên lầu nhà Đông Hưng thang gác vàng giữa phố Hàng Buồm. Nguyễn Tuân kê giấy lên bàn ăn, những tờ giấy trên góc in cánh buồm Gió đã lên. Tiểu thuyết Thiếu quê hương đăng báo Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan được viết từng kỳ một ở cái bàn ấy. Người tuỳ phái đến lấy bài đã đứng trực. Nhà in Trung Bắc ở phố này, bên kia đường. Viết xong chữ cuối, người tuỳ phái cầm tờ bản thảo xuống khuất, cũng là lúc nhà văn gọi phổ ky đem đến bữa trưa, be rượu bồ đào uống mấy chén ngữ và gói cơm rang bọc lá sen. Lại một sự mang mang hoài cổ. Cái cơm rang lá sen thơm tối nay ở Tiểu Lạc viên còn có thể bắt đầu từ gói cơm rang thập cẩm ở những quán ăn cò con trên đường Cáo Đạo giữa cái phố khúc khuỷu bậc đá bên Cửu Long Hương Cảng đêm ba mươi tết Đinh Sửu 1938. Chúng tôi chỉ quý và chiều nỗi nhớ của Nguyễn Tuân mà chịu khó bắt chước kề cà với các món cầu kỳ ấy. Nguyên Hồng đã sinh sống ở thành phố cảng có cả một phố Khách, tỏ vẻ thành thạo khen mùi lá sen, đoán già là những cái lá sen hồ Tây.
Mỗi đêm dưới ấp về, bộ dạng Nguyên Hồng cũng chẳng khác đi đâu ban ngày. Trên ghi đông đặt cái cặp đúp chứa bản thảo. Sau yên xe buộc một chồng báo Văn. Mọi khi, chỉ kè kè cặp bản thảo, giờ thêm lô báo Văn từ số 1. Nét mặt hăm hở lẫn lộn đăm chiêu với những tờ báo Văn như một lá đơn để trình bày các nơi. Nhiều cuộc phê Nguyên Hồng, tôi không thể nhớ xiết lần nào cụ thể. Chỉ nhớ báo Văn đã phải xỉ vả là hữu khuynh, bị lũng đoạn. ở đâu, họp tổ hay liên tổ hay lên hội trường; Nguyên Hồng từ từ, cẩn thận, trịnh trọng đặt tập báo trước mặt. Nguyên Hồng nói:
- Tôi làm báo không kể giờ giấc, không quản thức đêm thức hôm, tôi bỏ hết sáng tác, cố làm cho kịp. Suốt tuần tôi bận bịu về nó hơn con mọn, bỏ ăn bỏ uống vì nó... thế thì làm sao tôi lại có thể sai... Tôi đấu tranh thực hiện đường lối văn học nghệ thuật của Đảng... Tôi hết tâm hết sức vì nó, tôi không thể, tôi không thể sai...
Như người ốp đồng, không biết đương còn tỉnh bay đã mê, Nguyên Hồng để một bàn tay lên chồng báo, to giọng đến bật khóc, vừa mếu máo vừa nói tiếp, nước mắt ròng ròng, hai tay mê mẩn xót xa vuốt mép tập báo. Cái lý lẽ cùng đường và những dòng nước mắt đã khiến những ai đương phê bình anh cũng không biết tiếp tục phân tích thế nào nữa. Bảo dối trá thì không ai nỡ, không ai dám hạ đòn ấy. Cuộc nào cũng tương tự, những chữ boong ke, ngoan cố, không đúng với quang cảnh sầu não thiết tha của người bị phê bình.
Chúng tôi ngồi góc bàn đằng kia. Lão Tiểu Lạc viên đã đem bát đũa, thìa với tương ớt đến. Lão này vừa là chủ, vừa là tớ trong cái phòng ăn con con kê ba chiếc bàn nhỏ. Chim quay Tiểu Lạc viên cũng được tiếng. Chẳng biết nhà hàng vô tình hay cố ý để những cái bàn khập khểnh tạm bợ. Chắc là cố ý thôi. Các hàng quán này cứ chập chờn chưa biết lúc nào bị đóng cửa. Trễ nải, tàn tạ, người ta chỉ bày biện qua loa, cốt làm ra thế.
- Có ngay! Có ngay!
Lão Tiểu Lạc viên bước ra, bỗng im bặt, quay lại, nhìn quanh, rồi hỏi:
- Các ông có cái mùi...
Không ai bảo ai, mọi người chú mục vào Nguyên Hồng vừa đặt lên góc bàn mở gói giấy báo bọc thịt chó và lập cập nói:
- Nhắm cái này trước đã! Nhắm cái này đã! Thoạt trông cũng biết không phải là gói nguyên: Chắc trưa nay Nguyên Hồng đã đánh chén ngoài ấp còn thừa thì cầm đi nốt. Hổ lốn thịt luộc, lòng gan trộn với húng, riềng, cả đùm con con muối tiêu.
Lão Tiểu Lạc viên đã nhìn rõ gói thịt cầy. Lão cau có hầy một tiếng, tan biến cả vẻ hớn hở có ngay vừa rồi. Lão chắp tay, rầu rĩ như khấn:
- Ông ơi, ông mang nó ra ngoài kia, mang ngay ra ngoài kia...
Chúng tôi biết những người buôn bán kỵ cái thịt hãm tài này - nhất là người Trung Quốc.
Dường như thấy nó thì đã đánh hơi được cái mùi con ma xúi quẩy. Lão lại nhăn nhó:
- Giết nhà hàng rồi. Các ông không được, không được lớ!
Lúc ấy, hai bàn bên cũng quay sang. Cười nhăn nhở rồi họ lại cúi xuống ăn. Lão Tiểu Lạc viên đến góc nhà cầm một nắm hương châm cắm vào men tường trong chỗ dán tờ giấy điều trang kim đã xạm xỉn một nạm chân hương. Khói hương bốc mù căn phòng chật chội. Rồi lão bước lại phía chúng tôi, xốc kính, mặt hầm hầm, không hiểu lão định làm gì.
Nguyên Hồng, đứng lên, giơ tay:
- Phổ ky! Câm đi!
Nguyên Hồng lật đật gói lại bọc thịt chó, bỏ vào cặp. Nước mắt lưng tròng, nói:
- Lúc nãy ở tổ chúng nó đòi đuổi ông, bây giờ thằng Tàu này lại đuổi ông, tỉu cái nhà ma lớ!
Nguyên Hồng cung cúc bước ra, lấy xe đạp. Cũng chẳng ai buồn gọi lại. Đã biết tính nhau nhiều. Mấy năm sau, một lần Bùi Hiển, Nguyên Hồng và tôi chén thịt chó Chữ Hàng Bè rồi vào quán cà phê lão Ca. Vẫn Nguyên Hồng cầm bọc giấy gói mấy miếng thịt chó thừa, đặt lên góc bàn. Lần này, cái gói kín đáo, nhưng tôi vẫn ngài ngại. Lão cà phê Ca không có nhà. Vợ lão trông hàng. Tự nhiên, bà ấy đứng lên đến chỗ cửa nách châm nén hương vào khám thờ thần tài dán giấy điều. Linh tính tôi đoán người đàn bà Tàu đã đánh hơi thấy mùi lạ. Như chọt nhớ ra, Nguyên Hồng đã tinh ý bỏ gói vào cặp.
Mấy hôm sau, trở lại Tiểu Lạc viên, lão có ngay lại ngước mắt kính cười cười, đưa ra bát đũa và chén tương ớt - Nguyễn Tuân bao giờ cũng gọi là lạp chíu chương. Lão xoay cái đuôi thìa cẩn thận đặt trước mặt Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng. Thêm hai miếng chanh cho Nguyên Hồng. Nhà hàng đã thuộc ông khách có thói quen vắt chanh, lại đổ dấm vào đĩa húng rau để sát trùng. Đến tận hồi chống Mỹ, Tiểu Lạc viên vẫn đông khách thế. Một lần kia, đến thầy bà Tiểu Lạc viên mọi khi đương nằm cái giường gấp ở gian trong. Tiếng trẻ mới sinh khóc oe oe. Hỏi thăm thì ra lão Tiểu Lạc viên đã ngất đi, chết nửa đêm giữa lúc máy bay ném bom cầu Long Biên cuối tháng trước. Người vợ đã lấy chồng khác. Ông Tàu này gày lom khom. Nào biết đứa trẻ ấy con ai. Đã lâu không đến, không tiện hỏi. Trên mặt kính cái tủ con đặt ngoài cửa vẫn ba chữ Tiểu Lạc viên sơn đỏ. Cửa hàng mở, nhưng hiu hắt, vắng vẻ. Đến năm nhiều người Trung Quốc bỏ thành phố đi, bà ấy với người chồng sau ra Cát Hải vượt biển. Nghe nói thuyền chuyến ấy đi bị đắm, chết cả.
Những đêm mưa rả rích gợi cái thú quán cà phê lão Ca. Thường đến lão Ca vào lúc nào, chắc là khi đã ngà ngà ở Tiểu Lạc viên hay hàng bánh cuốn chú Hồng Lâm ra. Nhưng cũng có buổi chỉ đến đây. Trong ngõ ngách này, chúng tôi lui tói mấy quán, không đậu lại đâu. Phúc Châu tiếng tăm, nhưng tạp. Chen vai thích cánh, những võ sĩ đai đen thập đẳng, ngũ đẳng hay các ông cá mú trụ ở góc bao quát, hay một tay cướp ngày lẳng lặng ngồi xuống, rờ túi ngực, túi quần vờ tìrn cái bật lửa. Nó đang ngắm cô Phúc Châu thắt lưng đen bóng hay nó sắp rút dao găm dí xế dưới sườn rồi thản nhiên đưa con mồi ra ngách ngõ lên Hàng Đào, hỏi mượn cái ví và cái đồng hồ. Quán Lý Hảo thì ấm cúng hơn. Chỉ phải cái mụ Lý ăn nói đối đáp và cử chỉ như tập thể dục trước mặt khách. Chả là Lý Hảo, đương kim thể thao lướt ván nữ loại một. Hội hè nào cũng giật giải nhất đứng đầu sóng hồ Hoàn Kiếm. Thằng chồng mặt vuông Nhật Bản, như Ai Nguyên An Nghệ. Nhưng nó là người Quảng Châu, chỉ bưng cà phê và cười ruồi. Mất vui, cũng chẳng lý thú, bởi nhà này ít chuyện.
Cà phê Ca chưa mấy quen như rồi sau chúng tôi đến nhiều hơn. Lúc đầu chỉ nghe mang máng trước kia lão Ca ở trên Hà Giang, làm nghề đuổi ngựa buôn cho nhà chúa đất Vương. Còn tôi để ý chỉ vì thấy ngồi trong hàng một người đàn bà luống tuổi, mặt buồn rười rượi. Có hôm thoáng sau chiếc bình phong con công đỏ gắt, cái áo xường xám xa xưa màu cánh chả xẻ tà xoè ngang đầu gối. Cứ hao hao người con gái ngày xưa ở nhà gác đầu đường Cổ Ngư hồ Tây mà sáng nào tôi cũng đi học qua. Ai khi tuổi ấy chẳng trông thấy bao nhiêu bóng đẹp thấp thoáng và mộng mơ. Không hỏi có phải trước kia nhà bà ở đầu ô Yên phụ, tôi chỉ lặng im cho mình được đinh ninh. Tưởng tượng vun thêm vào làm cho không phải cũng thành phải. Nếu bà ấy nói: Vâng, tôi là vợ tông Ca. Lại càng khó hiểu, thế thì phải từ Hà Giang xuống. Như vậy, lại hoá ra buồn. Thôi cứ mơ hão vậy. Cà phê phin nhà Ca nhạt đường, hợp chúng tôi mà Nguyễn Tuân khéo tưởng tượng là có vị rừng. Chưa biết rừng Hà Giang có cà phê hay không. Chỉ Nguyên Hồng đã bị hai năm an trí căng Bắc Mê rõ đôi chút chăng. Nhưng Nguyên Hồng chẳng khi nào kể lại về nhà tù chính trị đi đày ấy. Chỉ nghe một người tù Bắc Mê khác tả Nguyên Hồng đi làm cỏ vê, đi lấy củi cũng đeo mấy cái ống bơ đằng đít, cái đựng muối, cái để cơm nguội và lủi thủi một mình.
Thậm chí, lần ấy, một đoàn địa chất đưa chúng tôi thăm một vùng quặng trong Bắc Mê, Nguyễn Tuân rủ Nguyên Hồng, bảo được dịp trở lại quang cảnh xưa. Nguyên Hồng cũng không đi. Chuyến đi ấy, cái hôm lội qua con suối sau cùng rẽ mê bên này đường về huyện Bắc Mê, tôi đứng tần ngần giữa dòng nước, nhìn mãi quả đồi áp lưng núi. căng Bắc Mê xưa ở núi Pắc Min kề ngọn sông Gâm lượn dưới chỗ xanh thẫm kia. Suốt buổi chiều, trèo qua cổng trời đỉnh núi thăm dò quặng Nguyễn Tuân vẫn băn khoăn không hiểu tại sao Nguyên Hồng không đi Bắc Mê chuyến này. Nửa đêrn, giữa rừng trên cao, con suối mơ hồ đưa lại tiếng nước thở dài từ phía Bắc Mê. Chúng tôi ngồi trước đám củi sưởi. Nguyễn Tuân nói: Tớ tức cảnh được hai câu ca dao đem về tặng thằng Nguyên Hồng. Thế này nhé:
Non xanh gõ hòn đá xanh.
Nửa năm nghe tiếng mõ canh Cổng Giời.
Trở về, tôi viết Pài Lùng cái ký theo thể kịch đăng báo Văn Nghệ, đặt hai câu ấy lên đầu bài. Chú thích nghịch ngợm Ca dao cũ vùng Bắc Mê. Cho nhớ và như Nguyễn Tuân bảo có dùng thì nên đề thế.
Cái bỗng dưng kỳ cục của Nguyên Hồng thường dễ hiểu và cũng khó hiểu. Người ta làm thì Nguyên Hồng lẳng lặng im. Ai cũng nô nức vào Nam khi miền Nam được giải phóng. Nguyên Hồng chưa bao giờ đến Sài Gòn, mà đã sinh ra nhân vật du côn Năm Sài Gòn từ những năm 40 và chưa khi nào trông thấy sông Cửu Long, đã là tác giả bài thơ Cửu Long giang ta ơi. Nhưng không đi Sài Gòn. Ai rủ chỉ lắc đầu. Cái tính thế, thiên hạ vậy thì ta khác.
Cuộc đời đã đưa đẩy ông Ca từ thị xã Hà Giang xuống Hà Nội mở quán cà phê. Những chuyện ông Ca kể về biên giới, Nguyễn Tuân mê lắm. Cũng thú vị như lão giải phóng quân cháo gà có lọ xắng xấu chính cống Nam Ninh, Hồng Kông gì đó. Cà phê Ca ngon mùi mộc mạc. Hay là cứ nghĩ ra thế. Mỗi lần Nguyễn Tuân tới, ông Ca lại lấy ra chai rượu Rom Pháp vuông bằng đầu gối, đặt lên cạnh cái phin vừa cạn. Lắm khi tôi vào hàng lão Ca không khi nào bê chai rượu mạnh ra. Đám mà có Nguyễn Tuân trong bọn, đám ấy sang lên, thú vị hơn, không phải ông Tuân chi tiền, mà thằng chủ quán lại hân hạnh, lại trọng vọng vị khách bạt thiệp trịnh trọng mời nhà bàn thuốc lá thơm và xuống tận chỗ xào nấu đưa nhà bếp một điếu. Chai rom của ông Ca đã được đặt lên bàn. Vài giọt rượu quý nhỏ xuống tách cà phê bốc khói. Cà phê rom - một kiểu uống theo lối Pháp. Đến lúc cả chủ quán cũng kéo một ghế, nhấc bếp điện lại gần, bày lên một phin nữa. Câu chuyện ấm dần. Nguyễn Tuân đẩy hộp thuốc lá về phía ông Ca. Ca nói, giọng âm thầm xa vắng:

Chương I I (tiếp)

- Tôi ấy a, cái ngày tôi đi đuổi ngựa cho nhà Vương...
Ngồi đây, trong cái phòng vừa nhà hàng vừa buồng ở lộn xộn, bề bộn quanh những lá màn, cánh gà mà tưởng đương lang bạt sông suối đâu đâu Simacai bên Lào Cai sang Xỉn Mần rồi rong ruổi lên Mèo Vạc sang Bảo Lạc, Cao Bằng. Những đoàn ngựa thồ hàng trăm con lên núi, ông Ca là một người trong đám thủ túc nhà vua Mèo họ Vương trong đám dắt ngựa, đuổi ngựa ấy. Chuyến hàng ròng rã đói khát cả tháng, chẳng bù với mỗi khi người ngựa được trở về dinh cơ nhà Vương ở Sà Phin, Đồng Văn lại thả sức lu bù chè chén. Cả mấy chục phu ngựa, cơm rượu và khay bàn đèn thuốc phiện rải ra khắp trên sân đá tảng từ trước cửa dinh vào trong nhà.
Được dịp về Đồng Văn, thế nào Ca cũng xuống thị xã. Ca đi làm mướn cho người, nhưng Ca cũng có dây thuốc phiện riêng của Ca. Ca ăn ngủ nhà mụ Tèo me Tây đồn Yên Minh ngày trước, Tây cút rồi mụ ở lại mở quán cơm giữa cánh đồng tranh trên dốc Pác Xum về làng Đán. Mụ Tèo cũng là một mối thuốc của Ca. Quán mụ Tèo chơ vơ cỏ tranh phủ ngập mái nhà, trông sang những ổ cướp nương náu trên dặng núi Bát Đại Sơn lô xô trước mặt. Bọn thồ ngựa dừng chân. Từ khi có đường ô-tô lên Phó Bảng, thêm các ông tài đường ngược, đêm đêm trong vách tường trình, quán mụ Tèo rộn rịp đỏ đèn suốt sáng. Chẳng bao lâu, Ca cũng tậu được ngựa và thuê người đuổi ngựa. Lão Ca đã thành ông chủ nhỏ, có khi theo hàng sang tận Phong Thổ, Mường Lay bên Lai Châu.
Quanh tách cà phê giữa những con phố lui hui cụt lủn mà tưởng đương theo những đoàn ngựa thồ qua đầu núi nào. Quên đi, quên đi ngoài trời đêm thành phố đương sấm rền trận mưa đầu mùa hạ, rồi sáng mai chúng tôi lại đạp xe xuống ấp họp tổ. Cái say chơi rừng núi biên giới phía bắc đối với Nguyễn Tuân, có phải đã được nhóm bếp ở những đêm cà phê rom nhà lão Ca, trong cái phòng lủng củng, lỉnh kỉnh rất Tàu. Một dây xích đông trên đầu, mấy cốt chăn bông xếp đống. Dưới gầm ghế, cái hoả lò, củi, chai dầu, làn mây và túi gạo, xoong, chảo, chậu, bô men trắng xoá loang lổ có thể là bô nước đái, bô cứt. Nhưng con mắt chúng tôi đăm đắm vào bóng tối mênh mông xa đâu.
ở các ngõ ngách ẩm ướt trông lên nhấp nhô những đầu tường chuôi vồ thời xưa này phải kể thêm quán bánh cuốn ông Hồng Lâm cũng chỗ ngã tư cùng phố với cà phê Ca. Hàng bánh cuốn này không ai biết, bánh cuốn bây giờ được tiếng ngon bán đêm ở phố Huế xế chợ Hôm cũng gần ngã sáu dốc Hàng Kèn. Khách ngồi chầu hẫu mấy lượt ghế dài đợi bà hàng không biết sốt ruột cứ nhẩn nha tráng từng lá bánh. Tôi cũng chẳng thú cảnh chầu chực đợi lượt nếm chiếc bánh cuốn nhân thịt gốc Lạng Sơn. Thế mà quán bánh Hồng Lâm thì lại hay ghê. ấy cũng là một nỗi.
Một tối, trên vỉa hè tấp nập người, tôi ngất ngưởng như con bói cá đậu trên cái ghế xếp gánh cháo gà giải phóng quân. Các rạp đã trống giáo đầu rồi mà hàng quán vẫn dập dìu vì cán bộ tập kết đi dạo bờ hồ dạo phố là chính. Mấy ngả phố chật hẹp không có điện, đèm đóm lập loè từng khóm. Một ông Tàu gày còm đội cái mũ xanh một mẩu, má xệ đỏ phừng màu say xuống tận cổ, cứ đứng sững. Tôi tưởng ông ấy nhìn ông hàng cháo gà đồng hương. Rồi ông ấy bước lên hè trước mặt tôi giọng rượu lè nhè:
- à, à... Có phải cậu Sen không?
Nghe tiếng hỏi cái tên cúng cơm của tôi, dù chưa nhận ra ai, cũng biết đấy là bà con quê ngoại quê nội. Nhưng tôi không nhớ được ông này là người trên Nghĩa Đô hay trong Cát Động. Tôi đương ớ ra thì ông ấy lại nói lơ lớ:
- Tôi là Lâm. Lâm hàng phở dốc chợ Bưởi. Thuê nhà ông ba Chui ấy mà. Cậu nhớ không?
Thế thì nhớ rồi. Ngược đời, nhà hàng lại đi nhớ khách. Tôi nhớ tên chú ấy chứ không nhận ra người. Mười mấy năm rồi còn gì. Chú khách Lâm ở dưới phố lên mở hàng phở. Nhà hàng kê cái bàn, hai bên chõng tràng kỷ. Tua giấy điều nhấp nhánh trang kim phất phơ trước cửa cạnh những củ hành tây trắng bong và chùm ớt đỏ. Dấu hiệu hàng quán lúc ấy không có bảng kẻ hai chữ Cơm Phở như bây giờ. Phở nước hai xu, đĩa phở xào ròn xào mềm năm xu. Không bạn này có tiền thì bạn khác, ai cũng dễ dãi với nhau được. Tôi nhớ hàng chú Lâm không phải vì phở, mà vì một chuyện oái oăm. Ông trẻ Tám hay đi chơi ả đào. Bà ấy ghen. Nhưng ông Tám đã nghĩ được mẹo. Tấm áo the dài, quần là và chiếc khăn ông Tám gửi trên hàng phở chú Lâm. Chiều chiều, cơm nước xong, tôi sang rủ ông Tám đi dạo mát.
Tôi tuy tuổi chẳng kém ông Tám bao nhiêu nhưng trong họ thì vào hàng con cháu, mặt mũi lại hiền lành, bà Tám tin được. Chúng tôi thủng thỉnh như tình cờ lên đầu chợ. Ông Tám vào hàng chú Lâm, chít khăn, thay bộ quần áo mồi rồi bước nhanh lên ngã ba Thành gọi cái xe sắt. Đi chơi bời ăn mảnh ở các nhà hát quanh Cầu Giấy, ở Mả ông Năm trong phủ, khoảng nửa đêm lại cuốc bộ về. Tôi thường đóng vai lá chắn che đỡ cho các bậc bề trên như thế nên hay được ăn theo các ông Tám, ông hộ Nghĩa, ông bảy Nền đi hát chầu chay cỏ rả vùng phủ Hoài, sang Thượng Cát, hay lên bến Chèm - cũng chưa được ra đến các nhà hát Ngã Tư Sở. Những chuyện lêu bêu nhung nhăng ấy thì nhớ chứ quên hẳn mặt lão Lâm này.
Tôi khen:
- Chú nhớ dai quá.
Lão Lâm khoái trí cười giơ hàm dưới răng vàng choé.
- ồ, ở trong này tôi làm công an mật nên quen nhận mặt người ta. Tôi vẫn gặp ông giáo Thịnh dạy trường Yên Thái ngày trước mà. Hôm nào đến chơi. Chỗ kia kìa, nhà bánh cuốn.
Thế thì biết rồi, hàng bánh cuốn ấy gần cao lâu Tứ Kỳ. Chúng tôi đến quán ông Lâm. Nguyễn Tuân chẳng thiết cái bánh nhân thịt này - không chịu ăn tạp, vẫn nhớ thuở bánh cuốn Thanh Trì nước mắm Nghệ cà cuống, không pha dấm, không vắt chanh.
Thế mà Nguyễn Tuân vào quán bánh cuốn ông Lâm. Cũng phải duyên cớ thế nào, như cái ông 81 cà phê bít tất dốc hàng Kèn với quan công sứ Grapphơi và núi nghỉ mát Bạch Mã Bà Nà. Như lão cà phê Ca đem rừng núi Hà Giang về thành phố. Nhưng Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Vào đấy cho thằng này về Kẻ Bưởi một tý. Hôm nào rủ chúng tớ lên Nghĩa Đô bắt chuột đánh chén nữa nhé.
à ra ông ấy chiều tôi. Nói thế chứ ông chẳng dám xơi thịt chuột. Chả là đã có một năm, mùa tháng mười, ông Nguyễn với Kim Lân lên cánh đồng làng tôi đi bắt chuột với ông Ba Hĩ. Gác ngoài, bà Lâm ngồi tráng bánh. Thấy đi vào nhà trong, những cô cậu mặc xanh công nhân, chắc tan ca nhà máy về. Con cái không để mắt đến cái cửa hàng câu dầm của ông bà già. Bà Lâm gầy khô, đeo kính, mặc áo di lê hoa lốm đốm tím, nửa mái đầu bạc. Ông Lâm bảo:
- Bà nhà tôi cũng người làng Bưởi cậu ạ.
Bà Lâm cười nhợt nhạt, ngước mắt kính, hỏi tôi:
- Ông có biết chú Sồi có bàn thịt lợn ngoài cầu chợ nhà ở xóm Ao Đình không?
- Ngày bé, tôi vẫn xách liễn lên mua nước suýt sáng sớm nhà chú Sồi.
- Bố tôi đấy.
Tôi ngạc nhiên vì cái giọng nói hệt tiếng Yên Thái của bà Lâm. Ôi, tôi được sinh ra ở đất Bưởi, tôi ở trong làng đến ngoài hai mươi tuổi mới ra thành phố rồi đi lang bạt, giọng tôi bị pha mất tiếng quê. Thế mà cái bà Tàu này lại hẳn hoi đặc giọng vùng tôi. Nhà khách Sồi đã mấy đời ở xóm Ao Đình, thế thì con cái y như người làng rồi.
Nguyễn Tuân lặng lẽ hút tẩu thuốc. Nguyên Hồng đã xà đến. Bà xếp cho một chục, nhưng hẵng năm cái một, để được nóng sốt. Ông Lâm xách chai rượu thuốc ra. Cải này chữa bách bệnh, giở giời chỉ vài ngụm, khỏi thấp khớp, khỏi cả đau răng - Ông bảo thế.
Tấm bằng của sở Công An thành phố khen tặng ông Lý Hồng Lâm đã có thành tích trong thời gian kháng chiến ở Hà Nội? Ông Lâm ngắm nghía những người khách đương chăm chú xem cái bằng đóng khung treo trên chỗ thoáng nhất mặt tường. Nguyễn Tuân bao giờ cũng là người tài nhìn ra trước những điều mà chưa ai kịp nhận là đáng hỏi. Ông bắt tay ông Hồng Lâm và ông này cười khoái trá thú vị cái người hiểu mình, biết mình.
Ông Lâm nói:
- Bấy giờ ở Hà Nội tôi bán phở, như khi ở trên Bưởi ấy. Đông khách thì dễ đi lại. Các anh công an mật ở nhà tôi cả năm, không bị lộ. Tôi là người Tàu mà, thằng Tây không biết đâu.
Giữa chén rượu, câu chuyện trở về những ngày thành phố còn thằng Tây. Ông Hồng Lâm hào hứng kể tên từng người cán bộ nội thành, nay vẫn thỉnh thoảng đến chơi, có người đi ô-tô com-măng-ca đỗ xịch trước cửa. Nguyên Hồng đã chén gọn cả chục chiếc bánh. Chúng tôi uống suông.
Bà Lâm tinh ý:
- Chắc hai ông không thích. Tôi làm bánh mà tôi cũng không ăn nữa. Bây giờ người ta ăn bổ bã lắm. Hôm nào các ông lại chơi, lúc rỗi hàng khuya khuya đã. Tôi làm cái bánh cuốn thật như Lạng Sơn ngày xưa các ông nếm thử.
- Có giống lốc bểư không?
- Gọi là lốc bểu hay bánh cuốn Lạng Sơn, cũng tay mình làm ra thôi.
Nguyễn Tuân gật gù. Lốc bểu, lốc bểu. ừ hôm nào trở lại. Thế là cái quán ông Hồng Lâm trở nên hay hay mà Nguyễn Tuân đã tìm dần ra, không phải theo tôi về Nghĩa Đô nữa. Vẫn cái tài gợi cho phải đáng chú ý, chúng tôi a dua theo. Dần dần cảm thấy đầm ấm trong nhà, nhớ những đêm Cao Bằng ở Quảng Uyên, ở Thuỷ Khẩu và ở Hạ Đống bên kia biên giới năm 1950 trong chiến dịch. Những quán phở vịt, phở chua, rượu men lá. Những ống tay áo chàm rộng, một chiếc răng vàng kín đáo chẳng biết các chị các em dân công ấy người Nùng hay người Hán. Khách ngủ lại, ăm cơm như bữa cỗ vẫn kèm bát cháo hoa, lại dầm chân nước nóng, như nhà trọ của thím Hằng nhân tình cầu thủ Goòng tản cư ở Ba Giăng trên Đại Từ.
Không phải bà Lâm hẹn đãi bôi. Chúng tôi đến, một tối ở dưới ấp về. Lại mưa, mưa tầm tã ướt lướt thướt, ánh đèn đường nhòe nhoẹt trời mưa, hay là ta cứ nghĩ ra là mưa thế.
Nhà có khách riêng, ông Lâm đóng cửa hàng. Lò than kê giữa nhà, ngay trước bàn. Mặt lò đặt chiếc thạp nhôm to. Hơi nước và mùi bánh chín bốc lên thoang thoảng. Giọng nói đặc kẻ Bưởi mà tôi không thể nén được bồi hồi, mỗi khi nghe. Chợt để ý cái người con gái chú Sồi bán thịt lợn ngoài cầu chợ hồi tôi còn xách quang liễn đi mua nước suýt bây giờ đã lên bà, nghĩ xa mà buồn.
Giời mưa thế này, tưởng các ông ngại. May quá. Vui thôi mà.
Chiếc vung thạp được gác hẳn lên tường bếp. Làn hơi trắng thơm khắp phòng. Những chiếc bánh hấp nhân thịt mộc nhĩ được lấy từng đôi đặt lên đĩa tây. Chén nước mắm chắt nhỏ mấy giọt cà cuống. Ông bà Hồng Lâm ngồi cùng chúng tôi. Bà vừa ăn, vừa tiếp bánh và mỗi người nhấm nháp một cách khác nhau. Nguyên Hồng vẫn uống rượu và đánh lẻm năm đôi, như lệ mọi khi, một chục chiếc đầy đặn. Bà chủ nhà nhấc ra cặp bánh, ông ấy rót rượu. Nguyên Hồng nâng chén, đầm đìa nước mắt.
- Bây giờ tôi mới lại được chén cái bánh hấp như lốc bểu từ ngày bé ở phố Khách dưới Hải Phòng.
Nguyên Hồng cứ đứng thế, ôm vai ông Hồng Lâm, miệng lập bập hầy hầy hảo lớ, hảo lớ, cái nỉ hảo tố lớ không nói lên lời nữa. Hàng nước mắt đã chan chứa hai gò má, rồi lại ngồi xuống nhồm nhoàm ăn, nước mắt vẫn lã chã. Chúng tôi đã quen với những cảm hứng giữa đường giữa chợ của Nguyên Hồng. Ông Hồng Lâm cười hề hề:
- Uống rượu mà ra nước mắt thế là phát tài, sắp có bổng, các ông ạ.
Nguyễn Tuân đã ngậm tẩu thuốc. Nguyễn chỉ ăn một cặp bánh.
- Ông nếm thế thôi? Ông chê, phải không?
- Ngon lắm, bà Lâm à. Người biết làm thức ngon như bà bây giờ hiếm, không có nữa đâu. Chốc nữa, tôi xin ông bà mươi chiếc đem về, tôi quen ăn đêm như vạc, bà ạ.
- Ông cứ tự nhiên.
Bà Hồng Lâm lấy mảnh lá chuối tươi bọc năm đôi bánh đặt sẵn bên góc bàn. Cho tới lúc ra về Nguyễn Tuân chỉ uống rượu với ông Lâm và ngắm nghía chúng tôi ăn. Có hôm, Nguyễn Tuân nhắc đến cái tối lốc bểu nhà ông Hồng Lâm lại bình rằng quả là ăn bánh cuốn phải chấm nguyên si nước mắm chắt Nghệ mới lên chất, chứ đoảng nhất là đem pha dấm - dấm và muối phương Tây thô, như ông lão 81 đã nhận xét, chỉ biết mặn khác nhạt, trơ ra như con số, người mình không thế. Ông lại chê lây sang chúng tôi chỉ biết hốc.
Nguyên Hồng cãi: ăn được nhiều mới thấy ngon - Cái chủ nghĩa cơm năm bát cật lực của ông, tôi chịu. Nhưng ông biết khen bánh cuốn Lạng Sơn của thím Hồng Lâm, thế là được, - Nguyễn Tuân nói. Quang cảnh hàng quán khu này cũng là một góc thời sự thành phố. Nhiều năm về sau, hồi người Hoa bỏ đi, mấy người quen thuộc và nghèo nghèo này vẫn cặm cụi thế. Nhưng rồi cứ thấp thoáng như ma trận. Tôi vào cà phê Ca, lão cháo gà giải phóng quân trông thấy. Lâu mới gặp. Lão bảo lão đã dọn hàng vào số nhà gần đây. Tôi cười:
- Phát tài, có cửa hiệu rồi?
Lão cười hiền lành:
- Nhà người ta đi mình đến ở thôi.
Có những hôm tự dưng ngỡ như hôm nào vẫn đến chuyện tầm phơ với vợ chồng nhà Hồng Lâm, câu chuyện cũ đểnh đoảng. Thoắt đấy thôi mà đã ra sương khói. Hàng nhà Hồng Lâm đóng cửa. Ghé vào, thấy mảnh giấy dán niêm phong. Nhà người Hoa bỏ đi. Qua cà phê lão Ca thấy một cái giường kê thòi ra tận ngoài thềm. Người khác đã ở. Cái người cả tuổi trẻ đuổi ngựa qua các núi Hà Giang ấy đi, cái bà giống người con gái xưa ở đầu đường Cổ Ngư có cùng đi không? Vợ chồng ông Hồng Lâm, người con gái chú Sồi không biết tiếng Tàu, nói giọng kẻ Bưởi. Mà cũng đi, mà già lão cả rồi, mà đi đâu. Lão cháo giải phóng quân tôi cũng không gặp lại nữa.
Năm trước, tôi qua Tây Beclin. Có hai vợ chồng trẻ gốc Trung Quốc, không biết tiếng Tàu, không biết quê ở đâu, chỉ biết cha mẹ sinh ra ở thị xã Bắc Ninh. Nghe tin có người Việt Nam mới sang thì đến chơi cho đỡ nhớ nơi sinh. Hôm tết mùng năm, nhà cũng thổi xôi, thắp hương rồi đóng cửa, vợ chồng ngồi khóc. Quán ăn Phượng Hoàng, cô chủ hàng Trần Lệ Tương kể chuyện nỗi nhà tha hương. Nghĩ người Do thái, người Digan cũng chỉ đến thế, nhưng chưa phiêu bạt vòng quanh trái đất như thế. Lệ Tương chỉ nghe nói quê ở Thượng Hải. Đấy là đến đời Lệ Tương nghe kể lại. Rồi sang Xiêm, ở Băng Cốc, vào Phù Kiệt. Lệ Tương được sinh ở vùng du lịch và nghỉ mát Phù Kiệt. Khi lớn, theo cha mẹ sang Mỹ, bồng bềnh mấy nơi rồi đọng lại ở Canađa. Lệ Tương lấy chồng, hai vợ chồng trôi về Beclin, nhiều năm rồi. Rồi còn đi đâu nữa? Trần Lệ Tương mỉm cười, có phải hình bóng con gái cái bà già chú Sồi ngày trước đây? Âu cũng là nông nỗi chia ly thì cũng chỉ mình nghĩ ra thôi. Nỗi đi nỗi ở của những người không có quê thì đâu cũng vậy. Người Hoa ở đảo Cát Bà đã ra đi như thế này. Cả vạn chài, phố chài hàng mấy trăm chiếc thuyền đậu trong vụng. Suốt đêm chè chén, đốt pháo. Gà gáy thì ra khơi. Cái lần tôi qua miền nam ấn-độ, thấy nói gần cảng Madrat có nhiều vạn chài người Trung Quốc, cả thuyền bè đồ nghề, mới đến định cư. Phải những nhà chài ở đảo Cát Hải, Cát Bà dạt sang lập nghiệp ở đấy. Có thể.
Hôm sau, mới rõ nguồn cơn những giọt nước mắt Nguyên Hồng rơi xuống đĩa bánh cuốn hấp ở nhà Hồng Lâm. Không biết những điều tôi đoán có hẳn như thế, nhưng mấy hôm ấy tổ 18 bước vào thu hoạch cá nhân. Tự đánh giá công tác sáng tác thời gian qua. Những cái đúng và những cái sai và phương hướng sửa chữa. Thói quen những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn, cái đúng, cái tốt thì nói lớt phớt, rồi người ta dội lên đầu nhau những chữ nhưng, chữ tuy nhiên, chữ mặc dầu đã...
Tôi bị mơ hồ mất cảnh giác mọi mặt. Các cơ quan Hội Nhà Văn và nhiều công tác bị lũng đoạn. Báo Nhân Văn, nhà xuất bản Minh Đức không còn, nhưng tư tưởng Nhân Văn - Giai Phẩm vẫn tồn tại, vẫn làm lệch lạc chúng tôi.
Ngổn ngang tâm sự và tâm trạng chua chát, mỉa mai, lại hài hước. Có người quen thân, có người chỉ sơ sơ, bây giờ moi móc những việc, những lời đã nói, bất kể nói lúc nghiêm trang hay khi vui chén bông đùa, được dẫn chứng bằng cớ ra, phân tích cho nhau rõ ranh giới địch ta. Chỉ Nguyễn Tuân mới nhớ lâu và để bụng những câu góp ý ấy. Có những người rồi Nguyễn Tuân không bao giờ dàn mặt nữa. Đến lượt, ai cũng phải suốt buổi ngồi chịu trận nghe cả tổ mắng xa xả, vi vút. Kim Lân kể dạo ở trên chợ Chu, trong một cuộc kiểm điểm, Ngô Tất Tố bị một anh xưa nay bác Ngô vẫn không coi ra gì, bây giờ phải nghe anh ấy sát phạt lên lớp cho. Ngô Tất Tố quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi nói với Kim Lân:
- Làm người khó lắm, bác ạ.
Khổ một nỗi, có người nghe phê bình, cứ tiếp thu thun thút, còn minh hoạ thêm lỗi mình cho to ra thêm nữa. Thế mà cũng không được tin, lại bị tố cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người bỗng thật thấy mình sai, nhận ngay cũng lại bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy nghĩ. Đến lượt Nguyên Hồng trình bày, lại đặt chồng báo Văn ra trước mặt, giở từng số, vừa nói vừa ứa nước mắt. Chịu chẳng ai phân tích ra thế là kể công hay nhận tội. Tôi dự các cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá, cả tháng không chợp mắt, như ở báo Cứu Quốc, một cậu còn trẻ, đã vào rừng thắt cổ.
Phương châm trị bệnh cứu người là ngồi nghe không được nói lại, đợi đến lúc phát biểu thì tiếp thu. Dao kéo chỉnh huấn của tôi cũng đã hăng hái mổ xẻ nhiều người lắm. Mùa đông 1951, ở rừng Chiêm Hoá, hai tháng dự lớp đầu tiên chỉnh huấn gọi là theo phương pháp Hoa Nam. Lớp ấy nòng cốt các ngành các giới và địa phương học xong về toả ra rộng khắp. Trần Dần và Tử Phác phụ trách chỉnh huấn trong văn nghệ quân đội. Đặng Đình Hưng và Lê Đạt là cán bộ trên ban tuyên nghiên huấn Trung ương về mở các lớp cho giới văn nghệ. Đoàn cán bộ giáo vụ đi học chỉnh huấn ở Hoa Nam về mặc áo bông xanh Sỹ Lâm. Lớp tôi bế mạc, một số cán bộ vượt Trường Sơn vào làm chỉnh huấn và cải cách ruộng đất trong khu Năm. Đoàn còn được lệnh vào sâu hơn, nhưng mới tới miền Đông Nam Bộ thì hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết.
Nửa đêm trở dậy, giữa rừng đất hàng trăm bó đuốc lên, lấp loáng băng khẩu hiệu vải đen chữ trắng... Bộc lộ khuyết điểm... Thước đo lòng trung thành... Trời rét cắt ruột. Rừng đêm tối như mực. Con người bẩn thỉu lỗi lầm đầy rẫy... Chưa... Chưa đủ thành khẩn, làm lại... lại làm lại. Mỗi lần làm lại, viết lại càng ngày càng áy náy lo. Cái chờ đợi được tổ thông qua cứ xa vời vợi. Chỉ có bộc lộ tội hủ hoá ngủ bậy thì cơ chừng nói ra dễ nhất, không có cũng đấm ngực bảo có, nhất là nam giới. Chết rồi còn bị khai trừ, vì tội trốn đấu tranh. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm tham gia một đợt giảm tô ở Thái Nguyên. Công tác dưới xã xiết chặt phăm phắp từng buổi, từng ngày, cả đội như một đơn vị ra trận. Hai ngày bắt rễ, một ngày xâu chuỗi rồi họp rễ chuỗi, rồi trưởng thôn mới ở xóm ra mắt... Đội viên giảm tô Nguyễn Tư Nghiêm loay hoay cả tuần không bắt được rễ, không xâu chuỗi được một cố nông nào. Nguyễn Tư Nghiêm hoảng quá phát dại, đi không nhớ đường về xóm. Suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào, châu chấu ăn. Hoạ sĩ Tạ Thúc Bình được cơ quan cho xuống đoàn xin Nguyễn Tư Nghiêm về. Chưa bao giờ tôi hỏi lại xem ngày ấy Nguyễn Tư Nghiêm điên thật hay sợ phải ngồi chuồng trâu kiểm thảo đã sáng tác ra trò Vân dại ấy.
Chỉnh huấn xong ở Chiêm Hoá, về tổ chức chỉnh huấn trí thức và văn nghệ sĩ. Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Nguyễn Minh Tấn làm cán bộ giáo vụ chủ chốt của lớp. Anh em chúng tôi ai đợt trước chưa dự đợt ấy thì làm nốt. Tôi chỉnh huấn rồi lại dự nữa không làm giáo vụ nhưng được làm tổ trưởng. Tổ tôi có nhiều nhân vật lạ khác nhau: Phan Khôi, Tú Mỡ, Văn Cao, Nguyễn Công Hoan, nhà triết học Trần Đức Thảo, bác sĩ Đặng Vũ Hỉ... Người khó góp ý kiến, khó đánh đổ không phải bác Phan Khôi ương bướng như tôi tưởng mà lại là bác Tú Mỡ hiền lành, củ mỉ, ít nói.
Có hai việc khó cho tổ trưởng tôi về bác Tú. Bác Tú Mỡ nói:
- Nguyễn Tường Tam phản bội, nó là kẻ thù của nhân dân. Nguyễn Tường Tam lập đảng Đại Việt hại dân hại nước. Nguyễn Tường Tam theo Tàu Tưởng về chống phá cách mạng rồi trốn đi. Tôi kịch liệt lên án nó. Nhưng tôi không quên được Nguyễn Tường Tam đã có ơn với tôi.
Bác Tú tiếp tục:
- Nói thẳng ra là không có Nguyễn Tường Tam thì không có Tú Mỡ. Khi làm báo Phong Hoá, Nguyễn Tường Tam đã khuyến khích Tú Mỡ đi vào thơ trào phúng, chuyên thơ trào phúng, có Nguyễn Tường Tam mới thành Tú Mỡ.
Bác Tú Mỡ không chịu phân biệt chính trị và văn nghệ hai vế, bảo Nguyễn Tường Tam có tội thì được, nhưng Nguyễn Tường Tam đã giúp đỡ Tú Mỡ, làm sao nghĩ khác được, bác Tú Mỡ chưa biết phải nên thế nào. Đến cả Trần Đức Thảo mới ở Pháp về Việt Bắc cũng lắc đầu :
- Không được, không được, không thể gượng nhẹ với Nguyễn Tường Tam được.
Trần Đức Thảo hồn nhiên hăng hái cả trong cách sinh hoạt của anh lúc ấy. Thảo đã đem cho hết đồ Tây. Thảo mặc quần áo nâu, đi chân đất. Tối ngủ không màn, mặc dầu chúng tôi đương ở rừng đầu sông Lô, đêm đến, muỗi ra nhiều như vãi chấu. Về muộn mà, tớ phải tập gian khổ cho kịp với các cậu. Trần Đức Thảo nói đứng đắn thế. Chẳng bao lâu, Trần Đức Thảo run cầm cập sốt rét xanh tái.
Sau cùng, Tú Mỡ đấu dịu :
- Các anh phân tích thế tôi đã nghe hiểu, tôi đã nhận ra được cái mặt thằng bán nước ấy rồi. Chỉ lo trước một điều, quả đất tròn biết đâu việc đời thường éo le. Chẳng may lịch sử có cuộc xoay vần thế nào, một ngày kia ta bắt sống được thằng chết chém ấy mà tình cờ lại có Tú Mỡ ở đấy. Thì xin chính phủ đừng cử Tú Mỡ ra chém Nguyễn Tường Tam.
Nghiêm nghị, Tú Mỡ nói, không nhìn ai :
- Tôi đề nghị các anh thế.
Việc thứ hai rắc rối hơn. Bác Tú Mỡ, chiến sĩ thi đua ngành văn hoá văn nghệ đi dự đại hội anh hùng chiến sĩ toàn quốc ở Tuyên Quang rồi về nhà tản cư bên Bắc Giang, trên đường Tú Mỡ tạt xuống vùng ven sông Đuống. Đội chèo tỉnh Bắc Ninh đương dựng một vở của Tú Mỡ. Chẳng may, sớm hôm ấy địch bên kia sông tràn sang càn quét, cướp cái ăn. Tú Mỡ bị bắt. Tú Mỡ khai là công chức đi tìm vợ con tản cư trên Thái Nguyên! . Tú Mỡ nói được tiếng Tây, bốt Phù Lưu giữ Tú Mỡ lại cho làm thông ngôn, chưa gửi về giam Nhà Tiền bên Hà Nội như mọi người khí bị bắt trong các trận càn. Chuyện này tôi đã viết ở tập ký Chuyện cũ Hà Nội.
Thằng quan ba sếp bốt Phù Lưu bị chết trận. Hôm đưa xác quan ba lên ô-tô về Hà Nội, Tú Mỡ đã đọc tiếng Tây một bài văn tế. Ôi thôi, thế là tổ chúng tôi quần bác Tú đến điều. Cũng không ai khen bác một câu, bởi vì bác Tú Mỡ có thật thà nói ra, chúng tôi mới biết chuyện kỳ cục ấy, chứ Tú Mỡ giấu đi thì nào ai biết được. Lúc đến lượt phát biểu tiếp thu được giúp đỡ, Tú Mỡ cũng không nói câu nào.
Hôm tan lớp, chúng tôi trở lại cơ quan. Trên đường đi, Tú Mỡ mới thủ thỉ tâm sự :
- Nghe các cậu phân tích mình cũng nhận ra cái sai. Nhưng mà... nhưng mà... tớ tính nếu không có bài văn tế, không được thằng quan đồn mới đến thay tin cẩn hơn, đời nào nó thả cho tớ đi Thái Nguyên tìm vợ con. Có được xổ lồng thì Tú Mỡ mới về với các cậu được chứ. Thế thì thử bắc cân lên xem thằng Khổng Minh Tú Mỡ so với thằng phản động Tú Mỡ, thằng nào nặng cân hơn.
Đến lúc ấy không còn vai tổ trưởng, tôi cười trừ. ở lâu với Tú Mỡ, thấy anh cứ vừa ngơ ngác vừa thâm thuý và không biết đùa. Tú Mỡ làm thơ trào phúng toàn đọc bản tin thông tấn xã lấy gợi ý. Về Hà Nội, chi bộ dự định kết nạp Tú Mỡ vào Đảng. Tú Mỡ cũng có nguyện vọng ấy ở trên nhận báo cáo và có ý kiến xuống đồng chí Tú Mỡ chiến sĩ thi đua toàn quốc xứng đáng đảng viên, nhưng nên để đồng chí Tú Mỡ ngoài đảng. Như thế có lợi cho cuộc đấu tranh thống nhất hai miền.
Tôi có trách nhiệm nói lại với anh Tú Mỡ như thế. Tôi đã nói, rồi lại đề nghị Tú Mỡ cùng tôi lên gặp trên. Ra về, anh Tú Mỡ bắt tay tôi, vẻ hể hả. Ôi thôi, bao nhiêu não nùng trần ai. Ngót hai năm trước, tôi đã đi làm anh đội mấy đợt cải cách ruộng đất. Đợt 3 dưới kẻ bể Hải Yến Tĩnh Gia rồi lên Hậu Hiền tổng kết. Xong về xã Đồng Tiến Nông Cống, đợt 4 được thăng đội phó phụ trách toà án. Chẳng phải vì tôi tài ba đánh địch thế nào, mà vì hồi ấy nghe tin chính quyền trong Nam kiện với ủy ban Quốc tế rằng ta vi phạm nhân quyền, bắt giam người không có án. Đoàn uỷ cải cách có sáng kiến tìm ra tôi là nhà văn nhà báo, gọi lên, phong chức cho tôi có cương vị múa bút sửa soạn chữ nghĩa, giấy tờ đối phó, nếu ủy ban Quốc tế kiểm tra đến. Tôi đã làm sẵn nhiều bản án. Mãi không thấy gì. Nhưng dù sao, đội tôi cũng là một đội đánh địch khá, đã hai lần được tuyên dương toàn đoàn. Cho nên, đợt 5 được điều ra Cẩm Bình Hải Dương vùng hai trăm ngày sau tiếp quản mới giải phóng, làm một lèo thẳng cải cách ruộng đất không qua phát động giảm tô. Những vùng trắng cơ sở, chắc chắn lúc nhúc mật thám và quốc dân đảng. Tôi làm phó, đội trưởng Huỳnh Cự, nghe nói là đại đội trưởng bên quân đội đã tham gia ba đợt rồi. Huỳnh Cự sát phạt dữ dội mọi mặt. Mới vài ngày xuống xã, Huỳnh Cự đã tổ chức mít tinh hoan nghênh đoàn uỷ duyệt cho bắn một địa chủ để nâng khí thế nông dân lên. Huỳnh Cự lấy một cô rễ cố nông. Huỳnh Cự bảo tớ chưa có vợ. Vóc cao lớn, vạm vỡ, dáng đã đứng tuổi, hai con mắt ngầu đỏ, đi đâu cũng đeo ba lô và vắt cái khăn mặt trắng quanh cổ. Tôi nghi ngờ thế nào ấy, chẳng lẽ lão này lại chưa có vợ. Nhưng không dám hé răng. Huỳnh Cự nhốt tôi vào chuồng trâu lúc nào chẳng được. Tôi đã viết bài và làm nhiều ca dao đăng báo của đoàn về tội cường hào ác bá mà tôi nghe ở những cuộc họp kể khổ.
Bao nhiêu năm sau. Một đêm tôi mở đài Sài Gòn. Tôi hay nghe mục Tao Đàn, cái giọng nữ ẽo ọt của cố nhân Đinh Hùng. Hôm ấy, có tin đại tá Huỳnh Cự đi dự hội nghị quốc tế chống cộng ở Đài Loan. Lạ, nhưng tôi tin ngay là Huỳnh Cự ấy. Đến lúc Huỳnh Cự phát biểu với các nhà báo ở sân bay Tân Sơn Nhất, thưa đòm bào... thưa đòm bào... cái tiếng Quảng Ngãi nặng trịch, nghe dễ sợ vẫn như ngày làm cải cách ở Cẩm Bình.
Thì ra, Huỳnh Cự làm cải cách cuối đợt 5 xong rồi vào chiến trường, rồi ra hàng địch.
Đầu tôi nặng trĩu mưa gió chỉnh huấn. Lúc lặng im vẫn lo vẩn vơ. Không biết nên thế nào, cũng không khuây khoả nhẹ nhàng được. Việc không đáng nghĩ mà đâm ra nghĩ. Xưa kia đi làm, cái nghề bán giày kiếm đồng tiền mửa mật ra, rồi viết văn, cũng là đi làm. Tôi theo đuổi lý tưởng từ những ngày bóng tối. Không có cách mạng, tôi làm sao nên người như bây giờ. Làm sao tôi lại có thể nghiêng ngả, có thể bị lũng đoạn được nhỉ? ở rừng ra, đi cải cách rồi về bắt tay vào những công tác rất quen mà cũng rất mới mẻ này, mới được hơn một năm. Tôi hữu khuynh, tôi bị anh em bốc lên phổng mũi Triệu Tử Long, tôi bị bịt mắt, tôi bị xỏ mũi mà không hiểu, chậm hiểu, không tự biết. Phải thế không? Tôi không tin tôi đến nỗi đù đờ thế. Có lẽ tôi cũng như Nguyên Hồng, chỉ thấy công phu đã làm báo, đã mất công lo việc thế thì không thể sai. Ngày trước và cả khi ấy, Như Phong vẫn bảo tôi là thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt. Cái ấy thì có thể. Tôi sinh ra ở nơi thành phố với làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lý không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, mà ở quê tôi, túi bạc đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khoé đời ấy có thể vì thế mà tôi sai chăng.
Trước bước kiểm thảo, chúng tôi được nghiên cứu và phổ biến lại vấn đề Nhân Văn đã xảy ra năm trước. Sự việc ấy phức tạp cả trong nhiều tầng lớp xã hội ở thành phố, không phải chỉ có mấy cái truyện ngắn, bài thơ trên báo là tất cả. Trong những người dính líu không phải ai cũng đều biết tác động nhuốm màu chính trị lan truyền trong hoạt động đảng xã hội Pháp cũ (Sfio) và những người đang lo lắng lên tư sản hay những người liên quan, con cái và địa chủ các nơi lẻn về ẩn náu. Lại có ông tuỳ viên văn hóa Đuy răng con, tay chơi đồ cổ có hạng, nói tiếng Việt như ta, lại có thư luân lưu tổng giám mục Đuy lây địa phận Hà Nội dạy dỗ giáo dân sống với quỷ ác, biết nhẫn nhục, ép mình, thư luân lưu lan đến những vùng công giáo cơ sở du kích cũ ở Hà Nam - vẫn địa phận Hà Nội của bên đạo. Các nơi ấy, chín năm kháng chiến không có lễ cho người chết cho trẻ sơ sinh, cho các đám cưới, bây giờ cha cố về làm lễ dòng đã mấy tháng qua các làng chưa hết. Cái họ đạo xôi đỗ làng du kích Đại Hoàng của Nam Cao cũng trải những việc đạo việc đòi nhiêu khê thế. Những người nước ngoài vi phạm an ninh của đất nước đã bị trục xuất. Người có quan hệ với họ, Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo trên đường xuống Hải Phòng bị bắt ở ga Phú Thái. ở hội trường, được phổ biến thế.
Tiếng vỗ tay rào rào. Tôi ngồi im. Tôi ngậm ngùi nhớ hơn mười năm trước, tổ văn hoá cứu quốc chúng tôi bị giải xuống Nam Định. Mật thám đã xong cung, còn nằm nhà giam đợi ra toà. Dỗi dãi, cả ngày chuyện tào lao, Nguyễn Hữu Đang có một nhận xét chua chát về đàn bà:
- Những thằng ăn nói lém lỉnh như tao, đàn bà không thích. Chúng nó ưa những đứa lờ ngờ một chút, dễ sai bảo. Tao có kinh nghiệm thế rồi.
Nguyễn Hữu Đang ngâm thơ giọng thủ thỉ rất buồn: Nào những ai bảy thước thân nam tử. Bốn bề chí tang bồng... Ngàn mây bay bổng...
Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt, Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan... Nghĩ đến Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến. Hồi ấy nhiều người ở đâu vào làm cơ quan, tuy khổ song chắc chân hơn long đong đò giang chạy chợ.

Nhưng mà cũng là ở đâu yên thân thì người ta tụ lại không dinh tê về thành, mặc dầu thật ở nơi đèo heo hút gió lại khác. Báo Cứu Quốc Việt Bắc chúng tôi ở Bắc Cạn có anh bỏ cơ quan ra lấy vợ người Tày trong làng rồi đi cắt tóc, đi sơn tràng. Bây giờ anh Ban ra ngoài làng vẫn còn sống, ở vùng chè Tân Cương trên Thái Nguyên. Tết, tôi thường nhận thư. Phùng Cung từ cơ quan nào dạt đến, không nhớ - có lẽ ở ty thông tin Tuyên Quang. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đạp xe đèo đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù.
- Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.
Phùng Cung cũng điếu đóm và tập tành như tôi ngày xưa, đâu dễ mà có sừng có mỏ ngay. Phùng Cung bị bắt khi nhân văn, nhân võ đã được dọn dẹp yên ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được mấy anh này phong chức tay truyện ngắn nhất Đông Dương. Chắc là la đà chiếu rượu với nhau, ăn nói càng ngổ ngáo ganh nhau, càng bạt mạng. Lại viết tập Dạ ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm.
Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt. Tôi vẫn mơ màng về chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi, cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh, như chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng cà phê Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở trung du và nỗi nhà địa nhà phú thế nào ấy cũng không bao giờ tôi hỏi.
Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được a?
- Cũng không hiểu tại sao, anh ạ.
Từ ấy, thỉnh thoảng có gặp lại. Trước kia tôi đã không biết, bây giờ chẳng muốn đụng đến vết đau. Lại bình thường. Có hôm Phùng Cung nói chuyện ở tù, cứ như chuyện ai, ở đâu. Hồi ấy, thuốc viên rửa, loại độc bảng A rất hiếm, dù đấy là dược phẩm của ta. Phùng Cung hỏi và kể luôn:
- Anh có biết sao thuốc hiếm không? Trong viên rửa có thuốc phiện. Người ta mua, gửi cho thằng người nhà ở tù hãm nghiện, cai nghiện. Có đứa uống viên rửa, cả tháng không ỉa được, gãi tuột da, phát điên.
Hôm ấy, chúng tôi đi ăn phở, Phùng Cung trả tiền rồi rủ lên cà phê bà Sính ở Cột Cờ. Tết, Phùng Cung đem biếu chai rượu thuốc. Tôi mừng, cái thằng chớm lao ngày ấy - bệnh lao đã nặng lên trong tù tuy ngày nay không phải là bệnh chết mấy nữa, nhưng vẫn là ho lao. Phùng Cung hỏi tôi:
- Anh có biết tôi phải giam bao nhiêu năm?
- Không biết.
- Vâng, mười một năm tù biệt giam.
Đã tù lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng, một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi phải bắt. Các anh phụ trách Hội Nhà Văn bây giờ đều là người các khóa mới không chịu trách nhiệm quãng thời gian ấy. Tôi lại phải làm cái việc qua đã lâu rồi.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác thì mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục thế ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào cám ơn bác. Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở một xóm trên Quần Ngựa. Nghe nói con cái nên người đã khấm khá, làm được nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký - hay tiếp tục Dạ ký sau hơn ba mươi năm, hả đời? Bảo có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được.
Tôi ngồi cạnh Nguyên Hồng. Kiểm điểm Nguyên Hồng một buổi chưa xong. Vẫn một chồng báo Văn, vẫn như mọi hôm. Cả tổ với nhiều người tổ khác đến viện trợ cũng không ai hỏi thêm Nguyên Hồng một câu nào nữa. Bây giờ mà đụng đến, lại phân tích, lại bổ sung, lại tôi xin góp với đồng chí thì chắc chắn lại như hôm qua, hôm kia, trông trước kìa kìa Nguyên Hồng xoè bàn tay lên chồng báo, vuốt vuốt, mếu máo nói, nước mắt như trút... tôi thức đêm thức hôm... tôi bỏ hết sáng tác, ngày đêm tôi chỉ nghĩ đến tờ báo... bài này đề tài công nhân... bài về kháng chiến... bài này về thống nhất... bài về sửa sai cải cách ruộng đất... tôi không... tôi không... Chẳng mấy lúc Nguyên Hồng lại khóc hu hu.
Thế là không ai nói chen vào được nữa.
Báo Văn nghỉ. Tuần báo Văn Học ra thay. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn sát nhập vào nhà xuất bản Văn Hoá, bộ phận văn học của nhà xuất bản Hội Nhà Văn do phó giám đốc Đồ Phồn phụ trách. Chúng tôi thì được chia vào các tổ đi thực tế lâu dài theo phong trào lúc ấy. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý lên nông trường Điện Biên. Nguyên Hồng về nhà máy xi măng Hải phòng. Có ảnh đội mũ thợ, đẩy xe goòng đăng báo Nhân Dân. Tôi đi với tổ trưởng Hoàng Trung Thông, xuống Thái Bình cùng văn Hoàng Cầm, Chu Ngọc, Trần Lê Văn, Phùng Quán. Chúng tôi về lao động và xây dựng hợp tác xã một thôn ở Thái Thụy, huyện Thái Ninh. Mỗi xã mới tổ chức hợp tác xã ở một làng làm thí điểm. Đi lâu, chuyển hẳn mọi chế độ sinh hoạt cơ quan và đảng về địa phương.
Buổi chiều ấy, Nguyên Hồng rủ tôi đến chơi nhà. Không phải chiều thứ bảy, khác lệ mọi khi.
Tôi hỏi:
- Lại nem Sà Goòng?
- ừ, mới kiếm được cái rau hay lắm.
Đúng, lại chả giò với nhân nhau thai băm với mộc nhĩ. Vẫn trên căn gác mọi khi. Các cháu, đứa bổ củi, đứa xuống nhà rửa rau, đứa ngồi học cạnh cửa sổ. Người trong phòng bề bộn hơn đồ đạc. Chị ấy gầy leo khoeo đã chớm bệnh hen, đương lúi húi rán chảo nem trên hoả lò than cám. Chị đi làm về, sao hàng sách đóng cửa sớm thế - tôi hỏi. Chị cười nhẹ nhàng, không trả lời câu hỏi mà sau tôi mới hiểu. Cụ bà bên góc tương đương đùm mụn áo sứt chỉ của cháu nào.
Chúng tôi im lặng một lúc. Lớp học dưới ấp xong đã lâu mà cái rã rời cộng với bao nhiêu buồn bã vẩn vơ khác lại chợt đẩy mỗi người chìm vào một xó. Không phải ngẫu nhiên mà vừa rồi mới có cuộc họp về vấn đề tên văn gian tờrốtkít Vũ Trọng Phụng, do Hoàng Văn Hoan triệu tập chỉ có tổ nòng cốt, cốt cán những người tin cậy. Hai chúng tôi không được dự. Cuộc họp ban chấp hành Hội cũng đã quyết định về chúng tôi. Có hai người hăng nhất, Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư đề nghị đưa hai chúng tôi ra khỏi Ban chấp hành, ra khỏi Hội Nhà Văn. Nguyên Hồng suýt lại bị kiểm điểm vì không đi đưa đám Mạnh Phú Tư. Tôi thì được Đồ Phồn chứng nhận Anh này có đi đưa, có khiêng quan tài ra xe nhà đòn!. Nguyên Hồng bị nhầm là có thái độ chống đối với những người tích cực. Nhưng đến khi Nguyên Hồng nói rằng mấy hôm ấy nằm khàn ở nhà, không đến cơ quan, không đọc báo cũng không ai đến bảo cho biết. Thế mọi người mới thôi.
Đột nhiên, Nguyên Hồng nghiêm nghị nói:
- Tao không chịu.
Tôi ừ hữ. Nguyên Hồng nói tiếp, nho nhỏ:
- Tao kiện lên anh Cả.
- Kiện à?
- ừ, tao kiện. Tao tin tưởng đồng chí Sao Đỏ. Không dễ thịt nhau như thế. Tao không có điều gì không đúng với Đảng.
ừ, chúng ta sai làm sao được. Những tự tin ngây dại. Có điều, ở Nguyên Hồng được biểu hiện ra khác mà thôi. Nguyên Hồng kia mà. Có lần, tôi được Trần Quang Huy kể rằng khi sắp chiến tranh thế giới lần thứ hai, bộ phận hoạt động công khai của Đảng chuẩn bị rút vào hoạt động bí mật.
Trần Quang Huy được phân công đưa Nguyên Hồng đi công tác thoát ly. Nguyên Hồng đã ra ngoại ô Hải Phòng ở bí mật được vài hôm, nhưng mà cậu ta nhớ nhà hay sao ấy, hôm nào cũng khóc! . Thế là lại phải cho về. ít lâu sau, mật thám Pháp bắt, rồi Nguyên Hồng bị đày lên trại tập trung Bắc Mê trên Hà Giang. Phải, chúng tôi từ những lặn lội ấy ra cơ mà.
Nguyễn Lương Bằng đương phụ trách ban thanh tra Chính phủ. Nguyên Hồng đã cắp cả ôm báo Văn lên ban thanh tra. Nguyên Hồng quý Nguyễn Lương Bằng, có lẽ từ những chuyện vượt ngục dũng cảm. Nguyên Hồng gọi một cách trân trọng đồng chí Sao Đỏ. Huống chi Sao Đỏ lại đương làm Bao Công.
Nguyên Hồng nói đi nói lại:
- Rồi mày xem? Rồi mày xem!
Tôi không nói. Cũng không dám một câu cười cợt cái cả tin hồn nhiên của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng lẩm bầm, làu bàu nói một mình. Lát sau, bảo tôi:
- Mà tao đã tính rồi.
Nét mặt Nguyên Hồng rầu hẳn lại. Nguyên Hồng thường vui buồn đột nhiên, khó hiểu. Vừa nói đến Sao Đỏ, Nguyên Hồng phấn chấn lạ thường, bây giờ lại khác hẳn.
Tôi đưa tờ báo Nhân Dân ngày 12 tháng ba năm 1958 in bài của tôi đề là Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và trong công tác. Nguyên Hồng cầm xem, chỗ qua loa, chỗ chăm chú.
Sau đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, cũng như tật thảy anh chị em văn nghệ sĩ, tôi rất phấn khởi trước sự thành lập của những hội riêng của các ngành.
Tôi thường nghĩ rằng. Đường lối thì đã có ở thư của Trung ương Đảng gửi đại hội, đúng quá, rõ quá rồi. Chúng ta chỉ còn lo liệu sao cho nhau ra sức sáng tác mà thôi, một mặt khác, đối với những tư tưởng chính trị nguy hiểm và những quan điểm nghệ thuật sai lầm bộc lộ trên báo Nhân Văn và các tập Giai Phẩm của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu tôi ngỡ rằng trước phong trào quần chúng đấu tranh phản đối như vừa qua, họ phải sáng ra, như vậy là đã giải quyết xong những lệch lạc ấy.
Các quan điểm nhẹ nhàng đến độ vô lý nguy hiểm như trên, đã đưa tới cái nhìn, cùng với những lý luận sai lầm trong chủ trương công tác của tôi. Hội nhà Văn Việt Nam và cụ thể trong một số việc làm, một số bài viết của tôi.
Ngày nay, sau những cuộc thảo luận, phê bình vừa rồi, tôi mới nhận rõ trong năm quan tình hình không phải mọi sự êm đẹp chỉ có việc sáng tác mà trong văn học vẫn có đấu tranh tư tưởng gay go. Tư tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuyn h hướng tư tưởng nhóm ấy lợ dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước hình hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tương đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch. Tôi đã hầu như bằng chân như vại để cho những tư tưởng xấu của báo Nhân Văn cũ còn có cơ hội nhoi ra trên sách báo của Hội Nhà Văn, làm cho Mỹ Diệm có cơ hội lợi dụng để gây hoang mang cho đồng bào miền Nam và xuyên tạc sự thật ở miền Bắc.
Một phía khác, tôi cũng chưa nhận rõ miền Bắc đã đương trên quá trình cách mạng xã hội chỉ nghĩa. Cách mạng xã hoi chủ nghĩa mở ra trên miền Bắc Việt Nam sau cuộc chiến tranh tàn phá khốc liệt trong khi tiên hành cách mạng ruộng đất và cải tạo tư sản. Với đặc điểm xã hội Việt Nam, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta vẫn không thể ra ngoài những qui luật phổ biên mà trước nhất là cuộc đâu tranh giai cấp mới đương diễn ra về mọi mặt. Tất nhiên, trước công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa thì những lực lượng tư bản chủ nghĩa khùng lên, phản ứng, ra sức chống chọi và một lúc nào đó kéo theo được mọi số hoang mang ở những tầng lớp gần cạnh.
Điều đó rất rõ hiện nay trên mọi mặt đấu tranh tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hoá ở thành thị và nông thôn. Do đây, càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.
Những điều trên, trong thời gian vừa qua, tôi hoàn toàn không biết soi lên và cắt nghĩa được trong lĩnh vực văn học.
Cho nên, ở bài tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và bài góp ý kiến về vấn đề con người mới đăng trên báo Văn tôi đã đưa ra một số luận điểm sai lầm. Đại ý nói rằng:
1. Trong phong trào văn học hiện nay hãy khoan khoan lý lẽ, bởi vì lý lẽ đã cạn rồi, nói tô đen hay bôi hồng gì cũng là vô ích. Mà chỉ có tổ chức, phát triển sáng tác là cần thiết và đáng chú trọng hơn hết, trước nhất? Chủ trương trên đây có phản ảnh hưởng vào hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Hội Nhà Văn và trở nên phương châm công tác của một thời kỳ giữa hai kỳ họp của ban chấp hành. Sai lầm của tôi đã gây nhiều tác hại. Lẽ cố nhiên, nhiệm vụ của Hội Nhà Văn là phải tìm mọi cách phát triển sáng tác nhưng vấn đề là phát triển sáng tác theo phương hướng tư tưởng nào?Không thể phát triển loại sáng tác mang những tư tưởng xấu, chống đối lại chủ nghĩa xã hội, không thể bỏ công sức ra tổ chức, tạo điều kiện cho những sáng tác như vậy ra đời. Mà trái lại phải đấu tranh chống những sáng tác đó. Nhưng trong thời gian qua, báo Văn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn lại đem in lên, đăng lên những sáng tác có hại. Như vậy, không thể gọi là phát triển sáng tác. Thế mà tôi đã bảo vệ cho những sai lầm đó. Tôi còn cho là lý lẽ đã cạn rồi, thực ra là cho công tác lý luận, phê bình không có ích, lúc này cứ việc sáng tác mà không cần đấu tranh tư tưởng. Vì thế, chẳng những là không trị được những tư tưởng xấu lại cũng không tìm hiểu, phân tích, biểu dương được những luồng sáng tác tốt.
2. Khi thảo luận về con người mới tôi nêu vấn đề một con người m ới Việt Nam là có thật, nhưng vô cùng phức tạp, vì nó sinh ra từ một xã hội phong kiến và thuộc địa nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua gần mười năm kháng chiến gian khổ và hai miền chia cắt như ngày nay, cho nên, hiện giờ, nêu biểu hiện con người mới thì dù lấy quy cách nào ra so sánh cũng là công thức cứng nhắc, bất cứ ai cũng không thể định được mẫu cho ai theo. Mà chỉ nên cùng nhận định thống nhất đại khái như trên rồi đi sâu tìm hiểu và biểu hiện, càng muôn màu muôn vẻ càng hay.
Nói cho cùng, về việc biểu hiện con người mới Việt Nam, tới bây giờ tôi vẫn thấy là rất phức tạp là nhiều khó khăn. Nhưng nhận định xoá nhoà như trên đã làm cho tôi lẫn lộn cơ sở của vấn đề con người mới ở đâu mà ra, con người mới là ai, con người mới phải thế nào. Cố nhiên, nhà văn không thế lấy công thức cứng nhắc để thay thế sự nghiên cứu tìm hiểu những con người mới đương sống trong đời. Nhưng khi Đảng ta nêu lên: con người mới là con người lao động chân tay và trí óc phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trước nhất là công nông binh, thì đó là sự thật là nguyên tắc căn bản chứ không thể gọi là công thức. Trái lại, giữa lúc chúng ta đương đầu tranh với lối sống đầu cơ, bóc lột của một số người tư sản, mà chỉ nêu cao con người chung chung, vùi đi mọi ranh giới, như vậy, chỉ là bao che cho những kiểu người bóc lột lỗi thời. Trước đây, chính báo Nhân Văn và các tập san Giai Phẩm cũng núp sau chiêu bài con người mà bôi nhọ chế độ ta và đưa ra những tư tưởng tình cảm cá nhân chủ nghĩa, chọi lại với cuộc sống mới đang được xây dựng. Do quan niệm thiếu căn bản như trên, tôi đã rất coi thường sự mờ nhạt hình ảnh công nông binh trên báo Văn và trong phương hướng xuất bản của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tôi không trọng việc khuyến khích những tác phẩm đề cập những vấn đề nóng hổi của cách mạng và xem nhẹ nội dung, quá thiên về hình thức, kỹ thuật. Mặt khác, nhận định của tôi bị một số người có xu hướng tư tưởng lạc hậu cố ý núp vào, tô điểm vẽ vời thêm theo lối của h ọ để che dấu chủ trương tách rời đường lối văn nghệ của Đảng. Những chiêu bài con người, nhân phẩm chung chung ấy thực ra chỉ để trốn tránh đi vào công nông binh, hoặc ngụy biện là biểu hiện thực tê nào cũng được. Cho nên, cũng dễ dàng thấy như vừa qua, bên một số sáng tác giá trị, còn những sáng tác ốm đau, vàng vọt dìm đầu vào những khía cạnh tủn mủn, cá biệt, sặc chủ quan, xa rời những nhiệm vụ của thời đại, xa rời đời sống quần chúng. Những sáng tác đó tự cho là tìm tòi nhưng thực chất cũng chỉ lại rơi vào bệnh sơ lược vụn vặt mà thôi. Sự thật tỏ rõ: ai đã thâm thực tế quần chúng, những sáng tác nào đã chuẩn bị trên sức lực của kết quả thâm nhập cuộc sống đều tốt. Những ai sợ thực tế như con dơi sợ bóng sáng, trốn nấp sau cái lá chắn thực tế do mình mà ra đều cùng quẫn không viết được, tự mình thấy trống rỗng một cách xấu hổ và họ đã thất bại thảm hại.
Với quan niệm trên, tôi đã đặt vấn đề sáng tác đơn thuần trên hình thức của công việc sáng tác mà không đặt vấn đề nội dung sáng tác thế nào (thật ra, đầu óc bám đặc tư tưởng lạc hậu mà cứ sáng tác thì cũng chỉ nghĩ ra được những cái tồi cái xấu mà thôi). Tôi không chú ý trạng thái đó đã không mảy may đặt vấn đề tổ chức học tập nghiên cứu chính trị, nghiệp vụ và trầm trọng nhất, đã không tổ chức đi vào thực tế lao động phấn đấu của quần chúng, chẳng những đã không giúp mà còn buông lỏng coi thường khả năng của người viết hoà mình vào quần chúng. Đó chính là một thiếu sót trầm trọng.
Hiện nay cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng bởi nhận thức và tư tưởng không chuyển kịp, có chỗ lẫn lộn, tôi đã không lường hết được tầm quan trọng của đấu tranh giai cấp. Vì thế mà đánh giá thấp những hoạt động của tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.
Những khuyết điểm trên đây dẫn tới sai lầm lớn nhất là đã làm tầm thường và hạ thấp tác dụng lãnh đạo tư tưởng của Đảng. Mặc dầu, trong lúc này tôi chưa kiểm điểm công tác của Hội Nhà Văn mà mới bước đầu nhìn lại một số bài báo và công tác của tôi, cũng đã thấy ra được cái nguyên nhân và tác hại cuối cùng của vấn đề là như vậy.
Đành rằng trong một vài sự đánh giá cụ thể về một truyện ngắn này, một bài thơ nọ, có thể nhận thức riêng của tôi còn chưa rõ ràng, nhưng chính yếu là những điều căn bản thu hoạch trên kia đã chỉ ra những sai lầm của tôi, nhất định sẽ càng làm nảy nở sự suy nghĩ đúng của tôi, giúp tôi cùng toàn thể anh chị em đấu tranh kiên quyết chống lại những tư tưởng nguy hiểm còn đương tác hại trong văn học.

Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:
- Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì không!
Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít. Chị ấy bỏ chảo nem, chạy đến.
- Thầy nó làm sao? Lại làm sao thế?
Tôi đỡ Nguyên Hồng lên. Bà cụ có lẽ nặng tai, vẫn ngồi rờ rẫm vá víu chỗ áo rách. Dưới sân, trẻ con đùa cười nắc nẻ, lại cành cạch tiếng giã cua. Như không có gì mới xảy ra. Chúng tôi ngồi trở lại, yên lặng như từ nãy vẫn thế.
Nguyên Hồng nói khẽ:
- Tao tính cả rồi. Trông đây này.
Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi. Nhưng để ý thì thấy có khác. Mọi thứ đã được gói, buộc lại như dạo trước tôi đã quen mắt thấy sáng sớm các thứ trong các nhà sắp sẵn để quẳng ra bờ rào tránh máy bay. Tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam?
- ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.
Tôi hiểu cái cười lạnh lẽo và lặng lẽ lúc nãy của chị ấy.
Rồi một hôm nghe Kim Lân nói Nguyên Hồng đã dọn về Nhã Nam. Không biết vợ chồng con cái gồng gánh như hôm ở Nhã Nam tưng bừng trở về Hà Nội hay là thuê xe ba gác đẩy. Lại lên ngược, lại lên ngược, tôi chỉ thương chị ấy phải bỏ việc. Không hiểu tại sao, bỗng nhớ lại mùa đông 1950 Nguyên Hồng ở chiến dịch Biên giới từ Cao Bằng về Nhã Nam. Bộ đội tặng nhà văn chiến lợi phẩm: đồ hộp, mấy cái chăn dạ, đôi giày lính... Lại cấp một tù binh đi theo quẩy đổ đạc. Dọc đường, Nguyên Hồng mua một con chó mực. Người lính tù, vai đòn gánh, tay dắt chó, ròng rã ngày đi đêm nghỉ, về đến nhà, Nguyên Hồng mòi anh lính làm một chầu tuý luý. Anh ta ngủ lại một đêm, hôm sau, Nguyên Hồng dặn một câu ngớ ngấn:
- Về nhà nhá, đừng lên trại giam nữa mà khổ.
Bây giờ Nguyên Hồng lại lên Nhã Nam.
Thế ra hôm ấy Nguyên Hồng mời tôi bữa chả chia tay. Tôi vẫn lơ lửng không tin Nguyên Hồng lại lên Nhã Nam. Nhưng mà sự việc đã thật như thế. Nguyên Hồng vốn quyết đoán. Thầy nó mà đã định, thì trong nhà ai nấy chỉ việc làm theo.
Cả tính toán chi tiêu mắm muối, Nguyên Hồng đi chợ lo liệu lấy, nếu không chị ấy cũng bảo các con: Đã hỏi thày mày chưa.
Trở lại Nhã Nam, trong khi ở đây nhà đã yên nơi ăn chốn ở và trường lớp các cháu đi học, chị ấy đã có việc làm. Nhưng nhất định không ở nữa. Thế là bỏ hết, lại lên Nhã Nam, ấp cầu Đen, ấp đồi Cháy, lại ở cái đồi như những năm tản cư. Gia đình người chị Trần Văn Cẩn, nhà Tạ Thúc Bình, nhà Kim Lân - khi ấy, bác Ngô Tất Tố đã mất và tất cả các nhà về xuôi đã lâu. Trên quả đồi lưa thưa tre pheo còn lại lơ thơ mấy nhà người làng, cái trường học cấp 1, mái lợp nứa, tường trình ụp xụp, quạnh quẽ. Lại vẫn ở cái nhà như từ hồi chạy Tây mới tản cư. Nhà đường đất, bờ rào cắm hàng xương rồng ông, có vũng nước giếng đất trong khe dưới chân đồi. Xa xa, trước mặt, bắt đầu nhấp nhô những cánh rừng thấp trên Yên Thế Thượng. Đi vào đấy, giữa màu chàm âm u, không biết mấy ngày đường qua Cầu Gồ, Na Lương sang đến Tràng Xá, Võ Nhai bắc Thái Nguyên. Những xóm hẻo lánh người Ngái, người Nùng còn sót lại của tàn quân Lương Tam Kỳ và thời Đề Thám mà mấy năm vừa rồi, chỉ khi nào Tây dưới cầu Đuống rập rình đánh lên Bắc Giang, cơ quan báo Cứu Quốc chúng tôi mới phải chui rúc ẩn vào tận suối Lửa gần cửa âm phủ ấy. Nhưng cũng chỉ ít lâu, rừng rậm âm u ngột ngạt quá, lại nhảo ra.
Nguyên Hồng về Nhã Nam. Chưa bao giờ nghe Nguyên Hồng trách móc đổng giả chửi ai. Nguyên Hồng không có thói hai ba người tụ bạ bới móc người thứ tư vắng mặt. Thỉnh thoảng về Hà Nội, làm sơ khảo, chung khảo các cuộc thi sáng tác, các giải thưởng văn học và làm chủ tịch hội Văn Nghệ dưới Hải Phòng... Được giao việc thì làm đến nơi đến chốn, nhận tiền công trả đàng hoàng, các thứ của văn phòng lĩnh rạch ròi từng cái ngòi bút, một ram giấy. Hội Nhà Văn Đức tặng Hội Nhà Văn Việt Nam 200 cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa Cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình của Việt, của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế.
Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương Đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe nào.
Hai trăm cái xe lăn cả vào kho bộ Thương nghiệp. Nguyễn Tuân hỏi mắng Nguyên Hồng:
- Đóng trò xong rồi, dắt mẹ nó cái xe ấy đi, đứa nào làm gì được!
Nguyên Hồng cười vuốt râu, đánh trống lảng:
- Tớ lên phim còn nhiều phút hơn cái thằng phiên me vô danh trong Cánh đồng ma đấy.
Nguyên Hồng không làm thế, nhưng lấy công tác phí, đòi trả thù lao công tác đóng phim cẩn thận.
Năm sau, các cơ quan vận động giảm chính, giảm biên chế. Nguyên Hồng ở tuổi 52, đương sức lực, hăm hở. Nguyên Hồng đã hưởng ứng phép nước, xin được giảm biên chế, về hưu ngay. Nguyên Hồng nói:
- Cũng tiện. Khỏi phải ngửa tay nhận lương tháng, chẳng phải vờ vẫn bịa đặt báo cáo công tác chẳng phiền ai.
Rượu vào, Nguyên Hồng cười hê hê:
- Ông đố đứa nào dám ra khỏi biên chế bắt chước được ông đấy?
Quả thật, xưa nay cũng chỉ có một Nguyên Hồng xin về hưu non mà thôi. Nguyên Hồng là thế. Chẳng ghét ai thân ai, tưởng như vờn vỡ gần gũi rất vui, nhưng vẫn là xa lánh một mình.
Hồi ấy, được tiền bản quyền bộ tiểu thuyết Cửa biển, Nguyên Hồng chữa nhà. Chúng tôi lên đánh chén khánh thành dinh cơ mới. Vẫn ba gian nhà ở chỗ cũ, nền đất, sân đất, được bó hàng gạch thềm. Dui mè xoan lẫn tre ngâm có chắc chắn hơn. Mái tranh được thay ngói và bức tường hậu đã xây gạch thay tường đất trình khác hẳn. Ngói tây không lót, chắc là mùa hè nóng phải biết. Tường mới mà đã thấm nước mưa hoen ẩm lem nhem. Bàn viết vẫn kê dưới nhà ngang - chỉ là cái chõng tre và chiếc chiếu. Nguyên Hồng trải chiếu ngồi khoanh chân xếp bằng, tập giấy, lọ mực, cái bút sắt đặt trên mặt chõng. Từ thuở trẻ, khi ở dưới bãi Nghĩa Dũng tôi vẫn thấy Nguyên Hồng ngồi nguyên thế như bao giờ. Nguyên Hồng cắt nghĩa rất AQ về sự thoải mái của mình:
- Lúc thư dãn, kềnh xuống mặt chiếu trải đất, mát bằng mấy xích đu rốc-keng-xe. Cái bàn viết không hay bằng cái chõng viết, tha hồ xê dịch, chán cảnh rừng Yên Thế lại bê chõng về đằng này ngắm giàn mướp hương.
Trên mặt tường nham nhở, Nguyên Hồng treo hai bức sơn dầu của Dương Bích Liên. Dương Bích Liên đã cho Nguyên Hồng một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc. Tranh ấy treo cạnh bức sơn dầu Hào. Bức Hào của Dương Bích Liên dự triển lãm năm ấy chỉ được treo ở chỗ tranh bị loại. Tôi đã mua bức tranh bị loại về biếu Nguyên Hồng. Đưa được bức Hào lên Nhã Nam là một công quả, không biết Nguyên Hồng đã vác bằng cách thế nào. Bức tranh to kín một gian mặt tường. Nhưng ít lâu sau, tranh bị mốc. Nguyên Hồng lại khiêng tranh về Hà Nội, nhờ Dương Bích Liên tân trang lại. Rồi thế nào không đem về nữa, và bây giờ không biết bức tranh Hào lưu lạc ở đâu
Cỗ thịt ngan của nhà, lại nồi bồ câu hầm dưới bếp cũng cây nhà lá vườn. Chúng tôi ngồi trên tấm phản bên cửa sổ trông ra sân. Râu Nguyên Hồng lởm chởm cứng quều, chưa dài hẳn. Bộ râu của Nguyên Hồng nhiều giá trị thực dụng chứ không phải như râu những lão ở ẩn. Lưỡi dao cạo hiếm, chợ cũng không có. Đôi khi, cơ quan phân phối một hai lưỡi. Nguyên Hồng không còn sinh hoạt công đoàn vẫn được chia, nhưng cất công xuống tận Hà Nội lĩnh một lưỡi dao cạo, ngại quá. Thế rồi bộ râu tự do trổ ra. Rồi lại gặp cái tiện lợi khác. Cán bộ thuế hồi ấy khám rượu quốc lủi khá ngặt trên tàu hoả. Nguyên Hồng đi đâu thường đem rượu nhà theo. Bỏ thêm vào hũ mấy cái vỏ quít khô. Nhà thuế khám, Nguyên Hồng hạ chiếc bị trên vai áo nâu bạc xuống, một tay khoảnh lại đấm lưng, một tay lôi hũ rượu. Đau lưng, đau lưng, phải có cái tang thuốc ngâm gia truyền này mới được. Anh thông cảm! . Đến hồi có thêm bộ râu dài hẳn hoi thì hũ rượu ngâm thuốc bắc vỏ quít cứ để trần ra trên ghế hàng tàu, cũng chẳng ông nhà thuế nào ỡi ơi đến lão nhà quê ấy. Không mấy ai để ý trên bộ râu nguy trang, hai con mắt còn nhanh như chớp.
Nguyên Hồng vểnh râu, hào hứng:
- Các ông xem cơ ngơi tôi thế nào? Đã hơn dinh Đề Thám chưa? Hai cái tranh của thằng Liên treo thế, đắc địa nhất chứ. Bây giờ mà thằng Dương Bích Liên trông thấy thì nó phải sướng tỉnh người.
Chị Hồng ở dưới bếp, nói chen:
- Thày nó nhà tôi nghe người ta nịnh, lấy hết cả tiền. Chứ đám thợ ngoã bên ấy chỉ khéo nói, nhà với cửa chẳng ra sao đâu. Mưa to, mái hắt, tường thấm nước, mà nắng thì nóng ơi là nóng. Cái mái nứa, mái rạ ngày trước mát...
Nguyên Hồng bị cụt hứng, trừng mắt. Tức quá, môi bặp bặp không nói thành tiếng. Nếu không có chúng tôi đương ngồi quanh mâm, thì không biết có phải câu cắt nghĩa này không. Nguyên Hồng cất giọng hách, lấn át:
- Xà, mẹ mày biết đâu! Cầu kỳ lắm mới đón được hiệp thợ của người ta. Chỉ nói một câu này là các ông đã phải kinh người rồi. Toàn tay thợ con cháu các cụ đã cất dinh ông Đề, đã xây dựng doanh trại ông Đề Thám ở Cầu Gồ đấy. Có thế tôi mới chịu khó chuốc về.
Chị Hồng im. Nguyên Hồng mà nói đến hơi hướng oai danh ông Đề thì đến chúng tôi cũng chỉ biết lặng im. Có một lúc, tôi sang đầu nhà trông ra góc sân chỗ cây mít. ở đấy có nếp nhà tranh cao ráo phủ kín rạ và lá cọ mới mọc. Tôi hỏi:
- Ông bà định xây nhà nữa à?
Chị Hồng đáp:
- Không, đấy là của bộ đội.
- Cái gì của bộ đội?
- Đạn của bộ đội.
Trong gian nhà chất cao ngất toàn hòm đạn. Thế này, chỉ một băng liên thanh, một quả bom vu vơ nào máy bay Mỹ choang xuống thì cả xóm đồi ra tro, kể chi một nhà ông Nguyên Hồng. Sao không bảo bộ đội làm kho chứa đạn xuống chỗ chân tre vắng vẻ, khuất nẻo bên kia. Tôi chưa kịp hỏi, chị Hồng lại nhẹ nhõm, như không:
- Thày cháu cho bộ đội gửi đấy ạ.
Thày cháu đã bảo cho gửi thì thôi rồi. Thày cháu đã bảo mà.
Không bao giờ nghe Nguyên Hồng nói có khi lại đưa vợ con về Hà Nội nữa. ở đây cũng vui thú và quen biết. Cả đời nay đây mai đó, lên Hà Nội, xuống Hải Phòng, Nam Định, từ khi đem vợ con về dưa muối ở đất này chốc cũng đã mấy chục năm qua. Cái khắc khoải chỉ vẩn vơ ở những người khách một đôi lần lên đổi thăm chủ nhân thấy heo hút quá mà thôi. Chứ ông chủ thì ung dung thảnh thơi - đến người ta phải khó hiểu. Bè bạn còn băn khoăn, thương cảm nữa, nếu nghe chị Hồng than thở:
- Thày nó nay xuôi mai ngược chứ tôi ốm đau thế này, suốt mùa rét ngồi cuốn sâu kèn hút lá cà độc dược chữa bệnh - tuổi đã nhiều, bệnh hen càng nặng, tôi đến chết cũng không bao giờ ra khỏi cái đồi này mất.
Người con gái thành Nam ấy vẫn còn thuộc nhiều thơ Lưu Trọng Lư, thơ Nguyễn Bính. Vợ chồng lấy nhau khi Nguyên Hồng bị đi phát vãng, vừa được thả trên Bắc Mê về. Cái đận Mỹ bỏ bom Nhật, hai người ở dưới bãi Nghĩa Dũng chạy bom đem lên Nghĩa Đô gửi tôi chiếc hòm khoá chuông, trong có bộ áo dài lụa vân hoa cau, quần kếp trắng và đôi guốc Phi Mã cao gót.
Có lẽ Nguyên Hồng nhớ Hà Nội có mỗi một cái thú tẩm quất ! ở xế cửa ga Hàng Cỏ. Chỗ ngã ba đường trông sang ngõ Tức Mạc, đêm đến, trên vỉa hè và dưới lòng đường, những cái chiếu trải, mấy người đàn ông mắt loà, như cóc ngồi rao khàn khàn mèo gào: tẩm quất, tẩm quất. Chặp tối, rượu vào rồi, Nguyên Hồng hay ra đấy tẩm quất. Đã quen, Nguyên Hồng cởi áo, quần dài gối lên đầu. Mình trần, độc trụi cái quần đùi, nằm úp xuống chiếu. Trong ánh điện đường đỏ quệch, người loà sờ sẫm bẻ khục răng rắc đốt chân, đốt tay, đốt lưng, vành tai, sống mũi kêu lên như bẻ bánh đa. Ngoạn mục nhất đến cái mục người tẩm quất khẽ bảo Nguyên Hồng ông lật người lên nào!. Nguyên Hồng sướng lử lả rên hừ hừ ngồi dậy. Người tẩm quát nắm hai cánh tay ông khách lôi quặt lại, thúc đầu gối vào lưng. Đầu tiên còn nhè nhẹ, rồi chỉ nghe tiếng hự hự. Không biết tiếng người ư ứ hay tiếng gối thúc. Nguyên Hồng ưỡn oằn người theo từng cú đầu gối như cái đầu chày của người tẩm quất. Hự hự, ghê cả tai. Nguyên Hồng rãn xương sống, nằm thẳng cẳng, rên ú ớ, dễ chịu quá, sướng quá. Đến lúc mơ màng nghe tiếng ông lão loà lại rao tẩm quất, tẩm quất như mèo kêu trên đầu lại cũng như nghĩa là xong rồi, xong rồi ra ý đuổi khéo ông khách. Nguyên Hồng lồm cồm ngồi dậy, trả tiền rồi cứ vắt áo quần lên cánh tay, lừ rừ đi. Nguyên Hồng bảo tẩm quất khỏi đau xương, tốt bằng mấy thuốc ngủ. Đẫy giấc lắm, mà không phải tống cái chất độc hoá học vào bụng. Có thể như thế. Chưa bao giờ Nguyên Hồng đi bệnh viện. Nguyên Hồng không lĩnh sổ khám bệnh. Tôi còn chứng kiến một đêm Nguyên Hồng tẩm quất kịch liệt ở chợ Kỳ Lừa. Chuyến ấy, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đi chơi nhờ xe của thanh tra Vạn Lịch. Ra Móng Cái rồi theo đường Đình Lập, Bình Liêu lên Lạng Sơn. Chúng tôi nghỉ trọ ở cái quán cạnh chợ Kỳ Lừa. Xẩm tối, Nguyên Hồng đứng bên cửa sổ tha thẩn nhìn ra những mái cầu chợ ụp xụp, rêu đen. Bỗng kêu rối rít:
- Bỏ mẹ rồi, bỏ mẹ! Chỗ khỉ ho cò gáy cũng có thằng tẩm quất! Đợi tớ xuống làm một quắn xúc miệng đã rồi hãy cơm nước nhé.
Nguyên Hồng xông ngay vào cửa chợ. Người các làng bản xa về đêm đợi mai phiên đã đông dần, tiếng vó ngựa đập cộp cộp trước quán phở chua đã lên đèn. Trong cầu, trai gái hát đúm vừa cất giọng. Tiếng đàn tính rơi rơi như nước giọt gianh. Mặc kệ, Nguyên Hồng xà ngay vào một bác loà mắt đương ngồi bó gối mặt tây ngây ngoài thềm. Nếu không đã thạo, có thể nhầm là lão ăn mày. Không có chiếu, khách tẩm quất nằm xuống đất. Nhưng Nguyên Hồng đã cầm xuống sẵn hai tờ báo, trải ra. Lắc cổ, bẻ vai, tấn đầu gối lên lưng, khắp người xương cốt kêu lách tách, chẳng khác ở ga Hàng Cỏ. Hay vẫn là những lão loà ấy đã thuộc tàu các ngả, đúng phiên chợ Kỳ Lừa, lại mò lên đây làm ăn.
Tôi bảo thế với Nguyên Hồng. Nhưng Nguyên Hồng xua tay:
- Không phải, tớ ngấm đòn tẩm quất nhiều rồi, tớ biết. Thằng lão sư tẩm quất thổ mừ này tuyệt diệu. Đây gần biên giới, nó lồng cả võ Tàu vào. Mai phải làm quắn nữa.
Chao ôi, có người khoái tỷ được cái tẩm quất tra tấn, cũng là cái thú Hà Nội. Nguyên Hồng ấy chứ còn ai, khi nào tôi cũng cứ ngờ ngợ có thật không. Nhưng tôi lại tin cái khí phách của con người một mình một tính ấy.

Chương I I I

Chuyến tàu hoả từ Nôm Pênh ra đến Poipet vừa chập tối. Bấy giờ vào mùa thu 1930. Đường sắt tà vẹt tám thước Nôm Pênh vừa hội khánh hành đoạn cuối nối với bên Xiêm ở Poipet còn như chạy thử, vài ngày mới có một chuyến không nhất định. Bên Xiêm vẫn tăng bo một quãng chưa nối thẳng được xuống Vọng các.
- Những chuyến tàu thất thường này xộc xệch, còn thưa khách. Chỉ có người đi buôn hay phu phen rừng cao su ra. Lắm hôm vào ga thị trấn Poipet, chỉ còn vài người trên tàu xuống. Hôm ấy cả một toa hạng tư, có ba người. Một người luống tuổi xách cái bị, mặc áo bà ba xuyến đen đã bạc, râu ria lởm chởm. Dáng như một người ở đây về trong xứ có việc, bây giờ trở lại. Hay một chủ hiệu tạp hoá, một người cai ở đồn điền cao su ra chợ thị trấn cất hàng.
Đoàn tàu vắng khách dần dần cắt toa bỏ lại ga xép dọn đường. Bác ấy bị dồn ở toa nào mới lên thôi. Chiếc đầu máy kéo vài toa hủn hoen, như con chuồn chuồn cụt đuôi. Bác ấy ngồi một xó đầu góc ghế một bên hàng tàu, lấy trong bị ra một gói giấy và thuốc lá sợi, cắm cúi cuộn thuốc, không để ý ánh mặt trời đã vàng vọt trên những đám lá cao su ken dầy xanh xẫm loáng thoáng ngoài kia. Người đã thông thuộc thổ ngơi này biết tàu sắp vào ga cũng chẳng buồn ngoảnh mặt ra cửa sổ.
Cuối hàng ghế có hai người trẻ tuổi. Chiếc nón cu li đã sờn vành rấp dưới gầm ghế. Chân đi đất, bụi lấm đỏ bám lên cả hai gấu ống quần cháo lòng. Có thể đoán đấy là những phu đồn điền gần đây. Cũng có thể người tỉnh xa, các đồn điền cao su dưới Chúp tận Côngpông Chàm hay bên Batambang. Nhưng họ đi chơi, hay trốn công ta hay mò ra đây rình chạy sang Xiêm, thì không biết. Hai người mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi. Chốc chốc họ lại thấp thỏm nhìn ra. Còi tầu rúc vang động, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray dồn dập. Tàu sắp vào ga.
Bác đứng tuổi đằng kia ngước lên, điếu thuốc lá quấn cắm vênh trên môi, đăm đăm mắt nhìn sợi khói uốn éo tuôn đằng mũi. Rồi bác đứng dậy, thong thả bước lại chỗ hai anh chàng cũng đương tò mò và hình như ngần ngại nhìn bác phập phèo thở khói thuốc. Một người hỏi trước:
- Thưa ông, có phải qua ga này thì xuống Poipet ạ?
- Phải đấy.
Bác ta bặp môi rít thuốc, nhìn hai người:
- Các cậu xuống Poipet à?
- Thưa vâng.
- Có người nhà ở phố hay các cậu trong đồn điền ra chơi? ở đây nghe nói tiếng Bắc người ta hay hỏi thế. Mới đến Poipet lần này là một à?
Câu hỏi đoán tự nhiên, thân mật và đúng đến thế.
- Thưa thực với ông, chúng cháu làm dưới cao su Lộc Ninh. Nghe nói trên này dễ dàng, có mỏ ngọc Pai Linh kiếm ngày bạc trăm. Chúng cháu rủ nhau lên.
Bác ấy cười khậc khậc, vứt cái đuôi thuốc qua cửa sổ.
- Các cậu này to gan, liều quá. Chẳng biết mô tê mà cũng lang thang đồng đất nước người thế này. Không có xứ nào kiếm ra cái bỏ vào mồm dễ như cái đứa xui khôn xui dại các cậu thế đâu. Lại còn định lên Pai Linh đi đào ngọc à? Có chịu được hai cơn sốt đái ra máu không? Cả trăm người đã chạy chết trên Pai Linh về đấy.
Hai người trai trẻ nọ được một bài học rùng mình càng như từ trên trời rơi xuống. Nhìn nhau phân vân, hốt hoảng, mỗi lúc một đăm chiêu. Họ vừa có ý sợ nhưng cũng lại có phần cố vờ ra như thế một cách vụng về. Chưa chắc họ đã đi Pai Linh. Cứ nói Pai Linh để người ta biết vẫn là trong đất Miên, bởi vì có thẻ căn cước thì đi khắp Đông Dương được. Thật ra, họ đã rắp tâm trốn sang Xiêm.
- Bảo thực, nhưng các cậu có nghe thì mới nói.
- Nhờ ông bảo cho.
- Phải mạnh bạo.
- Chúng cháu đã lần mò lên tận đây.
- ừ, kể ra cũng biết thí mạng đấy.
- Vâng ạ.
Rồi bác ấy nói:
- Này, có dám sang Xiêm không? Sang hẳn Xiêm, mà đến hẳn Vọng Các. ở Vọng Các, ăn mày cũng sướng gấp nghìn đời thằng cu li đồn điền bên ta, ai cũng giàu vù vù lên như đi tàu bay. Tôi đã giúp cho nhiều người sang Xiêm.
- Ông giúp cho chúng cháu.
- Sao bảo đi Pai Linh?
- Pai Linh hay Vọng Các thì cũng thế, đâu kiếm được miếng sống.
- Được, được. Trả công tôi là được. Cứ chẻ hoe ra như thế, ông Khổng Minh, thằng Tào Tháo bây giờ cũng lĩnh lương tháng của Tây chứ không như đời Tam Quốc đâu.
Chẳng biết trả lời thế nào, hai người lúng túng dạ, dạ... vâng...
- Dặn thì nhớ nhé. Đến ga xép này thì xuống. Chứ vào Poipet lính sen đầm nó thộp ngực ngay ở cửa toa, biết không.
- Vâng ạ.
Ba người xuống một ga xép cách Poipet ba cây số. Cũng may, tối lại có trăng. Bác ấy khoác cái bị, điếu thuốc lá phập phèo, hai người đi theo, vắng ngắt, chỉ có bóng cây. Họ vào đường qua rừng cao su.
- Đi tắt, một quãng nữa tới biên giới. Tôi sẽ chỉ chỗ lên tàu bên kia. Sang bên ấy rồi thì dễ, không như cái thằng Tây mắm tôm bên này. Lính Xiêm đi tuần cũng lẩm nhẩm niệm Phật ấy mà. Nếu gặp, cứ dán cho mỗi thằng một tờ giấy bạc vào mồm. Chúng nó cầm bạc rồi lại rì rầm niệm Phật. Hay thế đấy. Các cậu cứ việc đi. Trưa mai thì đến Vọng Các. Có bao nhiêu tiền?
- Chúng cháu còn hơn hai chục.
- Mỗi chuyến thế này người mối phải ăn bạc trăm. Nhưng thôi, giời phật phù hộ các cậu gặp tôi, tôi làm phúc, tôi giúp không các cậu.
- Đội ơn ông.
- Còn bao nhiêu tiền, đưa cả ra đây. Sang bên ấy không tiêu được tiền ta, mà cũng chả cần. Tôi cho các cậu tiền Xiêm, cho vé sẵn đến Vọng Các.
- Ông giúp chúng cháu. Ông có quen...
- Không, không. Tôi không quen ai ở Vọng Các. Mà đến Vọng Các cứ ngửa tay ra là có gạo, có tiền thôi.
- Đội ơn ông.
Xa xa, ánh điện ánh lên một vùng.
- Đấy tàu hoả bên Xiêm đỗ chỗ sang sáng ấy. Cứ trông đèn điện mà qua cánh đồng hoang, không vướng làng mạc phố sá gì đâu. à, cậu nào có đồng hồ đeo tay không, có thì phải để lại. Bên Xiêm, tiền khác, đồng hồ khác.
- Chúng cháu không có đồng hồ.
Bác ấy đưa mấy tờ giấy bạc Xiêm và vé tàu. Hai người lục các túi moi ra số tiền còn lại.
- à, để cái nón đây, vứt đi. Không có sen đầm thấy nón biết người bên này sang. Mà nó có hỏi thì bảo ở Poipet. Hai bên vẫn qua lại mà. Bác ấy còn nhìn theo. Hai người đi rồi mà vẫn nghĩ gặp may, được người tốt chỉ vẽ cho. Nhìn phía ánh điện hẩng sáng, rảo bước.
Hai người trai trẻ vừa qua biên giới sang Xiêm ấy là Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp. Hai cậu học một lớp năm thứ ba trường Ca rô Nam Định. Lại cùng tham gia bãi khoá. Chả là lão giáo Pôn mũi đỏ mới đổi về, động lên lớp là chửi học trò những câu thậm tệ: mẹc xà lù, côsoong san An na mít (Đồ đểu, con lợn, giống An Nam bẩn thỉu). Suốt buổi, Pôn mũi đỏ văng loạn xạ thế. Cả lớp hò hét bỏ ra về, đòi đuổi Pôn mũi đỏ rồi mới học. Rốt cuộc, Pôn mũi đỏ vẫn đến trường và vẫn chửi bới trong lớp. Trong khi nhà trường báo mật thám bắt mấy người học sinh đầu têu đem giam xà lim. Mật thám Tảo gọi bọn Nguyễn Tuân lên bàn giấy đe nẹt rồi cả lũ bị đuổi học.
Cuối năm 1944, tôi bị mật thám Nam Định bắt về vụ Văn hoá Cứu quốc. Vẫn còn phán Tảo ở đấy. Chúng tôi, đôi khi lẩn thẩn điểm lại những mặt người mặt chó, Nguyễn Tuân lại nhớ phán Tảo. Lão phán Tảo nho nhã, trắng trẻo, áo đoạn khăn xếp, ăn nói mềm mỏng. Nhưng quay điện, ống nước, treo xà nhà, các ngón của phán Tảo thì hiểm ác khét tiếng. Cũng như ở ty mật thám Nam Định có tên Đỉnh ác ôn có hạng. Nhưng Đỉnh lại một phép sợ người vợ đồng bóng.
Nguyễn Tuân phải trở về nhà ở Thanh Hoá.
Hai người học trò bãi khoá đã bàn nhau một chuyến phiêu lưu phía tây Cao Miên giáp nước Xiêm La có mỏ hồng ngọc ở Pai Linh Nguyễn Tuân cũng không nhớ ai đã nghĩ ra được cuộc đi mạo hiểm này. Nhưng có thể bởi những uất ức khi bị đuổi học, cuộc sống tinh thần tuổi trẻ tù túng, cùng quẫn. Như cách nghĩ bồng bột tưởng tượng, bước chân đến những nơi xa xôi tên là Pai Linh, là Xiêm, là Vọng Các, là châu Phi, châu Mỹ. Ôi chao mộng lên hương đổi đời. Nhưng cái sự bắt đầu cũng chẳng đẹp đẽ mấy. Bấy giờ, hai cụ đã cho vợ chồng Nguyễn Tuân ra làng Hạc ở riêng. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai, khuyên vàng của vợ. Rồi Lương Đức Thiệp và Nguyễn Tuân vào phía Nam, quãng tàu hoả, quãng tăng bo ô-tô đến Sài Gòn. Bỏ đường lớn đi Nôm Pênh, đáp xe lửa lên Lộc Ninh. Lại vòng về Tây Ninh, qua Sa Mát sang Kông Pông Chàm. Bắt chước những nhà thám tử, những nhà cách mạng bí mật đấu trí đấu tài đọc thấy trong sách. Lặn lội, vạ vật đường trường, vừa ngại ngùng vừa háo hức.
Chuyến tàu hoả ấy rầm rập suốt đêm xuống Vọng Các. Họ không chợp mắt được. Hãy còn hồi hộp vì may mắn và tự khen đã khôn ngoan, khéo léo che mắt được mật thám. May mắn, đã bình yên ra khỏi xứ Cao Miên. Đến nửa buổi, tàu vào thành phố Vọng Các. Hai người ngơ ngác đến giữa nơi chưa biết bao giờ. Xung quanh, trong ga lớn, những đám người Xiêm, người Tàu, người Việt hỗn độn, tíu tít. Bốn cảnh sát Xiêm áo quần trắng toát, mũ viền kim tuyến và một đám lính vác súng trường quây đến.
Một người nói tiếng Việt hỏi:
- Chúng mày là thằng Tuân, thằng Thiệp?
Đúng tên cúng cơm. Lính cảnh sát biết rồi, chỉ hỏi làm phép thế. Lúng túng, chưa biết trả lời sao, đã bị thừng trói giật cánh khuỷu cả hai lại. Báng súng thúc vào lưng, đẩy đi bộ qua các phố đông tấp nập.
Đến cả tháng, Nguyễn Tuân và Thiệp bị giam chung với những tội phạm người Xiêm. Không ai vào hỏi, cũng không biết sự tình bị bắt vì sao. Nhà giam, một phòng rộng kín ba phía. Mặt trước không có tường nhưng rấp hai lượt dây thép gai mắt cáo. Một bốt lính gác đổi phiên cách bức ngoài sân xi măng.
Nguyễn Tuân thường kể lại cái cảnh liêu trai quái đản đã trông thấy ngày đêm trên nhà gác trước mặt. Chẳng biết nhà giam hay nhà điên, trong cửa chấn song nhốt toàn đàn bà. Những người đàn bà lùn tròn, trần truồng như nhộng đứng bám song sắt ngó xuống lồng giam rặt đàn ông dưới này. Không hiểu sao không ai có váy áo. Chẳng lẽ bức bối quá, người ta đã cởi hết, xé hết. Chỉ khổ đám đàn ông trong lồng sắt dưới này ngước lên lúc nào cũng thấy trên ấy nồng nỗng trắng phốp, lông lá rậm rạp đen ngòm lượn qua lượn lại Có thằng dưới này chốc chốc lại gào toáng, dứt phăng quần tung lên. Trên dưới hò hét loạn xạ cơ hồ hoá dại cả.
Một hôm, cảnh sát đột ngột mở cửa buồng giam, cầm dùi cui làm hiệu lùa Tuân và Thiệp ra. Hai người bị xích một cánh tay với nhau, trèo lên cái xe bò kéo, có lính ngồi cùng thùng xe. Xe bò lắc lư qua mấy phố dài, xúm xít người chạy theo xem ra tận ga tàu hoả. Cảnh sát đẩy hai người lên một cái toa đen rồi khoá trái cửa lại. Không có người, lỉnh kỉnh những thùng gỗ, bao bố tải, toa bưu kiện của nhà dây thép. Nhìn hàng chữ tiếng Anh quét sơn trắng cửa toa, đoán đoàn tàu chạy Băng Cốc - Poipet.
Đúng, trở lại Poipet. Chỉ có một việc kinh hoàng mà hai chàng thanh niên mơ mộng chưa tưởng tượng ra được. ấy là lúc được dẫn vào đồn biên phòng Poipet trông ngay thấy cái bác tử tế gặp hôm nọ, cũng đương hút thuốc lá quấn, ung dung trong đám quan lính đồn binh. Chỉ khác bác ta hôm nay ăn vận chững chạc. Râu ria nhẵn nhụi, quần áo tây vàng đầu đội mũ cát, đi giày ba ta trắng.
Bác mật thám ấy bước đến, mặt tươi tỉnh như đã quen. Lại làm bộ nắm cánh tay bên không bị xích và hỏi một câu tỉnh bơ:
- Các cậu đến được Vọng Các rồi à?
- Biết nhổ vào mặt hay biết trả lời thế nào?
Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp bị giải về Nôm Pênh trong cái ô-tô tải bịt lưới sắt đằng sau - như con vượn, con đười ươi người ta mới bẫy được trong rừng đem về thành phố. Mà cái xe ấy cũng vừa tới Poipet, bụi đỏ xuộm tận nóc. Nó là cái xe cây của cảnh sát chuyên để bắt nhốt người, nhốt chó. Buổi sáng ở Nôm Pênh và các tỉnh đều có xe cây và những chiếc xe bò kéo đủng đỉnh, cảnh sát rà vào ngõ ngách các phố bắt chó hoang vứt lên xe, ra thả ngoài đồng. Người Miên mộ đạo Phật, không nuôi chó, cũng không thịt chó. Chó hoang ở đường ở chợ lúc nhúc hàng đàn. Ngày lại ngày đội sếp bắt chó đem thả ngoài xa, rồi chó lại lỉnh vào, vẫn lông nhông khắp nơi, ở xó chợ Mới giữa thành phố Nôm Pênh còn nhung nhăng những đàn chó con.
Đến Nôm Pênh, vẫn bị còng tay vào nhau như thế và tống ngay xuống Sài Gòn. Lại cái xe cây khác. Rồi bị giam ở bóp cảnh sát Xóm Chiếu. Đấy gần bến tàu, hôm sau giải ra Hải Phòng, Tuân và Thiệp ngồi trong hầm tàu viễn dương Chantilly. Hãng vận tải biển Đầu Ngựa Năm Sao có nhiều tàu đường Macxây - Sài Gòn. Hai chiếc Đactanhăng và Chantilly chuyên đi về Hải Phòng - Sài Gòn, thỉnh thoảng mới ra đại dương. Hồi xuống Hải Phòng tìm việc làm, tôi hay vơ vẩn ngồi mép nước cảng Sáu Kho xem tàu Đáctanhăng đỗ ở đấy, trắng toát như cái nhà táng. Chàng mã thượng phong lưu Đactanhăng trong tiểu thuyết Ba người ngự lâm pháo thủ hân hạnh được con tàu đồ sộ mang tên. Hình như còn có cả tàu Tốt, tàu Aramit... Tôi không được trông thấy tàu Chantilly bao giờ. Thế mà lại nhớ Chantilly. Bởi vì thế là đã hai lần nghe nói đến con tàu Chantilly. Chỉ trong câu chuyện mà tưởng tượng ra mình cũng đã tận mắt thấy. Tập Thơ say, Vũ Hoàng Chương bỏ tiền in, nhờ nhà xuất bản Cộng Lực phát hành, có bài thơ Tặng con tàu Chantilly, đấy là bông hoa của một chuyện tình cờ gặp gỡ. Thời kỳ này Vũ Hoàng Chương làm sở hỏa xa Đông Dương. Trong một chuyến tàu suốt Sài Gòn - Hà Nội, người thanh tra kiểm soát viên tài hoa đã làm quen với một hành khách toa hạng nhì sang trọng mà Vũ Hoàng Chương bảo gọi tên nàng là Marie, là Juylie, là Vêronica, cũng đều được. Người đầm ra Hà Nội xuống Hải Phòng đáp tàu Chantilly, chẳng rõ nàng trở lại Sài Gòn hay về Pháp chỉ biết mối tình trên tàu hỏa chỉ ngắn ngủi thế. ấy là trang nhật ký thơ Vũ Hoàng Chương kỷ niệm theo con tàu.
Những câu chuyện tình dài tình ngắn thuở ấy. Triền miên những đêm nhà hát Vạn Thái hay Vĩnh Hồ, những tuyệt vọng và những bài thơ, những chuyện có thật và những tô vẽ cho hoa mỹ. Nguyễn Bính thì cố nhân Hương, Hương cố nhân, Đinh Hùng thì em Liên Hàng Bạc, người đẹp biết thổi acmônica như ngọc nữ xuống trần gian thổi sáo gọi nhau. Những búp hoa quỳ trắng này Liên mang đến mùa hạ, giờ đã sang thu, cuống hoa đã héo quắt trong chiếc độc bình mà em thì, Liên thì đã nằm dưới mộ - thời ấy, quả là trai gái hay chết yểu, không mấy người sống lâu như bây giờ. Vũ Hoàng Chương thì Tố Uyển, Tố Uyên. Tàu Chantilly, chỉ là một thấp thoáng chiêm bao, Tố của Hoàng ơi thì vẫn neo lại trong tâm tình. Nhưng những bài thơ còn đấy mà nàng thì đã lấy chồng. Các chàng lạy nhau, tôn nhau lên thành đấng rồi vừa khóc vừa đọc thơ, nghe tiếng trúc Cao Tiệm Ly thổi khi Kinh Kha qua sông Dịch. Những bài thơ tuyệt vọng cứ tưởng tượng ra như thế.
Tôi mới viết truyện ngắn ông giăng không biết nói đăng tuần báo Tiểu thuyết Thứ bảy. Gã yêu em. Em sắp về nhà chồng rồi mà cứ trơ trẽn như không. Đêm hội chèo, tay đôi đưa nhau ra ngoài đồng, bên cái giếng thơi đầu xóm. Gã gặng hỏi. Nhưng em lắc đầu bảo không, rồi khóc. Mọi khi thì chẳng dám nói. Nhưng hôm ấy thong thả phiên chợ tơ, lại có chèo hát sân đình, gã hơi ngà ngà một chút. Gã sửng cồ lên:
- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sau cưới mày. Đồ khốn nạn!
Người con gái vùng chạy. Gã say rượu khát cháy cổ, cúi đầu hớp nước ngã lộn xuống, chết đuối trong giếng. Thế rồi ngày 12 tháng sau, ả nọ về nhà chồng. Từ đấy, mỗi lần về xóm nhà mình không bao giờ ả dám đi tắt cánh đồng qua lối men bờ giếng. Nào ai biết đâu cái chết thương tâm của người con trai. Nông nỗi đêm ấy chỉ có mỗi một ông giăng chứng kiến. Thì ông giăng lại không biết nói.
Trong nhà hát ở Vĩnh Hồ, Vũ Hoàng Chương chắp tay bái tôi:
- Lạy huynh, huynh nhất thiên hạ, huynh đã rõ tâm tình đệ. Ông thử hỏi chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sáu thì cưới mày... Ha ha, lạy huynh...
Tôi bảo:
- Mắt ông viền vải tây hay là chữ in sai đấy.
Câu trong truyện của tôi là mười hai tháng sau, không phải mười hai tháng sáu, không phải....
Vũ Hoàng Chương cãi:
- Không, mười hai tháng sáu mới đúng cái đau của đệ, huynh đã cho đệ nén hương mười hai tháng sáu, không, mười hai tháng sáu..: huynh cứ cho đệ đọc cái ngày tuyệt mệnh ấy là mười hai tháng sáu của đệ.
Làm thế nào cãi, mà cãi làm gì. Chầu hát suông, người ả đào và chú kép xách đàn sang nhà khác đã lâu. Chúng tôi lại uống bia đen, nghe không biết bao nhiêu lần Vũ Hoàng Chương rên rỉ bài thơ Riêng tặng Kiều Thư:
Trăng của nhà ai? Trăng một phương!
Nơi đây rượu đắng m ưa đêm trường
ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương

Là thế! Là thôi! Là thế đó!
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm, trăng cũ ai nguyền ước
Tố của Hoàng ơi! Tố của anh

Tháng sáu, mười hai, từ đây nhé
Chung đôi từ đây nhé, lìa đôi
Em xa lạ quá, đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi

Men khói hôm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
Tình ta, ta tiếc, cuồng, ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi!
Ta đương lửa đốt tơi bời mái tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ, xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ xang, xế, xứ, xang, hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bừng
Xê hồ, xang... khói mờ rung
Nhịp vương sầu toả năm cung ngút ngàn

Cái tàu Chantilly tải tù Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp từ Sài Gòn ra. Sự đời đưa đẩy, cũng một con tàu mơ mộng Chantilly ấy mà trước kia đã có lần nhốt hai người phiêu đãng ngồi dưới hầm than. Tới Hải Phòng, lên Hà Nội rồi Nguyễn Tuân bị giải về Thanh Hoá. Giam một năm nữa mới được thả, lại bị quản thúc tại gia, đi đâu phải trình báo quan sở tại. Đấy là dư âm cay đắng của chuyến lên đường thứ nhất trong đời thiếu quê hương của Nguyễn.
Nguyễn Tuân viết sớm mà lại cũng là muộn. Những truyện và ký cuối thập kỷ ba mươi in trên các báo Tiểu thuyết Thứ bảy, tạp chí Tao Đàn không phải những bài đầu. Trên báo An Nam Tạp chí của Tản Đà, báo Đông Tây của Hoàng Tích Chu, Nguyễn Tuân đã in những bài ký, những truyện ngắn đầu tay khi còn ở Thanh Hoá làm phóng viên tỉnh lẻ nhặt tin đếm chữ ăn tiền cho báo Trung Bắc Tân văn. Biết đâu, những sáng tác chưa định hình đã thấp thoáng mơ màng từ trường trung học Nam Định. Có thể sớm hơn, khi còn học trường tiểu học Trương Minh Sang phố Hàng Vôi trên Hà Nội. ở những thời kỳ, các cơ quan Nhà Nước đều quần tụ giữa thành phố. Kho bạc ở vườn hoa Nhà Kèn bên hồ Hoàn Kiếm. Sở Tài chính phố Hàng Trống - toà báo Nhân Dân bây giờ. Cả đến nhà lục xì - nhà thương chứa bệnh hoa liễu cho gái điếm và khách làng chơi xây năm 1902 cuối phố Huế, năm 1926, Toà đốc lý cho chuyển nhà lục xì lên phố Trường Thi - bệnh viện C ngày nay. Chỗ cũ thành trường tiểu học Ô Cầu Dền, nhưng người ta vẫn gọi là trường Lục Xì. Trường tư thục Trương Minh Sang mở cuối 1923 nhận học sinh đến lớp 3 đi thi sơ học yếu lược. Năm 1929, một người Pháp mua giấy phép trường này dời lên phố Phủ Doãn, mở mang, đổi tên thành trường trung học Gia Long. Hết lớp ba trường Trương Minh Sang, Nguyễn Tuân về học ở Nam Định. Nay đây mai đó cũng là gia đình theo công việc của cụ tú Hải Văn.
Nguyễn Tuân không khi nào nói lại những sáng tác chập chững mờ nhạt thuở ấy và bạn đọc thực sự làm quen với Nguyễn Tuân khi xuất hiện bài Khóc Vũ Lang trên tạp chí Tao Đàn năm 1936, ký tên độc một chữ Tuân.
Vũ Lang, cây bút mới nổi vài truyện ngắn, mất bệnh năm 24 tuổi. Nguyễn Tuân khóc bạn và Nguyễn Tuân còn thương tiếc một lối văn biền ngẫu diễm lệ của Vũ Lang mà Nguyễn Công Hoan cũng rất chuộng. Truyện ngắn Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ của Vũ Lang, mở đầu những câu thánh thót:
Rằng xưa vốn người Kẻ Chợ... Hàng Châu, Hàng Châu có cảnh Tây Hồ. Phong cảnh Tây Hồ có Tam đàn ấn nguyệt, vài ba tảng đá trên làn nước bập bềnh. Làn nước Tây Hồ bập bềnh trên tảng đá. Khóm trúc đượm hạt mưa xuân trước gió. Hạt sương rơi tơi tả... tơi tả
Những bút ký, truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Tuân liên tiếp trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy, báo Thời vụ, báo Bạn Đường, báo Hà nội Tân Văn, tạp chí Tao Đàn, các tập Giai Phẩm của nhà xuất bản Lượm Lúa Vàng, của Văn đoàn tự lực. Và các tập bút ký, truyện ngắn, truyện dài Vang bóng một thời. Một chuyến đi, Tàn đèn dầu lạc, Tuỳ bút 1, Tuỳ bút 2, Thiếu quê hương (nhà Anh Hoa in bị kiểm duyệt bỏ một chữ thiếu), Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn của các nhà xuất bản Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực, Anh Hoa, Hàn Thuyên, Thời Đại...
Đầu năm 1946, tôi quen Nguyễn Tuân trong một cuộc họp hội Văn hoá Cứu quốc, chỗ nhà Khai Trí Tiến Đức bờ hồ Hoàn Kiếm rồi sau chuyển xuống đầu phố Ôn Như Hầu gần hồ Thiền Cuông. Nguyễn Tuân rủ tôi lên nhà Thuỷ Tạ. Lúc uống bia, Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Có phải Lương Đức Thiệp chết rồi?
- Tôi không biết.
Nguyễn Tuân vẻ không bằng lòng.
- Cậu làm bảo của Việt Minh mà không biết à?
Tôi không biết thật. Một dạo thấy hay đến chơi với Phạm Ngọc Khuê chỗ tôi ở gần chợ Hôm. Nguyễn Tuân dường như không tin. Nguyễn Tuân thường có những nghi ngờ và quyết đoán chủ quan tương tự. Rồi cũng không nói đến việc ấy nữa. Câu hỏi đột ngột và chỉ có thế.
Đêm Nôen 1972 chúng tôi đi dạo phố rồi nửa đêm về nhà thờ Hàng Trống. Nguyễn Tuân và tôi cùng hai bạn nhà văn Liên Xô đương thăm Việt Nam, Eptuchenkô và Marian Tkchôp, giỏi tiếng Việt.
Tôi đã được xem Eptuchenkô đọc thơ ở Bây-rút, thủ đô Li Băng. Người không biết tiếng Nga cũng phải chăm chú - nói là Eptuchenkô biểu diễn thơ thì đầy đủ hơn. Bây giờ gặp lại, có những việc nửa vui nửa buồn. ở khách sạn Thống Nhất một tối hôm sau Eptuchenkô nói đùa:
- Tôi chưa bỏ vợ, mà đêm qua đã phải lấy vợ mới.
ý nói đêm qua Eptuchenkô ngủ chung buồng với Marian. Manan đã ở khách sạn này nhiều lần, đoán được cái phòng ở tầng một ấy loại mấy và thế là biết cách chủ nhà đối đãi với mình. Marian im lặng. Nhưng đến khi chạy cho hai người được hai phòng, lại gặp rắc rối mới. Nhưng rắc rối vui vui. Eptuchenkô cao quá một thước tám mươi. Phải nằm chéo và ghếch chân lên thành giường. Rồi cũng đổi được cho nhà thơ ấy cái buồng giường đôi, anh ta vẫn phải nằm chéo nhưng để được chân xuống. Mấy hôm đầu hầu như không có ai bén mảng đến gõ cửa hai ông khách. Nhưng dần dần thấy trên có vẻ quý trọng, người mới dần dà ùn ùn đến. Rồi sách tặng, sách tặng đầy bàn. Không thể đem đi được, quá cân cước vé máy bay. Marian cẩn thận xé trang đề tặng rồi cho tôi khuân đi có đến mấy chục quyển!
Một đêm, qua phà Rừng về Hải Phòng. Phà đông, chen chúc xe và người. Trong bom đạn, đường xá tấp nập thâu đêm. Chúng tôi đứng bên thành phà. Người làm ca nô soi đèn bão đến tháo xích cho phà rời bờ, sáng loáng qua chỗ chúng tôi. Bỗng sau lưng tôi, một câu chửi réo:
- Tiên sư thằng xét lại
Marian ghé tai, thì thào:
- Nó chửi tôi, ông ạ.
Tôi không biết chui đầu đi đâu được. ở khách sạn Hạ Long rồi khách sạn chuyên gia ở Hải Phòng, tôi còn được nghe những câu đùa nhả, những câu rủa ráy độc ác của những cô nhà bàn, cô căng tin quầy rượu. Tôi thật oán cái sõi tiếng Việt của anh bạn lúc lúc lại làm tôi khổ cực vì xấu hổ từ cầu Hiền Lương ra vịnh Hạ Long, về Hà Nội. Tối qua, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom đêm Nôen. Chúng tôi có thể đi dạo, bớt phải để tai lên trời. Nhưng mới quãng tám giờ tối, tiếng nổ như sám rền dội tới. Nghe như ở chỗ cái túi bom cầu Giẽ, bom lại ném cầu Giẽ. Giữa đồng chiêm Hà Đông - Hà Nam mênh mông, cái cầu Giẽ trơ trọi trên đường số 1, như cầu Hàm Rồng, máy bay Mỹ quyết liệt triệt hạ, quần suốt ngày đêm. Trong nhà thờ Hàng Trống, từ chặp tối, những xóm họ đạo ở quanh cầu Giẽ đã lũ lượt kéo lên. Mấy năm nay các nhà thờ vùng đồng chiêm bị bom phá, đêm Nôen dân đạo dưới ấy phải đi lễ nhờ. Cả nhà người già trẻ con trải ny lông, gói quần áo và những túi cơm nắm lổn nhổn lẫn với người nằm hai bên hành lang nhà thờ đợi chuông dóng nửa đêm.
Các bạn Liên Xô chú ý quang cảnh đường. Phố đông vui, người đi chơi, người đi lễ. Vả chăng, đây đã thật xa Bến Hải đầu cầu Hiền Lương trong kia. Eptuchenkô lại nảy ra một cái lo khác. Eptuchenkô hỏi:
- Có người Trung Quốc đi lễ nhà thờ không?
- Không để ý. Mà cũng khó biết, người Trung Quốc ở đây ăn mặc cũng như người Việt Nam.
Nguyễn Tuân nói:
- Có thể không có. Người Trung Quốc theo đạo Tin Lành, như người Mỹ, như Tưởng Giới Thạch, họ không đến nhà thờ này.
Eptuchenkô chưa yên tâm.
- Cho tôi đi giữa và tôi sẽ bước hơi rụt đầu xuống. Nếu bị đánh cũng chỉ trúng bả vai. Cái lo xa của anh chàng cao quá khổ. Nửa đêm, nhà thờ chen lấn ních người. Eptuchenkô lênh khênh hơn xung quanh hẳn một đầu. Nhưng vào cảnh thanh bình khác thường giữa thành phố đương bị đánh phá anh đã quên cúi cổ xuống. Chúng tôi ngột ngạt len được vào một hàng ghế. Trên đài lễ, ông cố đạo giảng một lúc bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Có nhiều khách nước ngoài đến nhà thờ. Khi trở ra đường, Eptuchenkô đã nhãng hẳn cái lo bị đòn. Eptuchenkô bước nghênh ngang.
Hà Nội. Đêm Nôen. Bom Mỹ. Lạ thật. Nhưng ông linh mục nói tiếng Anh không giỏi. Mùa hạ vừa qua Eptuchenkô đi chặt mía cả tháng ở Cu Ba. ở Việt Nam về, Eptuchenkô sẽ sang Mỹ. Tôi tìm được quyển kịch Người chào hàng của A. Mi-lơ nhà xuất bản Văn Học in năm trước. Eptuchenkô hứa sẽ đưa cho tác giả, khi đến Nữu Uớc.
Cái vui kỳ dị đêm Nôen chưa hết. Chúng tôi lên phố Hàng Giầy. Các tiệm ăn uống quốc doanh và tư nhân sáng đèn suốt đêm quanh Bờ Hồ và ở trung tâm - người ta dựa vào đêm nay không có báo động.
-Chúng ta sẽ ăn Nôen ở một quán người Trung Quốc.
-Thật không?
- Anh đã không bị đánh thì cũng không ai bỏ thuốc độc vào con cá ở đĩa của anh. Đêm Nôen, đức Chúa Trời lòng lành...
Nói vui thôi, Eptuchenkô đã tươi tỉnh tử lâu. Quán Tiểu Lạc viên vẫn mở, nhưng ông có ngay đã nghe bom giật mình chết từ tết năm ngoái. Một người hầu bàn đầu trọc, áo cánh xuyến đen ống tay rộng. Nếu thêm cái nón tu lờ sơn dầu quang mây, thì tưởng vào một cao lâu mới ở Lạng Sơn dọn xuống. Không biết có phải thật Tàu không. Cái năm lắm người Hoa đi, nhiều cửa hàng vằn thắn, chủ quán quấn cái tạp dề xanh đội lốt làm chủ quán Tàu. Mất ông có ngay, cửa hàng nhạt hẳn. Nhưng Eptuchenkô đâu biết cái buồn thiếu vắng ấy. Năm trước, nhà văn Solukhin và tôi vào hàng nem Cát Tần sắp đóng cửa để tránh nạn bị nhòm ngó lên tư sản. Cả gian hàng trống không, cái cốc cũng không có, chúng tôi uống bia bằng bát chiết yêu. Solukhin gật gù khoái rồi về Matxcơva viết trong bút ký Bưu thiếp Việt Nam: lần đầu tiên trong đời, đến Hà Nội tôi được cầm cái bát phương Đông uống bia Đức.
Chúng tôi uống cuốc lủi với chim bồ câu quay. Tôi nói dối đây là chim giẽ, một giống chim mùa lạnh về trú đông ở các cánh đồng nước nhiệt đới. Chim ăn thóc, thịt rất thơm. Marian Tkchốp hóm hỉnh:
- Chim giẻ cũng ngon như chim bồ câu, ông ạ.
Eptuchenkô lại như cắt nghĩa tiếp theo:
- Đừng tưởng chúng tôi không ăn thịt những con chim hoà bình. Cách nói như thế chỉ để hô khẩu hiệu. Khi còn chiến tranh, tôi là cậu bé tám chín tuổi theo bố mẹ tản cư về vùng thảo nguyên taiga ở Trung á. Cân đường, lít sữa cũng mua bằng phiếu như các bạn có sổ mua gạo bây giờ. Người lớn bắt chim bồ câu hầm cho trẻ con ăn. Nhưng bồ câu đàn ngoài vườn thịt tanh lắm. Bồ câu mới nở trong ổ bắt trên các khe mái nhà ăn mới ngon.
Không ai hỏi lại và chế giễu tôi về con bồ câu hay con chim giẽ. Mọi người đều biết là nói đùa và những tưởng tượng vui. Chặp tối hôm sau, sang sân bay. ở Gia Lâm, hay có khi Nội Bài, khách đi và đến vào chặp tối. Xe lửa liên vận biên giới phía bắc ở ga Hàng Cỏ chuyển bánh lúc nhọ mặt người. Qua cái cầu Long Biên giả chết - những nhịp cầu bị đánh gãy vẫn gục đấy, máy bay không người lái chụp ảnh lướt ngang cũng không biết đường sắt, đường ô-tô vẫn sống trong lòng cầu.
Đêm đêm, những đoàn tàu đoàn xe không đèn lẳng lặng qua.
Eptuchenkô ném hai đồng xu Nga xuống sông Hồng. Phong tục ngồi lại giây lát để ước được bình yên trước khi ra đi cũng như ném đồng tiền xuống sông, ấy là mong sự tốt lành và những cái hẹn có ngày trở lại. Năm sau, tôi gặp Eptuchenkô ở Matxcơva, nghe nhà thơ bốc phét kể chuyện tranh luận với tổng thống Mỹ J.Ca-tơ. Ca-tơ nói ông ta rất yêu L.Tônxtôi, nhưng lại dẫn sai một câu của đại văn hào này. Chắc là tay chuyên gia đãng trí nào đã làm sẵn cho lão nói - Eptuchenkô nghĩ thế. Eptuchenkô đã đưa vở kịch Người chào hàng cho A.Mi-lơ. Mi-lơ chảy nước mắt nhận quyển sách nhỏ bé, bìa quăn queo. A.Mi lơ không thể tưởng bom Mỹ ném như thế, Hà Nội vẫn in và diễn kịch A. Mi lơ.
Bao nhiêu năm sau, trong một chuyến thăm Thái Lan, Eptuchenkô đã tạt sang Hà Nội chốc lát. Dẫu sao, đồng tiền Nga vẫn thiêng, người ra đi có trở lại. Tôi không được gặp để hỏi xem khi Khơrutxốp qua đời đám ma thưa thớt, Eptuchenkô đã đi đưa, viếng độc một bông hoa cẩm chướng. Câu chuyện ấy ra sao, tôi đọc tin tức thấy nói thế.
Đôi lần, tôi hỏi Nguyễn Tuân:
- Anh nghĩ thế nào về tờrốtkít thời kỳ ấy?
Nguyễn Tuân đăm chiêu rồi sừng sộ hỏi lại:
- Mày muốn chụp mũ tao hả?
- Ông cứ quá lời...
- Tao đi Vọng Các với thằng Lương Đức Thiệp, vậy thì tao cũng là đệ tứ. Cách suy luận máy móc của chúng mày là như vậy? - BƠ vơ, tôi bỗng bị Nguyễn Tuân trút cơn bực mình. Bấy giờ tao với nó còn là những thằng ranh con, đã biết tam tứ ngũ lục thế nào đâu. Tao đọc hồi ky Đời tôi của Tờrốtkít đấy chứ. Mượn ở thư viện. Thư viện Tràng Thi có cả Tônxtôi, Goocky, Giôn Rít, có tuốt. Tây mật thám ăn mắm tôm, biết sách vở đỏ đen thế nào. Cái đứa viết báo khoe thời Pháp đã tìm đọc chui Lêôn Tônxtôi là nói láo ra vẻ ta đây cũng cách mạng từ bóng tối. Thằng Việt Minh Như Phong nhà chúng mày thỉnh thoảng lại vờ xuống chơi. Chẳng thấy nó giác ngộ gì tao, lại đưa cho tao tiểu thuyết tự truyện của Saclơ Pliniê. Mà Pliniê là thằng đệ tam rồi tờrốtkít. Việc đời lôi thôi lắm. Tao không bài bác, nhưng tao không thích.
- Ông chỉ làm cái gì ông thích thôi.
- Mồm nói thế này, bụng lại nghĩ khác, là thằng đểu. Mày gọi là thằng cơ hội, thì thằng bịp cũng thế. Không ưa mà cứ làm như thích lắm. Tao không sực được các chính khách!
Cứ cái kiểu ấy, một đời còn biết bao gian truân!
ở Thanh Hoá, khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà, bấy giờ nhà bác Nguyễn đã dời Thanh Hoá ra ở Ngã Tư Sở trên đất Mọc Thượng Đình quê gốc. Bạch về một gian gác nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế, không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển sách dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không ló ra đường, không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá trái. Chủ nhân khước từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất thần lại biền biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu mình ở cái buồng con trên nóc bếp hay ga ra ô-tô.
Cái gác của Nguyễn trong các tuỳ bút và truyện ngắn, truyện dài cũng na ná cái gác Nguyễn Tuân tá túc ở cuối sân sau một toà nhà bên tay phải phố Hàng Đãy. Bè bạn cho Nguyễn Tuân ở nhờ một buồng gác có thể trước là nơi ở của thằng tài thằng xe, tầng dưới để xe, trông thẳng ra cửa bên. Một cái thang gác gỗ nhấc đi được dựng đứng góc buồng, người trèo lên rồi sập mảnh ván xuống, đóng kín sàn, hệt cái bẫy chuột. Lên thang nghe gió cuốn âm thầm... Gác trọ không đèn nhớ cố nhân... - như câu thơ Trần Huyền Trân. Có một lần, Nguyễn Tuân đã dẫn tôi đến đứng ngoài vỉa hè nhìn vào hoài cổ cái gác xép ấy. Trải mấy chục năm dâu bể, thế mà khi ấy, bên trong một quán chè tươi, cái gác xép vẫn nguyên. Nguyễn Tuân bảo chẳng khác ngày xưa. Ngôi hàng chè tươi ấy của ông Nghi người làng tôi xuống Kẻ Chợ làm ăn. Ông Năm Nghi bảo:
- Chỗ gác ấy là trạm giao thông nội thành, cán bộ thường đến liên lạc. Chẳng biết thành phố có giữ làm bảo tàng không?
Ông Nghi cũng hoạt động cơ sở quận 1 thời kỳ ấy.
Toà nhà nọ, khi Nguyễn Tuân ở nhờ, là nơi tụ tập bí mật của một nhóm người đảng Đại Việt. Các nhà văn nhà báo Đào Trinh Nhất, Nguyễn Triệu Luật, Phùng Bảo Thạch... hay đến, có người bạn, có người chỉ quen, cả Đỗ Xuân Mai chủ nhà xuất bản Mai Lĩnh in phóng sự hai tập Tàn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân. Có thế, Nguyễn Tuân mới ở được cái gác bỏ hoang kia. Họ ra tờ tạp chí Văn Hoá, toà soạn đóng ở đấy. Báo hàng tháng bìa vàng dưới in trang trí hai chữ V và H trên nền một góc mặt trời đỏ toả tia ánh sáng. Chúng tôi xì xào hai chữ này: Đấy là bọn thân Nhật viết tắt chữ Vừng Hồng, mặt trời với tia nắng là vừng hồng đương lên - gần gũi với cái mặt trời tròn đỏ giữa quốc kỳ Nhật. Không hiểu tại sao,
Nguyễn Tuân cực ghét cờ Nhật, mà Nguyễn Tuân bảo là cục mực đỏ trên miếng vải trắng và giễu cờ Tàu Tưởng có cái ru líp xe đạp, bánh xe răng cưa. Hồi ấy tôi đã ở tổ chức Văn hoá Cứu quốc. Tôi để ý tin tức các phe nhóm chính trị thân Nhật, thân Pháp trong thành phố. Nguyễn Tuân cũng biết bọn ấy, Nguyễn Tuân không viết báo Văn Hoá nhưng lại thích cái góc tĩnh mịch hơn, nên đến ở đấy. Chỗ cái sân sau dưới cửa sổ - Nguyễn Tuân kể, tối nào chúng nó cũng tập võ, tập súng khuya lắm. Hình như đánh bốc, đấu gươm, bóp cò tanh tách, ném lựu đạn chai lọ vỡ choang choang. Trên buồng, mình nằm võng mơ màng, rồi ngủ, mặc kệ. Biết có điều phức tạp, nhưng vẫn đi về một minh, coi như không bận tâm. Chúng nó bảo viết bài thì trả lời ậm ừ. Lão xuất bản họ Đỗ lên buồng, rền rẫm lên: ối giời ôi, thời thế này mà ông nằm chỏng vó lên được à? Dậy, dậy. Gươm đây, ka ki may áo, may mũ sẵn cả rồi. Không mau lên thì không ai đợi được ông đâu.
Nguyễn Tuân im lặng, lát sau hỏi câu thân tình với nhà mua sách ấy như thế này: Này, ông chủ xuất bản, ông sẵn tiền đấy không, ông cho tôi tiêu một ít. Và Nguyễn Tuân vẫn nằm võng trong cái gác xép trơ trọi. Mọi sự xung quanh, không động trệ đến mình.
Một hôm, Phùng xuống tìm Nguyễn Tuân dưới nhà ở Ngã Tư Sở. Phùng nói nhỏ:
- Mật thám quây nhà ấy rồi, đừng lên nữa, cho tao ở nhờ mày ít ngày.
Thế là Phùng ẩn náu ở am Sông Tô. Ba chữ Am Sông Tô chỉ là cái bóng đẹp khéo tưởng tượng mà thôi. Nguyễn Tuân thường đề lạc khoản kèm với ngày tháng dưới những sáng tác như thời thượng của người viết. Chứ đâu phải cái am, cái động, cái lều tranh, cái mái trúc mà chỉ có muỗi đêm túa ra táp vào mặt bên con sông Tô xanh rờn những bè rau muống trên dòng nước hôi thối ở các cống thành phố thải ra. Sau bờ rào cúc tần, một ngôi nhà ngói cổ toạ lạc giữa mảnh vườn con, trông sang nhà ga ra tàu điện đường Hà Đông - Cầu Mới. Nguyễn Tuân đã viết tuỳ bút Nhà bác Nguyễn xưng tụng công lao thân mẫu ông vất vả từ Thanh ra trông coi dựng nên nếp nhà ở quê. Đại gia đình về an cư nơi gần đầu làng Mọc sau bao nhiêu năm cụ tú Hải Văn - tú tài khoa thi sau cùng, đã bôn tẩu theo công việc chữ nghĩa và dong chơi khắp Khánh Hoà, Phú Yên, Phai Pho, Turan, Huế, Hà Tĩnh rồi cắm lại Thanh Hoá, đến khi về già mới trở về được nơi chôn rau cắt rốn. Tam đại đồng đường ngụ trong ngôi nhà ngói cũ kỹ ven đường này. Thời bị chiếm, Pháp mở rộng đường Hà Đông, ngôi nhà bị ủi đi biến vào giữa lòng đường Nguyễn Tuân bảo chỉ nhớ áng chừng cái am Sông Tô ấy ở chỗ gần cửa nhà máy cơ khí bây giờ. Nhà bác Nguyễn, nhà bác Trương Tửu mất nhà, không được may như nhà bác Tú Mỡ trên Cầu Giấy, tản cư rồi có người trong họ đến ở nhờ trông nom hộ, khi trở về, nhà cửa vườn tược gần như nguyên.
Phùng luẩn quẩn tránh ở nhà Nguyễn Tuân. Lại còn như trêu ngươi, như không biết là người đương bị mật thám truy lùng, cứ tối đến, hai người thong dong lên tàu điện vào chơi ả đào Khâm Thiên.
Tôi không được cùng thời yên ba sầu xứ trong cái vỏ ốc thành phố này với các vị. Nhưng những khi đôi ba chén rỗi rãi, ngồi nghe kể, lại tưởng ra nguồn cơn vui thú của cái ông trưởng nam mới tý tuổi đầu đã được cụ thân sinh dắt theo đến phố Hàng Giấy thưởng thức đàn ngọt hát hay hẳn cũng có khác người, cho nên bóng dáng và tiếng tơ tiếng trúc xóm yên hoa còn dấu vết xa xưa lại trong tâm tư. Nhưng đến thời buổi nơi hát xướng đã nửa cô đầu nửa nhà thổ, bên tiếng hát bâng khuâng hồng hồng tuyết tuyết, phách róc lấp lánh lưa thưa như hạt ngọc rơi để khách cầm roi chầu gõ ngắt xuyên tâm, lại cộng thêm một lũ đào đĩ hầu rượu giải chiếu mắc màn rồi ngủ với khách, thú thanh tao nọ đã sang một sự vật dục khác cung phụng cho nhiều người khác rồi.
Nguyễn Tuân không chơi như người ta xưa và nay. Nguyễn Tuân trang nhã, thân tình với bà luật sư thượng viện Phước Đại, bà Bảy Nam và cô Kim Cương cả với ca sĩ Hà Thanh, một thời giọng vàng đài Sài Gòn, với Hoàng Oanh mà tôi vừa gặp đã giới thiệu ông quen ở khách sạn Côngtinăngtan hôm đoàn kịch Kim Cương ăn mừng một tuổi, thế mà cứ lưu luyến như rồi còn gặp lại. Nhưng chỉ vậy thôi. Nguyễn Tuân hay xỉ vả thói hoa lá cành của Nguyễn Văn Bổng và tôi. Cách mạng thành công năm 1945, Nguyễn Tuân mới ba mươi tuổi. Thế mà đĩnh đạc, chỉnh tề như đã tuổi tác lắm. Không giăng gió, Nguyễn cũng không thuộc những người liến láu khôn đến rạc cả người mà đàn bà ngại như cách Nguyễn Hữu Đang xếp hạng.
Năm 1975, Nguyễn Tuân vào Sài Gòn đến ở một nhà quen khó ai biết đích xác, kể cả những Phạm Tường Hạnh, Đoàn Minh Tuấn chuyên làm đầu sai mua giò chả các quán Bắc, rượu đế thịt quay chợ Hoóc Môn và chạy tiền để cụ tiêu. Bà chủ nhà kín đáo ấy, bấy lâu trong chỗ riêng tư. ở trong này vẫn nhận thầm với bạn bè lứa tuổi, bà ta là một bóng chị Hoài, tóc chị Hoài. Hôm Nguyễn Tuân trở ra Hà Nội xe về qua bưu điện Bờ Hồ còn tạt vào ghi xê gửi bức điện khẩn cho ai rằng đò giang đã thuận buồm bình yên. Chẳng may, tôi lại cầm đi đánh bức điện ấy nên mới để ý tên người nhận. Bà Nguyễn Thị Thảo. Ôi chắc là cái bà Nguyễn Thị Thảo báo Phụ Nữ ở phố Hội Vũ, trước có Trúc Khê, Lê Thanh cộng tác. Bà Thảo ấy sao? Tôi không hỏi. Tế nhị, người ta đã không muốn nói, thì cũng chẳng nên cố ý thóc mách. Sau chuyến ấy, Nguyễn Tuân thường ra đường, tay cầm gậy song, mặc bộ áo cánh lụa màu cậy dáng nhà Phật, bảo là của người ta cho. Khác nào hai câu thơ hoa viết bút lửa trên mặt đôi guốc mộc của Mộng Tuyết gửi biếu bác Nguyễn, những tình bạn đẹp và buồn phương trời.
Phồn hoa tỉnh mộng sương pha tóc
Mà cố nhân còn vẹn sắc hương
Nhưng khác chuyện bà giáo ở Bến Tre gửi thư cho Nguyễn Tuân - cũng trong cái năm 1975, sau bốn mươi năm Nguyễn Tuân mới trở lại Sài Gòn. Bà giáo Bến Tre giọng buồn giọng vui viết thư cho Nguyễn Tuân biết năm xưa bà đã gặp phải một Nguyễn Tuân dởm như thế nào.
Quãng những năm 1940 thuở ấy tôi cũng đương ở Sài Gòn. Tôi cũng biết chuyện có đứa mạo tên của Nguyễn Tuân đi lừa tiền nhiều nơi. Nguyễn Khánh Đàm, em Nguyễn Tuân, chủ hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm đường Sabuaranh đã kiện chứa mạo danh lên toà án thành phố. Nhưng tên ăn cắp đã lặn mất.
Bà giáo Bến Tre bị tên Nguyễn Tuân dởm ấy lừa tình thì chẳng mấy ai biết. Bây giờ bà giáo tâm sự với ông Nguyễn Tuân thật, rằng bà muốn được gặp ông. Nguyễn Tuân chống batoong, đi đi lại lại trong buồng khách sạn Bến Nghé. Nguyễn Tuân nheo mắt và nụ cười heo héo. Có cái thanh xuân của người ta thì thằng Tuân giả sực tất cả. Bây giờ thằng Tuân thật đầu râu tóc bạc lụ khụ đến. Hai chiếc quan tài sắp hạ huyệt rồi. Cái trang cuối của thiên tiểu thuyết này không thể tái hồi Kim Trọng có hậu như truyện Kiều được. à cậu viết truyện tình được đấy, tớ bán cho cậu cái cốt truyện này. Một chai Macten thôi, trong này sẵn. Nguyễn Tuân không xuống Bến Tre. Cũng không trả lời thư bà cụ giáo.
Thời la cà dưới xóm mà Nguyễn Tuân đặt tên là những cuộc truy hoan, ở giữa nơi ăn chơi Nguyễn Tuân cũng không dăng dện vẩn vơ. Trong các tài danh thuở ấy ở Khâm Thiên mà bây giờ các bà Nguyễn Thị Phúc, Quách Thị Hồ vẫn còn nhắc lại giọng tức tưởi âu yếm:
- Ông Tuân với bà Năm, chỉ một bà Năm thôi, cứ gọi là hết nhẽ. Ngoài kháng chiến, ông đi chỗ nào, trong này bà Năm cũng biết. Thế mới tài chứ. Bà gửi cả vàng ra cho ông tiêu. Lo liệu cho nhau đến thế cơ mà.
Cũng thì chơi bời, Nguyễn Tuân chỉ gắn bó vơi chủ nhà hát và hát hay. Lôi thôi quá, tao định đưa bà Năm về làm bé đấy. Nhân thể rước cả bàn tĩnh về. Đằng nào cũng nghiện, hút ở nhà đỡ tốn đỡ đàn đúm. Cụ ông nhà mình tính cho hai bố con thế. Rồi cách mạng, thế là tung hê cả Cái người nặng tình với Nguyễn không phải đào Hồ, đào Phúc, cũng không phải Mộng Hoàn chị ruột của Vũ Đình Hải trinh thám tư và làm áp phe cho Nhật mở buyarô trên phố Trường Thi, rất thích truyện Chí Phèo, Đôi lứa xứng đôi của Nam Cao. Mà đây là đào Chu Thị Năm, cũng là chủ nhà hát. Tôi hậu sinh, chẳng biết đâu những đào hoa xa xưa của vị bô lão. ở Việt Bắc trở lại, Nguyễn Tuân tìm mua ở chợ Giời được mấy cái đĩa hát của Mộng Hoàn và của Chu Thị Năm. Canh tàn rượu tỉnh, khuya khoắt lắm mới lấy ra nghe như nghe ma hát. Nguyễn Tuân bình: Cùng nhà nòi cả, Mộng Hoàn thì sang, hát hàng hoa bay bướm, nhưng khuôn giọng vào đàn có phần không dụng công bằng Chu Thị Năm. ấy cứ đúng mực với nhau, mà có quá đi nữa, ông sẽ làm như nền nếp thói thường, đưa nó về lạy chị cả - chẳng thể tan hoang đến nỗi nào. Nguyễn Tuân đã nói ra miệng thế. Một bạn chơi cùng thời với Nguyễn Tuân là Vũ Bằng đã viết: Chơi đâu thì chơi, không bao giờ Nguyễn Tuân sao nhãng cửa nhà. Hồi ký về Nguyễn Tuân của Vũ Bằng in báo Văn Học ở Sài Gòn, đến khi đọc tự truyện Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng không thấy câu ấy, thành thử tôi chỉ nhớ ý. Con mắt tinh đời của Vũ Bằng đã nhận xét ra từ ngày ấy và đúng suốt đời với Nguyễn. Năm kháng chiến, Nguyễn Tuân với một đoàn cán bộ bí mật vào hậu địch hạ lưu sông Hồng. Trong công việc chuẩn bị vào tề, Nguyễn Tuân tự đặt bí danh là Tuệ. Tây mà tóm được thì bác Nguyễn là cụ chánh tổng Tuệ, cụ chánh hội Tuệ, tuỳ tình hình. Nghĩ trước tới lúc hiểm nguy, vẫn là nhớ về bác gái nội trợ ở nhà. Tuệ là tên bác gái, bác Tuệ. Cả đời bác gái giúp bác trai làm nhà bếp, nhà bàn, nhà phòng nhà nó Những năm sau này, ít đi xa, Nguyễn Tuân hay khoe đùa:
- Chẳng đâu có ôten tốt hơn cái ôten nhà mình.
Những cái đĩa hát chỉ là những cái đĩa hát, những đĩa hát 78 cũ đã nhạt tiếng rồi mất hẳn. Người hoa khôi nơi yên hoa xưa đã yên giấc nghìn thu từ lâu. Tối ba mươi, tôi hay đến Nguyễn Tuân nghe bà Năm hát, nhưng tục lệ ấy cũng đã tàn tạ nhiều năm rồi.
Những đêm này, Phùng và Nguyễn Tuân thường hát ở nhà bà Năm, hát nhà hát nhà. ở nhà hát ấy đã được miêu tả trong Tuỳ bút 2, có lần bác Nguyễn lưu luyến ở đấy lâu quá, một sớm trở dậy chợt soi gương thấy hai hàng mi dường như đương trắng bệch ra - sắp thành thần Bạch Mi, ông thần cai quản đám ca nhi giang hồ nơi thanh lâu, tửu quán.
Nửa đêm, Phùng về am Sông Tô, Nguyễn Tuân ngủ lại. Mật thám đã rình cửa. Phùng bị còng tay, tông ra xe.
- Thằng Tuân đâu?
Mật thám dẫn Phùng lên đập cửa nhà hát bà Chu. Gà vừa gáy canh một. Nguyễn Tuân chui trong màn ra, tra tay vào còng số tám, về sở liêm phóng. Cùm xà lim cả tháng, Nguyễn Tuân bị gọi lên tra và hỏi dòng dã về những dứa nào, chúng mày làm gì trong toà nhà tạp chí Văn Hoá phố Hàng Đẫy mà Nguyễn Tuân vẫn về nằm võng. Chuyện thật mà mật thám Tây không thể tin. Nguyễn Tuân không đến nỗi nhát sợ khai lung tung, mà thực sự, không biết đổ vấy cho ai. Nguyễn Tuân không biết mảy may chuyện trong nhà ấy. Giữa năm 1941, hai người mật thám dẫn bỏ Nguyễn Tuân lên trại tập trung ở Vụ Bản vùng rừng núi Hoà Bình, Ninh Bình. Việc đi tù này, Nguyễn Tuân ghi một câu gọn lỏn vào lý lịch để ở cơ quan: Đi căng một năm vì chứa chấp Phùng. Chỉ một câu mà đâm nghĩ ngợi. Cả khi có tuổi, Nguyễn Tuân cũng không quên.
- Tao không dây với chúng nó, việc gì nó phải dẫn mật thám đi bắt tao. Mật thám hỏi, nó chỉ nói một câu không biết, thì đã sao?
Thời ấy, Nguyễn Tuân còn một ông bạn, khi cần tiền vẫn giựt nóng mấy đồng mà không mấy khi phải trả. Năm tù ở Vụ Bản về. Nguyễn Tuân cho con cầm thư đến bạn mượn tiền, cũng như báo tin khéo: Tôi đã về. Ông bạn thân mọi khi không đưa tiền, cũng chẳng một chứ trả lời. Đến nay Nguyễn Tuân còn cười nhạt qua chén rượu: à người ta ngại dính đến thằng tù dây. Những đợt chỉnh huấn gay gắt, Nguyễn Tuân ngồi im nghe mọi người giúp đỡ, gợi cho nhớ lại những câu đã chửi ai, đã nói ác ra sao mà Nguyễn Tuân không nhớ nói thế bao giờ. Nhưng nghĩ chắc có nói, không phải chúng nó vu. Chỉ không tưởng được rồi có khi người ta lại đem câu giễu cợt ra chỗ nghiêm chỉnh thành chuyện tày trời. Nguyễn Tuân không tiếp thu , cũng chẳng nói lại, rồi cũng chẳng bao giờ nhìn mặt những người ấy nữa. Bề ngoài, tuồng như ở ngòi bút và trong cuộc sống Nguyễn Tuân chỉ có xô bồ và ngang cành bứa. Không, đối đãi với xung quanh, Nguyễn Tuân vừa thành kiến vừa tình nghĩa nền nếp cũ. Hợp nhau mặt nào thì chan hoà mặt ấy, những cái khác thì không lưu tâm. Cuối năm, cẩn thận, đều đặn, Nguyễn Tuân gửi thiếp chúc năm mới những người quen biết cần gửi. Không bất thường và trễ nải hứng một lúc. Tôi đi Lai Châu hay Hà Giang lâu lâu, thế nào cũng được thư Nguyễn Tuân, khi gửi từ Hà Nội, khi Lào Cai, khi Vĩnh Linh, khi Matxcơva. ở phương này, Nguyễn Tuân nhắm phía chân mây kia mà ông thèm tới.

Chương I I I (tiếp)

Đến việc ăn uống thì thật nền nã và cầu kỳ. Hay bảo là cốt làm ra khác thường cũng có thể được. Nguyễn Tuân lên cốt 400 núi Ba Vì. Trên ấy đạo diễn Mai Lộc đương quay một số thước ngoại cảnh phim Vợ chồng A Phủ của tôi. Lưng núi, xa chợ búa, con bò con lợn mổ được phải để ăn dần mươi hôm. Tổ làm phim thịt bò đón khách linh đình. Miếng xách luộc, miếng thịt tái cả da chấm tương gừng. Hồi này nhà mậu dịch gắt gao thu mua da bò da trâu, có ở rừng ăn chui mới được miếng da bò thui quý hiếm. Mấy ông già người Dao ở làng gần cũng xuống vui chung. Nguyễn Tuân khen ở núi hiếm gia vị mà cũng kiếm được rau thơm, ông chỉ nhặt bỏ ra ngoài mâm những lá cỏ dại gọi là lá mùi tàu nhổ ở ven rừng. Nhưng Nguyễn Tuân chén thịt bò có một bữa ấy Những hôm sau, nhờ nhà bếp nắm cho nắm cơm và mở lọ muối vừng, lọ ruốc mang theo từ nhà. Đừng ai nài ông khách kỹ tính ấy ăn thêm miếng thịt kho, một bát nước suýt oi khói hai ba lửa. Nguyên Hồng với Nguyễn Tuân mỗi người ăn uống một khác, thế mà chơi được với nhau. Nguyên Hồng uống tạp, rượu nhắm ổi xanh, hành sống, cà pháo muối xổi... Buổi tối, Nguyên Hồng ngủ lại ở cái gác xép sân sau cơ quan. Chẳng biết cao hứng sao đi tìm tôi rồi ra chợ chiều cạnh bến xe Kim Liên mua miếng thịt bò, mấy nhánh cần tây và mớ rau húng. Thịt xào không mỡ với muối, rau húng chỉ cởi lạt, ngắt ăn cả nhánh. Hàng rau người ta rửa rồi mới đem ra chợ bán chứ ăn cả đất đâu mà lo. Khéo vẽ vệ sinh lôi thôi
Nguyễn Tuân khác hẳn, Nguyễn Tuân uống như các cụ ngày trước, rượu ngữ. Bữa sáng hay chiều có nhắm hay uống suông cũng thế, thành lệ mỗi lần một hai chén, quanh năm không khác. Nguyễn Tuân có thổ mua rượu, ông kỵ rượu chợ. Không nát, không to tiếng, say chỉ lừ đừ và lặng lẽ nằm nghỉ. Tạng Nguyễn Tuân với cách thức hương hoa ấy hợp với các thứ uống hảo hạng Chianti của ý, Rôm Giamaich hay Uýtky và Mao Đài. Mùa hè, làm cốc-tay thêm lát chanh với miếng đá, nhấm nháp cả ngày. Không đụng đến rượu ngọt, dù nặng. Cái xa kê ngòn ngọt của Nhật thì vứt đi. Có lần, đạo diễn Đình Quang ở Nhật về biếu ông bình rượu xa kê to tổ bố. Ông cho chúng tôi uống cả. Những năm ấy, chuốc đâu ra những của quý như thế mà vẫn kiểu cách của ông. Bời vậy nông nỗi còm cõi càng trơ khố tải ra, mỗi khi có đôi chút phong lưu, nhiều cuộc uống tội tội thế nào ấy. Một miếng pho mát, một cốc vôtka Ba Lan trên gác nhà bác sĩ Trần Hữu Tước, cũng khá hiếm hoi. Chủ nhân chỉ ao ước có tủ sách chuyên môn, có tiền mua hàng tháng sách nghề của mình tháng nào chẳng có tạp chí, có sách mới, chỉ đọc báo cũng muốn phát sốt. Mà không có tiền mua ông bác sĩ anh hùng này đã dịch tiếng Pháp bút ký Ngõ tây của tôi với nhiều truyện ngắn khác và những phát biểu, tham luận của tôi mỗi lần tôi đi dự hội nghị nước ngoài. Ông dịch thuê và đọc cổ văn Liêu trai chí dị. ở Pháp ngày trước, ông làm bác sĩ tai mũi họng chuyên cho hoàng gia Anh. Một năm, chỉ vài ca khám đã thừa cái ăn chơi. Thuở ấy, xa rồi. Bây giờ, mỗi lần cho con xách cạp lồng đến phở Khải 202, chủ quán quý khách thái thêm cho mấy miếng gầu đã cám ơn, xuýt xoa khen.
Cái cung cách ăn uống phải tính toán nghèo nghèo này, kể cũng hiu hắt và vất vả. Mỗi khi vớ đâu được một chai ngon, henitxy hay cô nhắc, Nguyễn Tuân thường kéo bạn đến, từng người. Họ được uống vào những lúc khác nhau. Người mở nút đầu tiên và người uống ly chót, chủ nhân đều đã đo đạc cẩn thận. Không biết ai, chỉ biết tôi không mấy khi được vinh dự mở nút chai. Tôi chỉ lĩnh một chén ông dành cho vào lúc nào đấy và đến lúc khoái quá, được Nguyễn Tuân bảo:
- Ông có thể thêm ly nữa, ly nữa.
Tự tay tôi thò vào cái nút be lọ lỉnh kỉnh dưới giá sách lôi ra chiếc chai quý mà lúc nãy rót xong chén cho tôi, Nguyễn Tuân đã lại cất sâu vào phía trong. Ai, thì đãi rượu nào. Có cái này uống được. Ông đến nhé... Được, hiểu là thượng hạng đấy. Trong lúc tôi liếm môi vị cô nhắc thơm cay mà một bạn người Nga của chúng tôi, anh Vlat nghiện rượu quanh năm túng bấn chỉ nốc có rượu trắng, cứ nói xấu lấy được rằng thằng cô nhắc có mùi hôi con rệp, tôi ghét thì Nguyễn Tuân tự rót cho mình một ly cuốc lủi. Nguyễn Tuân xơi cái thường, nhìn khách uống cái sang và hỏi: Thế nào? Tưởng có thèm đến mướt mồ hôi cũng không nỡ nào dám uống thêm, thì Nguyễn Tuân lại tự tay rót ngay ly nữa. Nhưng ông cất lời dạy bảo ngay:
- Uống trâu, mày là thằng uống trâu. Chỉ rượu trắng, người Nga mới hắt vào miệng một tợp chống rét như thế. Rượu có giá phải nhấm nháp và nghĩ để thưởng thức.
Tôi chịu không làm được, tôi cũng không muốn đổi lối người ta nghiền ngẫm vị rượu trên lưỡi, tôi nghĩ về rượu trong cổ lên quỹ đạo lâng lâng theo cách của tôi. Tôi cãi chày cối, Nguyễn Tuân không nói nữa, nhưng có vẻ không bằng lòng... Và nhiều cái. không bằng lòng khác. Có khi cả năm Nguyễn Tuân chán chường tôi, không nhìn mặt. Nhưng ông bạn vong niên ấy với tôi không đến nỗi kiềng nhau như bác Nguyễn và nhân vật Mợi trong tuỳ bút Đôi tri kỷ gượng mà chúng tôi như người nợ nhau, ghét nhau đấy nhưng lâu lâu không được tào lao đôi ba câu, lại thấy văng vắng. Thật khó nhọc, mà lại cứ thật là cần.
Mấy chữ này của Nguyễn Tuân có thể phác hoạ ra những khúc khuỷu trái ngược ấy.
Tô Hoài,
Mình thường ít khen ông - về cả con người, cả nhà văn.
Nhưng đọc Sài Gòn Giải phóng, 13 tháng giêng 1985 bài Một người bạn, mình thấy có một cái gì mơi mới ở ông. Nhưng phải khen cái truyện ngắn khá dài khá sâu rộng này. Người thật việc thật trong chuyện này có thật không, hoặc có thì ở mức nào, đối với tôi không quan trọng. Cái quan trọng là nó như thật. Nó hay đấy. Ông còn khoẻ hơn tôi, cứ làm độ một tập như thế này thì ông sẽ phá kỷ lục của Tô Hoài đó.
Nguyễn
Nhưng việc gì ông phải cho truyện ngắn một người bạndính vào mục dự thi. Không dự thi thì truyện Tô Hoài giảm giá trị đi à? Hay là người ta xui ông đi thi viết!
Nguyễn Tuân vốn mến và chơi với hoạ sĩ Nguyễn Sáng. Nguyễn Sáng đã vẽ Nguyễn Tuân những chân dung thật đặc sắc. Nhưng mà cái hợm trong sáng tác, không coi ai ra gì, ai cũng không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn Tuân không chịu được. Nguyễn Sáng đến chơi, mùng ba Tết. Hai người uống vui, câu chuyện xoay quanh nghệ thuật. Bốc lên, Nguyễn Sáng hét:
- Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!
Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa:
- Đi ngay!
Nguyễn Sáng vẫn hăng:
- Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở? Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi?
- Anh ra khỏi đây ngay.
Nguyễn Sáng lập cập xuống thang.
Đến nhà tôi, Nguyễn Sáng nước mắt đầm đìa.
Nguyễn Sáng bảo con gái tôi:
- Người ta vừa đuổi chú. Năm mới mà chú bị người ta đuổi.
Ngồi một lúc coi như uống tiếp lúc nãy, tỷ tê hỏi mới ra câu chuyện những cát tài và cái tai gặp nhau. Nguyễn Sáng nói một câu sắc rợn:
- Nó cũng khinh người bỏ mẹ, lại bảo mình khinh người.
- Lúc nãy có nói thế với Nguyễn không?
- Chưa hết câu, nó đã tống mình đi rồi. Tức quá đi luôn.
Cả sinh hoạt lẫn xử thế, lắm cái như trẻ con.
Buồn cười, Nguyễn Tuân nhiếc tôi:
- Chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày lại uống nước lạnh.
Không mấy khi Nguyễn mời tôi uống chè. Không bao giờ cho tôi thuốc lá.
- Mày hút phí thuốc lá.
Quả là tôi không hút thuốc. Muốn hút chơi thì tôi phải xin ông. Thường nói, ông vừa khôi hài vừa mỉa:
- Chó biết thằng này thế nào là thật? Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày.
Tôi cũng tìm ra cách chọc tức lại. Này ông chửi tôi giả rượu giả thuốc, giả cười, tôi ăn bọ hung, tôi ăn thịt chuột. Ông bảo người ta chỉ thật nhất lúc ngồi với cái chén. Nhưng mà từ thời công nguyên, hai ba nghìn năm nay, thiên hạ thế giới đã luận về cả trăm lối nâng chén đấy, chứ không phải cách riêng của thằng láu cá này đâu.
Tôi chìa trang Sử ký ra trước mặt Nguyễn Tuân.
Tề Uy Vương h ỏi Thuần Vu Khôn:
- Tiên sinh uống bao nhiêu thì say?
Khôn đáp:
- Thần uống một đấu cũng say, mười đấu cũng say
- Một đấu cũng say thì sao uống được một hộc? Sao nói vậy?
Khôn nói:
- Nếu cho uống trước mặt đại vương có quan chấp pháp đứng bên cạnh, quan ngự sử nấp sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu uống, chỉ một đấu đã say. Nếu cha mẹ có khách quý, Khôn vén áo khom lưng hầu rượu trước mặt thỉnh thoảng được ban cho mấy giọt thừa, lại phải bưng chén chúc thọ, phải đứng lên hầu rượu luôn như thế thì hai đấu đã say. Còn như bè bạn lâu ngày không gặp, bỗng nhiên gặp gỡ, mừng rỡ kể chuyện cũ, đem chuyện riêng ra nói cùng, như thế uống được năm sáu đấu. Nhưng đến như ngày hội ở quê, trai gái ngồi lẫn lộn, mời rượu dằng dai, đánh lạc, ném hồ, kéo nhau tụm năm túm ba, nắm tay nhau cũng không ai phạt, mắt nhìn nhau cũng không ai cấm. Đằng trước có cái hoa tai đánh rơi đằng sau có cái trâm bị bỏ sót, Khôn trộm lấy thế làm vui, có thể uống tám đấu cũng chỉ say hai phần. Khi trời chiều, tiệc vãn, dồn chén ngồi kề, gái trai cùng chiếu, giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ một mình Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoảng mùi hương thơm phức. Lúc bấy giờ lòng Khôn rất vui, có thể uống được một hộc mười đấu. Vì vậy nói rượu quá hoá loạn, vui quá hoá buồn, muôn việc đều thế. Vua Tề nói: Hay! (*)
(* Hoạt kê liệt truyện. Sử ký Tư Mã Thiên (145 trước CN). Như Thành dịch, lần in thứ tư, Nhà xuất bản Văn Học, 1988)
Chắc chắn Nguyễn Tuân đã ngâm nga đoạn văn này bao nhiêu lần, nhưng tôi cứ đọc lên. Nguyễn Tuân im lặng, không phải để khỏi cụt hứng người đọc mà Nguyễn Tuân nhấp chút chút rồi gật gù:
- Mấy năm trước, chắc tớ cũng bị theo dõi. Nhưng bây giờ thì hẳn là thôi. Mình hay nói, đứa khác đem nói lại, nó bịa ra chuyện mới, lời bình mới, bảo là Nguyễn Tuân nói đấy. Thời buổi sinh ra ca dao hò vè lung tung ấy mà. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Tuân có tò mò đôi chút cũng chỉ nghe hơi chứ phải đâu được mắt thấy, được ngồi bàn bạc mà biết. Cái thằng cầm bút viết được chữ nào bán chữ ấy, sức đâu mà làm ca dao cho không. Mày học làm đầy tớ Thuần Vu Khôn để dạy tao. Tao cũng là thầy đây. Thầy này ghét đứa nào uống rượu để nhắm thằng khác uống rượu. Đấy, lại mất điện. Tiến lên công nghiệp nặng của ông Lê Văn Lương ở thành phố này là phải trữ cái đèn hoa kỳ.
Năm 1954, về Hà Nội, tổng thư ký Hội Văn Nghệ Việt Nam Nguyễn Tuân và thường trực cơ quan Nguyễn Huy Tưởng ưu tiên hai thủ trưởng mỗi người được phát cái xe đạp, số xe công màu biển xanh. Xe đạp, Nguyễn Tuân cũng làm cho hình thù nó khác của người ta. Khung không sơn lại, để loang lổ đen xám, ghi đông vuông, xe cởi truồng không mắc gácđờbu. Nhưng thế không có nghĩa là cẩu thả. Thoáng trông xấu xí, mà xe khung Pháp, phanh tốt, lốp đoonglốp đỏ sẫm.
Nguyễn Tuân đến tiếp khách nước ngoài ở khách sạn Thống Nhất. Đi xe đạp thường ý tứ để xa xa cửa vào, rồi khoá cẩn thận tựa bờ tường bên nhà phát hành sách. chốc nữa, khách có thân tình tiễn ra ngoài cái cửa quay, chủ chỉ việc đi lững thững vài bước. Giả đò như ở cái thành phố xinh xắn yên tĩnh này không cần đi ô-tô và thư thái tản bộ là một thói quen đẹp. Khách vào rồi, ông chủ ra ngách tường để xe đạp đằng kia, mở khoá và thóc đi.
Nguyễn Tuân đến chỗ giấu xe. Cái xe đã biến mất. Mấy hôm sau, thương nghiệp thành phố biết chuyện đã tặng nhà văn một xe Thống Nhất chưa bóc giấy bóng. Tôi không biết cái xe ấy Nguyễn Tuân đã cho hay bán, nhưng không thấy Nguyễn Tuân cưỡi xe đạp nữa. Trong thành phố, ông đi bộ và gọi xế lô. Chẳng mấy lâu, bệnh thấp khớp đã khiến cho đôi chân người phiêu đãng không còn mấy vững, phải có thêm cái gậy đỡ. Nguyễn Tuân vốn chơi gậy, có một ống đựng hàng tá batoong các kiểu. Gậy lim sơn then, gậy lụi. Gậy song Sa pa khắc tên những nơi đã đi qua, Matxcơva, Sôphia, Vácna... Mới thêm một chiếc nạng thương binh. Lần ấy, vào Sài Gòn, bệnh thấp khớp khéo trêu ngươi bỗng nổi lên ở cái đất khô nhẹ, mà những người quê miền Bắc bị khớp, xưa kia cũng như ngày nay, có điều kiện, đều tránh cái rét mùa ẩm vào trú đông trong Nam. Thế mà Nguyễn Tuân bị sưng chân lên đến gối, ngồi một chỗ. Cũng có thể không lạ, sự dị ứng trái ngược. Khi Nam Cao còn trẻ vào làm ăn trong Sài Gòn, bị nề đến phải chống gậy lên tàu ra. Đôi chân thèm đi của Nguyễn Tuân đã được đắp vô vàn cao hổ, có đến mấy chục cái chân con hổ mà đến lúc cũng quỵ. ở quán thịt chó Sinh Hàng Lược, Đoàn Giỏi mách:
- Hai cẳng sau con chó, ở trong Nam người ta chữa được nhiều bệnh, thần hiệu nhất cái bệnh đau xương, bệnh khớp.
Nguyễn Tuân ở bệnh viện về. Mỗi ngày, buổi chiều, đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa xách cặp lồng lên Hàng Lược mua cẳng chân sau con chó, không biết hai hay bốn. Đến bấy giờ Phạm Văn Khoa cũng hoá ra người khổng lồ chân đất sét rồi, nhưng con người cao lớn lực lưỡng ấy lại ngược đời, kém chân thì đi xe đạp thay. Từ hôm Phạm Văn Khoa mất xe đạp, chàng mới chịu cho các nàng đèo xe máy. Phạm Văn Khoa treo cặp lồng chân chó ở đầu thang gác lên nhà Nguyễn Tuân. Xương hổ, xương chó và bè bạn lo cho cái chân người về già. Cũng nhờ vớt vát chịu đựng thế mà khi đã đuối lắm, Nguyễn Tuân vẫn chống gậy với chiếc vai nhỏ đựng sách và hộp chè, khay chén đến bệnh viện lần cuối cùng. Cả cái chai rượu lẹp dẹp trong lườn áo khoác.
Những năm đầu, các cơ quan từ thành phố lên Việt Bắc, chúng tôi ở xóm Chòi làng Yên Dã huyện Đại Từ chân núi Tam Đảo ngoảnh về đằng Thái Nguyên. Ngày quang trời thấp thoáng thấy Khuôn Chu - một làng người Dao trên lưng núi có lối tắt đỉnh núi sang vùng Tam Đảo nghỉ mát bên kia. Vào mùa mưa, những con lũ tràn ra giữa sườn núi xanh im, xa trông như những giải lụa trăng toả xuống. Nam Cao và tôi ở báo Cứu Quốc trên Tuyên Quang cùng đổi công tác về hội Văn Nghệ. Nhưng Nam Cao còn lên Chợ Chu học ba tháng trường Nguyễn ái Quốc - lớp tập trung ba tháng hồi ấy đã là dài và quy mô nhất. Tôi về thẳng xóm Chòi.
Từ khi rời Hà Nội đến đây cơ quan mới ở lại một chỗ ra hồn. Bên báo Cứu Quốc ở nhờ trong làng, lần lần từ Yên Thọ Hoài Đức vào Viên Nội Vân Đình, lên Trung Giáp Phù Ninh trên Phú Thọ. Sang chán núi Tam Đảo, các gia đình đi theo ở quanh trụ sở đông hơn các đoàn văn nghệ kháng chiến trên Nhã Nam bên Bắc Giang, bên Xuân áng Phú Thọ và Quần Tín trong Thanh Hoá. Cơ ngơi ăn ở và làm việc gồm những ngôi nhà nhiều buồng trên lưng đồi. Kiến trúc sư Võ Đức Diên chỉ huy làm nhà kiểu ánh sáng cột vầu mái rơm vách nứa và ở cánh rừng bên ngoài, trường nội trú Văn nghệ Nhân dân của ông đốc Nguyên Hồng, mỗi khoá hàng trăm người nhiều nơi về đây học. Các nhà theo cơ quan thì ở nhờ nhà bà con trong xóm. Tối tối, chúng tôi tụ tập ở căng tin Võ Đức Diên. Chị ấy nấu rượu nếp, có bánh đa. Hôm nào phiên chợ Ký Phú bên kia suối thì làm bánh cuốn, bún thang. Phạm Duy và Thái Hằng ở Thanh Hoá ra. Có một hội nghị quốc tế về âm nhạc ở Rumani, Phạm Duy chuẩn bị đi. Tôi không biết hội nghị hoãn hay vì đường xá cách trở, bấy giờ xe lửa Bằng Tường - Nam Ninh chưa có, cuộc đi lại thôi. Vợ chồng Phạm Duy trở về khu bốn. Chỉ có như vậy, không lắm chuyện như Phạm Duy đã viết trong Hồi ký thời cách mạng, kháng chiến.
Đầu năm 1950, chi bộ Đảng quyết định kết nạp hai đảng viên mới, Nguyễn Tuân và Xuân Diệu. Mỗi người được tổ chức ở một buổi họp khác nhau. Bí thư chi bộ Trọng Hứa phụ trách văn phòng cơ quan. Tôi ở báo Cứu Quốc về, được dự kết nạp Nguyễn Tuân. ở rừng, giản dị như một buổi họp. Chỉ thêm một ống nứa cắm mấy nhánh hoa mua, hoa đơn đỏ ngắt ngoài đồi. Hai người giới thiệu, Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu.
Cái chu đáo của Nguyễn Tuân, theo cách Nguyễn Tuân, nền nếp nho phong, như Nguyễn Tuân giao thiệp với Tố Hữu. Nguyễn Tuân được kết nạp vào Đảng ngày 18 tháng tư năm 1950 - tôi nhớ theo Nguyễn Tuân kể. Có khi, đột nhiên Nguyễn Tuân nhắc đến. Nguyễn Tuân nói: Hôm nay, hai mươi năm trước... hăm hai năm trước... hăm nhăm năm trước... nó quẳng mình xuống tàu Chanilly... Tết năm ấy, năm ấy mình ở Hương Cảng... Rồi nói chuyện sách mới đọc hay có việc đương nghĩ, chúng tôi ngồi yên. Khi bực tức một người, một bài báo, người ta nói thường thốt ra, câu nói ác khẩu mà nhiều người hay kể lại: bao giờ tôi chết thì nhớ chôn theo với tôi một thằng phê bình, theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ buồn. Cũng táo tợn như cái câu của P.Môrăng: Ta muốn sau khi ta chết đi, da ta được thuộc làm cái vali mà Nguyễn Tuân đã lấy đặt lên đầu trang tiểu thuyết Thiếu quê hương khi in từng kỳ ở tuần báo Hà Nội Tân Văn. Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói:
- Thế này thì tao đem trả thẻ Đảng cho Tố Hữu.
Nhưng chưa bao giờ Nguyễn Tuân làm thế.
Mà chỉ thấy mỗi năm, dịp kỷ niệm ngày vào Đảng, hay tết nhất Nguyễn Tuân đều đến chơi Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mây bông hồng vàng lòng trứng gà. Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp. Cũng là miệng xà thôi...
Không nhớ ở cuộc họp kết nạp Nguyễn Tuân tôi có phát biểu thế nào không, nhưng sổ tay tôi ghi nhật ký ngày 18-4-1950.
Những đám mây xanh mơn mởn đùn lên như mây nổi trên khu rừng già, đâu cũng rừng, cũng rậm rà. Chiều Việt Bắc tối rậm rịt, vướng vít trong cây không biết mờ mờ sương hay khói trải trên lớp núi răng cưa ngang mắt. Con chim bắt cô trói cột kêu trong chiều muộn. Tiếng con cuốc khắc khoải. Hoàng hôn cũng buồn buồn như lòng mình, ngồi đây mà nghĩ đâu đâu. Nghe mọi người nói, tôi nghĩ đến những chuyện khác Buổi kết nạp Nam Cao ở núi Phía Biếc rưng rưng nước mắt. Tiếng súng moochiê của địch từ ngoài Pù giát câu vào. Buổi kết nạp Phúc Mơ, cái dáng Phúc Mơ nhăn nhúm, đăm chiêu lúc giơ tay thề. Những điều mình dặn Phúc Mơ, trước hôm Phúc Mơ sang giữ kho bị Tây đồn Phủ Thông bắt. Những lễ kết nạp các đồng chí Thổ ở Bản Hậu.
Đây nói nhiều tới mình, tới sáng tác quá. Thế mà tôi lại thấy nó bé nhỏ làm sao! Sáng tác là cái quái gì, nêu không lăn lộn, phản ánh được chiến đấu.
Mỗi cuộc đời, mỗi trường hợp đến với cách mạng không giống nhau.
ở Nguyễn Tuân, chắc không phải do sách vở, lý luận hay cuộc sống tối ngày, cũng không phải vì tính toán cơ hội, hoặc đua đả. Có thể cảm kích bời một chén rượu với Tố Hữu ở nhà hàng Thuỷ Tạ. Có thể vì hai người con lớn trong nhà đã là việt Minh từ bóng tối mà Tổng Khởi Nghĩa rồi ông mới biết. Cũng như tấm lòng của ông với Trung đoàn Thủ đô vì ở đấy có con trai ông, có trung đội trưởng trinh sát Két người nhà bàn quen thuộc ở nhà Thuỷ Tạ. Cũng có thể vì một suy nghĩ bất thần nào đó.
Không ai như ai.
Năm 1958, một hôm tôi trông thấy đi ra cổng đại sứ quán ta ở Matxcơva một ông già nhỏ bé, gày guộc như một người Cô-dắc, người Tác-ta ở Trung á hay một lão Di gan lang thang đi xem bói tay thường gặp. Hỏi, mới biết tên ông là Hồng - nhưng ông quên tiếng mẹ đẻ đến đỗi không nói sõi được cả tên mình. Ông từ một vùng thảo nguyên taiga ở Xibêri về chơi sứ quán - đã mấy lần. Ngày trước, ông ở Pháp hoạt động cộng sản rồi trốn sang Liên Xô ông theo phái tờrốtkít bị bắt đày đi Xibêri. Khi đó, đến cả Tưởng Kinh Quốc, con Tưởng Giới Thạch học ở Liên Xô tham gia tờrốtkít cũng phải bắt bỏ tù. May có bố đương trị vì nước Trung Quốc có can thiệp Quốc mới được thả về. Cách đây mấy năm, Tổng thống Tưởng Kinh Quốc trên tám mươi tuổi, chết bệnh ở Đài Loan, có bà vợ Nga già, bà Phaina Varêna lụ khụ, đi đưa đám - người đàn bà mà Quốc lấy ở một thị trấn Viễn Đông từ nơi đi đày đưa theo về. Ông Hồng này cũng lấy vợ ở chỗ cấm cố, mãn hạn tù không trở lại Matxcơva nữa. Bây giờ đã được một lũ con và ông đã già lắm, cũng không có nguyện. vọng trở về Việt Nam. Mỗi lần đến đại sứ quán ta, gặp ai, ông cũng chỉ nói được một câu: Tôi buồn quá và khóc rồi đi. Bây giờ, chắc ông đã mất từ lâu. Một lần kia, đi nghỉ ở Nha Trang. Trên bãi biển, bác sĩ Trần Hữu Tước có kể cho tôi nghe một câu chuyện. Chuyện đời của trăm nghìn người trí thức đã đến hay không đến với cách mạng, quả là không ai giống ai.
Năm 1946, cùng chuyến ở Pa ri về Hà Nội - không kể những người cùng phái đoàn ở Hà Nội đi Pháp, có Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước và một người quê miền Nam tên là Quang, cùng ngành học với giáo sư Trần Đại Nghĩa. Hơn một tháng lênh đênh trên biển, khi lên cảng Hải Phòng, Quang chào Trần Hữu Tước:
- Thôi, vĩnh biệt mày?
Rồi đi mất. Trần Hữu Tước nói:
- Nó là một trí thức giỏi, cả tuổi thanh niên chúi mũi vào sách và phòng thí nghiệm, nó hết sức timide (nhút nhát). Tối nào anh em mình cũng tổ chức giải trí chơi vui với lính trên tàu, cả bọn vào những cuộc hát nhảy lu bù. Nó rất ngại và khó chịu. Có thể nó thất vọng. Có thể nó nghĩ cách mạng không phải thế. Nó biệt tăm suốt kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bao nhiêu năm rồi, gần đây, nghe nó ở một thành phố miền Trung, đã già lắm, làm nghề chữa mô tô, xe đạp. Không ai biết nó là ai.
- Anh có nghĩ khi nào tìm đến chơi?
- Không. Người ta đã coi như người ta không còn nữa, mình đến làm gì!
Ôi, những mảnh đời khác nhau.
Một tháng sau, chi bộ kết nạp Xuân Diệu. Mùa thu năm 1950, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng và tôi lên Cao Bằng tham gia chiến dịch giải phóng biên giới, chiến dịch lớn đầu tiên của quân chủ lực. Nguyễn Tuân với một đoàn công tác khác về đồng bằng liên khu 3. Ngày 13 tháng hai năm 1951, Nguyễn Tuân được công nhận Đảng viên chính thức ở chi bộ sở tuyên truyền liên khu - tôi lại ghi theo trí nhớ con số tuyệt hảo của Nguyễn Tuân. Không biết khi đó Xuân Diệu đã qua Sơn Dương và những vùng rừng thẳm Bản Ty, Đầm Hồng chưa. Bài thơ đăng tạp chí Văn Nghệ có câu Sớm nay ra khỏi u tỳ quốc Xuân Diệu đã sáng tác ở Yên Dã u tỳ quốc, đây mới là những nếp nhà tranh lưng đồi trung du, đâu bằng mấy năm sau, đi sâu vào cuộc sống gian khổ, chúng tôi ở Động Móc áp núi Là, ở rừng sâu Thượng Yên bờ sông Lô. Trước mặt, thấy con trăn gió nằm trong bụi nứa và những con kỳ đà mốc thếch bò ra nghển đầu rình bắt gà. Đêm nghe hổ về bên suối, tiếng gầm khô rợn.
Rời thành phố, lên đến Yên Dã đã u tỳ quốc lắm rồi. Tôi quen Xuân Diệu trước 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên diễn thuyết bài Thanh Niên với quốc văn ở giảng đường trường đại học Hà Nội. Xuân Diệu nói: Hoài đi ủng hộ Diệu . Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh nhút nhát ra giới thiệu lúng túng. Không sao, Xuân Diệu áo tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng xẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên, Xuân Diệu nói nhịu chữ tâm hồng - như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt.
Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập Thơ Thơ khổ rộng in ở nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chữ chì sắc gợn, không phải chữ khắc gỗ đẹp đét. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn nhau tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, rồi trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt sùi trứng cá chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh tôi, đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học tôi không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến sắp hàng vào lớp.
Đương cữ mưa rào. Trong thung lũng, có khi cơn nước trắng xoá mù mịt cả ngày. ở Yên Dã, đi chợ Lục Ba, Ký Phú nhỡ gặp con lũ lên, phải ngủ nhờ qua đêm bên này suối. Hết mưa rào xối xả, đến mưa dầm tả tơi, còn buồn hơn. Triền núi Tam Đảo cao ngang đầu đổ bóng tối sẫm. Nước mưa giọt ngắn giọt dài, đêm ngày mái nứa rả rích không lúc nào dứt hạt. Dường như trong trời đất chỉ còn cái xóm núi này sót lại chưa bị nạn hồng thuỷ. Có uống cả vò rượu nếp nhà kiến trúc sư võ Đức Diên cũng không vơi được cái hiu hắt và nỗi nhớ phố phường. Mới xế chiều đã như chập tối, chẳng còn ai thò chân ra đường xóm đá tảng lầy lội. Cơm xong, nhà ăn đóng cửa, mái rạ lẫn vào sườn đồi chơ vơ. Mấy cậu văn phòng ở một mình, xong bữa lại quẳng bát đũa đấy, vào chơi ngủ luôn tại các nhà trong xóm. Có cậu việc gấp, đánh máy đêm một lúc rồi cũng chuồn mất. Dãy buồng ở tập thể không đèn đóm, tối thui. Không nghe tiếng người trở mình, giát giường không ken két, im như đất hoang. Nhà tôi ở ngoài ven gò giữa đồng. Rượu khuya, đường mưa lội tôi ngủ lại.
Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió Xuân Diệu ở u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi đêm ma quái về rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt... Lần này thì tôi lử lả, tôi chuồi ra rên ư ừ, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.
Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa.
Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn tởm.
Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ chạy trốn dạt vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên im như tờ. Chỉ còn cái màn đã buông sẵn của lão trai già Văn Hiên - một tay bốc trời thường khoe trước kia đã nhẵn mặt ăn chơi xóm Mông-mác bên Pa ri. Không biết lưu lạc ở đâu vào cơ quan, lão Hiến quần nâu vá gối, vá hai bả vai to bằng cái quạt mo, công tác giữ sổ công văn đi đến. Có những đêm quanh đống củi sưởi Trọng Hứa nhún nhẩy gãi ghi ta một ca khúc Phần Lan, Đào Vũ dịch lời Trung Quốc: Đây gió, đây trong rừng... thì lão nghệ sĩ Văn Hiến bỗng trợn mắt uốn tay vờn cái ống quần rách nhảy quanh ánh lửa một mình một điệu vanxơ uyển chuyển tả tơi. Chiếc màn một trơ trọi của lão Hiến, đôi khi cả màn của Kim Lân, của Nguyên Hồng ở Bắc Giang sang, ngủ tạm đấy. Chẳng biết đêm hôm có ông kềnh nào bị bàn tay nhung sờ vào rốn không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa chữa và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên đồi, màn vẫn mắc sẵn, đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Không biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản, tư tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi. Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi... tình trai...! rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả. ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một thói quen kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt ở ban thường vụ trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác.
Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu chỉ buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu. Xuân Diệu nhiều nữ tính cẩn thận, từ chi tiêu đến sáng tác nhưng cẩn thận một cách lờ khờ, có khi anh làm gì tưởng kín bưng, kỳ tình ai cũng đoán biết.
Đặt kế hoạch hẳn hoi chứ. Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút kỹ lưỡng bảy, tám bài nói, nói khắp nước cũng chuyên tám cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười. Xuân Diệu xuýt xoa thú vị:
- Nước ta rất chuộng văn học và cũng là cái mốt. Phục vụ không bao giờ xuể được, nói suốt tháng vẫn kín chương trình.
Thời chống Mỹ, tôi đã đi với Xuân Diệu lên nói chuyện ở trường đại học sư phạm Vinh sơ tán trên huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy - Xuân Diệu nói - như thế không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự cần thiết của mình. Không sang trọng đâu toàn những thứ dễ kiếm, mấy quả trứng, thịt bò hay thịt gà, canh măng hay canh cà chua, canh cà chua hay hơn, cho nhiều hành và nhớ mắm muối đậm một chút. Ngày hai buổi nói, lại tối nữa, phải thế mới có sức. Cả đến viết, Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười. mỗi bài đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc bài đăng báo rồi để in sách. Nếu không, không viết. Đã tính trước rồi. Không bao giờ viết bài đăng báo rồi không in vào sách. Xuân Diệu chê tôi viết lung tung, khuyên tôi không nên phí chữ. Năm tháng qua, quyển sách thành hình trong đầu, các bài viết lắp dần vào. Lại từ đấy tính ra sự tiêu pha. ở Yên Dã, cái quần kaki vàng nhạt của Xuân Diệu đã bợt cả hai bên mông. Hỏi sao để trễ tràng thế, sắm quần khác đi. Xuân Diệu nói:
- Không ngờ cái kaki này mau rách, thành thử lỡ kế hoạch. Đáng nhẽ cuối năm mới đến hạn thay quần mới. Chán quá.
Chúng tôi đi công tác thuế công thương ở trung du. Xuống tận Lâm Thao, cách bốt địch ở Việt Trì không mấy chốc. Đã được trên tỉnh dặn gần vùng địch phải gọn. Gọn, nhưng ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến đi đều sắp sắn thế. Lọ nước mắm kem đặc sệt. Một túi củ hành tỏi đã bóc bót vỏ cho nhẹ đem từ khu bốn ra. Hộp thịt bò khô ướp lá sả. Cái thịt bò kho khan ấy xào nấu ở nhà tôi, hôm chúng tôi tạt vào Thinh Cù trước khi xuống Lâm Thao. Lúc đi, tôi chỉ đeo ba lô con cóc, có cái màn và quần áo. Xuân Diệu cằn nhằn: Cậu này, có cái ăn mà cũng ẩu Thế thì cậu quý cái gì? Nói thế, nhưng khi đến bữa vẫn cho tôi miếng thịt kho và củ tỏi, và ăn nữa cũng được. Nhưng cứ phàn nàn, cảu nhảu tôi cẩu thả. Tôi cười và chén tự nhiên.
Xuân Diệu cho tôi là đứa khinh bạc, nhưng lại thương tôi, nên hay bảo ban, nhiều khi từ những việc nho nhỏ. Xuân Diệu khuyên tôi phải biết quý miếng ăn. Xuân Diệu dạy tôi khi nào đứng đái phải cắn chặt hai hàm răng lại, như thế sẽ ăn khoẻ chẳng kém hàng ngày uống vitamin B1. Xuân Diệu bảo bí quyết dưỡng sinh gia truyền ấy, ông thân sinh đã dạy từ khi còn bé. Tôi có cảm tưởng Xuân Diệu ăn uống cũng chẳng bao nhiêu, nhưng anh ăn cố. Không phải Xuân Diệu ăn, mà một người nào khoẻ lắm gắp hộ, nhai hộ, biến Xuân Diệu thành con ma ăn, trông đến thương. Một chuyến chúng tôi cùng nhau thăm nước Lào, ở khách sạn Apôlô. Mỗi sáng Xuân Diệu nhắc: cậu không ăn sữa thì để riêng đấy cho mình, không ăn hết bánh cuốn thì lấy đĩa sẻ ra cho vệ sinh để mình ăn nốt. Cố lên, ăn phất phơ thế không được. Nhà bàn bưng ra nhiều món, Xuân Diệu cứ thong thả vừa nhai vừa ngắm từng miếng và ăn đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu. ở bệnh viện về, Xuân Diệu thở dài:
- Cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn.
Nhưng rồi lại vẫn cứ thong thả quét sạch mâm, như mọi khi.
Tuy vậy, ăn phung phí Xuân Diệu không chịu. Một lần, tôi rủ Xuân Diệu đi nhà hàng Phú Gia, đầu bàn đặt chai bọc rơm rượu ý Chianti. Có cả Nguyễn Tuân và Huy Cận. Tôi nói đùa riêng với Nguyễn Tuân:
- Phải đưa ông ấy lên cao lâu để được xem ông ấy ăn cho thích mắt.
Nhưng Xuân Diệu chỉ gọi có một món bít tết.
Xuân Diệu bảo tôi:
- Đi nhà hàng, có bao nhiêu đứa đứng xung quanh rình chọc tiết cậu, giết tiền của cậu, ăn làm gì! Một món ở đây nó thiến bằng cả tháng thịt chó. Thịt chó bổ nhất các thứ thịt. Thịt chó, nhưng Xuân Diệu không bao giờ đi ăn hàng. Xuân Diệu mua thịt chó sống, mỗi tuần lễ đánh chén hai lần vào ngày nhất định. Trong thành phố nhiều quán thịt cầy, mà không có hiệu bán thịt chó sống. Xuân Diệu bảo thế là Hà Nội kém, Sài Gòn có nhiều hiệu thịt chó, thịt rừng sống. Nhưng ở Hà Nội Xuân Diệu đã có thổ mua quen. Xuân Diệu mách tôi:
- Cái cô bé quang gánh ngồi chỗ cửa sau chợ Hàng Da.
Tôi đã đến mua của cô hàng thịt chó sống bên cái sân bán cua ốc nhớp nháp cạnh nhà vệ sinh khai nồng nặc. Bây giờ chợ Hàng Da mới, cô hàng thít chó phải ra đứng bán rong vỉa hè. Chẳng biết ngày trước cô hàng có biết ông khách quen ấy là nhà thơ của ta không.
Một dạo, tôi làm đối ngoại ở cơ quan. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu cho tôi chiếc mùi xoa, đôi bít tất đem đến tận nhà. Tôi cười:
- Hối lộ à?
Xuân Diệu nói:
- Thằng này tinh quái, cái gì cũng đoán được, mà nói ác. ừ, để có gì thì nhớ đến nhau thôi. Làm sao đâu mà tinh quái, chỉ hồn nhiên đến như Xuân Diệu mới lấy làm lạ.
Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn con mắt vuốt ve nhau nghiêng ngả. ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa mối tình trai. Buổi chiều đi công tác, trong vắng lặng đã hết lo máy bay lên đánh bom, chúng tôi đặt ba lô nghỉ chân ở ấm Thượng, xuống sông tắm táp xong lên dạo phố. Đêm nay thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai choai kháu khỉnh xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy nhau như có điện, dù điện yêu hay điện ghét, điện hút lại hay điện đẩy đi, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ cười, cái bĩu môi, dáng xóc cổ áo, cái nhổ bãi nước bọt. Đằng này, con gái đi ngang mặt, Xuân Diệu cứ dửng dưng như không, nhưng con trai thì xoắn xuýt vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu nhìn dõi vào mắt, nắm cổ tay từng đứa, mân mê như chọn đẵn mía. Các cậu ấy còn đeo ba lô hộ, tiễn chúng tôi một quãng xa.
Chiều hôm ấy ở Viêng Chăn bên cửa sổ buồng khách sạn Apôlô bờ sông Mêkông trông sang lưng phố bến Nong Khai bên kia. Rặng cây may sắc, những chòm hoa đùn lên như dải mây vàng phủ dài. Chúng tôi trầm ngâm cả giờ nhìn sông lũ đỏ ngầu - cách một mảng nước đã là Thái Lan. Mai mốt dòng sông xuống dưới kia thành Cửu Long, chín con rồng qua chín cửa ra biển Đông. Thời gian, xa cách và sông nước lúc nào cũng không cùng.
Tự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi:
- Chúng mình già rồi.
Nhớ lại những đêm man dại ở Yên Dã, nhớ như in hơn bốn mươi năm trước, cũng tay tôi đây, Xuân Diệu vuốt lên, đắm đuối. Bây giờ nhìn nhau lặng yên. Tôi chợt buồn hơn cả câu Xuân Diệu nói. Xuân Diệu không già mà chỉ có tôi mới là ông lão. Xuân Diệu có một tình yêu riêng không khi nào biết tuổi, từ xa xưa đến bây giờ vẫn tơ vương, vẫn thanh xuân, vẫn thiết tha. ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng giới lấy nhau. Lão Xen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70 tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà thị chính thủ đô Côpenha làm đăng ký kết hôn. Nhưng tình trai chàng Xuân Diệu không thuỷ chung như hai lão già nước Đan Mạch kia. Xuân Diệu đào hoa và đam mê, cả đời đuổi theo mộng, nhiều mộng, nhiều mối tình trai. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái. Thơ tình Xuân Diệu gửi một người lính trẻ rời thành phố vào chiến trường chống Mỹ.
EM ĐI
Tặng Hoàng Cát
Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào

Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nụ cười em nở, tay em vẫy
Ôi mặt em thương như đoá hoa!

Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa

Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời

Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê...
áo chăn em gửi cho anh giữ
Xin gửi cùng em cả hẹn thề

Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe. Anh nhớ, yêu...
(Đêm 11/7/1965 23 giờ 30)
(Báo Nhân Dân số Tết Kỷ Tỵ (1989)
Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết đẹp đến não nùng của Xuân Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ như thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi nào cũng khát vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu.

Chương IV

Những chuyện Nhân Văn và thời kỳ hữu khuynh, tư tưởng bị lũng đoạn tôi chôn vùi đi lâu rồi. Nhưng chưa phải đã được dứt. Chuyến đi Lai Châu ấy cũng là cho khuây khoả mà thôi. Bởi vì cuốn tiểu thuyết Mười năm của tôi - một trong những ấn phẩm cuối cùng của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Lập tức, các báo mổ xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của Như Phong trong ban biên uỷ báo Nhân Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đấy cũng là một quyển sách còn sót lại thúc đẩy phải đóng cửa nhanh nhà xuất bản này.
Rồi Võ Hồng Cương thường trực Hội Văn Nghệ tổ chức một trận phê bình miệng. Nhà văn, nhà lý luận phê bình, nhiều cán bộ giáo vụ trường đảng và cả tỉnh uỷ Hà Đông tham dự. Mười năm, một cuốn tiểu thuyết bộ ba của tôi viết về quang cảnh và con người vùng Nghĩa Đô nghề thủ công phía tây bắc thành phố vào ba thời kỳ nối nhau. Tiểu thuyết Quê nhà, nhà xuất bản Tác phẩm mới in khoảng thập kỷ bảy mươi sau này. Sự việc cuối thế kỷ trước qua hai lần quân Pháp đánh Hà Nội, các làng ngoại thành nổi lên. Quê người là cuốn truyện dài đầu tay, quãng 1940 tôi viết cùng thời với những Dế mèn phiêu lưu ký, Giăng thề, O chuột. Quê tôi, lĩnh lụa nghề tổ bị lụi bại, người làng phải bỏ đi tha hương đất khách quê người. Tiểu thuyết Mười năm như một tự truyện viết về một đám thanh niên trong làng tham gia Việt Minh nhen nhóm phong trào cách mạng tiến tới Tổng Khởi Nghĩa.
Mười năm được viết ra, những năm đó tôi về ở trên Nghĩa Đô. Văn Cao làm bìa, Văn Cao đã bắt đầu vẽ bìa để sinh sống. Văn Cao vẽ cái bóng làn nước chảy đìu hiu chân cầu, ý nghĩa thời gian trôi, Mười năm mười năm nước chảy qua cầu. Có hai người phát biểu gay gắt nhất. Như Phong:
- Mười năm có thể là một cuốn tiểu thuyết khá, vì đấy cũng là thực tế ở làng quê tác giả và chính tác giả đã sống. Nhưng nó đã được chuẩn bị và sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn lũng đoạn nên bị ảnh hưởng xấu. Các nhân vật cán bộ cách mạng đã bị bóp méo đến thảm hại.
Tôi không biết Lưu Quyên bấy giờ công tác ở đâu. Nhưng tôi đã gặp Lưu Quyên khi phụ trách báo Cứu Quốc khu Ba. Tôi ở Việt Bắc về qua Vân Đình, đi vùng Mường trên Đà Bắc. Nghe nói Đinh Hùng ở báo Cứu Quốc tôi tìm đến gặp Đinh Hùng ở một xóm đồng chiêm gần Chuôn Tre lối ra Đồng Quan. Những câu ca dao in báo Cứu Quốc và bài thơ Cô du kích... Ngày nào trở lại cố đô. Ôi Thăng Long rợp bóng cờ vinh quang... Đinh Hùng đã làm và in trên báo Cứu Quốc những ngày ở đấy. Sau Đinh Hùng theo Vũ Hoàng Chương xuống Quỳnh Côi dưới Thái Bình, bị Tây quây, rồi về Hà Nội.
Lưu Quyên dõng dạc:
- Tôi là người chịu trách nhiệm phong trào Hà Đông thời kỳ ấy. Hà Đông chúng tôi khi đó không phải như trong tiểu thuyết Mười năm. Tôi phản đối người viết đã xuyên tạc sự thật lịch sử.
Rồi sau cũng nhiều khi Như Phong đi với Nguyên Hồng gặp tôi ở quán bia gốc liễu nhà Thuỷ Tạ. Ông này uống bia pha rượu trắng, tôi để ý thấy màu bia ở cốc ông nhạt hơn các cốc xung quanh. Cái lúc bè nhè vẫn hăng hái lý lẽ nhưng Như Phong làm như quên bữa anh đã cạo tôi. Còn Lưu Quyên về sau cứ từ đằng xa trông thấy tôi là tránh sang vỉa hè bên kia. Chỉ có một cuộc phê bình miệng ấy. Người viết không phải nói tiếp thu và hứa hẹn sửa chữa như chỉnh huấn. Tuy vậy, đi làm hợp tác xã mấy tháng dưới Thái Ninh về tôi vẫn loăng quăng, day dứt.
Tôi đi Lai Châu, cho đỡ bận lòng. Cùng đi có Nguyễn Tuân, Văn Cao.
Giữa trưa, xe lửa chạy Lào Cai. Đường sắt này mói chữa lại năm trước. Nhớ cái lớp 18 ngày, tôi bỏ đi dự khánh thành đường Hà Nội - Lào Cai về bị kiểm điểm. Thoáng nhớ thế thôi. Khách vắng, cả cái toa hạng ba, chỉ có Nguyễn Tuân, Văn Cao với hai két bia mang theo. Người nhà tàu vui tính đội mũ lưỡi trai đã chiều khách, không cho ai lên thêm toa ấy. Và cũng uống bia chan hoà với chúng tôi. Mới đụng cốc đã mặt đỏ găng. Không biết uống, nhưng vì anh thích các ông khách nhà văn quá. Hồi ấy còn kiểu thùng bia hơi xù xì như cái chĩnh đại, chai si rô lựu đỏ gắt đặt trên mặt quầy. Chỉ uống cốc con, pha nước ngọt. Người ta còn nhăn mũi chê bia đắng. Cốc vại nửa lít mới trông đã hãi. Hai két bia hai mươi bốn chai của chúng tôi như hai cái cũi lợn. Người coi toa say bia, đi ngủ từ chặp tối. Nhưng vẫn nhớ công việc, anh khoá trái hai cửa đầu toa rồi nằm chúi đâu không biết. Làm thế nào, buồng vệ sinh lại ở cửa toa, phía ngoài. Mà hai két bia Trúc Bạch thì uống cả đêm nay. Thế mà rồi cũng xong. Bởi vì các cửa sổ toa đều vẫn mở được.
Suốt đêm, tàu qua Phú Thọ - Yên Bái đôi chỗ lấp loáng mặt sông Hồng và ánh trăng. Những đồi cọ như đàn voi phủ phục. Chín năm kháng chiến; người xuôi tản cư lên đồi cắt cỏ tế phơi đun bếp. Lại ngắt từng ôm lá sắn về muối dưa. Nồi cơm sôi lên, khúc sắn trưa cõng hạt cơm - củ sắn ba bốn năm còn sót lại vừa mới bới. Những ngày tản cư trong kháng chiến tưởng tượng xanh trong như trung du vào thu, loáng thoáng qua ngoài cửa sổ sáng trăng. Không rõ tàu tới đâu, nhưng cứ tưởng ra chỗ nào cũng ngỡ đấy là những phố ẻn, rồi ngòi Lửa bên kia Chuế Lưu rồi lên đến ga Đan Thượng... Mỗi khi tôi ở Bắc Cạn, ở Tuyên Quang về nhà, xuống phủ Đoan ra Cát Lem đầu lô hay qua bến Ngọc, chợ Ngà, tắt rừng về Đại Phạm ra Đan Hà. Có khi xuống ngã ba Phú Hộ rồi rẽ sang Thái Ninh ra Vũ ẻn ngược bờ sông lên. Làng xóm và hàng quán những ông bủ bà bủ, đi một dơn, đi một tay dao và gió, gió thì gọi là bão, bão rồi, đò ngược đò xuôi sông Lô, sông Thao...
Ký ức theo con tàu chạy đương nối nhau trở về. Năm 1945, mờ sáng, tôi đi với bộ đội từ Yên Lạc tấn công vào thị xã Vĩnh Yên. Quốc dân đảng đã rút lên Việt Trì đêm trước. Chiếm Phú Thọ rồi truy kích tóm hụt thủ lĩnh Lý Ninh, nhưng cũng bắt được một số đầu xỏ. Đêm, chúng phá trại giam, chạy lên đến Vĩnh Chân bờ sông thì bị bắt lại. Toà án quân sự mặt trận quyết định xử bắn ngay, trong khi các đơn vị vệ quốc đoàn vẫn đuổi theo tàn quân địch dọc đường sắt lên Yên Bái. Một cái đầu tàu chạy quãng này còn lại ở thị xã. Tôi vào bãi bắn ở sân bay. Khói than đỏ hồng trong sương mờ lành lạnh. Sân bay cũ cỏ mọc xanh lút đầu gối. Cái đài nước đổ nghiêng như một tảng đá trắng giữa bụi lau.
Sự tích của đám bị bắt lại cũng lộn xộn, khó hiểu như được thua của một trận đánh. Tư ẩn, một trong ba cụ đầu xỏ bị trói gô lúc đương ngồi xếp bằng uống rượu trong đình Yên Kỳ, xung quanh đã chạy hết. Đặng Văn Mười còn có những tên là Tử Pính, là Hùm Xám. Một lão nhà giáo hơn hai mươi năm trước đã ngồi bảo học ở Phú Thọ. Quái đản nhất, đội Thất, nguyên cai ngục Yên Bái. Đội Thất đã đẩy xe máy chém ra đầu tỉnh, sáng tinh mơ ấy thủ lĩnh quốc dân đảng Nguyễn Thái Học và đồng đội bị rơi đầu. Bây giờ lão theo quốc dân đảng vẫn được gọi là đội Thất. Sáng bạch, bọn tù được dẫn bên đề lao sang, bước loi thoi qua đám cỏ rậm đường băng. Hùm Xám đi bên trung đội trưởng Luân, lý láu hỏi:
- Chốc nữa ông làm coup de grace (*) hả?
(* Phát súng sau cùng (còn gọi phát súng ân huệ) bắn cho chết hẳn người tử hình đã bị bắn)
Nếu cái xích tay Hùm Xám không động lách cách dễ tưởng như hai người đi xem tử tù. Trung đội trưởng không nói, nhưng tỏ vẻ bực mình vỗ vào cái súng lục ổ quay bao da đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Lại hỏi:
- Súng gì thế, thưa ông! Sanh tiên hay poọc học? Cái lão tử tù này mắc bệnh hỏi.
Giữa bãi cỏ, bên cạnh bảy cái cọc tre mới đóng, hai mâm đồng dọn ra giữa những viên gạch vỡ kê làm ghế ngồi. Xôi đỗ xanh, thịt gà luộc chám muối. Cả bát nước suýt. Một nải chuối đặt cạnh những chai rượu trắng. Không hiểu sao những sáu bảy chai - giúp cho người ta quên chết hay còn thừa thì chốc nữa vệ quốc đoàn để rửa tay, để uống nốt? Chỉ một loáng, đám tù đã chén tiệt hai mâm xôi dỡ trên lá chuối. Cả những cái chai không lăn lóc. Từng người đứng ngồi nhấp nhô, ai cũng râu ria xồm xoàm, mặt đỏ phừng, mặt tái ngắt phì phèo tuôn khói thuốc lá cuốn sẵn, thanh thản lạnh lùng như những người xa lạ ngồi đợi tàu ở ga. Hùm Xám lơ láo nhìn quanh, bỗng cong cổ gào: Đời đẹp quá! Đời đẹp quá ít! Lão Tư âm, hai tay xích để trên đầu gối, im lặng. Mặt rượu tím Quan Công, nổi bộ râu ba chòm, con mắt sắc như dao liếc. Lão ngẩng nhìn cái đài nước đổ đằng cuối bãi. Lão giơ ngang tay xích, cười khểnh, nói: Cái đài nước kia to thật lực mà cũng đổ nhỉ?, Rồi lại trầm ngâm. Hùm Xám ngoái cổ lại hỏi trung đội trưởng Luân: Ông cho coup de grace hả? Nhờ ông cho nhanh một tý. Lão cựu giáo học thì cứ thở hổn hển. Không biết lão say rượu hay lão lên cơn nghiện.
Trung đội trưởng Luân đứng nghiêm, hỏi to:
- Phạm nhân có dặn dò, có nhắn gì nữa không?
Đội Thất, người đã beng đầu Nguyễn Thái Học năm xưa, hét:
- Việt Nam quốc dân đảng vạn tuế, vạn vạn... ối giời ôi!
Bấy giờ ông cố đạo rửa tội, mới đến. Ông quăng vội cái xe đạp giữa bãi cỏ, bánh trước nghênh lên quay tít. Ông ở tận nhà thờ bên phủ Đoan sang, có lẽ đã đạp xe suốt đêm qua. Quần ông xắn cao trên đầu gối. Ông lấy cái áo choàng đen trong ba lô ra mặc, áo trùng buông xuống, ống quần vẫn xoe trên bắp chân bê bết bùn. Ông cố đạo còn trẻ, chẳng nghỉ ngơi nửa phút, ông đến trước mặt từng người tù làm dấu thánh, rì rầm, rì rầm. Lão đội Thất được rửa tội sau cùng. Tự dưng, đội Thất kêu lên: Không, không, tao đéo xưng tội với mày! Rồi giơ hai tay xích nện xuống cái mũ lá của ông cố đạo. Ông cố đạo thản nhiên lùi xa, lại làm dấu thánh, cúi đầu đọc kinh nho nhỏ. Toán cảnh vệ bồng súng chào giữa trời rồi quay lại từ từ quỳ một bên gối xuống mặt cỏ. Cách mấy thước, những người tù đã bị bịt mắt miếng vải đen, trói ngoặt cánh tay, cẳng chân vào cọc. Phút hốt hoảng khủng khiếp bất thần đến. Tiếng kêu la thất thanh trong tiếng súng vang từng chặp. Nghe rõ tiếng lão đội Thất: Chưa trúng tôi? Chưa trúng? ối giời tôi, tôi oan, hay là tôi oan... Nhưng cái đầu lão đã ngoẹo trên cọc, máu tuôn òng ọc. Trong làn sương lẫn khói súng, bác sĩ Triển áo ba đờ xuy dạ đen, kính trắng, như thần chết vác lưỡi liềm ra. Chiếc ống nghe dí vào ngực từng cái xác. Trung đội trưởng Luân bước trước, mỗi cái xác bồi một phát súng lục vào gáy.
Mù sớm loãng dần, nhìn ra đám cỏ xanh eo éo. Ven đồi, những cây cọ bị gió đánh xơ xác rũ rượi, như tốp người nữa đợi đến lượt xử bắn.
Làn sương đêm dày đặc toả vào cửa sổ toa tầu. Chúng tôi ngợp trong sương, ho sặc sụa. Tôi nhớ cảm giác lạnh lẽo u ám sương mù thế này năm trước cái hôm bọn tử tù bị trói trên cọc. Rồi tôi nhớ Nam Cao, Tây đã bắn chết Nam Cao có lẽ cũng tương tự như thế, khi mới chặp tối trên đồng nước Hoàng Đan. Rồi nghe Thôi Hữu kể lúc Trần Đăng và Thôi Hữu bị quân quốc dân đảng Trung Quốc đem bắn ở chân núi Nà Lầu trên biên giới. Rồi ở Tuy Hoà, Ninh Hoà hay Nha Trang, lại Trần Mai Ninh tử nạn.
Đoàn tàu đã qua thị xã Phú Thọ. Vừng trăng mười tư lên giữa trời trong veo.
Ngày ấy nhiều vùng đường xuôi tản cư dần lên ngược, cứ cái tên được đặt cho cũng dễ tìm được đường đi, Hà Nội Đồng Quan, Vân Đình, Hà Nội Phú Thọ, Hà Nội Đại Từ, Hà Nội Bắc Cạn, Hà Nội họp chợ lập phố giữa đường. Trận quân Pháp vận động lớn đánh vu hồi khép gọng kìm Việt Bắc mùa đông 1947, những bèo bọt Hà Nội ấy tan đi hay tụ lại, không biết đâu là chừng. Mặt sông vừa tạnh sương lúc mặt trời hé ra, từng đoàn người các bến về đã đổ lên chợ Mè trong thị xã. Nhộn nhịp chợ búa, người ở xuôi tản cư ra chợ, mua bán, hò hẹn, thề bồi nhất quyết đi nữa hay đành dinh tê về thành. Bao nhiêu nông nỗi không ai biết đấy là đâu. Sân bay Phú Thọ hôm có cuộc xử bắn vẫn đương còn sầm uất. Pháp lên chiếm Việt Trì rồi mấy hôm sau nhảy dù ban ngày xuống ngay chợ Mè giữa thị xã.
Đoàn cải lương Kim Chung tản cư ra đương diễn ở thị xã. Dãy phố cô đầu Chín Gian cửa hé cửa khép như chưa biết Tây đã lên Việt Trì. Chủ nhiệm báo Cứu Quốc mà tôi đương làm phóng viên, Xuân Thuỷ Nguyễn Trọng Nhâm thuở trẻ hoạt động ở Phú Thọ và để có cái độ nhật đã mở hiệu bào chế thuốc bắc Thọ Xuân Đan, lại xin được chân phóng viên nhặt tin vặt cho báo Đông Pháp. Có thể cắt nghĩa được, ở nhà tù Sơn La, trong các dịp vui với bạn tù, Xuân Thuỷ hay đóng vai ả đào óng ả, véo von hát nói, ngâm thơ, có khi lại làm khách làng chơi nghiêng tang trống cầm chầu điệu nghệ. Cũng là nhờ xưa kia ông nhà báo lá cải đi chơi che tàn với các thày thừa, ông lục, ông ký ga, ông chủ sự dây thép. Thỉnh thoảng, lặn lội ở Hạ Giáp trong Phù Ninh ra, Xuân Thuỷ hay đưa tôi đến xóm cô đầu Chín Gian tom chát cùng ông Ba Triệu - một tay buôn và địa chủ có hạng ở ghềnh sông, ghềnh Ba Triệu quãng Lâm Thao lên, giàu có không kém chủ tịch Mặt trận Liên Việt tỉnh Đào Đình Quang ở đồn điền Thái Ninh. Cũng chẳng mới lạ và ham hố chơi bời gì, vẫn vui chân thế thôi. Mới mấy tháng trước, ở Hà Nội, không mấy tối chúng tôi vắng mặt dưới Khâm Thiên. Cả toà soạn đi hát. Văn Tân thọt chân cũng có. Văn Tân với tôi ngồi cùng một xe tay. Xe ghé vỉa hè nhà hát, tôi xuống trước, Văn Tân vịn vai tôi, một tay chống batoong bước ung dung vào như người hai chân đi bình thường. Chùm trò Xuân Thuỷ rồi Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Kha... Roi chầu anh Đan - bí danh của Xuân Thuỷ, sảng khoái, hào hoa lắm. Trần Huy Liệu ở cơ quan Tổng bộ Việt Minh tầng trên toà báo. Trần Huy Liệu giơ tay chào, cười cười, mỗi tối thấy chúng tôi đi chơi. Ông anh thèm đi theo. Nhưng các chức Phó chủ tịch nước và Bộ trưởng Bộ tuyên truyền, lại chủ tịch hội Văn hoá Cứu Quốc không cho phép. Đến hồi thành phố căng thẳng, đề phòng Pháp đánh úp đêm phải rời ra ngủ chùa Thông làng Mọc, xâm xẩm chúng tôi đạp xe qua Khâm Thiên. Trong ánh đèn nhấp nhoáng, các cô ả đào chạy ra nhìn mặt khách quen, gọi ý ới: Anh Mão ơi. Anh Thiên ơi? Anh ơi! Anh ấy ơi? Tối hôm sau phải đạp đi tránh quàng đường Sơn Tây ra Cầu Giấy...
Cho nên, cái khi mới tản cư, tạt qua thị xã Phú Thọ, ông Nguyễn Trọng Nhâm cựu phóng viên báo Đông Pháp có ôn lại mấy ngón roi chầu mà ông ấy và tôi được đi che tàn cụ Ba Triệu, âu cũng là cái thú nghiệp dĩ. Năm 1954, trở về Hà Nội, một dạo ở Khâm Thiên còn có nhà hát. Tiếng tom chát dưới nhà trên gác khêu gợi. Không sợ, cũng chẳng ngại, nhưng tôi không còn hào hứng. Như Nguyễn Tuân hồi ấy lên nằm bàn đèn với ông Hy chả cá. Ông Hy Chả Cá, cũng như ông Mác xen hàng Bạc - những Mạnh Thường Quân của làng báo ngày trước. Ông Hy hút thuốc phiện trong gác xép cạnh gian bán chả cá - sau cái bàn thờ như cây hương. Nguyễn Tuân và tôi nằm ngồi một bên chiếu cạp điều. Nguyễn Tuân nạo sái, hơ thuốc chín nâu sẫm, nhồi vào tẩu, quay dọc tẩu sang mời ông Hy.
Ông Hy trầm ngâm nói:
- Cái tay còn nghề lắm. Vẫn hút hả?
Ông Hy hút rồi nhồi điếu thuốc mới, mời lại:
Nguyễn Tuân lắc đầu. Ông Hy phũ một câu:
- Tiên sư ông, bàn tĩnh tại gia đây, sợ chó gì!
- Không phải, thấy không thích.
Ông Hy thở dài, nghiêng cái đầu hói trên gối, kéo nốt điếu thuốc. Bà Hy ló đầu vào chào rồi hỏi khách: Hồi này các ông anh đóng ở đâu mà lâu không thấy đến? Mấy hôm sau, khối phố gọi ông Hy đi trại cai nghiện. Ông Hy uống một bữa rượu nhắm chả rán, nem Sà Goòng - chứ không phải chả cá, rồi chết trong buồng ấy bên cạnh bàn đèn. Năm vừa rồi, vào Sài Gòn, Nguyễn Tuân cũng chỉ nằm chuyện và tiêm cho Tô Hà hút ở chợ Cũ. Tô Hà là thằng Điều làng tôi, nó hút để chữa đau bụng. Ra về, Nguyễn Tuân xin tiệm hút cái gối sành đem ra Hà Nội làm kỷ niệm. Rồi cái gối sành trắng bóng nghìn năm không vỡ của tiệm hút, Nguyễn Tuân cũng vứt ra ngoài hiên, giữa lũ vỏ chai bia, nước mắm, vang dâu đợi bán đồng nát. Đã bảo không thấy thích nữa thì chối, thế thôi. Một lần, ở phố Kỳ Đồng, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước tổ chức một buổi hát ca trù. Ban tổ chức bày biện như họp hội trường, ghế kê thành từng dãy, không có đánh trống chầu. Xong mỗi khổ hát, người ngồi các ghế đứng lên rào rào vỗ tay hoan nghênh bà Quách Thị Hồ. Nguyễn Tuân lừng lững đi về. Bà ả đào Phúc ra ngoài, nhìn bộ ria đen của Nguyễn, khẽ nói lỡm như ngày xưa: Râu với ria, rõ nỡm. Về hay sao?! Câu hỏi níu lại tình tứ đấy. Những năm ấy bà Hồ, bà Phúc còn phảng phất đôi nét xoan, chưa phải bà lão tám mươi như bây giờ. Nhưng chúng tôi không thể đủ hứng nán lại ngồi xem hát nhà trò mậu dịch.
Đoàn tàu Lào Cai rầm rập vào khuya. Ngoài cửa sổ, ánh trăng ướt loang loáng trên lưng tàu lá chuối. Hình như đương qua ga Đan Thượng. Tưởng sắp về đến nhà như hồi đi tản cư. Trong bóng tối vườn chuối trong Đại Phạm, mộ bố tôi ở đấy Bố mẹ vợ con tôi đã tản cư ở lâu vùng này. Con gái lớn tôi sinh ra ở Đan Thượng, tên là Đan Hà. Cũng như Nguyên Hồng có cô con gái tên là Nhã Nam, cái Nhã Nam. Các con tôi đều được đặt những tên để nhớ. Đan Thanh nửa đêm mẹ trở dạ ở túp lều nhà ven đồi Phú Thịnh ra Ba Quanh Thanh Cù, Xuân Đán, Xuân áng bên kia sông, nơi có trại văn nghệ kháng chiến, Phan Khôi, Thanh Tịnh, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Quật, Nguyễn Nghi, Nguyễn Khang, Nguyễn Xuân Khoát - xưởng vẽ của Tô Ngọc Vân, tiền thân trường đại học Mỹ Thuật, có Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên... Bố mẹ tôi được Nguyễn Văn Mãi quản lý hội Văn Nghệ về Hà Đông đón lên Vĩnh Chân, rồi sang Xuân áng ở nhờ nhà ông Cầu trong xóm cùng nhà với anh chị Nguyễn Xuân Khoát. Con Sông Thao sinh ở Hà Nội, chúng tôi vẫn giữ hơi hướng những gian nan và thiên nhiên sông Thao. Khổ thì khổ thật, thế mà nhớ lại vẫn nhớ.
Trăng đã xế bên kia. Tiếng bánh rít ghê ghê, tàu lắc lư xốc người lên. Chúng tôi vẫn uống bia. Mọi rác rưởi thừa ứa trong người chốc chốc được đứng lên tống ra ngoài cửa sổ, sạch sẽ cả. Đoàn tàu ào ào trong đêm... Có thể Nguyễn Tuân và Văn Cao đương tưởng lại bệnh viện Thuận Châu giữa đường lên nông trường Điện Biên mà hai người mới đi lao động ở trên ấy về. Mới qua Suối Rút, sáng sớm Văn Cao vừa trở dậy xúc miệng đã thủng dạ dày, ngã ra. Chiếc xe tải của quân đội chở người phải mổ cấp cứu leo các dốc Đá, Hát Lót, Sơn La lên châu Thuận... Mỗi nơi có trạm xá lại được y tá ra xe tiêm cho người sắp chết một phát hồi sức. Suốt ngày đường, xẩm tối mới tới Thuận Châu - phúc bẩy mươi đời, bệnh viện vừa mới được trang bị đồ mổ và bác sĩ chuyên khoa cũng mới ở Hà Nội lên, chưa đụng đến dao kéo. Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân phải là người thay mặt gia đình, theo thủ tục, ký giấy đồng ý cho mổ Văn Cao. Phòng mổ căng vải dù trắng như trạm sơ cứu tiền phương. Một đèn măng xông không đủ sáng. Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân phải đứng cầm đuốc soi cho ca mổ, như Quan Vân Trường đốt đuốc trước xe Cam, My phu nhân. Bác sĩ đánh thuốc mê đến sáu lần, con bệnh mới thiếp đi được. Nguyễn Huy Tưởng kể lại nói chắc là trong máu thằng này từ thuở trẻ đã tích tụ lắm sái, lắm cồn quen thuốc mê quá rồi. Văn Cao nằm lại châu Thuận mấy tháng, đến khi về Hà Nội lại phải mổ ra khâu lại. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý thì vào lao động ở nông trường Điện Biên... Rồi sau Nguyễn Tuân ra ở với đội làm đường ở Xuân Tre. Giữa đêm, cháy lán, Nguyễn Tuân mất sổ tay, lửa lém bỏng cả mu bàn tay: Chắc thấy lửa giữa rừng ma quái quá, con rượu mê mải ngồi xem lơ đãng đến mức lửa bén cả vào tay mà không biết - tôi nói đùa. Bởi không hiểu sao Nguyễn Tuân lại để cháy đến tận màn và mu bàn tay còn sần sùi một vết sẹo bỏng.
Rồi những lần ra biên giới Việt Lào ở Tây Trang, những chuyến lên các làng dân tộc Mông ở trên núi lòng chảo bọc cánh đồng Điện Biên. Con suối Nậm Rôm vắt ngang Mường Thanh chảy ra suối Nậm Mu sang tận ngã ba sông Mêkông - Nậm Mu phía trên cố đô Luang Prabang một quãng không xa. Nguyễn Tuân đã dầm chân trên suối Nậm Rôm. Còn tôi, đã có lần ngồi thuyền qua giữa ngã ba sông Mê Ông - Nậm Mu kia. Một cái thư Nguyễn Tuân viết ở lán làm đường Xuân Tre.
Công trường 426 Xuân Tre - Tuần Giáo
Chủ nhật 20 tháng ba.
Tô Hoài,
Cho đến hôm nay mình mới đọc scenario (kịch bản phim) Vợ chồng A Phủ . Thích đấy. Hơn cái facture (xây dựng, cấu tạo) nouvelle (truyện vừa) được giải thưởng. Có lẽ anh scenario này mới là anh ăn đích cái giải thưởng cũ. Những lúc này mình ước giá có Tô Hoài. ở đây rượu suông cũng uống được nửa cây. Hôm đi Than Uyên cũng gặp người quen Tô Hoài. Hôm ngủ Nậm Din, mậu dịch Khôn cũng cứ hỏi mình sao bác Tô Hoài không lên với ông?
ở Tuần Giáo, hôm mình vừa tới lại gặp cả vợ chồng A Phủ. Mình chưa biết Jeuscenique (khả năng sắm vai) cô Hoàn ra sao, nhưng cũng tin là cô đóng được.
Mấy hôm nay gió Lào nổi lên nhức đầu quá. Hôm ở Than Uyên, gió Than Uyên buốt. Hại tiền cao hổ cốt quá. Ông có thì giờ, nhìn hộ tôi mặt mũi Sông Đà (quyển Sông Đà đang in) nó ra sao?
Nguyễn Tuân
Bao nhiêu đường trường. Chỉ trên đường mới cảm thấy thơ thới, trong thành phố tù túng không tìm đâu ra những thảnh thơi được. ở trên núi xuống, lại vào giới tuyến. Những lần lặn lội ngược xuôi sông Hiền Lương lên thấu cột mốc đầu sông lại xuôi Cửa Tùng, hai bên bờ đồn địch đồn ta đóng đăng đối, những chiếc loa vành rộng hơn bánh xe đạp cứ thi nhau chõ qua mặt nước lúc chửi lúc lại hát, như điên.
Nhớ sao những chiều Nguyễn Tuân, Kim Lân và tôi ra tha thẩn ngoài Cửa Tùng đợi đoàn thuyền đánh cá về. Mặt nước, mặt người vàng xuộm. Trên cửa sông, những cái đồn gác con con lợp mái tôn. Mỗi tuần, tốp lính bên Bắc bên Nam lại đổi phiên bờ này sang bờ kia. Tôi đứng một chỗ thấy cát không lún gót, nhận ra cát bể Đông ở Cửa Tùng hạt vàng thô, không mịn như cát Sầm Sơn, Trà Cổ ngoài Bắc.
Những người lính đổi bốt hai bên cởi trần, lưng đen cháy, cùng nhau chơi bóng rổ trên cát. Không thể tưởng chốc nữa có thể người ta chui vào sau lỗ châu mai ngắm bắn chết nhau. Trên dòng sông óng ánh sóng, những tốp thuyền đánh cá ngoài khơi vào, dần dần mỗi chiếc giạt về một bên. Hai bờ, người tụm lại từng đám. Làm như đi đón thuyền. Không, chỉ là cái cớ ra nhìn sang sông cho thấy mặt những xóm giềng cũ.
Mấy hôm sau trở lên Hiền Lương mà cái cảm tưởng buồn buồn Cửa Tùng ấy vẫn đeo đẳng dai dẳng về một sự cách trở bỗng dưng.
Huyện Vĩnh Linh hay quận Trung Lương, hai bên đều không được phép vào khu giới tuyến. Ra vào phải có giấy chứng là người ở đấy và có uỷ ban quốc tế kiểm soát. Nhưng mà làm luật thế thôi, hầu như ai cũng vào, cũng ra được, cả hai phía. Tôi có cái giấy chứng minh làm cán bộ Bình dân Học vụ huyện. Từ quận Trung Lương phía Nam, đằng xa đã nhìn thấy. Bọn người nước ngoài, quần áo quân sự trông rõ dây tua vàng vắt vai, lố nhố ra giữa cầu. Ta ở bên này vạch vôi trắng nói loa phản đối - tiếng oang oang to quá như nói với ai đằng xa hàng mấy cây số chứ không phải những người ngay trước mặt. Bên ta ra cầu kín đáo hơn. Khách đợi giờ nhất định xe ủy ban quốc tế đi tuần qua rồi mới thong thả vào dưới bóng hàng cây sa mu đến một mái lều ẩn dưới chòm bạch đàn bên cầu. Chúng tôi đi lại dễ hơn, nhưng cũng phải giữ trong người chứng minh thư mới, thay tên khác, là cán bộ bình dân học vụ huyện Vĩnh Linh. Cho phải phép mà thôi. Những cái chứng minh thư giả, cái thông hành giả như thế ai cũng biết là trí trá, thế mà cứ nhan nhản các khu vực nóng trên thế giới. ở Bàn Môn Điếm, ở đảo Síp và trên cao nguyên Gôlan ở Syri bị Itxaren chiếm đóng, ở Đông sang Tây Beclin trước kia, tôi đã cầm những giấy giả ấy, mà chẳng bao giờ bị bên nào hỏi.
Chia tay với Nguyễn Tuân, ngày mai tôi trở ra. Hồi ấy, đương một đợt địch ngừng ném bom. Cờ đỏ sao vàng phấp phới trên Hồ Xá. Thị trấn địa đầu giới tuyến trở lại vui ngay, như chưa bao giờ bị bom, chạy bom. Các hàng quán sáng choang, nhộn nhịp. Đêm trên gác nhà nghỉ Hồ Xá sao mà ngẩn ngơ. Cái đêm thấp thoáng cùng ai dở dang ngậm ngùi chốc lát. Cửa sổ nhìn xuống đường chính chong đèn suốt sáng như đương qua một quãng khác, lẫn lộn trước sau, dòng sông và cửa biển, nhịp cầu nửa xanh nửa cánh gián, tà áo dài trắng với những cây hương, những túp lều, bên kia Trung Lương lau sậy hoang vu, những gặp gỡ và kỷ niệm, tình cảm trong con người cũng sông có khúc người có lúc như chân đi trên đường.
Vĩnh Linh hoà bình bây giờ khác xưa, nhưng mỗi lần qua tôi vẫn một nỗi bâng khuâng ấy. Cuối 1975, chuyến tàu suốt Hà Nội - Sài Gòn vào ga Tiền An cách trên Bến Hải hơn mười cây số. Người đôi bên hàng tàu xôn xao, náo nức vì sắp qua sông Hiền Lương, sắp qua... Những ngọn cỏ sắc lướt rập rờn bên nhịp tàu gập ghềnh, đột nhiên dòng sông trắng mờ hiện ra trước cửa sổ. Sông Hiền Lương đây ư? Những bụi tre mép bờ xoã. cành lá xuống mặt nước phẳng lặng mờ mờ sương chiều. Như mọi con sông miền Trung trong mát trườn trên mặt sỏi không viền cát. Làm sao tôi trở về Hiền Lương, Bến Hải dòng nước bối rối đỏ ngầu chảy năm nao. Có phải cái buồn cứ vẩn vơ ám ảnh mãi?
Rồi thời gian xa đi, mà vẫn nhớ thế. Trước đây vài năm, một lần Nguyễn Văn Bổng và tôi có dịp đi dọc Trường Sơn - với tôi, là lần đầu, còn Nguyễn Văn Bổng thì đã bốn năm lần vượt Trường Sơn trong hai cuộc kháng chiến, khi đi bộ, khi máy bay chở từng quãng. Các nhà lịch sử quân sự đương bàn cãi đường Trường Sơn - đường Trường Sơn theo lịch sử quân sự bắt đầu từ đâu trong vùng rừng Hoà Bình, Ninh Bình hay đèo Mụ Dạ hay nhích ra tận mỏm đầu rặng núi đá vôi rải rác ở Xuân Mai, ở Miếu Môn - nơi đã mọc lên nhiều doanh trại tập luyện vượt Trường Sơn, và vào đến trong kia, đường Trường Sơn xuống Long Thành hay còn xa nữa. Xa đến đâu chẳng được những người chiến sĩ trèo núi vào các chiến trường mịt mù xa. Những con đường thật ấy cũng như nỗi đau đã qua đi, đường Trường Sơn kháng chiến ngày nay chỉ có thể dựng lại làm kỷ niệm một trạm giao liên, một kho đạn, kho lương, một bãi khách ven suối và một mũi tên chỉ vào ngàn cây. Đường lớn Trường Sơn bây giờ nhiều quãng làm theo đường 13 cũ của Pháp rồi Mỹ trải nhựa mở rộng. Không phải người Pháp ngày trước chỉ là tác giả đường số 1 xuyên Việt mỏng manh lượn bên bờ cát bể Đông mà một viên đạn trái phá ngoài biển bắn vào cũng có thể chặt đứt đôi một quãng ven núi. Con đường bộ, đường xe lửa ấy chỉ là đường làm ăn và trưng diện. Mà ý đồ chiến lược của người Pháp làm đường quân sự số 4 chắn biên giới phía bắc, rồi vòng xuống bao quanh Đông Dương. Từ Trà Cổ lên Mường Tè. Quãng Móng Cái tới chấm Cao Bằng qua Bảo Lạc tới Mèo Vạc Hà Giang, sang Lào Cai, sang Lai Châu vào Mường Tè đã được khảo sát và khởi công bắc nhiều cầu.
ở Mường Tè, vắt sang Lào bắt vào đường 13, Luang Prabang xuống Pát Xế, tạt vào Quảng Bình rồi đến Ba Biên Giới mở ra hai đường, một rẽ Stung Treng vào Campuchia, một lên cao nguyên Lang Biang xuống miền đông Nam Bộ. Đường trong đường ngoài song song đường kinh tế và dong chơi với đường quân sự bọc năm xứ Đông Dương lại. Những năm sau cùng - trước khi bị Nhật quật ngã, người Pháp còn có kế hoạch rời thủ đô Đông Dương ở Hà Nội vào Đà Lạt, - cao nguyên trong sâu giữ thế chiến lược lâu dài.
Chúng tôi qua cầu Hiền Lương rồi nghỉ lại. Cây cầu đã long nhịp, những thanh sắt rên rỉ dưới bánh xe. Mới nhớ ra hồi ấy mải để ý quang cảnh thời sự nơi trớ trêu bị chia đôi, quên mất cầu này chỉ là cầu dã chiến, quân đội Pháp lắp vội cho các cuộc hành quân trong chiến tranh 1946-1954. Năm 1946, hơn hai mươi năm trước khi tôi làm phóng viên báo vào mặt trận nam Trung Bộ đây chỉ là cái bến phà. Cái cầu mảnh dẻ bị gánh nặng lịch sử và thời gian đè xuống đã xác xơ, tàn tạ quá. Doanh trại bờ bắc, cỏ xanh om. Phía nam, giữa lau lách chằng chịt ngổn ngang mọc lên một nếp nhà mái ngói ba gian, đấy là cửa hàng bách hoá của hợp tác xã. Chúng tôi mua mỗi người một chiếc quạt giấy. Rồi ra nằm bãi cỏ, quạt nắng chiều. Mấy con bò nhà ai thong thả gặm cỏ quanh trên đầu. Vẻ thản nhiên trơ gan cùng tuế nguyệt của cảnh vật gợi một nỗi buồn thê lương. Ngày trước, trông sang chỗ này cũng cỏ và lau ngập đầu, làng xóm và quận lỵ Trung Lương bị dồn vào trong kia. Cuộc đời và mọi việc đã biến đổi như ánh nắng chiều Hiền Lương đương nhàn nhạt quanh mình.
Thế là đoàn tàu lên Lào Cai chạy thâu đêm.
Chúng tôi cũng thức trắng đêm. Ba người ngồi lim dim mắt. Chai bia thứ hai mươi bốn đã hết lúc nào, tàu lắc, vỏ chai đụng nhau xoang xoảng. Con người và con tàu lư đừ thức với những nhớ lại Hai cửa toa tàu đã bị khoá mà hồn bay ra ngoài kia đêm trăng trắng bời bời. Sáng bạch, tàu vào Cốc Lếu. Bên sông biên giới, rừng cao su của Trung Quốc tốt lá xanh rì. Chúng tôi trọ trên gác ty Bưu điện, hôm sau vào Sa pa.
Người hay đi, những chân đi nhà nghề kiểu kháng chiến Việt Nam từ lâu thường gắn bó với bưu điện. Rong ruổi đường đất, đường ngựa, đường xe đạp rồi tối đến ngủ trọ ở luôn nhà dây thép. Nguyễn Tuân thì dễ chịu vì như thế không phải tìm đến trạm nhờ đóng dấu vào sổ tay và trang viết để được cái thích nhìn dấu ấn nơi đến nơi đi. Tôi đi lên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc từ hồi chưa có ô-tô đường Hà Giang - Đồng Văn sang Mèo Vạc. Người công tác, người buôn mang vác, gồng gánh đường dài một trăm, hai ba trăm cây: số đèo dốc - từ vùng oi bức thị xã lên thung lũng Quản Bạ dưới dốc Cổng Trời, đầu chợ Quản Bạ còn lại cái bảng xi măng thời Pháp đắp nổi dòng chữ khí hậu Pháp (Climat de France) rồi lên nữa đến những vùng cao nhà trường nghỉ đông không bao giờ biết mùa hạ. Tôi đi và ăn nghỉ theo chặng ngựa bưu điện. Trạm trưởng Hà Văn Môn ở Yên Minh đóng gói cái màn, cái chăn dạ của tôi vào bao tải gắn xi như bưu kiện cẩn thận. Bắt đầu lên núi qua Vằn Chải, Sà Phin đến Phó Bảng. Con ngựa thồ bưu kiện lên dốc, anh bưu tá và tôi thong thả theo ngựa. Người nghề đi đã có ngữ chân, vừa tối thì tới trạm trên. Ngủ cánh đồng Phó Cáo, hôrn sau lên Đồng Văn. Đến khi sang Mèo Vạc tôi về ở Lũng Phin, con ngựa trạm phải đèo thêm cái chăn bông to xù của huyện đưa khách dùng. Chuyến đi Lào Cai này chúng tôi được chung nhau cái thú uống bia suốt đêm trên tàu. Như buổi chiều ngồi gốc liễu bờ hồ bên nhà Thuỷ Tạ. Rồi cũng lại nhờ đường và ở nhờ nhà bưu điện, Nguyễn Tuân với Văn Cao ở lại Sapa. Tôi thì đợi trong Lai Châu ra đón vào Phong Thổ. Cảm thấy chưa hết cái ngột ngạt thành phố, cái buồn nông nỗi tiểu thuyết Mười năm, tôi lại đi nữa.
Vào Sapa nghỉ lại trên gác nhà bưu điện huyện. Vùng nghỉ mát Sapa những năm ấy còn heo hút, hoang tàn. Các nhà trọ tối hun hút ở ngay chợ chứa lái buôn đào, mận và người mua hạt giống su hào, hoa lơ. Nhà nghỉ mậu dịch, một dẫy nhà sàn lửng cuối phố. Khách có công việc về huyện trọ đấy. Trên đỉnh núi, một khách sạn cũ được sửa sang lại bên đài thiên văn. Chuyên gia Ba Lan ngành này ở và đôi khi người du lịch nước ngoài ghé lên. Tôi đã quen ở trọ các cửa hàng bách hoá, các bưu điện huyện, nhà bưu tá xã - những nơi dừng chân cơ động ở vùng núi, nhưng đây lần đầu một chặng trên tỉnh xuống huyện, Nguyễn Tuân và Văn Cao đi theo đường dây kiểu này. Sapa đượm vẻ yêu kiều cho người đến với thiên nhiên, giữa thiên nhiên. Không heo hút như Mẫu Sơn không giống một thứ đồ chơi bé bỏng như Tam Đảo, Ba Vì. Trước mặt, lừng lững ngang mắt triền núi Hoàng Liên trải ra màu tím bao la, đôi khi nắng lên như cơn mưa bóng mây hồng xuống xung quanh đỉnh Phanxipan cao nhất nước. Theo trí nhớ đến nơi đến chốn của Nguyễn Tuân, đỉnh Hoàng Liên đúng 3.142 thước mà năm vừa qua, Nguyễn Tuân đã theo một đoàn cán bộ nghề rừng lên đến chỗ chót vót ấy. ở Sapa, xuống thung lũng có trạm thuỷ điện cũ thời Pháp, trèo vài bước sang khe suối đã vào nương người Mèo, đối diện với bên phố lát đá tảng mà người xuôi lên ở thành phố đã lâu đời. Ngôi nhà thờ nguy nga hiện ra, ngọn tháp rêu phong xanh mướt như đỉnh núi đá: Đầu thế kỷ này, linh mục Savina đã tu ở đấy, cùng thời kỳ cố Hiền người Pháp ở nhà thờ Xoạ Hồ trên núi bên Nghĩa Lộ. Linh mục Savina đã viết quyển Lịch sử dân tộc Mèo và làm bộ Từ điển Pháp Mèo in ở Hồng Công từ 1920. Người Mèo sùng đạo ở Sapa, tôn ông cố Savina là vua Mèo. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, đế quốc Đức đã xúi giục người Mèo ở tây bắc Việt Nam và bắc Lào nổi dậy. Cố đạo Savina làm cố vấn chính trị trong quân đội Pháp đi dẹp loạn. Năm 1918, Savina mời được tất cả các vua Mèo về họp ở Xiêng Khoảng. Tại hội nghị, toàn quyền Đông Dương đã ký với các thủ lĩnh Mèo những văn bản qui định chế độ chính trị và hành chính cho dân tộc này. Từ đấy, người Mèo ở ba xứ Đông Dương đều trực thuộc chính phủ Pháp mà đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Lại đặt ra chức thống lý thống quán cho người Mèo tự quản nhau. Savina tu ở Sapa cho đến khi qua đời. Tới những nơi sơn cùng thuỷ tận khuất nẻo đến đâu, ai đấy chớ vội nghĩ hôm qua chưa có một bàn chân xa lạ nào đến, mặc dầu con người bao giờ cũng lấy tưởng tượng đó làm một kiêu hãnh.
Suốt chiều, Nguyễn Tuân ngồi ngoài hiên gác nhìn sang Hoàng Liên Sơn. Mơ màng lại chuyến đi năm ngoái, đãng tử đương ngất ngư trong da trời xanh lam, trong mây trắng ngẩn ngơ trên kia. Hay là lại muốn lên chóp núi lần nữa, hay là sao... Đêm ấy sương mù trong thung lũng dâng lên như bông giắt vào trong cửa sổ gác. Chúng tôi được nghe một câu chuyện đời người. Ngoài hai mươi năm trước...
Người ngồi trước mặt chúng tôi, y sĩ Tái Sinh trạm trưởng trạm xã huyện. Tái Sinh có nghĩa là sống lại. Cái tên anh tự đặt cho mình. Anh quê gốc dưới Thái Bình. Nhiều bà con công giáo đường bể đã lên sinh nhai trên này, có khi di chuyển cả làng cả cha cố đi theo, như ở Bản Hẻo bên Nghĩa Lộ.
Anh yêu cô Đào nhà ngoài phố. Một cố đạo Tây cũng mê Đào. Ông cố dê cụ có điều kiện và hoàn cảnh dễ quyến rũ đàn bà. Nỗi đau, nỗi lo của hai người được cắt bỏ bằng cách làm như người đi săn bắn trong núi là phải giết lão cố đạo. Anh đã đâm chết lão rồi trốn lên gác chuông nhà thờ. Nửa đêm, có người đưa anh luồn rừng chạy ra bờ sông Hồng. Anh chặt chuối ken bè, chiếc bè chuối đưa anh trôi xuống Yên Bái - vùng tự do ngoài kháng chiến.
Anh được đi học y tá. Cũng từ đấy, tên anh là Tái Sinh.
Chiến dịch biên giới 1950, Lào Cai được giải phóng. Y sĩ Tái Sinh trở về Sapa. Thì Đào đã lấy chồng. Cuộc chia tay bờ sông xưa đã phai mờ.
Bên Lai Châu điện báo có người sang đón tôi. Nguyễn Tuân và Văn Cao cuốc bộ tiễn tôi một trường đình dài dài. Chẳng lẽ lại đi nữa, đương thuận chân - Nguyễn Tuân nói. Nhưng cũng không trở về Sapa hôm ấy, hai người với tôi ngủ lại ở một lán lâm trường dưới dốc Ô Qui Hồ. Tiếng suối chảy trong đêm mênh mông, tối đen, đôi lúc lẫn với gió rát rào, như sóng biển. Máy bay xuống đêm Simphêrôpôn thủ phủ bán đảo Crưm, nghe ra xung quanh có tiếng sóng biển Hắc Hải, nhưng sáng sớm mới biết đấy là gió rừng bạch dương quanh nhà ở giữa thành phố. Đây chỉ có gió vào sườn núi, cũng tương tự thế.
Nguyễn Tuân nắm tay tôi mà rằng:
- Cái số tao xưa nay cứ phải đi tiễn mày. Thế thì ra làm sao?
Rồi lại nói vui:
- Nhưng mà trường đình xa quá, những một ngày đường, nửa đường rồi. Từ Ô Qui Hồ mà vào Mường So, ba ngày ngựa chứ mấy. Này, nhớ ngắm những cái chỏm Pu Xam Cáp hộ tao.
Quả thật, chúng tôi có cái duyên thường gặp nhau -cũng như chia tay nhau giữa đường. Khi Nguyễn Tuân ở lại Vĩnh Linh tôi về Hà Nội, khi Nguyễn Tuân đến Tuần Giáo rồi vào Điện Biên tôi lên Tủa Chùa, lại cái lần ở đèo Mã Pì Lèng ra, Nguyễn Tuân về xuôi còn tôi lên Đồng Văn, rồi lại đem nhau đoản đình trường đình tận phương trời, tình cờ gặp ở Matxcơva, tôi đi Vacsava... Chú liên lạc ở Lai Châu ra dắt ngựa cho tôi vào Bình Lư, ngày mai qua thác Gió. ở ngã ba Bình Lư, cái cột chỉ đường Pháp xây từ năm tôi mới oe oe chào đời. Dưới con số năm 1920, những dòng chữ chỉ cây số và đường ngựa sang Than Thuộc xuống Tam Đường, đến Thèn Xin, vào Mường So huyện ly Phong Thổ. Dãy Pu Xam Cáp mà Nguyễn Tuân nhờ tôi ngắm hộ suốt ngày lúc nào cũng chập chờn nhấp nhô bên tay trái.
Có đến hai ba tháng sau, khi tôi ở vùng cao Phong Thổ xuống huyện ly ở Mường So, nhận được điện Sapa Nguyễn Tuân đánh vào, tỉnh ủy Lai Châu chuyển. Chắc hôm ấy ông còn ở nhà dây thép, điện đánh nhờ không mất tiền, dài cả trang như thư.
Tôi mới biết sau đấy, Nguyễn Tuân và Văn Cao dọn xuống ở trạm xá với y sĩ Tái Sinh. Câu chuyện tình buồn kia Tái Sinh chỉ kể một lần, nhưng cái day dứt còn lại, hôm nào Tái Sinh cũng hỏi khách: tôi tiêu diệt thằng Tây thế là hành động cách mạng hay là trả thù cá nhân, tôi báo cáo là cách mạng, tổ chức huyện thì nhận xét là không phải, cho nên tôi chưa có huân chương. Các ông thấy thế nào? Nguyễn Tuân bảo tôi thư hay điện trả lời hộ cho hai ông, vì lẽ tôi thành thạo các việc về tổ chức! Nguyễn Tuân đã bảo Tái Sinh thế rồi.
Muốn ở lại ngắm mãi Phanxipăng mà không được Văn Cao ốm sốt. Nguyễn Tuân phải đưa Vua ra Lào Cai, lấy vé tàu cho Vua về Hà Nội một mình. Chúng tôi hay gọi đùa Văn Cao là Vua, là Văn vương. Hợp với cái gã tính thích thú người ngưỡng mộ, ưa ngồi phán và ban phát lời lẽ như sấm ký.
Nguyễn Tuân ở lại một mình làm khách của tỉnh, đợi chuyến vào Bắc Hà.
Gửi đồng chí nhà văn Tô Hoài Lai Châu (Tây Bắc) - nhờ Văn phòng Tỉnh uỷ Lai Châu chuyển hộ.
Simacai (Tân Mã Nhai) 8/6/1965
Ông Tô Hoài
Mình có cái may là gặp liền hai phiên chợ. Chợ Bắc Hà và chợ Simacai. Đông, nhiều màu sắc. Đào, mạn, thắng cố v...v... Simacai cách biên giới có 8 km. Tôi không khoẻ, cho nên tới đây rồi lại quay ra Bắc Hà và về Lao Cai và xuôi Thủ đô, sau khi nói chuyện phục vụ. Định lần sau sẽ tua một vòng Bản Lầu Mường Khươngh Pha Long qua Simacai Bắc Hà rồi Bảo Nhai Phố Lu.
Bắc Hà mát dịu chứ không mát gắt như Sapa. Cảnh Bắc Hà (Pa kha) cũng đẹp hơn Sapa. Anh giao thông bưu điện và đường dây Bắc Hà - Simacai cũng có nhiều đặc điểm vùng núi, viết được. Hôm ông ở công trường 112 Ô Qui Hồ đi Bình Lư thật vẫn còn là may. Ông đi buổi sớm thì đêm ấy mưa to, thác nước xô đá xô cây nghẽn thêm nhiều quãng đường.
Văn Cao sưng phổi từ hôm ấy, về đến Lào Cai phải tiêm một Bérie thuốc và bác sĩ bảo phải vào ngay bệnh viện. Văn Cao sợ quá. Tôi cũng ngại. Liền lấy vé luôn cho ông ấy ra tàu xuôi về Hà Nội, về đấy mà vào Việt Xô - tôi thấy còn hơn là nằm ở Lào Cai. Từ hôm Vua về, tôi vẫn nằm ở phòng khách tỉnh uỷ. Thấy lúc xuất phát Hà Nội, chúng ta là một tổ 3 người. Và nay tổ chỉ còn có một mình lính già này. Hôm qua phải rút luôn một hơi 26 cây số dốc, mỏi chân quá. Nay vẫn còn mỏi và uống gần hết chỗ cao hổ. Chúc ông viết khoẻ và xong. Mong sẽ có dịp đi Lai Châu vào một dịp nào cuối năm. Ông viết thử kể chuyện Ô Qui Hồ Bình Lư Phong Thổ Lai Châu ch o tôi nghe với.
Ng. T.
(Nguyễn Tuân công trường 426 Tuần Giáo khu tự trị Thái Mèo).

1966, chúc mừng năm mới!
Tô Hoài ơi, trên này lạnh quá. Bộ xương đã buốt sẵ n vì tê thấp mùa này, lên đây càng buốt tợn. Chỗ công trường làm đường mình ở chung quanh lại là núi đá (như kiểu núi đá Bắc Sơn Quỳnh Sơn) nên đêm càng buốt tợn. Chỗ mình ở cách Tuần Giáo khoảng 20 cây, cách Điện Biên khoảng 70 cây. Vậy mà từ hôm lên mình chưa ra Tuần Giáo. Mình đã lên từ sớm thứ hai 7/12. Chín giờ sáng cất cánh, 10 giờ 50 đã ở giữa cánh đồng Mường Thanh (không kể nửa giờ đỗ xuống Nà sản, vậy là giờ bay mất có 1 tiếng 20 phút). Vậy là trong năm mình 3 lần đi Tây Bắc, 2 lần vô giới tuyến.
Tình hình làm đường cũng có những thuận lợi và khó khăn mới. Bây giờ vẫn là đánh nhau với núi non sông suối bằng hai bàn tay con người. Kế hoạch đặt lúc đầu cũng có bốc đồng, nên bây giờ nó mới rõ ra là còn phải vài ba năm mới hoàn bị xong. Các thứ máy dũi, máy húc, máy ngoạm không phải là không có nhưng phải có người lái máy, người chữa máy. Mà các ông lái đó không phải là một tuần một tháng là có ngay. Như thế này là con đường chưa xong mà cuốn sách định viết đã phải cắt băng khánh thành đó rồi. Thôi, mùa xuân lên đây một chuyến nữa, rồi về là viết, cuối năm xong.
Ng. T.
Phố Lu Lào Cai 12/6
Anh Tô Hoài,
Thư trước viết từ Simacai một ngày phiên chợ có nắng. Thư này viết sau ba ngày đi bộ liền 70km, dưới mưa, hôm trước mưa lũ to tắc suối phải vòng lên bản Mèo tránh lũ. Hôm trước mưa, hôm sau mưa, hôm sau nữa lại mưa nữa. Từ Simacai ra Bắc Hà, ngủ Bạc Hà vẫn mưa. Hôm sau từ Bắc Hà ra Bảo Nhai, vượt Cổng Giời (vẫn lại Cổng Giời) và qua sông Chảy. Sớm sau, Bảo Nhai về Phố Lu, ngủ Phố Lu, sớm chờ lâu thì đi tham quan lại chiến trường của Trung đoàn Thủ đô cũ. Người mình vẫn đang hâm hấp sốt, mấy hôm đi trong mưa vẫn sốt tiếp. Cao mang đi hết, phải nhờ địa phương tiếp cao cho m ới rút đường được như vậy.
Mệt, khổ, nhưng hình ảnh lượm về giao thông bưu điện cũng không đến nỗi nghèo lắm. Đường dây Lào Cai như thế là căn bản tôi như tóm được đây rồi. Định đi nốt hai huyện Bát Xát và Mường Khương nữa thì tôi hoàn chỉnh đường dây của tôi. Lào Cai có 5 huyện tất cả thì chuyến mùa mưa này, như thế là tôi đi xong được 3 huyện rồi. Một huyện xuôi (Bảo Thắng), một huyện núi nội địa Sapa và một huyện n úi biên giới Bắc Hà - Simacai cách biên giới 2 km chim bay.
Người mệt, chân mỏi, năm hôm chỉ ăn cháo và sữa. Mệt mỏi chân tay, lưng nhưng lòng thì có cái lâng lâng của một người chủ nhân ông đất nước tiến lên, đất nước tiến theo mình và mình theo nước và đất mà tiến lên.
Hôm ở Phố Lu tôi nhớ ông và ông Văn Cao quá (Tội, cái thằng chuyên đi Điện Biên Phủ 1958 nó bị mổ nằm lại Sơn La, chuyến này là cũng tim phổi và phải đưa về, bỏ cuộc).
Tôi định đi nốt giường Mường Khương đây. Mong ông đi được Sìn Hồ và nhất là Mường Tè. Cái quà quý nhất ông sẽ kể cho tôi nghe sau này tôi nghĩ rằng phải là những cảm xúc về huyện Mường Tè biên giới và đầu nguồn Sông Đà!
Nguyễn Tuân
Đ.c Tô Hoài (nhà văn) Tỉnh uỷ Lai Châu (Tây Bắ c) - Nhờ các đ.c văn phòng tỉnh uỷ chuyển thư tiếp nếu đ.c Tô Hoài đã xuống huyện. Văn phòng Tỉnh uỷ chuyển bưu điện Mường Lay: đ. c Tô Hoài đã đi Sìn Hồ, đề nghị chuyển.

28/6/1966
Ông Tô Hoài
Hai thư của ông cùng tới một lúc, đến dăm sáu hôm nay rồi. Nhưng tôi lười, nay đấu tranh tư tưởng mãi mới viết được cho ông. Nhất là cách đây một tuần, tôi lại chơi đằng quý quyến, bà nhà ông cũng cho biết là ông ngã ngựa ở Phong Thổ, trên đường đi Dào San. Theo cách hiểu chủ quan của tôi thì bà ấy vừa lo vì tai nạn thượng du Bắc Kỳ, nhưng cũng có vẻ lý thú vì những sự rơi ngã trữ tình ấy.
Hình như hôm qua trẻ con nhà ông ngồi xe cơ quan sang địa điểm sơ tán (vẫn cái chỗ đường 18 ấy đấy). Tôi cũng vừa nhận thư ông Hồng khoe rằng viết xong rồi cái trang cuối cùng của tiểu thuyết dài của ông ấy vào đầu tháng 7, ông xuống thanh toán contrat (hợp đồng) với Hội. Và mặt khác, chuẩn bị đi khu 4 khói lửa cùng bạn Tế Hanh. Khu Tư, khu Tư anh dũng! - Chao ôi, nếu nó cứ tiếp diễn xâm phạm bầu trời Hà Nội - quãng Xuân Mai, có ngày hai lần cả sớm cả chiều như hôm 25/5 vừa rồi thì Hà Nội là khu Tư chứ gì nữa! Tôi nghe có đến mấy người nói cái câu tôi vừa trích dẫn đó. Như thế thì lúc ấy nên đi đâu? Vẫn vào khu Tư hay đi vào nội ngoại thành anh dũng? Có ý bảo hiện nay Tây Bắc, cụ thể là Sơn La cũng đang không kém gì Vinh, Thanh Hoá. Hầm hào ở Hà Nội độ này làm có vẻ chu đáo hơn. Trần bằng bê tông đúc sẵn lại có ống lỗ thông hơi nữa, xa trông như cái ngoi lên của ống khói nhà máy...
Cầu Ninh Bình thế là hỏng đang chữa. Cầu đường quốc Lộ Gián Khẩu Đoan Vỹ hình như cũng bị. Nghee nói cũng đang chữa. Nay mai, tôi định vẫn đi tiếp cho Tổng cục Bưu điện, đi tuyến duyên hải từ Móng Cái đến huyện Nga Sơn, Hậu Lộc. Thanh Hoá.
Vua hôm nay đi nhổ cái răng hàm. Ông cao lâu nhà thương đau mắt này chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay ở đó, ăn vòi bia theo giờ nhà nước tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút mà không viết bài nào. Quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái, nhưng xem ra cũng khó thọ.
Địch ngụy vận tôi đang chuẩn bị viết bài thứ hai. Bài đầu được trả đặc biệt (mười đồng) và bài đó đánh máy ra 5 trang, tôi giao bài trước hôm đi Lào Cai Simacai và đêm 9/6 lại được nghe phát lú c 11 giờ đêm ở giứa Bắc Hà mưa thâm gió núi sau một ngày đi mưa vượt suối tắc. Đêm ấy tôi có những cảm xúc yêu đời lắm. Này ông viết một bài gì cho nó đi. Viết cho nguy vận, tôi thấy rất nên vì nó rõ ràng ra cái efficace immédiate (hiệu quả tức khắc).
Ông cố nhớ hộ nhiều chi tiết Mường Tè - cái nói tôi chưa được đi tới và ông thì đang đi tới.
Chà o hưu hưu gió thổi sông Đà
Ng. T.
Đ.c nhà văn Tô Hoài Hà Giang - Kính nhờ các đ.c Tỉnh uỷ Hà Giang chuyển giúp. Văn phòng Tỉnh uỷ: chuyển Đồng Văn.

Hà Nội 21/11/66.

Tô Hoài.
Tôi vừa nhận thư ông gtn từ Đồng Văn ngày 13/11. Đúng ngày chủ nhật 13/11 ấy chúng tôi mới rời giao tế lúc 14 rưỡi và đi thẳng một hồi về tới Hà Nội lúc 1 giờ 30 đêm ngày 14. Những ngày ở lại chờ xe sao mà dài thế. Mỗi ngày lại cùng uống 10 chai Trúc Bạch.
Tôi đã đặt vấn đề Lào Cai mỏ đồng Bát Xát và bản đồ địa chất Sa pa với phòng chính trị Tổng cục Địa chất. Họ đang bố trí để xong lễ Nôen là đi được Hà Nội vẫn thương. Từ hôm tôi về không có tiếng súng gì. Mãi cho đến chiều nay mới lại nghe cao xạ của ta phía ngoại thành. Tôi cũng định lần sau ra xuân này lên Hà Giang, thế nào tôi cũng phải đi cái tuyến Hoàng Su Phì lại (đi đường Thanh Thuỷ, Sìn Chải, Tả Su Phin tức là men theo sườn Tây Côn Lĩnh 2418 km).
Chắc ông sẽ là đồng hành của tôi. Rồi tôi vẫn vào Bắc Mê cùng ông Nguyên Hồng. Rồi lại phải đi vào Mèo Vạc nữa. Ôi, hai cái xương bánh chè của lão già này còn được một chuyên giối già nữa a!
(Có lẽ trước khi rời Hà Giang ông lại một lần nữa móc tay với ông Thế Kỳ, hẹn cụ thể là cuối giêng sang hai ta, là chúng ta lên ở (ít nhất là một tháng) để làm người Hà Nội mất tích vài dăm tuần).
Chúc ông lượm nhặt nhiều nhân sự để tái tạo.
à, ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.
Ng. T.

Ông về, nếu có điều kiện (về thời gian, về hầu bao) mua giùm cho một số cái lặt vặt tôi sẽ xin chuộc sau, như đá lửa (vài chục viên), chè Thông Nguyên loại 1 (3 gói), măng khô (loại măng lưỡi lợn là hay nhất). Có lẽ ông nên tạt qua nhà riêng cửa hàng trưởng (Nà Thai) Phạm Minh Khương thì tay ấy đi tìm được. Khương ở với vợ (hoa kiều) ở số 2 đường Nguyễn Thái Học trên con đường ra chợ tỉnh đầu cầu. Tay Khương này còn nấn ná ở nhà trước khi đi Bắc Mê. Ông có thì giờ tạt qua nhà ảnh cũng vui đấy. Nhân vật tiểu thuyết đấy loại nhân vật tích cực. Hà Nội rau cỏ tép cá đều khó, đã và đang khó. Bia vẫn mở hàng, hoạt động mạnh. Duy chỉ có lạc là kiêu giá hơn. Một hào mười viên phá sáng.
Ông bà Học Trường vừa chiêu đãi nhân dịp mười năm của trăm năm ông bà ấy. Lại một cây Lúa Mới. Vui nhất là lão Hai lại chênh choáng như thương lệ.
Ng. T.
Lai Ch â u 1 4/6/69
Ông Tô Hoài
Từ hôm chia tay với ông tại biệt thự nhân vật Lê Minh, tôi đi ngay một chuyên lên rừng, do lâm nghiệp mời. Và có đăng đàn nói chuyện ở huyện Cẩm Khê, ở châu Yên Lập, ở phố đồn Vàng và ở công trường Thu Cúc, nói cả ở Thạch Kiệt nữa: Rừng Thu Cúc chỉ sang một cái đèo là tới huyện Phù Yên Nghĩa Lộ rồi. Rồi tất cả lại dặn tôi thế nào mùa khô cũng phải trở lại nữa.
Sau đó là đi Lai Châu. Không phải phà phung gì. Ô-tô sang cầu mới. Cái cầu ô-tô đâu tiên trên sông Đà xã hội chủ nghĩa. Sang Bản Chang (le village des anciens serfs de lex vice - roi Đèo Văn Long (Tiếng Pháp: làng của đầy tớ nguyên phó vương Đèo Văn Long) có gặp một ông cụ Thái trắng 83 tuổi. Nói năm 1907 có về chơi Hà Nội, nghỉ trọ ở nhà trọ số 24 phố Hàng Bạc. Bữa cơm có thịt quay, có rượu, có đậu rán phồng mà chỉ mất có 2 hào chỉ. Ông cụ cùng với mình về uống rượu nhắm cá lăng ở nhà đ/c xã đội xong ông phó chủ tịch lấy thuyền đuôi én của hợp tác xã tiễn mình ra bên đò. Rừng trên thượng nguồn, quả vậy, vẫn có nhiều tình hơn rừng văn Hà Nội.
Ng. T.

Ông Tô Hoài (tiếp theo)
Mình vừa đi thác Lay về. Ba xuồng máy ngược lên thác Lay, cách thị xã 9 km. Ngược 45 phú t, xuôi có 15 phút. Sông Đà nước đã to rồi, đỏ lừ. Nhiều người trong các giới am hiểu nói năm nay nước có thể to lắm vì đợt phá rừng Lai Châu đã lên tới điển hình (ví dụ đốt rừng cháy luôn cả Ty y tế trong rừng Tin Tốc v. v... ) Thác Lay là một thác dữ, thuyền xuôi ngược sông Đà tới thác Lay đều bốc rỡ hết hàng hoá, mà kéo thuyền không. Thác dài mà luồng cong, thác dài 54 m. Mùa lũ, mặt nước thác cao hơn mặt nước sông 4 thước, mùa cạn thì cao hơn 2 thước. Định lần sau lên sẽ sống ít ngày với đội phá đá thác của Lai Châu.
Ngày kia, mình lại lộn về với rừng Hà Nội. Hôm trước có đ.c tuyên huấn tỉnh uỷ Lạng Sơn tới rủ mình lên Lạng Sơn đi Mẫu Sơn và có nói ông đang ở Thật Khê. ừ, để xem, ông còn lâu trên ấy thì mình đi ải Nam Quan. Chúc ông không ốm đau gì.
Ng. T.
à buồn cười nhất là trong cái phong bì những bút ký cũ mang theo lên đây để giảng về bút ký của ty văn hoá Lai Châu mở lớp lại lạc vào hai cái thư cũ của ông viết cho tôi cách đây mấy năm, hồi ông đi Dào San và Sìn Hồ. Đọc, có cái cái dư vị khó tả nên lời thư.
ở huyện ly Phó Bảng ít ngày. Rồi trở xuống Vằn Chải một làng trên núi đầu dốc Yên Minh lên Phó Cáo. Trước kia tôi đã nhiều khi cả tháng liền ở trên Văn Chải rồi. Lần này bí thư huyện Vũ Mỹ Kẻ cùng đi. Lái xe Tiến ở lại với xe dưới ruộng khe núi Phó Cáo.
Những dốc, lại dốc. Nguyễn Tuân đã leo núi nhiều nhiều, nhưng sau chuyến Simacai Bắc Hà năm trước và sông Đà sông tuyến thì đi đường nước, cái lần đi dốc bằng hai chân lên Vằn Chải này, tôi tính ra là chuyến lên núi sau cùng của đôi đầu gối người lão luyện sông hồ. Chuyến ấy chúng tôi còn lên Lũng Cú nơi biên giới phía bắc cao nhất xa nhất, lại cách bức phải tạt một quãng ngang đồn biên phòng bên Trung Quốc. Tuy vậy, không dốc bằng núi Vằn Chải. Nguyễn Tuân chống ba-toong vừa đi vừa nghỉ thế mà rồi cũng tới được dinh cơ nhà thống quán Vàng Vản Ly trên xóm đỉnh núi. Rừng trúc vàng óng bao quanh ngôi nhà ngói cổ. Nguyễn Tuân chống gậy ngước mắt ngắm núi và rừng trúc rồi, như nói cho mình: Mai kia, đây sẽ thành một điểm du lịch, máy bay lên thẳng đưa khách bay nhìn một dải từ Quản Bạ lên đây hạ xuống thì vừa đẹp. Lại có rượu ngô nóng uống chống lạnh. Có lẽ bấy giờ mình sẽ đăng ký mua vé đi chuyến đầu tiên.
Lại một chuyến đi Hà Giang với Nguyễn Tuân, có Hoàng Trung Thông, Trọng Hứa và tôi. Đường đêm qua cầu Việt Trì không yên, chúng tôi lên Liễn Sơn men Tam Đảo sang Đa Năng ra bến Bình Ca, trời vừa sáng. Mưa rào rạt, xe chạy đèn vàng, lao chúi đi như con lợn rừng. ở lại thị xã Hà Giang một đêm đã vất vả. Phố xá đường ngược mà bức bối như ở trong hõm, trưa nắng nóng hầm hập, hơi núi hơi nước đến tận khuya. Lạ, trời sắp chuyển mùa, ở trong cái thung lũng sâu này vẫn có mùa riêng, có khi bên kia sông gió rải đồng man mác, đây vẫn hanh hao gió bấc.
Đêm ấy về cơm rượu ở trụ sở uỷ ban xã Vằn Chải. Rồi một mình Hoàng Trung Thông trèo lên xóm nhà chủ tích Hoà, thổi khèn uống rượu đến tận sáng. Cái vui được đến một nơi chưa hề đến. Tôi sang trường, chơi với các thày giáo cô giáo - hồi ấy công tác diệt dốt và học chữ Mèo đương sôi nổi. Dưới huyện, cán bộ Kinh công tác vùng cao tối nào cũng phải đến lớp học chữ Mèo. Trên núi Vằn Chải, thày Hùng quê bên Thái Nguyên, cô Mai người Tày Bắc Quang với nhiều thày người Mèo trong huyện, các thày Chứ, thày Páo, thày Chúng. Và cô giáo sinh Ly Chờ, cô gái xinh xinh bé bỏng quê Sà Phin.
Ly Chờ năm ấy còn non tuổi, độ mười lăm. Ly Chờ mới võ vẽ đọc được, viết được, đã quyết xa nhà đi làm giáo sinh xoá mù chữ. Tôi cũng chưa bao giờ hiểu được cô con nuôi của tôi tại sao hăng hái như thế. Người Mèo vốn ít ra ngoài, chẳng thiết công tác, nhất là các cô các chị. Đi cán bộ không được ở nhà trồng lanh, thêu cổ áo, nhuộm chàm đắp sáp ong làm hoa viền gấu váy? Đi cán bộ thì không thể dành dụm và lo liệu được váy áo vòng bạc để lấy chồng. Lấy chồng Kinh không phải sắm sửa thế, nhưng lấy chồng người Kinh khác đâu giơ tay bắt con chim bay mà con trai ở làng không lấy vợ đi cán bộ. Cô nào kiên gan lắm cũng chỉ đi dạy, đứng bán mậu dịch bách hoá được ít lâu rồi bỏ về. Các thày giáo thì bụng dạ cũng đại khái như thế. Có lần tôi gặp lại Mùa A Gia ở dốc Pác Xúm. Thày giáo đi với vợ lẽ xuống làm nương dưới yên Minh. Mùa A Gia cười: Lấy vợ lẽ thích hơn đi thày giáo! Người vợ lẽ che ô đứng cạnh, nghe được tiếng Kinh, mặt đỏ lừ. Tôi bùi ngùi nhớ ở Dào San có một cô Dao lan tiền, văn công ca múa khu Tây Bắc. Một địu củi, dây chằng lên trán lằn vết, kéo chịu lưng xuống. Tôi gặp cô như thế. Đi cán bộ thì không lấy được chồng làng. Cô văn công đành bỏ về làm nương.
Cuộc đời Ly Chờ chỉ những gập ghềnh. ở Vằn Chải, cô giáo sinh Ly Chờ đã đưa tôi đi các xóm khắp núi, từ Sìn Chải sang Túng Quá Sử, vận động người đi học. ít lâu sau, Ly Chờ được xuống tỉnh học trường dân tộc ba năm. Trở về dạy cấp hai lớp bổ túc văn hoá trường cán bộ huyện. Mỗi khi được những tin vui, tôi lại nhớ những hôm ở Vằn Chải, giáo sinh Ly Chờ đứng giảng bài. Và khi tôi ở Sìn Chải lâu, thỉnh thoảng Ly Chờ lại xách đến cho tôi miếng thịt lợn, một ống nứa đựng rượu. Cả tháng mới lại trông thấy rượu thịt. Nhưng con người ta tính trước thế nào được những bước rủi may. Ly Chờ yêu một giáo viên người Kinh, quê vùng biển lên núi dạy học. Mối tình chẳng đi đến đâu. Rồi Ly Chờ lấy chồng người Hán bên Mèo Vạc. Không mấy lâu cũng tan vỡ. Năm ấy, Ly Chờ về Hà Nội thăm chúng tôi. Một con gái mẹ dắt theo, lưng địu một cháu nhỏ mới sinh. Ly Chờ lại lập gia đình mới. Tôi đưa Ly Chờ đến chơi nhà bác Nguyễn Tuân, bác Nguyễn Văn Bổng những bạn đã đến Sà Phin. Hai mươi tuổi, đã con giắt con bồng, bao nhiêu gian truân. Cái đẹp sắc sảo mà bạc phận.
Tôi cũng vun trồng tưởng tượng và ước mong không biết bao nhiêu về cuộc sống và tinh thần người con gái dân tộc hăng hái thoát ly đi công tác từ năm mười lăm tuổi tưởng đã vượt được mọi thử thách và ràng buộc. Đến khi tất cả khác đi, tôi chỉ biết ngỡ ngàng. Những dang dở đã nghiêng ngả cả cuộc đời. Người chồng mới này là cán bộ tổ chức của huyện. Người Mông đi công tác không như ở xuôi, ai cũng muốn vào biên chế. ở đây chẳng để ý mấy đến cái trách nhiệm và tổ chức cơ quan ấy. Lấy vợ rồi anh bỏ công tác về làm nương. Vợ bị đổi xuống nhà trường vùng thấp huyện Vị Xuyên - dạy ít lâu rồi cũng bỏ về. Bốn mươi tuổi Ly Chờ về hưu non. Cũng phải chạy mãi mới được cái sổ hưu. Vì chưa đủ hai mươi nhăm năm công tác. Thật ra thì thừa, nhưng không được tính thời gian công tác từ tuổi mười lăm. Bấy giờ Vũ Mỹ Kẻ còn làm phó chủ tịch tỉnh, tôi lại phải nói với anh ấy giúp cho.
Lại đến những rắc rối tức cười và rơi nước mắt. Một lần, tôi có việc đi nước Tandania vùng dưới Đông Phi. Tôi mua một cái mũ dạ ở hàng bán quần áo cũ. Buôn bán quần áo cũ đã thành một công nghiệp lan khắp các nước đương phát triển và cũng tràn ngập các thành phố nước ta. Bố của Ly Chờ thích một cái mũ dạ. Nhờ năm 1952, lần đầu tiên vào các khu du kích người Mèo ở núi 99 bên Phù Yên, thấy những ông già mặc áo bông rộng, thắt lưng đỏ, đội mũ phớt, hệt những người chăn cừu ở Mông Cổ và Trung á. Bố Ly Chờ ao ước có cái mũ phớt. Nhưng thằng con rể cầm cái mũ của tôi lại không gửi ngay mũ về cho bố vợ trên Sà Phin. Nó đem đội nghênh ngang đi chợ. Người ta xì xào cái mũ này chỉ bên Trung Quốc mới có. Thằng này chắc có sự mờ ám sao đây. Thế là bị bắt. Lại phải Vũ Mỹ Kẻ lên tận nơi can thiệp mới xong và rõ ra câu chuyện cái mũ diện.
Bây giờ, Ly Chờ đã có bốn con. Cháu gái ngày nào theo mẹ xuống Hà Nội đã hai mươi tuổi, hơn tuổi mẹ khi mẹ đi làm giáo sinh xoá mù chữ trên Vằn Chải. Vợ chồng và hai con nhỏ trở về Sà Phin. Hai đứa lớn không về, thích ở xuôi và phố xá. Mỗi lần được thư chỉ những buồn là buồn. Lại được Ly Chờ cho biết tin bác Vũ Mỹ Kẻ đã về hưu, cũng về Sà Phin. Bây giờ bác ấy cũng gầy lắm, trồng thuốc phiện cả trong vườn. Chua chát, nhớ Vũ Mỹ Kẻ đã có nhiệm kỳ đại biểu Quốc Hội được công tác sang đến nước Nicaragoa bên nách nước Mỹ.
Làm sao không buồn, bao nhiêu hy vọng rồi lại chỉ như thế. Tại con người hay xã hội, hay còn tại những gì. ảo não thê lương, mỗi khi trở lại những miền hoang vắng đã từng ở xưa kia mà đôi khi đã như nhà mình quê mình, vẫn chỉ thấy bóng người địu củi, vác nước và tiếng gọi lợn, gọi trâu ời ời trong ráng chiều. Năm trước, được tin trên Bắc Cạn, Bàn Văn Quân người Dao đỏ ở Khui Buồn núi Phía Biếc, chết rồi. Quân đồng tuế với tôi, đã đo cánh tay uống rượu ăn sùng nhận nhau làm anh em. Chặp tối, ông lão Quân ra đầu xóm trèo cây lấy tổ ong. Người đi nương về muộn, nhìn nhập nhoạng tưởng con gấu liền giương súng bắn một phát. Ông già Quân rơi xuống như một cành cây gãy. Vẫn thế, sao lại thế?
Chúng tôi đang leo lên dốc Vằn Chải. Dưới kia, người tan chợ Yên Minh về. Từng đám đi lẫn ngựa nhấp nhô loáng thoáng cười nói. Cả các thầy cô giáo cũng đi chợ. Ly Chờ đã lên kịp chúng tôi. Ly Chờ đeo hộ bác Nguyễn cái túi dết. Ngày phiên, cô xuống chơi chợ như người ta thường đi, một tay cầm cái phao đèn hoa kỳ, sợ vỡ nên hai chiếc bóng đã được buộc vào cổ tay. Một cái chai, cái bóng thuỷ tinh từ dưới xuôi lên quý hơn cái phao sắt tây Cô bé nhí nhảnh đeo túi, từng quãng đứng lại chờ bác Nguyễn chống batoong lần bước. Thế mà hôm sau bác còn leo cao nữa. Tận rừng trúc vàng vòng quanh nhà thống quán Vàn Vản Ly. Chúng tôi tạt vào nghỉ chân nhà Sùng Dúng Lù, anh hùng quân đội tiễu phỉ năm trước. Lúc nãy đi qua một cái miếu, mỗi người nhấc trộm đi một cái tượng gỗ con con. Đã hỏi Vũ Mỹ Kẻ rằng lấy được không. Vù Mí Kẻ bảo: cứ lấy. Nhưng lúc vào nhà Sùng Dúng Lù, Vù Mí Kẻ bảo phải vắt các túi ngoài cọc rào nó biết trong túi có tượng nó chửi cho. Mới hay, lúc nãy Vù Mí Kẻ chỉ nể mà ừ. Vù Mí Kẻ cũng sợ. Nhà đất tối om phải lom khom cúi đầu chui vào. Giữa nhà, một đống củi sưởi cháy đùng đùng, mấy người ngồi quanh, hắt bóng nhóng nhánh lên vách nứa. Những cột kèo ám bồ hóng như sắp bắt lửa cháy nhà đến nơi. Dần dần tôi nhìn rõ tấm bằng, cái huân chương anh hùng và những chiếc ảnh được đại hội anh hùng chiến sĩ toàn quốc tặng, tất cả dán rải rác trên vách. Không có khung kính, những cái bằng và ảnh với huân chương ám khói đen xỉn bên chiếc ống tên nỏ bắn chuột và quả bàu lọ đựng hạt giống thuốc phiện treo lủng lẳng cạnh cột bếp. Sùng Dúng Lù lại mới được mời về dự đại hội anh hùng dưới Hà Nội. Nguyễn Tuân hỏi:
- Về Hà Nội mấy lần rồi?
- Hai lần thôi.
- Lần sau có về nhớ đến nhà mình uống rượu. Rượu Hà Nội cũng ngon như rượu ngô nóng trên Phó Bảng.
Khuôn mặt hốc hác khẽ lắc:
- Hà Nội không có rượu đâu.
- Ngày nào mình cũng uống mà.
- Có rượu thật à?
- Thật.
Sùng Dúng Lù nói:
- Thôi, chẳng về nữa!
Vù Mí Kẻ kể: Dúng Lù về dự đại hội vào giữa mùa đông. Người ở núi cao quanh năm giá lạnh, đôi khi sáng sớm tuyết phủ trắng lá rau cải thế mà về thành phố suýt chết rét. Thì ra cái rét buốt ẩm ướt khác cái lạnh hanh hao trên cao. Người anh hùng ở núi, gió hun hút thổi mùa đông về. Không lo, đã có củi gỗ thông vừa ấm vừa thơm. Đêm ngày nằm ngồi xung quanh đống lửa sưởi, không bước chân ra cửa. Xuống Hà Nội, Dúng Lù rét run cầm cập. Đụp vào hai cái áo tả pủ vẫn như cởi trần. Bởi vì trong phòng vắng đống củi. Ban tổ chức cho Dúng Lù cái áo bông bọc vải xanh Sĩ Lâm. Dúng Lù mặc áo rồi vẫn rét quá, đòi về ngay. Đấy, cái áo bông đã rách lòi hai vai đương mặc. Chẳng áo nào chịu được cái dây đeo và cái lù cở cọ vào lưng, vào vai. ở nhà Sùng Dúng Lù ra, Hoàng Trung Thông ngẩng mặt lên đỉnh núi, tức cảnh một câu thơ bốn chữ:
- Nhà thằng ăn mày?
Những cái tượng gỗ bé bằng con chó đá nhét trong ba lô. Vết đẽo thô, sơn chàm loang lổ xanh lét. Thợ bên Vân Nam sang đẽo tượng này đặt ở các cái miếu dọc đường trong rừng. Cũng như những hiệp thợ đá làm máng nước bậc đá lên dinh cơ trên núi nhà Dương Trung Nhân ở Mèo Vạc và toà nhà đá tảng của Vương Chí Sình ở Sà Phin. Tượng gỗ của những tay thợ người Hán. Màu xám chàm hiu hắt, dị dạng. Chẳng biết Hoàng Trung Thông có cất cái tượng nào vào ba lô không. Chuyến ấy về lái xe Tiến ốm lao rồi bệnh đái tháo đường mấy năm trời. Người nhà đi xem bói, nhà thày bảo là ma làm. Thế thì chỉ có ma đường ngược chuyến đi ấy. Nhưng Tiến không lên núi, chỉ nằm trông xe dưới cánh đồng Phó Cáo và chẳng khuân trộm ông tượng nào. Lái xe Tiến khắc khừ, mòn mỏi rồi chết. Chẳng biết từ lúc nào, tôi không thấy những cái tượng quỷ dạ tràng xanh xỉn gớm chết, bày trên giá sách ở buồng Nguyễn Tuân và trên lò sưởi phòng Trọng Hứa nữa.
Chúng tôi ở Lũng Cú trở về Phó Bảng. Cán bộ Mông người Tày Cao Bằng phụ trách Lũng Cú đưa đường. Cái chấm xanh rừng cao nhất trên bản đồ đất nước, ở đấy cũng có trường học, có trạm xá có một xóm người Lô Lô. Dưới khe sâu, nước sông Nho Quế chảy xiết. Bên kia, đất Trung Quốc. Không nhớ chuyến ấy hay chuyến nào, Nguyễn Tuân và tôi có dịp ở lâu Phó Bảng đã vào chơi nhà bà Síu, một nhân vật lịch sử của cao nguyên Đồng Văn. Tôi có quen Quỳnh Anh, công tác dưới tỉnh. Vương Quỳnh Anh và Vương Quỳnh Sơn công tác ở khu Việt Bắc, đều là cháu họ Vương. Bấy lâu, tiếng đồn đại về bà Síu, bây giờ gặp, tuy bà lão đã cao tuổi, nhưng còn một thời tiếng tăm vẫn bóng dáng hoạt bát trong giao tiếp và lời lẽ.
Năm 1948, Thanh Tịnh và Dương Bích Liên đã được lên Phó Bảng, đi với phái đoàn Trần Đăng Ninh. Thời kháng chiến khu vực châu Đồng Văn ở vùng tự do, nhưng phức tạp. Các tầng lớp trên vẫn cầm quyền từ trên châu xuống mỗi xóm, mỗi chòm núi mà sau lưng là đất Trung Quốc còn trong tay chính quyền Tưởng Giới Thạch. Bà Síu quen biết tướng Long Vân tỉnh chính phủ Vân Nam và cả cánh thổ phỉ thế lực Hạ Sào Chúng. Trong châu, Vương Chí Sình đem quân đánh Mèo Vạc, đuổi chúa đất Dương Trung Nhân phải bạt sang Trung Quốc rồi chạy về hàng Tây ở Lạng Sơn, cao nguyên Đồng Văn Mèo Vạc trở thành đất cát cứ riêng một mình họ Vương. Vương vẫn kể lại giữa năm 1946, về Thủ đô được chủ tịch Hồ Chí Minh cho vào gặp, lại đưa cho Vương một thanh kiếm Nhật - đi mít tinh, đi họp châu, Vương đều đeo gươm ấy bên thắt lưng. Vương nói: Cụ Hồ bảo tao rằng gươm này chú đem về giữ đất nhà. Bởi thế, lần ấy Vương được đoàn của chính phủ lên thăm hỏi. Thanh Tịnh kể rằng mụ Síu ra đón, đứng chắp tay vái trước đầu ngựa trưởng đoàn Trần Đăng Ninh.
Bà Síu người Hà Đông, thuở trẻ lưu lạc lên Hà Giang, lấy viên quản đồn Đông Văn, thành me tây. Ông quản chết và không biết vì hiềm khích thế nào, quan ba Đồng Văn tống cổ hai mẹ con bà Síu sang Vân Nam. Những năm rối ren, Nhật đảo chính Tây, bà Síu trở về Phó Bảng. Bà gả cô Đức con gái bà làm vợ lẽ ông Vương. Lẽ mọn nhưng là cả, bởi bà vợ già người Mông suốt năm chỉ quanh quẩn trong toà thành đá ở Sà Phin.
Năm trước, tôi qua Sà Phin vào xem dình cơ nhà Vương, còn gặp bà lão lọm khọm và ông Đức điếc em ông Vương, ông này đã cất công vác được cái xe đạp từ thị xã lên, để bày treo làm cảnh trên trần nhà.
Bà Síu mở quán cà phê ở phố Phó Bảng - hình như cả phở chua, phở vịt. Lấy nơi chốn ấy cho các mối buôn dễ lui tới. Kỳ thực, bà Síu để mắt đến cả vùng. Thế lực và mưu đồ nhà Vương đều trong tay bà. Chỉ có bà Síu mới đủ bạt thiệp đón phái đoàn Trần Đăng Ninh.
Gặp năm ấy, bà Síu đã ngoài tám mươi. Bộ quần áo Hán nhuộm chàm, đi hải xảo, người khô nhăn nheo như gốc cây cháy dở. Nhưng vẻ mặt quắc thước, ánh mắt tinh nhanh. Chúng tôi ngồi bên cái bàn tròn, kiểu bàn ăn cơm mộc mạc. Nguyễn Tuân và bà Síu, khách với chủ trò chuyện tràng giang đại hải, đủ các chuyện, những miếng võ Tàu, các vị thuốc bắc, ở Lào hay Quí Châu thuốc phiện đâu ngon hơn, những hiệu cao lâu nào có tiếng ở Hà Nội, ở Mông Tự, ở Côn Minh, các mánh khoé Tây, Nhật. Quốc dân đảng Ta, Tàu... Đôi lúc, bà Síu nói lẫn tiếng quan hoả với tiếng tây bồi ba mỏ nhá, sểnh sáng à, rồi cười hoe hai hàm răng vàng. Vương làm chủ tịch châu kháng chiến, mà bà Síu vẫn cưỡi ngựa sang Côn Minh rồi đáp máy bay về Hà Nội chơi. Dưới ấy, bà mới tậu ngôi nhà phố Hàng Đường. Kỳ lạ và đến giờ tôi cũng không hiểu ngô khoai thế nào, hồi ấy mỗi lần bà Síu đi Vân Nam về Hà Nội, các hãng thông tấn Ru tơ, Arip của Anh, của Pháp thường đưa tin, - khi làrn báo Cứu quốc tôi đã được đọc những bản tin bí ẩn khó hiểu ấy.
Còn hàng bồ chuyện về bà lão thao lược, lịch lãm này. Các kiểu tinh khôn, ranh ma, những mẹo mực đòn đánh ứng biến của bà Síu, tưởng giá mà gặp thời, chắc chẳng khác các bà ba Đề Thám, Cai Vàng, có khi còn như một tiểu Võ Hậu buông mành trị nước chứ chẳng chơi.
Lần ấy, Thào Mỷ nhắn mời bác Nguyễn Tuân và tôi sang Mèo Vạc. Nhưng chúng tôi không sang được. Mấy năm sau, tôi lên Mèo Vạc, đi với Nguyễn Văn Bổng. Lần đầu tiên, Nguyễn Văn Bổng đặt chân đến Hà Giang. Những năm vừa qua, Nguyễn Văn Bổng đi chiến trường miền Nam, vào hoạt động bí mật trong Sài Gòn. ở Sài Gòn trở ra Bắc đi hộ chiếu giả theo đường bay Nôm Pênh - Quảng Châu - Hà Nội của hãng hàng không Pháp. Lưu lạc đã lắm đường đất thế, nhưng đến Mèo Vạc lại là chuyến xa nhất của anh lên biên giới phía bắc. Thào Mỷ cũng nghỉ hưu đã lâu. Đầu năm 1991 hơn ba mươi năm đã qua. Nguyên Ngọc trở lại cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc. Nguyên Ngọc kể cho tôi biết Thào Mỷ bây giờ mở ngôi hàng nước ở chợ Mèo Vạc. Ôi, thế mà còn nhớ nhau, còn có lời thăm hỏi một thời sôi nổi và sóng gió. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong tục. Khi lớn, Thào Mỷ bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà Mèo nào dám làm. Trong chiến dịch tiễu phỉ 1954, Thào Mỷ đi dịch tiếng địa phương giúp bộ đội. Gặp Nguyên Ngọc lần ấy trên mặt trận. Cũng chưa có dịp nào hỏi xem cái truyện ngắn Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của Nguyên Ngọc có dây mơ rễ má với Thào Mỷ thế nào mà trong sổ tay công tác của Thào Mỷ, giữa một trang giấy thấy ghi một câu gọi thật lạ lùng: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi. Thào Mỷ hỏi thăm tôi về Nguyên Ngọc, về nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Chắc là Thào Mỷ thầm yêu cả hai người một đam mê khác đời của Thào Mỷ, người cầm bút, người cầm đàn ấy đã gặp Thào Mỷ trong trận tiễu phỉ trên núi. Tôi bảo Thào Mỷ ạ, Nguyên Ngọc đương ở chiến trường miền Nam. Thì đôi mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng..
Rồi Thào Mỷ trở thành cán bộ huyện Mèo Vạc - một phụ nữ dân tộc Mông tiên tiến. Thào Mỷ cũng như cô Mỹ nhân viên cửa hàng bách hoá ở Lũng Phin và con gái nuôi Ly Chờ của tôi. Chao ôi, con đường tình của người ta thì mấy ai biết được rồi ra hướng nào. Như quả báo và ám ảnh truyền kiếp, xưa kia Thào Mỷ ruồng rẫy thằng chồng ranh con, bây giờ Thào Mỷ chỉ đeo đuổi những người trai trẻ ít tuổi. Cái anh chàng mà cô lăn lóc sau cùng là một cảnh vệ ở huyện đội, người Tày quê Chợ Rã bên hồ Ba Bể Bắc Cạn. Chú cảnh vệ lệch với cô đến mười tuổi. Trong khi ấy Thào Mỷ từ chối người ta làm mối cho một cán bộ Kinh mà cả tuổi trẻ đã để vùi vào công tác rừng núi trên này. Nhưng ở thời ấy, một huyện uỷ viên đương phơi phới hứa hẹn như Thào Mỷ, làm sao đoàn thể lại có thể bằng lòng cho cô đẹp duyên với chú cảnh vệ trống choai kia.
Cái ngày tôi lên Mèo Vạc lần đầu, mọi chuyện về Thào Mỷ đương còn bời bời như vừa xẩy ra. Thào Mỷ tháo vát nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy. Thào Mỷ đưa tôi lên những núi trong huyện. Có lần về Nhá Sủa, làng quê Thào Mỷ. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa: cho tôi nhìn cái mặt thằng chồng trẻ con ngày trước. Thào Mỷ nói : Nhìn nó làm gì, nó có trẻ con nữa đâu. Nó đã có vợ mà mình thì chưa được chồng. Rồi Thào Mỷ cúi mặt, dường như thở dài. Sớm mai, trên đường đầu xóm, một người vác cây vầu trong rừng ra. Người ấy đã đi khuất sang núi bên kia. Thào Mỷ nói: Nó đấy. Nó đấy cũng như mọi người tron làng, tôi làm sao biết được. Tôi vẫn thấy trong tưởng tượng cái thằng lỏi con cởi trần, đánh quay chơi trước nhà rồi bị vợ bỏ, ngoe ngoảy khóc thút thít. Kể cả ngày Nguyễn Văn Bổng và tôi lên Mèo Vạc lần ấy, nhiều năm đã qua rồi. Thào Mỷ đã làm phó chủ tịch huyện, phụ trách văn xã. Không ngờ rồi gầy yếu đến thế. Có lẽ vốn người nhỏ nhắn, lại xưa kia khi chê chồng đã ăn lá ngón tự vẫn nhiều lần nhưng được giải độc, không chết. Thào Mỷ đã có chồng. Tôi được tin mừng ấy từ lâu. Lại biết được người chồng ít tuổi hơn Thào Mỷ. Thoả lòng nhé. Nhưng nay mới tường mặt. Anh ấy người dân tộc Lô Lô, công nhân lâm trường, chưa biết chữ. Hôm đầu đến, không gặp. Anh lên quê trên Lũng Cú đã mấy hôm. Tôi hỏi: Hôm nào nó về?. Thào Mỷ sa nước mắt. Tôi không hỏi nữa.
Đêm ấy, chúng tôi uống rượu ngô bằng những cái bát mắt vầu. Nhắm với thịt dê nước suýt thắng cố. Chảo thắng cố bắc giữa gian phòng ban văn xã của huyện. Cái đầu dê nổi lềnh bềnh, nước sôi lăn tăn xung quanh. Thào Mỷ uống rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em. Đánh luôn, vừa đánh vừa chửi: tao đánh con mèo già, tao đánh phó chủ tịch huyện. Uỷ ban gọi nó lên. Nó xin chừa, nhưng rượu vào rồi, nó vẫn chửi thế, đánh thế. Biết làm thế nào bây giờ?
Biết làm thế nào? Hôm trở về, Nguyễn Văn Bổng bảo tôi:
- Heo hút, ảm đạm quá. Mình đến đây lần đầu, mà chắc cũng là lần cuối cùng thôi.
Không biết ngọn núi Lão Sơn ở cái đất Mèo Vạc Miêu Vương này lạnh lẽo hoang vắng hay là bởi câu chuyện thương tâm đời người. Nhưng không phải đời người chỉ có nước mắt. Cũng vui, nhiều chuyện vui chứ. Cái người mà trong thư gửi theo giữa đường cho tôi, Nguyễn Tuân đã dặn hãy cố lượm nhặt được nhiều nhân sự để tái tạo. à ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.
Chúng Thị Phà người Tày, quê ở Tòng Bá. Còn nhớ đêm ấy, trên đường Phó Bảng xuống Hà Giang. Về thị xã thì quá khuya, mà nghỉ lại ở làng Đán nhà người Nùng, người Hoa đêm hôm đột ngột làm giật mình người ta e không tiện. ở đây gần Thập Đại Sơn, nhiều cánh cướp lẩn quất vùng biên giới. Chú lái xe của tỉnh đã thuộc từng gốc cây đường Đồng Văn, hỏi đùa: Hay ta ngủ lại quán mụ Tèo, ngay trước mặt kia kìa. Quán mụ Tèo chơ vơ lút trong cỏ tranh giữa Pác Xum và làng Đán. Tôi không lạ. Đã có một lần tôi đi xe hàng bị hỏng máy, bác tài phải nhờ xe về thị xã lấy đồ chữa, khách đợi có đến ba hôm. Tôi đã nghỉ ở nhà trọ mụ Tèo. Chú lái xe kể: Cái con mẹ Tèo như cột ki lô mét xi măng, mưa nắng thế nào cũng cứ trơ ra. Tôi biết quán này từ khi làm phụ xe, rồi phụ lái, rồi lái chính, cả chục năm nay mụ vẫn thế. Có xe qua, chẳng hỏng hóc cũng ỳ ra nằm lại. Lúc nào quán cũng có khách. Muỗi Pác Xum, hùm làng Đán cũng chẳng đuổi được những quân quỷ tha ma bắt cố tình lăn ra giữa hùm beo rắn rết, thổ phỉ bên Thập Đại Sơn sang mụ cũng chẳng coi vào đâu. Mụ Tèo chứa tất. Những quân tứ chiếng đã phiêu bạt lên nơi cuối đất cùng trời này đều thần nanh đỏ mỏ, cái mụ Síu ở Phó Bảng và mụ Tèo này. Thời trước mụ Tèo cũng là me, vợ một cai Tây đồn Quản Bạ.
Rồi chú tài lại nói: Mà thôi, đừng dính vào của nợ ấy, ta về Pác Xum cho thoải mái. Cung đường Pác Xum có nhà nghỉ, cô đội trưởng Phà cho ăn nghỉ tốt lắm, khách lỡ đường nửa đêm gà gáy cũng phải khen.
Nguyễn Tuân và tôi biết Chúng Thị Phà ở chuyến ấy. Đội lưu động của tổ trưởng Phà đương tu bổ lại quãng dốc Pác Xum. Năm sau lại gặp lại Chúng Thị Phà ngoài Thanh Thuỷ biên giới, sửa đường ô-tô Thanh Thuỷ sang huyện Thiên Bảo Trung Quốc.
Các cung đường heo hút, nhiều nơi công nhân rặt con gái. Toàn các cô quê Thái Bình, Nam Định lên. Nơi ở lán tựa vách đá, phên vách cũng treo gương ảnh hoa và tây đầm, chó, lâu đài cắt ở họa báo, dán loè loẹt như vách hiệu cắt tóc. Đường qua các vùng núi xa, chỉ thấy một cô công nhân người Tày này. Chúng Thị Phà quần áo chàm thắt lưng gọn gàng, chiếc khăn vuông kín đáo che nắng vẫn lộ đôi mắt sắc, khuôn mặt trắng nõn nà. Nguyễn Tuân lại nhắc tôi: Đề tài đây chứ đâu, mày phải viết đi, Tôi vẫn chưa khi nào theo được lời khuyên của đàn anh. Có thể vì chưa đủ xúc cảm, có thể vì sức nghĩ còn thấp hơn sự thật ngổn ngang. Có khi không muốn viết...
Sau lần gặp phà ở Thanh Thuỷ ngoài biên giới chúng tôi về uỷ ban tỉnh kể chuyện thành tích và tấm gương tháo vát của cô gái Tày làm đường Thế Kỳ, thường vụ tỉnh phụ trách tổ chức, tôi quen ở khoá học 1960-1961 trường Nguyễn ái Quốc. ít lâu sau, Chúng Thị Phà được tỉnh điều về làm cán bộ phụ nữ huyện. ấy thế mà vẫn lắm oan khiên, làng xóm đồn cô đã bỏ thuốc cho chồng ốm chết để được bay nhẩy. Phà buồn lắm. Nhưng rồi những lời thêu dệt đặt điều ấy cũng như gió bay đi...
Một lần nữa, tình cờ Nguyễn Tuân và tôi gặp lại Chúng Thị Phà trên đường vào Bắc Mê - cả ba lần đều không hẹn không đợi mà gặp. Chúng tôi lội qua một con suối, bước lên thấy trước mặt một cô gái Tày mở nón ra cười. Nguyễn Tuân reo to: A cô Phà? Cô Phà! Lại vui đùa lõm bõm mấy tiếng Tày giả cày: Mà lố! Mà lố! Về hả! Về hả? Nguyễn Tuân nắm tay Phà hỏi han như người thân lâu ngày mới gặp. Đi đâu vào đây? Bỏ cung đường, độ đường cho ai? Hồi ấy, chưa có đường xe vào Bắc Mê.
- Em vào Đường Âm công tác.
Chúng Thị Phà đã về huyện hội. Cô cán bộ phụ nữ vào công tác xã Đường Âm. Nguyễn Tuân còn cứ ghê ghê mãi vùng này lắm những chữ Đường Âm, Bắc Mê.
Tôi trở lại Hà Giang, vào nhà Phà ở bên Ngọc Đường. Các cơ quan tránh máy bay đã tản cả sang bên kia sông. Khuya mới trở ra được, cái rượu Dao ở Đường Âm say êm quá. Thì ra chồng cô ấy người Đường Âm cũng công tác ở huyện. Lúc chiều vào huyện đội hỏi thăm mấy cô văn phòng chẳng biết quê xuôi hay ở trên này, nói đùa trắng trợn: Chồng chị ấy hay ghen lắm, anh ạ. Bây giờ tôi hiểu là câu đùa yêu. Mấy ngày ở lại, anh ấy thật vui.
áp tết Nguyên Đán một ngày cuối năm đoàn đại biểu Hà Nội trưởng đoàn Nghiêm Chưởng Châu, Phó chủ tịch ủy ban thành phố lên thăm các chốt bộ đội biên giới huyện Vị Xuyên. Chúng Thị Phà đã là hội trưởng phụ nữ huyện (Và mới đây là đại biểu Quốc hội khoá 8 trong đoàn Hà Giang). Tôi kể lại với Nguyễn Tuân về chuyến đi. Nguyễn Tuân giọng ngà ngà: Có thể chứ, cuộc đời vẫn sông có khúc, người có lúc. Cái cô Phà ấy mà hay. Nguyễn Tuân cười, nhưng rồi như chợt nhớ, lại buồn buồn: Pác Xúm... Thanh Thuỷ... Bắc Mê... Đường Âm... Nghe cứ rờn rợn. Xa quá..

Chương V

Năm cùng tháng tận, tết nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng không biết bom đạn trên trời ập xuống lúc nào. Dáng ai cũng vội. Mưa bụi hơi nặng hạt. Tiếng pháo rải rác. Con chuột cống trụi hết lông trong rãnh nước lép nhép ra, gặp ánh điện lại lõm bõm thong thả quay vào. Ngày mùng một, những bộ quần áo mới và những người đẹp loé lên như nắng sớm. Kiểu áo Thái Lan vạt không viền gấu ngổ ngáo được các ông phó may đất Kẻ Chợ làm cho dịu đi, ưa mắt. Thì cái áo đại cán ở Thái Nguyên về chẳng ra sao mà đến Hà Nội cũng hoá nhũn nhặn, dễ trông. Chiếc chả giò Sài Gòn bé bằng ngón út mà ra đây hoá thành cái nem rán nhân cua bể, món ăn quốc tế. Chỉ những mái tóc xun xoăn lên như cô gái châu Phi thì hình như các tay thợ ngôi chịu, vẫn để nguyên mẫu thế trên đầu các cô gái đời mới.
Đêm công viên Thống Nhất. Đèn treo vòng qua mặt cầu quán Gió. Hoa cúc trắng trong bóng tối. Những quả quất đốm vàng nhấp nhoáng. Thoảng mùi thơm hoa hồng. Ôi, sao chưa vào xuân mà đã hồng hoa. Hay là cứ tưởng ra thế. Thành phố đường vắng vẻ thiên nhiên - hay là ở nơi đô hội người ta không để ý, mùi hoa, mùi đất, mùi lá và mùi gió mơ hồ thả xuống lòng đường, những sáng sớm vừa dứt mưa đêm. Trong lùm cây, ghế đá thì rõ ràng cảnh tất tả khác thường. Đôi trai gái xe đạp dựng, nón, ba lô, túi dết, chai dầu, nước mắm đeo túm sau yên. Vừa về tới, đã ngủ đêm trong thành phố, hay chốc nữa đạp ra làng sơ tán tận đâu.
Mới mùng bốn đã lao xao và gay gắt như mọi ngày trong năm. Mụ mắt cú vọ đứng sắp hàng mua cá bể muối từ Hải Phòng đưa lên đã đóng tảng trước quầy cửa chợ. Gần đến nơi, trỏ tay, hỏi. Cô nhà mậu lạnh lùng bảo cá bán theo phiếu cán bộ. Mụ quay ra giữa hè, mặt phừng lên, vô vô:
- Cha tiên nhân cái mặt này! Sao mày không đẻ ra cán bộ, chỉ đẻ ra thằng nhân dân! Cha tiên nhân...
Những câu chửi, cũng một câu chửi, câu thì mánh khóe té tát, câu thì khoe ý nhị, nhiều nhẽ. Bà ở quê ra chơi, cháu bé lon ton chạy tới, bà cười cười: Cha đẻ mẹ thằng cũn kia! Tối mùng sáu, ra ăn mở hàng cháo gà lão Chữ ngã sáu.
Năm mới, được ngày tốt, bác hàng cháo chỉ làm một ít bán lấy may. Khoảng mười giờ, nồi cạn đã sôi ục ục. Không thấy cái chú mọi khi lúi húi rửa bát ở chiếc bồn gỗ cạnh bếp lò quây miếng sắt tây. Thằng bé về quê ăn tết chưa ra à? Ông Chữ đương ngồi lau bát, ngước lên, cùi tay đấm lưng bùm bụp, rồi khoe khéo.
Cám ơn ông hỏi thăm. Bố đương ốm mà bỏ đi thanh niên xung phong, ông ạ. Vào tận mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên đấy. Cha tiên nhân nó, gần Tết gửi được cái thư về báo cáo gia đình đi có năm tháng đã được tiên tiến, bây giờ phụ trách C đấy, ông ạ. Ông bảo cái ngữ rửa bát chưa sạch thì phụ trách, phụ móc gì mà cũng nên cán bộ cán thuổng?
Ôi chao, cái câu chửi, câu phàn nàn mà âu yếm. Thành phố sôi nổi mà lại như lặng lẽ, khinh bạc, phớt đời. Lại đòn đánh mới, lại sắp bom, lại sơ tán, triệt để sơ tán. Lần nào cũng tưởng đã vợi hết người rồi vẫn cứ thấy trẻ con người già lốc nhốc ở đâu bò ra lắm thế. Đám tý nhau đeo ba lô, quảy túi lễ mễ trông đến thương - nhân đấy là mình nghĩ. Chúng nó bước lon ton, hớn hở, nghếch mắt ra vẻ ta đây.
Cái thói quen đêm giao thừa tụ hội nghe giọng sang của Đàm Mộng Hoàn, giọng đẹp Chu Thị Năm Tuổi ba mươi đã lại dư một vài... Tuổi năm mươi, tuổi sáu mươi... bảy mươi đã lại dư... Chiếc máy hát cũ hỏng đã lâu, cũng chẳng buồn chữa.
ừ đã lại dư... mà đã có người xuống mộ rồi. Ngoài hạ nêu, vào dịp bốn mươi chín ngày, đi Nam Định với Yến Lan, Bùi Hạnh Cẩn và Phạm Lê Văn viếng mộ Nguyễn Bính ở nghĩa trang thành phố. Chúng tôi đặt chiếc bia bên cạnh cái bia đã có. Thế là một mộ hai bia, nhưng chắc hôm đưa đám vào ba mươi áp tết ngày cùng tháng tận chẳng có mấy người. Thơ Nguyễn Bính, tình buồn mà cảnh đẹp, nhưng những luỹ tre xác xơ làng Thiện Vịnh, đồng chiêm ngập nước loi ngoi cỏ lẫn lúa xơ xác chẳng mảy may như trong thơ. Con trâu cày đồng sâu chỉ thấy hai lỗ mũi nghếch lên mặt nước. Không có rơm rạ, làng trồng cỏ tranh trên gò lấy cái lợp nhà. Gió ào ào qua rặng tre nghiến răng. Những thôn Đoài nhớ thôn Đông và đám rước quan trạng vinh qui qua làng Trang Nghiêm không phải dưới đất có được mà chắc là ở trên cao xanh đẹp đẽ xa kia.
Tôi mơ màng tưởng tượng và cũng thật tôi đương ngồi trong căn nhà ấy. Nếp nhà tranh một gian hai chái, cửa buông. Trước hiên, giàn đỗ ván đã quăn queo còn vương lại mấy quả khô đen như quả bồ kếp, thế mà mưa xuân đương độ phơi phới bay, vẫn nở như một đoá hoa tím ma quái. Mảnh sân đất ngoài đùn từng đống cứt giun và cạnh bờ rào thưa, hủm xuống một cái chuôm cạn. Cái ao cấy cần của nhà thơ. Mặt đất đáy ao, những khóm cần nhà ai đương lên xanh mởn.
Hỏi ra mới biết năm ấy nhà xuất bản Phổ Thông - nơi Trúc Đường làm việc, in truyện thơ dài Tiếng trống đêm xuân của Nguyễn Bính. Có tiền nhuận bút, nhà thơ nảy ra cái ngông về làng quê làm nhà, cái nhà đơn sơ như trong thơ xưa. Nhà tôi có một vườn dâu... Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần... Hoa đỗ ván nở mùa xuân. Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm... Rồi vợ chồng con cái Nguyễn Bính dời thành Nam, về làng. Chỉ ở được ít lâu, đôi bên lục đục, đánh chửi nhau, chăn bông xé đôi mỗi người đắp một nửa - báo Nam Hà trong mục thơ châm biếm đã có bài thơ mỉa mai. Rồi cái nhà này, cái sân đất, cái ao hệt như trong thơ, phải bán đi. Lại gồng gánh nhau ra phố ở. Buổi trưa ấy, tôi nghỉ nhờ bác chủ mới của nếp nhà ấy - một người làng. Nhìn cái cửa buồng, chiếc then tre treo lắc lư, nghe tiếng bụi tre đưa võng kẽo kẹt bên đầu hồi. Nhà tôi không bán vườn dâu. Tháng hai giàn đỗ bắt đầu ra hoa. Sang năm tôi phải về nhà. Đợi xem vườn đỗ ra hoa có nhằm? Trong tôi rỗng không chẳng một ý nghĩ, nhưng mắt thì rưng rưng. Tiếng tàu hoả về Phủ Lý đằng cuối cánh đồng thuốn hun hút vào giữa trưa, có lẽ canh khuya nghe còn thăm thẳm hơn.
Đêm về viết bài đi viếng bốn mươi chín ngày Nguyễn Bính cho đài phát thanh buổi gần nửa đêm gửi miền Nam báo tin buồn với bè bạn trong ấy - Nguyễn Bính đã lặn lội mười mấy năm trời ở thành, ở chiến khu, cũng là một đứa con miền Nam.
Các cửa hàng, phiếu thịt chỉ bán mỡ - mà hoạ hoằn mới có. Người đổ ra đường, suốt ngày nháo nhác sắp hàng, xếp hàng mua từ mớ rau đay. Bom đánh trên đầu, dưới đất thì kéo dài hàng như thế này, biết sẽ ra sao. Tôi ra nhận làm công tác trưởng khối phố, tôi đi xem xét các nhà thiếu đói để xin cứu tế cuối năm. Vào một nhà, chị ấy làm nghề y tá, chồng li dị. Ba mẹ con cả tháng ăn cháo quấy lẫn rau muống. Nửa phần gạo phiếu đã bán để thêm tiền chi tiêu và mua rau, mắm muối. Ba khổ mặt xanh rớt, sáu con mắt thì trong Tháng hai qua như cuốn đi, đôi lúc nhìn cây cỏ mới nhớ ra. Những cây xoan vẫn khẳng khiu. Cây táo còn sót lại trên cành những quả vàng, rung một cái, rụng lộp bộp lẫn với những giọt sương. Chiếc búp bàng đã dựng đứng như cái tai thỏ xanh. Tiếng con chim vành khuyên bay trong làn mưa mới nhè nhẹ nửa bụi nửa hạt. Hoa vông đỏ, màu gắt đỏ hoa vông, đông miếng tiết. Bụi mưa vân vân quanh người trên đường.
Đêm xuống rồi mà gió dải đồng còn thổi dài mặt hồ Hoàn Kiếm. ánh điện hẩng trong lòng tháp hắt ra trông thấy một chiếc thuyền thúng ghép bằng mảnh thiếc đủng đỉnh lượn quanh bờ cỏ tháp Rùa. Người trên thuyền, một bàn tay bơi, một tay thả xuống những cái ống đánh lươn. Hè phố Tràng Tiền, những viên gạch đã mòn trũng, trơ ra cái vỉa viền đá xanh, như con cá giơ xương. Khung cửa sổ trên gác im lặng trong cánh mành buông, một chiếc bóng nhìn ra, tay nâng cái chén. Chén chè ngon hay chén rượu một mình. Êm ả, tĩnh mạc, các cửa sổ ban đêm giữa thành phố phòng không như trong chuyện cổ tích.
Khuya rồi bỗng hiện ra một con quái vật của chiến tranh Việt Nam 1966. Một xác chiếc máy bay không người lái cụt mất một bên cánh, nằm trong thùng chiếc xe bò, một người cầm càng kéo đi. Thằng không người lái này ban chiều vừa lẻn vào tiếng nó réo lọng óc. Tự vệ quận Đống Đa đón lõng bằng đại liên, đã hạ nó rơi trên bờ đê, bây giờ xe vào đây. Cái lạc hậu tha cái tối tân lủi thủi lọc cọc trong đêm.
Cái nào đi với đặc điểm ấy trong thời chiến. Quán cà phê Miền Nam cạnh bệnh viện Mắt. Chủ vốn lái xe, áo xanh, tay nhọ, bàn ghế ngổn ngang trong cửa hàng tối hũ nút. Vợ chồng nhà quán cũng đen như bóng tối, hàng dọn lúc ở bờ hè, lúc vào trong nhà, chẳng khác cà phê đá nhạt thếch ở bến xe đi Nam Vang xế cửa chợ Bến Thành ngày trước. Cà phê Trần Hưng Đạo, một tay thương binh chán đời. Những người vắng mặt trong câu chuyện đều bị lão gọi bằng thằng. Khách hàng, áo ka ki đại cán bạc như khuôn mặt thờ ơ của những cán bộ bàn giấy các cơ quan quanh đấy. Cà phê Lâm chơi tranh trễ tràng, các thứ nam nữ cô bồi, cá chìm, họa sĩ nổi tiếng ngồi lẫn với thợ vẽ Bờ Hồ, những loại đú đởn học đòi, những cặn bã tự cho là nhất thiên hạ tới đây để rồi khoe tầng uống chịu của ông chủ cà phê chơi tem rồi chơi tranh và mua sách của các nhà văn túng thiếu đem gán nợ. Cà phê Lương, cà phê Lâm hàng Da thì đã tàn. Thế mà cái cà phê nhà mậu đường Điện Biên lại đương nổi, ngoài cửa xe đạp chồng đống. Chẳng ra gì mà đông như chọi gà. Mới biết bán hàng cốt có cái duyên. Nhưng dù sao, vẫn khác những quán cà phê nhợt nhạt ô Yên Phụ, chỉ được cái ngọt ấm mùi hoa xoan trước cửa. Anh cô bồi ngoắc ria mép gọi hai ấm chè. Mỗi lần lên hồ Tây, tôi đến uống suông chai bia Hữu nghị rồi ngồi nhìn xuống lưng đình Yên Phụ kề mặt hồ. Thế mà bận sau, cô hàng đầu ô vẫn nhớ mặt. Khách dị dạng một chút, đã dễ quen.
Đêm Nôen năm ấy, đi chơi với một người khách trẻ măng không biết tên và trong tối sáng nhấp nhem, cũng không hẳn tường mặt. Những ngọn đèn đường chỉ rình tắt, sắp báo động. Suốt chiều, chốc chốc tiếng loa: Máy bay địch cách Hà Nội sáu mươi ki lô mét... ba mươi ki lô mét... hai mươi ki lô mét... Khách trẻ trung, trắng trẻo vẻ búng ra sữa, giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, áo va rơi dạ mặc ngoài, mũ bông có tai ấm. Cũng như chúng tôi, cái bóng bù xù đi trong đêm đông lạnh. Nhưng mà khác chúng tôi.
Những bước thong thả trên đường khuya. Lúc này chỉ còn lại đám người vun quanh khu nhà thờ Hàng Trống và mấy cửa hàng Thuỷ Tạ, Phú Gia mở cửa trắng đêm đón người chơi Nôen. Đâu ai có thể tưởng cái anh chàng non tuổi ấy là một giặc lái bay cùng tốp với phi công Phạm Phú Quốc vượt vĩ tuyến ra đánh nông trường Tây Hiếu ở Nghệ An. Tin tức Sài Gòn tâng bốc rùm beng phi đội Việt Nam Cộng Hoà anh hùng đầu tiên ném bom miền Bắc. Nhưng câm miệng hến về chiếc máy bay rơi này.
Chúng tôi thường viết bài cho mục phát thanh của quân đội nói với thính giả miền Nam. Đọc tài liệu, giấy tờ bắt được ở chiến trường, trò chuyện với phi công tù binh Mỹ. Có lần, tôi vào làng La Cả uống rượu ăn thịt chó với đại tá Phạm Văn Đính, đại tá Vĩnh Phong - người hoàng tộc đã ra hàng quân giải phóng ở điểm cao Cồn Tiên Dốc Miếu. Hai sĩ quan hàng binh này sơ tán ở một nếp nhà tranh của quân đội ẩn trong lùm cây ổi cây nhãn giữa làng. Thỉnh thoảng, kéo nhau ra thị xã Hà Đông sắp hàng mua bia hơi. Có người đến thăm, khói bếp thịt chó nghi ngút cả ngày
Tôi cũng thường đọc trên đài một Thư Hà Nội gửi nhà văn Quan Sơn ở Sài Gòn. Chẳng mấy ai biết bút hiệu ấy của Doãn Quốc Sỹ ngày trước trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Doãn Quốc Sỹ người Cầu Giấy, gần làng tôi. Chúng tôi quen nhau khi mới cầm bút. Một trong những truyện ngắn đầu tiên của Doãn Quốc Sỹ, Đôi mắt của Hiền, cô Hiền ấy, con gái bác Tú Mỡ. Bức thư tình đăng báo mà rồi nên nhân duyên. Doãn Quốc Sỹ theo nhà vợ tản cư ra Bắc Giang ít lâu rồi vào Hà Nội, rồi di cư vào Nam. Báo chí và các nhà xuất bản ở Sài Gòn in sáng tác của Doãn Quốc Sỹ, lại biết Sỹ dạy học ở Hà Tiên, được tu nghiệp ở Mỹ mấy năm. Chẳng biết cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức còm ở một làng làm nghề dệt nghề giấy ngoại ô này không, tôi tin là không, thế mà Doãn Quốc Sỹ viết chửi cộng sản hăng thế. Chắc chẳng khi nào Doãn Quốc Sỹ nghe bài của tôi để biết đến những tiếng nói cùng quê của anh.
Cái cậu giặc lái trẻ tuổi này cũng là một tài liệu sống mà quân đội cho chúng tôi mượn. Anh ta gốc Hà Nội. Nhà Hoả Lò thả cho đi dạo phố đêm Nôen với chúng tôi. Đã hơi khuya, trở lại ngã sáu, ghé vào ông cà phê 81 một lúc đợi đến gần nửa đêm mới lững thững lên nhà thờ Hàng Trống.
Ngã sáu vẫn như mọi khi, những đêm vào mùa lạnh, mặt đường mênh mông ra trong ánh đèn thoi thóp quãng một. Những cây sữa trụi lá đứng trơ trỏng. Tôi chợt thấy thú vị nhận ra chưa phải mùa hoa sữa. Tôi không yêu, cũng chẳng ghét hoa sữa. Nhưng bạn bè thường chiều sở thích của Nguyễn Tuân, quên cái mình ưa hay không ưa. Nguyễn Tuân ghét hoa sữa, hoa dạ hương - những mùi đậm quá làm điếc mũi cả đêm. Chối của nào trời trao của ấy, ngay bên cửa sổ gác nhà Nguyễn Tuân, đến mùa, hoa sữa nở từng chùm trắng ngà nồng nàn buông mùi vào ngập cả phòng. Nguyễn Tuân bực bội không ngủ được, lúc nào cũng đóng cửa sổ về phía ấy. Một năm, cây sữa bị chặt, không biết vì mọi người kính trọng bác Nguyễn hay vì các hộ trong nhà thiếu củi đun.
Bỗng anh thanh niên giặc lái nói:
- Thưa bác, ở ngã ba quãng này có nhiều cây sữa. Cháu còn nhớ.
- Cây sữa bây giờ đã rụng lá. Như cây mùa đông bên châu Âu..
- Cháu còn nhớ, mỗi hôm đi học qua. Khi cháu học lái ở tận bên Mỹ vẫn còn ngửi thấy mùi, như cả đời học trò có mùi hoa sữa.
Nguyễn Tuân lặng im. Chắc vì không muốn nói như mọi khi tôi khó chịu cái mùi hoa sữa hắc lắm mà cậu học trò này đương nhớ mùi hoa thuở cắp sách. Chúng tôi ngồi xuống tấm ghế dài. Ông hàng nhô ra bên ngoài cái chụp đèn hoa kỳ. Vẫn ông 81, áo nâu lẫn bóng tối. Tôi tưởng ông đã đi sơ tán để đứa cháu nào nán lại trông hàng ~ giữ khách. Tôi hỏi:
- Ô! Ông công sứ Gotapphơi còn đây à?
- Thưa, vưỡn ạ. Khốn khổ, cháu đã chạy ra ngoài Vọng. Được ăn mấy trận no bom, mà không chết thế là lại quay về. Cái thằng Mỹ cũng trông gà hoá cuốc, cứ chỗ đồng không mông quạnh nào có cái lò gạch là nó choang bom. Chúng cháu lại ở nhờ cái xóm làm gạch, cả mấy cái lò đỏ ối. Chặp tối lúc nãy nó ném nghe gần lắm. ở đâu thế, chư ông?
- Chắc lại dưới cầu Giẽ.
- Sao bảo lễ Nôen thì nó cho bên đạo nghỉ - Cầu Giẽ, cầu Hàm Rồng, lúc nào ta cũng xe tàu tải đạn tải người vào Nam, nó im sao được Các họ đạo vùng cầu Giẽ phải lên lễ nhờ nhà thờ Hàng Trống. Chắc năm nay cũng thế. Ông cũng lại nên thu xếp, chỗ ngã bảy thế này không yên đâu.
- Nghĩ thế mà tôi chạy ra Vọng, mới hút chết.
- Thôi, ông ạ.
- Nhưng chỗ này thì yên sao. Tay cà phê Hoà vừa chết bom giữa phố Huế đấy.
Ông đặt cái khay trước mặt chúng tôi. - Chạy đâu cho khỏi số, hả ông? Cái năm thằng Mỹ thả bom Nhật, tôi ở ngõ Hàng Đũa sau ga Hàng Cỏ, bom rơi bốn phía, tôi đứng giữa. Lần này Mỹ bỏ bom tạ ở Vọng, tôi vẫn ở giữa. Hoá tam ba bận, Nam Tào Bắc Đẩu quáng mắt xoá hộ khẩu mình rồi, bây giờ chẳng đi đâu nữa cho nhọc!
Tôi không để ý. Có lẽ những chuyện tàu bay tàu bò thế này không thể làm khuây khoả được anh giặc lái trẻ tuổi. Anh trầm ngâm nhìn xa xa. Lúc đứng dậy, anh nói nhỏ:
- Nhà cháu trước ở đằng kia, cuối phố Công chúa Huyền Trân.
- Cậu có muốn nhìn lại nhà không?
- Cám ơn bác.
Chúng tôi thong thả ngược lên Bờ Hồ. Một lúc, anh nói một chuyện khác:
- Cháu trông ông cụ bán cà phê, không hiểu sao, cháu cứ ngỡ ông cụ ấy là ông Lý Thường Kiệt.
- Hay nhỉ!.
- Ông Lý Thường Kiệt chắc cũng có nước da bánh mật thế và ông đánh nhau đến già không thua trận nào, cụ cà phê cả đời bị bao nhiêu trận bom vẫn không việc gì.
Nguyễn Tuân cười:
- Mình chỉ thấy ông ấy giống cái pho tượng Nhịn ăn chùa Tây Phương. Ông lão quê mùa thế mà đã có mấy năm ăn chơi ở Pa ri đấy.
Mọi người đều cười. Cậu giặc cái chắc cũng chưa trông thấy ông phật gầy giơ xương trên chùa, thường được gọi là ông Nhịn ăn. Anh ta theo bố mẹ vào Nam từ lúc: mười tuổi, lớn lên sang Mỹ học nghề hàng không, trở về lái máy bay vận tải, rồi máy bay chiến đấu, lần đầu vượt giới tuyến. Tôi cũng chỉ chốc lát với anh ta đêm ấy, như đọc trang tài liệu, không biết tên mà cũng không bao giờ còn gặp lại.
Cái ông Nhịn ăn cà phê bít tất, bị hai đời máy bay Mỹ quần mấy trận mà vẫn trơ ra, ừ cũng có thể như tướng quân Lý Thường Kiệt, lại cũng như cái người nhịn ăn rồi thành phật. Ông lão đã trên tám mươi, mấy năm sau ông mất bệnh già, nhẹ nhàng như người đi ngủ. Ông có thằng cháu được sang học bên Tiệp, lấy vợ Tiệp và ở lại bên ấy. Thằng này chẳng thể biết đời ông nội nó lội bùn ở đồng chiêm lên Kẻ Chợ từ năm mười bốn tuổi, rồi làm bồi công sứ Gơrapphơi rồi cà phê ô lê, rồi cà phê bít tất... Anh trí thức mới lấy vợ Tiệp kia, làm sao anh tỏ rõ được ngọn nguồn cái nước An Nam, cái người An Nam Mít... Chao ôi, nói đâu ai, tôi đây tôi cũng không biết tên ông nội bà nội tôi và mù tịt các tên các cụ tổ tông nội ngoại nhà mình, mà tôi cũng chẳng khi nào áy náy cả.
Xế trưa, máy bay ném bom vùng ga Văn Điển. Cao xạ, tên lửa vi vút lên. Một thoáng, trời lại lặng yên trong xanh. Rồi tối đến, phố xá vẫn đông một tối chủ nhật giữa tháng lĩnh lương kỳ hai. Quanh Bờ Hồ và khu hàng Giầy bộn người. Cả mấy quán ăn đều hết chim quay. Cà phê Lâm, cà phê Ca không còn chỗ chen chân. Những cửa hàng thắp đèn dầu nhấp nhoáng. Lão khách béo chủ hiệu - như lão Sáng nhị mũi, và mấy cô chạy bàn vóc dáng mỡ màng phục phịch, vừa nhàn nhạt, vừa bong bóng. Những đôi mắt đưa đẩy óng ánh khác thường. Dường như không ai còn nhớ vừa mới chặp tối một cái máy bay không người lái dã lướt qua lưới cao xạ Ngã Tư Sở sang Phà Đen. Giống cái thằng xác máy bay đêm trước nằm trên xe bò người kéo lênh khênh qua phố Tràng Tiền? Nhưng thằng này bay thoát.
Mỗi buổi sáng, băn khoăn của những người còn ở lại thành phố: nó làm gì hôm nay? Đại khái vẫn đánh đấm thế, vẫn như thường ngày chăng. Người ta vừa khẩn trương, vừa lừ đừ. Cái chòi gác có mỗi khẩu súng trường trên đê Thượng Cát cũng chăm chăm ngước lên trời. Không thể nhận được ra mới hôm qua làng Ngọc Hồi bị bom rải thảm khắp xóm. Ngoài đồng đương gặt chiêm, ống chân lội xuống thụt nước, tay tóm cổ lúa từng bó cắt trên mặt bùn - lúa chiêm năm nay xấu, hạt vàng xám như răng sún. ở đầu công viên Thống Nhát, trường đại học kiểu kiến trúc hiện đại cao cao thanh nhẹ. Dọc mái bằng trên nóc, bốn ụ đất đắp to lù lù ghếch ra những khẩu trung liên của sinh viên trực chiến. Nhưng cái trận địa giả đầu làng Ninh Sở thì như trò trẻ rỡn. Giữa ruộng khoai tốt lá xanh eo éo, một bãi vuông vắn được rẫy cỏ như cái đầu cạo trọc nhẵn thín. Cả dàn ống tre bôi hắc ín đen nhánh ngóc đầu lên thành một dàn cao xạ nhiều nòng. Cuối bụi tre, hiên ngang một trận địa tên lửa. Bệ phóng đất thó gan gà nện được đắp cao, vàng choé. Giữa mặt phẳng đặt hai cây. chuối đã bóc bẹ nõn nà, bóng loáng như màu trắng thau vỏ tên lửa. Những trận địa trò chơi này bị choảng bom liên tiếp hàng ngày. Chiến tranh, liều lĩnh, tiếu lâm và thương tâm. Phố Yết Kiêu, quầy bán vé xe lửa, đám đông nhốn nháo sắp hàng đi sơ tán. Người đứng đợi, người nằm ngổn ngang. Một người đàn bà tựa cột đèn, mặt rầu rĩ, đăm chiêu giữa đám trẻ con lố nhố đợi bố mẹ mua vé tàu. Thoáng trông, không biết là mụ dở hơi, mà ngỡ một người yêu trẻ, đương trò chuyện rủ rỉ. Nhưng bọn trẻ thì bao giờ cũng khoái chơi với người điên. Một đứa quát khẽ: Giơ tay lên! Cả bọn trố mắt nhìn kết quả cái mệnh lệnh. Người đàn bà khổ sở từ từ giơ tay. Có đứa nói: Bỏ tay xuống. Mụ uể oải để rơi hai tay. - Cười đi? Người đàn bà ngước hai con mắt nhờ nhếch rồi nhếch mép tự dưng cười mếu máo. - Không phải! Đây là mếu. Cười đi? Cười đi!. Người đàn bà điên lại nhe hàm răng cải mả, nhăn nhó. Đám trẻ con và người điên cứ quanh quẩn chơi hiền lành bên chỗ sắp hàng lấy vé.
Bỗng dưng, một bác râu quai nón xồm xoàm như Trương Phi, áo cánh rách sã cả hai vai, không biết ở đâu đi ra. Hai tay hề chèo múa lên, vừa hơi vừa đế, lại vừa trống mõ... Bung bung nhóc... bung nhóc... tất cả ở cái miệng, con mắt và bộ râu đều làm chèo.
- Bớ quan viên làng nước, lệnh sức mỗi đình làng: rơm một bó, cỏ một gông, vải hồng để đi rước quan huyện nhá?
Tiếng đế khàn khàn:
- Tháng tư ngày tám, lấy đâu ra rơm?
Hề mõ:
- Thế nhà mày không có rơm ổ chó à?
Đột nhiên, bác rậm râu lùi lúi, nhớn nhác, như trông thấy quan huyện đương khệnh khạng bước tới. Bác nói thầm thì:
- Quan đã ra? Quan đã ra?
Rồi thét to thật lực:
- Nhà ai có gà thì nhốt lại nhá! Nhốt lại nhá!
Bọn trẻ con nọ cười rầm lên xúm sang bác lên cơn rồ hát chèo. Cũng chẳng biết là bác dở người hay là người vui tính thích đùa. Thành phố túi bụi bom đạn đình đoàng tối ngày, sao vẫn lắm người ngẩn ngơ, người chập mạch bông lơn đến thế. Những cành khế lúc líu chùm quả, quả mẹ quả con vàng khé bíu vào nhau thành chuỗi. Đêm mưa rào, sáng ra, cây ngâu đầu hè đổi màu lá xanh đậm. Hoa ngâu, hoa móng rồng chín trong nắng sớm thơm nồng nàn. Thường có mưa thì hoa rữa, nhưng những chấm hoa ngâu được mưa lại vàng ròn.
Trên lan can, cửa gác các nhà dọc phố, củi đuốc ghếch từng thanh, từng bó. Mỗi que củi bây giờ cơ hồ được nâng niu như phong lan và chim yến. Các báo hô hào đun than, nhưng nào biết mua than ở đâu. Mỗi tháng, may ra mới xách được về vài cân củi phiếu. Nhà có trẻ nghịch ngợm leo trèo bẻ cành cây khô bờ hè thì lúc nào cũng sẵn củi lửa đun. Đàn ông đâm ra đun bếp khéo, đến tôi mà cũng thổi cơm được bằng giấy má sách báo vơ ở cơ quan về.
Kho xăng Đức Giang bị ném bom lúc xế trưa. Máy bay nhào xuống, một chiếc trúng đạn lết ngược vào thành phố, rơi xuống vườn chùa Thông làng Mọc - cái chùa mà hai mươi năm trước, ở báo Cứu Quốc, tối tối tôi ra ngủ đấy, đề phòng Tây đánh úp Hà Nội ban đêm. Cột khói bốc gồ lên hình nấm, đen đặc, lan ra một dải mây thành chắn ngang chân trời. Chặp tối, tôi đạp xe ở lớp dạy viết văn sơ tán bên Thi Xá huyện Quế Võ về qua, nhìn lại còn thấy sáng rực bên kia cầu Long Biên. Hà Nội vẫn lờ lững nửa hốt hoảng, nửa như không. Các chợ họp từ bốn giờ tới tám giờ sáng và mở lúc chặp tối. Tin đồn thiếu tá Mạc Kên lái máy bay Rase, bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch, khai rằng Mỹ đã định ném bom huỷ nhà máy điện Yên Phụ và cầu Long Biên. Những người ở trên bờ sông và các phố đầu cầu quanh Hàng Than ban ngày chạy tránh xuống phía chợ Hôm. Nhưng đến hôm giữa phố Huế chợ Hôm bị trận bom đổ mấy toà nhà chết nhiều người thì chẳng biết rồi chạy đi đâu.
Kho Đức Giang chồng đống những thùng đựng xăng cháy đỏ hắt. Ngoài bờ rào, ruộng lúa mới cấy mạ đã bén rễ xanh rờn. Những người đàn bà lúi húi cắt cỏ. Một người đàn ông đặt thúng thóc trên đầu gối, vung tay gieo hạt, hạt lúa giống vãi xuống mặt ruộng xâm xấp còn sóng sánh đường bừa. Chú bé kia nằm trên lưng trâu giữa bãi cỏ, hai chân cong như móc câu, mắt lơ đãng nhìn ra đường. Những người dừng xe đạp Phượng Hoàng, xe Mipha cười nói tíu tít. Xa xa, hai vế gầu sòng tát nước nhô lên thủng thỉnh đưa đi đưa lại. Trận bom dữ dội cháy kho xăng trước mặt đã ra chuyện hôm qua, hôm xưa.
Bom đạn lẫn lộn với công việc làm ăn nhẫn nại đến khủng khiếp. Trên dọc đê, những khẩu súng trường và trung liên đầu cầu Đuống đã được thay bằng những khẩu đại liên ba nòng. Đơn vị đến nhận trận địa mới, bộ đội đương đứng ăn cơm. Nhưng cạnh ụ súng lớn vẫn nhô lên hai mô đất nhỏ, thò hai đầu ruồi khẩu súng trường của tổ dân quân trong làng ra trực chiến. Hai cô gái - hình như được cắt tua ngày nữ đêm nam, mỗi buổi được ăn mười công điểm hợp tác xã. Sông Hồng báo động số 3, nước chảy réo quanh chân cầu, xoáy tròn từ chân tre ra, xôn xao, đỏ xuộm. Lũ tháng sáu dềnh lên to quá. Bờ rào cây vông ngập, lá héo to bằng chiếc quạt nan rụng vàng mặt sóng. Nước vào ngập lưng vách. Những đàn gà và lợn con trốn lên nóc nhà kêu tán loạn. Bốn phía xám ngắt rồi tối ụp xuống, tiếng ngũ liên hộ đê chống tràn thúc suốt sáng như xưa trống báo cướp. Những ngôi nhà hai tầng dưới bãi - mà ngày trước không ai dám xây, nước chảy ngang cửa sổ. Người chạy nước lên phố dựng lều suốt vỉa hè bờ sông vào quanh nhà hát lớn. Khói bếp u ám như đốt rác tẩy uế. Những người đàn bà mặt vàng nghệ, bồng con ru ời ời. Chạy lụt năm nào cũng thế. Chỉ khác, mấy năm nay, phải lo cả giặc trời.
Còi báo động rợn mặt sóng. Một vệt khói đỏ tên lửa ngoằng lên trong tiếng nổ. Chiếc máy bay bỗng chằng chịt khói như một cuộn thừng trắng, lại một chiếc không người lái rơi xuống giữa sông Cái. Thế mà quán bia Chuồng Cọp bên hồ Thuyền Cuông vẫn người xếp rồng rắn quanh hàng lan can sắt suốt ngày đến chặp tối. Chỉ có những quán bia bán giờ giấc ngoài luật lệ phòng không. Người ta uống bia cho đến lúc trông lên không nhận ra ánh sao hay sáng điện lóng lánh giắt trên lá cây đề. Mùi sen thơm thoảng - lứa hoa cuối vụ, lẫn mùi lá sen già, không còn ngát như sen đầu mùa. Nhưng quái, đã lâu hồ này thả cá mè, có trồng sen nữa đâu. Thế mà rõ ràng mùi sen. Lạ nhỉ. Uống vại bia xong cũng không biết hết báo động chưa. Thế thì chắc lại mơ màng mùi sen mùa hạ trước rồi.
Một chuyến xe lửa toa lộ thiên vào cầu Long Biên. Trên sàn tàu những gióng bệ phóng xếp một chồng cao. Cánh tên lửa nghênh ngang vướng thành đầu cầu phải cho lên tàu hoả mới đưa nổi qua sông Cái. Những chú bộ đội xinh xẻo như học trò tan học đứng chỉ trỏ xuống lòng đường phố Hàng Giấy. Hẳn đương đoán nhà mình chỗ kia, chỗ kia. Cạnh các ống đạn buộc những bu gà, những rọ lợn, một dãy quả đu đủ, buồng chuối xanh, các đồ ăn thức đựng loi thoi khi chuyển quân. Một con chó xích tự nhiên cong cổ sủa ngẩn ngơ lẫn tiếng bánh tàu nghiến ken két, khi tàu chui qua chỗ nóc cầu bị bom xập.
Chợ Bắc Qua đông nghịt suốt đêm, đến chớm ban mai thì tan. Vẫn cái chợ đổi vai mùa nào thức ấy, hành tỏi, khoai sọ, cà chua, rau cải, củ cải bên Bắc sang bán mớ ở chợ này để người buôn đường ngắn tải xuống chợ Châu Long, chợ Hôm, chợ Hàng Bè và các chợ xanh, chợ cóc góc phố.
Trời sáng ra thì chợ Bắc Qua tan biến hết người, như chợ ma.
Có tiếng gọi giật. Tôi quay đầu lại. Anh Sổ, chủ nhiệm hợp tác xã trong Bật. Sau xe đạp đèo những bó cải củ cao có ngọn. Hẳn là Sổ ra Bắc Qua bán vải quả hay bắp cải, dưa hồng đêm qua bây giờ tải rau về. Nhưng phía Hà Đông thiếu đâu chợ đổi vai, chợ xanh, chợ ngã tư mà phải lần mò ra đây.
- Đi đâu thế?
- Hôm qua em ra tỉnh có việc, quá chân đến đây mua ít cải về làm dưa thôi.
- Mua rau à? Rõ chở củi về rừng?
- Cải bên Bắc lắm búp, lại rẻ hơn cái cải chết rét quê em.
Chúng tôi vào một hàng nước. Sáng rồi, quán đương dọn về, nhưng có khách, cũng không vội. Ông hàng cứ tự nhiên lấy cái phun nhựa ra rót hai chén nước trắng. Bảnh mắt, uống rượu súc miệng, hay thật. Chợ Bắc Qua tỉnh ngủ cả đêm, có lẽ nhờ cái thứ nước này. Cái anh Sổ du kích trông như người bổ củi thuê. Nếu xách chiếc rìu qua phố, thế nào cũng có nhà gọi ông Thạch Sanh, Trước kia ở vùng tề, du kích Sổ đã thủ tiêu người táo tợn lắm. Sổ đóng quần áo rằn ri giả lính dù vào nhà thổ phố Vân Đình, nã thủng màn chết cả thằng Tây với con nhà thổ. Sổ mặc váy bà già đi chợ, bất chợt tốc váy lên, thò khẩu súng trường cưa báng ra lia ngã gục quan ba đồn giữa cầu chợ. Một mật thám ngoài Hà Nội hay về dò la, Sổ tìm biết nhà nó ở Khâm Thiên. Sổ ra tận nơi, bắt sống ban ngày điệu về chém ở cánh đồng Tía. Cấp trên cho lệnh thi hành án chánh tổng Canh Hoạch. Ngày giỗ bố chánh tổng, Sổ giả làm dõng đi hầu. Các quan khách lũ lượt, chỉnh tề tới ăn cỗ. Đột nhiên, Sổ bước vào vung dao bầu lia đứt cổ chánh tổng. Cái người cụt đầu máu phun, nhảy chồm chồm như con ếch - Sổ đã hiền lành cười hềnh hệch kể lại những câu chuyện ghê gớm như thế. Còn bây giờ thì:
- Ông ạ, tiện tay em mua vơ ít cải, chứ em ra đây cốt đòi nợ. Có một thằng ở phố Nhà Chung về chợ Đình rủ người đặt tiền mua than. Mình ngỡ nó tử tế, cũng đóng cọc một ít. Nó lặn biệt tăm. Mất không bao lăm, nhưng mà tức. Trốn thế nào được ạ, lên giời em cũng nắm cẳng lôi xuống. Hôm qua em ra tận nhà, tẩn cho một trận lòi tù và cả nhà nó lạy như tế sao, phải nhả tiền ra trả ngay tắp lự. Kìa, mời ông chén nước sớm. Ông đi đâu lên đây?
Sổ đã cho nó một trận lòi tù và thế nào không biết, nhưng tôi hỏi:
- Nó đi lừa mà để cho người ta biết nhà à?
- Che mắt đâu được thằng du kích tám năm này? ối lại báo động...
Rồi Sổ cười hô hố.
Cục địch vận quân đội đưa Nguyễn Tuân một tập nhật ký lấy được của một lính ngụy chết ở trận Đèo Nhông tháng ba 1965. Một quyển sổ nhỏ, tôi chép lại làm tài liệu về cuộc chiến tranh muôn mặt. Trang đầu nắn nót mấy dòng: Nhật ký đời tôi (trong những ngày nghĩa vụ quân dịch, kỷ niệm một đêm mưa ở trại Trương Tân Bửu 1/8/1964 - 24/6 Giáp Thìn - Nguyễn ích Tắc, số quân 104.229).
Tờ cuối ghi mấy trang những con số chi tiêu: Kim chỉ 3 đ. Sửa bộ quần áo vàng 80 đ. Sửa cái quần trận 30 đ. Mua một mũ vàng 45 đ. Mua cái gương đeo mắt 75 đ. Mua một ca, một muỗng 10 đ. Hai ngòm nguyên tử 16 đ. Bộ chìa khoá 20đ. Sắn dây xích 15 đ. Giặt bộ áo quan 7 đ. Hớt tóc 17 đ. Kem đánh răng 10 đ. Giấy và bì 5 đ. Chụp ảnh 65 đ.
Tập nhật ký của một con người vốn làm ruộng trong làng mà thật chịu khó ghi liền từng ngày, từ hôm đi quân dịch đến ngày chết trận.
Đây là những ngày cuối cùng.
15/1 - Một đời binh ngũ, suốt đời lưng mang ba lô, vai mang khẩu súng, ngày ngày đi qua những con đường bị bắn tỉa đạn veo veo trên đầu, nghe mà tái nước da.
20/1 - Đi qua quán lúc 9 giờ, biết thế nào nó cũng bắn tỉa, lúc hai đứa chạy qua một khoảng trống bị nó bắn 6 viên. 3 viên bay dưới chân, 3 viên trên đầu, mình chạy đại vào trong một cái nhà.
24/1 - Hành quân bằng phi cơ trực thăng, tưởng đi qua Qui Nhơn ứng chiến thì cũng là đỡ khổ, có nhiều bạn mang rađiô đi sửa, nhưng máy bay chỉ qua một cái eo biển và đỗ lại một cái làng hiu quạnh không một bóng người. Thế là mộng về Qui Nhơn bị vỡ.
31/1 - Vừa rồi, nó bò vào ném lựu đạn, nhưng may quá, không ai bị. Thế là nằm trong nhà cả ngày đi đâu cũng không được. Như chim lồng cá chậu, ra một bước cũng sợ không biết nó bên lưng lúc nào. Đêm gác hai giờ đồng hồ xanh mặt.
31/1 - Tết đến, người ta vui vẻ đón quân còn mình sống trong tình trạng cắm trại và báo động, mình nằm ở cái trường Toàn Mỹ, đồng bào sợ tản cư hệt, mình luẩn quẩn trong cái trường không dám đi ra ngoài nửa bước.
Lại một quyển nhật ký khác lấy được ở mặt trận Plâyme tháng mười 1965. Cũng chép ra sổ tay này làm tài liệu đời người. Một sinh viên quân dịch, trang in chữ Pháp, được điền vào: tên, bí danh, nghề, địa chỉ riêng, địa chỉ liên lạc, số điện thoại, khi cần báo tin cho... Đã ghi: Svsph Hoàng Quang Hiểu 151 Trần Quí Cáp, Sài Gòn, 71 Hoàng Diệu Đà Lạt. Mặt trang sau dán một ảnh người con gái tóc uốn, mặt trái xoan, gò má cao, mắt một mí, môi thưỡn khêu gợi, áo dài trắng. Sau tấm ảnh viết hàng chữ: Bán mình cho Mỹ! Hoàng Quang Hiểu bị chết ở Pleime khi trung đoàn 40 sư 23 của Hiểu đi tiếp viện. Có lẽ cũng vào những ngày gần tết:
17/12 - Bận rộn vì phải đặt kế hoạch hành quân ngày mai. Ban 3 chỉ có mệt vào những lúc như lúc này.
18/12 - ở đây gần biên giới. Dân cư ít ỏi. Vài cái quán. Vài mái nhà. Chiều chiều nhìn đàn vlt giới bay về tổ xa xa nơi chân trời, mình có một nỗi buồn day dứt.
23/12 - Có cảm tưởng rằng mọi người quên mình có mặt trên trái đất này.
24/12 - Đêm nay là Nôen. Đi săn kiếm thịt về ăn réveillon (*) (*Tiếng Pháp: bữa ăn đêm như giao thừa) được 4 con heo rừng. Cả đại đội tưng bừng nhậu nhẹt. Ngủ ngon vì quá say.
25/12 - Được phép về Pleiku. Sướng quá. Lại được bạc!
26/12 - Chiều, cờ bạc lại thắng..
Chủ nhật 27/12 - Suốt ngày cờ bạc, toàn là thắng. Tối đi nhậu với Trọng, ghé Phượng Hoàng, nhảy vài bản với Quỳnh.
29/12 - Đi chơi với Trọng, đánh bạc và nhảy với Quỳnh. Pleiku ăn chơi bốn mùa chỉ có thế.
30/12 - Còn đúng 400 đ. Hôm nay không đánh bạc, ở nhà ngủ. Tối đi chơi với Trọng và Mai. Đi chơi đêm chót với chúng nó rồi mai về rừng.
31/12 - Ngày cuối năm dương lịch. Nhưng mình cảm thấy cái buồn của một đêm trừ tịch ở một nơi xa vắng với cảnh núi rừng buồn tẻ. Trong lúc đó ở một nơi khác, thiên hạ đương mở sâm banh vui cười để từ bỏ một năm cũ, đón một năm mới. Không hiểu rồi đây đến cái ngày xum họp gia đình sắp đến của người Việt Nam, mình còn có phải hưởng cái cảnh xa vắng này nữa không? Đời nhà binh không thể nói trước được. Sau một tuần vui tạm bợ ở Pleiku, mình về đây càng thấy chán chường hơn.
Mong rằng Tết này được về thăm gia đình. Thôi giã từ năm cũ và hân hoan đón tất niên.
Dĩ vãng dẹp qua một bên...
(Tập nhật ký đến đây bỏ lại hơn 50 trang giấy trắng. Một số địa chỉ ghi ở bìa sau: Nguyễn Thị Thu Thuỷ 23 Nhà Chung - Đà Lạt, Nguyễn Thị Oanh 58 Lê Lợi - Sài Gòn (số điện thoại ds 20011 xin 40683). Cô Bích Hảo 61 Phan Bội Châu - Huế. Cô Trang Thiên Thu 104/5 Nguyễn Thái Học - Gia Định. Chuẩn uý Trương Văn Hữu, lưu trữ bưu điện Phú Vinh, Vĩnh Bình).
***
Đêm nay Hà Nội lại giao thừa.
Chặp tối, năm hết tết đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách 40 ki lô mét... máy bay địch 20 ki lô mét... trong cái thành phố thương tâm bất cần đời này, cái tết mơ ước vẫn đến như từ bao nhiêu năm qua. Tối rồi, vô khối xe đạp còn hối hả đi mua hoa - những bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ sau cùng.
Cả ngày ba mươi tấp nập. Trở trời, cá úi quẫy như đánh sóng trên mặt nước. ở hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu trẻ con vớt cá từng xâu. Từ gà gáy, người ùa ra ven hồ. Gậy, xiên sắt, túi, chậu... Tảng sáng, đám đông quanh hồ chen chân lẫn với công an và những người canh cá. Không ai bẻ cần câu, thu vó, đuổi người xúc, người câu ném như mọi khi. Mặt dầu, đã thành thói quen, túm được một con cá mè ranh, trẻ con lại len lét chạy ra xa. Quanh hồ, đông đến trưa. Được cá trời cho tất niên mà, ai cũng xoa xuê, vui vui. Rồi từ từ đêm giao thừa về. Hai cô bé tóc buông xoã vừa đi vừa hát ven hồ. Mùa xuân đã trở lại sao? Nửa đêm, người đi chơi đổ ra đông như hội. Trời rét cóng mà các quán bia hơi, bia chai sáng đèn suốt đêm. Mặt bàn lênh láng bia như tuyết tan. Nhiều người nước ngoài lẫn lộn giữa đám đông. Những người Cu Ba da màu vừa nhảy múa vừa vỗ trống. Có thể, họ là bộ đội pháo cao xạ hay tên lửa rời trận địa ra, vui nhộn đến thế. Hôm cuối năm, đi tảo mộ ở Văn Điển trông thấy sáu ngôi mộ xây, để tên các liệt sĩ Cu Ba.
Uống bia trước ga Hàng Cỏ. Những chuyến tàu cuối cùng lúc chặp tối đã tải hết những đoàn người về quê ăn tết, hôm qua hôm kia còn nằm ngồi chờ đợi chồng đống các phố quanh đấy tưởng chừng không thể vơi đi được. Thế nhưng trong nhà ga vẫn nhốn nháo người, những cô hồn lang thang và gái điếm không biết có giao thừa. à cái lão Vinh làm vườn và quét vôi bệnh viện ở độc thân trong ngõ phố vẫn giặt xi líp, nịt vú cho bọn này đây. Buồng lão, từ gầm giường ra, lổn nhổn bô ỉa đái và bột màu quét tường lấy cắp ở cơ quan. Trên dây dợ chăng ngang dọc khắp nhà phơi những miếng quần xanh đỏ gớm chết của gái làng chơi. Ai manh mối cho lão già cái việc kiếm tiền khốn nạn ấy. Lão một thân một mình, đến nỗi nào. Hôm đến kiểm tra, hỏi lão, lão ngồi câm như thóc. Người ta nói như đùa không phải lão Vinh túng bấn đâu, lão phải gió ấy nghiện hơi đồ lót của đàn bà.
Có lẽ đêm nay yên. Trên sân ga, mấy con đĩ rỗi hơi lại say rượu đương cong cớn tranh nhau xỉa xói, kể lể mắng tưởng tượng cái thằng giặc lái Mỹ đứng trước mặt. Quân chó má kia, mày đã cắn trộm quanh năm rồi, cũng phải nghỉ bom cho người ta thong thả nuốt được cái Tết chứ. Xung quanh, đèn thành phố vẫn tù mù thế, mà như tươi tỉnh hẳn. Mới chiều qua, máy bay vun vút lao vào như những con cá chuối bay. Hơi bom phần phật rung cửa hầm, tiếng súng và tên lửa khạc rền rĩ. Người dồn vào quán bán bia. ở Hàng Khay đông ních. Dân bợm bia thấy trú ẩn ở chỗ nhà bia an toàn quá. Có hơi bia, coi thằng đánh bom là cái đinh? Mãi chặp tối còn nổ ầm ầm, hàng bia phía Tràng Thi đã lên cái đèn dầu lom đom. Những vại bia và mặt người không biết mồ hôi hay hơi bia nhễ nhại.
Các nhà ở đầu cầu Long Biên hàng ngày chạy xuống phố Huế ẩn bị ăn bom dưới ấy. Nhưng mới bị hôm qua, bây giờ đi qua phố Huế đã khó nhận ra cảnh tàn phá thế nào giữa cái phố lúc nhúc những nhà những người.
Cây xà cừ mới trồng còn khoanh đất đỏ trên vỉa hè cháy chết đứng. Mặt đường nhựa lỗ chỗ, nham nhở lất bom bi. Cột đèn và đường ray xe điện bật lên oằn queo vỏ đỗ. Một ngôi nhà ba tầng đỏ ụp cắn chân tường thành một gò vôi gạch, mảng xi măng. Cả phòng thương nghiệp, phòng giáo dục khu và lão cà phê Hoà chết vùi trong đống vụn vỡ ấy. Lão Hoà từ ngày vào làm mậu dịch đứng bán giải khát ở quán Gió ngoài công viên. Tự dưng xin về phòng làm chân chạy giấy cho nhàn. Tội nghiệp, đâm ra chết! Những bó hương vẫn nghi ngút, mùi hương, mùi long não dầu xả vừa nhức mũi vừa lạnh lẽo hơi đám ma. Nhiều người còn đương dỡ những tảng vôi gạch hoen máu đen sạm. Sau vì tường đổ, nhà hai bên phố vẫn hầu như mọi khi. Trẻ con đùa nhau ngoài vỉa hè. Cửa hàng chữa đồng hồ lấp lánh ánh điện dưới cái chao đèn úp. Một ông lão gầy leo kheo đeo kính ngồi trên gác đọc sách trong cái cửa sổ toang hoác đã băng mất cả hai cánh. Tôi ngồi vào ghế ông cắt tóc. Cái đinh treo mảnh gương lên gốc cây sữa. Câu chuyện rả rích trong tiếng kéo tí tách. Bình tĩnh, bình tĩnh, ông nhỉ? Bom xuống đâu thì đấy bị, phải không ông?
Tôi biết đáp lại thế nào là phải cái triết lý ông thợ cúp cứ sống sờ sờ nhãn tiền quanh đấy. Quãng phố phải bom như con thằn lằn bị cụp đuôi. Xưởng tiện - bên kia lại mới xe về một đống vỏ phuy ét xăng dầu nhờn, chẳng khác những quả bom tạ, bom tấn chưa nổ. Nhưng đấy là những thùng xăng phụ máy bay đeo ngoài cánh. Trong nhà, bàn tiện quay xè xè. Những miếng đuy ra vỏ thùng được cắt khéo thành cái lược, hình tháp Rùa, chùa Một Cột - công nghệ tặng phẩm đem kỷ niệm khách nước ngoài làm bằng xác máy bay địch. Ngay ngã tư, các chợ cóc vẫn la liệt những chậu rau muống chẻ ngâm nước, những thúng cua đồng chát đất cho nặng cân ở ngoài ô vừa vào. Trên thùng chiếc xe tải mới đỗ, các ông tài ông ét dỡ củi xuống chất làm bếp thổi cơm chiều ngay trước hè ngôi nhà đổ. Đằng kia lại có hàng bia mới mở, trên những thùng bia chất như lợn con căng lên cái dù ni lông đỏ - như bãi biển Sầm Sơn mọc giữa thành phố - dù đỏ ấy của máy bay Mỹ thả quân dụng và biệt kích. Những bối rối trước mắt, không biết đương trận mạc hay đương bình thường, lộn xộn cái buồn thảm với cái cười. Cửa trong bán rượu, người xúm đông như ngoài hè bán bia. Rượu phiếu, môi người được mua nửa lít. Tay đưa phiếu kèm tiền ẩn qua cái lỗ vuông, bàn chân sắp hàng nhích dần vào với cái túi xách đen nhẻm ấy là chân người mua và túi đựng chai rượu - những khuôn mặt bự rự, lìm lịm. Mấy chú tí nhau và những ông Tàu dởm bán lạc ngọt, lạc mặn trước hàng bia đã kéo đến, đương tranh nhau chỗ ngồi. Cái thùng sắt tây đựng lạc treo trước ngực như chiếc đàn phong cầm - phong cầm lạc rang. Ông Tàu bán phá xa mặt nghiêm như Tưởng Giới Thạch, bộ ria quai nón, đầu quả táo, bắp tay rám đen, chỉ cái dáng ấy cũng toả ra sự kiên nhẫn chịu đựng của con người. Nắng hoe hoe đã tắt trên ngọn cây sữa, tiếng loa trong cái thúng bằng tôn úp treo trên giữa lòng đường... máy bay địch cách... rồi còi báo động lại vi vút từng đợt dài... Nhưng quanh chỗ phố Huế mới bị bom, mọi sự hồ như thản nhiên.
Suốt hôm qua, hôm kia - đã bốn hôm, máy bay vào quấy đảo loạn trời. Chiều, đánh sân bay Nội Bài, sáng sớm lại bom lại. Cầu Long Biên gãy ba nhịp từ phía Gia Lâm sang. Đòn hiểm, địch diệt những nhịp cầu giữa luồng nước sâu. Nhưng ngay trong đêm, đường sắt được chữa lại, những dòng cầu gãy như mái che vẫn để nguyên chỉ vừa lỗ cho con tàu chui qua. Thoáng thấy, tưởng cầu sụp thật thì những đoàn tàu chở khách và chở súng cao xạ, tên lửa vẫn chạy suốt đêm. Cái cầu giả chết lúc nào cũng như ngái ngủ. Bom bi như mưa rơi xuống phố Mới, phố Hàng Vôi, cửa đền bà Kiệu. Hai đứa trẻ núp trên cành đa cạnh đền, bom bi nổ móc lòi ruột. Những phát tên lửa pun pớp thuốn chảy thép lao xuống cạnh chỗ rửa rau vo gạo buổi chiều phố Trần Quốc Toản, phố Lý Quốc Sư. Vòi nước vẫn ri rỉ chảy, rá gạo và những bó rau muống chơ vơ không có người. Trong làng Giá, hôm nay Sửu nhập ngũ. Nó đeo theo cái giỏ, trong có mảnh ni lông xanh, túi bút và hộp thuốc màu. Ba hôm, xóm giềng họ hàng tới chơi. Bố Sửu trải thêm cái chiếu ngoài hiên, đặt rổ giầu vỏ ra đấy. Hôm qua đem phiếu đến cửa hàng mậu dịch lấy hai cân thịt, đặt một cỗ lòng. Hai vò rượu cất bên Sấu đem sang. Một mâm tiên thường mời các cụ dưới âm về tiễn cháu, người trên trần thì đánh chén tới khuya. Hôm nay giết hai gà, mâm cúng trên bàn thờ và đặt cả ngoài cây hương.
Hội trường giao quân ở sân phơi hợp tác. Người các xóm kéo đến từ sáng. Mấy chõng hàng nước chè tươi, thuốc lá cuốn đã bày ra. Cả huyện lấy con số tròn năm trăm. Thêm mười lăm nữ tình nguyện. Mỗi đám bước ra, những vòng người hai bên lô xô nói: Đi nhé? Đi mạnh khoẻ nhé! Đi dăm bảy tháng thống nhất thì về nhé. Những chú lính mới bước nhanh như lướt. Có người đeo sẵn hai cái bu trong để viên gạch chỉ đem đến nơi tập đeo vác vượt Trường Sơn. Đi qua rồi quay lại nói to: Nào đi xẻo ít thịt Mỹ về xào. Đám con gái cười ré lên: Không ăn đâu, không ăn đâu.
- Chỉ đợt này nữa đến thống nhất thôi.
- Xem khí thế vui lắm, cơ chừng xong đến nơi.
- Lạy giời...
Mít tinh chặp tối, đoàn tân binh đi luôn trong đêm trăng.
Trận địa 57 đầu bãi Nghĩa Dũng. Mười khẩu cao xạ 57 bóng nhoáng lỗ chỗ như đầu rắn mai gầm. Phía này cản đòn cho nhà máy Yên Phụ và cầu Long Biên. Trên bờ đê cao, trông xuống sông Hồng cát bay mờ mờ. Nhà máy điện xám đen lồng vào những nhịp cầu đan thành mảnh như nan bu trên lùm cây sà cừ. Con mắt thần ra đa quay ì giữa những luống hoa cẩm chướng xung quanh cắm miếng kền xác máy bay - để gà khỏi vào bới. Báo động, lại báo động. Tất cả vụt vào vị trí. Số 4 tính góc phần tử, máy bay nhào sau hai giây cho lệnh bắn. Chỉ cần một viên đạn, nếu mọi bộ phận điều hoà đúng. Nhưng rồi lại báo yên. Hôm qua, địch thả bom xuống trận địa này, bụi còn bám mù mịt. Hai con bò của đại đội gặm cỏ trong bãi trúng bom bi. Ngả thịt ăn không hết, phải đem ra chợ Châu Long bán bớt. Cấp tốc sơ tán 18 con lợn ra vệ đê. Chỉ riêng đàn gà của mỗi khẩu đội chẳng biết thế nào là sống chết, vân túc tích quanh quẩn ra vào bên cỗ pháo. Đến lúc bom nổ tối mắt, những con nhép ấy mới biết sợ, chui vào cỏ nằm im phắc.
Trận địa súng cỡ 37 thì lênh đênh giữa hồ Tây, chỗ chùa Trấn Quốc trông ra. Những thùng đựng tên lửa đã khéo kết thành nền bè phao, lát phên nứa. Tám khẩu 37 xếp hàng đôi dọc bè. Sóng oàm oạp rung rinh đầu súng. Mép bè, những máng vầu đựng đất trồng viền những luống hoa bóng nước rực rỡ hồng. Các chiến sĩ trực chiến đứng giữa hồ trông vào đường Cổ Ngư. Trong ấy, loáng thoáng người ngồi bàn ăn bánh tôm dưới gốc đa. Chặp tối, vòng đạp xe của tôi kết thúc cuộc thăm các trận địa quanh Hà Nội về đến ngõ Văn Chương, trong ấy cũng đóng một đơn vị bảo vệ ga Hàng Cỏ. Tiếng chó con lắc rắc sủa hoàng hôn như ở trong làng. Trẻ con lấp ló đầu nhà ngó xem người đi qua. Đại đội 6 này đã bắn rơi chiếc F 105. Thằng thiếu tá phi công Sáclơ phải nhảy dù xuống tràn than ngay trong tường nhà máy điện Yên Phụ. Bên kia mặt hồ, nhà ga Hàng Cỏ sáng trưng một vẻ không bình thường, giữa một vùng tối om. Tiếng còi tàu, trong khói hơi nước phụt phụt trắng bông. Những con tàu cả ngày chui lủi đâu bây giờ lừ lừ vào ga, bắt đầu đêm hoạt động. Ngoài đường Khâm Thiên ồn ào như chợ. Tưởng như chẳng ai để ý sau lưng bức tường, có những nòng cao xạ vươn đầu lên.
Nhà máy điện Yên Phụ đằng kia, nghe tiếng máy chạy rền rền, ngày đêm bụi than tuôn ra bám đen kịt những cành cây cơm nguội cổ thụ hai bên hè phố, từ thuở tôi cắp cặp đi học trường tiểu học Yên Phụ.
Thế mà cái nhà máy cổ lỗ này đã chịu mỗi ngày vài đợt bom, không biết bao nhiêu trận dòng dã. Cái nồi súp de lò hơi, quả tim của nhà máy phía tường trường Yên Thành được bọc đất thó quấn rơm như cái áo giáp kỳ quái giữa những hố bom toang hoác thành từng vũng nước ao chuôm. Thế mà chưa một lần lò bị bom. Nhưng ngôi chùa Am bên kia đường, hơi bom đã đánh đổ sập. Quán hàng nước chè tươi trước cửa chùa, thợ nhà máy sớm nào cũng ghé uống bát nước ngon, cả ông hàng nước cùng bay mất tích. Suốt ngày đêm, than được chở vào nhà máy, lúc ô-tô tải, lúc xe trâu kéo. Một dãy người đứng sàng, đổ than lên đường máng đưa vào lò. Các chị sàng than đi giầy vải, chít khăn đen chỉ hé hai con mắt, như cô gái Thuỷ Nguyên kín mít khăn vuông. Cái cột xi măng tròn sừng sững giữa nhà. Lúc còi báo động, mọi người ôm cột tụt xuống. Người leo cả ngày những cái cột đã lên nước bồ hóng đen nhoáng.
Báo động máy bay cách 30 cây số, công nhân trên gác xuống cả tầng dưới. Chỉ còn ba người đã được phân công bám máy. Chết cũng đứng đấy với mỗi một chiếc đồng hồ đo áp suốt trơ trọi. Nóc nhà máy chính thủng đạn nham nhở như cái áo tơi rách. Két nước băng mất từ lâu không còn nước trữ, công nhân phải bắc vòi cao su và gánh nước suốt đêm lên. Nhưng sau cái ống khói đen sì vẫn sừng sững. Một ống khói bị quẹo nghiêng như sắp khoác vai ống kia. Cái tuyết bin trên tầng và nồi hơi dưới nằm lọt thỏm trong những lớp rơm nhồi bùn, cao như những gò đất. Miếng bảng đồng gắn trên tuyết bin, tựa con rùa thò cổ trong đống bùn ra có chữ đề công ty Derlikon Thuỵ Sĩ 1920. Cỗ máy cái của nhà máy điện đã già ngoài nửa thế ky rồi. Không thể tưởng tượng được biết bao đơn giản đến thế nào. Nhưng cũng ở nhà máy hiên ngang này lại có cán bộ tài vụ dính vào vụ án tụ tập xem táp lô ở góc phố Cầu Gỗ. Có phải vì thế mà nhà máy chưa được phong anh hùng. Ba hôm liền, toà án xử phúc thẩm mấy vụ. Còi báo động nổi lên, không ai chạy ra hầm. Bởi vì toà nhà xử án của thời Tây để lại, kiên cố hơn hầm trú ẩn nổi hay cái lỗ phòng không cá nhân ngoài kia chăng. Trưởng ban khối phố, tôi được mời dự. Thành phố muốn cho cán bộ cơ sở biết những tệ nạn xảy ra trong lúc bom đạn để về xem lại an ninh trật tự ở phố mình.
Có một người đàn bà thường ngày bán vé sổ số ở vỉa hè phố Huế. Chịu không đoán được hạng người thế nào. Chưa hẳn nạ dòng, cũng không còn trẻ. Vẻ hơi quê, nhưng có lẽ cũng ra phố ở đã lâu. Chiếc áo cánh lụa mớ gà cổ và gấu viền đăng ten. Tóc búi, đôi mắt lá dăm đưa đẩy trên những câu thưa gửi chợ búa ngọt xớt. Nhưng đến lúc nghe ông công tố đọc cáo trạng thì những đoán mò của tôi đều quá hiền lành và vu vơ. ả nọ có trong tay 36 cái chìa khoá của 36 cái nhà, cái buồng. Những chùm chìa khoá làm chứng được đặt loảng xoảng trên bàn chánh án. ả đã thuê lại từng giờ những cái nhà, cái buồng vắng người để làm nhà thổ. Thế là ả có 36 buồng trong tay của những người đi làm theo giờ, của người sơ tán, của người độc thân nghèo túng chịu khó vắng nhà một vài giờ lấy ít tiền tiêu.
Còn khoé làm tiền khác nữa. ả đóng vai người mẫu cho bố con một ông chụp ảnh tài tử. Những tấm ảnh cũng được bày chỗ tang vật cạnh vành móng ngựa. ả làm tình với con thì bố chụp, với bố thì con chụp. Các kiểu. Đám lông trên mu được khuếch lên thành một gò cỏ đậm nhạt thơ mộng. Có cái ngậm chiếc tẩu nghi ngút khói, lông xùm xoè như anh chàng râu na quái dị hút thuốc. Lại một đám ăn chơi khác. Đám này có công ăn việc làm đàng hoàng, người thì xã viên tổ mì sợi người làm thợ máy, người tài vụ kế toán. Người nào cũng đến cơ quan và nơi làm việc giờ giấc tử tế. Nhưng tan tầm thì không ai biết ai thế nào. Tối tối, họ tụ bạ trên cái gác ba một toà nhà giữa thành phố mới bị trưng dụng, chủ nhà còn được ở một buồng nhưng bỏ không. Chùm trò là một lão đã đứng tuổi như lão Văn Hiến ở với chúng tôi trên Việt Bắc, trước kia đã từng ở Pari - lão khoe thế. Tôi tin là thực, khi nhớ đến ông Hiến rách rưới, lúc nào cũng đói nhưng đã từng đàn đúm ở xóm ăn chơi Môngmac. Lão Văn Hiến này làm bảo quản phòng máy một trường đại học. Mỗi lần ngồi cả đám, bọn đàn em cứ cong cổ, cong mắt nghe đại ca đấu hót chẳng biết thật hay bịa về những truy hoan ban đêm xóm Môngmac thủ đô hoa lệ nhất thế giới chứ tép riu đâu như cái Hà Nội nhà quê này. Rồi xoắn na lên lão gật gù: Tao bây giờ có trần ai đến thế nào cũng là mãn kiếp, chỉ thương các chú mày đầu xanh tuổi trẻ chưa được ngửi cái mùi mẹ gì!.
Sau đó cả bọn tà tà kéo nhau đi săn bò lạc. Chúng nó rà rẫm đến bến Nứa, bến Kim Mã, Kim Liên, ga Hàng Cỏ hóng những người nhỡ tàu nhỡ xe. Đương thời chiến, thành phố lấy đêm thay ngày, bến bãi quán xá đâu đâu cũng bề bộn, ngổn ngang người cơ nhỡ. Chúng nó tán tỉnh đèo về được những cô gái không may đương ngẩn ngơ tìm chỗ trọ. Nhiều cô bị lừa tưởng chúng tử tế cho nghỉ nhờ đã ra toà kể tội bọn chó đểu: Những cô sinh viên trường sơ tán tận Lục Ba, Ký Phú, Mai Sui, Biển Động, những chị công nhân nhà máy đã di chuyển đi tỉnh khác.
Người dự phiên toà được đi tham quan cái tổ quỷ ấy. Trên gác ba, trong một phòng trần trụi, giữa trải một chiếc chiếu. Rải rác, những vỏ bao 3 số như vô tình vứt đâu đấy quanh một cái vại da lươn. Tàn thuốc lá gạt vào trong vại đã cao có ngọn, nhấp nhô như núi non bộ. Góc phòng kê một quầy gỗ giả làm chỗ uống đứng trong quán giải khát. ở giá trên tường bày một loạt chai uýt ky, chai vang nguyên nhãn, cả nút. Nhưng trong đựng nước lã. Những chuyện ăn chơi nghiêng trời được kể lại bên những vỏ chuối lá, cái núi tàn thuốc trong vại và những vỏ chai rượu đắt tiền. Để tưởng tượng ra những phá phách thú vị mà đêm nào lão Paridiêng nọ cũng nghếch ria lên kể. Còn những bí mật nữa trong phòng này. Mặt vách trang trí ghép những cây trúc hun khói màu ngà. Giữa mép trúc, mép tường được đục những lỗ chỉ ti hí bằng lỗ khoá cho người đứng ngoài nhòm vào xem táp lô. ở trong, một gã đương gạ gẫm cô nghỉ nhờ, rồi được bằng lòng hay phải cưỡng hiếp ra sao, tất tật lọt ra những con mắt dán vào cả chục cái lỗ ấy. Hôm sau chúng nó ngồi cãi nhau, phong chức và cá cược xem đứa nào giỏi hơn đứa nào.
Lại một vụ xử trấn lột, toà dưới làm án nhẹ, phải xử lại. ấy là một bọn cứ chặp tối đến chầu chực cửa rạp Tháng Tám - cả những đêm báo động. Đã lâu, theo lệnh phòng không thành phố, rạp đóng cửa, nhưng cái vỉa hè ngã tư ấy như thói quen, người dừng lại vẫn đông. Một người đạp xe qua. Một đứa chạy ra, tót lên sau xe, vừa ngồi vừa nói khẽ: Nhờ một quãng xuống cuối phố nhé? Nhưng vừa qua khuất bóng cây sấu rậm rì, người đạp xe chưa kịp quát hắt nó xuống đã cảm thấy lạnh toát mũi dao thích vào sườn và một tiếng rít nho nhỏ. - Rẽ đằng này! Rẽ đằng này? Mũi dao nhói vừa đủ khiến cho người ngồi trước run rẩy đạp theo lệnh. Đường phố hai bên vẫn nhộn nhịp hơn bình thường. Ai cũng đoán vu vơ là máy bay Mỹ nghỉ đánh lúc chặp tối để giặc lái còn ăn cơm, người ta đổ ra đường tấp nập. Đến một chỗ bóng cây tối đen. Đứng lại! Thằng cướp đường nhảy xuống. Mũi dao sáng loáng chĩa ra. Thế là, cái đồng hồ, cái phu la, cái áo len, ví tiền, đôi giày cũng bị lột cả bít tất. Thằng trấn ôm bọc đồ quay lại cửa rạp, cả bọn đã đợi. Chỉ ra đến Bờ Hồ mọi thứ đã bán xong. Rồi kéo nhau lên quán cạnh rạp Kim Phụng đánh chén. Hôm nào đét không được món nào cũng cứ đàng hoàng sà vào hàng phở, mì vằn thắn, gọi rượu. Chè chén xong cắp đít đi ra. Các hàng quán bị xúi quẩy này đã thuộc mặt từng đứa. Không dám đòi tiền, cũng không dám báo công an hay mách các hàng bên. Bởi chỉ khác mắt, thì cửa kính, mâm bát và cả ông chủ được xơi gạch củ đậu ngay. ở ngõ hàng Giầy, một chủ quán phở chua đã bị một lần ăn gạch vỡ trán, sợ quá, phải đóng cửa hàng.
Toà tuyên án tử hình tên cầm đầu băng trấn hai mươi mốt tuổi. Cả phòng xử lặng im. Nghe tiếng khóc thút thít ở hàng ghế nào. Luật nghiêm thời chiến có khác.
Cũng tiếc ngày ấy tôi không quen cái huyện trung du ven sông Hồng nọ để được về ăn uống lu bù ở cái nhà khách huyện mà chỉ nghe ở phiên toà cũng cảm thấy nơi nghỉ ngơi này dễ chịu chẳng kém khách sạn ở Hà Nội. Bây giờ thì bí thư huyện ngồi án tù 18 năm rồi. Tôi chắc cũng chỉ đến giường lùn kiểu Đức, bàn ăn trải khăn hoa... nhưng quả là nó càng rực rỡ linh đình trong lúc bàn dân thiên hạ nháo nhào chạy máy bay. Tài liệu ở cáo trạng thì cái huyện ấy như một quốc gia nhỏ. Hai mươi tư chủ tịch hai mươi tư xã. Bí thư huyện trước kia ở làng, vốn là tay cứ mỗi năm đến vụ nông nhàn thì đi buôn gà Bắc Giang về bán chợ Đồng Xuân. Bí thư cựu lái buôn này lắm mưu mẹo đã gọi các chủ tịch, bí thư xã lên cắt tiết gà uống máu ăn thề, làm kế hoạch mỗi xã hàng năm dựng lên công trường thuỷ lợi, ghi con số ma dân công để lĩnh tiền nhà nước. Lần lượt các chủ tịch, bí thư xã đều xây nhà. Các ngành các giới lên huyện họp được cấp tiền ăn như ăn cỗ gấp mười tiêu chuẩn. Chánh văn phòng giữ sổ sách, chủ tịch, bí thư huyện, cả ban thường vụ không hề biết mặt đồng tiền lương. Kho bạc nhà nước như chĩnh gạo trong nhà. Ai cũng ngập miệng, cán bộ cả huyện, cả các xã ngậm tăm.
Đến khi phải bắt đi tù vãn cả huyện uỷ, uỷ ban, thì hàng huyện mới ngã ngửa ra. Trong ban chấp hành chỉ có một đảng viên nữ không dính, bởi sợ nhưng cũng không dám nói ra.
Một hôm, có chiếc máy bay bị tên lửa bắn rơi trên đê. Thằng lái nhảy dù xuống cánh đồng chui vào ruộng ngô, mở điện đài gọi cấp cứu. Một tốp nữ dận quân núp giao thông hào trong xóm xô ra bắn đám máy bay lên thẳng vừa ập đến cứu nhưng chỉ quần đảo trên đầu, không dám bom, cũng không dám thả thang. Cô dân quân đội mũ cát quai ghì dưới cằm, gí mũi khẩu súng trường vào sườn thằng giặc lái. Cô thấp bé, thằng tù binh gầy, cao lêu đêu. Bức ảnh oai hùng ấy được truyền đi khắp thế giới. Những con người dũng cảm như thế, như thế, thời chiến, thời chiến mà. ở ngay cái huyện đương hỗn loạn coi trời bằng vung ấy đấy.
Vừa lên đèn, lại một toán giặc lái được dẫn từ sau lưng Nhà hát Lớn ra đi qua phố Tràng Tiền, Tràng Thi xuống Cửa Nam, về Hoả Lò. Năm mươi hai người xếp hàng đôi, áo bà ba xám nhờ, chân đi dép râu, thong thả, mệt mỏi. Cách quãng, một bộ đội kèm. Không lo tù binh chạy, mà đề phòng đám đông hai bên đường xô xuống đánh. ở ngã tư đầu Tràng Tiền, người nhốn nháo giơ tay hô đả đảo đế quốc Mỹ, đả đảo giặc Mỹ? Đến phố Tràng Thi, đám đông càng hò hét loạn xạ. Mấy người nhẩy ra thụi bừa một quả rồi lại chạy vào. Có một bà nạ dòng vào đến hè, cười nắc nẻ: cái gáy thằng Mỹ nát nhẽo, đấm ghê cả tay! Những bộ đội giải tù chạy lên chạy xuống cản người ùa ra. Không để ý cả tiếng còi báo động trên nóc Nhà hát Lớn đã lại rú lên. Chúng tôi ở cửa hàng Tràng Thi cầm vại bia đứng trông ra đám người túi bụi. Lại một bà phốp pháp tất tả dưới đường lên, tay còn giơ nắm đấm, cười hơ hớ: Cái thằng Mỹ hộ pháp thế mà bụng nó toàn thịt mỡ bạc nhạc.
Đêm Nôen năm nay lại vào Hoả Lò chơi với tù binh lái. Âu cũng thêm một phong tục thời chiến, Nôen Tết tù binh. Thói quen người Mỹ, bữa ăn thịnh soạn nửa đêm nhà nào cũng có món thịt gà tây - như ta tết ông táo cúng cá chép. Thời Pháp, người Tây đã đem gà tây giống sang, nhưng thỏ và gà tây chưa thành món quen như gà thiến, gà ta... Không mấy ai nuôi gà tây. Con gà đóm đen, mào đỏ, người đến gần thì cau có, xoã cánh chìa đuôi kêu cộ cộ. Thế mà những năm ấy, nhiều làng hai bên sông Đống, các hợp tác xã đã chuyển ruộng cho xóm khác, chỉ chuyên nuôi gà tây. Đến áp Nôen, hàng đoàn xe tải biển đỏ của quân đội về lấy gà, đem ra cho tù binh Mỹ ăn tết.
Cả hai cuộc kháng chiến, tôi đã gặp nhiều tù binh Pháp, Mỹ sĩ quan các cấp uý, tá. Trong chiến dịch biên giới phía bắc 1950, ở châu Bắc Sơn Lạng Sơn, Nam Cao và tôi đã trò chuyện với tù binh Pháp, đám quân quan thua trận của các binh đoàn Sác Tông và Lơ pa bị bắt trên đường số 4. Đông quá không đủ lán trại, phải lùa cả vào các khe đồi hốc đá. Có đứa khát nước hay khát rượu, nằm rống lên một lúc, rồi thắt cổ. Có đứa phơi lá duối khô nhét vào ống đu đủ làm thuốc lá hút phì phèo tiêu sầu. Bước chân phiêu lưu vào lính, coi như đã cầm cái chết trong tay, người lính binh đoàn Tabo lê dương chỉ còn biết nốc rượu và giết người. Một lần kia, gã da đen gác cửa khách sạn Kônisốp ở Bon, nước Cộng hoà Liên Bang Đức, tên là Rimi người Ma rốc quê ở Casablanca. Rimi hỏi tôi:
- Thưa ông về Hà Nội?
- Phải.
- Tôi xin nhờ ông một việc.
- Việc gì?
- Ông tôi là Rimi Idri, đi lính Pháp sang đánh nhau bên Đông Dương năm 1949, mấy chục năm nay gia đình chúng tôi không được tin tức. Thưa ông, nếu ông có khi nào gặp ông tôi...
Có thể người lính da đen quê ở Casablanca ấy đã đăng lính trong những binh đoàn Tabo bị tiêu diệt, bị bắt sống rồi chết trên rừng núi Lạng Sơn. Dễ thường tôi cũng đã gặp ông nội Rimi hay đã trông thấy nấm mồ ông nội nó ở Bắc Sơn. Nhưng lính Mỹ khác hẳn bọn lính Pháp loang toàng bạt mạng. Người lính Mỹ nào cũng từa tựa nhau. Trước cái chết có thể và sự giết người, nhưng mỗi người Mỹ đăng lính đều đã tính toán thành con số. Lương chính, phụ cấp chiến trường gửi nhà băng tỉnh quê. ăn uống hàng ngày và chi tiêu bằng tiền thưởng, sổ ghi cẩn thận. Không xem báo, chỉ đôi khi đọc truyện trinh thám, đi câu và đi săn. Hết ba năm mãn lính, dành dụm làm sao gom đủ tiền mở được một cửa hiệu trong thị trấn hay tậu một trang trại nhỏ và một đàn bò. Những cái tính cộng trong túi mỗi người đại để thế, bởi vì đi lính kiếm đồng tiền nhanh hơn nhiều nghề lao động khác.
Nhà Hoả Lò, vẫn căn phòng mọi lần, có một chậu cảnh trồng một cây xương rồng châu Phi, cao bằng chiếc đũa cả, giống xương rồng ông của ta. Một lát, chiếc xe Jeep đít vuông che bạt kín vào sân. Bạt sau mở, một tù lái bước xuống sau người lính. Tôi ngờ người tù binh nọ vẫn ở trong Hoả Lò này. Các ông quản giáo cho bịt kín xe, đi loanh quanh một lúc rồi quay về. Tôi ngỡ người tù binh biết như thế. Tuy không trông thấy và xe đi qua nhiều nơi mới đến, nhưng những tiếng động ở đây vẫn quen thuộc: tiếng phát thanh ở cái đài ngoài sân, con vạc, con chim lợn kêu đêm bay qua. Sau này, đọc phóng sự Trận tập kích Sơn Tây của một phóng viên Mỹ viết tôi càng tin thế. Người phi công Mỹ nào cũng được học các mật hiệu, nếu bị bắt giam, có thể làm dấu cho máy bay bay qua biết được.
Chuẩn uý Giôn 26 tuổi, chưa vợ, người bang Ôhiô. Bố mẹ chết tai nạn ô-tô. Hai em ở trại cứu tế. Lái A4, bị đạn cao xạ. Thoát ra biển cách bờ khoảng hai cây số phải nhảy dù ngoài khơi Hà Tĩnh, tháng ba 1966. Hàng không mẫu hạm đậu ngoài biển Đông, Giôn chưa đặt chân xuống Việt Nam lần nào. Hai mươi lần đi ném bom, tám trận ra đánh miền Bắc. Đã được đi nghỉ ở Nagasaki, ở Manila, ở Băng Cốc.
Chúng tôi và người phiên dịch, với Giôn ngồi quanh chiếc bàn nhỏ, trên đặt gói thuốc lá Thủ đô bao bạc và một đĩa kẹo. Chiếc ghế đẩu của thằng tù thấp - không được ghế mây như khách, mà Giôn vẫn cao lêu đêu ngang chúng tôi.
Tôi rơi xuống nước, thả phao nổi bơi được ngay. Thế mà, không biết vướng vào đâu, một bên đầu gối sái không cựa được. Tôi chưa kịp mở điện đài. Nhìn ra, thuyền và súng đã vây quanh. Bị bắt hơn một tháng, thưa các ông, lúc nào tôi cũng thèm thịt bò. Thèm mãi không có rồi quên đi. Bây giờ, đã hơn ba năm, ba năm hai tháng, một ngày rồi.
(Chiếc áo tay rộng ông màu lá cơi. Số 31 in trước ngực và lưng áo. Dạo có những cuộc trao trả tù binh ở sân bay Gia Lâm, tôi đã trông thấy những tù binh phi công Mỹ đội nón lá, cổ đeo chuỗi hạt gọt bằng mắt tre, gộc tre, trong cái túi lưới đeo vai đựng bộ quần áo cánh có số và đôi dép râu, hệt quần áo và dép của chuẩn uý Giôn. Họ xin được đem những kỷ niệm ấy về xứ). Chuẩn uý Giôn này lấc cấc, nhanh nhẩu, không ủ rũ, mệt mỏi (như thiếu tá tù binh Mác Tuên năm ngoái gặp cũng ở phòng này).
Lúc ấy khoảng hai giờ trưa. Lên bờ, tôi được cởi trói, mô tô đèo tôi một quãng rồi xe camiông đem đi. Một mình tôi trong thùng xe, với một người gác. Cảm giác đầu tiên: thế là cuộc đời đánh dấu chấm hết. Nhưng đến chặp tối, được khai giấy tờ, có bác sĩ đến khám, cho thuốc mỡ bôi cái đầu gối sưng, tôi thoáng nghĩ tôi đương chờ đợi cái gì, cái gì không rõ, nhưng không phải cái chết.
Cho đến hôm nay, tôi còn sống, thế là tết. Và cái tôi chờ đợi đã rõ. Tôi hy vọng một ngày kia được trở về. Bằng cách nào? Chỉ có Thượng Đế biết được. Còn tôi, tôi cầu mong chính phủ Mỹ suy xét lại về cuộc chiến tranh này. Hai bên thương lượng, cuộc đổ máu sẽ đi vào quá khứ. Nhưng bây giờ thì tôi đương ở trong tay các ông. Tôi được sống hay tôi phải chết, không phải do tôi. (Giôn thở dài rồi chép miệng. Giôn hay thở dài như lấy hơi rồi chép miệng. Giôn lực lưỡng, cao lớn. Tôi nhớ năm 1944 hai mươi năm trước một phi công Mỹ lái máy bay hai thân đến ném bom ga xe lửa thành phố Vinh bị Nhật bắn rơi. Tôi trông thấy người lính Nhật giải tù binh vừa bị bắt sống qua trước ga Vinh mới phải bom sập còn khói nghi ngút. Người tù binh lênh khênh, hai cánh tay bị trói giật sau lưng, người lính Nhật cầm cái thừng dắt đi. Miệng người tù binh Mỹ há hốc, máu đỏ lòm chảy ròng ròng hai bên mép. Không biết bị đánh gẫy hết răng hay nhảy dù ngã).
Thưa ông vâng, hoà bình, tôi được trở về. Tôi sẽ được tha.
( áo bà ba của Giôn rộng thùng thình, nhưng không có túi. Nguyễn Tuân cầm bao Thủ đô, kéo một điếu ra mời. Giôn cảm ơn. Cầm bao diêm Nguyễn Tuân đưa, Giôn rút một que đánh. Nhưng đã thó nhanh hai que diêm khác, cong ngón tay, gảy vào giấu trong ống tay áo. Tôi trông thấy).
Chính phủ Giônxơn đương điều đình với các ông? Tôi cũng nghe loa phát thanh tiếng Anh được biết. Tôi nghĩ cuộc nói chuyện có thể có kết quả nếu chính phủ miền Bắc thôi tiếp tế cho Việt Cộng. Tôi đã được cho biết từ khi mới đến Đông Dương như thế.
(Ngoài cửa sổ đột nhiên mưa rơi bập bùng xuống lưng tàu chuối như trông đánh. Tiếng nhạc đài oang vào tường, vang đi vang lại vách đá. Không biết ở các buồng giam, có nghe tiếng mưa và tiếng hát mọi khi cũng như thế này)
Thưa ông, ông bảo tôi nên kết luận lấy? Quả thực tôi không biết thế nào. Người ta bảo tôi là chính phủ Hồ Chí Minh không muốn thương lượng nên chiến tranh vẫn tiếp tục.
Vâng, vâng, tôi xin trả lời câu hỏi: tôi chỉ đánh phá xuống những nơi có thể cắt đường vận tải súng đạn và lương thực của miền Bắc cho Việt Cộng. Tôi phải thi hành lệnh cấp trên, vì tôi là lính..
Vâng, tôi ở hạm đội 7. Mỉa mai quá, đây là lần đầu tôi xuống đất liền ở Việt Nam...Các ông là nhà báo hỏi tôi có cảm tưởng thế nào, khi gặp các ông. Tôi ít có báo đọc, tôi nghĩ là các ông muốn biết ý kiến một tù binh Mỹ về chiến tranh và hoà bình. Tôi xin nói: hoà bình tốt, chiến tranh xấu. Một ngày kia không ở đâu còn chiến tranh, tôi mong thế.:
(Mỗi khi nghe xong câu hỏi, Giôn trả lời ngay. Có lẽ bẩm tính nó bốp tốp).
Không, không phải độc lập của Mỹ hay của Việt Nam bị xâm phạm. Nhưng nếu Mỹ không chặn lại thì cộng sản quốc tế sẽ chiếm miền Nam Việt Nam rồi chiếm Thái Lan, Miến Điện và những nước khác. Vì thế người Mỹ phải sang đây cản lại. Ông hỏi nếu tôi được trở về Mỹ mà thấy trong thành phố có biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam thì thái độ tôi thế nào?
(Tôi đã ghi được một ít con sô mỗi ngày ăn của tù binh Mỹ ở Hoả Lò giá là 1 đ. Không có ăn sáng. Ngày hai bữa, mỗi bữa một bánh mì, bát canh rau muống cà chua, đĩa su su xào mỡ. Thỉnh thoảng được ăn món thịt gà tây rán, gà tây nấu như đêm Nôen này).
Nếu tôi được về nước, chắc khi ấy chiến tranh đã chấm dứt. Thế thì không còn biểu tình chống chiến tranh nữa. Nhưng nếu còn chiến tranh mà tôi vẫn là lính, tôi cũng không để ý đến đám biểu tình. Vì chính phủ Mỹ trả lương cho tôi không phải để làm việc ấy. Nếu tôi là thường dân, tôi có đi biểu tình không? Tôi không trả lời được ngay bây giờ, chỉ biết là tôi phải xem hai bên thế nào đã. Các ông bảo tôi lo bị bí mật thu tiếng để các ông phát lên đài, nếu tôi nói về chiến tranh không như chính phủ Mỹ đã nói, tôi có thể mất lương, có thể bị tù, khi trở về. Xin lỗi các ông, tôi không biết, tôi không trả lời được câu này.
Tôi học trường đại học tổng hợp Pensule. Chuyên khoa địa lý, nhưng bỏ dở, năm thứ ba khi 18 tuổi. Vì hoàn cảnh gia đình.
( Nguyễn Tuân cười khẩy: Chuyến này ông sinh viên địa lý biết thêm địa lý Việt Nam).
Tôi đã thưa với ông, tôi chỉ được biết Việt Nam trên bản đồ. Tôi mới học kiến thức chung về địa lý. Năm thứ ba phải thôi học. Tôi đi kiếm ăn khá vất vả. Bố mẹ tôi chết, khó khăn quá cho chúng tôi.
Một giờ bay đi thả bom, tôi được phụ cấp bao nhiêu? Thưa ông, phụ cấp và tiền thưởng ở chiến trường trả theo cấp bậc và từng chuyến khác nhau, bay làm gì, đi đánh phá, đi yểm trợ, đi cứu đồng đội. Trung bình, mỗi tháng tôi lĩnh trên dưới một trăm đô la, chưa bao giờ hai trăm. Tôi được bay ít lắm. Không hiểu tại sao.
(Nguyễn Tuân bảo: Anh nói dối . Chuẩn úy Giôn chỉ đáp: Thưa ông rồi im lặng. Sự thực hạm đội 7 vào trận đánh, đồng loạt mỗi phi công phải cất cánh ngày một lần, không kể các chuyến bay ngoại lệ).
Thưa ông, tôi rất thích không quân. Bởi khi giải ngũ vẫn có nghề. Nhưng tôi không muốn bay trên trời Việt Nam làm những việc như vừa qua. Nếu còn làm nghề này, tôi chỉ muốn bay ở nước Mỹ của tôi.
(Nguyễn Tuân nói nghiêm nghị: Nhưng thật thì chúng tôi đương ngồi trước mặt một tên giết người . Nét mặt hớn hở của Giôn chìm hẳn, Giôn mím môi).
Chiến tranh là tàn khốc, tôi biết, nhưng tôi phải làm theo lệnh chính phủ. Máy bay Mỹ bị các ông bắn, người lái rơi chết, nghĩa là các ông cũng giết người.
(Nguyễn Tuân cười nhạt, hỏi vặn: Giá thử bây giờ anh lái tàu bay từ Bắc nước Mỹ lên ném bom Nam nước Mỹ, thì thế nào?)
Mỹ và Việt Nam khác nhau, Bắc và Nam nước Mỹ không phải là hai nước.
(Nguyễn Tuân gõ gõ đầu tẩu thuốc. Đấy là cách lấy lại bình tĩnh. Thế là bực mình rồi. Những tiếng bộp bộp nặng nề của cái gạt tàn thuốc trong đêm thanh vắng, làm những vết nhăn trên trán Nguyễn Tuân dãn ra. Nguyễn Tuân nói, thong thả: Nêú được tha, anh hãy về học lại đi. Đại học địa lý rồi mà dốt quá! Ai bây giờ bảo phía nam nước Mỹ là tư sản, phía bắc là cộng sản, anh nghĩ thế nào?
Thế là điên, thưa ông.
(Nguyễn Tuân đứng lên, hầm hầm trỏ tẩu thuốc vào mặt Giôn: Anh đương nghe lệnh một bọn điên đấy).
Tôi chỉ làm theo chính phủ tôi. Tôi đã khai là tôi có lái máy bay đi bắn và ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng tôi chỉ bom bắn cầu đường phá xe của Hà Nội vận tải cho Việt Cộng. Thưa ông, tôi không giết người.
(Giôn ngồi ở cái ghế đánh dấu như chiếc ghế năm trước. Tôi vừa nhận ra con số 2541 quét sơn trắng ở chân ghê, đúng cái ghế năm ngoái thiếu tá tù binh Mác Tuên đã ngồi. Lúc nào Giôn cũng giữ một tay trên bụng áo. Giôn không biết tôi đã thấy nó lấy cắp que diêm nhét vào ống tay mỗi lần được cho thuốc lá hút. Giôn biện bạch một thôi).
Vâng, tôi chỉ được phép phá cầu, phá đường phá xe. Nếu có người chết, cũng là chẳng may người ấy gặp tai nạn, tôi không cố ý. Nhưng dù thế nào, xẩy ra cái chết cũng là bất hạnh, tôi không muốn. Đức chúa Trời dạy con người phải thương yêu nhau. Chúa dạy tôi sợ máu, tôi không dám nhìn máu, tôi không dám giết ai. Đức chúa Trời...
(Nguyễn Tuân lắc đầu nhè nhẹ: Giết người mà lại nói con người phải thương yêu nhau! Không hiểu Người tù binh như sợ hãi, nói luống cuống).
Tôi không giết người, tôi không... Tôi không thù ghét, nước Việt Nam Cộng Hòa hay nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Những người chết là người bị tai nạn chiến tranh. Nếu trên cầu trên đường lúc ấy chỗ ấy không có người thì không ai chết. Vì người ta đi đến đấy chứ tôi không chủ tâm làm người ta chết.
(Nguyễn Tuân lừ lừ đứng dậy, giơ tay: Nhắc lại này: bao giờ mày được về thì nhớ học lại địa lý Không có hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước Việt Nam. Nhớ đấy. Trung uý Giôn, con mắt xanh lơ ngó ngác).
Các ông không phải là nhà báo. Các ông là quan tòa? Các quan tòa lấy khẩu cung tôi. Các ông sắp đem tôi ra xử. Tôi xin hỏi thực các ông?
(Nguyễn Tuân rút hai điếu Thủ đô đưa cho trung uý Giôn. Anh này mặt lúc đỏ lúc tái run run cầm thuốc: Cám ơn, cám ơn. Các ông có phải... Không giải thích hay an ủi, Nguyễn Tuân bước ra, mặc câu nói dở dang sau lưng. Nguyễn Tuân trầm mặc, nghiêm mặt và một vẻ ta đây. Tôi thường chứng kiên dáng điệu đĩnh đạc ấy ở Nguyễn Tuân, khi tiếp xúc với người nước ngoài. Nguyễn Tuân lý lẽ và cứng cỏi. Âu cũng lại một thói quen, cái người hay nói tôi không thích chính trị cũng đương chính trị mà không biết).

Chương V (tiếp)

***
Báo động. Nhưng máy bay địch không vào Hà Nội. Như găng, cũng lại như bình thường. ở Pa ri, đương xuất hiện hai khả năng mà. Các ngóc ngách phố vẫn đông. Hôm nào ban bảo vệ khối phố cũng chia nhau đi vận động người sơ tán. Giục đi, nhưng cả người giục cũng nghĩ chỉ khi bom xuống người ta mới chịu đi. Đã nhiều lần như thế, mà cũng chỉ dạt đi ít lâu, nhạt bom lại về.
Bom rền bên kia sông ở ngay Gia Lâm. Rung chuyển nặng nề đến tận gần sáng. Hai tháng im ắng, bây giờ lại rộ những trận bom đêm. Gió bấc đã về buổi sáng mây mù xao xác vần vụ. Mùa đông lại bắt đầu rồi.
Trong phố lan tràn tin đêm qua những đợt bom B.52 thả dàn từ Giang Biên lên quanh cầu Đuống. Báo động suốt đêm, thế mà sáng ra người xúm xít mua báo ở ngã sáu quanh những gốc cây sữa. Những đợt bom nửa đêm kéo đến sáng. Còi báo động trong bóng tối u ám vừa dứt lại tiếp. B.52 xay thóc ỳ ỳ trên mênh mông, ào ạt từng làn như gió dải đồng. Mép lửa viền chân trời theo ánh chớp giật. Bom đánh xuống khắp vùng Đuôi Cá phía nam trên ngã ba đường đi Văn Điển. Nhưng vừa sáng bảnh mắt chiếc tàu điện lụ khụ kéo hai toa, cứ đúng giờ ra khỏi xưởng chứa Thuỷ Khuê lại rỉnh ràng chạy ngang thành phố. Tàu không dừng lại chỗ tránh giữa phố Quán Thánh gần nhà máy điện, ở đấy dãy nhà cao tầng xung quanh cháy đen đã đổ sập cả. Suốt ngày, tàu điện rong ruổi chợ Mơ chợ Bưởi, xuống Kim Liên, vào Hà Đông. Trên các toa tàu lơ thơ người, vẫn nỉ non tiếng hát xẩm của một ông lão loà.
Quán rượu ngã tư chợ Hôm vẫn thế. Hồi này hàng nước nào cũng có nước trắng. Cái bà nạ dòng chủ quán chao chát đôi mắt. Ba ấm giỏ bày song song, nhưng chỉ một giỏ nước chè bán cho khách đầu ghế. Làm phép thế thôi. Trong nhà, bốn góc tường, người lố nhố không ai nhìn ai, có người ực một chén rồi đi ngay. Lắm hôm, chỉ có Dương Bích Liên và tôi ngồi suông. Chúng tôi gặp nhau tình cờ lúc xẩm tối, không rủ mà cùng lặng lẽ bước về phía cái vòi máy nước lấp ló trước quán rượu.
Ba người đầm ở sứ quán Pháp bước ra, giữa tiếng bom vang động. Toà nhà chính của sứ quán giữa trưa tháng trước bị bom đánh đổ, chết cả ông đại sứ. Như còn bốc bụi trong ánh điện. Tiếng bom chùm của B.52 không rít khủng khiếp như những quả bom tạ hôm trước tương xuống khu nhà này nên người ta thản nhiên chăng. Họ ở sân quần vợt về khách sạn hay sứ quán Anh, sứ quán Thuỵ Điển gần đấy. Vẫn báo động dai dẳng, chốc chốc, lại chớp bom sáng loé nhằng nhịt. Nửa đêm về sáng, B.52 bom khu An Dương ven sông rồi quét một vệt lên nóc nhà Bác Cổ, bãi Lương Yên, bệnh viện Bạch Mai. Lại ném bệnh viện Bạch Mai.
Các sở bia Trần Hưng Đạo, Tôn Đản, Chuồng Cọp đông hẳn hơn mọi khi. Đuôi dài đứng sắp hàng quanh bãi, thò ra tận giữa đường. Người nốc từng cốc vại, người còn đương sắp hàng chưa được giọt nào, những khuôn mặt sốt ruột cũng đỏ phừng. Quanh cốc bia toàn những chuyện thảm. ở bãi Lương Yên, một cô bác sĩ, ngày cưới 24, đêm qua chết. Người nhà liệm cho cô chiếc áo dài kếp hoa đào. Mùa cưới đã đến. Trên đường, chặp tối thấy phấp phới những dấu hiệu đám cưới: chiếc xe đạp phóng nhanh, sau xe buộc chiếc trống to của ban nhạc. Một người ngồi đèo, tay ôm cái chậu thau men hoa đồ mừng bọc giấy hồng. Một nhà hé cửa, những hình các thứ hoa thập cẩm rực rỡ mặt bàn. Trên tường chữ L, chữ N bồng lên nhau. Bom liên miên suốt đêm quanh phía ngoại thành. Có tin bí mật phổ biến đêm nay Mỹ đánh vào các phố trung tâm. Khi báo động B52, đài truyền thanh sẽ phát khác thường ngày. Khi đài nói liền hai câu giông nhau: Giặc Mỹ có âm mưu đánh phá ác liệt vào Thủ đô... ấy là ám hiệu cho các đội bảo vệ biết B52 đương vào thành
Từ chiều, mấy lần báo động đã nghe cái câu ghê rợn ấy trên đài. Người vào từng nhà xem còn ai thì xua ra hầm. Các phố lại im ắng. Đột nhiên, gần nửa đêm cho tới sáng, từng đợt B52 ào ào ù ù cối xay cối giã trên trời không lúc nào ngớt. Những quả bom đầu tiên rơi xuống bờ hồ Thiền Cuông. Một khúc đường nhựa cong vồng lên. Hàng cây sanh cây si trước công viên Thống Nhất đương mơn mởn buông rễ chùm, biến mất. Một chiếc ô-tô vận tải đậu ven hè, nhà xe và mấy người khách ngủ nhờ để mai đi sớm, xe và người nổi lều bều mặt hồ. Những đợt bom nối nhau trút xuống Kim Liên, loang sang cả vùng Khâm Thiên phố xá, ngõ ngách chằng chịt, xuống tận ô Chợ Dừa. Bom rơi ngay trước mặt, gần quá không nghe rền nữa. Tiếng gió hú, tiếng nổ chát chát vào hai mang tai.
Một cái đuôi tên lửa rơi ình xuống mái hiên quán cà phê phố Hàm Long, sau sứ quán Pháp. Người ở đâu các phố tuôn ra nháo nhác: bom bịt cả bốn cửa ô rồi. Một người phong phanh cái may ô, gặp ai cũng bíu lấy kêu ối giời ôi, thủng đầu rồi... tôi thủng đầu... Tôi vít cái đầu tóc rễ tre xuống. Không sao, không sao, thủng đầu thì không chạy lên được tận đây đâu. Anh ta lại bổ xấp, bổ ngửa chạy và kêu: có phải... ối giời ôi, tôi thủng đầu...
Một con trâu đằng cửa ô lồng vào phố chạy nhong nhong như ngựa. Đội cứu hoả các phố xuống Khâm Thiên cứu khối bạn. Chỉ còn lại vài người, nhưng cũng đủ bộ cái xe nước, cái bơm mới sơn đỏ choé, với thang, cáng cứu thương... Tôi cầm một chiếc câu liêm. Qua chắn xe hoả, bụi bom bụi đường ngập mắt cá chân. Trời dần dần sáng, trông rõ các ngõ ngách lấp đổ từng quãng, mùi dầu xả xông lên, hắc như ở nhà xác. Những ngọn điện chằng dây vừa mắc ra ngoài tường, sáng đỏ lòm. Tiếng nước vỡ ống chảy rào rào. Bên những dãy nhà đổ thành đống, còn một mảnh tường đứng. Bốn gian cầu chợ Khâm Thiên tan tành, ngổn ngang, trơ ra cái hầm công cộng nổi lù lù như cái mả. Mà cái mả thật. Cả nhà con ông Thảo đội dân phòng phố tôi phải hơi bom tạt vào trong cái hầm nổi này. Bảy người đứng đầu hầm, chết ngạt cả.
Một ông chếnh choáng rượu ngồi trong đống gạch chửi lên cái loa phóng thanh còn sót lại đương nói xa xả trên nóc nhà đầu tường đằng xa. - Tắt bố mày đi! Không trông hàng phố chết hết rồi à? Ông say rượu chửi như gào thi với tiếng loa. Một người đứng lên trên đầu tường thò cổ ra - Loa của thành phố tận ngoài kia mà... Ông say lại réo: Tiên sư cái thành phố nhà mày, trông mả nhớn mả bé kia kìa...
Trong các ngõ, người lổm ngổm đào, moi dũi ra từng vốc đất. Xe cần trục đứng xếp dãy ngoài phố không có lối vào được. Khói hương nghi ngút lẫn mùi xả trên từng dãy xác người nằm đắp chiếc chiếu một bên vỉa hè. Vừa rạng sáng, ở phố ngoài người ở đâu ra đã sắp hàng đong gạo đông hơn mọi khi. Cửa hàng mua dầu còn xúm xít hơn nữa. Nhiều nhà lục tục dọn đến ở ngay các hầm công cộng. Trong nhà thờ Hàm Long, nhà thờ hàng Trống và bên tường các sứ quán ở phố trên người ta che ni lông ăn ở luôn đấy. Chỉ có sứ quán Pháp, sứ quán Angiêri mới bị bom, không ai dám lai vãng. Dây phơi quần áo căng ra. Tiếng trẻ ho, tiếng nhóc con khóc. Khói thổi cơm vẩn vơ trên bờ tường. Những con bò kéo xe, khoác khố tải đứng cạnh gốc cây. ở Uy Nỗ, ở Mễ Trì bị bom đêm, các chủ xe đã đuổi bò rùng rùng vào thành phố, qua vùng Khâm Thiên trơ trụi hẳn một bên.
Khâm Thiên cổ kính, xa xưa. Mùa thu canh tuất 1010, ngót một nghìn năm trước, nhà Lý định đô ở Thăng Long, đắp đê La Thành. Từ thời ấy ô Chợ Dừa cuối phố nghiêm ngặt đồn gác của một cổng chính thành Thăng Long - Hải Thượng Lãn ông đã kể trong Ký sự lên kinh.
Phường Đông Tác - ngõ chợ bây giờ, phường Thịnh Quang ở cuối phố, ô Chợ Dừa với khu Thịnh Hào, phường Xã Đàn ở phía nam, phường Bích Câu phía bắc - những phường đông vui nhất kề bên cửa ô. Khu Trung Phụng gần chợ có cầu Muống, rau muống Kẻ Chợ ngon nổi tiếng. Cung Tả Phụng Thánh, dinh cơ của các thời chúa Trịnh bên cầu.. Con đường nhựa phố Khâm Thiên bây giờ vẫn là đường cái quan xưa từ đầu ô vào Văn Miếu qua Thịnh Hào, Văn Chương, cửa Đại Hưng đến Hàng Cỏ lại lộn về Khâm Thiên giám. Khâm Thiên ngày nay 26 ngõ phố, cũ mới chằng chịt. Ngõ Liên Hoa vào chùa Liên Hoa. Ngõ Thổ Quan có đền thờ ba chị em họ Đào, tướng của Hai Bà Trưng. Các ngõ đều ra đời theo lịch sử và thời gian. Ngõ Cống Trắng, một cái cống thoát nước úng vùng Văn Tân, Linh Quang, Văn Chương ra hồ Ba Mẫu ô Đồng Lầm. Ngõ Sơn Nam, tên nhà triệu phú Bạch Sơn Nam, có dãy nhà cho thuê suốt ngõ. Trần Huyền Trân ngày trước đã ở đấy. Cũng như các ngõ Vạn Lợi, ngõ Tân Châu, ngõ Nam Thái, đều là những tên chủ ngõ.
Khâm Thiên, Hăm Bốn Gian, Vạn Thái, ấp Thái Hà, Vĩnh Hồ, Ngã Tư Sở, những phố ở xa nhau nhưng có nhiều nhà hát ả đào. Tiểu thuyết Sau ánh sáng của Trần Huyền Trân miêu tả lầy lội chui rúc, cái ngõ, động mưa thì ngập nước, lập lờ những mảnh đời tăm tối sau ánh sáng của các tiệm nhảy Rex, Takana, nhà đốc Sao... Cao lâu Trung Sơn tàng tàng của chú khách đầu ô chẳng món gì đáng nhớ, nhưng mà nhớ, vì khách chơi đặt chầu mặn và các món nhắm khuya ở đấy.
Ngang dọc hai cây số các ngõ Khâm Thiên xưa và nay bề bộn lịch sử đã tan tành trong đêm bom khủng khiếp. Chợt nhận ra tàu hoả rời ga hàng Cỏ về phía nam, trước tiên ra ô Đồng Lầm qua giữa hồ Ba Mẫu và hồ Bẩy Mẫu. Trong những ngày thành phố bị tàn phá này dường như lịch sử được chú ý nhiều hơn.
Mùa đông năm nay, thời tiết Hà Nội bị B52 giằng xé, cái gió cái mưa thay đổi từng hôm. Đương hanh hao lại chợt nồm rồi lại rét, lại mưa dây mưa rợ. Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 60 km... 40 km... 20 km... thế là còi ủ, máy bay địch đã vào... có khi lâu cả tiếng đồng hồ, lúc lặng như tờ, lúc bom súng dội lên. Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã bay xa. Khi ngớt tiếng nổ, chỉ thoáng hai tiếng chú ý, người ta đã đoán hết được. Nhẹ nhàng, thong thả và hai tiếng đã bay xa mới thanh thản sao. Trên hồ Bẩy Mẫu đã biến mất cái bến thuyền và ngôi nhà hàng nổi mới hôm qua bán giải khát và bánh tôm. Các cô mậu dịch ở bãi bia Chuồng Cọp đã bỏ quán đi cứu sập cửa hàng và bến thuyền này, hôm nào đến lượt bãi bia?.
Sân bệnh viện Bạch Mai điện sáng choang. Những chiếc cần trục hùng hục ngoạm đất. Tiếng hát lẫn tiếng tường đổ rào rào. Ngoài đường trước cửa, ánh đèn dầu le lói, loáng thoáng bánh xe người qua lại. Khay thuốc lá. Cái bơm xe đạp. Bàn phở gà che mái lá. Phố ngổn ngang, nhưng cái chắn xe lửa vẫn còn nguyên. Chị gác barie rút lá cờ đỏ, cắm cúi đẩy cái chắn. Chân chắn đã rít chặt đất, phải đem cuốc chim ra moi. Trong lòng phố vẫn thoảng ra lẫn lộn mùi xả, mùi hương đám ma.
Một hàng nước và ngô luộc lập loè đèn bên vỉa hè chỗ xếp một dẫy xác chết đắp chiếu hôm qua. Người ngồi quanh thúng ngô luộc khói nghi ngút, kể chuyện nhà kia ở ngõ Lệnh Cư, có bảy người chết cả, chỉ còn một người thì đang ở chiến trường B. Người ta im lặng nghe đài đọc tin của sở công an về trị an mấy ngày bị bom liên miên. Tên lưu manh Như Bảo lấy trộm chiếc xe Favorit lúc bom B52 đêm hôm kia. Toà án kết án 6 năm tù và 3 năm không được ở Hà Nội.
Lại thì thào chuyện ở Pari ông Thọ với lão Kít đã ký tắt đình chiến. Không ai tin, vì còi báo động và tiếng bom vẫn ình oàng xuống. Lời đồn đại như một ước vọng. Lại thêm những rỉ tai sốt dẻo. Ngày kia 13 - đúng 13, lão Kít đến Hà Nội... Người ta mách nhau cả bộ dạng thằng Kít: lão ấy tóc mai to, kính trắng gọng vàng, và lại kể vanh vách: Kít sẽ thăm Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai. Ôi! Thằng bỏ mẹ! Nó đi xem chỗ nó vừa giết người. Kít sẽ dạo chơi công viên Thống Nhất. Kít xem văn công... Thế là thế nào!
Chẳng biết ra thế nào? Nhưng có điều đích xác là các quán bia mấy hôm nay đóng cửa. Người ta kháo nhau rằng công an sợ các bợm bia bốc bên kéo ra chặn xe ném cốc vào mặt lão Kít. Không thể, ai cũng còn đương ngỡ ngàng cái thằng kẻ cướp bỗng hoá ra con mèo hiền lành, sao lại đã sang Hà Nội còn hôi hổi hơi bom của nó thế này! Đám trẻ đùa bên tường hầm trú ẩn. Chúng nó gọi nhau: Kít? Kít! Rồi cười the thé. Một đứa thò đầu vào dây phơi quần áo như cái mành mành buông. Nhà nó đã ra ẩn ở đấy.
- Bà ơi! Thằng Kitsingiơ sang hỏi thăm bà đấy
- Con đẻ mẹ mày, kít với chẳng két!
Thế rồi mọi việc không mong không đợi đường như cứ đến. Có người quả quyết đã trông thấy lão Kít kính trắng gọng vàng ngồi xe qua Khâm Thiên. Rồi tù binh đôi bên được thả ở Lộc Ninh, ở Hà Nội. Sân bay Gia Lâm chín giờ sáng còn sương mù. Một chiếc máy bay quân sự Mỹ hạ cánh cuối đường băng, nhả cái thang dưới bụng. Nhân viên uỷ ban quốc tế xuống trước. Mấy sĩ quan ta và Sài Gòn đi sau. Một người thấp bé, áo quần rằn ri, mũ nồi đỏ, cái cần máy ảnh giơ cao. Phóng viên chiến tranh Phan Nhật Nam, tác giả phóng sự Giữa mùa hè đỏ lửa tôi vừa đọc. Trở về Sài Gòn, Phan Nhật Nam viết báo than phiền Hà Nội buồn lắm, nhưng ăn gà luộc ở khách sạn thì quả là thấy thịt gà ngon đậm như ông Vũ Bằng đã viết trong Miếng ngon Hà Nội. Anh ta xin phép gói mấy miếng bỏ vào cái áo tám túi.Lại ngao ngán nỗi không thấy văn nhân nghệ sĩ nhà báo nào được ra sân bay cho hắn thấy.
Rõ hồ đồ, Nguyễn Tuân và tôi từ sáng sớm đã đứng uống bia Trúc Bạch trong quầy nhìn ra đám tù binh Mỹ áo xanh lá cơi, cổ đeo tràng hạt gộc tre, cả bọn xếp hàng chui vào bụng máy bay. Và xem chúng mày ngọ nguậy lên xuống, giơ máy ảnh.
Ngay chiều hôm ấy, tôi có việc sang Libăng. Rời Hà Nội, vẫn ga trời Gia Lâm. Nhưng đề phòng bất trắc, bay trong chiều thật muộn. Chiếc IL 18 đỗ một mình trên đường băng. Hành khách lèo tèo vài người. Một bà người Hung đương uống cả một cốc to rượu bồ đào. Cô chiêu đãi viên hồng vệ binh Trung Quốc áo xanh công nhân, bật đèn trong khi kéo kín các rèm cửa sổ. Máy bay chưa khởi động đến cánh quạt thứ tư, bà người Hung đã ngủ vùi trên ghế phòng đợi. Bà uống để tránh biết máy bay Mỹ, nếu nó đến. Nhưng quá liều. Người ta phải dìu bà lên máy bay.
Hà Nội sau lưng âm u trong chuỗi đèn vàng vọt. Máy bay bay thấp, ánh đèn lập loè như đom đóm bám ngoài cánh. Chưa cởi dây an toàn, đã đương xuống Nam Ninh thảnh thơi rồi.

Chương V I

Tôi ở lại Maxcơva mấy hôm. Được tin Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng sớm mai tới đây cùng một chuyến bay. Nguyên Hồng dự kỷ niệm một danh nhân văn hoá Nga. Nguyễn Tuân đi nghỉ bạn mời.
Hai người sẽ trọ ở khách sạn Bắc Kinh như tôi. Vốn quen thuộc với khách sạn này - một nhà nghỉ và cao lâu bấy lâu cũng chìm nổi theo thời sự. Những năm 1958, khách sạn Bắc Kinh mới khai trương, tôi đã được chứng kiến những ngày huy hoàng đầu tiên vả cũng là sau cùng của khách sạn này.
Matxcơva vốn có một phong tục hay. ở đấy có quán ăn của các nước cộng hoà và của nhiều nước khác. Mới đây, hãng Mỹ Mác Đô Nan mở cửa hàng bánh mì kẹp nhân thịt ở cạnh quảng - trường Puskin, người xếp hàng dài vào mua cái món ăn quen mà lạ. Cao lâu Grudia, cừu nướng thơm ngạt mũi chẳng khác khói mỡ các quán cố kính, hoang dã dưới hầm ở thành phố Tybilitxi. Người nhà bàn, áo sơ mi trắng viền đỏ quanh cổ. Tiếng nhạc grudia như vẩn vương từ thảo nguyên tới. Các phòng ăn cao lâu Bắc Kinh, kiến trúc và trang trí như một dinh thự, một lâu đài, một hành lang bao quanh hồ ở Di Hoà Viên. Cột đình sơn son thếp vàng chói lọi. Những bức lụa quốc hoạ én bay liễu rủ. Món vịt quay Bắc Kinh nổi tiếng, nhà bếp bưng cả con vịt lên bàn trước mặt khách, với dao và thớt phụ bếp xách theo. Con vịt vàng hây đã được rút hết xương, dao chặt hoa lên như múa. Hàng ngày, máy bay chở rau, gia vị và các thứ nhà bếp cần dùng, chỉ có bảy tiếng từ Bắc Kinh đưa thẳng tới.
Rồi trải ba thập kỷ, khách sạn Bắc Kinh ở Matxcơva tàn lụi, thoi thóp. Nhà hàng vẫn giữ vẻ bề ngoài, vào bàn có thể cầm đôi đũa mun đen bóng, có đĩa măng khô và miến xào mộc nhĩ. Mặc dầu, nhà bếp Nga đã thay đầu bếp Trung Quốc, nhưng mà đường xa và thói quen hơi hướng đũa bát quê hương cũng là một cái thích khiến tôi vẫn mỗi khi qua thì ăn nghỉ ở đấy.
Từ năm ngoái, có sự giao lưu trở lại, khách sạn Bắc Kinh đã tươi tỉnh hẳn lên, có thể còn xuân sắc hơn xưa. Kiến trúc sư, hoạ sĩ và các nhà chuyên môn Trung Quốc sang tu bổ nội thất. Những xếnh xáng nhà bếp Tàu đội mũ nồi ngất ngưởng màu xanh, màu hồng lại bưng cả con vịt quay vàng tía bóng mỡ lên rồi múa dao chặt thành miếng trước mặt thực khách. Biết tin vui thế, nhưng chưa lần nào còn được trở lại. Những người đi việc công có đôi chút ghé gẩm nghé nghiêng ra vẻ du lịch như tôi kiểu nhà nước cấp tiền và nhờ vả, rặt những trớ trêu và buồn tủi. Miếng ăn, cái uống, nơi nào sao mà tự mình định được. ở Tân Đê li, khách sạn ba sao Giampat mỗi lần tôi qua tầng trệt, các chủ hàng thoáng thấy, vội ra đứng trước quầy cúi đầu cung kính mời vào xem vàng bạc, đồ da, đá quí và các thứ rượu. Nhưng túi rỗng, tôi ngước mắt đi qua không chào lại vờ như còn đương mải nghĩ. Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội nhà văn á Phi 1969, bà thủ tướng J.Ganđi trao tặng kèm nghìn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ bằng chứng nhận và chiếc huy hiệu bằng đồng to như cái đĩa. Và mấy chai vôtca các bạn nhà văn Nga cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán ta nhận tiền giải thưởng tôi đưa, có làm một tiệc đứng ăn nem rán mời khách.
Cái năm Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng với tôi đến ở khách sạn Bắc Kinh cạnh quảng trường Mai còn hiu hắt. Chúng tôi vẫn còn được uống Mao Đài, kể cũng là cái thú còm. Không biết ai là người trước nhất nhớ ra năm 1978 ấy, nhà văn Nguyên Hồng tròn sáu mươi tuổi. Nên chơi một cuộc chúc thọ ông chứ!. Mọi tốn kém trông vào tiền bài báo tôi vừa nhận của báo Tin tức, bạn thân Misen đưa cho. Tự huyễn cho có mẽ, chứ chỉ là bữa chén thường, có của quí Mao Đài với mấy bạn nhà văn và bạn phiên dịch tiếng Việt ở Matxcơva. Phía chúng tôi, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và Nguyễn Văn Mãi với tôi, hai chúng tôi đương đợi ngày hẹn tàu hoả đi Vacsava. Phòng ăn lớn đông nhộn. Dàn nhạc cuối phòng nổi lên, người ta bắt đầu nhảy. Marik bảo tôi: Này ông để ý nhé, những người vừa làm chầu sâm banh xong ra sàn nhảy kia không phải như ông là khách nước ngoài trên phòng xuống ăn tối đâu. Không bọn chó lợn ấy là giám đốc, là người làm cửa hàng nhà nước ở các phố quanh đây. Anh Vlat phiên dịch tiếng Pháp khi còn sống, hay đưa tôi xuống thành phố bờ biển Yanta trong bán đảo Crưm. Lúc đầu tôi không hiểu sao Vlat rất ghét những người có nhà rộng, buồng đẹp hàng năm cho khách thuê mùa hè. Nhưng rồi Vlat nói: Bọn chó này thời chiến tranh thì chạy hết xuống phía nam, đi buôn lậu, giầu lên, có tiền tậu nhà, chúng nó sướng đến tận bây giờ, mà em trai tôi thì bỏ mạng ở chiến hào ngoại ô Matxcơva. ờ mà sân khấu Hà Nội đã diễn vở kịch Câu chuyện ở Iêckut, có hai thanh niên xung phong đi khai hoang đã chửi người chị là nhân viên cửa hàng của nông trang không dám ra khỏi nhà một bước, chỉ bám vào cái quầy bách hoá rình ăn bớt của khách từng đồng xu. Những ti tiện ấy tôi cũng đã chứng kiến ở bistro và các quầy ăn đứng trong khách sạn. Những hôm vắng khách, không phải xếp hàng, có mình tôi mua gói sữa smêtan hay miếng phó mát, thế nào tiền trả lại cũng thiếu vài hào, vài xu. Những bà bán hàng béo ục ịch ấy đã biết tôi không có tiếng Nga.
Đương vui, lại thấy Nguyên Hồng lật đật ra thang máy. Chốc chốc lại bỏ đi một lát.
Cô Ina Zimônina hỏi:
- Ông Nguyên Hồng quên những gì trên buồng mà cứ phải lên nhiều lần?
Tôi cười:
- Không, ông ấy có bệnh.
- Thế thì phải đi khám. Bệnh gì?
Tôi chạm cốc với cô bạn Nga kỹ tính.
- Không cần. Bao giờ cô được ăn mừng lên lão sáu mươi tuổi thì cô sẽ biết những bệnh của người già, bệnh già.
- áp huyết hay thấp khớp?
- Ina thân yêu, bệnh Tào Tháo đuổi thôi. Không đáng lo!
Bao giờ cô đến sáu mươi... bệnh già... Không khi nào tôi hỏi lại Nguyên Hồng hôm ở phòng ăn khách sạn Bắc Kinh làm sao cứ mỗi lúc lại phải chạy lên buồng. Biết rồi, chẳng đái giắt thì cũng đi trống tràng, mà hôm nay không ra đến phố chỉ ở trong nhà nên hà tiện một viên thuốc rửa. Đã lâu, nghiện rượu chợ, rượu tạp với ớt, với ổi với mướp đắng heo hút ở đồi Nhã Nam, vơ váo ăn và uống lộn xộn đã quen dạ. Đến nỗi cái ngon lành lại đâm lạ miệng, rối loạn tiêu hoá. Tôi đã biết từ lâu ông bạn rượu của tôi khoẻ nhưng yếu bụng kinh niên. Trong cái cặp da bản thảo thường cắp theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy dầu vỏ bao ximăng Con rồng xanh không thấm nước. Có việc cả đấy, việc cực gay gắt. Đêm ngủ đâu nhỡ một cái, mà chuồng xí ở nhà dưới, ở sân sau, đèn đóm không có, khuya khoắt quá rồi thế là người lần ra hiên hay cạnh cửa sổ, trải mảnh giấy dầu ra. Được cái phân tháo tỏng thì ít nặng mùi, rồi gói lại kỹ lưỡng bỏ vào cặp. Hôm sau vứt xuống hồ hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột sạch đem phơi. Chẳng coi là sự bẩn thỉu phải giấu diếm, nhiều lần Nguyên Hồng đã cắt nghĩa cho tôi về tác dụng nghệ thuật so sánh hiện đại của mảnh giấy dầu. Nguyên Hồng bảo: Trên máy bay người ta bĩnh vào bọng hố xí thì cũng thế. Cái kiểu tuôn xuống đường sắt ở xe lửa còn kém văn hoá hơn nhiều. Lý sự đến vậy thì chịu. Khốn khổ, cái lão cãi chày cãi cối cho bệnh già mà lão không khi nào chịu ai chê lão già. Lão thường phàn nàn ầm ĩ là vợ lão kheo khư như con mèo hen khiến lão mất cái hứng của Dương Khuê Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa. Không, nhưng mà cũng có, những tơ nhện thoang thoảng. Nạ dòng, má phúng phính bánh đúc, áo cánh chồi, nhai trầu môi cắn chỉ là ăn ý lắm. Mỗi khi gặp người dáng dấp vợ cai vợ lính xưa mà chúng tôi đều đặt tên là bà ách và ghép tưởng tượng cho lão Nguyên Hồng, bà cai ách bán bia hơi gần chợ Hôm, bà cai ách bia chai ở bờ hào trên Sơn Tây là vậy.

Có một trận tan hoang hơn. Dạo ấy, trên Yên Thế ở cái chợ chân đồi mà Ngô Tất Tố đã miêu tả trong bút ký Phiên chợ trung du ở Tạp chí Cứu Quốc có một mụ hàng xén tản cư. Chẳng hiểu ông anh câu được bà mèo già ấy từ bao giờ. Chỉ biết rồi mãi cái kim trong bọc cũng phải lòi ra, có người mách, một hôm bà chị đã kéo cả đại đội binh mã con cái ra đánh ghen một trận. Mụ hàng xén bán sới đi nơi khác. ít lâu sau, tôi hỏi: Bóng chim tăm cá ra sao, có còn gặp lại nàng Kiều không? Nguyên Hồng nhăn nhó trả lời: Mất mẹ nó cái màn Chẳng biết người ta dọn chạy đòn với cái màn nhà văn gửi bán hay cái màn của ông ấy đem ra mắc để đêm nằm cho đỡ muỗi!
Vẫn chưa hết những chuyện tầm phơ. Có một quán bia hơi gần ngã sáu mà trong một thư của Nguyễn Tuân viết cho tôi lên Lai Châu có nói đến quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái - cái tên bà cai ách cũng vẫn là chúng tôi đặt và gán cho ông cai ách Nguyên Hồng. Bà cai ách và lại một câu chuyện gần hương gió bay đâu cũng thây kệ. Nguyên Hồng để ý cái bà nạ dòng phì nộn ấy. Mỗi lần có xe bia về, lão xích lô co chân đạp hai thùng bia lăn xuống hè, bác gà trống cứng cựa Nguyên Hồng tỏ tình bằng cách lau chau ra ghé vai vác thùng bia vào, kê lên bệ cẩn thận. Hôm khác, lão xích lô xe bia về, lót gạch đạp xe lên hè vào sát cửa. Làm cho tình địch Nguyên Hồng mất một dịp ra tay giúp đỡ và gần gũi. Nhưng mỗi lần bia về, Sơn Tinh xích lô và Thuỷ Tinh Nguyên Hồng khi nào cũng được bà lão người đẹp rót cho mỗi người hai vại bia tươi đầu tiên và chúng tôi cùng được chan hoà hưởng lây.
Một hôm, tôi mách Nguyên Hồng: Ông ạ, quán bà cai ách sắp bị đóng cửa? - Sao? Sao? - Bà ấy bảo chúng nó đổ cho bà tằng tịu với lão xích lô, tai tiếng ầm ĩ, nhà máy không cấp sổ đại lý cho nữa!. Nguyên Hồng cười hê hê. ối mẹ ơi nhà máy bia ô Mền bây giờ kiêm cả công tác bảo vệ đạo đức bà phó Đoan.
ở khách sạn Bắc Kinh, sớm hôm sau, Nguyễn Văn Mãi và tôi đi Vacsava. Chia tay, tôi hỏi Nguyễn Tuân:
- Hôm nào ông xuống nghỉ dưới bãi biển Yanta?
- Không, mình ở đây...
- Đi nghỉ cơ mà?
- Đây cũng là đến nơi nghỉ rồi? Cuối mùa thu, sắp có tuyết, xem tuyết Matxcơva cũng hay.
Tôi chịu. Đó lại là sáng kiến tự gây hứng thú, ai mà cãi được. Khi mùa đông tới, người Matxcơva xuống Hắc Hải tránh cái băng giá phương bắc. Nguyễn Tuân thì muốn ở lại nơi ban đêm ba mươi độ âm để xem tuyết? Mà Nguyễn Tuân mới chỉ qua cảng Ôđetxa, chưa đến thành phố thoáng đãng cửa biển và lịch sử Yanta trong bán đảo Grưm lần nào. Cái kiểu nói của một người cả đời thèm đi bây giờ cũng đâm ra ngại đi rồi.
Đến hôm tôi ở Vacsava trở lại, cả Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đều đã về Hà Nội. Anh bạn Marik kể rằng ông Nguyên Hồng xuống Khackôp đi xem bóng đá thấy những pha đẹp mắt, ông đứng trên khán đài huara huara loạn xạ rồi ôm đại các bà đầm hai bên, nhẩy lên. Cô phiên dịch Galina khiếp quá phải điện về hỏi Matxcơva, cô Ina - lại một người đàn bà khác, cũng sợ quá, lập tức bảo đưa ông ấy về ngay. Thế là ở Matxcơva hai ông cùng nhau ngày ngày ngồi uống rượu trông ra cửa sổ xem tuyết rơi. Hôm Nguyên Hồng về, Nguyễn Tuân cũng về theo - trước cả ngày hết hạn nghỉ.
Tôi đến chơi nhà, Nguyễn Tuân đứng dậy mở cánh cửa chớp, rồi lấy ra một chai cô nhắc năm sao trong đám hành lý mới về. Một chút nắng chiều đông nhợt nhạt còn rớt lại ngoài cửa sổ, đung đưa như miếng lụa hoa cau bị xô rách. Không ai nói một câu về mấy ngày Matxcơva vừa qua mà bỗng chốc đâu có thể quên ngay, dẫu cho không có gì vui buồn đến gợi nhớ. Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới rầu rầu nói: Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà tớ, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản chí của người già bạc đến hết cả lông mới nghĩ quẩn thế chăng.
Lại còn không biết sao nữa! Chẳng qua đây chỉ là lão giang hồ tự hỏi, tự hận. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu cứ quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt. Trải mãi gió bụi, mái tóc càng thưa thêm. Tâm sự và tóc. (Cao Bá Quát). Hai cẳng chân ngày càng giở chứng, làm mình làm mẩy. Ngày ở rừng Việt Bắc, tôi đã thấy cái người hay nay đây mai đó ấy chịu khó chăm lo cho hai chiếc bàn đạp chân cẳng mình thế nào. Chân Nguyễn Tuân đã lôi thôi từ những khi ấy. Cái đận ở rừng Thường Yên âm u ẩm ướt, vào tiết đổi mùa, nhiều khi phải nằm bệnh suốt phiên chợ. Cả buổi cháu Trần Mai Thiên lụi hụi ngồi xổm trên cái giát tre bóp chân cho bác Nguyễn. Đi đâu, lúc nào Nguyễn cũng trữ miếng cao hổ bọc giấy bản trong ba lô. Cả ngày lội suối, cảm thấy trục trặc, đêm lại ngậm tươi một miếng cao. Không biết chừng, người ấy đã nuốt xương cốt đến cả mấy chục chú hổ Lai Châu, hổ Xiêm, hổ Lào?
Sức khoẻ dần dà xuống dốc tự nhiên, như nhiệt độ hàng ngày và dự báo mưa nắng. Cái xe đạp mất cắp ở cạnh cửa khách sạn Thống Nhất thế rồi bỏ đi xe đạp. Vài đoạn đường bách bộ với chiếc gậy song Sa pa, hay là một cuốc xích lô. Nhưng cuộc chia tay của Nguyễn với cái máy chữ Baby thì thương và nhiều nghĩ ngợi hơn.
Cái năm mới trở về Hà Nội, Nguyễn Tuân có dịp cùng đoàn đại biểu hoà bình Việt Nam đi Hen sanh ky dự đại hội hoà bình thế giới. Hoà thượng, linh mục, nhân sĩ, trí thức, đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ quân đội, thanh niên, phụ nữ... Chẳng thích thú gì đoàn, chưa chắc đã nhìn mặt những người cùng đi, nhưng có cơ hội được tới nước Phần Lan trên mỏm bắc bán cầu. Rồi lại một chuyến đi xa nào đấy, Nguyễn Tuân sắm cái máy Baby xách tay dấu quốc ngữ. Hay là mua máy ở chợ giời tôi không biết. Bởi vì mỗi khi đổi vạc thì bộ mặt thời cuộc thành phố này lại phơi bày đủ thứ ngoài chợ giời. Những đĩa hát của Mộng Hoàn, của Chu Thị Năm năm xưa cũng là những chứng sống của thời thế mà ông đã nhặt ở chợ giời. Tôi thực không biết gốc gác cái máy chữ Baby ấy - vỏ rách một góc vải, nhưng những con chữ còn mới cạnh sắc.
Tháng ngày qua, con người ở vào tuổi triền núi bên này, cứ sớm tối như chiêm bao. Lại nữa, cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần. Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai, khác nào người sơn tràng cả đời thừng chão, rìu búa đi kiếm củi rừng đến khi về già leo dốc thở ra cả hai tai mà vẫn ao ước và tưởng tượng trèo lên lưng cây, mạng sườn quấn chão, lưỡi rìu khoác vai. Nhưng chẳng còn một hột sức ôm nổi cái gốc cây. Thì lại thở dài nhìn cái đứa mạnh chân khoẻ tay hơn.
Môi người viết có một thói quen khác nhau.
Nguyễn Tuân thì cả đời chữ nghĩa và xung quanh người bái phục, người điếu đóm, người bắt chước cái ăn, cái mặc và hóng chuyện để đồn thổi. Tiểu thuyết Bốc đồng của Đỗ Đức Thu ngày trước đã vẽ ra được những nho lại làng văn và những khỉ bắt chước người như ở trên. Chẳng cứ chỉ có xưa kia, mà về sau này cũng tương tự thế. Người ta châu tuần và chầu rìa quanh Nguyễn Tuân, đợi được sai bảo, được đi chơi với, uống với. Năm cũ ông Văn - tên nhân vật trong tiểu thuyết Bốc đồng mà bạn đọc có người đoán là Mạnh Phú Tư, ông bán cả ruộng hương hoả, ném vào các cuộc chơi, lăn lóc đến phát bệnh sốt rét vì liên miên thức trắng đêm ở nhà hát. Thế mà các cụ vẫn mạnh khoẻ, lại gật gù: Các cụ cho là được! Ông lang Hà Văn Thực phố hàng Cót đánh đu với tinh cũng mở nhà xuất bản Lượm lúa vàng rồi nghiện bẹp hai tai vỡ nợ tan cả hiệu thuốc bắc gia truyền. Ông Lê Trọng Quỹ giọng trầm não ruột, không biết có phải vì nhờ hơi thuốc phiện làm cho tiếng khàn khàn mà ngâm thơ buồn đến thế, rồi ốm phải phát mại cả cái cửa hàng sắt vụn. Ông Lê Đức tập tọng viết văn về nhà cầm đoạn mại ruộng đem nắm tiền ra, theo gót đàn anh, chỉ học được mỗi cái trò giắt trong cạp quần lá tọa một cái tẩu thuốc, chiếc ấm mạnh thần với cái chén hạt mít để theo đòi trà đạo. Có người cũng mặc áo gấm trần, chít khăn lượt đi giày Gia Định, tay cầm quạt thước - như Nguyễn. Cả những năm sau này Nguyễn đã cao niên mà cũng chẳng thiếu ông làm dáng theo. Có ông hoạ sĩ chải ngược tóc như Nguyễn, đến lúc ông Nguyễn xoã mớ tóc bạc phơ sau gáy, cũng lại lắm ông xoã tóc, như Nguyễn. Ông Nguyễn Tuân rởm ấy đi nước ngoài, lên máy bay, mặc sơ mi ngắn tay kẻ ca rô, tay chống ba toong nghênh ngáo nhìn xem người ta có nhìn mình như nhìn ông Nguyễn không.
Cũng là cảnh thảm với nhau mà thôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng chuyện về những người bắt chước dở hơi ấy. Hay gọi một cách kính trọng, những người rồ chữ, chữ thật và chữ giả. Ông anh con nhà báo trong quê ra, hỏi tôi: Này chú, cái lão Xuân Diệu thế nào ấy nhỉ?. Chả là anh tôi làm chủ nhiệm hợp tác xã mà hôm trước nhà thơ Xuân Diệu về huyện nói chuyện thơ, các chủ nhiệm được lên dự. Nhà thơ nói về Kiều. Ai cũng xuýt xoa ông nói hay quá. Nhưng người ta buồn cười vì thấy ông nhà thơ cứ chốc chốc lại đổi chỗ lọ hoa, bê cái đèn nơi này sang nơi kia vẫn chỉ ở trên bàn. Thỉnh thoảng lại quát người nghe: Vỗ tay đi chứ. Tôi lao động thì đồng bào phải vỗ tay khuyến khích tôi lao động. Vỗ tay nào? Tôi nói: Anh Xuân Diệu nói chuyện giỏi lắm, thế là nói theo mốt Tây đấy, bác ạ. Anh tôi cười: Cũng là rồ chữ, rồ chữ, chú ạ. ừ, rồ chữ cũng có nghĩa đẹp là hay chữ, hay chữ quá hoá rồ. Có ông già nửa đêm thức dậy, ngồi nói từng tràng tiếng Tây một mình. Có ông dạy đàn xưa kia giàu có rồi cái trường nhạc của ông phải đưa vào quốc doanh, bô Duyệt mới chơi trống bỏi lấy một nàng nửa chừng xuân. Bây giờ thì ông trắng tay, nhưng dẫu cơm trộn mì, ông cũng dọn lên bàn, cầm thìa dĩa thái, cắt rau muống luộc, và húp bát súp nước rau, cay đắng gậm nhấm sự hoài cổ. Một nhà văn nọ sắm mấy bộ thìa dĩa cho cả nhà. Ông ấy mơ màng, ngỡ kháng chiến thành công rồi thì đốt được giai đoạn ăn cơm đổi đầu đũa và lấy đũa chùi ngang mép thay khăn mặt, bây giờ hứng phấn sắp bước sang thời nếp sống ngồi bàn thìa dĩa cầm như Tây thì phải sắm đồ Tây.
Nguyễn Tuân tủm tỉm:
- Thì cười ngay tao đây chứ còn phải cười thằng nào. Tao qua Bắc Kinh, gặp Tào Ngu. Tào Ngu vỗ lưng tao, - nói tiếng Pháp: Các toa có tự do, thật sung sướng. Moa thèm đi Hà Nội. Chuyến ấy Nguyễn Tuân ở khách sạn với vợ chồng Vercors đương thăm Trung Quốc. Đã ngỡ rồi ra quảng cáo những cảnh tưng bừng, sách của ta bày bán bát ngát trong nước ngoài nước. Hàng năm xách vali đi du lịch bằng tiền túi. Phải có thư ký riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái mình làm thư ký. Nhưng trước mắt ngay lúc ấy thì vẫn túi lép kẹp, đến Bắc Kinh thăm chợ Đông An, hai tay đút túi, đứng chỉ xem hàng và cố đi nhìn cái hiệu Thôi Tụ Đức thịt quay Bắc Kinh tiếng tăm lừng lẫy thế giới cho biết mặt, chứ làm sao bước chân vào được. Mà mỗi khi ở sân bay Gia Lâm về qua cầu Long Biên, ra ngã sáu dốc hàng Kèn làm cuộc tẩy trần bát cháo gà lão Chữ cũng phải nhẩm xem trong túi có bao nhiêu. Mới nhớ ra cái vé máy bay, cái tiền ăn và tiền tiêu vặt hàng ngày là của người ta cho, chẳng phải đồng nào của nước mình, của mình. Có ra gì mà vênh? Dần dần đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!
Nói thế chứ, đồng tiền phân bạc, Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn đượm màu phong lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn Tuân, một người ý tứ, trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp. Giựt nóng tiền của ai để ra bà hàng hoa quen ở ngã tư Tràng Tiền mua bốn bông hồng vàng lòng trứng đưa đến bữa ăn sinh nhật nhà bà nhạc sĩ nọ. Chỗ này dọn dẹp sang chỗ kia, làm cho những người mình nhờ cậy, những người mình biếu tặng cứ tự nhiên nghĩ mà phải bằng lòng phải cảm kích. Tài nghệ lắm mới sáng tạo, mới tính ra được những khu xử tế nhị đến thế.
Nguyễn Tuân bảo:
- Lại nói nốt chuyện hôm nọ.
- Chuyện gì?
- Chuyện ta mộng thành nhà văn cỡ quốc tế ấy mà.
Nguyễn Tuân kéo trong gầm giá sách ra cái hộp nhựa giả da nâu đã sờn góc. Chiếc máy chữ Baby xách tay mọi khi tôi vẫn trông thấy đặt dựng hộp máy trên gờ thềm gạch giữa buồng.
- Hôm nọ đã nói đấy, tớ cũng tô hồng và ảo tưởng đáng chửi chẳng khác cái thằng sắm thìa dĩa để sắp sửa vứt đũa, chỉ chén cơm tây. Chiếc máy chữ này, cứ nhìn đến mà sượng cả mặt. Máy chữ để cô thư ký tưởng tượng đánh máy bản thảo hão huyền. Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà ông mang đi đâu thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập nó mất. Mang đi, mang đi giúp tôi. Đả tự khí! Đả tự khí? Thời các cụ ta gọi máy chữ là cái đả tự khí. Bớ tổng binh Tô Hoài, nhà ngươi hãy mau mau đem trôi sông cái đả tự khí Baby đi cho trẫm. Ha ha? Trẫm ngứa mắt lắm rồi.
Mặt Nguyễn Tuân đỏ găng. Vua đương ra vai đập cái nậm rượu gỗ, cả rạp cười ngoặt nghẽo, nhưng người đóng vai thì bụng lép và vợ ốm nằm nhà. Tôi không muốn điều mai mỉa này làm rầu lòng thêm Nguyễn Tuân. Tôi lây cái sợ. Tôi lặng lẽ xách cái máy chữ Baby chặt ních mơ ước một thời, tôi bước giật lùi ra cửa. Không biết còn có những ai đem đi giùm anh đôi giày đẹp, những bộ quần áo nhã nhặn mùa thu, mùa đông, mấy chiếc bút máy Sapphơ cho nó tiêu tan xoá sạch giấu mộng kê vàng nhà văn thắt cà vạt đỏ đi du lịch năm châu - như cái câu ghen tức vu vơ của cậu Hoàng Huế cầm bút hồi 1956 đã viết trên tập san Đất mới mỉa Nguyễn Tuân như thế. Cái máy chữ ấy tôi không biết dùng. Dẫu cho bây giờ người cầm bút trên thế giới ít người viết tay, những nhà sáng tác ở Sinaia, ở Yanta, ở Pitsunda, đêm máy chữ mưa rào rào. Nhà văn Colombia, Gabrien Gaccia Mackêt, năm 1989, đã viết cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông bằng máy chữ điện tử, người nói vào máy, chữ tức khắc hiện lên. Mackêt trả lời một nhà báo phỏng vấn: nếu chiếc máy thần diệu này xuất hiện sớm, chắc chắn số tác phẩm của tôi còn nhiều gấp mấy lần. Mackêt năm trước đã tới Hà Nội. Tất nhiên, ông ngao du bằng tiền túi của ông. Ông đi chơi với vợ và con trai, vào Sài Gòn qua đường Băng Cốc rồi ra Hà Nội. Nguyễn Văn Bổng và tôi đã đến đánh chén với gia đình Mackêt trên gác nhà khách chính phủ gần hồ Gươm. Hai con trai Mackêt, một đứa học ở Paris, một đứa ở Nữu ước. Tôi đưa cậu bé học ở Paris đến nơi ở đoàn ca múa Hà Nội phố Hàng Quạt mua cái sáo trúc. Đêm xem biểu diễn, cậu ta mê cây sáo Việt Nam. Makêt nói ông có thể biếu ta một tàu chở giấy để in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ có một yêu cầu: không được cắt đoạn nào. Liên Xô đã xuất bản Trăm nam cô đơn, tự ý bỏ một số trang. Mackêt không thèm đến Matxcơva nhận bản quyền, mặc dầu nhà xuất bản đã mời tác giả nhiều lần.
Những chuyện trời đất huy hoàng đâu đâu của người ta, còn chúng tôi vẫn kỳ thu, cặm cụi với cái bút máy, bút bi, bút chì. Nguyễn Tuân dùng bút dạ. Đã lâu, cũng chỉ thấy viết những đầu đề bài to thô lố lên đầu trang giấy rỗng ruột cặp vào tấm bảng nghiêng như cái giá vẽ - thỉnh thoảng lại thay cái đầu đề mới, không có được hàng chữ nào ở dưới.
Tôi bán cái Baby cho ông Quí đánh máy ở cơ quan, được hai trăm - đồng tiền thật là phấp phỏng khi bom đạn đương trút xuống thành phố. Cũng không biết đắt hay rẻ, chỉ thấy ông lão công nhân đả tự khí ấy cũng thờ ơ, ông bảo chẳng cần cái máy nhỏ này, tôi bán thì ông mua vậy. Năm ấy, không còn quán Tiểu Lạc viên. Ông cháo gà giải phóng quân cũng bỏ cao lâu Tứ Kỳ ra bán hàng vỉa hè, rồi chắc hàng họ ế ẩm, lại sang làm cho quốc doanh Mỹ Kinh, rồi biến đi đâu mất. Bôđêga, Phú Gia, món ăn uống và gia vị loạc choạc. Chim quay chấm nước mắm dấm và nhà hàng chỉ có rượu chanh. Chả cá Sơn Hải đóng cửa đã lâu rồi, Lã Vọng cũng nghỉ hết. Hàng ăn Nguyên Sinh của nhà mậu bán chả cá theo xuất mỗi xuất kèm một chiếc bánh đa, một đĩa bún rối. Có miếng chả nhằn được cả xương. ế chỏng gọng không có khách. Dưới ngã sáu cũng không còn ai - lão 81 đã về âm phủ làm bồi cho khâm sứ Grapphơi, ông cháo gà Chữ đau lưng cũng ra tha ma đã lâu. Các quán ăn Tàu chỉ còn lại lão Sáng nhị mũi. Ông Sáng không phải nhà bàn, nhà bếp, không nghề gì, nhưng được mẽ người mỡ màng. Cứ đeo tạp dề lướn phướn từ bếp ra chỗ để xe đạp, rồi lại quay vào, nói ề à mấy câu nhị mũi, giọng nhà bàn nhà bếp Quảng Đông hô món đối đáp như hát. Thế là khách có cảm tưởng vào cao lâu Tàu.
Sáng nhị mũi mở quán riêng, vẫn quanh quẩn ở Hàng Giầy. Nhưng phố xá tàn tạ, đường đá lổn nhổn, phơi ra những cái ngõ rác rưởi, nhà đóng cửa im ỉm. Quán hàng như ngọn đèn leo lét. Nhà mậu bán phân phối từng thanh củi và mỗi chục lá dong gói bánh chưng Tết. Ba mươi Tết, quầy chợ Hôm bán chân giò còn nguyên cả lông.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Mày làm thịt được cái Baby rồi à?
Thì ra ông Quí đánh máy đã khoe với Nguyễn Tuân ông mới mua cái máy chữ của tôi. Tôi cười, không đáp. Chắc Nguyễn cũng chẳng cần tôi trả lời ăn thịt cái máy chữ, chúng tôi đến quán Sáng nhị mũi, hảo, hảo à...
Những chuyến đi vất vả, con sư tử già đã rụng cả răng rồi. Lần ấy ở Sài Gòn ra, Nguyễn Tuân xuống ga Nội Bài, bên nách chống nạng. Bệnh tê thấp kinh niên đã vật Nguyễn cả tháng ngay ở cái thành phố cao ráo mà xưa kia cũng như bây giờ, những người phong lưu ở miền Bắc ưa thay đổi nơi ở ít lâu thường vào đấy để tránh bệnh hen, bệnh tê thấp hay hành hạ người ta vào mùa đông ẩm ướt. Sở thương binh Sài Gòn đã biếu nhà văn chiếc nạng đỡ bên chân đau. Về Hà Nội rồi còn phải nằm bệnh viện suốt mấy tháng.
Hồi 1954 mới trở lại thành phố, nhà Nguyễn Tuân ngụ tạm trên đường Hàng Lọng, ít lâu rồi thuê được hai buồng trên gác hai cạnh bệnh viện Đặng Vũ Lạc cũ. Cứ ở đấy tới bây giờ, trên ba mươi năm đã qua. Vùng ấy quanh ga Hàng Cỏ, cuối thế kỷ trước còn là bãi Quần Ngựa giữa cánh ruộng nước. Rồi những nhà có của cất dần lên cả khu phố cho thuê. Chủ hiệu vàng Chấn Hưng Nhà Đỏ Hàng Bạc có nhà cả ngõ, đặt tên là ngõ Tân Hưng. Cái dinh thự đồ sộ mà nhà Nguyễn Tuân thuê hai buồng ở sâu có đường dẫn qua cổng sắt, ngày xưa, chắc cũng là lối vào ra của xe song mã, xe nhà, xe ô-tô. Toà nhà ấy, các chủ thừa kế chuyển đến điền chủ Phỏng ở Thái Bình thì đem cho thuê từng buồng. Mấy năm đầu, bà Hoàng Yến vợ Hoàng Cầm còn đến thu tiền nhà hàng tháng. Rồi sở nhà đất quản lý, nhà đông dần thành một cái xóm nhỏ trong một số nhà chật chội, bưng bít, ngổn ngang.
Hai bên tường bị cơi lấn, chỉ còn một lối đi ngóc ngách. Cái thang gỗ vươn lên tầng hai buồng bác Nguyễn màu lim đã lên nước tối sầm mắt. Tủ sách, giá sách và dãy chai lọ rỗng nhãn các loại rượu nước ngoài - lại cả một tranh áp phích Ba Lan vẽ chai rượu to tướng, có thằng người bơi trong chai. Bầy cho vui mắt, tất cả mọi đồ lề hồ như tàn tật, buồn bã, mệt mỏi. Dạo ấy, điện hay bị tắt tự dưng thình lình có khi mất điện chốc lát, có khi cả đêm, cả ngày. Chiếc quạt nan, cái đèn hoa kỳ đặt trong vỏ hộp bia lon và cây nến đỏ cũng thành những trang trí bên chiếc mâm đồng cỗ bát bằng vỏ đạn cao xạ xin được ở một trận địa pháo ngoài Bờ Sông đã đem nhờ lò đồng Ngũ Xã đúc thành cái mâm. Cũng chẳng có của nả nào quý. Nguyễn Tuân không mê đồ cổ. Các thứ bày biện chỉ để cung đốn cho cái thích vật dụng và kỷ niệm. Trên tường, bên tờ áp phích Ba Lan có áp phích của Cu Ba kỷ niệm sáu trăm năm Nguyễn Trãi. Những cái tranh, mẩu tin cắt ở báo ra thay đổi theo lịch hàng tuần bên đoá hoa hồng vàng lòng trứng mua ở hàng hoa ngã tư Tràng Tiền. Có khi, một nhánh lan địa tim tím thơm ngát cắt ở chậu cảnh nhà Kim Lân. Và Tết đến, có một cành đào phai, dáng thế kỳ dị với quả phật thủ của Phạm Văn Khoa, có khi là quả bòng trong Canh tôi mua ở chợ Bưởi. Con chó đá và cái tượng gỗ canh cửa chúng sinh không biết lôi ở đình chùa hay nhà địa chủ nào về. Một ống đựng cả chục chiếc ba toong, gậy song, chiếc sơn then cán bạc, chiếc gậy lụi. Ngoài hàng hiên, lủng củng dãy vỏ chai sâm banh, bia hộp, vang dâu dưới bóng dây thiên lý leo trên lan can. Những thức bị đày ải ngoài trời ấy sắp đem tống xuống quang gánh bà đồng nát, mà bây giờ là ai chai lọ, giấy báo cũ ơ... Riêng chiếc gối sành trắng nhễ nhại to bằng hòn gạch vồ rỗng ruột vẫn đứng giữa trời nắng trời mưa bên song sắt. Cái gối trong tiệm thuốc phiện ở Chợ Cũ, đã khuân trong Sài Gòn ra. Rải rác, trên tường, trên giá sách, hòn cuội, hòn đá lăn lóc mà mỗi chuyến đi bể đi núi về tôi hay đem cho Nguyễn Tuân với những ký họa giấy và sơn dầu, sơn mài, ảnh và tượng đầu Nguyễn Tuân của Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Sĩ Ngọc, Thành Chương, Hoàng Kim Đáng.
Nếu mất trộm, chỉ có một chiếc đài Liên Xô con con đặt đầu giường may ra còn bán được tiền. Nhưng cái đài cũng đã lão lắm, mấy lần Nguyễn Tuân nhờ tôi, nhưng bên Matxcơva cũng không còn đâu bán phụ tùng thay thế loại đài cổ ấy. Chủ nhân hàng ngày mở đài linh tinh các mục. Cho phòng có tiếng người, đỡ vắng. Chiếc mâm vuông gỗ sơn then Sĩ Ngọc mài, làm bàn nước, bàn ăn, bàn viết, bàn khách, với mấy cái ghế mây thấp người Thái ngồi bếp ở Lai Châu, chẳng biết nhặt nhạnh được ở những đâu.
Hôm ấy se se lạnh, từng làn gió nửa dải đồng, nửa heo may rạt rào vào đầu tường. Có cái gió hiu hiu này, ở ngoài đồng chắc thơm đầy mùi lúa cốm đương gặt. Những ngày vào thu ngắn ngủi đáng yêu. Nguyễn Tuân khép cửa. Cồn 90 trong lọ được đổ ra chiếc đĩa nhôm. Giữa lưỡi lửa xanh rờn, con mực Bắc Hải nâu nhạt mỏng manh như cái lá đề ưỡn dần lên. Nguyễn Tuân cầm chiếc kẹp bông băng lật con mực đã xém cạnh. Và tần ngần, như nói một mình: Cái gió này giục, người ta bồn chồn lắm. Nhưng mà với mình ấy à? Bây giờ thì Sài Gòn cũng xa lắm rồi. Thất tiểu muội Mộng Tuyết có thư ra bàn triết tự về nét mác đuôi chữ Nguyên ký vòng lên gông cả chữ Nguyễn vào trong, Nguyễn ngồi tù trong cái gông ấy thì còn đi đâu được. Nguyễn Tuân cười buồn, đến không muốn trả lời người xem bói triết tự cho mình bởi vì thực thì cũng chẳng còn nghĩ đến bay nhảy. Đôi khi mới ra khỏi phòng, chiếc gậy đưa bước chân thong thả trên quãng phố vắng, rồi nhức mỏi và buồn tình vẫy một cái xế lô trở về.
ở nhà Nguyễn Văn Bổng, một bạn bộ đội mời chúng tôi vào Thủ Đức xem phong lan, vườn của bạn ấy nhiều lan lạ và hiếm chỉ có trên núi cao vùng á nhiệt đới. Nguyễn Văn Bổng, Kim Lân và tôi sốt sắng. Nguyễn Tuân gật gù: cho mình củng cố cái chân đã rồi bảo tôi: Này ông hoả tốc hỏi Lai Châu cho tôi xem thế nào. Trên Mường Tè còn hổ, may ra có của thật. Chứ cái cao Thái Lan, trông nó vuông vắn mượt mà quá, nuốt cả lạng chẳng ăn thua. Không biết cao giả hay mình đã nhàm thuốc quá. Rồi chuyến đi vào Sài Gòn xem phong lan á nhiệt đới cũng chẳng bao giờ có.
Binh đoàn 559 tổ chức Nguyễn Văn Bổng và tôi đi dọc một chuyến Trường Sơn. Một chiếc xe, một cán bộ đơn vị tháp tùng. Bắt vào đường Hồ Chí Minh từ Đông Hà lên Khe Sanh, đến đoạn đường Cuba làm khi mở đầu chiến dịch, rồi cả tháng ruổi qua A Sầu, A Lưới sang huyện Giàng bên Quảng Nam, dọc các tỉnh Tây Nguyên, bám vết đường 13 cũ xuống Sài Gòn. Dọc đường, lắm hôm chúng tôi ước:
- Giá mà có Nguyễn đi chuyến này?
Nghĩ thế thôi, nhưng cả trước khi đi cũng không dám đến chào ông anh. Có lẽ rồi Nguyễn Tuân cũng biết, bởi chúng tôi vắng mặt lâu. Nhưng ai cũng ngại không dám đụng đến tâm trạng của một người thèm đi, mà không đi được mà lại thấy người ta cứ đi. Có Nguyễn Tuân, lắm khi khốn khó vì những sáng kiến dềnh dàng bất thường, nhưng mà chỉ trơ trọi hai thằng nhạt nhẽo thì bỗng dưng thấy trống rỗng hàng ngày quá. Cái tài Nguyễn Tuân chọn chữ, chọn cảnh, chọn chơi cũng như mỗi khi trong tẻ nhạt thông thường, Nguyễn Tuân bỗng thấy ra những chi tiết đậm đà hẳn. Có lần, tôi lên vùng rừng quế ở Viễn Sơn trên Yên Bái, bên kia sông Hồng. Khi trở ra qua Đại Phác và Đại Bục rồi lên Phố Ràng - những nơi chúng tôi đã dự những trận đánh đồn trong chiến dịch Sông Thao 1949. Nếu Nguyễn Tuân cùng đi, thế nào cũng dừng đại Mậu A tạt vào đền Đông Cuông để nhớ chặp tối ấy, cái lần gặp Két trung đội trưởng trinh sát. Kìa cái đồi chúng tôi trú quân với hai thằng Tây địch vận, giữa tiếng súng nổ ran bụi tre trên đầu và cái đồn Đại Bục chặp tối cháy đỏ lòm Nguyễn Tuân đứng thúc trống ở quãng sân đồn phía nào, cái lô cốt đã xảy ra trận đánh khốc liệt cuối cùng có còn dấu vết gì không. Rồi ngược sông Chảy, có còn cái nhà ông chánh Khít dưới chân Phố Ràng. Tôi thì tôi chỉ ngồi yên nhớ lại, giá mà Nguyễn Tuân cùng đi thế nào cũng đủng đỉnh tìm xem và ngâm ngợi một cái gì. Giá mà...
Tôi chỉ ngồi nghỉ chân ở cửa hàng bách hoá trông vào đồi Đại Bục. Trong lòng cũng xốn xang nhớ lại, nhưng không đủ kiên nhẫn và cố gắng tìm tòi, lục lọi theo thói quen chịu khó như Nguyễn Tuân. Tôi thờ ơ nhìn lên dãy đồi trọc trồng sắn và những ruộng nước bao quanh. Cũng định kể với hai cô người Tày bán hàng rằng: Các cháu ơi! Ngày trước tôi đã trèo lên đồi kia, bộ đội ta ở bên đồi này bắn sang cháy cái đồn đại Bục. Nhưng lại rụt rè. Bấy giờ cha mẹ chưa sinh ra các cô thì các cô có thể cũng chẳng biết là thế nào. La cà hàng quán, ngồi tán tưởng tượng những chuyến phương trời. Bây giờ thì con người ấy phải bước ra ngoài mọi cuộc rồi. Nguyễn Tuân lặng lẽ giơ cốc: Thôi nhé, chúc cất cánh hạ cánh bình yên. Có khi chẳng nói chẳng rằng, lầm lì uống một hớp rượu rồi lại ngửa cổ bỏ vào miệng viên thuốc trợ tim. Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng, hai người đã chăm sóc về bệnh tật của mình một cách hoang dại, tợn tạo như thế. Nguyên Hồng không làm sổ khám bệnh ở bệnh viện. Ê ẩm xương cốt thì đấm lưng và chửi: Chúng mày đồ ăn hại mới hay đi khám bệnh, chứ ông thì... Ông... Bây giờ, Nguyễn Tuân thêm chứng thấp khớp kinh niên lôi thôi đến tim, phải khám định kỳ và uống thuốc phòng. Nguyễn Tuân đã uống thuốc phòng khi nâng chén. Hẳn cho là thuốc trợ tim vào cùng lúc nạp cồn có chất ấm áp thì cản được bệnh? Khi vui chén, Nguyễn Tuân hay chửi yêu tôi: Mày đi lắm, mày đi thật còn tao chỉ được mang tiếng là đi thôi. Vừa nói đùa xong lại trầm ngâm buồn, buồn nhiều. Một đời viết được tuyển vào có hai quyển, nhìn sách mà chẳng nói nên lời. Cho sách tôi, cái câu đề cho đúng như tôi muốn, nhưng cũng chẳng còn biết ý tứ thế nào. Anh không thích sách xén sẵn, nhận bản xồm xoàm mà rọc lấy vậy. Đi đâu, đã không còn bay nhẩy được, giờ đây thêm cái day dứt, cái bực bội của con người ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ.
Tôi được Nguyễn Tuân gửi cho một chai hảo hạng Giôn Uackơ, đằng một lít, bọc giấy báo cẩn thận. Của hiếm này, hãn hữu mới kiếm được mà có thì Nguyễn Tuân thường chỉ cho nhấp một hai chén. Cái ngon phải chia, còn phần người khác, tôi biết thế và giữ ngữ thế, ít khi dám nài thêm. Tôi uống phí rượu, thường hai ba chén sau cùng Nguyễn Tuân mới để cho tôi. Trong khi ấy, Nguyễn Tuân cầm cái cốc một góc quốc lủi với lát chanh cả vỏ và miếng dá, một thứ cốc tay tự pha. Nguyễn Tuân uống rượu nội hoá để cho khách và nhìn khách sài sang, có vẻ thích thú hẳn hoi. Làm thế nào, chủ rượu nhường cho cái thơm tho ấy cơ mà. Ôi chao, bần bách ngụm rượu đến phải tính đếm đong từng chén mắt trâu, nhưng vẫn một cung cách riêng. Nguyễn Tuân uống rượu kiểu các cụ ta xưa. Mỗi bữa thanh cảnh ba đôi chén, hiếm khi mềm môi và không nát. Rượu ngon mua có thổ, không rượu chợ, không đụng đến các thứ lăng nhăng cái chanh, cái dâu, vang mơ, vang mận. Cả đến sa kê Nhật vị ngọt, Mao Đài có hơi rượu khê cũng không ưa. Những chén khuya, với miếng cơm nắm, muối vừng cũng là cái thú riêng.
Tôi hỏi:
- Ông anh phát tài phát lộc thế nào mà thưởng cho em cả cái hũ chưa bóc tem thế này?
Nguyễn Tuân rót cho tôi một cốc rượu ở chai khác đương dùng dở. Trang trọng, lịch sự, thong thả, lần này Nguyễn Tuân cũng uống rượu quý, mà không ngồi ngắm người khác xơi rượu ngon của mình như mọi khi.
Nguyễn Tuân gật gù:
- ở Paris, người ta mời tôi sang chơi.
- Thằng Buđa dạy ở Pari 7 nhỉ?
- Người ta bảo sang giảng cho ít buổi. Không, thằng Buđa kiết xác ở độc thân, có gì mà mời? Nhà Việt Nam của Việt kiều có nhã ý.
- ờ đi đi chứ ông!
Nguyễn Tuân thong thả lắc đầu.
- Không, không đi. Mình muốn sòng phẳng, đằng nào rõ đằng ấy. Đi chơi hay đi làm việc. Người ta có nói riêng: làm việc chỉ là cái cớ mà mời ông đi chơi là chính. Làm việc khác đi chơi chứ sao lại có cái cớ được.
- Thế thì thế nào?
- Trả lời không đi rồi..
- Bởi thế, có ngụm rượu uống. Đáng lẽ người ta đặt mua vé ở đại lý hàng không Pháp chỗ góc đường Tràng Thi, thì tôi bảo đặt mua cho tôi ở cửa hàng bách hoá quốc tế Giảng Võ. Và cái vé thành những cái của này. Nào ông, mời ông...
Hơi men hôm ấy đưa chúng tôi vào bao nhiêu chuyện đường trường. Không hiểu tại sao bay đường xa máy bay lại hay cất cánh hạ cánh đêm. Những canh khuya, những mờ sáng, xuống Matxcơva, đến Batđa, Đamat, đến Bâyrut... Chín giờ tối từ Tân Đê li ra sân bay Pa lam. Ô-tô đương chạy, một cái chai không của thằng say nào choang vào thành xe, vỡ tan. ở ấn-độ, quốc lễ không uống rượu. Tôi đã nghiệm, đâu mà cấm, người ta uống chui càng khá lắm. Mỗi buổi sáng, một ông nhà buồng ria vểnh đến dọn dẹp. Tôi rót một cốc to vôtca. Ông ấn-độ ấy vén ria làm hai hơi xong cả cốc rồi lấy đi túi quần áo giặt. Thế mà như không, bên thắt lưng đeo chùm chìa khoá, mở đóng ý tứ, không lẫn cửa nào. Tôi kể với Nguyễn Tuân trên trời Đà Nẵng có những lỗ hổng không khí, tôi đã bì hẫng xuống một lần như tụt thang máy, chuyến đi Campuchia năm 1962.
Lời từ chối và câu cắt nghĩa không đi Paris của Nguyễn Tuân không thể bao giờ đầy đủ. Cái tâm sự nát lòng người ta thì không một lời chữ nào thổ lộ và giãi bày cho hết được. Hai cái chân đã rỗng cả ống của con người vốn khoẻ đi ấy gây cái khó vô cùng cho sự đi, xoá mờ cả tấm tình sông hồ rồi.
Tháng bảy, tôi ra Cát Bà. Tôi vẫn có ao ước được đến vùng đảo khác lạ này chỉ cách Hải Phòng có nửa buổi tàu ven biển mà chưa khi nào tôi được đặt chân tới. Người bản địa bảo đi mùa thu ra Cát Bà sẽ được ngắm cá heo, hàng trăm con cá heo đùa rỡn theo tàu.
Nắng gắt, thành phố oi nóng ngột ngạt. Tôi đến chào khoe với Nguyễn Tuân một chuyến đi còm, nhưng thú vị. Cuối buổi sáng, xách xâu bánh giò, khoanh giò bò mua ở quán quen bên kìa đường trước nhà. Cũng như ai và đã thành lệ, phải đoản đình, trường đình một cái chơi chứ. Cụ bà bảo tôi ngồi đợi đấy, có muốn uống thì cứ lấy mà uống, cụ ông đi bách bộ quanh đây, chắc cũng sắp về. Một lát, nghe ba toong chọc chọc lên thang gác. Cái gậy song Sa pa vàng cánh gián, tiếng gậy chống xuống mặt gỗ nghe lưa thưa rời rạc. Đoán được bước chân khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím, không phải mặt rượu đỏ hồng. Nhưng cất gậy vào ống, ngăn nắp vẫn đâu vào đấy. Nguyễn Tuân ngồi xuống tấm phản lim.
- Mới đến à? Có việc gì không?
Tinh ý thì biết là câu hỏi của người ngại khách. Muốn đuổi bời đương mệt, đương khó chịu. Còn việc gì nữa. Đến đây chỉ có việc chơi chứ việc gì. Tôi ngần ngừ rồi nói:
- Không, nhung nhăng thôi.
Nguyễn Tuân ngả lưng, hai tay buông xuống mặt phản.
- Lấy mà uống. Chai nút đỏ ở phía ngoài, cái ấy đậm lắm. Mình phải nghỉ một lát đã.
Rồi Nguyễn Tuân khép mắt. Ngẩn ngơ nhìn quanh rồi tôi lặng lẽ ra về, khi Nguyễn Tuân đương nằm thiêm thiếp. Tôi không dám nói tôi sắp đi Cát Bà.
Cuối phố Cát Bà cũ - bây giờ còn trơ những tảng đá, đám cọc nhà sàn lửng, bên bờ trông ra vịnh. Nhà trọ Chùa Đông trước kia là cái sòng bạc cạnh chùa Đông, nền chùa mờ mờ cỏ còn hình lại chỗ vết đường băng máy bay lên thẳng của Pháp. Xung quanh đìu hiu như chơi vơi tới chân trời nào. Chặp tối, điện chạy máy nổ, đến chín giờ thì thay bằng đèn hoa kỳ. Lúc ấy chỉ còn thấp thoáng sóng nước trong vụng ven đường đá và ánh cây đèn đảo Long Châu ngoài khơi.
Chiều thứ bảy, như có đoàn thám hiểm ập đến nơi hoang vu. Đấy là những chuyên gia Thụy Điển làm việc ở xưởng tàu Phà Rừng ngồi ca nô đến, có mấy cô gái điếm đi theo. Một cô khoe với tôi ở ngoài hành lang là cô đã đọc Vợ chồng A Phủ! Các người nước ngoài chơi trên sân gác sáng tràng, quẳng vỏ chai Lúa Mới xuống vịnh, hò hát lảm nhảm suốt đêm. Hôm sau, một đám trai gái từ Hà Nội xuống đi tàu ra đảo. Như những người digan lang thang. Bạt và màn cuốn trong ba lô, vai đeo những can nhựa đựng rượu. Hỏi ra đều là cán bộ kỹ thuật và văn phòng đi chơi ngày nghỉ, sớm thứ hai lại có mặt ở các sở làm. Các bạn trẻ đều đã học ở nước ngoài về. Cuộc nhảy không có nhạc, nền xi măng lạo xạo ngay trước phòng tôi. Các bạn mời tôi ra chơi rồi xúm lại kéo tôi nhảy. Không ánh trăng, không đèn, không tiếng nhạc, chỉ có tiếng quay mình huỳnh huỵch, chân lào xào như người đi đêm trên bãi cát. Tôi đành kiếu. Nhớ một đêm nhảy múa man dại thế này trong tiếng trống rầm rộ trên bờ biển thành phố Đaet Sa lam xế dưới Đông Phi. Chốc nữa, các bạn ấy trở về dãy nhà ngang đằng kia, mười mấy người mà chỉ thuê có một buồng. Tôi ngồi lại đây trông vào mịt mùng nhìn thấy xa lắc xa lơ một thời đã qua. Âu cũng là cái nhộn nhạo thuở nào được khuấy động chốc lát. Tôi cũng sợ rồi, tôi ngôi im.
***

Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi:
- Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi.
Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi uống một mình ở nhà ông trước hôm đi Cát Bà, như Nguyễn Tuân vẫn nằm yên từ buổi sáng hôm ấy. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi. Ô hô? Ô hô!
Bãi tắm Cát Cò, hai bên vách đá thẫm đen, không bóng người. Con kỳ đà đủng đỉnh bò ra giữa đường hầm, bạnh mang, dưới chân nhìn quanh rồi lại nép vào mép tảng đá. Bỗng lại nhớ rừng già Thượng Yên. Những con kỳ đà mốc thếch như gốc cây ra rình chộp gà tổ gà của Aki. Người bạn Nhật ăn chuối tây trộn lòng trứng. Chúng tôi vào quán ông 81 ngã sáu dốc hàng Kèn... Vết chân người lẫn chân con kỳ đà in vân vân trên cát.
1990

Ba người khác

Chương 1


Các đội công tác vùng đồng bằng hạ lưu sông Hồng kéo về tổng kết đợt ở huyện lỵ, đông có đến cả nghìn con người. Suốt tháng triền miên nghe kể thành tích và những anh những chị rễ, chuỗi ở xã lấy lên nay đã thành cán bộ đội vừa khóc vừa nói về cuộc đời bị đày đoạ xưa kia.
Một việc tôi nhớ mãi. Có một cố nông quê huyện Nga Sơn được lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt. Anh kể lại đời anh, cả hội trường hàng nghìn người ai cũng ngậm ngùi, các chị khóc sướt mướt. Sổ tay tôi đặt trên mặt túi dết kê đầu gối mà không ghi được chữ nào. Tôi đã nghe bao nhiêu chuyện kể khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuỗi, nhưng chưa khi nào nghe choáng váng ghê rợn đến thế. Ban ngày anh đi cày, tối tắm rửa sạch sẽ rồi vào giừơng cả đêm phải ngậm bởi thằng địa. Thằng địa bị bệnh tim la, mút đến nửa đêm cũng không hết được mủ tanh nhức óc. Cả hội trường ào ào đả đảo địa chủ… gian ác… Đả đảo… Còn anh ấy nghẹn ngào nức lên không nói tiếp được nữa.
Thế nào mà anh ấy bị lây cái máu dê của thằng địa đến tận giờ. Cơm hội nghị có thịt bò, thịt lợn, lại chắm chép đâm rửng mỡ, lúc nào cũng cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau háu nhìn cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đâu đớn. Rồi bị thải hồi trả về cơ quan huyện. Cả mấy chị cũng bị đuổi về xã. Tôi không qan tâm đến họ mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của thằng chó kia truyền sang mày, gớm cái giống chó má chết tiệt.
Tổng kết xong các đội lại đi đợt mới. Cuộc ra quân rầm rộ có xếp hàng nghe mệnh lệnh xuất kích như chiến dịch thời kháng chiến. Đợt này khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải cách thẳng, không qua giảm tô. Nhiều huyện quanh Hải phòng, ba năm trước là vùng “hai trăm ngày”, tàu hoả xuống qua ga Phú Thái đã vào sào huyệt địch còn lại, từ các nơi dồn về hàng nghìn người di cư cuối cùng chen nhau xuống tàu há mồm đi Nam.
Chúng tôi được đưa từ Thanh Hoá ra hỗ trợ chỗ khó. Công tác ở vùng thế này chắc là lôi thôi đây. Nhưng mà ở Nông Cống trong kia đội tôi đã được cờ thành tích đánh địch. Có thế mới được ra đây. Tôi cũng chẳng áy náy sao. Làm gì rồi cũng làm được thôi. Tôi đã làm hai đợt công tác, trải việc ngót một năm rồi.
Các đội ở hội nghị tổng kết ra, chia tay nhau giữa chợ huyện, đông thành mít tinh. Không đợi ô tô tải, không cần ô tô. Đội trưởng Cự đếm được đủ đầu chúng tôi mười hai người, thêm hai rễ nữa mới vào cán bộ đội, rồi Cự bắc hai bàn tay làm loa, hét to: “Lập công ngay từ lúc xuất phát. Chúng ta tranh thủ đi luôn. Ở dưới xã nông dân đang nóng lòng đội về”.
Mọi người đứng xếp hàng đôi, lưng đeo ba lô. Chúng tôi vẫn được nguyên đội ở Thanh Hoá thành tổ học tập rồi đến bây giờ đi. Đội trưởng Cự bên bộ đội sang - nghe nói là đại đội trưởng, tính quyết đoán nóng như lửa, gắt gao kỷ luật với mọi người. Cái khăn mặt bông trắng được phát từ ngày ra tập kết ở Sầm Sơn, đã cáu xỉn, mặc dầu đội trưởng rửa mặt chỉ lau chùi bằng ống quần. Tuy vậy cũng thuộc tính nhau, cứ lựa lúc người cứng thì ta mềm, dù sao cũng phải hơn phải đổi một đội lạ lẫm khác.
Thế là mười hai cái xe đạp - hai đội viên khác không có xe, không biết đi bằng cách nào. Tôi đạp xe lúc đường nhựa, lúc bờ đê, lù rù mò suốt đêm. Bóng tối có phần dịu. Đến lúc trăng lặn, nhấp nháy ánh sao đằng trước, tôi phanh khuy áo ngực, căng mắt dấn phăng phăng. Gần sáng, mắt như quáng gà. Đã sang đến đường 5, lổn nhổn dấu hầm hố của du kích đào đường. Có nơi còn lại cả mìn - nghe nói thế. Không biết có phải vì tinh thần hăng hái đã làm nhãng ngay cái vất vả, xe với người chẳng xây xát gì cả. Chỉ sái một bên tay. Cũng nhờ đau mà đâm ra tỉnh nhủ đến sáng bạch.
Vừa sớm, lọt đọt kẻ trước người sau đến chỗ đoàn uỷ miền. Chưa ô tô tải đưa đội nào tới. Đội trưởng Cự khoái chí, quay ra giơ hai tay: “Chúng ta đến trước tất cả!”
Cơ quan đóng ở một ngôi đền bên trong đã san phẳng hết các bệ thờ. Hai bên tả hữu vu ngăn cót thành buồng. Tiếng máy chữ đổ rào rào như vẫn đập thế thâu đêm, văn phòng đoàn cũng tranh thủ làm như chúng tôi đã đi suốt sáng. Trong sân sau tường đền còn sót lại cây mộc mùi hoa sớm thanh khiết thơm thoang thoảng. Trước một gian phên bên kia che kín đáo, ngoài hiên đặt một dãy những giá gỗ tạp mới trên có thau men trắng vắt chiếc khăn mặt hoa. Chắc đoàn uỷ hay đoàn cố ngủ trong ấy.
Một người nhỏ nhắn, bộ quần áo nâu non mới sáng sủa. mặt trắng trẻo đeo kính trắng như học sinh mắt cận thị. Người ấy đạp xe từ ngoài cổng vào.
- Bên Quỳnh Côi sang phải không?
- Vâng, chúng tôi tranh thủ, không đợi xe.
- Tinh thần lắm, hoan nghênh. Tôi thường trực đoàn uỷ đây. Chúng ta vào văn phòng làm việc ngay. Đội số mấy, đội trưởng đâu?
Làm việc ngay, khẩn trương sao. Chỉ đôi ba câu đối đáp khét lẹt công việc, lập tức ai cũng tan cơn ngủ, quên cả rửa mặt, không nhớ vừa ỳ ạch đi cả đêm. Một lúc sau, cuộc trao đổi công tác, giao nhiệm vụ đã xong. Thật thì chỉ có đội trưởng Cự hỏi đi hỏi lại, còn cả hơn mười người ngồi im, thỉnh thoảng ai dấm dớ hỏi một câu về cái xã sắp đến thì được trả lời mấy lần giống nhau “tài liệu đây, tài liệu có hết”. Rồi người đoàn uỷ đứng dậy, xoa tay nở nụ cười như thói quen cười nhạt nước ốc và xoa tay thế, nói lấy lệ “Các đồng chí thông cả rồi chứ”.
Chúng tôi đã ra cả ngoài sân đền.
- Tài liệu mang về xã thế là sắp sẵn đủ cả. Chúc công tác thắng lợi. Bắt tay cái nào!
Mọi người lồm cồm dắt xe ra đường. Sắp nhảy lên yên, có tiếng đằng sau giật giọng:
 Này! Này!
Quay lại, vẫn chỉ thấy người thường trực đoàn uỷ còn đứng đấy.
- Vào cả đây, vào đây.
Tôi háu đói, đã tưởng ra niềm vui có lẽ được vào nghỉ và ăn sáng. Cả đội đứng thành bọn trước cái cót che cửa văn phòng lúc nẫy. Người đoàn uỷ bước lên thềm, dõng dạc:
- Các đồng chí, bắt đầu từ hôm nay, đội đã vào cuộc đấu tranh công tác ba cùng. Ở dưới xã, bà con nông dân khổ cực lắm. Chỉ có bọn bóc lột mới có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát ăn bát vàng. Chúng ta về với nông dân không thể đồng sàng dị mộng. Không được đi xe đạp xuống xã.
Cái ông đoàn uỷ mặt mày học trò bé loắt choắt mà hắc thế. Tôi chưa bị đoàn uỷ nào bắt không cho đi xe đạp xuống xã. Dễ chừng vùng tạm chiếm cũ lại làm cải cách không qua giảm tô thì phải khác cũng nên. Thế là mất tất cả tiếng đồng hồ, người tìm tước bẹ chuối, người ra chặt cây dương bóc vỏ bện thừng. Mười hai cái xe đạp được trói gọn thành một bó, khiêng vào trong đền, lênh khênh như đống xương trâu. Điều bất ngờ ấy, cả đội trưởng Cự cũng không tưởng ra trước được. Tuy nhiên lúc ghé vai cõng lô xe, đội trưởng vẫn mặt đỏ găng hăm hở. Không hiểu đội trưởng nghĩ gì. Chỉ khoái hai anh rễ đội viên mới không phải chạy theo như cả đên, tự dưng được đi cùng.
Qua chợ huyện, ai nấy đói lả. Nhưng bụng mình mình biết thế thôi. Trông vào cái chợ mùa đói, nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán. Sướng chưa, đội trưởng Cự bỗng nói: “Ta vào chợ kiếm cái ăn đã”. Cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau Cự. Dường như sợ đội trưởng thay đổi ý kiến, phải cố làm ra vể hiền lành thế. Chúng tôi đều quần áo nâu bàng bạc, dép râu, mũ lá, có người mặt bạc phếch như mới ốm dậy. Đội trưởng Cự thì lúc nào cũng phừng phừng, lúc nhếch mép cười, lúc cáu kỉnh, cũng thế.
Chợ sớm dần đông. Đương mùa khô kiệt, những mạt cám bày la liệt khắp nơi. Lác đác, người đem trẻ con đi bán như trảy quả mít, một bên đứa trẻ ngồi nhấp nhổm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân. Chúng tôi, anh mặc lành, anh mặc tã, dị dạng, người trong làng về chợ nhìn tránh ra chiều e dè. Đã hai năm, đoàn uỷ đóng ở cái đền này. Hàng chợ đã thấy nhiều cán bộ đi về, áo cánh, áo vét khác nhau, nhưng biết đấy là những “anh đội” xuống xã hét ra lửa. Chẳng bận đến người ta cũng ngại, lẩn đi, bước né bên đường. Đội trưởng Cự đột nhiên đứng lại: “Chúng ta ăn bánh đúc!” Cả bọn lập tức xà vào hàng bánh đúc ngô. Mụ hàng hớt hải sang bên các lều bán nộm chuối, đu đủ xanh, nước chè tươi mượn mấy mảnh tre mới đủ ghế khách ngồi.
Chợ đã nhiều người nhưng chợ sớm chưa ai lê la hàng quà. Bọn người lạ mà ai cũng biết là các anh đội, khiến những mụ ăn quà như mỏ khoét và cả đám ăn mày cũng không dám lảng vảng. Từng chiếc bánh ngô lưỡi mèo vàng hây, giữa rốn mỗi chiếc đặt mảnh cháy vàng rộm. Một bát đàn tương mặn chát. Có anh đội bưng hẳn bát tương lên để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và ngồm ngoàm hay là cứ nuốt chửng cả cái không ai trông thấy. Anh đội cũng đói như mọi ai. Có người hỏi bâng quơ: “Bánh ngô chấm tương à?” Mụ hàng trả lời ngẩn ngơ như nói giữa trời: “Thời buổi khó khăn lắm, hạt vừng cũng là hạt vàng đấy”.
Chẳng biết khó khăn thế nào, cái bánh ngô xay bùi bùi, ngọt ngọt, vả lai đương đói móp bụng.
Năm ấy tôi ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò “Sáp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến, không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình là Việt Minh, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc. Những chuyện tôi đi được cũng là gian nan. Tản cư, vợ tôi và con gái mới ba tuổi chạy lên Nủa trên Sơn Tây. Tất cả trai tráng phố tôi lại vào tự vệ. Phố tôi bị Tây trong thành tràn ra vây phải dồn vào liên khu Một giữa thành phố. Ta điều đình được với Tây để cho người già, trẻ con được ra ngoài. Lối ra trên đê làng Yên Phụ. Có lãnh sự Anh và lãnh sự Tàu đứng ra chứng kiến.
Tôi trốn đội tự vệ trà trộn trong đám người lố nhố ra. Trời lạnh, tôi chít xùm xụp cái khăn vuông mỏ quạ, giả làm bà già, đi qua ngay trước mặt các ông lãnh sự trong trạm kiểm soát nhòm ra. Tôi thoát được lên Nủa tìm vợ con. Hỏi thăm cả làng, cả cái chợ giời tản cư, về sau gặp lại người biết, đã bảo mẹ con cô ấy theo người ta vào Hà nội rồi.
Tôi chưa biết đi đâu, cũng không dám “dinh tê”, sợ Tây biết tôi là tự vệ, tôi mò lên Thái Nguyên, rồi sang Tuyên Quang, lên thị xã Bắc Cạn, quanh quẩn ở những vùng đông người tản cư dưới xuôi lên. Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. Vào cơ quan bấy giờ dễ, cứ đến xin việc là được nhận ngay. Hàng ngày mấy chục quang gánh sách báo Cứu Quốc và sách nhà Sự Thật quảy xuống khu Ba, khu Tư - như những đoàn người thồ muối lên miền ngược. Không ai biết tôi trước kia làm loong toong, làm cu-li giữ cửa và đã trốn tự vệ. Chỉ biết tôi là người trong Hà nội ra có đôi ba chữ nên anh em cho giữ sổ sách văn phòng và kho. Ở trong rừng, cơ quan chỉ có quyển sổ cái ghi các thứ trong kho, xà phòng đường ta, quần áo khi nâu, khi nhuộm thâm trên phát về.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ rời Hà nội được giải phóng, tôi trở lại thành phố.
Về đến Thái Nguyên cả cơ quan đàn ông đàn bà làm việc ở các cơ quan đều được may được phát một bộ quần áo một kiểu như nhau. Giày vải nâu, quần áo kaki xám nhạt. Và mọi người theo đúng điều lệnh tiếp quản: không về nhà, không mua bán, không ăn quà ngoài đường. Tối tối tôi vẫn lẩn đi chén phở, không ai biết. Một hôm được phép về nhà và ai có người quen được tới cơ quan thăm. Bố mẹ tôi mất đã lâu, tôi chỉ nhớ vợ con. Tôi hồi hộp về chỗ nhà cũ ở Tám Mái. Nhưng hàng xóm kể cho biết cô ấy đã lấy chồng làm cu-lít cho Tây, tháng trước họ kéo nhau đi Hải phòng, vào Nam cả rồi.
Tôi như đuổi theo cái bóng. Cũng chẳng buồn, chẳng ngán ngẩm. Chỉ đôi lúc phảng phất nhớ mụm con gái mà thôi. Cái năm xa cách nó mới ráo máu đầu, chẳng biết rồi nhớn nhao thế nào. Tôi bây giờ mà hoá ra quan trọng, tôi giữ ba sổ chi thu- chẳng học nghề bao giờ cũng được lên chức kế toán trưởng. Năm sau tôi lấy vợ. Cũng dễ ợt. Cô ấy làm cấp dưỡng, theo cơ quan trên Thái về, chúng tôi biết nhau đã lâu. Rồi vợ tôi sinh một thằng con trai. Bây giờ “phóng tay phát động quần chúng”, công tác cải cách ruộng đất là quan trọng nhất. Mọi người chúng tôi ở cơ quan, rừ cấp dưỡng đến cán bộ chuyên có biết đồng ruộng hay không nhất loạt đều phải đi làm “thổ cải”. Thế là tôi đi. Tôi đi công tác cải cách, cu ngầu nhà tôi đã được sáu tuổi. Khi còn ở Việt Bắc mấy năm gần về Hà nội, ai cũng đều đi làm giảm tô, có người giảm tô xong sang công tác cải cách. Tôi chẳng biết mặt mũi đồng ruộng bao giờ, tôi tìm cách lẩn. Bờy giờ không khó, bởi chỉ có mỗi mình tôi giữ sổ sách, không thể mỗi chốc đi đâu. Nhưng về thành phố thì chỉ có trơ ra có tôi chưa được rèn luyện lập trường cách mạng. Ông giám đốc cũng chưa đi giảm tô, đi cải cách lần nào. Nhưng không ai dám nhắc ông ấy. Lại nói nịnh “bộ tư lệnh phải ở vị trí chỉ huy”, bên trong thì ghé tai xì xào ông ấy sợ đứng dậy thì có người ngồi mất ghế. Chiều thứ bảy nào cũng họp kiểm điểm trong tuần, thủ trưởng lại đập bàn nói choang choác: “Giải phóng nông dân lao động khỏi ách địa chủ phong kiến, mọi người đều có nhiệm vụ tham gia…”
Tôi cũng khéo lèo lái, lẩn lút tránh được tới khi về Hà nội vẫn chưa đi. Tưởng chiến thắng về Hà nội giải phóng thế là đã hết mọi việc xóm làng, hoá ra vẫn còn. Không thể thoát, bây giờ chỉ mới hết giảm tô, còn cải cách. Cơ quan đã đi cạn kiệt cả, lần ày đích tôi có tên trong danh sách đi rồi không còn ngõ ngách nào lẩn nữa. Thế là phải đeo ba lô đạp xe đi. Tôi vào Thanh Hoá dự tổng kết các bước công tác của các đội vừa qua dưới xã. Lúc đầu tôi lo cứ rối tinh. Nhưng rồi cả tháng vừa nghe vừa hỏi thì cảm như mọi việc khuôn phép dần đâu vào đấy, công tác này cũng thế thôi. Có gì khó hơn cái sổ sách kế toán, mình chẳng học mà cũng thành nghề cộng trừ nhân chia, thế ra đi cải cách không đáng sợ như những đứa đã đi về đồn thổi, doạ dẫm.
Mụ hàng bánh đúc chỉ đường cho chúng tôi về xã. Áng chừng mươi cây số, hễ sắp hỏi thăm là có người mách lối đi, như là ai cũng biết mình về đấy rồi. Cái ba lô đeo trên lưng đã thấm đen mồ hôi. Đoàn người nhấp nhô đi quá buổi trưa. Đội trưởng vẫn thoăn thoắt dẫn đầu cho nên không ai dám ể oải. Gió mát hây hẩy mà mồ hôi đổ ra dính lưng nham nháp. Mặt trời lờ mờ nghiêng trước mặt, người đi trên đê trỏ xuống cánh bãi bảo kia kìa, làng ấy đấy. Những khoanh tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đe qua. Từng khúc đầm nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới. Chắc xưa kia chỗ này vỡ đê hay dòng sông cũ còn lại hõm loáng thoáng thành những đầm nước. Giữa cánh đồng, một mỏm núi đá chơ vơ. Bên cạnh, còn trông thấy cái lô cốt xi măng tháp canh của bốt hương dũng.
Chúng tôi xuống, vào ngôi đền đầu thôn. Lại cái đền hoang, hai d\bên tường đổ trống huếch nhưng vẫn còn bệ gạch chưa ai ăn trộm. Đội trưởng Cự nhìn quanh, thấy người đi trên đê qua lại, chưa yên tâm đã được bảo mật. Cả bọn chui vào cái sân cỏ mọc lưng ống chân cho được kín đáo chặt chẽ. Những con chuột thấy động chạy rào rào vào hậu cung đã mất cả cánh cửa ẩm ướt, tối om. Chúng tôi lại ngồi dưới mái hiên. Chỗ này, trên đe hay ngoài cửa không ai thấy. Kể ra cứ cẩn thận, thế mà lúc nãy còn lác đác người bây giờ trên đê đã vắng ngắt.
Đội trưởng Cự kéo mấy cái ba lô, kê lên, trải ra tấm bản đồ xã kẻ bằng tay lúc sáng nhận ở đoàn uỷ. Chúng tôi xúm quanh chăm chú. Cự nói một mạch:
- Một là, từ giờ phút này đội ta chịu trách nhiệm mọi mặt của xã. Xã đây ở vùng hai trăm ngày địch đóng lại, địa chủ thì gian ác, tổ chức của địch để lại đã khéo lồng vào tổ chức của ta, chúng nó đã làm cải cách và giảm tô giả. Công tác của chúng ta thật nặng nề. Hai là xã có chín thôn, mỗi chúng ta phụ trách một thôn. Tôi đọc tên từng người đây. Tôi phụ trách thôn Đìa với văn thư của đội, thôn Đìa cũng là trọng điểm, vì có nhà thằng bí thư chi bộ. Các đồng chí xem bẩn đồ rồi tự tìm đường về xóm. Không được hỏi han lung tung. Coi chừng tay sai địa chủ và tổ chức cũ sẽ đưa vào người nó bố trí sẵn. Kể từ bây giờ các đồng chí về vị trí chiến đấu dưới thôn cẩn thận cảnh giác không được liên lạc với tổ chức cũ, cứ chọn nhà thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi. Chiều thứ bảy, đúng giờ này - đội trưởng Cự cúi xem đồng hồ đeo tay, toàn đội về đây phản ánh tình hình và duyệt rễ. Ba là tuyệt đối bí mật, tuyệt đối bí mật.
Tôi đói quá. Không biết có bệnh giun sán hay sao, hễ quá bữa thì bụng réo rong róc, mắt nảy đom đóm, hai bàn tay toát mồ hôi lạnh. Cứ từng cơn thế, người lả dần.
Tôi duỗi chân đụng vào cái đít ba lô trước mặt để đặt bản đồ. Ngón chân hình như vướng vào mảnh lá chuối. Tôi lé con mắt đương hoa vàng mờ, cũng nhận ra cái lá chuối lòi ở goác mảnh bạt nắp ba lô. Bấm thấy mềm mềm. Tôi quờ tay. Ôi chao, tôi nhậ ra cái lá bánh đúc ngô ở chợ. Tôi ngước mắt. Đội trưởng đang nói đến đoạn hăng, băm bổ bàn tay liên liến, hai con mắt trợn trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào túi sách của tôi, lsị vờ lơ láo nhìn mọi người. Ai nấy vẫn đăm đăm. Người hý hoáy ghi sổ tay. Người vừa chăm chú vừa thờ ơ nhìn đội trưởng. Người vẫn cắm cúi xem tờ bản đồ mở che kín trên mấy cái ba lô. Lúc ấy tôi mới bình tĩnh nhận ra thật cái ba lô ấy của đội trưởng Cự. Đúng rồi, ba lô bộ đội gờ nếp viền quai kỹ lưỡng, chắc chắn hơn những cái ba lô con cóc khâu túm mua ở cửa hàng bách hoá. Tôi sững sờ, nhưng rồi lại yên trí dần. Kỷ luật là ba cùng dưới xóm. Mà đội trưởng mua lén bánh đúc ở chợ. Bố bảo cũng không dám kêu mất. Và trông mọi người đương chăm chú thế kia thì chẳng ai nhìn thấy tôi vừa làm gì. Cho thằng đạo đức giả tối nay đói giã họng.
Mọi người đứng dậy, xốc ba lô lên vai,. Hai anh đội cán bộ cơ sở ở xã lên, nách kẹp mo nang tài liệu, xắm nắm đi ngay. Họ háo hức như được về xã nhà. Mà họ tự nhiên thế cũng chẳng lạ, chỉ có tôi mới phải lo lắng loăng quăng chẳng biết chốc nữa vào nhà ai, có bắt được trúng rễ hay không. Đội trưởng Cự một tay xua xua không biết là cản lại hay bảo đi, một tay nắm đấm, hô: “Vì giai cấp nông dân, quyết chiến, quyết thắng!”. Tôi thấy đội trưởng xch ba lô lên, sờ vào mép. Rồi nắn lại lần nữa. Mất mẹ nó rồi. Nhưng mặt vẫn bừng bừng như lúc đương nói, không khác. Đội trưởng đến trước mặt tôi. Tôi khúm núm co người túm miệng túi xách sợ lộ cái lá chuối, rồi nghiêng người đeo quai ba lô lên vai. Không phải đội trưởng tò mò gì về tôi mà Cự đến bắt tay từng người. Tôi kẹp chặt cái túi trong có gói bánh đúc ăn trộm rồi mới giơ bàn tay ra.
Đội trưởng bảo:
- Đồng chí đợt này được trên cử làm đội phó phụ trách toà án, cố gắng nhé.
Tôi nhẹ nhõm nắm tay Cự. Mỗi người vào xóm một ngả. Chỉ có Đình rảo bước theo tôi. Tôi hỏi:
- Cậu về cùng lối với mình à?
Lúc chỉ có hai ba người, chúng tôi thường cậu cậu tớ tớ - chỉ có mấy anh ở xã lên vẫn nghiêm túc “đồng chí” như khi họp. Riêng với đội trưởng tác phong quân sự thì không mấy khi dám cợt nhả, lúc nào cũng “đồng chí” cẩn thận.
Đình đáp:
- Mình phụ trách xóm Chuôm láng giềng cậu. Về Chuôm đi xuống lối bờ đầm đằng kia gần hơn.
- Thế tại sao đi lối này?
Đình cười hếch cái mũi đỏ.
- Đi vài bước cho nó vui mà.
Tôi ừ hữ nhạt nhẽo. Đình ghé tai tôi, nói nho nhỏ:
- Này chia cho tớ bánh đúc với. Ông nhanh tay quá đấy. Tớ nhìn thấy trước đằng ấy cơ.
Tôi ơ mặt như đứa ăn cắp bị bắt tạt trận - mà thật thế, còn như nỗi gì. Gói bánh có bốn chiếc, tôi lẳng lặng lấy ra đưa Đình hai cái. Nhìn theo hút lúc ấy đội trưởng Cự đã đi khuất vào bờ tre. Bỏ bánh lên túi ba lô rồi Đình cũng tất tả về phía ấy. Ôi trời, nó đi báo cáo thì mình toi mạng! Nó nói ra thì nó mất bánh. Mà đội trưởng đã định ăn vụng, đội trưởng trù cho thì cũng chết dở.
Tôi lững thững vào thôn Am. Đi bắt rễ khác nào đi câu. Còn chưa tối, mới choạng vạng mà trước mặt, sau lưng vắng tanh. Chiều chiều thông thường lúc này cổng đồng có người đi làm về, những con trâu bước thonng dong, đàn vịt rúc bờ ruộng chân tre, tẻ con đương vác sào ra dồn về. Thế mà đường vào xóm quạnh quẽ, tưởng như không cả con chuồn chuồn chập chờn, con nhện nước loăng quăng. Ít ngày sau, tôi mới biết cả mấy thôn này đã đội biết tin đội về từ lúc đội còn ngồi ăn bánh đúc trên chợ huyện. Thế là gà qué, chó má, trâu bò người ta tất tả nhốt chặt. Cả người cũng không dám ló mặt ra ngõ.
Có thể nhận biết một làng mới thoát khỏi vùng tề tiêu điều khác hẳn các làng hậu phương um tùm cây cối xanh mát trong Thanh Hoá. Ở đây, cây đa, cây si ngã ba xóm, những luỹ tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như những cái đầu trọc long lốc. Đồn bốt Tây bắt triệt thế nào cho du kích mất chỗ ẩn náp, đem đén cả các chòi gác bốt hương đũng giữa làng rọi đèn pha phía nào cũng được.
Tôi nhòm ngó một vòng xuống cuối xóm rồi quay lại. Cả đến những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương rồng cũng xơ xác như tóc cạo rối chẳng còn mấy. Trên những mái rạ mục đen xẫm không vẩn vơ một sợi khói bếp. Các cổng tán, cánh liếp mở há ngoác mồm. tôi không biết người ta cốt làm thế để đội về khỏi nghi giấu diếm cái gì trong nhà.
Tôi cứ toan vào bừa một nhà nào đó nghỉ ngơi cái đã. Nhà ấy không dựa được thì mai đi nhà khác. Tôi đã mấy đợt qua cái bỡ ngỡ lần đầu tiên ngày đi bắt rễ rồi. Chợt trông thấy sau mấy cây duối quăn queo một người đàn ông cởi trần gày nhom, quần xắn móng heo. Người ấy vừa đi vừa quay mặt vào trong cái sân đất, như nói với ai trong ấy: “Ông đã chặt cổ cả thằng Tây, ông đếch sợ anh đội”. Ngẩng lên thấy tôi, người ấy thoáng bối rối rồi nhìn trân trân: “A anh đội! Mời anh đội vào nhà em xơi bát nước!”. Cái mặt người này dại dại, mắt trơ tráo, không biết nó dở người hay là thằng địch trắng trợn cài bẫy. Giả vờ thế nào được với tôi, tôi không đáp. Tôi đâm cảnh giác, không dám vào bừa nhà ai như đã định thế, rồi cứ lúng túng, vẩn vơ…
Một quãng gặp một đóng rạ. Trong kia, thoáng bóng người quần nâu bạc đã tuông cả gấu, leo kheo rút rơm. Tôi khấp khểnh lẩm nhẩm: đây rồi… Đây rồi… rễ đây chứ rễ đâu… tôi xăm xăm tạt vào, Người đàn ông đứng lại dưới mái rạ, hai tay luống cuống như vụng trộm thế nào. Khuôn mặt rỗ hoa xám nhợt đã luống tuổi. Người ấy phờ phạc ngẩng lên:
- Lạy anh đội…
Gian nhà lợp rạ nát xám xịt như mặt người ấy. Tôi bước vào còn máy người trong nhà, chốc mới nhận ra dần dần. Một người đàn bà ngồi xổm trong xó, luồn tay chống lên mảnh gỗ con. Một chú nhóc đóng khố, một cởi trần tựa cột. Ở trái bếp bước vào một cô gái áo nâu lành lặn. Có lẽ có người lạ vào, cái áo vừa được mặc vội, một chiếc khuy đỏ chưa cài hở mảnh đuôi yếm cũn cỡn.
- Anh đội vào chơi. Nhà chẳng có chỗ nào ra hồn…
Tôi ngồi xuống một mảnh vầu úp và nói:
- Tôi tên là Bối. Cả nhà cứ gọi tôi là Bối, anh Bối.
Rồi trong bụng thoải mái yên chí chưa thăm nghèo hỏi khổ mà đã trúng phóc ngay. Tôi lại nói:
_ Tôi là cán bộ đội về công tác. Ta đây là xóm Am, phải không?
- Vâng ạ, xóm Am.
Cô gái lại vào trong bếp lấy ra một cái bát đàn. Nhưng không có nước. Cô bối rối đứng. Bố cô rụt rè nói: “Nhà chẳng còn nồi chè xanh nào”. Tôi cười: “Vẫn uống nước mưa ngoài vại chứ gì. Vẽ, tôi cũng thế”. Nói rồi tôi cầm chiếc bát ở tay cô gái ra cái vại bên gốc cau có buộc cái mo cau hứng nước mưa. Tôi múc đày bát nước, bưng vào, ừng ực làm một hơi hết tiệt. Quả là tôi đương khát se họng. Và mấy lâu nay ở và làng xóm tôi cũng quen ăn uống lôm lam, sống xít. Quả nhiên, chỉ cạn bát nước lã tôi lại cảm thấy công tác ba cùng đã đưa tôi gần gũi mọi người rồi. Đã chiều hẳn, phía bờ đần nước, đôi chim chích choè bay rỡn nhau hót những tiếng dàu ngắn gọi bạn vào hoang hôn. Trong nhà nhoè nhoẹt xâm xẩm, chỉ còn khuôn mặt cô gái trăng trắng.
Tôi đã thuộc tên mọi người. Bố tên là Diệc. Mẹ bị tàn tật ngồi trong vách đấy. Con gái là cô Đơm và mấy em, những thằng Vó, cái Lưới, thằng Cò… Nhà cò nhà diệc, những ao ước cầu mong hàng ngày đơm đó sông nước chỉ có vậy. Nghèo đến thế chứ nghèo sao nữa, những cái tên cũng đã khiến tôi gối đầu ngủ yên được. Chưa trông rõ hết, cũng đoán ngay ra cái nhà tranh vách tuyềnh toàng ẩm mùi rêu đất, đừng cuối sân, một chiếc hũ sứt hay cái chĩnh đội chiếc nón mê. Người đi làm đồng về được con cáy, cái tép thì ném vào cái hũ đã trộn lưng muối, vài tháng kại chắt ra làm nước mắm, thức chấm. Người ta đương tìm đây rồi. Thật cũng có may rủi.
Tôi bắt đầu mở bài lục vấn con số.
- Nhà ta cấy được bao nhiêu?
- Chưa được hai miếng ạ.
- Ruộng nhà a?
- Thưa, cấy giẽ thôi.
Tôi nghĩ sắp đặt ngay: “Bố con, thế là nhà này đã được một rễ, một chuỗi. Bố làm trưởng thôn, con thì tổ trong dân quân. Hay!”. Trong nhà tối om. Một thằng cu vào bếp thổi đống trấu châm một que đóm. Phao đèn hoa kỳ không bóng sáng lung lay chẳng khác sợi lửa đóm. Tôi hỏi:
- Nhà chưa cơm chiều à?
- Có… có… chưa… chưa…
- Chưa thì cho tôi ăn với. Tôi có phiếu gạo đấy. Mai cô Đơm lem lên đong gạo trên cửa hàng huyện.

Người ta ở đâu cũng đã biết lề lối đội cải cách đén thì ăn, thì ở ra sao. Những đồn thổi, những tiếu lâm, bao nhiêu vhuyện buồn cười và chuyện rùng rợn về những anh đội. Năm trước, khi còn cái bốt hương dũng tề nguỵ giữa làng, thế mà những chuyện giảm tô, cải cách đã bay từ ngoài kia vào. Có người tò mò lẻn đi xem đấu địa chủ tận “hậu phương” bên kia sông. Nhiều nhà khá giả sợ xanh mắt, đã xuống Hải Phòng đi Nam. Người ở lại cũng mỗi người nói một cách khác, người ngóng đợi, người lo vu vơ.

- Cũng sẵn rồi nhưng cơm chẳng ra cơm đâu, mời anh đội ăn tạm.

Cô đơm bưng bày xuống mặt đát giữa nhà, lần lượt một nồi cơm, một cái chảo trông nhờ nhờ như muối. Đơm xới một bát cơm gắp ram ấy cọng rau sam đựt lên bát rồi đem vào xó nhà cho mẹ ngồi bốc ăn trong ấy.

Tôi hỏi vui:

- Cơm trộn kê hay sao mà vàng ngon thế?

- Vâng. Cám đấy ạ.

Rồi bác Điệc nhẩn nha kể: “Cả vùng này mùa vừa rồi nhốn nháo vì người các nơi qua lại đổ về Hải Phòng. Các cụ đạo vào tận đây rủ người ta đi, chả dưới xóm Đìa có người theo đạo mà. Ai đi đau thì cứ đi, chỉ chết con nhà nông chúng tôi đi vay không thì cũng rối tinh lên chẳng cấy hái ra gì. Của ăn được thì còn chơi vơi ngoài đồng. không biết rồi nhặt nhạnh thế nào, bây giờ may lắm còn moi móc ra cái cám ăn cứu người”.

Hồi dự tổng kết trong Thanh rồi tôi về huyện Thiệu Hoá thực tập, ở nhà rễ, ngày hai bữa toàn cám, bấy giờ được ăn cám còn phúc bảy mươi đời. Thanh Hoá đã kiệt lực, đói to. Cả một vùng các huyện trên xưa nay ỷ vào đạp nước Bái Thượng chỉ quen làm một vụ lúa, không biết làm mầu. Máy bay Pháp bỏ bom phá vỡ đạp Bái Thượng. Người ta nói thằng Pháp chỉ đánh dấn một năm nữa thì cả tỉnh chết đói hết. Ngoài chợ tỉnh cũng bày bán trẻ con nhan nhản như bán chó. Tôi dự một cuộc đấu địa chủ. Có người rễ bị đói đã lâu quá, đứng lảo đảo, hét một tiếng rồi lăn ra chết. Những đơn vị trong Nam tập kết đóng quân dọc sông Mã. May được các chiến sĩ khu Năm đem ra kinh nghiệm và giúp dân trông khoai, rau muống chống đói. Các mảnh vườn, các cánh ruộng khô nẻ được cuốc lên, đánh luống chỉ hơn một tháng đã được hái lá ăn. Rau muống luộc, rau lang rau muống phơi làm lương khô và muối dưa, nấu lẫn cám nuốt tạm đợi mùa.

Tôi còn đem ra đây cái nhớ khủng khiếp về những bữa ăn cám. Có đến cả phiên, mấy phiên chợ không đi ỉa được. Mình mẩy ngứa nổi mần da cóc. Suốt đem bứt rứt, không tài nào chợp mắt. Sợ quá phải về bệnh viện tỉnh xin thụt. Xuống đến chợ Rừng Thông, người ta mách ăn đu đủ xanh cũng rửa ruột được. Thế mà hiệu nghiệm có lẽ như thụt. Bây giờ cơm lẫn cám chắc ăn đỡ hơn dạo ấy. Cũng chưa biết thế nào, chỉ thấy từ ngày trận táo bón tắc ruột, bụng tôi như chắc lại, thỉnh thoảng mới phải tào tháo đuổi. Mà tối nay cũng chỉ nhấm nháp qua loa. Còn hai cái bánh đúc trong túi cơ mà.

Tôi ngồi xổm, cầm bát, định lùa luôn mấy đũa. Nhưng miếng cơm nguội ngắt, răn như vôi vữa. Rồi từ từ nhai, tôi cũng tọng được hét bát rồi kiêu là ăn trên chợ huyện còn lửng bụng.

Một nhoáng, cả nhà đã xong bữa.

Dần dà tôi được biết bác Diệc năm nay bốn mươi mốt. Cả đời chỉ quanh quẩn trong làng chưa khi nào bước chân lên con đường cái bên kia sông. Phải năm trời làm bệnh tả, bố mẹ chết cả. Còn trơ trụi có Diệc. Rồi bệnh đạu mùa để lại cho bác Diệc những lỗ chỗ vết rõ hoa khắp mặt. lăn;óc nhà này qua nhà khác. Diệc không thể nhớ được thuở tấm bé đứa trẻ chỉbb gào khóc đòi ăn thì như thế nào, nhưng đến khi biết đi biết chạy, cũng là lúc làm quen với cái thừng con trâu, cái liềm cắt cỏ, chiếc đòn gánh quảy nước rồi chẳng bao lâu đã thông thạo mọi việc đồng áng. Những trận đi làm thuê bị đòn đánh và cái đói; cái khổ nhục tháng ngày, làm sao nhớ được bao nhiêu khiêng. Tôi còn muốn hỏi Diệc lấy vợ bao giờ, tại sao vợ lại ốm đau thế. Nhưng chưa biết lựa lời thế nào.

Bác Diệc nói:

- Anh đội đi cả ngày, nhọc rồi, đi ngủ thôi.

Quả là hai mắt tôi đã cứng đơ. Tai nghe câu chẳng câu chuộc. Chốc chốc ngật cổ một cái, lại choàng tỉnh.

- Ừ, ừ…

- Anh đội nằm ở cái chõng kia. Chõng vẫn bỏ không, thỉnh thoảng mới đem ra ngồi hóng mát ngoài sân. Cả nhà tôi nằm đất đã quen, mùa rét thì lót lá chuối khô, ấm lắm.

Cũng chẳng đợi chủ nhà giục lần nữa, tôi nói: “Tắt đèn nhé”- đốm đèn tắt phụt. Tôi ngả lưng xuống chõng, gối đầu lên ba lô. Thèm ngủ thế, nhưng vẫn nhớ trong túi dết có gói bánh đúc.

Hôm sau, tôi thức dậy, trong nhà im phăng phắc. Cái chống liếp cửa trước đã được dựng lên từ bao giờ - hai bàn tay ếch đặt lên hai mảnh gỗ. Con mắt ngước trắng dã như hai mảnh sành.

Tôi hỏi:

- Cả nhà đi làm rồi a?

Cái bóng rũ rượi im lìm. Người tàn tật này có lẽ còn mắc các chứng câm điếc và thong manh nữa. Tôi xếp cái ba lô vào góc chõng rồi bước ra cổng. Đường xóm buổi sáng không đến nỗi vắng tanh như chiều hôm qua. Ngoài đồng lúi húi người cào cỏ. Đuôi lúa con gái ngậm đòng rập rờn phe phẩy mơn man trong làn gió nhẹ như sắp trông thấy hạt thóc mẩy về đuổi đi bát cám trộn. Một đám trẻ con trần truồng mình mảy lấm như trâu đằm đứng rụi mắt nhìn tôi lững thững qua.

Vào liền mấy nhà đều im ắng như nhà hoang. Tôi đã biết một làng bình thường chẳng mấy khi có người ở nhà buổi sáng. Ai cũng còn đi moi móc đào bới, đơm đó lấy cái ăn. Nhất là các xóm trong ngoài luỹ tre phờ phạc, bên những chân tre còn sót lại, trồi ra những mái dạ như cây rơm, như chuồng trâu khác các chòm nhà giữa làng. Những nhà có máu mặt tụ họi ở xóm trong, xóm giữa, dần dà mới ra các xóm trẽ, xóm đồng, xóm bãi. Ngày trước hẳn ở đây là cổng đồng rồi người trong làng nhà đông san ra ở, người bơ vơ ở đâu tới ngụ cư lập nên xóm đuôi, xóm trại. Xóm này chắc cũng mới thành nơi ăn chốn ở vài mươi năm nay, nhiều chỗ nền nhà chưa hoàn thổ, đất tảng mốc rêu. Những vườn xoan cây chỉ nhỉnh cao bằng sào nứa.

Tôi qua lại bụi cây duối rậm rịt buông xuống những nắm dây tơ hồng vàng rượi. Cái thằng quần xắn móng lợn vẫn như hôm qua. Chòm râu quai nón tua tủa. Như nó vẫn đứng đay rình tôi.

- Chào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được thằng chuỗi nào hơn em. Hôm qua mà anh vào nhà em thì em đã được là rễ rồi, rễ cái chứ chẳng chơi, nói thật đấy.

Tôi lặng lẽ theo hắn. Không để tâm những câu nói lẩn thẩn, lảm nhảm. Không phải nó say rượu, cũng không phải nó dở người, vẻ nó táo tợ nhưng nó nói khôn như người ta. Có thể nghe nó mà biết tình hình, mà kiểm tra được việc cũng nên. Nhà này còn tồi tàn hơn nhà Diệp. Ba phía vách tuông ra, huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bìm leo chăng chịt lên cả cột nhà như cái cọc tre. Một người đàn bà lúi húi trong bếp đương sàng sảy cái gì không biết. Tiếng lạt xạt khe khẽ như gà con bới đống dấm ủ bếp.

- Anh ngồi xuống. Nhà tôi ngồi chỗ nào cũng như nhau. Tôi là tiên chỉ cái làng này, tiên chỉ bần cố nông chứ chẳng vừa đâu. Những tôi không kể khổ với anh. Tôi chán ngấy cái khổ, cái kể khổ rồi. Tôi nói với đội việc khác.

“Lúc kháng chiến ấy mà. Ở trong này tôi là du kích tập trung huyện. Tôi không báo công đâu, công tôi thì không đếm xuể, mà công bao nhiêu cũng hoá công cốc rồi. Tôi chỉ kể những chuyện ân oán thân tôi. Đêm ấy tôi thình lình lẻn về cái nhà này. Tôi nhòm liếp, đèn còn sáng, thằng xếp bốt hương dũng đương nằm với vợ tôi đúng chỗ cái cột này. con vợ tôi kia, cái đứa làm chứng sống còn đấy. Tôi xông vào. Cũng ghê lắm. Thằng xếp bốt cứ trần truồng lăn xả vào tôi. Tôi mà không ghì lại nổi, nó chỉ lùi được mươi bước quơ được súng thì tôi ăn băng đạn tôi chết toi rồi. Những tôi cũng bị nó quật mấy hòn gạch tưởng vỡ đầu. Bây giờ phải khi giở giời đầu tôi cứ buốt từ óc xuống xương sống. Thằng bệnh viện bảo tôi đứt một dây thần kinh. Thì điên à? Đứa nào bảo ông điên? Ông điên mà ông nhớ được chuyện cổ tích a, nhớ được công lao kháng chiến của ông a?”

Người đàn bà trong bếp nghe láng máng tiếng người trên nhà cũng thò đầu lên hóng chuyện. Cái mặt mụ nhăn nheo, xám ngoét, miệng há hốc trơ ra, lợi hàm dưới đỏ hỏn, đã mất hết răng. Như là nghe nói ai ở đâu chứ không phải chuyện về cái thằng xếp bốt năm ấy ngủ với mụ ta. Dáng ngơ ngơ, mụ ấy mới lẩn thẩn.

“Bấy giờ tôi khoẻ như hùm ấy chứ. Tôi lôi thằng dê xồm ra chỗ góc duối kia. Tôi hoa mã tấu lên. Cái đàu nó nhảy nhốp nhốp dưới đát như con cóc phun nước. Tôi xách cái đàu lâu nó về huyện đội. Ấy thế mà rồi sau tôi xin huân chương, chúng nó bảo tôi báo thù thằng ngủ với vợ chư không phải là thành tích. Báo thù thì tao phải pheng cổ cả vợ tao chứ, có phải không mẹ mày?”.

Người đàn bà quay mặt vào, không ừ hữ một câu. Lại nghe tiếng sảy hạy tấm hay mày ngô rào rào như mưa thưa. “Anh đội tính cho tôi thế nào? Công tôi to thế phải không?”

Tôi ậm ừ:

- Được rồi.

- Ối, anh đã bảo được đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho tôi làm trường thôn, phế thằng tư Nhỡ đi. Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra hàng đàn địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít mặc kệ, có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có phải không anh đội?

- Được, cứ để đội xét.

- Cái gì cũng bảo xét, trên huyện cũng nói đẻ xét, rồi mất hút con mẹ hàng lươn. Để xét thì ăn mẹ gì! Thôi mời các anh cút, cút đi.

- Nóng tính thế. Tên là gì?

- Anh là Tây đồn lục vấn tao đẻ bắt bỏ tù à?

- Không phải. Tây nó về nhà Tây rồi, đội hỏi để biết.

- Thế thì báo cáo với đội tôi là bần cố, tên tôi là bần cố Vách. Cả huyện này ai cũng biết Vách đồ tể. Ngày trước mổ Tây, bây giờ mổ lợn. Hôm nào được cỗ lòng lợn ngon anh đội đến đánh chén sớm nhé. Không, không được. Đội đương phải ăn cháo cám với dân mà. Cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm. Cùng hai thứ thôi nhé, đừng ngủ với con cái Đơm nhé. Khớ! Khớ!

Vách rụt cổ cười rũ rĩ. Về nhà tôi hỏi bác Diệc:

- Cái thằng Vách ấy là thế nào?

Trước kia nó là du kích huyện, bị Tây bắt được, bị đem rập đầu vào tường một ngày rồi sau đâm rồi lẩn thẩn. Nhưng mổ lợn thuê khéo lại nhanh mà cũng lắm lúc nói khôn đáo để.

Có hôm tôi hỏi thì cô Đơm lại nói khác:

- Chú Vách đi du kích thoát ly, nửa đem về bắt được ông xếp bốt hương dũng nằm với thím ấy, chú áy dong xếp bốt ra đem trôi sông, từ đấy bị cái ma oán đâm ra dở người.

Buổi trưa Đơm đi đâu chưa về. Ban ngày tôi mới trông rõ bát cơm màu vàng cám, lổ đổ vài hạt gạo còn sống nhăn. Tôi lại sợ tắc ruột, chỉ và nhếu nháo vài miếng rồi ra ngoài vại chiêu bát nước lã. Tôi bảo bác Diệc:

- Sáng nay làm gì?

- Chẳng làm gì cả.

- Mai có đi làm rủ tôi đi với.

- Tôi đi cả buổi, nhưng anh… anh ở nhà…

- Tại sao, đi cả buổi à?

- Đi đào lỗ rắn thôi, anh không làm được, mà cũng không, anh không được làm. Mùa này rắn bắt đầu vào ngủ hang. Đi bắt vài con làm thức ăn.

Cái đòi đi làm của tôi cũng chết ngấm. Bắt rắn! Tôi sợ rợn gai người. Tôi im lặng không nói gì nữa. Bác Diệc cười gượng, rồi chép miệng:

- Nhà có khách mà chẳng có gì ăn. Thằng bé đi câu ếch ngoài ruộng cũng về không. Mai ba bố con đi bắt rắn, bắt chuột. Cũng là còn sớm chưa có hạt lúa chưa chắc chuột nhà đã ra ngoài đồng. Nhưng mà trông anh…

Không thấy rủ tôi đi bắt chuột, tôi nhẹ người. Tôi hỏi:

- Đồng áng thế nào mà hết rắn lại chuột…

- Tháng ba ngày tám, chỉ còn ngồi trông ngọn lúa. Thỉnh thoảng cào cỏ. Nhà tôi có mỗi miếng ruộng, quơ nửa buổi đã sạch trơn. Chẳng đào đâu ra việc cả.

Bác Diệc lại hoe hoe cười như không:

- Trông anh nhai cám tôi ái ngại lắm.

Tôi ngượng, kiến bò rần rần trên mặt.

- Tạng tôi cơm nước thế nào cũng đểnh đoảng vậy thôi.

- Hay là mai đi với tôi. Anh đứng trông rọ thôi. Tôi đã thấy một hang đất đùn, không phải vết lườn bụng rắn, chân chuộtnhìn rõ ghê.

Tôi chối khéo:

- Sáng mai tôi phải lên hội ý đội.

Rồi tránh quanh quẩn chuột với rắn, tôi sang việc khác:

- Nhà nào có bát ăn nhất thôn này?

- Nhà trưởng thôn này tư Nhỡ.

- Chỗ nào?

- Bên kia cái ao có mấy cây dừa.

Tôi toan giở ngón lười, vặn vẹo thêm bác Diệc mấy câu nữa để lấy con số. Nhưng lại nghĩ: bước một của ta thê là thắng lợi trông thấy rồi, mai đi báo cáo thì ta nhất đội chứ ai. Nhưng cứ điều tra tình hình tường tận mọi mặt rộng ra, chẳng mất gì. Mấy lỵ chịu khó bây giờ, bước hai sẽ được thong thả.

Nghĩ thế tôi đi đén nhà trong thôn này tư Nhỡ. Diệc đứng dậy nói: “Anh đừng…” rồi không nói thêm. Tôi cũng chẳng để ý, tôi bước ra ngõ.

Những cây dừa xanh bên ao kia tôi đã trông thấy từ chiều hôm trước, những không biết đằng sau vườn dừa còn có nhà. Vào quá mép bờ nước, trước mặt trải ra một con đường lát ba hàng gạch nghiêng, đi phía ngoài không nhìn thấy. Hai bờ dậu, hàng dâu xanh mướt. Những cây dừa lửa mùa này lúc líu chùm quả vàng xẫm. Trong kia, như trổ vào giữa luỹ tre, một chiếc cổng tán buông kín khít giữa hai cột đực, trên nóc cổng tán lòng vòng mấy hàng chông dây thép gai. Cái cổng ngõ chống cướp, chống càn của thời nhiễu nhương vừa qua. Bên trong, ẩn một ngôi nhà ngói mái phủ trĩu rêu ẩm xanh xẫm, hai đầu mái nhô đàu chuôi vồ ngất nghểu.

Đàn chó xông ra sủa râm ran. Nhưng không phải chó dữ, chỉ là mấy con chó giữ nhà đánh tiếng. Một ông lão áo cánh năm thân nhuộm vỏ dà, bộ râu dài đen mướt như tóc buông. Hai con mắt còn nhung nháu thế kia, tôi đoán không thể lão đã lên ngôi cụ mà lão chỉ là người chơi nuôi râu. Ông ta cúi, rút chốt nhấc cổng tán, suỵt đuổi những con vện, con vá lốc nhốc chạy quay vsfo dưới nhà ngang.

- Mời anh đội vào chơi.

Trên một cánh cửa treo một tấm gỗ mộc ở giữa sơn đen một dòng chữ to: Hutte censt ans * (Lều cô đơn trăm năm). Tôi đánh vần bập bõm, nhưng không biết chữ nghĩa. Trong nhà đúng kiểu cách nhà phong lưu đông quê, phản gỗ mít, giừng thờ hương án sơn then, đôi giải y môn màu koa hiên đã úa.

Chủ và khách ngồi trên chiếc tràng kỷ mây đan, giữa bàn đặt một bát điếu mộc và cái ấm rỏ. Chủ rót mời chén tống nước chè nụ âm ấm.

- Bác là bác tư Nhỡ trưởng thôn?

- Thưa, tôi là tư Nhỡ. Còn trưởng thôn thì tuỳ đội bây giờ thương để cho thì được.

- Nhà ta đi vắng cả?

- Mẹ nó, với các cháu lên chợ huyện. Chả là ngoài vườn có buồng chuối, buồng cau đem bán, nhân thể mua mắm muối. Ấy làng xa chợ vất vả thế, mỗi việc đi mất cả buổi. Thế anh đội về ở nhà ai?

- Nhà bác Diệc.

- À, nhà Diệc…

- Nhà ta năm nay…

- Cám ơn anh thăm hỏi nghèo khổ. Tôi xin kể sự tích tôi về cái xóm Am này cho anh nghe. Năm trước tôi học trên huyện. Thời Tây, trên huyện mới có trường mà. Rồi bố mẹ tôi mất cả. Tôi phải bỏ học về trông nom cửa nhà. Nhà tôi được đinh, tôi là con một. Ruộng nương có một ít, lại xâm canh bên kia sông.

- Sao con cả lại là tư?

- Tư Nhỡ vuốt râu cười:

- Ấy, tư là tư văn. Mua cái tư văn, được ra văn chỉ điếu đóm các cụ, khỏi bị xách nhiễu phu phen tạp dịch.

- Bao nhiêu tuổi thì được vào tư văn?

- Không lệ tuổi, chỉ biện mâm xôi con gà với khoản tiền khoán. Tôi năm nay ngoài ba mươi.

- Ba mươi bao nhiêu?

- Ba mươi tư ạ.

- Thế mà để râu dài đến rốn!

- Ấy bộ râu cũng có tổ chức sự của bộ râu ạ. Quê chúng tôi gọi râu này là râu chống càn. Chả là mỗi lần Tây các bốt quang vùng kéo qua đây, khi lấy phu vác đạn, khuân đồ, khi bắt lính, bắt người ta đẩy ra đường 5 hứng mìn. Râu tôi dài thế này, già nua thế này, tôi lại chỉ lên cái biển có hàng chữ Tây “Cái lều một trăm năm” kia, thế là chúng nó cười hô hố, xuống lục trứng chuồng gà, ra vườn đẵn chuối, lấy đu đủ rồi cút. Lần nào tôi cũng thoát. anh ạ.

- Bây giờ thì cắt râu được rồi.

- Dạ.

- Tôi ngồi một lúc, không còn gì hỏi nữa, đứng dậy. Tính nhẩm đã vào cái nhàn trong xóm, mấy người…mấy nhà… Tối nay họp rễ chuỗi, chiều mai ra ssan đền họp đội. Nhất định mình bơi một loạt, thoạt đầu đã trúng rễ, lại chuỗi, mấy chuỗi. có thể cả tư Nhỡ, ruộng vài ba miếng, lại xâm canh đồng khác thì chưa phải địa, phú mà lại có tinh thần chống càn. nhưng mà trưởng thôn, lúc nãy quên mất chưa cắt chức trưởng thôn tư Nhỡ, vì tổ chức cũ phải giải tán, có cử lại anh ta thì cũng là tổ chức mới. Sắp sẵn người khác, hay là Vách, Vách khùng có được không, còn Đơm thì đội du kích rồi… Trông Đơm lam lũ, rách rưới, nhưng cái vai cái lưng mây mẩy và hai con mắt thì ngon như củ khoai lùi ăm được. Trạnh lòng nhớ cái câu trắng trợn của thằng Vách nói “ba cùng nhưng không được cùng ngủ với con Đơm”. Là đùa, cũng là thật, thằng khùng mà ma xó.

Về đến nhà bác Diệc. Cũng như chiều hôm trước Đơm đương lúi húi trong bếp. Ở góc buồng ngoài, hai con mắt trắng rợn của người tàn tật nhìn lên. Đơm ra rút rạ.

- Anh đã về.

- Trưa nay Đơm đi đâu?

- Em xuống chợ mua cái này.

- Chợ huyện à?

Đơm không trả lời mà lấy trong yếm ngực ra một gói lá chuối. Mảnh lá chuối cong cong, thò hai chiếc bánh đúc ngô vàng hây, cả miếng cháy ở giữa đen ròn. Đơm đưa bánh cho tôi.

- Ô hay, sao thế này?

- Em thấy anh thích ăn bánh ngô.

- Sao em biết?

- Em nhặt cái lá gần chõng, còn dính bánh…

Chết tôi rồi. Đơm cười, nét mặt cô gái dậy thì xanh xao bỗng đỏ hồng, xinh hẳn. Có lẽ cô cười cái mặt nhăn nhó, méo mó khó hiểu của tôi. Nhưng tôi cầm ngay gói bánh. Vừa thấy cái bánh, cơn đói đã bồn chồn lên rồi. Tôi chẳng ngại. Năm ngoái ở Quảng Xương, ở Thiệu Hoá, ở Nông Cống, không ở đau tôi chịu đói. Tôi vẫn ăn vụng. Mỗi hôm đi họp đội, tôi lại tạt vào chợ, vào quán, mua kẹo, bánh đa ướt, có khi lùa vội bát bánh đúc chan canh cua. Chỉ cốt trông trước trông sau, không để ai nhìn thấy thôi. Mà biết đâu, suy bụng ta ra bụng người, có lẽ cả đội cũng thế, cũng ăn vụng.

Tôi bỏ gói bánh vào cái túi đeo vai. Nhung tôi vẫn nắm tay Đơm. Trong mảnh áo rách vai, cái chân vú nần nẫn. “Em ngoan quá”. Tôi lấy trong khe quyển sổ ghi chép hai tờ giấy bạc một đồng kẹp trong đấy.

- Cầm lấy, thỉnh thoảng mua bánh đúc cho anh. Đừng để ai trông thấy nhá. Anh đương phải ba cùng.

- Em biết rồi.

Đơm cầm tiền, đút vào mép yếm.

- Em có cái túi hay nhỉ?

Tôi thò tay lách vào ngực Đơm.

Đơm đẩy tay tôi ra.

- Rõ cái anh!

- Anh xem cái chỗ để tiền.

- Ngoài này kia mà, lại đi sờ vào trong.

- Anh nhầm.

Tôi lại thọc vào ngực Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi vân vê.

Chập tối tôi nói với bác Diệc: “Đi bảo cậu Vách xem còn người nào trong xóm cũng nghèo như cậu ấy thì rủ vào đây tối nay họp rễ chuỗi”. Một lúc, mấy người lục tục đến, cả Đơm cũng được họp. Mỗi người tìm một cái cột dựa vào. Im lặng, chờ tooi nói. Tối mịt, chẳng ai nhìn thấy mặt ai. Đến lúc bác Diệc thấy tôi mở quyển sổ túi xách mới vào bếp mới cầm ra cái đèn đom đóm như đêm trước.

Một bóng người cao lớn lù lù vào cửa. Ánh đèn vừa loé thấy tư Nhỡ. Vẫn tấm áo năm thân lụng thụng, nhưng bộ râu ria đã cạo nhẵn, mặt trơ khấc, lơ láo trông khác hẳn.

- Chào các đồng chí!

Vách đứng dậy ngay, sừng sộ.

- Ai đồng chí đồng chuột với mày! Mày là thằng trưởng thôn của đế quốc, ai bảo thằng tổ chức cũ đến đây. Anh đội cho thằng này họp với chúng tôi à?

Tôi bước ra nói nhỏ với tư Nhỡ:

- Hôm nay chưa họp xóm, tối mai.

Tư Nhỡ tiu ngỉu quay ra, mất hút vào bóng tối.

Vách còn đay đi đay lại hỏi người nào gọi thằng tư Nhỡ đi họp rễ chuỗi. Ai cũng im thin thít, không ai nói và cũng bởi vì không ai biết. Chỉ tại tôi, lúc chiều ở nhà tư Nhỡ ra, tư Nhỡ theo nằn nì: “Tối nay họp à? - Không hiểu sao, tư Nhỡ đã biết- Anh cho đàn em họp với”. Tôi cũng ừ ào, thế là nó cạo râu, đến.

Tôi mở sổ tay, mặc dầu ánh đèn không thể nhìn ra chữ, tôi cúi xuống làm như nhìn tờ giấy rồi ngẩng lên nói một thôi một hồi:… phóng tay phát động--- giai cấp nông dân đánh đổ giai cấp địa chủ… Tối mai họp xóm tôi công bố… tôi chỉ định đồng chí Diệc ra làm trưởng thôn xóm Am…

Vách hỏi:

- Thay thằng tư Nhỡ à?

- Giai cấp nông dân ta từ nay làm chủ.

Một mình Vách vỗ tay.

- Thế thì được.

Tôi tuyên bố giải tán cuộc họp.

Vách sửng sốt hỏi:

- Còn cụng đầu tố khổ kia mà. Trong tài liệu bảo thế.

Tôi gạt đi.

- Vừa rồi thế cũng là tố khổ. Chúng ta làm việc phải hết sức khẩn trương.
Tôi nói và đứng dậy. Phải, họp cũng là tố khổ chứ còn gì. Cái thằng Vách nửa điên nửa tỉnh này có thể rầy rà đây. Mọi người về rồi, tôi lại nằm lên cái chõng. Tôi lần túi lấy hai chiếc bánh đúc ngô của Đơm, ăn xong chỉ kịp quờ tay bỏ mảnh lá chuối vào túi dết rồi ngáy khò khò.
Sáng hôm sau, bố con bác Diệc đã biến đi từ bao giờ. Không biết Đơm đi đào chuột vẫn bố hay lại lên chợ huyện mua bánh đúc. Dác Diệc không rủ tôi như hôm qua nói. Và bác tưởng tôi phải đi họp. Thôi thế cũng may, bắt chuột cũng khiếp như bắt rắn, những cái nợ đời gớm ghiếc ấy mà. Mà tôi biết bụng người ta chẳng ai dám thật lòng rủ đi làm. Anh đội bảo thì phải rủ thôi. Ở Nông Cống tôi cũng vác cuốc ra đồng, rồi quảy đất đắp đê, sưng tấy cả bên bả vai. Thấy tôi lớ ngớ ngứa cả mắt, lại đau vai, hôm sau anh rễ xin tôi cứ ở nhà nghiên cứu tài liệu, trông đỡ trẻ con và quét nhà. Thì ở đây cũng thế.
Tôi mở sổ tay ra, kê lên ba-lô. Người mẹ ốm như cái cọc bếp, có cũng bằng không, tôi cũng chẳng để ý đến. Thực tôi cũng chẳng có việc phải nghiền ngẫm sổ tay. Tôi ngồi rình xem Đơm có về. Tôi nhớ cái vú nây nây. Con mèo đợi vồ chuột. Đêm ngủ say quá chứ thèm từ chiều hôm qua. Khác nào thỉnh thoảng được cái bánh đúc, nuốt hết rồi mà môi vẫn tóp tép. Nhưng không thấy Đơm về.
Gần đến trưa thì bác Diệc lùi lũi vào cổng. Những vết bùn xám xì lấm lên tận mặt. Không được con rắn con chuột nào. Chuột làng chỉ mới đánh hơi tìm hang mà chưa ra đồng ở. Về qua cái vũng trâu đầm, be lên, bắt được mấy con tép. Mọi khi thì ném vào cái chĩnh làm nước cáy. Nhưng nhà có khách, đem nướng cho bữa có mùi thịt cá. Không thấy Đơm cùng về. Đơm đi đâu? Hay bởi nồi cơm cám nuốt khé cổ buồn như chấu, chỉ có người mẹ không lạch đi được đành ngồi nhai nghẹn từng miếng. Chưa ai kiếm được cái ăn chỗ nào cứ việc đi, chẳng cần bữa ở nhà. Vắng cả những thằng cu con. Tôi với bác Diệc ngồi ăn bát cám có mùi gạo tấm, mùi tanh con tép, cũng dễ nuốt, hơi khác mọi khi.
Ngủ trưa dậy bác Diệc đã lại đi rồi. Tôi vào goác bếp, cầm một cái cào cỏ. Tôi vác cào lên, một bên đeo túi dết. Cá xóm biết anh đội đóng bộ đi làm đòng đấy. Ai chả biết anh đội làm trò, tôi mặc họ và thản nhiên. Tôi xắn quần, đi từ xứ đồng cao trong chân tre ra con ngòi sâurồi lại lội qua mấy khoảnh ruộng trũng. Đương khi nông nhàn, đồng áng lơ thơ xa xa mấy người lúi húi cào cỏ. Thấy người lội đồng mũ, quần xoe trên gối, người ta ngẩng lên rồi lại cúi xuống quờ tay gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng đấy mà.
Tôi có thăm hỏi đồng áng gì đâu. Đi guốc vào bụng những anh đội mắt trố như mắt chó giấy, cái gì cũng lạ lại làm ra vẻ ta đã thạo. Nhưng tôi còn láu cá hơn những người có thể biết tôi vờ vẫn. Tôi cốt vác cào cỏ, sục mấy cái cho răng cào dính bùn và hai ống quần thì lâm tâm cỏ may. Tôi ra cửa đền ngoài chân đê hội ý đội. Làm bộ như tôi vừa đi làm đồng về chưa kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp.
Tôi bước lên đường cái. Có người trong xóm chạy ra hớt hải gọi:
- Anh đội! anh đội!
Tôi quay lại nhìn. Lại thằng Vách. Tay Vách lăm lăm con dao bầu sáng loáng. Tôi chợt hoảng. Thằng này nổi cơn điên hay sao. Nhưng nhớ ra cái nghề mổ lợn của Vách, tôi bình tĩnh lại.
- Gì thế?
- Tôi bảo anh đội hai câu này nhé, hai câu thôi. Có nghe tôi mới nói.
- Nói đi.
- Tối hôm qua anh không cho tôi tố thằng tư Nhỡ, tối nay họp xóm tôi tố nó. Anh bảo phóng tay kia mà…
- Còn câu thứ hai, nói nốt đi. Đương vội đây.
- Anh ra đền họp bí mật với đội chứ vội cái quái gì.
Rồi Vách cười khành khạch, giơ dao:
- Này tôi mách anh: cái thằng Diệc làm rễ của anh là rễ thối đấy. Con cái nhà địa, anh biết chưa?
Tôi đứng nhìn Vách, không biết nó lỡm hay thực.
- Tôi chỉ nói thế, anh đi hỏi cả làng này xem.
Rồi Vách múa con dao quăng quả đi. Tôi có cảm tưởng câu nói của nó vừa rồi có lẽ là tỉnh, bây giờ hoa dao lên mới là điên. Tôi lặng một giây, rồi tiếp tục đi. Cũng chưa nghĩ ra thế nào.
Tưởng đến sớm hoá ra đội trưởng Cự và mấy anh đội bần cố nông ở xã lên chưa có tiền sắm đồng hồ thế mà đúng giờ ngồi trong đền. Hai anh đội này sợ Cự một phép, việc gì nặng nhọc cũng xung phong. Cả cán bộ Đình ở xóm bên cũng đã đến. Lại ngỡ chỉ có một mình mình cầm cái cào cỏ có vết bùn. Không, xem ra người nào cũng khoe ngầm ta vừa chân ướt chân ráo ở nơi bán lưng trời, bán mặt cho đất về đây. người thì cái rỏ đeo đít, người cái cuốc trên vai hạ xuống, có người quang gánh lõng thõng để ngoài thềm, cái thừng và chiếc nõ xỏ mũi trâu lăn lóc trong đám cỏ làm như đương đi đuổi trâu. Nhưng ai đấy có khôn mà chẳng ngoan. Sợi thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy nhau cả. Mọi người nhìn nhau chỉ nhớn nhác một cái và lặng lẽ quay mặt đi.
Trong chân tường, chuột đùn lên từng đống đất. Ồ, mai bảo bác Diệc ra đây mà hun chuột. Mọi người tới đông đủ. Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận, kéo ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh. Hoặc như ngày xưa, cách cướp tụ bạ một chỗ đợi đêm tới bật hồng lên xông vào làng. Vẻ mặt người nào cũng ra chiều đăm chiêu, quan trọng.
Chúng tôi đương làm thay đổi cái làng này, xã này. Cả nước đã đứng lên. Các tất cả sẽ bị đánh đổ, bao nhiêu địa chủ và bon bóc lột phải đạp xuống đất đen, chúng tôi phóng tay đưa bần cố nông lên vị trí và địa vị người làm chủ thực sự của đồng ruộng. Tôi đương làm thế, tôi đã làm thế, tôi đương làm tưng ngày, từng ngày theo kế hoạch…
Tôi mở sổ tay ra nhẩm việc. Đã bắt được rễ, rễ cái chắc chắn. Đã họp rễ chuỗi. Chắc là cái thằng rễ chuỗi điên dèm pha bác Diệc thôi. Ta phải quyết chứ. Tối mai họp xóm, giúp cho bác Diệc đứng vị trí trưởng thôn. Nguyên tắc: làm kỹ nhưng không được làm thay. Các bước sau còn dồn dập, còn nhiều cái khó. Đã nắm được tình hình xóm và tất cả cũ. Cứ báo cáo cách ăn nói của Vách và cuộc thăm dò nhà tư Nhỡ, đi sâu đi sát đến thế chứ thế nào. Có ba hôm làm những ngần ấy việc.
Nhưng tôi vẫn còn lờ khờ. Ai cũng trình bày sôi sùng sục. Chưa đến lượt tôi, nhưng thoáng so sánh việc mình làm đâm ra chỉ bằng con muỗi mắt. Họ giỏi thế thật hay sao? Đội trưởng Cự đứng băm cả hai bàn tay, mắt đỏ đòng đọc. Lợi dụng lúc đó tôi đá ngầm cái đít túi dết. Quả là chỉ vấp cái mép bìa sổ cứng.
-… Liền hai đêm đội họp rễ chuỗi. Cụng đầu tố khổ luôn, bộc lộ tức khắc tình hình. Tinh thần nông dân lên, chặn đứng mọi thủ đoạn âm mưa địa chủ. Đêm qua họp tố khổ suốt sáng, phải cản lại chứ nhiều người cầm dao vừa chạy vừa khóc đi tìm địa chủ (Tôi nghĩ bụng: - Ờ mình đụt thật. Tưởng chưa đến bước ấy. Không sao. Sẽ báo cáo là đã tó khổ sut đêm, suốt hai đêm). Đến sáng, tất cả đầm đìa nước mắt. Cái khổ như núi đè xuống, phải cứu giai cấp nông dân. Không đợi họp xóm, chưa đưa rễ làm đội trưởng thôn mới, cứ tập thể rễ chuỗi là trụ cột rồi. Tôi đã xin được lệnh đoàn uỷ cho bắt bí thư chi bộ xã, thằng bí thư hai mang. Hai tên khác có nhiều tội ác đã cho canh gác khống chế tại nhà. Xóm nào cũng phải phóng tay lên. Lấn bước sau, để có thì giờ dự trữ làm kỹ. Thế là đội ta đã chiếm lĩnh trận địa, dựng một đàu cầu vững chắc ở thôn Đìa. Các xóm khác cho biết tình hình thế nào?
Đình còn hăng hơn đội trưởng:
- Tôi đến đây họp thì ở nhà rễ chuỗi còn đang cụng đầu tố khổ, quên cả cơm trưa. Trưởng thôn cũ nghe mong manh đã chạy trốn, tôi cho đuổi giải về cũi vào chuồng trâu rồi.
Lúc đội trưởng Cự bắt bí thư và cho du kích canh gác nhà địa thì tôi câm như hến. Nhưng nghe cán bộ Đình nói thế, tôi đứng phắt lên:
- Phải có biên bản, tôi ký đề nghị bắt đã chứ. Tôi đội phó phụ trách toà án. Phóng tay nhưng đúng luật pháp mới được.
Đội trưởng Cự nói như quát:
- Địa chủ Bối phát biểu đứng.
Tôi phổng mũi nhưng lại xẹp liên tiếp khi đội trưởng vẫn nói:
- Song không thể lề mề, lối bàn giấy nhưng địa chủ Bối, thế thì xổng bu, xổng chuồng, chúng nó chạy ráo. Cứ như địa chủ Đình, đến khi bác Diệc bước hai đội đặt văn phòng cố định bấy giờ bày biện giấy tờ ra cũng vừa. Bây giờ cứ miệng nói tay làm, nhanh nhanh lên, nhanh lên.
Tôi chưa đinh thần thì đội trưởng trỏ tay, đến lượt tôi báo cáo. Đã nghe mất thôn rồi, tôi biết cách thêm chi tiết dấm ớt, hơn hẳn những dự tính lúc mới đến. Riêng việc thằng Vách đón đường mách Diệc có liên quan địa chủ thì tôi dấu. Nói ra chỉ rắc rối, mà còn phải kiểm tra cái đã. Báo cáo tình hình thôn Am…
- Không được thì thào nói chuyện riêng. Nghe thôn Am…
Tôi thao thao dõng dạc, mạch lạc, tự tin, như thật. Không dữ dội bắt bớ, nhưng đúng phăm phắp bài bản hôm xuống xã.
- Các chí góp ý kiến với thôn Am nào. Mau lên, tối nay còn họp xóm cho kịp lịch công tác.
Bên kia đê, mặt trời đã xuống vàng khé. Bỗng nhiên đội trưởng Cự choảng tôi chan chát:
- Đồng chí Bối bắt ngay được rễ, lại xâu chuỗi, cụng đầu tố khổ rồi nắm tình hình xóm và đi xem xét đồng ruộng, thế là ưu điểm. Nhưng mà ưu điểm ấy chỉ để thằng biết võ đánh nhau với thằng biết võ. Kẻ thù không cần như thế, đồng chí còn đương múa tay ra võ, nó đã thò tay bóp dái đồng chí ngã lăn đùng ra rồi. Nó phá ngay trước mắt mà đồng chí không biết gì cả. Cái thằng khiêu khích, thằng Vách ấy phải gô cổ nó lại, sao lại để cho nó họp chuỗi. Không được, cho về bắt ngay. Phải gác nhà tư Nhỡ, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thằng này vờ vẫn mua chuộc cán bộ đấy.
                                     ***
Tháng ba năm ấy, làng vào hội lệ.
Xưa nay, làng này chẳng có hội bao giờ. Chẳng phải vì sự tích ông thần hoàng, vì có cái hèm kiêng kỵ, mà bởi vì làng nghèo không đủ người có tiền giắt lưng đóng góp được xuất việc làng. Đến ngày kỵ thánh hàng năm cũng chỉ có mâm xôi, con gà, thẻ hương của hội tư văn biện lễ. Rồi thì gặp năm phong hoa đăng hoà cốc, được vẻ no ấm mới gọi phường xứ Đông sang hai ba đem chèo hát. Thế thôi, mọi thứ chỉ thèm mà không có rồi đi xem hội, đi xem rước làng khác. Con trai con gái nô nức đi nhòm cái vui của người ta. Có lẽ bởi thế mà con gái làng, như cái Duyên, nhiều đứa lấy chồng thiên hạ.
Trong nhà vắng người, những con mối đuổi nhau vờn nhau trên vách kêu roèn roẹt, rồi lại im như tờ. Dưới nhà ngang - ngày mùa vào vụ chiêm tháng mười, thợ cày thợ cấy, thợ gặt đến ở, kẻ ăn người làm tấp nập ngày đem như phiên chợ. Cả khi vãn vụ vẫn còn lại masy người ở mướn quanh năm trông nom vườn ruộng.
Đã gần nửa đêm. Bên kia những khoanh tre, tiếng trống, tiếng gõ beng beng sắp tan trò cứ sôi lên rồi lại phẳng lặng. Ngay từ sau cơm chiều với mấy chén rượu, lão phó Thìn đã ngủ được một giấc, bây giờ trở dậy. Lão ra sân, bước thong thả. không ra đi dạo, không đi canh nhà. Mà thói quen như đi tuần, như đốc phu, lúc nào cũng từ lúc ấy đến sang canh, tay cầm cái gậy tre, lão rà rà trên sân gạch xuống sân đất ra ngõ cổng tán rồi ngoài bờ luỹ. Cho đến lúc nghe tiếng can vạc đi ăn đêm về bay qua ngọn cây dừa, lão mới vào nhà, lại ngủ cho đến sáng bạch.
Những đêm chèo hát thế này, lão phó Thìn còn thức đợi bọn người làm đi xem về, soát lại chúng nó có đóng cửa cẩn thận không, thường khi cứ phải chốt lại. Phó Thìn đứng ở cổng trong, cạnh bụi chuối, ánh trăng nhạt thấp thoáng nhưng người đi chơi về mà không trông thấy, mà có nhìn thấy chắc cũng biết lão hay đứng như ma xó, chẳng phải rình mò gì. Nhưng phó Thìn đã đếm từng người vào. Lão lẩn thẩn đếm chơi, mà cũng thử xem thừa thiếu thế nào, ngộ có đứa phản chủ dắt đất đem cướp vào thì sao.
Người đã về cả, lão ra mó máy những cái then, cái chốt đã cài, đã nêm kỹ chưa. Những tối thường ngày cũng làm thế, có vậy lão mới vào ngủ lại được.
Diệc về sau cùng. Lão trông thấy bóng thường Diệc cởi trần, đi lênh khênh. Diệc ở nhà ông phó đã lâu. Diệc mồ côi cha mẹ, Diệc đã đến ở làm nhà này từ năm Diệc còn để chỏm, chưa nhấc nổi cái cày, chỉ xách nước và đi cắt cỏ suốt ngày. Lão phó Thìn nổi cơn tò mò. Quái sao thằng Diệc lại đi sang phía bếp, chúng nó ở bên nhà ngang cơ mà.
Bếp có một gian, gian bên đựng củi, thùng rơm và chạn bát. Bên trong, con Khoèo ở. Nó không nói, không đi được. Để ở nhà trên không tiện cơm nước và mọi thứ. Lão cho vẩy thêm một trái làm cái ổ cho con Khoèo.
Nghĩ đến con, lão phó Thìn khi nào cũng rầu rĩ trong lòng. Như là thói quen đi rà rà trong nhà ra vườn ra luỹ rồi mới về chợp mắt lại được. Nhưng ở đây không phải giấc ngủ mà là nỗi lo, là sự đăm chiêu cả đời. Vợ chồng lão đông con, đủ nếp tẻ, đều đã nên người dẫu lấy vợ lấy chồng làng này hay ở xa thì cũng cơ ngơi đày đủ cả. Chỉ còn một cái khốn khổ này. Sao mà lại sinh ra cái quái, cái nợ thế. Không khi nào lão dám nghĩ hơn nữa.
Thằng Diệc kia đi vào trong bếp làm gì. Lão chỉ nghĩ thấy lạ thế thôi, chứ lão không dám sinh nghi. Thằng đó hiền như đất, không phải đứa trộm cắp. Mà trong bếp cũng chẳng của nả để lấy và lão cũng không mảy may ngờ nó có tìmh ý ra sao với cái con Khoèo bộ xương ngồi xương nằm. Mà trời ơi, con Khoèo cũng ngoài hai mươi tuổi đầu, nhưng mà nó có phải là người đâu, nó là cái phúc cái tội của nhà này thế nào đây.
Nhưng lão thấy Diệc đi tới, lão phó lý chợt nảy ra một ý khác, lão phó chưa nghĩ ra thế bao giờ.
Diệc đã trông thấy ông phó trong bụi chối ra. Diệc chẳng lạ cái tính ông phó hay rà rẫm đem hôm các xó xỉnh như thế.
Diệc chấp tay:
- Ông chưa đi nghỉ. Con đã chốt cẩn thận cổng tán, cổng trong rồi.
Lão Thìn vẫy cái gậy.
- Đứng lại, cho tao hỏi. Mày vào bếp làm gì?
- Con không vào bếp. Con đứng đái trước nồi nước thiếc ở ngoài.
Lão Thìn sừng sộ:
- Đừng có chối. Ông đã trông thấy, ông đã biết, ông đã đi guốc vào đầu mày rồi.
Nói thế ông phó Thìn lại dịu giụong, rẽ rọt buộc mở từng câu:
- Mày vào trong bếp với con Khoèo. Thôi tao cũng cho phép, đừng lén lút mà tội nghiệp, tao cũng thương. Tao cho mảnh đất đầu đồng làm cái nhà, vợ chồng đem nhau ra đấy ở. Rồi làm hai miếng ruộng ở đồn cao ấy, tao cho. Tao cho không, nghe chưa?
Diệc dạ nhịp. Diệc đã ngoài ba mươi, nhưng biết là cái kiếp đi ở nợ cả đời rồi. Chưa bao giờ dám có ý nghĩ lấy vợ. Chẳng cơn cớ nào nào có thể để cho dám thế được.
Ông phó đã nói thế, thế là thế nào. Thoạt đầu câu nói lạ, khiến Diệc thảng thốt, Diệc nghe chưa thủng, đến lúc Diệc nghe ra rõ ràng thế rồi thì lại thấy êm êm.
Một hôm, Diệc khiêng mấy cây tre ngâm trong ao ra, rồi dỡ cây rơm quảy mấy gánh. Diệc lội ao vét bùn lên trộn trấu, ai hỏi bảo để trét bức vách. Chẳng mấy lâu, người đi qua đã trông thấy một túp nhà mái rơm mới.
Đêm kia, trăng sáng nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên. Diệc vẫn cởi trần như đêm xem hát. Diệc cõng cái Khoèo ra nhà mới - cái nhà vẫn ở đến tận bây giờ.

Chương 2 (a)

Trời nóng ong ong đã mấy hôm, như sắp bão. Thôn Am rúc tù và từng hồi thúc người đi đắp đê quai phòng lũ. Người ra đồng cứ cung cúc như chạy mưa. Mọi khi chả việc công ích nào được nhanh nhẹn như thế. Chính quyền xoá hết rồi, chưa có đến cả trưởng thôn. Vậy mà trên huyện vẫn có công văn thúc mọi việc. Thế là đội, các anh đội phụ trách xóm cáng hết. Ai cũng lội bì bõm như trâu đằm, cả các anh đội xung phong ra chuyển đất, bùn ánh lên mặt tôi nóng rát. Hò lơ…hó lơ… hò lờ… Lại hò hát. Kể ra mọi người cũng hăng thật, không việc công thì đi kiếm miếng ăn, cứ biền biệt từ mờ đất, trưa về lại ngồi học chữ.


Ấy là chỉ có ở thôn tôi mở lớp. Đợt công tác nào tôi cũng giở môn võ lớp i-tờ xoá mù chữ. Chưa nơi nào ê a nhai hết quyển vỡ lòng đã vỡ lớp bởi cải cách ở xã đã xong, hết đợt.
Nhưng mỗi cuộc tổng kết tôi đều được biểu dương thành tích về văn hoá hơn cái thôn khác. Chỉ có Đình cười nháy cái ve mắt. Chắc thằng này chửi thầm tôi úm phép mấy em. Quả là ở đâu cũng có cái nàng dân quân đến lớp rồi đông. Tối họp khuya, rồi đi gác rồi như ai dựng gáy lên từ tờ mờ sáng. Không một lúc ngớt đầu tắt mặt tối. Hò lơ… hó lơ…
Ngoài đe về, tôi vừa rửa ráy chân tay xong dưới cầu ao, thấy đi vào một những người, thoạt loáng thoáng, đến lúc ra khỏi bụi ruối mới nhìn tường mặt một cô gái bước nhanh nhẹn, áo vải phin nâu, cổ tay tròn, mũi súng trường nhấp nhô bên mái tóc chít khăn đầu ngôi rẽ lệch. Không quen mặt, tôi đoán là dân quân thôn khác. Cô này gọn gàng, mắt sắc long lanh, cứng cỏi. Mấy hôm đầu mới về nhìn đâu nhìn ai cũng chỉ thấy lam lũ. Cái áo tấc của Đơm về vệt bùn, bong mất cái khuy ngay giữa bụng. Ngửi người lúc nào cũng mùi cỏ khô. Nhưng lâu lâu, trông các cô cũng cứ hay mắt dần lên.
Từ hôm tôi đánh vỡ cái ang quẩy nước, bác Diệc bảo; “Anh đừng kín nước, cũng đừng ra đồng nữa, cứ ở nhà. Chẳng ai nói gì đâu”. Tôi bảo: “Anh mặc tôi, tôi phải cọ xát với bà con”. Nhưng nói thế, bây giờ tôi định vào đánh giấc. Cả buổi sáng đắp đập be bờ vẹo xương rồi.
Tôi ngồi xuống chõng. Bác Diệp gái in lìm trong xó tối, như con cóc rình đớp muỗi. Nhà không có ai.
Cô gái nọ bước vào.
- Em là chuỗi, em là dân quân bên thôm Chuôm.
- À… vâng…
- Đồng chí Đình…
- Đình bên thôn Chuôm, tôi biết.
- Báo cáo đồng chí Đình phạm kỷ luật.
- Sao?
- Đồng chí ấy dám hủ hoá.
- Tôi không phải đội trưởng. Cái này đồng chí lên văn phòng đội.
- Em chỉ muốn nói riêng với anh thôi.
Ơ mà lạ, ai cũng gọi nhau là đồng chí, cô này lại “anh” dám thế à. Nhưng lại thấy dìu dịu. Tôi nhìn đôi mắt cô lư đừ, chẳng có vẻ đi báo cáo việc đứng đắn, nghiêm trọng. Đình à, Đình thế nào. Tôi vẫn vừa biết, vừa kiềng tay Đình. Thằng này gớm, đã đi với nhau hai đợt, chẳng lạ. Không phải nó chỉ tinh quái trông thấy tôi thón cái bánh đúc của đội trưởng. Gĩ cũng vậy, nó tính đếm và lật mặt phăng phăng. Cách bắt rễ của Đình cũng khác người. Thoạt đầu, Đình sục khắp xóm một lúc, vào nhà nào cũng kê tiêu chuẩn ra hỏi ngay: - Mấy nhân khẩu? - Thưa năm ạ! - Cấy bao nhiêu? - Một mẫu hai. - Năm khẩu, mẫu hai. Trung nông rồi. - Tôi bị thằng Thìn đánh nhét cứt trâu vào mồm… - Không, cứ trung nông cái đã, còn cái ấy để tố khổ. Chào cả nhà nhé. Thế là Đình xách ba lô sang nhà khác. Cứ lần lượt cho đến lúc nhà nào người ta nói con số đói rách nhất, thì Đình đặt ba lô xuống, ở lại. Chỉ một buổi đã xong rễ chuỗi cả thôn. “Thăm nghèo hỏi khổ thế mới quán triệt. Hà, hà…” Đình nói nói cười cười.
Bây giờ cô này tố cáo Đình. Đình hủ hoá, tôi đã gạt đi. Chẳng dây vào thằng Đình. Nhưng thấy cô con gái mà nói chữ hủ hoá ngon như nói công tác, tôi cũng thấy hay hay. Tôi hỏi:
- Hủ hoá thế nào?
- Hủ hoá em ạ.
Rồi tôi không kịp ngạc nhiên hay gật lắc thế nào, cô ấy kể vanh vách:
- Tên em là Duyên. Đồng chí Đình về bắt rễ vào anh cả Cối em, rồi xâu chuỗi sang em và bố em. Thế, nhà em cả thảy ba rễ chuỗi. Đồng chí ấy bảo: thôn này có địa chủ Thìn, cả hàng huyện đã biết tội ác nó, nó đã bị bắt, mai kia sẽ đem xử bắn. Thế là tôi xung phong bước hai nhất đội, hết công tác rồi. Cả ngày đồng chí ấy chỉ nằm nhà. Em đi làm về đồng chí ấy lại lôi em xuống bếp. Em cào cho một cái vào mặt chảy máu ra đấy, anh có trông thấy một vết quào ở bên mũi đồng chí Đình không?
- Việc này phải lên…
- Tệ lắm, em không chịu được.
- Cán bộ Đình công tác giỏi, đã lôi ra được ổ phản động xui đồng bào bỏ quê vào Nam, khi địch còn ở đây hai trăm ngày.
- Anh không tin em sao?
- Nhưng mà, chẳng lẽ…
- Thử thì biết ngay thôi.
- Thử thế nào?
- Tối nay, anh ra nấp sau trụ cửa đền thế nào cũng tháy đồng chí ấy vào nhà em, bắt quả tang được.
- Tối nào chả họp!
- Ấy, tan họp chứ. Nhà em không có rào, có cửa, đến tận chỗ em nằm cũng như không.
- Nhưng cán bộ Đình ở nhà đồng chí ấy kia mà.
- Không, ở nhà anh cả Cối em ngoài bãi cổng đồng, em ở với bố em trong xóm.
- Tối nào cũng thế à?
- Cô gái cười mỉm khó hiểu:
- Vâng ạ. Em phải trốn chứ!
- Được rồi.
- Tối nay nhá, nhanh lên đấy.
Câu nói trống không thật hỗn mà lại êm tai rớt lại với cái đuôi mắt ỡm ờ, cái tiếng “anh” nghe thánh thót. Người ta chỉ thấy cứt ở chân kẻ khác, tự dưng tôi cũng đâm ra tò mò hơn.
Chứ quả thật bận đâu đến tôi. Mà cái thằng Đình cũng ác ôn ra trò, phét lác một tấc đến trời, lại tỏ vẻ lý sự, đạo đức, phải phết nó một đòn bịt mồm. Nhưng tôi lại nghĩ đến cô dân quân thôn Chuôm ấy nhiều hơn, người đi rồi mà vẫn như còn đâu đây. Cái vai lẳn, cái cười tít mắt lá dăm- khác hẳn Đơm, ôm trói lại rồi mà mặt cứ đực ra.
Trăng mùng mười lơ lửng xuống sau rặng tre bên kia. Dòng sông cạn đã bị lấp cửa, mùa mưa mới có nước, bây giờ chỉ lác đác những ao chuôm, lúc này như những con mắt thao láo dưới ánh trăng. Thế mà vẫn có người mò hến, tiếng lội lõm bõm qua, lại thanh vắng như không. Dần dần khuya, làng xóm bàng bạc như trăng suông. Những lùm nhãn nhấp nhô lù lù, những khoanh tre lởm nhởm và cái cột trụ ngôi đền hoang cắt bóng trên nền trời sao. Tôi đứng nép một bên tường hoa, quần áo nâu nhoà vào mầu rêu tường, không ai có thể nhìn thấy.
Chắc đã muộn, những con giun con dế vừa kêu ti tỉ, đã lặng ngắt. Tôi nghĩ các chuyện lăng quăng. Rồi đâm trợn. Không phải sợ ma, mà có điều vớ vẩn bây giờ mới nghĩ ra. Có thật con bé ấy người bên Chuôm, là chuỗi, là dân quân. Hay đấy là địa chủ quăng lưới? Có thể lắm, đang lúc mới vào bước hai, công việc rối canh hẹ, bọn phản động, bọn mật thám trá hình, cả ban chi uỷ đội trưởng Cự đã phát hiện là tề nguỵ cài lại đội lốt và chi uỷ giả đã mưu mô làm cải cách vờ trước khi đội về, chúng nó sắp sẵn cả rễ chuỗi cho đội dựa. Chúng còn bày vẽ dấu dối nữa. Đấu tố phường chèo thế nào mà thằng địa chủ lại bảo nông dân: “Anh làm chức gì mà được lên vạch mặt tôi những bốn lần, nhiều quá”. Bố con địa chủ đi cày bừa đêm, dân quân hỏi, chúng nó trả lời ngông nghênh; “Nhà địa chủ đây. Các ông các bà nông dân ăn thịt hết trâu, chúng tôi phải đi làm trâu thôi”. Thôn Am này còn chưa moi được ra địa chủ, thế mà tôi mất cảnh giác, đi rình mò bơ vơ, thăng thiên. Chỉ bởi lời xúi bẩy của một con bé cha căng chú kiết. Khéo không thì bị nó cất vó cũng nên, không xong rồi.
Tôi thu mình, cúi xuống, co chân định nhảy ra chạy về. Những tôi đứng sững ngay lại. Vừa thấy thoáng một bóng người. Chỉ nhác một cái cũng nhận ra dáng thằng Đình cao lêu đêu. Tôi áp tới, giơ đèn hai pin dọi vào mặt Đình. Tôi trông thấy một vết xước ở mũi nó thật, tôi quát:
- Ai?
Đình xoè tay che mắt bị chói, hỏi lại:
- Thằng nào thế?
- Tao.
- À, thằng Bối.
Tôi đút đèn vào túi, đặt một tay lên vai Đình, thân mật.
- Đi đâu đấy?
Đình thản nhiên:
- Đi chơi.
- Đi chơi là thế nào?
-… là đi chơi…
- Biết tỏng rồi, mày đi chơi gái.
Đình hỏi tôi một câu đột ngột:
- Cậu đã biết chiến thắng của tôi bên thôn Chuôm chưa?
- Chiến thắng?
- Tớ rình năm tối, tóm được hai thằng hãi ranh ném đất làm ma đẻ không ai dám đi họp. Truy ra là âm mưau của địa chủ Thìn. Tớ sắp được biểu dương toàn đội, lại báo cáo lên đoàn nữa. Biết không?
Rồi Đình lạnh lùng, thong thả buông từng tiếng như từng phát súng:
- Này mày hãy lo cái thân mày đã nhé. Mày chưa moi được thằng địa nào. Rễ chuỗi mày liên quan tới nhà địa, thối um lên, không ngửi thấy à? Lão Cự sắp làm thịt mày. Khôn hồn thì cút mẹ mày đi.
Tôi lại hoá ra đứa bị đóng đinh vào mặt, lúng búng không mở được miệng. Đình ung dung đi vào phiá bờ tre nhà bố cả Cối. Tôi đứng trơ ra một lúc thật lâu. Những lời ghê rợn của Đình vừa đe đã làm cho tôi bủn rủn, lú lấp cả moi mưu chước.
Từ nách sau tường đền, cô Duyên chạy thoắt ra, vẫn khoác khẩu súng đeo sau vai.
- Sao anh không bắt lại? Quả tang thế rồi mà.
- Quả tang quả táo cái con khỉ!
- Rõ anh này. Đêm mai đồng chí nó lại sang, em biết đi ngủ ở đâu?
Bỗng Duyên táo tợn tht lực ôm chầm lấy tôi, lúc lắc cái mũi súng sau lưng, cười hinh hích. Thân hình nóng ra ưỡn lên, tôi gồng người dằn xuống. Chẳng còn biết ra thế nào, mày dẫn xác đến, ông đương bực mình đây. Đồng chí cơi khẩu súng dựng vào chân cột sau lưng. Hai đứa lăn xuống bãi cỏ, chẳng còn biết trời đất ở đâu nữa. Tôi thở dốc, ngoi lên hớp từng hơi. Những đến lúc thằng đàn ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra.
- Em cho anh…
- Bận sau, bận sau. Em đương có tháng.
- Đâu nào?
- Sờ mà xem.
Cuộc quần thảo không biết còn lồng lộn bao nhiêu lâu nữa. Đến lúc tôi chỉ còn như cho chó què, bước xiêu vẹo, lử hử. Lần được về nhà, nằm vật xuống chõng, thiếp đi.
Mỗi buổi sáng đều có cuộc hội ý đội, sang bước hai càng khẩn trương. Cán bộ đội các thôn lên báo cáo, nhận công tác mới từng ngày. Họp xong, Đình và tôi về cùng đường. Câu chuyện ma quái đêm trước dường như mỗi người coi tựa không có. Chúng tôi đối đáp bâng quơ, không đầu đuôi. Đình hỏi tôi đã giảng hết tiêu chuẩn trung nông chưa. Tôi bảo xong từ lâu. Nói vằng mạng thế chứ ai đâu vặn vẹo khám sổ tay của nhau. Má các tiêu chuẩn bần, cố, trung, phú, địa đến công thương dân nghèo, dân chài lưới, đến thế nào là phản động, gian ác tôi đã ghi kỹ, tôi đã thuộc đã giảng từ trong Thanh, cứ vậy mà tương ra, màu mè vơ thêm mấy cái liên hệ mới nhặt được, chứ khó khăn gì. Tôi nói thật vậy, Đình khen tôi láu. Thì Đình, Cự cũng chắc rứa, xóm nào ở đâu và đợt nào cũng tương tự, dần dần chúng tôi tự hào có kinh nghiệm nắm tình hình nhanh. Như về đay chưa hết bước một đã tỏ ngọn ngành cả cái xóm xưa và nay. Ở đâu thì nhà giàu, quan lại, địa chủ cũng ăn trên ngồi trốc. Nhà có máu mặt con cái chỉ mới mười năm, mười bẩy đã đút tiền hộ lại chữa sổ khai sinh tăng tuổi lên để sớm ra làm chưởng bạ, làm thư ký hội đồng kỳ mục, rồi dần dần lên phó lý, lý trưởng, chánh phó hương hội chánh phó hàng phủ hàng huyện. Như ở đây, khi Tây chiếm làng mấy năm trước thì ra làm xã uỷ, hương chủ, trưởng đồn, xếp bốt hương dũng, tiên chỉ, tổng uỷ… Đã thuộc cả, moi đâu trúng đấy. Có thế công tác mới chạy nhanh như trâu bồn, bằng khen, giấy khen bay về tới tấp.
Lại các thứ chuyện. Biết nhau tới tận củ tỷ, cũng dễ ba hoa.
Đình nói:
- Đội trưởng Cự sắp cho cấy lúa thần kỳ ở trọng điểm xóm Đìa.
- Đương vội thế này, lúa má gì?
- Còn lạ đâu, lão ấy đã định làm thì sắt thép lắm.
Đình hỏi tôi:
- Cậu biết lúa thần kỳ thế nào không?
- Chưa.
- Cái ruộng lúa thần kỳ đến lúc sắp được gặt, người ra bước trên mặt thóc chắc chân như đi cầu qua sông. Mà chỉ một tháng thôi, thóc đã mẩy hạt.
- Ở đâu thế?
- Trên thế giới khắp nơi. Cái khi lúa thần kỳ mới bí mật đem về trại thóc giống bên nước Manila, thế mà tình báo của ta lẻn vào lấy trộm được một vốc hạt. Cậu biết làm thế nào không khách tham quan thón một vốc hạt, nhét vào trong giầy. Thế đã khiếp ta chưa.
- Giỏi nhỉ. Ta làm ở trọng điểm xóm đìa rồi cấy lan ra cả xã chứ.
- Chắc sẽ vậy.
Rồi Đình bĩu dài môi:
- Không nói phét. Tớ ấy a, giá còn cái trại đại đồng của tớ thì lúa thần nông, thần kỳ đã có từ lâu rồi.
Đình sôi nổi kể:
- Cậu còn nhớ không, cái hôm đội ta được thành lập sau hội nghị tổng kết ở Quỳnh Côi (Tôi nhớ rồi, hôm ấy có hai người được trên giới thiệu bổ xung xuống đội). Không biết vui miệng hay họ cốt khoe: người này thì thời Tây đã đỗ tú tài, người kia thời ta đạu kỹ sư bằng đỏ bên Liên Xô. Đội trưởng Cự cười nhăn mũi, hôm sau gửi lên trả đoàn cả hai người. Báo cáo là đội đã đủ khung rồi. Đội trưởng vẫn nói chỉ cần “người chữ nghĩa èng èng, học nhiều thì tài nói không tài làm, xuống xã tổ vướng chân”. Có lần Cự hỏi học lớp mấy, tôi nói: học lớp ba thời thực dân, đến độc lập thì là cán bộ rồi, không học nữa. Cự cười: “Tớ còn kém cậu một lớp. Thế mà hay, học lắm thì chỉ lý sự cùn. Chúng mình đã giới thiệu lý lịch với nhau khi thành lập đội, hôm ấy tớ mới nói sau khi khởi nghĩa tham gia cướp chính quyền huyện chưa kể thành tích công tác. Thằng Đình đã lập một trại sản xuất, cả huyện có một trại ấy. Tớ đặt tên là trại “đại đồng”, đại đồng thế giới ấy mà. Còn hay hơn lúa thần kỳ nhiều. Nếu bây giờ uỷ ban tỉnh mà nghe theo kế hoạch của tớ thì bây giờ cả tỉnh, cả nước đã thành trại đại đồng rồi.
Suốt dọc đường, rồi Đình còn theo về tận nhà kể chuyện đại đồng. Đình thao thao nói, ve mắt nháy lia lịa, sùi cả mọt mép. Cái vết con Duyên cào cạnhmũi đã bong vảy, chỉ còn hơi đỏ. Tôi lại nghĩ lắt léo hay là lúc ấy sướng quá, nó bấu vào mặt thằng này. Đình đương hăng. Khi ấy, Đình làm tuyên truyền trên huyện. Khắp nơi tiêu thổ kháng chiến, nhà cao cửa rộng phá hết, đốt hết. Các làng, các thị trấn, thị xã dựng lên những cây tre cao như chân gầu sòng, giữa buộc thanh sắt đường ray, ngày đêm dân quân đâm đổ hết tường, sụp nhà cả dãy phố. Người đường xuôi từ các làng quanh Hà nội lũ lượt chạy ngược dọc sông Hồng lên trung du. Người tản cư được chia vào ở các nhà trong làng. Đất rộng người thưa, dân cũng sẵn cái ăn, lá sắn ngắt về nấu canh, muối dưa, sắn trựa bỏ đấy cả năm chưa đào, quả đu đủ chỉ để cho lợn thì bây giờ người ăn ngon. Chả mấy lúc người tản cư ai quyết tâm ở lại cũng ổn cả, mặc dầu là tạm bợ nhưng tin tưởng.
Đình đã nghĩ ra được cái trại đại đồng cho mọi người vào ở tập trung quy củ, trật tự sản xuất. Huyện đã cử Đình đi báo cáo điển hình trại đại đồng ở nhiều nơi. nghe cũng hay, nhưng không đâu làm nổi vì các huyện ở sâu vắng người tản cư, không được trên cấp tiền. Huyện ven sông này có quỹ của tỉnh cho để trợ giúp dồng bào, bây giờ gom người ở một nơi thì phát tiền cũng dễ. Nhưng không phải Đình chỉ vì một cái tiện ấy, Đình nói ngày trước ở Hà nội, Đình làm phó nhỏ thợ xẻ đã vào ái hữu hội thợ mộc, Đình đọc sách và anh em bàn bạc đã b rồi đay loài người sẽ lên thế giới đại đồng, thì cái trại đại đồng này là một bước đúng như thế.
Năm dãy nhà dài một trăm thước, bên trong một loạt hai dãy giường nứa cho một trăm người. Nhà của phụ nữ bên kia đồi cũng to rộng thế. Chỉ đánh một tiếng kẻng điều khiển được cả nghìn con người. Kẻng dây, kẻng thể dục và hát, kẻng cơm, kẻng họp, kẻng đi sản xuất, kẻng về, kẻng ngủ… Ai nấy răm rắp miếng cơm manh áo như nhau, không có ganh tỵ vì không ai hơn ai. Ngày chủ nhật, kẻng đi chợ, tối kẻng lưẻa trại vui nhộn. Buổi sáng buổi tối, cả trại ra đứng ngoài sân hô: khoẻ vì nước, kiến thiết quốc gia, quyết tâm tiến lên thế giới đại đồng…
Tôi hỏi dớ dẩn:
- Ai cấp lương cho ăn mà lên thế giới đại đồng được?
- Đã nói từ nãy rồi mà. Quỹ trên đưa về, ai tản cư lên vào trại cũng được nuôi. Nhiều người tinh thần lắm, những thứ ở thành phố đem lên, quần áo, đỉnh nến, chén bát, đưa ra chợ bán hết lấy tiền bỏ vào quỹ trại. Nhiều quần áo sang trọng, nhưng trại đại đồng không cần những cái loè loẹt ấy của giai cấp tư sản bóc lột.
- Cậu là trại trưởng à?
- Mỗ đây chứ còn ai vào đấy!
- Có được lương không?
- Có chứ.
- Sao bảo người địa phương không được ăn trợ cấp?
- Nhưng tớ là lãnh đạo, tơ không phải địa phương, cũng không phải người tản cư.
- Thế rồi sau ra sao?
- Sao à? Giá còn đến bây giờ chắc đã lên đại đồng rồi. Trồng sắn mau ăn lắm, lại chuối, lại dứa, lại trầu, lại chè…
- Thế rồi thất bại?
- Không, không thất bại. Không ai nản chí xin ra, không một người trốn. Không một vụ hủ hoá- Đình nghiêm nét mặt, nháy nháy ve mắt.
Tôi không muốn biết thêm ngọn nguồn nữa. Vì thấy Đình quả quyết “nhất định thắng lợi”. Nhưng nhẹ nhành hỏi ơ hờ:
- Thế rồi làm sao?
- Đình trợn ngược mắt.
- Làm sao ấy à? Loài người đến tận bây giờ vẫn chưa đủ sức chống thiên nhiên, phải bỏ nửa chừng vì thế chứ làm sao. Nhưng mà có tiền nhiều chắc xã vượt qua được. Tự nhiên lụt lội, sét đánh đổ nhà chết người, cả sốt rét lăn đùng ra. Mới vỡ lẽ là người xuôi lên chưa quen, ốm ngã nước sốt rét ác tính chỉ hôm trước hôm sau đa đái ra máu. Nửa tháng chết vãn cả người. Đầu tiên còn mua gỗ đóng quan tài, cả trại đi đưa đám, có điếu văn đọc lúc hạ huyệt. Sau người chết lắm quá, không kịp mua săng, phải bó nứa, hai người vác thuổng khiêng đi chôn. thế là những người còn sống sót sợ, bỏ đi hết.
- Cậu cũng chuồn?
- Đình cười hề hề, hồn nhiên:
- Ở lại dễ bị lây, chết mất ngáp à?
- Rồi cậu đi đâu?
- Tớ về huyện, lại công tác bán nói lấy ăn. Mấy năm sau được lên tỉnh, cho đến bây giờ. Chức vụ: phs phòng tuyên truyền.
- Rồi có đâu làm trại sản xuất nữa?
- Trại đại đồng chứ. Phi tay này thì thằng nào dám. Trên tỉnh cũng công nhận nếu không bị sốt rét phá hoại, trại đại đồng nhất định thành công. Tỉnh tớ -năm nào cũng đạt tiền tiến tiên phong mọi mặt công tác. Không nói phét!
Đình trợn mắt, giơ tay:
- Cả bây giờ đấy. Kể ra, nói cho công bằng, cái tỉnh này nó máu xung kích, xung phong. Trước kia, trong bóng tối, làng nào cũng có cơ sở. Khánh chiến thì đi bộ đội, đi dân công ra trò. Giảm tô, cải cách cũng lá cờ đầu. Tớ mới được thư tỉnh chúng nó báo tin tỉnh tớ được cử đi làm điểm về phúc tra. Cải cách ruộng đất xong phải qua phúc tra mới thật căn bản. Lại cùng một lúc, tỉnh tớ làm chỉnh đốn tổ chức từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, lôi ra được nhiều phản động chui vào tổ chức lắm. Đằng ấy có biết không, tỉnh tớ được chọn cán bộ đi giúp chỉnh huấn khu 5, Nam bộ, rồi giảm tô cải cách ruộng đất trong ấy. Biết đâu tớ chẳng sắp được đi. Tỉnh tớ thế mà ghê.
Đột nhiên tôi cười to:
- Ha, ha, ha…
Đình nhăn mũi, không bằng lòng, tưởng tôi chế nhạo. Hỏi xẵng:
- Thằng đểu, cười chó gì?
Rồi Đình không đợi tôi trả lời, Đình hạ thấp giọng, nhấm nháy:
- Tối hôm qua ấy, liệu hồn.
Vừa dứt cười thật tình tôi đương buồn cười về những khoe khoang tận đâu đâu của Đình, tôi vẫn đùa:
- Tối hôm qua thì làm sao?
- Đình lùa thẳng tôi một quả:
- Sao ở trên trời ấy. Đằng ấy vật nhau với cái Duyên. Hì, hì…
- Đâu nào!
- Biết điều thì nghe tao dậy đây. Tớ mách cho mà biết, con ngựa cái ấy cú cáo lắm. Tớ đương theo dõi xem nó có phải quốc dân đảng chui vào lũng loạn hàng ngũ chuỗi rễ.
Tôi im, dần dần bối rối, ỉu hẳn. Thằng này ma quỷ quá. Còn đi với nó, có ngày thì mất mạng.
Nhưng Đình đã nói:
- Đằng ấy ở phường phố lớ quớ chẳng hiểu mẹ gì về nông thôn. Tớ bảo cho miếng võ cảnh giác này mà phòng thân. Còn cái tối hôm qua thì tớ xuý xoá cho, không báo cáo lên lão Cự đâu. Tớ với đằng ấy về đây đã thông cảm xít xao từ cái hôm canh ty ăn trộm gói bánh đúc ngô của đội trưởng ở trong đền cơ mà.
Đình cong một ngón tay giơ ra cho tôi ngoặc. Như trẻ chơi móc xương móc xẩu bỏ lỗi cho nhau. Thế là hai thằng cười hi hi, hà hà loạn xạ cái nhà vắng. Người đàn bà tàn tật ngồi trong xó vách vẫn dửng dưng. Rồi Đình về xóm Chuôm còn dặn lại “Nhớ nhé”. Chẳng biết nhớ nhé ra làm sao.
Cũng không biết nhớ nông nỗi thế nào thật. Nhưng tưởng bấy lâu rình rập hạ nhau, bây giờ ăn cánh với nhau, thấy trong lòng nhẹ hẳn nỗi lo tính toán. Phải thôi, chẳng biết tội thằng Đình ở đâu, chứ tôi vừa dăng dện cái Đơm. lại cái Duyên. Kỷ luật cách hủ hoá thường phải ngồi chuồng trâu, phải đuổi về mà vẫn nhơn nhơn trơ trẽn như không. Thằng đàn ông như cái đó đi đơm, thế thôi. Nhưng đây là quả cấm. Mà cũng lạ, cứ cấm thì lại hay mân mê táy máy. Mà con bé mới hớm ghê, nó là quốc dân đảng thật hay sao, nó cho mình vào tròng, hay nó hại thằng Đình, hay là thằng Đình xỏ lá chơi tôi một miếng. Chỉ biết nó đã nắm thóp hai đứa. Nó sang tận Am mách tôi về thằng Đình thì nó sẽ lên lão Cự báo cáo tôi, biết đâu là chừng. Tôi lại đâm lo.
Tối tối, xóm Am đã đụng đầu tố khổ trong rễ chuỗi và mở rộng ra tổ nông hội. Có nơi đi nhanh đã đáu địa chủ. Đội trưởng Cự nhanh nhất đã xin lệnh bắt bí thư chi bộ và một lúc sáu địa chủ có tội ác. Trong cuộc họp đội Cự quát tháo “Phải ra tay mới phá được thế bị khống chế, bởi địch đã có tổ chức phá hoại, gây rối loạn. Ông lão loà ở xóm lội xuống ao trẫm mình, hay là địch dìm chết. Lại một đám cháy nhà. Đội trưởng nói: “Tăng cường tố khổ, mở rộng tố khổ để tìm ra đứa giết người, đứa đốt nhà”. Chúng tôi hội ý đội buổi sáng, có khi cả lúc chập tối, đứa nào bức tử, đứa nào đốt nhà cứ tố khổ rộng khắp cả thôn thì ra thôi. Đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng lắm mới ra đường, đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh đội, người già lùi vào bờ rào ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái. Đội trưởng Cự vào đỡ tay bà lão nói: “Nông dân làm chủ không được khúm núm thế, không được mắc mưu địch hòng xoá nhoà ranh giới bạn thù. Ta đương đấu tranh, nông dân phải ngẩng mặt tự hào, còn thằng địa chủ có quỳ giữa đường lậy ta cũng mặc xác nó, bà cụ biết chưa?”
Những cuộc lên hội ý đội, lúc có đội trưởng thì rậm rịch, bối rrói tít mù, những vắng Cự thì lại uể oải, trễ tràng. Hai cậu bần cố ở xã được lên đi làm anh đội mà tôi vẫn xem khinh nửa mắt, cứ ngồi chầu hẫu, chốc lại ngáp, vừa ngáp vừa gãi nách kêu ối giời ơi rồi cuộn tròn tờ báo nội san: “Bận quá, cho em mượn về xóm đọc”- “Ừ đọc báo thì cáng thông suốt”. Tôi đoán có cậu mới biết đánh vần, ngại mở tờ báo trước mặt người khác. Một đội viên thở dài khượt một cái: “Xóm của mày ít địa, có thì giờ nằm nghiền báo, sướng thật”. Các thôn vẫn chưa lên đủ, mà Cự đi đâu không biết. Đã biết lệ, lão không về thì thôi, đã về muộn thế nào cũng nhiều việc quan trọng hay không cứ đùng đùng, tới tấp. Một lúc sau cũng chẳng thấy đội trưởng, thế là lả tả rút dần. Cũng chẳng biết bận quá hay không, nhưng đã có lịch công tác hàng ngày, rồi quá giờ phải đi làm việc khác.
Một hôm, đội trưởng Cự sang xóm Am tìm tôi. Đội trưởng đến là có việc, thằng lười tôi cũng ngại. Cự đặt bịch cái túi da bẹt đít xuống chõng. Những gì trong túi mà nặng thế, sổ sách, tài liệu và khẩu súng, hay chỉ là hòn đá bỏ vào cho oai, hay lại gói bánh đúc ngô. Anh nào cũng như ma ăn cỗ, ai biết đau. Nhưng cái dáng buông túi nặng nề tất là có chuyện. mấy hôm nay tôi đương lo sốt vó. Được phổ biến là trên đoàn uỷ nhận xét: xã này chưa đạt chỉ tiêu địa chủ. (Mà thôn tôi thì chưa tìm ra mống nào). Ở cuộc hội ý hôm trước, đội trưởng Cự nói: “Chỉ thị đoàn uỷ phải triệt để chấp hành, thực hiện bằng được. Đưa phú lên địa thì dễ thôi, một lúc cả chục thằng cũng có, nhưng làm ẩu mà bị kiểm tra thì hỏng hết. Cố lên không được đẻ cờ tuyên dương đợt này lọt vào tay đội khác”.
Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đàu cái đuôi địa chủ ở đâu. Hay là cái thôn này không có, không thể như thế, ở đâu có nông dân là ở đấy có địa chủ sách lý luận thế. Không, không khi nào chưa đấu tranh đã rút lui. Chỗ nào có nông dân, có ruộng đất có bóc lột. Tôi lên dây cót tôi. Hay là thằng tư Nhỡ? Nhưng phải cẩn thận, chống ẩu mà. Các loại đát ruộng, đát vườn, đát thổ cư, các thứ lao động nhà nó chưa tính xong, không thể quy. mỗi tiêu chuẩn địa trên duyệt từng con số, bở hơi tai ra đấy chứ. Mà tôi nghĩ cũng chẳng nỡ. Mình thường qua lại nhà nó, hôm nào cũng chè thuốc, có hôm làm chén rượu tắc kè bổ dương, đội biết thì đi đời anh đội, nhưng mà chỉ có mình với nó thì ai biết. Ruộng nà ấy chia đầu người, lấy cả đát vườn gò chưa đủ bình quân hai miếng. Mà nó cũng cổ cày vai bừa bao năm nay. Bảo nó cái phú cũng còn non. Đêm nằm bức bối nghĩ không chợp mắt. Thì lại lần vào xó nhà vầy vò Đơm.           Con bé cứ lúc mưa lúc nắng, cũng như trông nó khuôn mặt ngơ ngơ ngẩn trẻ con, nhưng cái người nó thì nùng nục con gái. Cứ vần như khúc gỗ, nhưng lắm bận Đơm nổi cơn hung, vừa động đến đã nóng rẫy rên lên, cắn bừa vào mũi tai vào tôi đau chết điếng mà không dám kêu. Tôi chỉ tránh nó ngoạm vào mũi, sợ thành sẹo như thằng Đình thì khốn. Dù sao, ấy thế cũng tan cơn nghĩ, ra ngả vào chõng mới ngủ được.
Đội trưởng Cự ngồi xuống bên cái túi da bò vàng nghệ vững chãi như chiếc ấm rỏ. Cự không uống rượu, nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng. Trong cuộc họp. Cự lườm một cái lộn lòng trắng mắt, ai đương nói cũng phải nghẹn lời, đợi nghe Cự. Mỗi tiếng Cự văng ra cục cằn như ném gạch. Cách nói năng thô lỗ ấy cũng không giống kiểu chính trị viên đại đội mà nghệ thuật ăn nói phải hàng ngày, có khi tôi nghĩ lão này khai man, cóc phải chính trị viên cũng nên. Đợt trước hôm đầu tiên họp đội tố khổ và tự giới thiệu, cố nông Cự trình bày đã đi vệ quốc đoàn từ 1945 bây giờ chức vụ chính trị viên đại đội. Cự được quân đội điều đi cải cách ngay khi đơn vị ở khu 5 ra tập kết. nói thế thì biết thế, cũng chẳng ai hỏi lại. Cái việc lý lịch, ai cũng nơm nớp, như tôi cha mẹ họ hàng dấm dớ, nhỡ cái phải ngồi chuồng trâu thì bỏ đời. Vả chăng, Cự bẳn tính hay cáu, hay xúc động. Có hôm họp đội đọc báo, tin vụ thảm sát Hướng Điền tỉnh Quảng Trị, cả 92 người thôn Tân Lập và Tân Hiệp bị giết, còn hai người sống sót vượt tuyến ra bắc, đội trưởng Cự khoanh tay lên gối, cúi đầu khóc rưng rức.
Cự ngồi xuống hỏi tôi:
- Ở nhà à?
- Hôm nay không đi ba cùng được, tôi…
Cự cười nhếch mép - cũng là cái cười hiếm, có thể lúc ấy đương hiền từ, rồi Cự chống tay xuống mặt chõng.
- Biết rồi, thằng rễ bảo cậu ở nhà quét nhà. Quảy chưa được gánh nước đã choang vỡ cái nồi của người ta.
Tôi tái người. Chuyện kín bưng thế mà Cự biết!
Cự lại nhẹ nhàng. Tôi yên yên cơn lo. Cự thân mật, bỗ bã:
- Tối mai cậu xuống thôn Đìa dự đám cưới mình nhé.
Tôi trố mắt. Cự lại nói:
- Tớ lấy vợ.
Tôi không dám hỏi: “Anh chưa vợ a?”. Cự rủ rỉ: “Tôi ra tập kết chỉ biết lao vào công tác. Nhưng tuổi đã ngoài ba mươi, thì phải tính rồi. Vì tình thương yêu giai cấp, tôi lấy một cô cố nông ở thôn Đìa. Hôm qua họp toàn thôn, tôi ra câu hỏi: Khổ nhất thôn Đìa là ai? Cả thôn nhất trí cô ấy. Tôi tuyên bố tôi sẽ lập gia đình với người khổ nhất. Hội nghị cười râm ran, vỗ tay hoan nghênh. Dù việc riêng cũng công khai như ban ngày, càng thuận lợi cho công tác. Cậu nhớ bài báo về kỷ luật thằng Bổn chứ?
- Nhớ.
- Lấy vợ không phải là hủ hoá, cần minh bạch.
- Đúng thế.
- Chẳng những nhớ, tôi còn cắt giữ bài báo ở tờ nội san “Cải cách ruộng đất” đăng cái nghị quyết của Đoàn uỷ. Đội trưởng Cự đã bảo tôi hai lần đọc to cho cả đội nghe để liên hệ và ngăn ngừa.
Nghiêm khắc phê phán sai lầm nghiêm trọng của Nguyễn Bổn - Đợt 5 này là đợt đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Phần lớn cán bộ đều có tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, làm tròn nhiệm vụ. Đặc biệt, một số cán bộ xuất sắc đã được tuyên dương khen thưởng xứng đáng, nhưng bên cạnh những đồng chí tốt đó, tiếc thay có một số phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải xử trí đúng mức. Đồng chí Nguyễn Bổn là một trong số đó.
Đồng chí Nguyễn Bổn năm nay 30 tuổi, một cán bộ trao trả * (*khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1954, sau hội nghị Trung Giã, Việt Nam và Pháp, hai bên có những đợt trao trả tù binh) đã đi cải cách (đợt 4 và 5), hiện là đội viên Đào Khê. Trong đợt 4, đồng chí Bổn đã phạm lỗi nghiêm trọng: vì hủ hoá mà phải đổi đi 4 xóm, đến xóm nào cũng lại hủ hoá ở xóm đó, hủ hoá với vợ bộ đội, vợ tử sĩ và tròng ghẹo cả đàn bà trên 50 tuổi. Điên cuồng hơn nữa, ngay trong đại hội nông dân đồng chí Bổn đã công nhiên cắn vào vào vú, vào mặt một chi chuỗi tích cực. Tổng cộng trong đợt 4, đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người và có hành động tròng ghẹo nhiều người khác. Tác hại là cả 4 xóm ấy đều lạc hậu, rễ chuỗi bị hỏng, mất tác dụng, đồng chí Bổn bị kỷ luật và cảnh cáo toàn đoàn.
Mức kỷ luật đó chứng tỏ chính sách khoan hồng mở đường cho những người sai phạm tự giác giáo dục, nhưng sang đợt 5 mới triển khai và đồng chí Bổn đã tái phạm khuyết điểm với mức độ trầm trọng hơn trước nữa.
Về xã Đào Khê mới ba ngày, đồng chí Bổn đã liên lạc với con ái, con nhà địa chủ cường hào gian ác. Cho con ái vào dân quân, đêm đến nấu chè đậu đen cho nó ăn rồi hủ hoá với nó. Lại cho mẹ con nó đi họp nông dân khiến không ai dám tố bố nó là địa chủ cường hào gian ác. Đồng chí Bổn lại đưa con Hạnh thành phần công thương vào dân quân, đen con Hạnh về hủ hoá ở nhà rễ. Bố thị Hạnh có tội đánh chết người đã bị quần chúng tố cáo, nhưng đồng chí Bổn che dấu không báo cáo với đội. Đồng chí Bổn lại hủ hoá với chị Chắt, thiếu nhi trong xóm đã bắt được 4 lần trong bụi cây. Chồng chi ấy đi dân công vắng, mẹ chồng bị loà, tối nào đồng chí Bổn cũng vào nhà chị ấy để hủ hoá. Tác hại: Suổ bước địch không trấn áp, đồng chí cường hào gian ác lọt lưới không truy ra, quần chúng phát động không lên. Cả 3 xóm đồng chí Bổn phụ trách đều bị phân loại ba xóm lạc hậu.
Những sai lầm của đồng chí Bổn thật vô ccf nghiiem trọng. Đồng chí Bổn đã mất hết phẩm chất con người chứ không còn nói phẩm chất đảng viên và cán bộ cách mạng. Rõ ràng đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất không phải để phục vụ quần chúng mà để hủ hoá dâm ô. Đồng chí Bổn đã thành kẻ đầu hàng bao che cho địa chủ vứt bỏ hết quyền lợi nông dân, làm tổn hại đến cả sinh mạng quần chúng. Thực tế đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất mà lại đã phá hoại cải cách ruộng đất. Đoàn uỷ quyết định thi hành kỷ luật khai trừ đản ỵich, cho áp giải về cơ quan…
Học tập bản kỷ luật của đồng chí Bổn, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng không đẻ cho những tư tưởng xấu tấn công…
Ngày còn trong Thanh Hoá, khi tôi mới về đội này, đã nghe phong thanh Cự lấy một cô là “rễ cố nông” rồi Cự xin cho cô ấy đi làm cán bộ cải cách, được đưa ra công tác ngoài Thái Bình. Những người ở đội trước xì xào thế, nhưng cũng không ai tò mò hỏi. Cũng là ngủ với đàn bà, nhưng mẹo như đội trưởng Cự không ngu dại như Bổn để vi phạm điều 4 trong 10 điều kỷ luật cán bộ phát động quần chúng “không được hủ hoá trai gái với rượu chè”.
Tôi tỏ vẻ vui vui, xun xoe:
- Cưới thật à?
Cự trố mắt, mặt chững lại, trả lời không đáp vào giọng cợt nhả của tôi:
- Tối mai liên hoan giản dị nước chè xanh thôi, Đồng chí sắp sẵn mục thơ ca hò vè. Bây giờ ta làm việc…
Tôi ngồi xổm xuống vỉa hè đất nện. Tôi lấy sổ tay, mở tháp cái bút máy oerovơ.
- Sắp hết bước hai mà xóm này chưa có địa chủ. Các thôn đã lên hết, thôn Đìa dẫn đàu lên ba địa, năm phú. Thôn Am vẫn mù mờ, không mống nào. Có nơi đã mít tinh quân dân chính đảng toàn xã, xã này cũng sẵn sàng rồi mà chỉ vì thôn Am…
Cự nhác nhìn tôi rúm ró ghi chép dường như thương hại.
- Tôi phải báo cáo che quạt nan cho trên thông cảm với cậu chứ không thì cậu bị tróc về đoàn lâu rồi. Mới hôm qua họp, tôi phải dem danh dự bảo đảm với đoàn uỷ, tôi hứa đội sẽ giúp cậu.
Mồ hôi tôi chảy dài sống lưng.
Cám ơn anh.
- Ơn iếc gì, vào việc gấp thôi. cái rễ của cậu dựa chưa thối nhưng đã lung lay, vì cậu không phát động cho vùng lên được. Địa chủ Thìn đã bị bắt, thằng Diệc rễ cậ là rể của nó. cái con vợ đui què câm điếc kia là con nhah địa chủ Thìn. Thằng tá điền Diệc phải rước của nợ đi, mà thằng đồng chí đểu cáng chỉ mượn hai miếng ruộng đầu đồng cuối đồng. Cho nên về mặt nông dân, nó không liên quan, nhưng nó cũng chưa dám vạch tội ác địa chủ. Cậu đã hiểu như tôi vừa nói chưa?
Quả tình nhiều việc Cự nói tôi chỉ mang máng rồi lại tự gạt đi, tôi nhớ cái câu thằng Vách doạ hôm trước: “địa” đấy à, thế ra… Nhưng tôi đáp lời Cự nhanh nhẹn, như đứa học trò quen nói dấu dốt:
- Tôi hiểu… tôi hiểu ạ…
Hai con mắt Cự xếch lên như mắt diều hâu. Tôi run tay. Tôi đoán có khi Cự cả cái sự tối ngày tôi mò mẫm ăn vụng như thằng Bổn. Giời ơi tôi phát sốt lên đây này.
Cự nói to, dằn từng tiếng:
- Cũng không còn thì giờ để cậu loay hoay một mình. Xã vùng tề nguỵ này đặc biệt khó, nông dân bị chết mọi cách, chết đuối, treo cổ, địch giết hay thế nào. Đội ta đã giải quyết hết, chỉ còn mỗi thôn cậu. Đồng chí đã biết câu ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, tố khổ cả tháng mà không tìm ra địa chủ, cái thằng rễ không mở mồm vạch thằng bố vợ gian ác một câu thì còn ai dám nói. Thằng Diệc được bồi dưỡng thế nào mà vẫn là cái đụn rạ, họp thôn không áp úng nói đủ được câu “thưa toàn thể đồng bào”, người ta xỏ lá phản ánh lên là cốt cán ăn nói khinh nông dân. Tôi biết hết, chẳng cần báo cáo của đồng chí đâu. Việc xóm nào không qua được mắt này. Từ nay đội trưởng Cự kiêm phụ trách thôn Am.
Rồi Cự hỏi:
- Có ý kiến gì không?
Tôi nhẹ nhõm:
- Không ạ.
Cũng chẳng biết thế nào mà không với có. Nhưng cứ cung cách nói năng, vẻ mặt đội trưởng đã dịu, có lẽ tôi cũng không bị bắt lên chuồng trâu giam cảnh cáo trên đoàn. Bây giờ đội trưởng kiêm thôn này thì tôi có đoi ba chữ nghĩa tôi về làm văn phòng được chăng. Nhưng cũng không dám hỏi. Con cua nằm co quắp dưới bàn chân con ếch, nhúc nhích một cái nhỡ bị nuốt chửng thì chết ngay.
Cự nói như ra lệnh:
- Tôi điều đồng chí sang thôn Chuôm. Bên ấy địa chủ Thìn đã vào tù, rễ chuỗi đâu đấy cả rồi. Chỉ còn đợi mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã…
Tôi “à” một tiếng như vừa mới hiểu. Nhưng Cự cũng không quan tâm, Cự chỉ để ý câu mình nói.
- Cậu thấy thế nào?
Tôi nói:
- Tôi phụ trách thôn Chuôm chung với đồng chí Đình à? Bên ấy căng lắm, mới bị trận bão lốc, tôi sang…
Hôm kia thôn Chuôm bị một trận bão cạn ghê gớm. Vùng này thỉnh thoảng gặp thiên tai ấy. Tự dưng, phía chân trời cửa bể, dựng lên một cột xoáy nước trắng xoá giữa vòm trời cơn mưa đen kịt. Rồng lấy nước! Rồng lấy nước! Cả làng cuống cuồng. Cơn lốc lao vào chuyển thành gió cuốn qua làng mạc, cánh đồng. Đâu đâu cũng gõ thùng, gõ mâm, gõ nồi đuổi lốc. Người qua đường nằm rạp xuống kẻo lốc hắt lên trời. Một vệt lốc ập qua, nhà cửa, cây rơm, cả gà lợn bị hất tứ tung lên đê, xuống bãi, ra đồng. Đội đương dồn người tới cứu chữa thôn Chuôm.
Cự nhìn vào trong nhà. Hai con mắt như hai mảnh sành của người đàn bà què hau háu trợn trưng như bao giờ vẫn thế, Cự khe khẽ:
- Tôi nói riêng cho đồng chí biết. Thằng Đình bị bắt rồi.
- Bị bắt? Sao thế ạ? Vâng, vâng…
- Thằng Đình là thủ lĩonh quốc dân đảng chui vào phá hoại ta từ lâu. Địa phương làm chỉnh đốn tổ chức kết hợp phúc tra cải cách đã đấu tranh phát hiện ra. Ô tô xuống tận đây xích tay giải đi đêm qua, bí mật đến độ trong nhà cũng không biết.
Tôi lại rối ruột lên nữa, trước mọi việc xảy đến hồ như xác việc cứ diến ra ăn khớp như thế nào. Ngay hôm ấy, tôi đeo ba lô, túi xách sang Chuôm. Quả là bên này chẳng có việc đáng kể và mọi lo lắng đều như trút lại sau lưng. Sáng sớm, tôi lên hội ý đội. ra khỏi cổng đồng, thấy Đơm. Không phải gặp, mà Đơm đứng đợi tôi từ lúc nào. Như mọi khi, mảnh áo cánh rách lướp tướp. Một đám bùn khô còn dính bết trên đầu gối. Tôi trạnh nhớ trong đêm, những Đơm lúc Đơm đạp chân cuống quýt, tiếng những miếng bùn rơi lộp độp. Rách rưới không bớt được cái hơi nồng nàn của cô gái đương thì vừa ngủ dậy. quen tay, tôi mân mê đầu vú Đơm.
Đơm đứng yên như mọi khi, mặt đỏ rần. Nhưng những giọt nước mắt rơi xuống. Đơm nói nho nhỏ:
- Anh bỏ em rồi.
- Đội đổi công tác anh sang Chuôm.
- Không phải. Anh sang bên ấy ngủ với con Duyên.
- Tuyên truyền của địch, láo nào!
- Ai cũng biết hết rồi.
Tôi giải thích:
- bọn phản động đương hoành hành dữ lắm. Vừa có người thắt cổ dưới xóm Đìa. Lúc hạ thừng xuống không thấy hơi trong bụng hứ ra. Đúng là bị treo cổ. Phải đề cao cảnh giác.
Đơm đẩy tay tôi ra.
- Con Duyên mặc áo của anh có mùi nước hao thơm, cả cánh đồng ngửi thấy.
Chết tôi, hôm ấy tôi phơi cái áo may ô cổ vuông ngoài sân, Duyên ướm thử lên ngực rồi chi đầu mặc luôn. “Anh trông em có đẹp không?” Từ hôm sang Chuôm, tôi ở nhà bố Duyên như thăng trước Đình đã ở. Bởi dưới nhà cả Cối lít nhít con nhỏ nằm đạp nhau chí choé cả đêm. Bố Cối nặng tai, ai nói chuyện thì thào hay nói to cứ mặc con vịt, khi nào cũng thở than một câu không ra khoe, không ra phàn nàn: “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa biết mặt đôi guốc, cái màn, chưa lên đén chợ tỉnh”. Nhiều oong già bà cả trong làng cũng tương tự, người thì chưa nhìn thấy cái xe tay, người thì mới nhìn thấy cái cột dây thép ngoài đường cái tây áp tai vào nghe u u, người mới có một đôi lần cuốc bộ lên chợ huyện.
Nhà có người già ngăn nắp đâu ra đấy, có cửa, có bờ rào. Nhưng trong nhà cũng tềnh toàng mỗi cái phản, một chõng nằm, một chõng mâm ăn cơm. nền đất nhắn thín, hạt trám đóng chi chít, thành thử mặt đất cũng phẳng như cánh phản, được nằn ngồi như nhau. Nhưng rồi không phải bọn trẻ con chỉ chí choé ở nhà bố mẹ chúng nó ngoài bãi. Tối nào chúng nó cũng san bớt nhau ra đi ngủ lang, kéo vào nhà ông nội. Có đến ba bốn đứa, đứa chạy đứa cõng vừa đến nơi đã díp mắt lăn ra giữa nhà. Mọi khi Duyên nằm giường. tôi không thể đoán thằng Đình nằm chỗ nào. Bây giờ cái giường tre nhường cho tôi. Duyên chặt mấy tàu chuối vào lót ổ góc trong. Đi họp khuya về, lũ trẻ con đã ngủ mê tơi cả. Ông lão điếc nằm xó cột nào, không trông thấy. Tôi đặt cái túi đầu giường, rồi cẩn thận cởi quần áo, chống hai tay như con ếch bò vào chỗ Duyên. Cái Đơm nói chẳng ngoa.
- Ấy…
- Lại tháng à, xem nào.
- Không.
Duyên lăn xả vào, cưỡi lên tôi. Đến lúc tôi lử cò bợ, Duyên vẫn cắp không cho rẫy ra.
Duyên thì thào vào tai tôi:
- Tháng sau em về nhà chồng.
- Sao bảo đi Hà nội với anh?
- Chỉ được cái thăng thiên. Ra đấy rồi anh bỏ em bơ vơ.
- Anh thề.
- Chẳng phải thề cá trê chui ống, cứ chui vào đây này.
- Thật tháng sau em lấy chồng hả?
- Có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ không để mà chửa hoang với ai. Mai kia thằng con đầu em đặt tên nó là thằng Bối.
- Tên nó là thằng Đình.
Duyên ngoạn vào mặt tôi, lại đè tôi ra, hùng hục: “Xem con ai nào! Xem con ai nào!”
Có hôm cả nhà vắng, chúng tôi ngủ với nhau cả ban ngày. Duyên thật ra dáng con gái, lại có bộ đồ mồi, cái quần thâm, chiếc áo cánh phin, không man dại như Đơm. Hai đứa nằm đất mát lạnh trong khuya, sực nức mùi xà phòng hao lý. Tôi có một bánh bọc giấy bóng cất đáy ba lô, thỉnh thoảng mới lấy ra gội đầu, thế mà Duyên lục được.
- Xà phòng này để anh gội đầu thôi.
- Em tắm, em xoa khắp người.
- Phải dội kỹ mới hết nhờn.
- Không, để nguyên cả bọt cho thơm, sướng cả mũi.
- Rồi ghẻ ngứa đấy.
- Chẳng sợ.
Có hôm tôi bắt được Duyên mặc cái áo may ô màu lơ của tôi, không phải chỉ người ta đồn mà Đơm nói lại. Duyên mặc đi chợ, lót trong tấm áo phin nâu mà vẫn hằn lỗ cổ vuông xanh lơ. Tôi víu Duyên lại, bắt cởi ra. Duyên cười cười, cởi lộn ngược cái áo, ngực trần ra trước mặt tôi. Thế là hẵng khoan đi chợ. Nhiều lần những áo lót tôi chưa mặc đã có mùi xà phòng thơm. Tối nào tôi cũng đe cô mà mặc nữa thì tôi đi ở nhà khác. Duyên cười không nói. Nhưng ả vẫn không chừa. Duyên muốn khoe ngầm với làng xóm “ta được mặc áo anh đội”. Cái này khéo mà tôi tù chứ chẳng chơi. Nhưng cũng chỉ thoáng sợ thế lúc một mình. Những khi có Duyên ám thì cái bài báo về thằng Nguyễn Bổn hủ hoá lại là chuyện của người khác, mình không thế, mình không giống nó.
Nhìn lại đầu làng không thấy ai, tôi lôi Đơm vào bụi duối rậm rạp. Đú đởn, nhấm nhẳn, vẫn quanh quẩn.
- Cái Duyên nó lấy áo của anh nó mặc đi làm đồng.
- Thật trông thấy à?
- Không trông thasy cũng ngửi thấy mùi.
- Được, để rồi bắt nó về kiểm điểm, nó là dân quân mà.
Đơm lại sa nước mắt, lã chã. Hai con mắt ướt tình quá, quên đời. Đơm nhấm đầu ngón tay tôi, nói nhỏ:
- Tối nay đấy.

Chươơg 2 (b)


Nhà tù của liên đoàn uỷ đoàn phúc tra là lô cốt và trại giam ở phủ lỵ thời Pháp. Dây bìm bám rêu trùm lên lù lù tựa quả đồi xanh om, bên trong là các xà lim, các buồng giam lỗi lõm như hang hốc núi đá, dân quân các xã ngày đêm đổi phiên canh gác vòng trong và bên ngoài. Người bị bắt càng đông - cái nhà cũ không đủ chỗ chứa, phải làm thêm đẵn tre để nguyên cả gióng chôn liền thành bức tường dài rộng đến hơn hai trăm thước chia thành ngăn, mái lộ thiên chống hốc. Trông giống cái chuông trâu. Các đoàn cải cách, đoàn phúc tra, đoàn chỉnh đốn tổ chức đều có nơi giam người tương tự. Có câu hù doạ “phải ngồi chuồng trâu là toi đời”, là những trại tạm giam này.
Chiếc xe commăngca Ru* (xe commăngca đít vuông của Rumani) đít vuông xóc lồng lên. Đình bị trói chặt tay chân nằm còng queo dưới sàn xe, không thể cựa được. Thế mànn bà nchân những người ngồi trên ghế còn chặn lên cho khỏi quẫy. Ô tô chạy từ đêm đến sáng sớm, những người đi chợ huyện thấy nhấp nho trong xe hai người quần áo nâu mới, thắt lưng da to bản cầm dựng khẩu súng trường. Chỉ lạ mắt, không ai đoán được xe công việc gì đi hay về sớm thế. Sắp đến huyện, người ngồi ghế đằng trước quay lại:
- Chốc nữa đến nơi, gọi một tiểu đội ra gác rồi cơi chân cho nó đi. Vào chhõ giam, trói ngay vào cột. Thằng này nguy hiểm số một. Để xổng thì mất đầu cả nút đấy.
Nơi giam Đình ở cũi phái ngoài lô cốt. Không một lỗ cửa sổ, trên mái trống hốc mà như tối mù. Nhiều người đã bị nhốt trước ở đấy, bùn cứt thối khẳn lõng bõng ngập mắt cá chân. Đình phải trói đứng suốt ngày. Đêm ngủ lả đầu xuống, lưng cong như con tôm, hai tay vẫn treo lên cái vấu tre. Lúc lúc lại quờ quạng dật dờ ngọ ngoạy. Đình vẫn chưa hết cơn choáng váng bởi không hiểu thế nào.
Mấy ngày liền không biết. Hôm đầu Đình còn tỉnh, nghe sau các vách cũi bên cạnh, tiếng rên, tiếng ho, tiếng nôn ồng ộc, tiếng thở dài não ruột, chẳng rõ người hháp hối hay con chó vừa bị một chày vào đầu, chỉ còn ư ử mấy tiếng mơ hồ.
Một buổi sáng, nghe người quát hỏi bên ngoài: Thằng việt gian Nguyễn Văn Đình ở buồng nào, thưa lên, ở buồng nào? Đình ú ớ: Tôi… tôi… Mấy cây tre gộc được nhấc ra, đẩy Đình ngã bệt xuống trước hai mũi súng chĩa.
M cánh tay thò vào, lôi ra.
- A, nó giở trò.
Thực sự, Đình không ngồi dậy được. Những cái lưng thễ lễ máy quả lựu đạn lại cúi xuống lôi Đình đứng lên. Nhưng người bị giam lại khuỵu xuống, không nhấc nổi hai bắp chân tụ máu. Xung quanh hét lấy lệ: đi, đi. Đình bò lồm ngồm, cũng không ai đoái hoài ngó lại. Đến bậc thềm, Đình như sực nhớ, mắt chớp chớp. Đình trông thấy cái bể nước đằng gốc cau, cái bể nước trơ trụi bên tường từ hồi Đình còn công tác dưới huyện. Hình như bây giờ để tôi vôi, thành bể trắng nhoe nhoét.
-… Đồng chí…
- Ai đồng chí với mày! Thưa các ông, mày nghe rõ chưa.
- Các ông cho tôi nước, tôi khát quá.
Một người thương hại, đem gáo dừa nước lại. Người đứng cạnh, chắc là tiểu đội trưởng, giằng gáo vất đi.
- Không được liên quan giai cấp. Phải cảng giác, cnó cầm cái cán gáo chọc vào cổ chết bị đầu mối thì sao.
Qua sân, Đình bò lên bậc thềm, vào một toà nhà ngói. Đấy là công đường cũ của quan tri phủ, rồi sau là trụ sở uỷ ban huyện, Đình đã ra vào, thuộc từng xó. Dường như vẫn thế, chỉ khác đằng cuối, những lá cót mới quây ngăn thành gian riêng, ngoài thêd\fm kê một hàng giá gỗ, trên đặt những chậu tráng men hoa và chiếc khăn mặt bông trắng vắt cạnh- nơi của các đoàn uỷ, đâu cũng giống nhau. bàn ghế lộn xộn, những người làm việc đều lạ mặt, ai cũng quần áo nâu một loạt.
Đình được dẫn tới trước một bàn làm việc.
- Thưa đồng chí, phạm nhân Nguyễn Văn Đình…
Người ngồi sau bàn, một thanh nhiên nhỏ nhắn, trắng trẻo đôi mắt kính trắng, như thày lục sự ngày trước, nhưng lại đánh bộ quần áo nâu nom mới. Không đoán ra được là cán bộ gì. Thoạt trông, hồi tưởng những hôm ở chỗ cửa phủ ngoài kia cách đây hơn mười năm, khi mới cướp chính quyền, suốt ngày trống ngũ liên gọi người đén ghi tên đầu quân. Lại phấp phỏng như hôm nào ta lên báo cáo đoàn uỷ, lại nghĩkp, lai…
Người ấy ngẩng nhìn Đình rồi hỏi nhoe nhàng, nhưng lạnh ngắt, thất Đình lúng búng “bẩm, bẩm…”
- Cái gì?
- Tôi xin ngụm nước, mấy hôm rồi tôi chưa được hạt cơm hạt nước nào.
Đình run rẩy ngã xụp xuống. Đám người giải Đình tới đã lui ra ngoài từ nẫy, đứng hai bên cửa. Người ngồi bàn giấy ngẩng lên hất hàm ra phía ấy, vẫn giọng dịu dàng:
- Cho nó uống nước.
Một người ra chỗ những chậu rửa mặt, nhìn quanh quất rồi cầm cái nắp nhựa hộp xà phòng, vục vào cái chậu còn nước, bưng lại cho Đình.
Đình ừng ực uống hết nắp na quyện mùi xà phòng thơm. Vẫn khát như móc họng, nhưng không dám xin thêm. Từ hôm nọ tới giờ mới thấy được đối xử có vẻ như khác.
- Mày là Nguyễn Văn Đình?
Câu hỏi gay gắt, Đình lại buồn hẳn.
- Vâng ạ.
- Vâng ạ thế nào?
- Vâng ạ, Nguyễn Văn Đình.
- Quê quán, tuổi, nghề nghiệp.
- Tôi… tôi ba mươi tư… cán bộ phòng…tỉnh…
- Được rồi, mày mắc tội gì, biết chưa?
- Không ạ.
- Mày là thằng quốc dân đảng có rồi nhiều tội ác với nhân dân.
- Tôi không biết.
- Câm mồm. Năm ấy bọn phản động cho mày lập ra cái trại có tên là đại đồng. Chúng mày thham lắm, đại đồng là hai chữ đđ viết tắt, là tên quốc dân đảng của chúng mày. Ở trại mày giết hàng trăm người vô tội. Hiện có nhiều người dưới xuôi lên nhận mả người tản cư đã chết ở trại cùng với nông dân trong huyện tố cáo tội ác của mày. Khai ra mày theo phản động từ bao giờ, ai đưa mày chui vào Việt Minh.
Ông toà án vẫn nói nhỏ nhẹ. Nhưng Đình nghe đến đau, như từng miếng thịt sau gáy giật lên.
Đình luống cuống.
- Xin toà soi xét, tôi không phải quốc dân đảng. tôi không giết người.
- 56 người bị giết, danh sách từng người chết oan đây.
- Không, tôi…
Người trẻ tuổi đứng dậy, khoan thai như thày giáo giảng bài.:
- Các đồng chí dân quân, khai khẩu cho nó nói ra.
Lập tức, tốp người trực ở ngoài ùa vào lôi Đình xuống sân. Một cái gộc tre xù xì đạp bốp vào mồm Đình con đương há hốc. Ba chiếc răng cửa Đình văng ra như những hòn cuội, máu tuôn lênh láng. Đình lăn ra thở sằng sặc. Những đầu mấu tre giáng xuống như giã giò, thình thịch, vun vút, bất kể vào đầu, vào lưng. Đình trợn ngược mắt, nhuôi ra. Chiếc gây chọc vào lưng, lay đi lay lại. Rồi gậy lại chan chát xuống, như thử biết người còn sống không. Hai bàn tay Đình ruỗi như búng con quay rồi duỗn thẳng không nhúc nhích.
Người cán bộ kính trắng đã đứng đằng sau từ lúc nào.
- Khiêng nó về nhà giam. Cho cơm nước tử tế. Nó mà chết, các người gác phải thế mạng, không giỡn đâu.
Cả ngày Đình được một nắm cơm không và một gáo dừa nước lã. Cái miệng vừa mất răng, mặt sưng vều lên đỏ rừ, nhưng Đình cũng trệu trạo nhai nắm cơm và tu sạch gáo nước. Người canh gác đứng đợi Đình nuốt hết cơm rồi lại trói Đình vào cọc xong mới cầm chiếc gáo đi. Một người khác đến ngay, cắt lượt gác canh suốt đêm ngoài dóng cũi.
Tuy đau nhưng nuốt được vào của ngọc thực. Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng khiếp sợ., có lúc muốn đập đầu chết ngay, có lúc tưởng tụe dưng cũng sắp tắt thở. làm sao đến nông nỗi này? Làm sao cái trại đại đồng lại lên trại quốc dân đảng? Những người ở xuôi tản cư không quen thung thổ đã ốm sốt rét ngã nước, cả vùng ai cũng biết. thế là thế nào, bí thư chủ tịch còn cả đấy, ở huyện, ở tỉnh à…à…
Có nhẹ trong đầu, nhưng khắp người đau như dần. Hai tay bị thít vào cột, cả đêm Đình ỉa đái tuôn xuống quần. Có lúc khát rát cổ quá, cứ ngửa mặt ngáp như cá mè úi nước. Những trai giam, chuồng giam thế này, Đình đã biết nhiều. mọi khi anh đội rảo bước qua, rồi hét dân quân giải phạm nhân lên, điều không thể tưởng rồi ra có ngay anh đội lại phải trói đứng trong cái cũi tre. Đình đau đớn, ruột xót như bào.
Hôm sau, Đình lại bị dẫn lên. Mặt tấy to tròn như cái tráp, Đình tập tễnh lạch đi. Mà không biết thế nào, không biết ai giải cứu cho được. Cố cũng cgỉ được vài bước, Đình với tay vịn người dân quân đi cạnh. Người kia chẳng nói chẳng rằng giơ báng súng tống vào mạng sườn Đình một cái, Đình bật tay ngã rụi.
Một lúc sau cũng rật rờ đến được trước bàn.
- Toà hỏi lại, trả lời cho rõ: mày vào đảng phản động bao giờ, ai đưa vào, ai tổ chức cho mày trá hình chui vào Việt Minh, ai ra lẹnh cho mày tập trung người, giết người.
- Tôi lập trại nuôi người tản cư.
- Lại chối hả? Không sợ mất nốt hàm răng?
- Bẩm có chủ tịch, có bí thư đoàn huyện làm chứng. Các anh ấy bây giờ đương còn công tác trên tỉnh.
- Hai thằng phản động ấy là trùm quốc dân đảng vùng này, đã phải đền tội trước nhân dân rồi. Chúng nó cho tiền mày lập trại giết người phá kháng chiến thế nào, khai rõ ra.
- Thưa, không…
Thế thì chết rồi, Đình hốt hoảng, run rẩy. Nhưng rồi Đình tỉnh hẳn. Những câu hỏi móc máy ấy Đình cũng đã nghe quen tai, chẳng biết Đình đã từng nói hay từng nghe hỏi thế nhiều lần. Cặp kính trắng của ông toà mặt hiền lành cúi xuống đọc tài liệu, ký giấy tờ, nhưng những câu ông hỏi, ông nói lại là con dao bầu cứ thế, nhất định mổ lôi tưng khúc ruột gan lú lấp của Đình ra, khiến cho Đình chỉ biết, chỉ nhơ mình có tội., tội nặng. Thế ra những thằng bí thư, thằng chủ tịch này ấy cũng đã là bon phản động mà “được đền tội” cả rồi.
- Tội nhân Nguyễn Văn Đình.
- Dạ, em… Thưa, con…
- Mày đã nhận thấy tội mày chưa?
- Con nhận thấy tội rồi.
- Tội thế nào?
- Con giết nhiều người.
- Mày vào quốc dân đảng phản động bao giờ?
- Đã lâu lắm, con quên…
- Không được quên. Đứa nào đưa mày vào?
- Vâng ạ, Thằng chủ tịch, thằng bí thư, còn đứa nào nữa…
- Sao mày lọt lưới đi cải cách?
- Con không biết.
- Mày lọt lưới cả phúc tra cải cách?
- Vâng, con lọt lưới.
Thôi, cho về.
Đình lại giở chứng, không muốn về cái chỗ thối ghê gớm ấy, giá cứ được đứng đây. Một báng súng đã thúc vào lưng, đun ra.
Nhưng hôm sau thêm nhiều người nữa ngồi ở hai cái bàn kê ai cũng hỏi hỏi, ghi chép, có cái máy đánh chữ tanh tách ngay cạnh. Thỉnh thoảng một tờ giấy vừa đánh chứ bật ra lại đem cho Đình ký vào cuối trang. Đình cứ ký, cứ vâng dạ trả lời. Đình đã giết người thế nào, bao nhiêu người. Có người bị chọc tiết, phải không? - Vâng ạ- Có ai bị chôn ssóng không? - Có, có - Mấy người? Một ạ- Cả thảy mười lăm người, danh sách đây. - Có người chân còn thò lên mặt đất? - Có ạ - Mày lấy cuốc chặt đi phải không? - Vâng ạ - Chặt thế nào? Tôi chặt một cái. Những chuyện ghê rợn cứ người nói người kể. Cái sợ, cái chết đến nơi, bí thư và chủ tịch huyện đã xuống suối Vàng rồi, Đình cũng đương đi… Đình tỉnh rồi lại mê.
Người thẩm vấn hỏi một câu lạ, khác lúc nãy.
- Sao mày làm nhiều tọi ác dã man thế?
- Vâng ạ.
- Tại sao, trả lời ngay!
- Chúng nó bảo tôi làm.
- Được rồi.
Ở cũi giam, là một nắm cơm, một gáo nước hàng ngày. Nhà Đình ở ngay trong làng, cuối phố huyện đây. Nhưng làm sao vợ con biết được, chúng nó có biết hay không. Mấy hôm nay thôi phải gọi lên hỏi nữa. Hay tay Đình đội cởi trói. Đình ngồi phệt trên vũng bùn cứt, như con lợn quết bụng trong chuồng. Từ chân lên mặt vẫn sưng tấy, buốt đến tận óc. Đình chẳng còn chờ đợi gì, chỉ mong được chóng chết. Nhưng mà thế nào cũng sắp chết rồi. Cứ chôn đứng chôn ngồi thế nào thì cũng chết đén nơi.
Một tháng rồi ba tháng đã qua. Đình vẫn ngắc ngoải.
Hôm ấy, Đình phải điệu ra toà xử công khai. Cũng như những phiên toà giữa trời ở các xã. Một cái bãi liền chợ, đông nghịt cả hàng huyện kéo đến trường đấu. Trên hàng người, những chiếc đòn ống vát đầu tua tủa lên như cắm chông. Dễ thường có con mẹ hĩm cu vợ Đình trong đám ấy- các cụ để lại, xưa rày nhà Đình chỉ có một miếng ruộng, hồi giảm tô, vợ Đình được là chuỗi, là tổ trưởng dân quân. Ôi, nhưng mà cũng có khi bị đấu vì tội liên quan với phản động hay là đã chết cả rồi.
Những hy vọng vừa mơ màng tới, lại tối sầm. Từng đợt hô khẩu hiệu ồn ào bốn phía làm Đình xanh xám. Đình bị trói giật cánh khuỷu, mỗi bước cứ khuỵu xuống, hai bên dân quân lại lôi xềnh xệch. Trước dãy bàn xử án, mấy tấm cót ken nối nhau, dài in hàng chữ hắc ín: Đả đảo Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình. Bên cạnh một cọc tre tươi còn cả chòm lá phơ phất được cắm xuống, đất mới loang lổ xung quanh. Đình đã trông thấy những cái cọc như thế ở các mít tinh xử án, cọc trói người đem bắn. Đình bủn rủn lai ngã gục, không gượng lên được nữa. Bởi vì Đình đã lại trông thấy khuất sau chiếc ghế dài các đại biểu ngồi, trang trí tết lá dừa lưa thưa, hai người vừa khiêng ra một chiếc quan tài gỗ gạo tươi còn lướp tướp trắng bệch. Đình đã biết cả.
Mấy báng súng tống vào lưng, đẩy Đình ngồi tựa ngay vào cái cọc tre ấy. Một chiếc thừng luồn vào nách, buộc chéo lên cọc, giữ cho Đình khỏi ngật ngưỡng. Đình lom khom quỳ nghiêng trông ra đừng chợ, không được sấp mặt vào hàng ghế toà án, mà cũng không được chổng đít xuống đám đông mít tinh dưới kia. Từ nãy, cái vỏ ốc thằng Đình cứ bị xoay đi xoay lại mấy lần, đằng nào thì Đình cũng trông thấy quang cảnh đã biết ở đâu.
Hình như linh tính thế nào, Đình nhác mắt ra. thoáng đằng sau hàng dân quân cầm giáo mác, dưới kia, trong đám các làng còn đương kéo lên có một người đàn bà nhấp nhô. Không nghe tiếng hô khẩu hiệu, không giơ tay, chỉ thấy nhẩy nhẩy. Trông rõ cả những người ấy bồng lên cổ một cu con, mặc áo ca rô xanh. Ối giời ơi, cái áo kẻ ca rô mà tháng trước Đình được chia cho phiếu mâu ở cửa hàng mậu dịch trên thị xã rồi gửi về cho con. Thằng cu nhà Đình! Thằng cu nhà Đình! Mẹ nó xốc nó lên cho Đình trông thấy. Đình trông thấy rồi. Nhưng cái cổ Đình sái như gẫy không ngoảnh được mặt. Rồi chỗ đông nhô ra ấy, bị mấy cái đầu gậy túi bụi rúi xuống, chẳng thấy nữa. Khắp bãi lặng im nghe toà đọc cáo trạng tội Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình chống phá kháng chiến, lập trại giam trá hình, giết chết hàng trăm những người vô tội.
Xung quanh, mỗi lúc một phẫn nộ. chốc chốc, bốc lên hàng loạt tiếng hô, đứt quãng cả tiếng người đương nói trên loa. Đả đảo Việt gian phản động… Đả đảo Việt gian… Bản cáo trạng dài lắm. Dần dần đã ta hẳn sương, trời quang. Một hàng năm người ngồi ghế sau tấm cót, hia đàn ông, ba đàn bà, áo nâu non mới. Đình không dám nhìn ai, lại lẩn thẩn nghĩ không biết toà án của đội hay trên đoàn tổ chức.
Ông nhỏ nhắn đeo kính trắng hỏi cung mọi khi hôm nay mặc đại cán màu xi măng, vai đeo túi dết, trịnh trọng đứng lên.
- Tội nhân Nguyễn Văn Đình!
Có mỗi một cái loa tiếng e é, đặt trên bàn toà án. Đình ngồi dưới chỗ cái cọc trả lời hay im lặng, chẳng biết. Chỉ có tiếng ông toà án bốn phía nghe được mà thôi.
Toà hỏi: ai xui mày lập trại giết người?
-…
- Bây giờ đồng bọn mày trốn ở đâu?
-…
- Mày đã giết bao nhiêu người?
-…
- Phải nói con số cụ thể.
-…
- Luật pháp không mớm cung, ép cung, luật pháp yêu cầu nói sự thật những việc đã làm.
-…
Một câu hỏi bỗng vang xuống hàng nghìn người ngồi, đứng dưới kia.
- Có ai lên vạch mặt tội ác Nguyễn Văn Đình?
Mấy người vừa lên, vừa chạy vừa hét. Toà cho đwsng nói ở chỗ loa. Tiếng quát rít lên: “Thằng Nguyễn Văn Đình ngẩng mặt lên”, nhưng Đình không còn sức ngọ nguậy được cái cổ, cứ trơ ra. Người ấy la hét, kêu khóc kể Đình bỏ đói, suốt ngày bắt lên đồi đào sắn trựa, lấy thức ăn nuôi lợn. Hôm nbào cũng thấy xác người bị nhét trong những cây nứa tươi đạp rập đem đi vùi, có đem đốt đuốc khiêng đi.
The thé tiếng một người đàn bà:
- Đêm nào thằng Việt gian cũng đi hủ hoá. Nó hủ hoá cả tôi. Hu, hu…
Ở dưới nhộn nhạo, không rõ người ta buột miệng cười ầm lên hay đả đảo, đả đảo, có lúc nghe tiếng khóc thảm thiết rồi lại rồn rập: Đả đảo Việt gian…
Một người vọt tới, xỉa tay vào trán Đình - mặt Đình.
- Ba đời mày làm cai tổng, hành hạ cả làng, có phải thế không, nhận đi.
Đình lờ đờ ngước mắt xem có ai bị trói bên cạnh. Nhưng không. Người ta đấu có mỗi một Đình, một thằng bạch đinh.
- Ông mày là cai tổng, thì ông tao chết đường, bố mày làm lý trưởng, thì bố tao phải bỏ làng đi ăn mày, đến đời tao…
- Đả đả! Đả đảo!
Ông toà án ngồi giữa đứng ra nói:
- Tội trạng Nguyễn Văn Đình đã rõ trong cáo trạng và những tố cáo của quần chúng. Bây giờ sang mục toà nghị án.
Rồi ông cất cao giọng:
- Tôi lấy ý kiến giai cấp nông dân, xin hỏi tên Nguyễn Văn Đình đáng tội gì?
- Tội chết! Tội chết!
Trong làn nước mắt lờ mờ, Đình cố trông lại cái chỗ người đàn bà bế con lên vai lúc nãy. Chẳng biết có phải thấy mẹ con nó đương nhảy hay không. Ánh mặt trời chói lói, ấm áp trong các đội sắp hàng nhốn nháo, huyên náo: Chết! Tội chết! Đả đảo mật thám! Hát lên: Hò lơ, hó lơ…- Không, không, Nông dân là quân chủ lực! Một hai ba: Nông dân là…
- A lô! A lô! Yêu cầu đồng bào im lặng.
Bỗng lặng phắc:
- Toà tuyên án: tử hình Nguyễn Văn Đình! án xử ngay tại chỗ.
Lại sôi lên:
- Hoan hô giai cấp nông dân! Kiên quyết tử hình Việt gian.
Đình bị kéo đứng thẳng, ngay cái cọc tre ấy, dân quân xúm lại thiết chiếc thừng bó giò cả chân tay, cả người. Lúc mặt đã buộc miếng vải thâm thì cái quan tài gỗ trắng nhở cũng được hai dân quân khiêng ra, mở nắp sẵn, đặt cạnh. Nhưng Đình đã li bì, không biết gì nữa.
Bài hát Nông dân là quân chủ lực vẫn vang vang. mỗi đám gào một phách, loạn xạ như vỡ chợ. Chỉ có tiểu đội dân quân trên bãi cỏ trước cái cót vẫn hí húi, hì hục, lặng lẽ. Người nện cán cuốc lèn thêm cho chặt đứng chân cọc. Người thít lại mối thừng quấn lên người phạm nhân. Đằng sao bước ra một tiểu đội dân quân khác. Tám người súng trường bồng trên vai, áo nâu, mũ lá cọ, thắt lưng da to bản bóng nhoáng cài hai quả lựu đạn có rọ đan cẩn thận. Tiểu đội ấy đứng dàn hàng ngang, trông về phía bãi trống, trước mặt người sắp bị xử bắn. Rồi hạ súng, báng dựng ngay chăm chắm, đợi lệnh.
Đột nhiên một người từ đằng sau nhô lên chỗ bàn toà án. Ông toà nhỏ nhắn đeo kính trắng cúi lom khom giơ bắt tay người mới đến. Ông cán bộ đã đứng tuổi, mép để hàng râu con kiến, cũng mặc áo nâu, áo đại cán màu hồng nhạt, đeo sắc cốt da, đừng lưng áo gồ hẳn lên chuôi khẩu súng lục to. Rõ ra cán bộ cấp trên. Cả mấy người đã đứng dậy. Có những người lóc cóc chạy đi bưng thêm ghế tựa.
Ông cán bộ nói mấy câu với các vị toà án rồi bước vào trước micrô, thong thả, vang lừng:
- Thưa toàn thể đồng bào giai cấp nông dân huyện ta, tôi bí thư đại diện đoàn uỷ khu về truyền đạt một chỉ thị quan trọng của trung ương. Tôi thông báo để tất cả đồng bào rõ, kể từ giờ phút nhận được lệnh này của khu, các đội cải cách, đội phúc tra, đội chỉnh đốn tổ chức đình chit tất cả các vụ xử bắn. Toà án phải thi hành đúng pháp luật nhà nước, yêu cầu triệt để thi hành.
Ở dưới vẫn im, không hoan hô, không đả đảo. Rồi lại nhốn nháo và cứ thế lộn xộn, xô bồ người ta kéo về không ra hàng ngũ gì cả cũng không cản được, mà cũng không ai cản cả. Đình đã thỉu đi rồi và như bị bỏ quên vẫn bị trói đứng trơ trơ ra đấy. Cả các ông toà án cũng lúng túng, chỉ có đoàn uỷ khu về chận nhưng vẫn còn kịp, ông bình tĩnh và cẩn thận, ông đề phòng nông dân còn đương bồng bột, nhỡ đám đông xông lên đánh chết người, thì lại phạm pháp. Đình được khiêng về chỗ giam. Ông bí thư xem xét lại mọi hồ sơ của Đình, bàn bạc với các ông toà án, đến hôm sau, Đình được thả. Xoá cái án chém mà nhẹ như không, những người già bảo rằng trời còn có mắt.
Không biết đến hôm nào Đình mới lết được về nhà. Làng làng vẫn im ắng, vừa sợ vừa phấp phỏng, mặc dầu bây giờ đương bắt đầu công tác sửa sai. Nhưng đường xá có thảnh thơi hơn. Các đội sửa sai vẫn áo nâu và ba lô về làng nhưng mặt mũi tươi tỉnh, gặp ai cũng chào và đi xe đạp tới trụ sở uỷ ban xã. Sửa sai mà, sửa sai cải cách, sửa sai phúc tra cải cách, sửa sai chỉnh đốn tổ chức – sửa sai chồng đống cả loạt. Lớp cán bộ mới từ huyện, tỉnh đến trung ương lũ lượt xuống cơ sở. Cán bộ đi cải cách trở về cơ quan, đơn vị. Những chuỗi rễ đã thành cán bộ đội, không dám trở về làng, hàng trăm con người ở lỳ các trạm, chờ khắp các tỉnh, không biết rồi các địa phương giải quyết thế nào.
Để ý kỹ, quang cảnh cũng có khác. Buổi chiều một chú bé đội chiếc mũ lá vắt vẻo trên lưng con trâu nhẩn nha lên đe gặm cỏ. Bây giờ người ta mới nhớ ra có con chim chích choè hót sáng sớm. Con chim gáy báo giờ trưa chiều. Con thủ thỉ thù thì ầm ừ trong hoàng hôn bên kia sông. Con tu hú về mùa quả vải. Khi hoa gạo nở đỏ khé, hàng đàn sáo đã đén đậu trên càng cãi cọ vang vang.
Tất cả những chuyện trên tôi biết được và nhớ lại, vì cái hôn tình cờ tôi gặp lại Đình. Ai có thể tưởng tượng cuộc gặp gỡ kỳ lạ đến thế.
Có đến hơn hai mươi năm sau. không nhớ chính xác. Trên vỉa hè, các nách ngõ và quanh công viên thành phố dạo này người ta ở đâu kéo ra lắm người lang thang đên thế. Gầm cầu, chân tường vợ chồng con cái rúm ró với mọi thứ việc, không thể gọi là việc được. Mỏ rác, ăn mày, ăn cắp, cướp giật. Khi mưa khi nắng vào những kỳ gió bấc thổi, không biết người ta trốn tránh thế nào.
Bao nhiêu bệ rạc hội tụ lại, quần áo rách rưới chăng mành mành trên hai sợi dây nhựa căng đợt trên đợt dưới giữa hai gốc cây bạch đàn đầu công viên. Những mẩu gạch làm ông đầu rau ám khói đen thui. Chiếc nồi nhôm cơm lên hơi nghi ngút. Một xoong rau muống sào bốc mùi tỏi. Hai đứa bé lấm láp nghịch ngợm chơi tụt dốc trên lưng mẹ đương cúi cời than bếp. Một người con trai mặt sốt rét bủng rứ ngồi với một ông lão trên mảnh chiếu đã xạm xám mùi mồ hôi trải sát chân tường. Chai rượu trắng đặt cạnh một đĩa lạc rang ủ trong bọc giấy báo mới lấy ra. Ông lão mặt đỏ lựng ngất ngưởng chòm râu lởm nhơm không ra để, không ra lâu chưa cạo. Đôi chốc những người trai lại thò chân bới đống rác dưới gốc cây. Ngón chân cái chia gạt ra chỗ để giẻ rách, chỗ miếng nhựa, chỗ chai bia, vỏ đồ hộp, ống bơ sữa. Anh ta ưống rượu đợi cơm mà vẫn chịu khó lam làm.
Cái mặt lão này, ờ cái mặt nhữ đã gặp ở đâu. Chỉ lạ bộ râu xồm xoàm tuổi tác, còn thì quen lắm. con mắt ốc nhồi, cái mũi đỏ, cái ve đuôi mắt nhấp nháy. Trong đời, mọi giao du hàng ngày, biết đâu mà nhớ xuể, nhưng những khuôn mặt về già mà vẫn gày gùa thì thường ít thay đổi, không như những người béo phì. Vụt một cái, như óc mở nắp, nhớ rồi: hình như thằng Đình, cán bộ Đình.
Tôi bước tới:
- Đình phải không?
- Đình cũng nhận ra ngay được tôi.
- Bối hả?
Kể ra hai con người tóc bạc da mồi, đã tả tơi cả, vừa nhận ra nhau bơi linh cảm, còn những hoàn cảnh và trường hợp đã trải với nhau thì không thể quên. Cứ ngẫm từ cái thằng tôi, vui buồn chỉ còn lại một nõôi ngậm ngùi. Nhưng Đình thì dường như không. Lũ ăn mày trôi dạt trên vỉa hè mà đình huỳnh như giữa nhà. Đình cười khớ khớ. Lại nhận ra vẫn cái cười láu tôm bất cần từ hồi ấy. Đình trỏ tay:
- Vợ tớ kia, bà hai đấy. Bà cả mất ở huyện Sông Mã, được mỗi thằng cu mhớn này từ ở làng đem theo.
Rồi Đình hỏi tôi dồn đạp:
- Thế nào? Làm ăn ra sao? Quần áo người ngợm coi bộ phờ phạc thế? Bây giờ thống nhất Bắc Nam rồi, phải phóng tay chứ?
- Phóng cái con hươu!
- Còn đẽo cơm nhà nước hả?
- Bị đá đít đã lâu rồi.
- Thì xcx như tớ ngày ấy, lo đếch gì. Dạ dày, gan ruột tốt chứ, làm một tợp.
Tôi ngồi xuống mảnh chiếu. Ngỡ ngay mình cũng đương lang bạt như bọn nhà này. Đình nhìn quanh rồi chùi chiếc vung nhựa đựng muối, lật ngửa ra như cái phễu, rót cho tôi một vung rượu.
Lại chẳng đợi tôi hỏi, Đình kể một thôi một thốc, từ cái ngày đương ở Chuôm rồi bị bắt. Bao nhiêu chuyện rùng rợn và đau đớn mà cứ liến thoắng bô bô như chuyện ai ở đâu.
Đình chép miệng:
- Đến nước ấy thì chỉ còn chết chứ gì. Ba đời cùng đinh mà đấu lên ba đời cai tổng, ba đời mật thám. Toàn những bố láo, bố láo tất.
Tôi cười, chọc tức:
- Cũng bố láo đại khái cái trại đại đồng của mày. Tội giết người thì không có, tao biết mày, nhưng tội hủ hoá thì chắc là sẵn.
Đình cũng cười nhưng nói nghiêm:
- Không được nói bậy, tớ đã bỏ bao nhiêu công sức vào đấy.
Tôi lấy làm lạ vẻ cương quyết đột nhiên của Đình, trong khi Đình kể tiếp:
Được tha chết, nhưng chẳng còn ai nhìn nhọ đến mình, ở làng để chết đói hả, thôi thì chết ở đâu thì chết, không chết ở đát này, vợ chồng tớ với thằng cu này bồng bế nhau lên tận huyện Sông Mã giáp nước Lào. Mấy năm sau dần dần mới có các nơi người ta lên Tây Bắc phá rừng khai hoang, ít lâu thành làng xóm mới.
- Lại làng đại đồng!
Tôi nói câu vô ý ngỡ chạm vào chỗ đau. Nhưng Đình đã cười cười nhăn nhúm cả mặt, cả râu ria.
Đại đồng đã suýt toi mạng, chẳng chơi. Mà cũng chẳng ai cần đến mình, chân trắng dân đen mà. Cũng tự nhiên, cũng cái xóm cái làng, nhà nào nhà ấy như dưới xuôi. Tớ kỳ cựu ở lâu nhất, làm trưởng thôn rồi lên chủ tịch xã. Bây giờ miền núi đã cải cách đân chủ rồi cũng nhẹ nhàng thôi, làm chân chủ tịch chân chẳng rợn gáy nữa. Cả vùng Mường, vùng Thái huyện Sông Mã gọi tớ là cán bộ Đinh, chủ tịch Đinh, thành Nguyễn Văn Đinh rồi.
- Oai nhỉ, vẫn oai!
- Oai chứ. Nhưng miền núi ngoài này chó ăn đá, gà ăn sỏi, còn đâu moi ra lấy cái ăn, lại năm nào trời cũng ra tai, khi hạn hán, khi lũ ống, vợ tớ chết bị trận lũ lở núi. Đến khi nghe tin đã thống nhất, tiếng đồn trong Nam đất đai sướng lắm, làm chơi ăn thật, tớ mới cho vợ con…
- Vào Nam?
- Chưa. Mới vừa đến đây.
- Ở lại Hà nội.
- Không, dừng tàu dừng toa thôi chứ ở Hà nội đi ăn mày cũng không được. Trong người thằng Đình này vẫn sôi nửa trăm độ máu cán bộ. Tớ được cả làng trên Sông Mã góp tiền cho đi thăm luồng trước. Nếu làm ăn được thì kéo nhau vào. Tớ tạm trú ở đây để lo xin Hà nội cho cái giấy kinh tế mới đi Lâm Đồng. Có giấy tờ chắc chân mới vùng vẫy. Ái chà chà… Kể ra đất phường phố cũng dễ kiếm gạo. Mấy mẹ con nhà nó, cả hai thằng oắt tỳ kia với thằng nhớn này, với tớ, ngày ngày bới rác cũng ra gạo, ra rượu. Nhưng không, vùng kinh tế mới mới là nơi hoạt động của cán bộ Đinh.
Đức tính ấy của Đình mà tôi không có, bây giờ tôi mới nhận ra, có thể nó bắt đầu từ cái trại đại đồng khiến anh suýt ngoẻo mà tư tưởng anh vẫn đa mang. Đình đậm trò tổ chức, khoái làm cán bộ, đến già vẫn vậy thì thành tích cả đời rồi.
Tôi ngồi chịu trận giữa bãi rác nghe Đình thia lia nói những câu tự tin và quyền hành. Không hiểu sao, mỗi lại thấy ra cả đời tôi là một thằng đụt, thằng hèn, chẳng có mảy may chí khí. Sao tôi không có được cái tư tưởng thảnh thơi như nó. Cái thằng Đình suýt chết chém đến bây giờ đầu râu tóc bạc cả rồi mà vẫn cười nhăn răng, vẫn đi chạy giấy tờ, vẫn mộng lập làng mới.
Đình hỏi tôi:
- Cái Hà nội nhiều cửa quá, mày biết có cửa nào chạy được nhanh.
- Tao chỉ biết có cửa mả thôi. Mà mày không có hộ khẩu ở đây.
- Rồi xoay cũng ra thôi.
- Tao chịu.
Tôi giở giọng trốn việc. Nhưng tôi có gì, tôi bùi ngùi trạnh nghĩ thân mình cũng đang cầu bơ cầu bất. Tôi thở dài.
- Tao chẳng biết.
Hôm sau, hôm nào lò dò qua hồ tôi tránh đi về phía ấy. Nhìn xa xa, tôi thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn vẫn còn thấy phơi loi thoi những mảnh quần áo. Chiều chiều, khói bếp um lên. Ở các cây khác cũng thế, phải m lúc mới nhận ra chỗ lão Đình râu Trương Phi ngồi xếp bằng. Vẫn đương uống rượu với thằng con trai như mọi khi. Tôi lủi sang bên kia hè phố.
Nhưng rồi lại cứ tò mò nhìn sang phía ấy. M hôm tôi nhận ra những gốc bạch đàn trơ trọi, vòm lá leo reo. Không trông thấy dây phơi quần áo. Tôi đến tận nơi. Vẫn ba hòn gạch vua bếp trên đặt một ống bơ cơm đương sủi. Một người đàn bà tóc xoã sượi đương nằm đắp chiếu rên khừ khừ ngay bên cạnh. Người ốm thò tay run rẩy những mảnh giấy vụn vào bếp.
Nhà Đình đã đi rồi. Không biết Đình đi kinh tế mới hay đã đổi chỗ đến những xóm liều giữa bãi rác, kiếm nhanh hơn. Nhưng tôi đoán chắc Đình đi Lâm Đồng.
***
Thế là tôi sang thôn Chuôm thay “thằng phản động Đình”. Thôn này đã có địa chủ, địa chủ đã đi tù, yên chí anh đội. Duyên là chuỗi, tổ trưởng dân quân, Đình đã cắt đặt từ trước. Tôi vẫn không đoán được cái đêm rình thằng Đình ở cạnh đền, Duyên bẫy tôi vào lưới hay là chuyện thật thế. Đằng nào thì cũng vậy thôi.
Nhưng ông trời khoảnh ác không cho cái thằng lười tôi yên thân. Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tổ nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng. Phải soi mói cùng kiệt, không để lọt lưới. Bố mẹ nhà địa xuống âm phủ đã tám hoánh thì moi lên đấu bóng, đấu cho tăng căm thù đón ngày mít tinh xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã. Nhưng tố khổ địa chủ sống vẫn còn sôi sục hơn. Ở ngay cái sân gạch bát tràng mà xưa kia Lý thìn, đến mỗi vụ thuế hàng năm đã nọc ra đánh không biết là bao nhiêu cùng đinh chậm thuế, thiếu thuế. Đêm đêm người ta tính dổ tội. Lý Thìn cởi trần, thắt lưng lụa điều, cầm hèo, tổng cộng ngần này năm phó lý rồi lý trưởng trước khi lên làm chánh tổng đánh bao nhiêu người, hai trăm tám mươi bảy cả dần ông đàn bà, đếm được rõ ràng đén thế. Tôi buồn ngủ cứng mắt, rơi cái bút lúc đương vật vờ ghi chép. Mặc dầu, vẫn chốc lại cố cất giọng khàn khàn: “Bà con ta ai có khổ nói khổ, nông dân ta vùng lên”. Nghe gà đã eo óc gáy dồn, tôi đứng dậy, chỉ kịp nói “bế mạc”, cả đám họp đã cung cúc chạy. Vẫn chưa thoát cái vất vả nữa. Các thôn lại nháo nhác. Có hai đám tự tử, một người đâm đầu xuống giếng, một người thắt cổ. Dưới thôn Đìa- thôn trọng điểm của đội trưởng, nửa đem cháy hơn chục nóc nhà, người phải ra đồng chất đất cày như xếp ải làm vách lỗ đất hang chuột để ở tạm.
Cuộc hội ý đội sáng sớm vẫn thường ngày. Và từ tờ mờ, cái Đơm đã ra đứng đợi tôi trong bụi cây duối. Đến lúc vào họp, tôi vẫn còn thờ thẫn, nhớ lúc nãy hì hục với con Đơm.
Đội trưởng Cự đứng lên:
- Các thôn báo cáo.
Cuối bước hai thôn nào cũng dồn dập, có thôn, cả bốn địa chủ với hai phản động gian ác phá tường nhà tạm giam, trốn mất. Xóm nào cũng mất trộm gà, bốn con trâu bị giắt ra đồng bị đâm lòi ruột, kềnh đấy.
Đội trưởng Cự nói, ngay câu đầu đã gay gắt:
- Tố khổ bước một, bọn địa chủ còn nghe ngóng, bây giờ chúng nó mới mới ra mặt chống phá. Chớ quên thành tích đội ta đã giật được lá cờ đầu đánh địch nên mới được ra làm cải cách vùng đất hai trăm ngày này. Quân Pháp được rút chậm hai trăm ngày ở Hải Phòng cho nên xung quanh thành phố là cái túi đựng mọi loại phản động. Chi bộ xã này, một địa chủ cường hào gian ác đội lốt huyện uỷ viên về thành lập lúc bị tạm chiếm. Ngay khi ấy đã chi bộ hai mang, bí thư hai mang. Khi đội về, chi bộ đã có 47 đảng viên, đoàn uỷ cho ta thanh lọc đã duyệt đuổi ra 37 địa chủ, mật thám, quốc dân đảng và các thành phần linh tinh, thế mà chúng vẫn còn uy hiếp nặng nề. Tôi đã lên đoàn đề nghị xử bắn bí thư. Không thế, khí thế nông dân không lên được. Nó làm bí thư ta, lại là bí thư phản động. Tôi đã đi cải cách ba đợt, chưa lần nào gặp nhiều địch như lần này. Các đồng chí đã biết rồi, chúng nó đã chia sẵn ruộng đất trước khi đội đến. Hôm tôi vào nhà bí thư, nó khiêu khích ngay: “Ruộng đất các thôn trong xã đã được chia lại hết. mỗi chủ ruộng, mỗi người được chia đều có hỏi ý kiến của hai bên, thật công bằng. Thế là nhẹ việc cho các anh”. Có gớm không, vậy thì chúng tôi chỉ còn có việc đầu hàng giai cấp địa chủ.
Đội trưởng Cự quắc mắt từng đợt:
- Tình hình nghiêm trọng, các thôn phải tuần phòng cẩn mật suốt ngày đêm. Kế hoạch ba ngày nữa, duyệt xong hết địa chủ. Yêu cầu mỗi thôn lập hồ sơ đề nghị làm án nặng một địa chủ có tội với nông dân, có thế mới đưa được tinh thần nông dân lên.
Hôm sau, mít tinh xử bắn tên phản động đội lốt bí thư chi bộ dưới xã Đìa. tôi nhát thấy máu, lại phụ trách toà án. Nhưng tôi đã có được lý do chính đáng. Đội trưởng đã phát hiện ra bọn phản động thôn Đìa- tôi chưa tìm ra cách thoái thác trốn việc thế nào đội trưởng đã nhân phụ trách toà án vụ này và phân tôi huy động dân quân toàn xã bảo vệ mít tinh xử án.
Tháng này các chuôm ngoài bãi chỉ còn xâm xấp nước. Ngoài sông, không có một người mò hến, kéo tôm, vắng cả trẻ con lau nhau đi đổ đó. Không biết chúng nó biến đâu, chẳng thấy một mống. Chúng nó đi xem hay chúng nó sợ, trốn ở nhà. Tôi dạo quanh một vòng bãi, gặp các tổ trưởng dân quân, dăn dò mấy câu kỷ luật rồi trở về, úp quyển sổ tay lên mặt, đế cái bút báy mở nắp ngang nan chõng. Tôi định ngủ một giấc, nhưng cứ trằn trọc. Những tiếng hô khẩu hiêụ từ ngoài bãi vọng lại. Tôi vẫn lo sợ vẩn vơ về một người sắp bị bắn mà tôi cũng không biết mặt.
Đến lúc nghe đoang đoàng mấy tiếng súng, tôi bật dậy. Thế là ngoài bãi mít tinh xong rồi. Tôi hí húi thảo một kế hoạch canh gác sít sao. Làm kế hoạch thì tôi quen rồi. chỗ nào cũng để mắt tới, con chim lạ bay qua cũng phải biết. tuần các ngõ, lại lập chen vào những chốt gác bí mật. Cán bộ đội các thôn đi tuần với dân quân. Tôi chạy đi gặp đội trưởng, báo cáo kế hoạch, làm như cả buổi mít tinh tôi vẫn có mặt ở đám du kích canh gác, bảo vệ.
Hôm sau lại một người thắt cổ- một nông dân. cứ có người chết, tôi được phân công viết điếu văn. tôi có tiếng là người nhiều “văn hoá” trong đội. Chết đói, chết đuối, điếu văn đều xúc động và gợi căm thù. Hương hồn anh yên nghỉ, tên anh từ đay ghi vào lịch sử đấu tranh máu và nước mắt của nông dân xã ta… Tôi đã chép được ở đây câu ấy, cứ thế, cứ thế, chạy loăng quăng, giữa những việc lút đầu.
Tối nào tôi cũng đi tuần với tổ dân quân Duyên – kế hoạch tôi vạch ra cho dân quân cả xã cơ mà. Vả lại, mấy hôm nay mới có người thắt cổ, Duyên hốt đi quãng ấy. Bây giờ Duyên đi đâu cũng mặc áo lót cổ vuông của tôi, kể cả đêm đi tuần. Tôi lại phải dạo tôi sắp đổi đi thôn khác, tôi doạ không cùng đi tuần với nữa. Con bé vẫn nhũng nhẽo nài: anh cho em mặc ở nhà, mặc tối thôi, cái áo anh có bùa mê, anh ạ. Tôi đành chịu. Mà tôi cũng quen mũi cái mùi mồ hôi cỏ, mồ hôi bùn của Duyên. Vả lại, lũ trẻ đen tối mới cõng nhau vào nhà không lên đèn. Bố Duyên thì hai mắt lông quặm, phải kẹp tre kéo mí lên từ thuở trẻ. Họp xóm, ông ngồi thụp vào một góc, tránh ánh đèn chói, tối đi ngủ từ lúc gà lên chuồng.
Đội tuần thôn chia từng tốp đi khắp. Tay gậy, tay súng, thắt lưng giắt quả lựu đạn điếc, vòng ra tận ngoài bờ tre. quá nửa đêm tụ tập về trạm đầu xóm. Lúc ấy vãn dần. Đám con trai lỉnh đi, lùa theo những con mái nào không biết. Khoảng một giờ sáng, trở lại trạm gác chỉ còn mấy cô- tối nhụ nhoạ, chẳng rõ mặt ai, các cô ngồi đứng xoã tóc gió thổi như ma đánh đu.
Anh đội và các cô dân quân rúc cả vào túp lều sàn lát mảnh hóp đá, cái giống hóp mỏng mặt nhưng chắc và mát lưng, nửa chân cột cắm xuống mặt nước ao làng. các cô đẩy nhau mnằm cạnh tôi. Duyên quát rít lên: “Tao là tổ trưởng, tao pp xít xao với anh đội “. Rồi Duyên nhảy phắt vào, xô cả tôi dạt sang bên. Duyên nằm xóng xoài ra gối cái báng súng trường lên đầu, làm như ngủ luôn. Không cô nào chen, tỵ nạnh nữa.
Chúng họ xoay sang nói kháy, trêu chọc nhau.
- Mai kia mày vác anh đội phó về Thanh Hà quê chồng mày à?
- Tao để lại cho chúng mày đấy.
- Thanh Hà chẳng đói như ở đây đâu, anh Bối cứ về. Có nước cáy lại đến mùa rươi…
- Bắt rươi vất bỏ mẹ!
- Được lấy một lúc hai chồng, sướng quên chết rồi.
- Cứ doạ làm anh ấy ghê. Anh Bối ạ, chẳng đâu bằng ở đất này, tháng ba ngày tám thì gày giơ xương sườn, teo vú một tý, chứ đến ngày mùa hốc hai ba bữa cật lực thì lại tròn như con cun cút. Béo nẫn ra ấy chứ. Anh đi với cái Duyên xuống Thanh Hà hay anh ở đay với chúng em.?
Duyên quát:
- Tao sắp về Hà nội đây.
Rồi rúc mặt vào lưng tôi, cười rinh rích.
Canh khuya, tiếng thở dài thườn thượt khao khát, tiếng cù nhau cười như chuột rúc, tiếng nước bọt nhổ bèn bẹt xuống mặt ao như cá đớp. Chỉ một lát đã chập chờn. Duyên nằm đè lên tôi quẫy huỳnh huỵch, chẳng ra ngủ mê, chẳng ra thức. Tôi thấp thỏm ngạu tiếng rin rít mảnh giát hóp đương lung lay, khéo đổ cái sàn mất. Duyên rên u ử như con chó mê ngủ rồi lăn ra. Những hơi thở nồng nàn hai bên lay tôi tỉnh lại. Nhớ những cuộc tuần đêm khi còn ở trong Nông Cống. Hệt thế này. Sao những lúc mơ màng ngái ngủ thì người ta giống nhau thế. ăn nằm với nhau hẳn hoi mà như ngủ mê. Tiếng thở lẫ tiếng ngáy rờn rờn nâng cổ tôi dậy, tôi bò sang. Chốc chốc, sàn lều rập rình như thuyền. Chỗ góc ao này chắc lầy lội, con chẳng chuộc, con chẫu chàng càng khua càng uôm oạp inh tai, át cả tiếng kẽo kẹt mắt nứa, mặt hóp lẫn lộn vào đấy. Tôi lần lần… Thì ra chưa cô nào ngủ cả. Các cô nghiến răng níu áo tôi lại. Nhưng tôi như con lươn luồn đi, chẳng bao lâu lại rúc về chỗ Duyên.
Tôi như con trâu con bò, không ra sợ không ra liều. Những điều về công tác, về kỷ luật viết trên giấy trong lịch ngày, lịch tuần, lịch bước, lịch đợt. Tôi không hiểu, tôi không muốn hiểu, lỳ. Duyên nói tỉnh khô: “Anh mà ngủ với em khi ngày mùa ấy à, như nằm đệm bông. Bây giờ thiếu ăn hóp cả người thì em phải giũ, chứ cái bánh xương chè của em mà đâm lên thì anh gãy mạng sườn mất”. Đói mà còn khoẻ thế.
Nhớ lại cái quang cảnh hôm chợ huyện. Chúng tôi húc đầu vào hàng bánh đúc thì xung quanh mênh mông đói khát. Trong chợ, những cẳng tay cẳng chân đi lại như những cành que. Một người đàn bà ở đâu đến ngồi xệp xuống, bồng đứa con gái nhỏ trên tay. Thằng con trai khoảng bốn năm tuổi mặt già cấc bò bên chân. Mỗi lần người mẹ giơ đứa bé cho người hỏi mua, đứa anh lại oà lên khóc. Người mẹ mếu máo: “Nó khóc quá, tôi không dám cho”, chốc chốc lại nói lại câu ấy. Một bà nói: “Để tôi đi mua cái kẹo nhử thằng bé thì nó mới nhẫng em nó được”. Người đàn bà vỗ vỗ lưng con, lặng im. Xung quanh đổ đến mỗi lúc một đông. Cái người tần ngần đứng hỏi mua trẻ con, người ấy cụt một tay. Có người đòi xem thẻ thương binh của anh ta. Tiếng ai kê u lên: “Ơi giời ơi, cái lúc lung tung này, thằng Ngô Đình Diệm ở trong Nam cho người đi mua trẻ con rồi ném vào bụi, đổ cho ta giết. Đã tìn ra khối đấy. Phải cẩn thận cái thằng địch đồng bào ạ. Mấy người cho mẹ con nhà nọ cái bánh đúc ngô. Hai đứa trẻ nhai nhỏm nhẻm. Người cụt tay hỏi mua trẻ đã bỏ đi từ lúc nào.
Giấc ngủ mê mệt của tôi rối loạn những chuyện đói: Hết cả hơi, tôi cũng đương đói bụng dốc bụng. Tiếng vành bánh xe bò người kéo lộc cộc, các làng đi chợ sớm đã lẹt quẹt gồng gánh ngoài kia. Tôi uể oải mở mắt. Các cô dân quân đã đi hết, chỉ còn mf tôi nằm trơ giữa cái lều. Tôi lồm cồm, vơ cái xắc cốt, đứng dậy vươn vai, oằn lưng bẻ khục răng rắc mấy cái rồi về xóm Am hội ý đội… Tôi tránh qua chỗ bụi cây duối, sợ cái Đơm ngồi rình trong ấy. Tôi bước nhấp nhô trên cánh đồng cày ải, đất xám bàng bạc. Đổ ải những guồng nước kĩu kịt, người tát nước nhịp đôi, nhịp ba, nhịp bốn lên đồng cao. Chỉ mấy hôm nữa, đất ngấm nước tươi màu dần, đường bừa ào qua váng nước trắng mặt ruộng. Mạ đx đến tuổi, nhưng chưa biết thế nào. Năm nay chạy đói mới cấy cưỡng, đồng đất vùng này vốn chỉ ăn được một vụ mùa.
Vào họp, đội trưởng Cự tuyên bố:
- Thảo luận công tác thôn Am, thôn Chuôm.
Thường lệ, các xóm “mọi việc đều tốt”, cả cái hồi tôi bối rối ở bên Am, chưa mò ra địa chủ, tôi cũng “thưa các đồng chí… tôi đương lên phương án”. Ai nấy hí hoáy sổ tay, tôi tẩn mẩn vòng móc xích những chữ o liền nhau. Mới sáng mà mắt tôi mờ như quáng gà, tôi ngủ gật, ngòi bút rụi xuống xuống giấy, nhoét mực. Nhọc quá, từ đêm chưa được một hột vào bụng.
Nghe tiếng “thôn Am… thôn Chuôm…” mắt tôi bỗng ráo hoảnh, cơn ngủ biến mất, tôi ngẩn người nghe đội trưởng nói:
- Về tình hình thôn Am trước. Khuyết điểm, đồng chí Bối sẽ kiểm điểm sau về việc hai tuần lễ không phát hiện ra địa chủ. Tôi về thay, tôi đọc tài liệu rồi để nửa buổi thăm nghèo hỏi khổ đã lòi ngay ra một thằng địa, đem hồ sơ lên Đoàn được duyệt tức khắc. Suýt nữa con cá chuối lọt lưới. Cái thằng Tư nhỡ lù lù đấy chứ đâu. Thằng ấy bảo là học trò trên huyện, về chân lấm tay bùn đã lâu, nói láo. Cái cây tre buộc sợi thép lủng lẳng nó bảo là hộp galen để nghe tin tức của đài ta, đồng chí Bối tin thế hả? Không, tôi ở quân đội tôi biết, nó là cái bắt tin, đánh tin đấy. Thằng Tây đã cho nó lặn lại thì phải cho nó thông tin liên lạc. Mà rõ ràng đấy, cửa nhà nó có cái bảng đề chữ Tây treo to bằng cái hoành phi sơn son thiếp vàng trên bàn thờ bố nó. Rễ chuỗi đã lôi nó ra đấu một đêm, nó gục. Địa chủ Tư Nhỡ đã phải ký biên bản nhận tội tay sai phản động rồi. Tôi đã cho dân quân gác không cho nó ra khỏi cửa, đọi lệnh của đoàn. Còn sang đến mục không có lao động, thì nhà Tư Nhỡ đã thuê người từ cấy hái đến đánh cây rơm. Người làn nhà nó đã tố hết. Bây giờ nói về rễ chuỗi thôn Am, anh Diệc vốn là cố nông, đồng chí Bối đã bắt rễ đúng. Nhưng khuyết điểm là anh Diệc không được bồi dưỡng, chuỗi rễ là cô Đơm con anh Diệc cũng chỉ có tên thế thôi, rễ và chuỗi đều chưa có tác dụng. Địa chủ Thìn thật độc ác, vợ anh Diệc què gẫy mù loà thế mà địa chủ Thìn bắt anh Diệc lấy rồi lại phải cày cấy trả nợ. tôi đã chỉ định đồng chí Diệc làm trưởng thôn, đồng chí đơm làm tôt trưởng dân quân. tôi sẽ phát động đồng chí Diệc, đồng chí Đơm lên ngang mặt đấu địa chủ Thìn hôm toà án xử.
Tội ác địa chủ Thìn thì tôi đã nghe bác Diệc và thằng Vách kể, họp đội tôi vẫn báo cáo, nhưng đến lúc đội trưởng Cự nói thì những việc đội trưởng vừa phát hiện mới đúng. Không hiểu sao, nghe Cự nói tôi lại nghĩ rồi một chuyện nhảm khác: thằng này đã ngủ với con Đởm. Tôi càng đinh ninh thế khi cách đây mấy hôm độị trưởng Cự đưa vợ ở Đìa lên chào đội, nói vợ đồng chí sắp đi công tác. Cô “rễ” ấy đã được Cự lên đoàn uỷ xin cho đi thoát ly. Cô bé ngơ ngác hôm nào, đã thành người cán bộ áo nâu quần thâm mới, vai đeo túi vải kaki, nhanh nhẹn hoạt bát. Cái ám ảnh mấy đợt cải cách đội trưởng đã chế tạo ra không biết mấy cái rễ vợ như thế lại lẩn quẩn trong tôi. Vợ mà đi công tác thì cái thằng “Nguyễn Bổn” ấy lại ngủ ngay với người khác thôi. Cái thằng mắt lúc nào cũng đỏ cá chày thế kia chịu sao được tối nằm không. Ờ mà mấy sớm nay không thấy đơm đón đường kéo tôi vào bụi duối. Mọi khi Đơm vẫn liều lĩnh như con cún đói ngồi rình chụp mồi trong but. Đơm núp trong ấy từ lúc chưa tỏ mặt người. Có hôm, tôi chui được ra thì áo toác chỉ lung tung, một bên má bị cắn rớ m máu. Đến họp đội, tôi nói bịa vô ý đâm vào cái cọc chạn bát.
Mà Cự đã phân công anh đội khác về Đìa. Cự đã lên ở nhà bác Diệc, văn phòng đội, họp đội cũng lên đây. Tôi mang máng đoán ra. Tôi chẳng ghen tức nỗi gì, tôi chỉ phân tích ra thế. Đi họp, tôi chi nghĩ quanh quẩn vẩn vơ.
Nhưng vài hôm không gần gũi Đơm cũng lại nổi cơn thèm. Cái ngây ngô của Đơm đáng yêu làm cho mình có cái đàn ông hơn trước những thành thạo ngỗ ngược của Duyên. Trời đương mua lăn phăn. Tôi vác cái cào như đi đánh cỏ, tôi loạng quạng ra đồng. Xem ngỡ may có gặp Đơm. Cánh đồng và gò đồng xa vang trong mưa mù. Nghe tiếng cả bước chân người rào rạo trên cỏ. Giá ban ngay nắng ráo mà được lăn lộn ở đây, vật nhau có rống lên như bò cũng không có đứa nào nghe tiếng. Đương nghĩ thích thú, thấy bóng người trong bịi mưa đi tới. Tôi ngỡ là đội trưởng Cự. Cự thật, Trong trước thấy cái sắc cốt thâm xì nước mưa
- Bội đấy a! Làm gì thế?
- Tôi đi cào cỏ
- Thôi, về đã! Có việc quan trọng. Nghe hai tiếng quan trọng, tôi đã thấy đắng miệng. Tự dưng nghĩ ngay đến cái lúc Cự thì thào thằng Đình bị trói nửa đêm đem di.
Tôi bước theo Cự, chẳng nói chẳng rằng. Cự cũng im. Tôi càng rờn rợn. Vào nhà bác Diệc đã thấy cả hơn mười anh đội các thôn về ngồi đây.
Đội trưởng Cự đứng dưới mái tranh, cất tiếng như hô khẩu hiệu:
- Báo cáo các đồng chí, trên đã duyệt án tử hình địa chủ Thìn.
Những người ngồi quanh vỗ tay độp độp như đập mẹt, tôi còn tìm chỗ gác cái cào cỏ và chưa hết cơn hốt hoảng vừa rồi, chưa hiểu thế nào, đến lúc nghe thấy thế lại sợ tiếp. Địa chủ Thìn xóm Chuôm, lại bậnn bịu lôi thôi đến tôi rồi. Chỗ giam lão ta cũng tại ngay nhà lão, tôi thường đi qua kiểm soát dân quân canh gác. Một lão già tám mươi tuổi heo hắt như cái dây khoai, mắt thong manh mù dở, khoèo chân không duỗi ra được. Chẳng có ăn thì cũng chi dăm hôm nữa  lão ngoẻo thôi.
- Tôi phân công đồng chí Bội đội phó phụ trách toà án chịu trách nhiệm hôm tổ chức xử địa chủ Thìn. Các thôn khác huy động triệt để quần chúng đi dự.
Lần nay, tôi không thể lùi đi, đổ việc cho ai. Thế là, cũng đột nhiên tôi cứng cáp, nhanh nhảu, phát biểu và ghi chep nhoay nhoáy nhanh như máy.
Tôi ra họp tổ dân quân. Bọn con gái vừa trông thấy tôi, đã nói to như mách nước cho tôi biết phải theo thế: “Các đồng chí nam vào bắt thằng tù. Chúng em đứng ngoài canh gác. Cả tổ trưởng Duyên cũng vào hùa với chúng nó và tôi đã cắt đặt theo như thế. Sớm hôm sau, bốn người đeo súng trường vào chỗ giam địa chủ Thìn. Người nào cũng hăng hái, sững sờ khác thường như vừa có chén rượu. Tôi đứng giữa nhà, nhìn bao quát. Hai người mở chốt cũi. Đũng quần lão già đầy kẹp cứt, cả gian âm u ẩm ướt thối không chịu được. Mấy người nhà xúm lại khóc rưng rức, đỡ lão Thìn.
Tôi hét:
- Cút ra đằng kia!
Một dân quân vào bếp lấy ra cái đòn ống. Trưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét đã đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê: “Để cho mày khỏi vướng rồi Coi xỏ fay vào mặc áo luôn. Lão tự bị buộc tay buộc chân, hai người khoác súng xỏ đòn ống, khiêng boông beêng đi. Cái lưng áo dạ với hai vai nhấp nhô của Côi, tôi ngờ đây là lão Thìn đã lộn kiếp, nhập sang người thằng kia.
Bãi mít tinh đông nghịt người. Giữa đám, lại những túm là móc diều, những tàu dừa kết thành mm hàng rào xanh trang trí sau bàn toà án.
Cuộc đấu lên nổ liên tiếp, khi địa chủ Thìn vừa được đặt xuống ngồi tựa vào cái cọc. Người chạy lên chạy xuống, tới tấp.
- Mày có biết tao là ai không?
Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:
- Thưa bà nông dân… tôi không biết…
- Tao đi ở cho cháu mày.
- Thế thì tôi không biết thật ạ.
- Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ!
Rồi hớt hải chạy xuống giữa tiếng đả đảo cuồn cuộn trong đám người.
Cái bãi lau chen chúc lôi thôi, đần nước trắng đằng cuối. Những con chim hét đen tuyền, những đàn cò trắng không dám đậu xuống, lượn quanh trên trời với mấy con diều hầu. Thường ngày, trẻ con chăn bò trên bờ cỏ lác đằng kia. Cái sa chắn cá trong hõm xâu vào lạch ruộng, xưa kia đây chỉ toàn bãi rậm. Xa xa, dưới bồng gò đất chơ vơ giữa đồng, những xóm mới, xóm trại nhích lại dần. Tôi vẫn hay đi qua đây, sáng chiều nước ánh lên bóng người tha thui ngoài sông ngoài đồng về lúc chặp tối, đã bao nhiêu đời buồn bã thế.
Lát nữa lão Thìn sẽ chết ở cái bãi mà mới năm trước, lão thuê cả lính bốt, hương dũng đốt cỏ lác cày vỡ hoang.
Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi đồng văn tự, giấy tờ, sổ sách chữ Tây chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói urn lên, tàn than lả tả bay như đàn bướm đen. Những tiếng quát xô lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi! Bắt nó đứng! Bắt nó… Địa chủ Thìn bị xốc lên, trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẵn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái quần đã tụt võng hẳn xuống hai đốt chân bằng cái ống nứa.
Tôi ở ghế chủ toạ đứng lên đọc một bản cáo trạng tội ác lão Thìn. Nhà nó đã mấy đời bóc lột, càng ngày càng giầu, càng ác. Nó thu thoc ta cho Phap, cho Nhật, khi kháng chiến đội lốt làm chủ tịch xã, dến hồi Tây về nó ra làm tổng uỷ - nó là con chó săn của hai, ba đế quốc. Con gái nó đui què, câm điếc, nó bắt nông dân phải lấy, rồi lại phải phải cấy rẽ giả nợ… Đả đảo địa chủ, cường hào ác bá…
Giữa những tiếng láo nháo hô đả đảo, bác Diệc run run bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng ngang. Đơm khoác súng đứng hàng đầu. Duyên thắt lưng, đeo lựu đạn, vẻ quắc thước quân sự. Đôi lúc, Duyên mặt đỏ hây, cặp mắt nhìn xuống hai đâu vú đương cương cong tớn. Thấy thế, tôi mới nhớ vẫn Duyên ấy. Đơm thì nước mắt ròng ròng nhìn lên tôi. Có phải những giọt nước mắt nói: ông em ngay trước đây.
Bác Diệc chỉ tay vào địa chủ Thìn:
- Tao thù mày! Tao thù…
Rồi khóc rong lên, chạy xuống. Đội trưởng Cự Cự xô ngay ra trước loa, quát to:
- Hôm nay là ngày thắng lợi của giai cấp nông dân chúng ta, cấm không ai được khóc.
Ở đám các làng ngồi chen chúc, một bà lão gày rạc, da mặt đọng từng vũng nhăn nhúm. Bà lão nói choang choác: “Đận đói năm trước, nhà tôi một tháng chết mất ba người. Đến đận này ruộng kiệt nước, đói dài hai năm mà không ai chết. May được bộ đội về đây giồng rau muống, rau lang an trợ thời. Cái khi thằng Thìn làm phó lý, chồng tôi chậm thuế thân, thằng Thìn cho tuần vào bắt cái nồi tư, tôi đương kéo vó bè, nó rỡ cả vó. Nhờ các ông các ba lên kê khổ hộ tôi.
Lại nghe loác choác, bô bô tiếng lão Côi điếc:
- Bố thằng Tư Nhỡ làm hương kiểm, một đêm, nó sai tôi đi úp trộm cá ngoài ao làng. Khán thủ bắt được trói đánh đau quá, tôi phun ra hương kiểm sai. Khán thủ cũng phải sợ thế lực hương kiểm, nhưng từ bấy giờ hương kiểm thù tôi làm nó bẽ mat, cứ gặp tôi đâu là đánh. Một đêm có lệnh canh đê trên phủ từ về gấp. Khán thủ cho tôi đem giấy vào hương kiểm. Hương kiểm nhà giầu sợ cướp đã có hiệu trước, không cho tuần đinh gọi cửa đêm, hễ có việc quân chỉ được đứng ngoài thổi tù và gọi. Tôi đứng bờ ao, rúc từ và từ nửa đêm đến gà gáy sáng, phồng rát cả hai má, long oc, ret run cầm cập vẫn không thấy ai ở nhà hương kiểm ra. Sau trong xóm nghe tù và điếcc tai quá, phải chạy vào gọi hộ. Hương kiểm vác hèo ra njt: “Sao mày không thổi giục chứ thổi như đi tuần thế thì bố mày càng không biết. “Rồi quật tôi ba hèo bắn máu đít. Tôi đã ghi cả vào óc rồi. Cha làm con chịu, cái thằng từ Nhỡ bây giờ phải đền tội cho thằng bố, thằng cụ, thằng kỵ nhà nó.
Một người nói:
- Hôm nay mới đấu thằng Thìn, chưa đến lượt tư Nhỡ.
- Ấy chết, tôi cứ tưởng hôm nay đến thằng tư Nhỡ?
Chẳng ai trả lời lão điếc lại say rượu. Không biết có phải vì cái khổ đã đau đớnlắm rồi, lại nghe nhiều rồi, chẳng mấy người muốn nói nữa. Một lát, cái bà lão lúc nãy lại hỏi: “Nó lắm vợ quá, năm vợ, mười bốn con, đã ai lên đấu nó cái tôi bóc lột ấy chưa?” Cũng không ai trả lời cau hoii ngu ngơ. Một người dáng như tổ trưởng, xách cái gậy lảng vảng đến. “Đây không phải cái chợ. Ai xì xào nữa người ta cắt lưỡi đấy.
Cả nghìn con người lại im như tờ. Khi một loạt tiếng súng toả khói xanh um lên, đám đông ở dưới đẩy nhau chạy. Ai cũng khiếp tiếng nó. Người hãi máu, bịt mắt lại. Người nhốn nháo ra các ngả. Tiếng trống cả rung của đội thiếu nhi nói lên khua rầm rầm, vang vạng. thế là địa chủ Thìn chết, chết trước khi phục, chẳng biết địa chủ mà bị xử chậm lại gặp đội sửa sai thì có được tha không, nhưng dẫu có may mắn thế, chắc lão cũng ốm chết trước đấy lâu rồi.
Thế mà ngay tôi ấy lại có họp - một tổ cán bộ đoàn uỷ xuống huyện vận động sản xuất và hô hào đóng thuế nông nghiệp. Việc hoả tốc phải quán triệt ý nghĩa quan trọng vụ mùa tới và định mức thuế tạm thu. Mọi đêm, cuộc họp nào cũng chật cứng ra cả ngoài sân đền. Tối nay mỗi xóm có tổ vài người gom lại. Hơn mấy chục đầu lố nhố, đi mít tinh cả ngay lại xem bắn người, khiếp quá chưa lại sức, hay tan tác đâu chưa hoàn hồn về, hay sợ lại phải họp oqr gần cái bãi tha ma ban trưa, người ta hốt hoá ỳ ra. Những việc cấp bách không thể hoãn, tối mai tổ cán bộ huyện đã sang làng khác.
Cuộc họp lèo tèo mà vẫn hỗn dộn triền miên như mọi khi. Một cán bộ đọc to thư của liên khu kêu gọi đóng thuế nông nghiệp, sau phổ biến bốn câu hỏi để lần lượt thảo luận. Vài người - có những người đã thành thói quen ở cuộc họp nào cũng hay nói, nói nhiều, đã quen mặt và nhàm tai, cả đám người khác rúc đầu vào canh tay, làm con vịt ngủ.
Rồi cán bộ trịnh trọng phổ biến mức thuế của xã cho xóm: vụ này tạm thu năm tấn. Cán bộ xoè hai bàn tay làm loa nói to kêu gọi mọi người thi đua đóng thuế. Hai tổ trưởng nông hội ngủ từ lúc nào, có người đằng sau đẩy vào đít, bật dậy, ú ớ giơ tay:
- Tôi thi đua!
- Tôi, tôi nữa!
- Đề nghị cho tổ tôi…
Lại một người kêu to:
- Đồng ý, đồng ý.
Ai cũng hô theo: đồng ý…
Vẫn chưa họp xong. Con việc bình cho một nông dân lên huyện học bảy ngày để về làm công tác vệ sinh viên. Có người nói:
- Còn có cụ Cối rỗi việc, lại thành phần rễ chuỗi, cho cụ ấy đi học vệ sinh viên.
Một người ghé tai cụ Cối, hét lại thế. Cụ Cối cười: “Cấp tiền cho tôi thì tôi đi ngay” - rồi cười giơ hàm răng móm, lão già tai lành tai điếc mà khôn lòi tù và. Cả làng au rau muống khô cứu đói lại đòi người ta đóng tiền cho lên huyện ăn cơm.
Cán bộ cả tiếng hô hào tương thân tương ái, ủng hộ người đi học vệ sinh là tiến lên văn hoá mới. Chẳng ai để tai. Nghe tiếng lão Cối ngáp to: “Gà gáy rồi, giải tán thôi, có gì mai họp nốt. Mới người ù té về. Cũng chưa ngã ngũ ai lên huyện bảy ngày học vệ sinh viên.
Tôi mệt bã người. Vẫn còn ám ảnh mùi máu, mùi hôi thối bắn ngay. Cổ khan lại, tôi bỏ không nuốt được bát rau muống khô của lão Cối để phần. Vùng này đương vào vụ giáp hạt, nhà nào cũng cơm lẫn cám, với rau lang, rau muống khô trộn muối. Thế mà lại kêu gọi sản xuất, trong khi cây mạ vàng óng mới cắm xuống ruộng, chưa biết thế nào. Lại còn sắp sẵn thuế tạm thu, bổ đầu từng xóm. Tôi không hiểu ra sao, lại nghĩ bài bây ra sao thi ra. “Cũng như trong buổi họp, bảo thi đua, người ta giơ tay thi đua bạt mạng. Duyên vẫn cầm tiền của tôi, thấy tôi không ăn cơm được thì mai lại lên chợ mua bánh đúc ngô, cái ngô nướng, chiếc bánh khoai, đem về cho tôi ăn vụng như cái Đơm mấy hôm trước vẫn đi mua thế.
Tôi lăn vào giường góc nhà nằm gối đầu lên cái túi. Bụng đói cồn cào rỗng không. Những việc bắn ngay dữ dội, việc bắn tối hội họp đến kiệt cùng kẻ ra cũng đã quen qua mấy đợt, chỉ mệt mệt rũ. Chắc Duyên đã đi canh gác. Tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Mơ màng như có còn mối hay còn chuột đụng vào chân. Tôi mở mắt, quờ lên cái túi. Không biết đã khuya thế nào, ngoài sân tối om. Trong lô thủng trên mái lá nhà dột, nhấp nhánh ánh sao như những còn đom đóm bay. Sau trận mưa rào cuối mùa còn sót lại, ngoài chuôm, ễnh ương đối đáp nhau inh tai. Thình lình tôi nhìn có bóng người lù lù trước mắt. Nhưng không phải Duyên. Là Duyên thì đã đi xộc vào, không lom khom ngồi xổm thế. Hay là ma, ma lão Thìn, hay là, thằng Cối mặc cái áo vét đến bị hồn địa chủ nhập vào ma đương về trêu tôi.
Tiếng thì thào:
- Anh Bối! Anh Bối ơi!
- Hừ!
- Em là Nhỡ, tư Nhỡ đây. Anh sang đây, anh bỏ em rồi. Ern sắp phải chết bắn như địa chủ Thìn a?
Tôi ngồi dậy, nguôi cơn hốt. Cái thằng tư Nhỡ bên xóm Am. Nó bị câu lưu tại nhà rồi mà. Chắc nó leo tường lội tắt ao sang đây, quần áo ướt sột soạt. Tôi rít khe khẽ trong bóng tối:
- Cút ngay! Bỏ mẹ cả lũ bây giờ! Cút!
- Anh bắn em thật ư?
Tư Nhỏ lại lắp bắp. Bỗng có tiếng lên đạn lạch xạch khô khốc lạnh rợn ngay sau lưng. Tổ trưởng dân quân Duyên hiện ra, thúc mũi súng vào cái bóng ngồi dưới đất.
- Bước! Cho ăn một phát đạn này.
Cái bóng rúm lại, chạy ra, tan vào sương đêm. Duyên cất súng trong xó, lôi ngay tôi xuống đất. Đàn bà, đàn ông ở đây ăn nằm đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được. Tôi thấy hợp với tính tôi. Mặt đất đóng hạt trám lổn nhổn mát lạnh như lát gạch mà tôi không cảm thấy. Gian bên, lão Cối ngay pho pho lẫn tiếng nghiến răng, tiếng mê ngủ những đứa trẻ đạp nhau.
Duyên dúi vào tay tôi, chiéc bánh dầy nhân đậu.
- Chiều nay nhịn cơm a?
- ăn sợ mửa, còn tanh quá.
Duyên đút bánh vào miệng tôi, rồi đưa cắn một nửa, vừa nhai vừa lè đổi cho nhau ăn chung, giữa những cấu lào thào rì rấm.
- Anh chết nhé, liên quan rồi, đêm địa chủ mò tới, dân quân bắt được.
- Nó dẫn xác đến chứ.
Duyên lại đe câu khác:
- Từ giờ cấm không được đi tuần đêm.
- Sao?
- Sao trên giời, sao ở ngoài lều canh ấy. Cứ ư ử như chó lẹo nhau bên cạnh người ta, điếc cả tai. Nói cho mà biết, bận sau thì con nay thiến đấy.
Tôi hãi cứng đơ cả hàm, không nuốt nổi miếng bánh. Duyên lại nói rành rọt.
- Vài thưa che mắt thánh a? Lại cái con Đơm ở bụi duối. Cắn cho một cái đứt lưỡi chết tươi này. Chừa chưa?
- Chừa rồi.
- Thật không?
- Thật.
- Thế đi…
Tôi chưa kịpíu ớ đã bị Duyên vật bằng mấy thằng đàn ông lăn ra. Cái mệt thật êm đềm. Lại kể đàn bà con gái vùng này rõ thật ngỗ ngược, lên cơn cứ rằn ngửa người ta ra, khiếp quá. Đói toát mồ hôi lạnh thì càng dữ.
Khuya khuya, Duyên thủ thỉ:
- Em sắp được kết nạp, có phải không?
- Không biết.
- Cả bố em nữa.
- Không biết thật mà.
- Kết nạp em, anh phải đứng tuyên bố.
- Đã bảo không biết thật mà.
- Cái lão đội trưởng mắt cá ngão đỏ ngầu, trông đã thấy gớm. Anh không tuyên bố cho em thì em đét vào đâu.
Rồi hai cái môi Duyên lại nóng rực lên. Tôi không kịp nói tôi chưa phải đảng viên. Tôi nghĩ thế thôi, chứ cũng không ở đâu tôi nói vậy. Không phải đảng viên mà tôi đã mấy đợt tổ chức kết nạp cả chục rễ chuỗi vào đảng. Không biết trên có biết không, chẳng có ý kiến gì cả. Tôi làm việc kết nạp đảng cho rễ chuỗi cũng như đi họp, đi làm đồng.
Tôi cũng có ý đợi xem việc kết nạp Duyên thế nào, có thật không, nhưng đội trưởng Cự chưa nói, rồi công việc lôi cuốn, vả lại, còn đương đói vàng mắt, chắc hãy khoan. Tháng ba ngày tám dần dần lắm nhà thiếu quá. Mấy xã trên, nhiều cốt cán rạc người, thiếu sức, có mấy nơi người chết lăn ra ở những cuộc đấu địa chủ suốt đêm. Hàng ngày quen mat, nhưng tôi cũng hốc hác, nhìn lại cả thôn nay cũng đói vêu vao cả rồi. Tôi để ý cái xương bánh chè hai bên hông Duyên trồi lên thật, mỗi khi ấy Duyên cứ phải co bụng lại cho tôi đỡ đau. Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt, đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những cái bóng. Có ai vừa nói vừa khóc: biết còn sống được mà đấu tranh, mà trông thấy hạt lúa không.
Một xóm nổi bệnh tả. Mấy ngày thôi mà chết mất mười người. Đoàn uỷ có lệnh cho ngừng công tác cải cách. Yêu cầu các đội cùng nhân dân phòng bệnh, cứu đói. Ở trên cho về mấy xe vôi bột rắc khắp xóm, trắng lốp như chỗ nào cũng có đám ma. Cũng chẳng biết làm thế nào, ai chết thì chết thôi. Tôi cho người xuống thôn Đìa quẩy thêm mấy gánh dây rau muống. Cái mảnh ruộng cao quanh chân tre đất rắn như sỏi được cuốc ngay lên trồng rau muống vườn. Lại gây dây mồng tơi, chỗ nào cũng cấy rau sam, rau dền cơm, dền đất, mặt ao thì thả rau rệu – những rau có ấy chỉ nửa tháng đã được, người ăn như con dê nhai lá.
Cả xóm quảy nước, xách nước tưới những vạt ruộng còi cọc, phờ phạc.

Chương 3 (a)

Dai dẳng, ngắc ngoải, thoi thóp, rồi nạn đói cũng qua.


Buổi chiều không còn rào rạc gió ngoài đồng mùa hạ. Mây trắng lờ đờ từng tảng vần vũ trong nắng nhạt. Mấy chân lúa ba giăng đã lác đác được gặt. Lúa một vụ, mùa trên đồng cao, chiêm dưới đồng trũng với vài miếng ba giăng hiếm hoi. Lúa của nhà ai, nhưng mà thế đã trông thấy sống người rồi. Tiếng liềm cắt xoèn xoẹt và tiếng cười phảng phất ở đâu. Trẻ con từng đám ra chân ruộng đã quang nhấc gốc ra tìm cua, bắt chuột.
Những tôi vẫn chưa nguôi cơn hốt hôm xử băn địa chủ Thìn. Tôi là đội phó phụ trách toà án cho nên cái sợ ấy có lẽ chỉ tôi biết thôi. Không thể biết tại sao đợt trước tôi lại được thăng chức đội phó. Có le tôi biết làm biên bản và tính toán. Phải đâu tôi thạo con số mà làm được toà án. Thật tôi cũng đoánmò. May gặp cái tính hiếu thắng của đội trưởng Cự, đội trưởng nay nhảy ra làm thay tôi ngay giữa mít tinh xử toà án. Có khi Cự làm luôn, tôi khỏi phải tìm cớ lờ, cứ ngồi nguyên.
Sang bước chia ruộng đất, lên phương án xong phải ra đồng lãnh đạo cắm thẻ nhận ruộng. Ôi chao, lại đấu tranh, lại trở lại tính nợ địa chủ, nợ quỵt công, nợ lừa đảo, nợ tội ác, trăm thứ nợ chẳng biết đằng mù nào. Mà phải có những con số cụ thể mới khỏi lọt lưới, mới chia ruộng được. Nhưng tôi thường nghĩ ra những con số tam toạng, số liều. Không thế không xong, mà thế cũng được. Bởi cả đội không ai biết, mà họp thôn, họp tổ nông hội thì chẳng ai dám nói khác anh đội - “Thông qua được chứ?”, thế là giơ tay, giơ tay khắp lượt. Cải cách ruộng đất ở đâu cũng đồng loạt có năm đợt, tôi đã được đi ba đợt mà tôi ra cánh đồng vẫn như nhìn vào bức vách. Chỉ thuộc cái tên, tôi không áng chừng thế nào một miếng, một sào, đồng cao đồng sâu, đợt đầu còn chưa trong rõ cay lau, cay ngô, cây mía. Đội trưởng Cự thì không can mở sổ tay, cứ đọc vanh vách. Tôi khen nịnh, đội trưởng Cự nói tớ là con nhà bần cố, mấy đời thèm ruộng như mèo thấy miệng thịt, mà trong nam ngoài bắc, cả trên thế giới đâu chẳng là ruộng cấy lúa, làm gì không nhớ. Lão nói thế, tôi giời ơi đất hỡi, tôi sao dịu nỗi lo được.
Những tôi khéo lựa, tôi láu cá, chịu khó để ý cho nên ở đội có lẽ chẳng ai biết thực hư tôi giỏi hay dốt thế nào, không ai biết tôi cũng chỉ như một anh ở đội nào đã bị đăng lên bài báo chế diễu: đến bước chia ruộng, chia quả thực, nông hội cái nhau mấy đêm không xong, anh đội chắp tay quỳ xuống giữa cuộc họp: “Em lạy đội, em lạy các ông các bà nông dân, thế này thì em xin về, em chịu không làm được”. Không, tôi đàng hoàng, không bấn đến thế.
Bấn nhất những lúc loạn xạ chồng chéo việc. Vạch thành phần xong rồi, có người được mọi người giơ tay biểu quyết cho làm trung nông, cả tổ nông hội còn ngồi đấy, chẳng đợi điểm danh lần lượt đến, đã hớn hở chạy xuống bãi giắt con bò bị tịch thu hôm ioj về. Vừa đi lại vừa kêu: “Tôi là bần nông, tôi là bần nông mới đúng”. Mấy người được làm trung nông líu ríu chuyện. Cái thằng chủ tịch bây giờ thành thằng phản động ấy tao đốt nhà mày rồi đếm hết hạt bụi gio cũng chưa cạn tội. Mới năm kia, tôi thiếu thuế, nó bắt mất con bò, lại còn cho du kích đến khuân đi cái tủ, còn cái vại nữa. Tôi phải tìm cho ra những thứ ấy. Tôi chẳng thèm quả thực của đứa nào, tôi chỉ đòi của nhà tôi.
Tịch thu, trưng thu, trưng mua để đống rồi chia. Ngoài kia trẻ con đánỏntosng, rong cờ, tôi càng rối cả ruột. Các nhà địa chủ đứng ngồi rúm vào một xó, mấy người còn đến xỉa xói kể tội. Một lát, người ta đi lùng khắp nhà, lấy vôi vạch sẵn đánh dấu cái tủ, cái chum “những đồ này của nhà tôi, tôi đánh dấu sẵn kẻo mang đi đâu nữa thì lẫn mất”. Người gánh, người khiêng, ai cũng gầy đói hom hem, nhợt nhạt, mới chỉ đem lên cho tập trung tạm, chẳng biết còn đưa đi đâu nữa mà đã ham hố như đương khuân về nhà mình.
Một ba lão nhặt được trong đống đồ đạc và quần áo bề bộn một cái cối đồng giã trầu, lấy ra nghiền xong một miệng trầu bỏm bẻm nhai, như còn trâu già đêm đêm trong chuồng trệu trạo nhai lại. Rồi lại xăm xăm đi. Bà lão nay khôn vặt cứ la liếm nhặt những cái yếm, cái thắt lưng, cái ống đũa, chẳng ai để ý.
Ấy là quang cảnh những hôm các thôn rộn rịch lần lượt mít tinh tuyên bố xoá giai cấp địa chủ. Công tác lại tuần tự: chiều gọi loa, hô khẩu hiệu, tối họp xóm xong từng nhà về còn mạn đàm trao đổi ngày mai là ngày sung sướng nhất của nông dân, ngay mai giai cấp địa chủ bị tiêu diệt hềan toàn ở xã ta và trên cả nước nữa. Mỗi thôn thành lập bốn tổ: tổ đem gia đình địa chủ ra đấu, phân hoá tại chỗ. Tổ sục sạo xem đồ đạc còn dấu diếm ở đâu và tịch thu sổ sách, giấy tờ trong nhà. Tổ vận chuyển quả thực ra để ngoài sân đền. Tổ làm trật tự kiêm ghi chép phân minh. Cuộc mít tinh xử án toàn bộ giai cấp địa chủ làm ở thôn Đìa, các thôn khác đến tham quan rồi về cứ theo thế mà làm hôm sau.
Ở Chuôm, tôi làm trưởng ban, họp đến ba giờ sáng rồi thành lập xong ban tịch, trưng, mua. Hội nghị đã nhất trí phương án mua những gì, cái gì tịch thu, cái gì không mua. Không mua lặt vặt cái thớt, bó đũa, cái vai cầy. Những tấm ván áo quan thì tịch thu. Địa chủ chết được nằm hòm sang trọng a? Tao nhắm mắt chưa biết bó chiếu hay bó cốt đây. Tịch thu cái cũi đựng bát đĩa chứ cái chậu đựng cám lợn thì mua làm thèm vào. Phải làm mọi cái to nhỏ đúng chính sách đã bàn.
Vừa họp xong, gà đã gáy dồn. Thế là lại đi luôn. Từ lúc mờ sáng, trống ngũ liên đã đánh dồn ba tiếng một, như trống hộ đê, trống chữa cháy, trống cướp. Cho đến sáng bạch thì hầu khắp trong thôn có cái gì gõ được thì người ta cũng đem gõ, loạn xạ như khi gấu ăn trăng, đập nồi đập chậu cho gấu sợ phải nhả mặt trăng ra. Trống cái, phèng phèng, thanh la, kẻng thanh sắt, vỏ đại bác, vỏ bom… vang vang bốn phía, những đám người đùn đùn ở các ngõ xóm ra.
Trước tôi còn ở bên Am, tôi đã tổ chức gác nhà thằng Vách để đợi lệnh đoan uỷ cho bắt, nhưng đội trưởng Cự lại về thôn ấy lại cho nó làm chuỗi. Lúc ấy không biết thằng Vách ở đâu chui lên vừa nhớn nhác vừa hung hăng. Vách mặc cái áo nâu bạc, đồng cái khố đuôi lươn, đít hóp lại, hai đầu gối nhô ra như hai hòn cuội, tay cầm chiếc đòn xóc chốc chốc lại hoa lên múa. Trong bộ râu quai nón, phùn phụt ra những tiếng hét: hoan hô… hoan hô… Có người hỏi: Đi mít tinh mà lại đóng khố à? - Ấy, ra đây kiếm cái quần địa chủ để mặc, phải cởi truồng sẵn cho đỡ vướng.
Tôi trèo đứng lên cái bàn giữa bãi cỏ đọc một bài diễn văen đã có mẫu in sẵn từ trên đoàn gửi xuống, sau cũng tôi giơ cái loa giấy, nói chõ ra bốn phía “Tôi tuyên bố từ giờ phút này toàn bộ giai cấp địa chủ ở xã nhà đã bị tiêu diệt. Giai cấp nông dân muôn năm!”. Phất cờ lên! Phất cờ lên! Trống lên! Cờ phất và trống ếch rùng rùng nổi từng hồi. Đội sục sạo, đội trật tự, đội ghi chép, đội tịch, trưng mua và cả đám mít tinh nhốn nháo kéo vào nhà địa chủ Thìn. Vách chạy trong đám, vẫn múa cái đòn xóc, la to: “Cha mẹ để của cho cũng sướng đến thế này thôi, giời đất ơi!” Cái khố đuôi lươn tháp thoáng rồi lẩn mất.
Trong sân nhà địa chủ, tôi đứng lên trên thành bể, ra lệnh các phía. Thiếu nhi đánh trống sôi nổi nào! Ban trật tự làm việc! Đội khuân vác, đội tố khổ hay sẵn sàng! ở gian bên còn có mấy người nhà ngồi bó gối, đứng ngơ ngác. Ba lão Thìn liệt giường đã nhiều năm, nằm đắp chiếu. Người con dâu và lũ cháu, áo xống lấm như vùi - đấy là người ta chát bùn làm áo đã cũ, mặc cả vào người, xúm lại quanh giường người ốm. Ban trật tự lật chiếu lên: “Xem có dấu cái gì trong chiếu không?”. Mùi thối khẳm xông lên, lại phải buông xuống.
Trưởng thôn Cối làm tổ trưởng tịch, trưng, mua nhưng lại mù chữ, lúc đội sục sạo đến báo cáo, tôi phải ghi ngoáy con số vào sổ tay rồi tôi lại trèo lên thành bể, nói to:
- Địa chủ cường hào gian ác Đoàn Văn Thìn có: ruộng 5 mẫu, 1 nhà ngói năm gian, 1 nhà gỗ ba gian, 1 trâu, một nghé, 10 chum, 15 vại, 4 giường, 2 phản, 1 yến gạo, 2 yến thóc, 7 cái nồi năm, nồi tám, nồi mười, mâm đồng 2 chiếc, mâm gỗ 8 chiếc… Tổ tịch, trưng, mua quyết định tịch thu toàn bộ nhà ngói, nhà gỗ và diện tích ao vườn. Để lại cho nhà nó ở cái bếp đầu bờ rào. Tịch thu tất cả nồi đồng, xanh đồng, mâm đồng, cũi bát đĩa a, hương án đồ thờ. Trưng mua các phản gỗ, bàn toạ, ghế tràng kỷ, ván áo quan. Không mua thóc gạo đương có, không mua quần áo chăn chiếu đương mặc, đương đắp, không mua nồi niêu ang đất, tôn trọng tín ngưỡng không đụng đến đồ thờ, bát hương. Tôi yêu cầu đội khuân vác làm việc, đem các đồ đạc tịch trưng thu kể trên lên bãi quả thực.
Rồi người ta khiêng đồ lên bãi quả thực trên xã hay đã vác trộm về, tôi nào phân biệt được. Tuyên bố xong, tôi nhảy xuống giữa những lộn xộn. Chẳng biết tổ trật tự lẫn lộn vào đâu cũng chẳng biết ai đội khuân vác, ai hôi của. Có người đội ra cái thớt to như cái nón Chuông trên đầu.
Vách chưa lấy được cái gì, lon ton chạy. “Đứa nào kiếm cho tao cái quần, chọn cái mới ấy. Tao đã đóng khố sẵn để đợi mặc quần mới đây”. Nhưng chẳng khỉ nào còn để mắt đến Vách. Có người bê ra cái chĩnh, hét vào mặt tôi: “Em xin về đựng nước cáy. Bao nhiều đời bây giờ mới được cái chĩnh”. Nhiều người chạy ra vườn thúc cái thuốn vào gốc xoan, vào bụi hoa nhai nghi ngo có chôn của. Trong nháy mắt, đống quả thực chỉ còn lại cái hương án, cái tràng kỷ và cỗ áo quan phải khiêng vác, không ai lôi đi được.
Chợt nhớ còn quên mất một việc, tôi nói to:
- Ai có khổ thì ra vạch tội địa chủ. Dân quân dắt các con dâu nhà nó ra một nơi, đem trẻ con đứng chỗ khác, phân hoá chúng nó, giải thích, yêu cầu chúng nó hàng phục nông dân thì có con đường sống.
Chẳng ai nghe tôi nói, người vẫn đùng đùng khuân vác chạy qua. Chẳng biết làm thế nào, mà thôi. thế cũng là xong việc ở đấy, tôi ra hét người sang tham gia “mít tinh xoá địa chủ” tư Nhỡ bên thôn Am. Những người bơ vơ chưa vớ được cái gì ngẩn ra nghe nói còn chỗ địa chủ nữa. Thế là rùng rùng sang bên Am, hàng ngũ trống ếch và cả đám ồ ạt chạy.
Bên kia ao dừa không còn tiếng đàn chó ra sủa như mọi khi. Cả nhà Tư Nhỡ đã trốn đi từ bao giờ. Có lẽ đã lâu rồi, cứt giun đùn về vệt lên đầu hè từng đống. Ngoài bờ ao, rặng dừa đã bị chặt cả ngọn không còn lấy một quả. Cái cổng tán vẫn buông sùm sụp, bùng nhùng đống đây thép gai và cánh cửa nhà trên nhà dưới cài then trong, giả như vẫn có người trong nhà.
Một người tổ sục sạo nhặt được chỗ xó cột một mảnh giấy đưa cho tôi:
Gửi cậu mợ, các chị, các em Hương, Hiền, Vinh, Phú, Quý
Máu gà lại thấm xương gà
Em đi nam bắc hoàn cầu
Nếu em còn sống ngày sau em về
Tôi bảo: “Truyền đơn này là của mật thám đế quốc bỏ lại” rồi tôi xé vụn tờ giấy. Trong bụng tôi nghĩ: Chắc một đứa con tư Nhỡ trốn đi, để lại thư kích động. Những tôi ỉm không nói với ai. Cho khỏi lôi thôi.
Chẳng ai ngơ ngác, trước cả nhà địa chủ bỏ trốn mà nhà cũng sạch trơn, chẳng còn đồ đạc lấy được, người ta nhảo ra ngay, chạy theo đồ thô các nhà địa chủ đương được khiêng lên mãi cửa đền. Xa xa, lại tiếng trong ngũ liên trống ếch lẫn tiếng reo à à. Trong khoảnh tre các làng, khói đốt các sách vở và giấy tờ của nhà địa chủ bốc lên đen ngòm như các đám thui bò.
Các thôn đã lần lượt mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ, tiếp theo tịch thu, trưng thu, trưng mua đúng như kế hoạch. Đội trưởng Cự đi kiểm tra, đến thôn Am, thôn Chuôm thấy mít tinh đã xong ngay buổi sáng bây giờ chỉ còn một đám ở thôn khác chạy đến hôi của và mấy người đứng lẩn quẩn ngắm cái hương án có về tiếc rẻ giá đem về bổ làm củi, nhưng nặng không ai dám khiêng. Đội trưởng Cự đi tìm tôi. Tôi nằm ngủ trên chõng nhà lão Cối, úp quyển sổ tay lên mặt. Đội trưởng Cự vào dựng tôi dậy, mắng như tát nước. Mặt Cự đỏ tía, mà chắc mặt tôi tím lạnh. Tôi đã học tập làm điểm ở thôn Đìa rồi mà vẫn quá ẩu. ẩu nhất là vừa xong đã về lăn ra ngủ. Phúc mà tôi không bị làm lại, phải lên xa tham quan để “đợt sau làm cho đúng”. Tôi sợ cuống quýt thế chứ còn gì đâu mà làm lại. Tôi cũng không dám nói đã sang định hỗ trợ cho thôn Am. Đội trưởng Cự phụ trách thôn Am, tôi hãi lão lại đổ cho tôi mưu mô cho cả nhà tư Nhỡ bỏ đi, tẩu tán hết của, nông dân không còn nói cái bát cái nồi để chia quả thực. Tôi cũng không hỏi xem tư Nhỡ vẫn bị giam hay nó đã trốn theo gia đình, tất nhiên không dám hỏi. Đội trưởng Cự nổi lôi đình một lúc rồi bảo tôi lên mít tinh xã kết thúc đấu tranh thắng lợi xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã.
Hơn ba mươi gia đình nhà địa chủ ngồi một phía đen ngòm bãi như quạ đậu. Các nhà phú nông đại diện được đến tham quan thì ngồi hàng ngoài. Người suốt chín thôn cơm nắm cơm đùm từ tinh mơ kéo đến bạt ngàn trong tiếng chiêng, trống, tù và inh ỏi. Đã đốt hết dưới thôn rồi thế mà trên xã không biết còn khiêng ở đâu ra những cái tủ đựng sách báo chữ Nho chữ ta chất cao như cây rơm, mồi lửa đã châm đốt cháy rừng rực như những cây đình liệu.
Các thôn lên chưa đủ. Có thôn cả buổi sáng còn đấu chưa dứt -  Còn thì giờ đợi, đội trưởng Cự vẫn mắng tôi: “Phải khơi gợi căm thù đã, chứ để quần chúng đâm đầu vào mấy cái... quả thực à!”
Cuộc mít tinh xử án. Người ta sán đến chỗ các nhà địa chủ, im lặng nhìn như xem những con vật lạ, con gà mới mua hay cái rọ chuột. Anh đội nói: Mặc kệ, không cần trật tự, cho quần chúng thoả lòng căm thù”. Một đám vây lại cho một bà lão địa, hai mắt cùi nhãn đã loà hẳn. Bà lão mặc lồng hai cặp áo nâu da bò, khăn vuông láng thâm mới, nhai trầu thong thả, không biết điếc thật hay giả điếc, dửng dưng không để ý xung quanh. Đằng kia, một lão địa - lão này không có tội ác, không bị giam, lão chít khăn, áo bông dài sa tanh mới, hai tay chắp trước bụng áo như đứng hầu quan. Tiếng ai như tiếng thằng Vách quát: “A ha! Chúng nó mặc tất cả quần áo vào người để khỏi phải tịch thu đây. Lột ra, lột hết ra. Tao có quần rồi, tao cấn thêm một cái áo, đứa nào lấy cho tao”. Một người hất tay trật cái khăn vố của lão địa. Nhưng cũng không ai lột váy, cởi áo lão địa ông, địa ba ấy. Cái khăn bị lệch mà lão địa cũng không dám giơ tay sửa lại, mồ hôi đậu từng nốt trên mũi lão. Chốc chốc, lão lại măm môi ưỡn người đảo mắt nhìn xuống, ngước lên như cố nhịn đái hay nhịn ỉa chẳng biết.
Các thôn vẫn đương kéo lên cả thôn Am, thôn Chuôm, mà tôi không biết, vì tôi quên không cho lệnh lên. Chỉ là còn ngửi thấy hôi của, người ta gọi nhau đi. Trên bờ tường, trẻ con leo ngồi đánh trống. Dưới kia, loa trõ xuống đầu đồng: A lô, A lô. Nắng đã hầng, người đi ồn ào, tiếng tù và ánh ỏi.
Đội trưởng Cự phân công tôi ra kiểm soát các tổ dân quân, đặc biệt gác chỗ bọn địa chủ. Cho đến chiều, liên tiếp người đến kể khổ. Rồi thì đuốc đốt lên, mãi đến nửa đêm đội trưởng Cự mới đứng ra tuyên bố xoá bỏ toàn bộ tiêu diệt giai cấp địa chủ toàn xã.
Tôi về, mệt phờ người. Trông lên trời sao long lạnh bập bỗng thẫn thờ nghĩ đến công việc ngày mai, ngày kia, chỉ những lo là lo. Còn rắc rối đây, sang bước cắm thẻ nhận ruộng, lại bước chia quả thực. Hai bước này ở trong Thanh, tôi đều tránh được. Bây giờ mà phải làm thì nguy vì chưa biết đầu cua tai nheo những gì. Những lần ấy tôi hay khoe khéo nghề kế toán của tôi. Công tác bước cuối dồn mọi việc, mọi ngành gấp rút cộng trừ bảng A, bảng B, chuẩn bị mừng chiến thắng tổng kết. Thế là tôi được gọi lên đoàn ngồi vắt óc nặn các con số, nhân chia bạt tử, rồi cũng xong cả. Nhưng ra đây tôi chưa đánh tiếng được với trên đoàn rằng tôi là cán bộ tài vụ. Bây giờ không rõ còn kịp chào hàng không, khốn nỗi tôi cũng chưa quen ai ở trên. Đến phải vùi đầu vào hai bước rắc rối này, thôi thì có người có ta.
Thôn Chuôm có thể nặng nhất bước này. Địa chủ Thìn nhiều ruộng đất, tôi cũng chưa đếm được nhiều bao nhiêu, ruộng nhà địa rải rác các xứ đồng, lại ruộng xâm canh bên kia sông. Trong thôn lại có bốn thằng phú, sáu trung nông cũng có thể vào diện vậ động san xẻ ruộng cho nông dân. Mà ở đâu, ruộng chia thế nào thì cũng thiếu. Công lao người ta cả tháng hội họp, tố khổ đấu tranh rồi, cái cây đợi ngày hái quả, bao nhiêu quả. Đương lúc ấy Duyên lại ỡm ờ bảo tôi: “Cắm thẻ nhận ruộng xong rồi em mới về nhà chồng chứ không thì để chúng nó cướp không công em đấu tranh à? Sao im thế? Hay là anh muốn truất phần em để anh chia cho con Đơm cháu địa ác ác? Thề đi, anh không thể chia cho em cho ruộng nhất đồng điền thì từ giờ đừng có đụng vào em mà chết gẫy xương đấy”.
Những buổi họp bàn chia ruộng, quả thực, chưa đâu vào đâu, ai cũng té tát, hằm hè tím tái vặc nhau. Ruộng đồng cạn, đồng sâu, và quả thực, cái nhà đầu hồi hay ở gian giữa, cả cái cối đá, cái bắp cày trên gác bếp cũng tranh nhau không ai nhường ai. Hôm sau mới chia thử đã loạn xạ. Chỉ có cái cối đã mà mấy người hét: Vần đi, vần đi. Người khác đá lại. Một người ở đâu tới, thủ sẵn cái thừng, đánh thòng lọng xuống lưng cối, khoác thừng vào vai, kéo xềnh xệch cái cối đá. Tôi chặn lại:
- Không được, chưa chia.
- Em chỉ ra xem thử để lúc em được chia thì mang đi cho dễ, em thử thôi mà. Rồi cười khà khà, đi vào. Trong này còn khối thứ, bỏ vào ngồi họp thì đứa khác ra cướp mất. Cứ đứng đây, tôi cái này, cái này. Ôi trời, còn biết đằng nào mà lần. Hai tai nghe quang quác, khoành khoạch, át cả tiếng anh đội cổ đã khản đặc nhìn những người nhà có đám phải rặn ra khóc.
Cuộc họp đối đáp chan chát.
- Ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng mặn, ruộng chua, lấy ráo. Bần cố chúng tôi đã mấy đời đói ruộng như con đói sữa mẹ.
- Cho tôi cái xướng mạ, tôi chỉ xin một thứ thế thôi.
- Cả lũ địa còn đánh đổ được nữa là chia cái ruộng đã có trong tay, khoan đã, rồi đâu vào đấy.
- Tôi không có màn. Anh đội ơi! Cho tôi một cái màn mới là thoả mãn bần cố nông.
- Đấy là sang mực quả thực. Mấy hôm nữa.
- Mấy hôm nữa thì bàn bây giờ làm mẹ gì cho tốn nước bọt.
Rồi lại nói ngay:
- Nhưng mà tôi cứ nói trước, tôi phải được cái áo ấm. Đáng nhẽ tôi khiêng địa chủ Thìn thì tôi được cái áo bành tô của nó, thế mà trưởng thôn Cối đã nẫng tay trên của con tôi. Cả đời mới trông thấy cải cách mà không được cái áo thì rét lắm. Mà tôi là cố nông, cố nông ba đời, bố tôi cần cái hòrn đến nơi rồi. Cái hòm ở nhà địa chủ Thìn là phần tôi, chưa dùng đến thì mùa hè để ông cụ được nằm cho mát cái lưng. Hề, hề, hề…
- Nhà tôi chỉ rặt giống nồi đất, đội về mà kiểm tra. Tien nhan đứa nào bảo bà có cái nồi tư đem giấu đi!
Rồi cuộc họp lại lái về ruộng đất, lại lung tung.
- Trung nông nhận ruộng giao canh của địa chủ thì hoa mầu tính sao? Tôi chỉ có hai miếng chó ỉa ấy, đổi nước mạ, nước khoai lấy ruộng có được không? Tôi là trung nông yếu, các ông các bà ạ.
- Yếu hay khoẻ thì cũng là trung nông, ai cho trung nông đổi chác mà đòi.
- Nói như cái nhà chị thì mấy tháng nay tôi đi đấu công toi à?
- Nguyên canh là thế nào, cào bằng đi, chia lại.
- Ruộng tôi cấy, động chệ đến mồ mả nhà ai mà chia lại!
- Báo cáo đầy đủ này. Tôi chưa có đất vườn, tôi chưa có cái chum, cái vại tử tể đựng nước cáy. Tôi xin nhận chỗ ao dừa nhà tư Nhỡ.
- Tôi phải được chia cái áo bông của thằng Thìn mới là đoàn kết bần cố, thằng Thìn còn cái áo bông dài năm ngoái vẫn thấy nó mặc rét.
- Các người ơi, để mắt đến thằng trung nông ọp ẹp này một tý. Nhà toàn ruộng nuôi giang sếu, bồ nông đồng chua, phải cho lên cắm thẻ đồng cao chứ.
- Đã bảo trung nông thì đợi ngõ ngoài nữa.
- Hay là nông hội tư túi chia cả ruộng cho con mẹ công thương bán bánh đúc chợ huyện?
- Đứa nào bảo ông tư túi, ông gang họng ra!
- Tôi như con chó hóng cứt, từ chặp tối điếc cả tai mà chưa được cục cứt nào đây.
Mới thử một ngã ba ngã tư đã rối tinh. Thì giờ vun vút, mỗi buổi sáng hội ý đội về lại tơi bời tất tả. Thêm khó một nỗi, sổ sách địa bạ đã chất đống đốt sạch sành sanh cho “hết tàn tích địa chủ phong kiến” mất rồi. Bây giờ lần hỏi từng nhà địa, nhà phú. Chỉ có những nhà có ruộng mới thuộc đích xác ruộng nhà mình. Thế nhưng hôm xử bắn địa chủ Thìn, cả các nhà địa nhà phú nào cũng bị điệu lên bãi ngồi cho trông thấy, rồi về người thì ốm chết, liệt giường, có người phát điên, có người trốn biệt. Chẳng hỏi được ai.
Lão tư Nhỡ thì biệt tăm. Đêm ấy, tư Nhỡ đội mái nhà giam của xã chui ra. Dân quân đổi nhau gác suốt sáng dưới tường mà không biết. Yên trí tường cọc tre nhẵn sạch vấu, cao hơn hai thước, không thể leo trèo được. Sáng ra, nghe tin bảo, đội trưởng Cự đến đứng chắp tay sau lưng, mắm môi nghiền ngẫm, rồi đi quanh mấy vòng, đứng lại, giơ tay phân tích: “Tôi đã biết nó còn trẻ, nó nguy hiểm nhất nên cho biệt giam đợi án. Ở xã này, chân tay nó đã bị tôi chặt hết, không thể nghi ngờ giai cấp nông dân giúp nó trốn được. Có ai nhớ không, nhà nó gài cái máy galen trên cột tre, cao bằng cây cau, nó liên lạc với địch miền Nam được mà. Bọn phản động các nơi còn nhiều lắm. Nhất định địch ở trong Nam đã ra cứu nó. “Nhưng người làng đến xern, thì thào: “Thằng này sợ quá lòi cả cứt, thế là hoá ra nhẹ bụng, nhảy bật lên nóc nhà. Ở đây rồi cũng chết, đằng nào cũng chết, nó liều. Đứa liều thì cái gì chẳng làm được”. Chỗ lỗ hổng cót mái, máu chảy ròng ròng xuống chân tường, vết giỏ giọt dài ra đến chỗ cột trụ. Dân quân sục vào trong đền nhưng không thấy dấu vết người ẩn nấp. Nhưng Cự đã bảo là “có địch trong Nam ra cứu nó” thì không ai nói thêm thế nào nữa.
Theo lịch, ngày mai phải xong phương án chia. Mà con số và các loại ruộng vẫn mù mờ gạch xoá trên giấy. Bí thật, nhưng tôi không hỏi ai một câu. Hỏi thì hoá ra lòi đuôi. Khi còn ở bên xóm Am, tôi rối quá thì lại vào nằm với cái Đơm cho nhẹ đầu. Duyên ở đây không thế, suốt ngày Duyên đi nhổ mạ thuê rồi lại quanh quẩn ra ngắm ruộng, đi mặc cả chia ruộng chỗ ấy tối đến thì đi tuần. Có hôm sáng bạch, tôi bừng mắt, thấy Duyên nằm ngủ vục đầu xuống ngực tôi, đêm qua ngủ với nhau lúc nào cũng không biết nữa.
Thoáng bóng đội trưởng Cự ngoài ngõ. Tôi đương ườn mình lơ mơ, chập chờn trên chõng. Thực sự, lo luẩn quẩn không thể chợp hẳn mắt. Tôi nhỏm dậy, kéo cái ba lô lên đầu gối, mở sổ tay, đẩy mấy tờ giấy kẻ lung tung ra, như đương làm việc. Cái chỏm mũi đội trưởng tái lịm như quả cà tím ló vào. Có lẽ mọi khi mũi Cự vẫn tím đỏ thế, tôi không để ý. Không hiểu sao, mỗi lần đương cái lo, y như rằng, đội trưởng Cự hiện ra như một ông thần, có khi ông ác tác quái, có khi ông thiện ban cho sự nhàn hạ. Tôi hồi hộp không biết lần này thế nào.
Cự cười nhếch mép:
- Anh đội làm gì đấy?
Chưa nghe Cự nói rỡn “anh đội” thế bao giờ. Có thể việc tốt lành đến nhưng tôi vẫn y tứ, giữ gìn.
- Tôi viết nốt phương án.
- Số liệu những đâu mà nhanh thế?
- Đương lấy, vừa viết vừa lấy mới kịp được.
- Xong rồi cũng phải làm lại. Thôn Am, thôn Chuôm chẳng còn một mống nao có nhiều ruộng mà bắt nó khai. Chỉ có họp xóm đấu tranh tố khổ mới ra con số ruộng được, cậu đã làm chưa? Chưa phải không? Rồi còn phát động phú nông, trung nông lớp trên nhường ruộng, hiến ruộng. Vẫn chưa làm chứ gì?
Mỗi khi Cự nói lại lòi chuôi cái tôi chưa biết, chưa làm nhưng tôi lại vỡ ra được nhiều cái khác không nghĩ được. Tôi ngớ ngẩn hỏi:
- Bây giờ phải làm lại a, còn lịch công tác…
Đội trưởng Cự ngồi xuống, nhắc cái quai sắc cốt rồi xua tay.
- Không kịp rồi, tớ lại phải ra tay mới được. Nếu không thì vì cậu mà cả đội chạy bét.
Tôi lại cảm tưởng nhẹ mình. Cầu được ước thấy, lúc nguy nan lại được phù trợ, có mả cứu bấn, hay thật.
- Tối hôm nay, cậu ra ở nhà trưởng thôn Cối, tớ lên đây ốp việc. Có thế mới kịp.
Tôi đã đánh hơi được một mùi, cái mùi nồng nồng ở đũng quần Duyên. Nhờ thế mà tôi thoát vất vả. Thằng dê cụ này đến chỉ vì cái mùi đũng quần đàn bà mà thoi. Con vợ dưới xóm Đìa tống đi cán bộ rồi, lên xóm Am nằm với cái Đơm, bây giờ lại sang tòm tem cái Duyên. Chỉ the, chẳng ba cùng ba càng, chẳng tổng kết, bồ kếp giời hỡi gì ở đây. Chắc thế, họ hàng nhà ma, đi guốc vào bụng nhau cả.
Nhưng vậy cũng lợi cho tôi, nghĩ thế, tôi tủm tỉm cười. Đội trưởng Cự tinh lắm, như đoán được cái cười láu tôm chế giễu của địch thủ. Bất chợt, Cự sừng sộ quát tôi:
- Này này báo cho mà biết tớ lên đây để cứu cậu khỏi phải đi tù đấy, biết chưa. Chẳng tội Việt gian như thằng Đình, tội tù hủ hoá cũng tù ngang thế. Còn nhớ bài báo thằng Bổn Đào Khê chứ. Đi cải cách mà hủ hoá phải ghi lý lịch bị đuổi về cơ quan còn nhục hơn thằng đeo gông. Cái con Duyên chung chạ quần áo với cậu, cả làng chửi rầm lên, cậu vờ điếc à?
Tôi bầm mặt, câm như hến. Bị băm bổ đào đến tận ngóc ngách âm ti thế còn biết chống chế thế nào. Những điều tôi nghĩ về Cự chỉ là những vu vơ mờ nhạt mà tội của tôi thì sờ sờ ra đấy rồi.
Cự vẫn chưa buông tôi, nhưng đã dịu.
Cậu là tiểu tư sản có công giúp giai cấp nông dân đi cải cách mấy đợt rồi, tớ thông cảm. Tớ con biết cả chuyện cậu lằng nhằng với cái Đơm, lại mấy đứa dân quân gai đi gác đêm đều phải chết với cậu. Nhưng tớ xuý xoá cho, biết không.
Tay tôi tỳ lên cái ba lô, run bần bật. Mỗi tiếng của đội trưởng Cự như một cái bóp cổ, nếu nó không nới tay thì cầm chắc đứt hơi. Cự ngừng gườm con mắt lòng trắng đỏ ngầu nhìn tôi dò ý.
Rồi bỗng lại nhẹ nhàng sang chuyện khác, tôi mới được nguôi ngoai theo.
- Bàn với cậu nhé.
Tôi lóng ngóng cầm bút lên, mở vu vơ trang sổ tay.
- Công tác chia ruộng, chia quả thực toàn xã, cả thôn Am, thôn Chuôm tớ đã săp sẵn xong từ bước hai.
- Anh nhanh quá.
- Bây giờ tách riêng đồng chí ra phụ trách lúa thần kỳ - công tác đặc biệt đột xuất.
Khi nào đương cậu cậu tớ tớ mà đổi sang đồng chí, đồng chí thì ấy là tới việc khác thường, lúc vui lúc cáu gắt không lường được. Lúa thần kỳ, mấy lâu nay bảo trên đã nói, lại được xem ảnh báo chụp ruộng ở nước nào, lúa thần kỳ chín trổ bông ken dày, cả lũ trẻ con chạy chơi trên mặt thóc. Lại đã nghe từ độ thằng Đình ma xó còn ở đây cũng thấy bảo đội sắp làm lúa thần kỳ, thì ra thật. Nhưng làm lúa thần kỳ thế nào, là cái gì.
Mỗi câu của đội trưởng Cự lại gỡ ra cho tôi từng mối băn khoăn.
— Một ít lúa ba giăng cũng đỡ được đói, nhưng chả ăn thua. Mà đợi mùa thì trên hai tháng nữa. Cái thần kỳ này chỉ một tháng đã chắc ăn. Đột xuất là như thế. Làm thử một khoảnh, được thì ta cho cấy lan ra cả đồng. Bây giờ có nơi con quai mạ ba giăng muộn. Lấy một miếng mà thí điểm thì năm thước cũng được. Cho bừa kỹ bùn vữa ra nhn cháo loãng, bón lót cả phân tươi, phân xanh rồi cấy dầy, thật dầy, liền khit, có thể đến khi lúa trổ trẻ con mới trèo lên chơi được. Bón thúc bốn góc ngay, chỉ mười lăm ngày lên đòng. Khi đội ta rút sẽ để lại kỷ niệm và kinh nghiệm ruộng lúa thần kỳ cho làng nước làm theo, từ nay ấm no đời đời. Đã thấy quan trọng, giỏi chưa?
- Rồi ạ!
Tôi chỉ còn biết ừ hữ như thế. Tôi không chịu nổi cơn toát mồ hôi hột lẫn nữa, dù là mồ hôi phấn chấn hy vọng. Đội trưởng Cự còn nói đi nói lại một lúc về lúa thần kỳ. Dần dần tôi cũng thấy ra cái lúa thần kỳ mới tài tình làm sao. Tôi mà làm thành công ấy a! Ô hay, cũng vẫn cái ruộng cái lúa, sao cả tỉnh, cả nước xưa nay chưa nghĩ được ra. Bây giờ sáng kiến to lớn lọt vào tay cái thằng tôi chưa nhìn ra được mặt thóc tẻ thóc nếp khác nhau, thế mới lạ. Đã bảo đội bảo làm thì làm gì chẳng được. Thôi thì những người ốm uống tàn hương nước thải, biết đâu rồi khỏi bệnh, mà không khỏi cũng không phải chết vi tàn hương nước thải. Tôi hí hửng cái lúa thần tuy chưa ai làm bao giờ nhưng nghe ra để có lẽ hơn việc chia ruộng, chia quả thực.
Tôi không dám đoán mò về sự đội trưởng Cự sang xóm này nữa. Đích xác thế mà tôi lại thấy đội trưởng Cự đương công tác cần kíp. Tôi sợ đội trưởng cả trong ý nghĩ tôi cũng muốn tránh, muốn làm lành đi. Đôi lúc cũng thoáng nghĩ không biết cái Duyên thế nào, nhưng tôi lại tự gạt đi. Tôi hôm ấy, tôi ra ở nhà trưởng thôn Cối ngoài bãi. Không hiểu sao trẻ con ở nhà, chẳng đứa nào cõng nhau vào ngủ nhà ông như mọi khi. Đội trưởng Cự đã đánh dẹp cả chúng nó đi. Nhưng cũng không tò mò hỏi.
Cả lũ năm sáu đứa nằm quềnh quàng dưới đất khap hai gian nhà, kéo gỗ khò khò chẳng khác trên nhà ông cụ, ai làm gì cũng đố nghe biết được. Không hiểu vợ chồng Cối nằm xó nào. Sau mới nhớ Cối đi họp, có thể khuya lại đi gác hay nằm vạ vật đâu. Tôi cũng đi ngủ luôn.
Đương mùa làm, lại thêm công tác cải cách, thêm cái đói, mọi việc đều lật đật. Hồi này tan rã hết lớp học bình dân rồi, mà tôi cũng thôi thúc đẩy. Suốt ngày, vợ Cối làm quần quật, đi bừa về nhào ra nắng phơi dây khoai, dây muống. Quá nửa đêm Cối lù lù về. Cối vơ củi vào đun nước. Cối uống tàn nồi chè xanh vò, đứng lên vác bừa loan đi thì trăng lặn. Nghe tiếng lịch kịch, tôi thức giấc. Tôi lồm cồm bò ra.
- Hượm đi đã.
- Gì thế?
- Có việc cần bàn.
Tôi nói thuộc lòng về lúa thần kỳ như Cự đã nói hôm qua rồi rụt rè hỏi:
- Làm được không?
Tôi có nỗi ngượng của thằng chưa giắt con trâu bao giờ lại huyên thuyên chuyện cấy hái mùa màng với anh thợ cày. Nhưng Cối đã cười nhe hàm răng cải mả.
- Dễ như chơi ấy mà.
- Công tác này để chào mừng thắng lợi cải cách, cả huyện cả tỉnh sẽ nhìn vào thành tích của ta. Xem có phải thì xin thêm dân quân giúp. Bận quá, hồi này thôn nào cũng bận.
Cối lại cười:
- Đi làm mướn, một mình tôi gánh cả mẫu, từ lúc cầy ải đến khi ra hạt thóc, chẳng cần ai. Giờ chỉ có năm thước lúa, nằm khểnh giơ tay làm thầy cúng bắt quyết cũng xong.
- Mai làm được không?
- Trưa nay tôi về một lúc là thắng lợi ngay.
Tôi cũng không hiểu thắng lợi thế nào.
Cối vác bừa đi. Tôi coi như thế là đã giao xong công tác. Bây giờ trời mới rạng sáng, bốn bên, các nhà gọi nhau tiếng ơi ới, tiếng chu chéo. Vợ Cối chạy từ trong góc nhà, tóc túm ngược, bóng mờ qua dưới mái tranh, chị hò hét lũ con con nằm lăn lóc dưới đất. Chúng nó chưa dậy, chị đã vun vút đi, không biết ra đồng hay lên chợ. Cái Cối đổ nước vào nồi dây khoai bữa sáng. Người ta có lúa rồi, nhưng không phải nhà ai cũng có, mới chỉ lác đác nhiều nhà vẫn còn bữa dây khoai, dây muống.
Cối bảo lúc nào làm cũng xong, tôi chẳng rõ nhưng tôi biết các anh đội nói thế nào, nếu để thế có nên bảo các đội cũng làm không, cái mấy thước rượu bằng cái vũng bắc gầu tát nước thôi mà. Rồi mọi việc, Cối làm ngay trưa hôm ấy thật. Miếng mẫu năm thước ruộng bé như cái lỗ mũi trâu. Cối cuốc lên, chẳng cần biết ruộng khoai của nhà ai. Đất hẹp chưa ra nổi góc đường cầy, con trâu không xoay mông được. Cối cuốc rồi đập đất luôn, xế chiều coi như xong một mảng đất cả công cày bừa.
Ruộng cao, kề cái chuôm, thế là bắc gầu tát nước làm. Đội trưởng Cự hôm nào cũng tạt qua xem làm đến đâu. Trưởng thôn Cối lại càng hăng. Chỉ ba buổi đã tràn lan nước rồi các thứ phân hổ lốn, phân rác, phân xanh, phân chuồng, phân vách bếp bồ hóng được quẩy trong xóm ra quai xuống đúng kỹ thuật đội trưởng. Cối lên chợ huyện hay là xin mua mấy bó mạ, tui ở nhà đẽo cái que tre dài bằng đòn gánh. Một tờ bìa cặp đầu que dán mảnh giấy trắng, đổ thuốc đỏ trộn mực bút máy, đóng khung trang trọng nắn nót kẻ hàng chữ: lúa thần kỳ.
Tôi muốn làm cho làng nước ngạc nhiên. Tối trước hôm mít tinh xem cây lúa thần kỳ mới đem cái bảng ra cắm góc ruộng. Cấy là ngày hội, người các xóm kéo ra. Trẻ con nện trống ếch rình rình. Làng chưa có chủ tịch và uỷ ban xã, chi bộ mới toanh chưa bau chi uỷ, nhưng đủ tám trưởng thôn và các đội dân quân đến mít tinh. Thiếu có Duyên. Hôm trước, tôi nhờ Duyên cho mấy gánh đất bóc ở vách bếp nhà địa chủ Thìn, vách bồ hóng kinh niên làm phân tốt lắm, Duyên đã gánh đủ. Bây giờ Duyên đi đâu. Tôi vào xóm tìm.
Duyên vẫn ngồi nhà, vẻ dỗi. Duyên vùng vằng:
- Em chưa thấy mặt cái ruộng chia, em còn phải đi sát anh Cự.
- Đi sát cái ấy, thằng này biết rồi.
Duyên sấn sổ dí ngón tay vào trán tôi:
- Biết gì, biết cái hủ hoá à? Chỉ được cái đoán bơ vơ. Em mà tố ra thì anh chết ngỏm đầu nước chứ không phải ai đâu.
Tôi gượng nhẹ, dàn hoà:
- Tổ dân quân các thôn đã đến cả. Em là người xuống cấy một tay đầu tiên, đã phân công thế rồi mà.
Duyên cười, vẫn nói chuyện khác:
- Nhà em nhớn bé già trẻ mười bốn khẩu, để xem chia bôi thế nào. Đi sát là đi sát thế, chưa chi đã ghen hão. Con này tha đi xe xác đứa khác thì đừng lôi thôi.
Tôi đánh trống lảng:
- Ra ngay đi. Đội trưởng cũng ở đây rồi.
Tôi kể chương trình: Đội trưởng Cự xuống cắm cây mạ làm danh dự. Duyên cấy theo đến hết hàng. Tôi đứng trên bờ lãnh đạo mít tinh hô khẩu hiệu.
Duyên cười tăng tả đi, rồi quay lại:
- Anh phải giúp em cái này.
- Giúp thế nào?
- Tối nay, anh với en đến nhà địa chủ Thìn khuân cái cối đá.
Tôi lắc đầu.
- Sắp chia quả thực, dân quân tuần ngặt lắm. Nhỡ một cái.
- Nhỡ cái gì! Anh đội tịch thu cái cối nhà địa chủ, dân quân đi bảo vệ. Anh là cán bộ, em là tổ trưởng dân quân, đứa nào dám ho he.
Tôi đương cần Duyên, tôi gật gật, trong bụng thấp thỏm, ừ thì đến tối hãy hay. Duyên lại bắt tôi phải thế. Tôi lúng búng. Duyên nguýt một cái, may quá không quay đi mà Duyên ngoáy thẳng ra đám đông ngoài đồng.
Người các thôn trông thấy trước tiên cái bảng “lúa thần kỳ” càng chen đến. Nhưng chỗ bờ ruộng chật quá, đám đông kín cả lối. Loa phải gọi đứng bớt lên sườn đê. Chỉ có các anh đội với trưởng thôn, tổ trưởng dân quân được xuống quanh mảnh ruộng toen hoẻn bằng cái vũng trâu đầm. Thôn Đìa đông người lên nhất - cái làng đồng sâu này vừa rồi đói nặng, có người chết, nghe đồn đội đem giống lúa thần kỳ về, một bát cơm ăn no ba ngày, thế là càng háo hức đi xem.
Đội trưởng Cự đeo sắc cột, đứng xoạc chân, ống quần nâu sắn quá đầu gối, tay cầm loa giấy chõ lên đám người đông nghịt lưng đê.
- Thưa toàn thể đòm bào, đòm bào đã trông rõ cái bảng “lúa thần kỳ” chưa? (Tôi phổng mũi đứng cạnh đội trưởng, nhưng hai tay lại run. Không phải vì lạnh trời, mà vì câu đội trưởng nói tôi cảm như lúa thần kỳ đương thành sự thật). Thưa đòm bào, cuộc phóng tay phát động quần chúng vùng lên tiêu diệt giai cấp địa chủ đã kết thúc, ruộng đất đã về với nông dân lao động, bây giờ ta có lúa thần kỳ
Lát sau, đội trưởng Cự hích tay vào vai áo tôi làm hiệu nhắc rồi chuyển cái loa giấy cho tôi. Tôi quay loa, hăng lên:
- A lô… A lô… Tôi tuyên bố bắt đầu cấy…
Cự hát cái túi da lên lung, lội xuống bùn, cắm một bó mạ, tẽ ra từng mảnh, cắm hai dảnh xuống mặt nước. Rồi lên bờ hô to:
“Cắm liền dảnh! Cắm liền dảnh!”. Duyên bước tiếp xuống, thoắt một chốc đã hết ba tay mạ, có khi cả ba bốn dảnh một khóm, khoảnh ruộng dần dần xanh kín như khung bèo tổ ong. Từ trên lưng đê, vang vang tiếng ốc, tiếng trong ếch, tiếng reo, tiếng hô khẩu hiệu. Lạ sao, những người cả đời lênh đênh với đồng ruộng thế mà trước miếng ruộng vừa cắm cây mạ lại reo sướng như chưa trông thấy ở đâu như thế bao giờ. Có lẽ người ta tưởng sắp có phép tiên, cái khung mạ kia chi chốc lát sẽ bồng lên, là lúa nở ra, lên đòng…
Từ hôm ấy, trưởng thôn Cối và tôi ngày nào cũng quấn quýt bên mảnh ruộng. Tôi được dịp mải vào đây để lảng những công việc chia ruộng, chia quả thực cứ lặng lẽ sôi sùng sục từ trong làng ra ngoài đồng. Đằng xa xa, chắc lại ầm ĩ tiếng quát tháo. Nhiều người vác cả bó thừng ra sắp sẵn đóng cọc chăng quanh thửa ruộng sẽ được cắm thẻ. Cả một đời bây giờ mới nhìn thấy một miếng ruộng của mình. Những cành tre pho phất các góc ruộng. Người vừa được gọi tên ra nhận ruộng, nước mắt ràn rụa quay lại chắp tay vái trời, vái anh đội. Có người lẩm rẩm khấn ông bà ông vải tổ tiên về chứng giám với con cháu rồi ngồi xuống khóc rưng rức.
Mấy tối, không thấy Duyên đến, rồi bặt bóng. Chắc Duyên con đuổi theo đội trưởng Cự, túi bịi cãi nhau chọn ruộng.
Nước phân tràn ngập đẩy cây mạ phồng lên. Gốc lúa nở liền xít. Lúa không vàng úa mà xanh lơ rồi xanh thẫm, ngắm sướng mắt. Một hôm khác, trong như khói mờ bốc trong lúa ra. Đến tận nơi, thấy trên chân lúa chen nhau, thân nóng hầm hập, bóc hơi.
Tôi hỏi Cối:
-Thế này là thế nào?
Cối đứng yên. Chẳng biết thế nào, Cối làm thì cứ làm như tôi dặn chứ chưa bao giờ thấy lúa ruộng ở đâu cây sắp hàng liền chân nhau thế này. Cối nhìn tôi, như đợi anh đội đã học được phép là về làm lúa thì cắt nghĩa cho. Tôi là anh đội. Anh đội phải ra anh đội, tôi thản nhiên hỏi như lão nông tri điền thành thạo đồng áng.
- Trong xóm những nhà ai có quạt thóc?
- Sẵn thôi.
- Lúa nóng quá, nó cũng như người ấy mà, phải qựat cho nó hạ hoả.
Những góc lúa nóng hầm hập như bắp ngô luộc, nhuốm mùi ải thum thủm, nhưng tôi không biết. Tôi nghĩ phân tích: con người đứng chen chân thế này còn đổ mồ hôi, lúa cũng như người, lúa do mồ hôi thì quạt cho nó ráo mồ hôi. Có thế thôi.
Cối vào trong xóm, một lúc đã vác ra cả chục cái quạt thóc Cái quạt to bằng nửa chiếc chiếu mộc, nan tre cật, giấy phất cậy, xách một tay không nổi. Mấy người đem quạt ra, xúm lại nói:
- Làm quạt kéo quạt lúa, anh đội ạ.
Một lát aau, năm thước ruộng lúa đã hoá ra hiệu cắt tóc có quạt kéo ở đầu phố, như khi tôi còn nhỏ. Khách cắt tóc trời nóng ngồi dưới cái quạt kéo phe phẩy. Chỉ khác ở đây trên cánh đồng trống trải, người ta đem hai dóng tre bắt chéo như ba chiếc cọc gầu sòng nối nhau thành một xà ngang dài, mắc liền bốn cái quạt thóc dầy kệp. Bốn người hai bên bờ kéo thừng quạt luôn tay. Lúa rào rạt, gió quẩn rập rờn trên mặt ruộng. Người xem đông đâm ra vui như cái trạm gác, như quán nước đầu xóm.
Suốt đêm, rộn rã tiếng “ai đi hò lờ “: Địa chủ ta đánh đổ rồi. Hò lơ hó lơ…
Nhưng lúa vẫn nóng hầm hập. Cây lúa chật cứng như bó mạ cao vổng. Con cào cào rúc không lọt. Quanh chân lúa, đất sùi lên như đống mối đùn. Thế mà ngày nào cũng vẫn lũ lượt người đến tham quan. Tiếng lành đồn xa, hàng huyện đổ đi xem lúa thần kỳ. Những ruộng khoai, những bãi cỏ từ trên lưng đê xuống, vết chân xéo nhau nát thành lối tắt. Trên đầu đê, đã có người ra dựng nghiêng cái phên ra mở quán nước chè xanh. Nhưng khi thửa ruộng chon von ngả màu úa đỏ như một cái lò gạch nung đã chín thì người về xem cũng vãn dần. Chỉ ngắm nghía rồi lảng lảng quay ra, không ai nói một câu. Về xa đằng giữa đồng thì cả lũ bưng miệng cười hô hố, rồi chạy biến. Những khóm lúa lả rạt, trĩu xuống.
Dân quân cắt lượt vẫn mải miết quạt. Trưởng thôn Cối bận bịu việc nhận ruộng cắm thẻ. Chỉ còn mình tôi, với khi nửa đêm trở ra, mấy cô dân quân đi tuần không về trạm gác, mò vào đây bù khú. Chúng tôi thay tay nhau, người ngủ ngay trên bãi cỏ, người quạt cả đêm.
Đuôi mắt tôi đứt kẽ, thức toét cả mắt. Những chịu còm cọm xó đồng thế này chẳng biết lúa thần kỳ đi đến đâu, dẫu khó nhọc một tý cũng còn nhàn. Trong thôn thì mọi việc lúc khảng táng lúc rỗi rít, bùng nhùng như mớ dây thép gai. Chia ruộng, chia quả thực, mọi cái còn trên giấy thế mà ai cũng đã biết mồn một rồi cãi nhau. Lại họp, lại họp. Những người áng chừng mình chẳng được lợi lộc, đã lảng chân giò, rồi phàn nàn bảo nhiều đêm đi đấu, đi canh gác, đi quẩy đồ quả thực nhà địa khổ như con chó, khổ hơn thằng mõ. Thằng mõ ngày trước hầu làng còn được phần miếng xôi. Ừ rồi xem bần cố làm trò khỉ thế nào, lão bần cố Diệc kia mắt toét lông quặm ngồi đèn chói mắt, mồm ngậm hạt thị nói như người hụt hơi. Nông hội không họp được vì chẳng ai ở nhà, vào lúc nông nhàn, còn chạy chợ kiếm miếng, đi rao các làng thuê trèo cau trèo dừa. Có đấu đá tranh cái chia bôi nữa thì đến tối, đến tối. Lại toàn tin đồn: đội này về mới lấy ruộng của địa chủ, phú nông, mai kia đến đội cào bằng về thì cả làng thành một hộ, bao nhiêu ruộng đem nhập một, bây giờ mới thật đều như nhau. Đâu cũng kẻ lo người đợi, lại nháo nhác, lại thì thào.
Rắc rối nhất ở những nơi phải bình đi bình lại. Cũng là được chia, nhưng ai cũng tranh miếng ngon, Họp đêm chưa thông đội lại yêu cầu về nhà mạn đàm gia đình rồi báo cáo kết quả với đội. Thế là chỉ trong một nhà mà cũng chửi bới nhau rối xoè.
Vợ nói: Trung nông là cái thá gì. Quả thực chẳng được một cái cuống rơm, nếu được mua hoá giá cũng phải sắp hàng sau đít người ta, đến lượt thì chẳng còn cái rẻ rách. Đi dân công không được một đồng kẽm mà nay gọi mai gọi trung nông - Nhất định xuống bần nông thôi”
- Nhưng mà…
- Chẳng nhưng nhau gì cả.
Hôm sau họp, ai cũng đã biết nhà trung nông này có những thắc mắc ấy. Thế là tổ trưởng tránh lôi thôi, gác lại không cho họp. Vợ trung nông chu chéo: “Nhà tôi lên địa để các ông bần cố sắp đem đấu a? Thách đấy, có giỏi gọi cả xóm ra đây mà tố, mà đấu”. Nói cứng thế, nhưng về nhà cả đêm đào hố chôn nồi đồng, bát đĩa. Bốn tối họp rồi mà nào ruộng, nào quả thực chia bôi vẫn chưa đâu ra đâu.
Đêm ấy, lại bàn đến quả thực. Đêm nay, đội trưởng Cự làm khác. Cho gọi hết trung nông cứng, trung nông vừa, trung nông yếu đến họp với cốt cán bần cố. “Được, để cho chúng nó một trận mất vía!”. Nhưng chẳng nể anh đội, cuộc họp tán loạn không khác đêm trước. Có người nói như phát rồ khi thấy Cự đọc sổ sẽ chia cho nhà trung nông ấy chiếc vại. Nhà bà nọ có vại rồi, một mực đòi cái vại ấy. “Tôi là trung nông, những con tôi liệt sĩ. Ty thương binh trên tỉnh về nói thế. Bên kia sông đây, nhà có liệt sĩ được biếu hai sào thượng đẳng điền”. Cự nói: “Sắp tổng kết thắng lợi rồi”. Bà lão gào lên ngắt lời. “Tôi được cái gì mà tổng với kết!” Cự khêu gợi: Tại sao nhà ta có được ruộng đất như ngày nay? Ba lão xắn váy, té tát: “Không có tiền tậu, tiền chuộc thì các anh đem đất đem ruộng cho tôi đây à?” Rồi mắm miệng: “Đằng nào tôi cũng phải được cái vại ấy, hôm khiêng quả thực c, tôi đã đánh dấu vôi rồi”.
Rồi cứ cò kèo thế. Đội trưởng Cự nổi cáu, đập quyển sổ sừng sộ:
- Nhà mụ lọt lưới đấy, xấp xỉ phá đấy. Đừng có quá lời, chẻ hoe xóm này cho mà xem. Hai địa, hai phú, mười trung, mười sáu bần, tám cố, hai công thương, một kéo vó không có thành phần. Cho trung nông là phúc bẩy mươi đời, muốn lên địa phú à? Ai muốn lên thì tôi cho lên. Thoải mái.

Chương 3 (b)


Cậu nói nữa rỡn nửa doạ của đội trưởng khiến từ lúc ấy đến rạng sáng ai cũng im thin thít. Đội trưởng cứ nói choang choác, nghe rợn trong thanh vắng. Hăng quá, đội trưởng Cự kết luận: “Nhà bà kia tôi cho lên phú, từ nay không được đi họp nộng hội”. Tờ mờ sáng, bà lão về đến cổng, ngã lăn ra. Sớm hôm sau, nghe tiếng gõ cá áo quan cạch cạch lẫn tiếng người trèo ngọn cành nhãn hú “ba hồn chín vía…” về nhập quan. Nhà ấy thế là bị phú nông. Chỉ có mấy người họ gần đến khiêng quan tài, đám ma phú địa không được đưa ra phía trước mà đi đằng cổng đồng.
Đội trưởng Cự cũng đi đưa đám, nhưng đến đấy thì dừng lại, đợi đám ma đi khuất. Rồi Cự tạt ra đám ruộng lúa thần kỳ. Đội trưởng chau cặp mày lông nhím, cúi xuống, lấy một khóm lúa.
Hình như cây lúa chỉ đợi tay người đụng, cả khóm lúa ật ra ngả vạ. Rễ đã thối mủn đến bẹn cây. Bực mình, Cự ngẩng lên rút cái bảng “lúa thần kỳ” quăng vèo vào giữa mặt lúa đã đỏ xuộm như rơm sắp cháy.
Tôi ngạc nhiên, vờ:
- Ô hay, hôm qua con xanh mởn mà.
Tôi nhổ khóm nữa. Khóm nào rễ cũng nát ruỗng. Mấy tay dân quân quạt suốt đêm còn ngái ngủ, mở mắt trông thấy đội trưởng lại ra sức co chân đạp thốc cho những cánh quạt phất liên liến. Đến lúc đội trưởng ném cái bảng chỏng gọng vào ruộng, thì tất cả buông chân khỏi chòng lọng thừng, ngửa cổ cười khơ khớ. Các bọn này ngửi mùi lúa thối từ lâu, mà vẫn ra công quạt, quạt…
Cối ghé tai tôi:
- Em biết là thất bại từ lúc chưa làm. Nhưng anh bảo thì em phải vâng thôi.
Có cay đắng tôi không. Thế nào đội trưởng Cự cũng đổ tội cho tôi. Quả nhiên.
- Cậu thì chỉ biết rúc đầu vào váy mấy con dân quân từ chặp tối, còn hơi sức đâu mà nhòm ngó lúa má!
Trời, cái lão quái ác nay cứ bô bô giữa đám đông thế này. Đến từ mọt gông mất. Lão cũng chỉ suy bụng ta ra bụng người, tôi cong cổ hỏi:
- Đồng chí bảo thế nào?
- Một công tác quan trọng của đội bị thất bại, đồng chí phải chịu trách nhiệm trước đoàn uỷ. Tôi bảo thế, rõ chưa?
Từng nhát búa giọt vào hai mang tai, điếc đặc con nhĩ. Tôi sắp quỳ xuống, tôi sắp quỵ xuống. Thấy đội trưởng nổi lôi đình, mọi người xung quanh đã bỏ đi. Tôi xuống nước, ấp úng:
- Tôi…
Đội trưởng thao láo nhìn tôi. Rồi hai con mắt đỏ cụp xuống. Nhưng vẫn im lặng nặng nề. Gan bàn chân tôi như kiến lủa leoo vào đốt. Cự nói:
- Kiểm điểm trước đội đã, rồi tập thể sẽ quyết định.
Đã biết mà Cự nói tập thể chứ khi nào Cự cũng to mồm hơn mọi người.
Nhưng Cự lại dịu dàng:
- Nó thế chứ, tôi cũng nói cho đồng chí biết, các xã cả huyện này đều thất bại lúa thần kỳ hết, không phải chỉ có ở đây đồng chí biết chưa.
Không đợi tôi trả lời, Cự lại nói:
- Có công tác này gấp.
Tôi lại biết thế là thoát rồi. Cự nói như đương bàn bac, thế là mọi việc đã bình thường lại, bao giờ cũng vậy. Tôi hỏi thân thiết và lễ phép:
- Thưa, gì đây ạ?
- Việc này cần làm trước cho kịp tổng kết. Giao cho đồng chí tối mai tổ chức kết nạp đảng nốt số rễ chuỗi xóm Am, xóm Chuôm. Những người này: anh em đồng chí chỉ Cối - kể ra ông bố cũng tốt, nhưng phải cái tai điếc, thì thôi. Bố con đồng chí Đơm, có Đơm và ông Diệc. Cả thẩy bốn người. Làm tốt công tác này mới có thể xét lại đội đã để chết lúa thần kỳ được.
Dù sao, thế là lại êm rồi. Nhưng tôi còn lúng túng chưa rõ việc kết nạp này cũng không lấy gì làm to tát mà tôi lại được giảm cái tội mất mặt kia. Hay là Cự cần sĩ diện, hay là bởi lúa thần kỳ cả hàng huyện, hàng tỉnh đều chết toi cho nên hoà cả làng, không thành tội lỗi ai. Tôi làm kết nạp đảng viên cho rễ và chuỗi đã hai lần, mặc dầu chưa ở đâu tôi dám hé rằng cái nỗi mình không phải đảng viên.
Tôi đương nuôi hy vọng rồi sẽ xoay được một giấy giới thiệu về cơ quan, tôi là đảng viên, được kết nạp mới toanh giữa cuộc đấu tranh, quyết liệt. Tôi đem về cơ quan cái giấy ấy. Vả lại, khuyết điểm ngày trước của tôi xảy ra ở cơ quan đã lâu mà các phòng, các ban thì đổi xoành xoạch, có khi trở về chẳng ai nhớ, lại nhiều người mới chẳng ai biết cái việc khỉ ấy. Lần ấy tôi đã được duyệt lên đối tượng. Rồi tôi bị nhà bếp phát hiện tôi ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Bấy giờ, mì chính còn hiếm như vàng. Cả tháng, được bán phân phối một gói mì chính Thai Lan thật hiệu “cái gáo” đem chia cả phòng hơn hai mươi người, mỗi suất được ba thìa con. Thế cũng đã quý, chỉ vài hạt rắc vào bát canh rau muống, đã ngọt thơm khác hẳn canh không người lái.
Tôi làm công đoàn, được đi mua lĩnh những gói mì chính quý báu về. Tôi nghĩ được cách bóc khéo mép cái giấy eosng gói, nhét đường tây vào. Mì chính và đường đều trắng nhuế nhoá, mà đường lại ngọt sẵn giống mì chính. Đến hôm chia, tôi bày ra cắt từng gói mì chính trước mặt mọi người. Anh em đã dọc giấy sẵn để gói từng suất”. Chẳng ngờ mấy hôm trời trở nồm, bao mì chính đã hở rồi dán lại, đường ướt vón thành cục trong bao. Tôi không thể chối được “thằng ăn cắp đã trộn đường vào mì chính…”, đối tượng đảng của tôi chìm vào bóng tối, đi tong.
Tôi nghe rõ đội trưởng Cự nói rồi, nhưng cũng giả hỏi lại:
- Tối này à?
- Không, tối mai.
- Làm ở địa điểm nào?
- Tận nhà đồng chí Diệc bên Am.
- Tôi có phải đi triệu tập…
- Đã báo cả rồi. Xong việc này, báo cáo lên nhiều công tác một lúc, mới che được cái thối lúa. A cả các nơi cũng thế.
Rồi cười hì hì. Rồi lại nói:
- Có việc này tôi dặn trước đồng chí.
- Việc gì ạ.
- Bố con Diệc là con rể, là cháu địa chủ có tội ác.
- Vâng.
- Hôm chôn được ba ngày thằng Diệc còn về cúng cơm bố vợ.
- Ôi, thế thì làm sao kết nạp…
- Nhưng bố con anh ta đều là khổ chủ, đã tố dứt khoát rồi. Có đúng thế không?
- Đúng.
- Đồng chí làm biên bản cứ nói gọn nhà nó là thành phân bần cố, đừng lôi thôi chữ nghĩa gì thêm nữa.
Làm việc, làm mưu mẹo dồn dập, tôi dạ nhịp rồi ngồi thần mặt cho đến lúc đội trưởng Cự đội vai đeo sắc cốt, bước ra. Cự lên khỏi đường bờ ruộng, tôi chưa lại người, vẫn con tù mù như ngái ngủ.
Đội trưởng Cự chợt quay lại. Hốt nhiên, tôi chột dạ, không hiểu sao lại trợn hơn lúc này.
Nhung Cự chỉ nói:
- Này bảo thằng Cối ra cuốc ngay cái mả ăn mày đi. Xem dây khoai, dây muống ở đâu thì rấp vào. Để thế người ta đi qua chửi cho thì cậu đeo mo nang vào mặt đấy.
- Vâng, vâng.
Trưa hôm ấy một mình Cối cặm cụi san lấp, trồng mới năm thước ruộng chéo mõm bò lại thành ba luống dây khoai mới gọn ghẽ, một lúc đã hết tang tích cái ruộng lúa thần kỳ vu vơ.
Chiều hôm sau tôi lo lẽ kết nạp, nói là sửa soạn, nhưng cũng đơn giản. Bấy lâu đi cải cách, theo khẩu hiệu đồng ruộng là chiến trường, ở mặt trận thì tất tật mọi việc đều giản dị, khẩn trương, từ giấy tờ đến mọi lễ lạt anh đội ở mỗi thôn lo lấy việc lễ kết nạp, cáng hết từ giới thiệu đến công nhận đảng viên dự bị.
Tôi tính đốt ngón tay từ khi về xã này lần lượt qua các công tác: bắt rễ xâu chuỗi, cụng đầu tố khổ, chỉ định trưởng thôn, thành lập dân quân, đấu bá, cắm thẻ nhận ruộng, chia quả thực rồi kết nạp đảng, tiêm máu mới vào tổ chức cơ sở rồi liên hoan xong đội rút về khu tổng kết, xong lại chuẩn bị đi đợt khác. Ở đâu chưa biế, đã có tài liệu và kinh nghiệm các hội nghị, nói và làm đã thuộc. Từng bước tuần tự tuy bận thật, nhưng thật cũng không nghĩ nhiều hơn và lẫn lộn những ăn ngủ thường ngày, kể cả khi hò hét những câu to lớn mà không hiểu nghĩa đến đâu, cứ phán ra đấy.
Tôi đi bảo mọi người, dẫu đã rõ ai cũng biết rồi. Tôi làm thế cốt ra vẻ ta đây quan trọng. Bác Diệc ngần ngừ: “Tôi đã xin với anh đội trưởng tôi cũng như cố Cối điếc lác, tôi nhìn đền thì lông quặm cụp xuống, loà lắm, ngồi đâu cũng sợ sáng phải chui lủi như con ếch con nhái thì đừng cho chúng tôi lên đảng làm gì”. - Không, trưởng thôn phải vào đảng, trưởng thôn cả nước đều đảng viên, rồi còn lên chi uỷ, lên huyện uỷ, tỉnh uỷ. Bác Diệc cười méo một bên miệng: “Đội ơn anh giúp cho, tôi mà lên quan huyện thì cả vùng này nó đặt vè. - Vè thế nào? - Từ thuở chui trong bụng mẹ ra thằng Diệc chưa biết đường lên huyện đằng nào. – Cờ đến tay ai người ấy phất chứ. Làm rồi khác biết. Tối mai, cứ tối mai đấy.
Tôi tưởng bảo cái Đơm thì có thể khó. Tính nết nó trẻ con. Đơm giận tôi hay là Đơm bết đội trưởng quá, lâu tôi không gặp. Chẳng ngờ lại dễ như đùa. Tôi vừa nói “mai đi kết nạp nhé”, Đơm cắn tôi một phát vào vai. Nanh răng nó lõm một vết, đau như chảy máu trong áo. Dữ như con cho cái ghen con, nhưng tôi biết thế là nó đương sướng, nó đã bằng lòng. Tôi nèo thêm một câu cho chắc: “Tối đến đấy”. Đơm không trả lời, Đơm xông đếm toan cắn nữa. Tôi chạy.
Thế mà khi bảo Duyên lại đâm ra rắc rối nhất. Duyên đương dựa cột ngồi thừ trong góc nhà, mắt đỏ hoe. Tôi sà xuống ôm Duyên. Duyên đẩy tôi hự một cái văng bắn ra, trán vập vào cái cột. Phải một đòn bất ngờ, tôi loạng choạng. Nếu không vớ được cái cột, chắc đã ngã bổ chửng. Tôi tưởng Duyên rỡn, thường ngày Duyên vẫn đùa táo tợn thế”. Nhưng rồi cũng không dám xàm xỡ, tôi chỉ men đến. Bỗng Duyên chửi rống len:
- Cha tiên nhân bố chúng nó!
Rồi hu hu khóc. Nó chửi bóng tôi a? Không có lẽ. Tôi ngọt nhạt khẽ gọi: Duyên, Duyên ơi. Duyên lại chu lên. Tôi bảo đừng, đừng thì Duyên cang nức nở, lại chửi. Gần chùa gọi bụt bằng anh, oai anh đội ở tôi trong con mắt Duyên bị mờ nhạt, chìm nghỉm đã lâu rồi. Tôi ngồi im nhìn Duyên. Động lòng, tôi nghĩ vơ vào giá không dở cơn khóc cơn chửi chắc nó đã cờn lên tôi rồi. Cái môi rừng rực cong lên thế kia ngoạm vào mặt, như con lợn tháu xốc cám. Nhưng mà Duyên vẫn đương khóc, đương chửi bới.
Tôi đã đoán chừng được những giọt nước mắt của Duyên. Mấy hôm ấy lại một đợt cán bộ thôn đưa người đi nhận ruộng. Từng bó cọc thẻ đan nan đầu như cái vỉ ruồi dựng ngoài bờ dậu. Mọi người xô sang những cánh đồng bên kia sông, đấy đất gan trâu, không phải phù sa, toàn ruộng lúa tạ. Ngay chia không xong, tối lại họp. Người quát tháo, người chửi, người kêu khóc, người vùng vằng bỏ về, lại rồi lên. Chắc Duyên ở đám ấy ra. Không biết ruộng nương được thế nào, đến đâu rồi, xong chưa.
Duyên hơi ngớt, chỉ cón thút thit, tôi khẽ hỏi:
- Cái gì thế?
- Chúng nó bảo em sắp về nhà chồng, không có khẩu ở đây. Không được chia.
- Đội trưởng Cự biết không?
- Anh ấy bảo phải đi trình bày với nông hội.
- Thế thì được.
- Được là được thế nào. Những quân mới ngửi thấy hơi ruộng đã giơ chân nắm tay như bọn trâu điên. Em bắt đền anh.
- Được rồi.
- Những như anh Cự cũng còn co vòi nữa là anh thì ra con qué gì.
- Đã có cách.
- Cách thắt cổ chết à?
- Đã biết chưa, tối nay kết nạp. Xong thì em thành đảng viên. Đứa nào dám ho vào thì có mà chết tươi. Đảng viên rồi lên cán bộ, lên chi uỷ, làm gì cũng được.
- Thật thế hả anh?
Hai mắt Duyên đã ráo hoảnh, lại cười tit. Nhà đương vắng. Chúng tôi lôi nhau chui vào xó luồn ở vách sau. Tàu lá dáy cọ đi cọ lại vào mặt gây mùi ngai ngái. Duyên đè ngửa tôi ra, như trả thù chứ không phải phải là đền ơn. Cặp, túi, mũ vứt vung vãi. Lát sau, Duyên cười rúc rích lôi tôi dậy. Tôi đeo túi, đội mũ rồi ngoái cổ lại: “Tối nhé”.
Xế trưa, đội trưởng Cự lại tìm tôi. Trên cánh đồng, những cây thẻ cắm nhận ruộng lố nhố như quân cờ bỏi. Đội trống ếch rập rờn đằng thôn Đìa nghe xa xa dưới đồng sâu lên. Đôi chốc, tiếng tù và rúc như sáo chiêng sáo đẩu con diều thi hội các làng ngày trước. Đàn ông đàn bà biết xăm xăm đi không nhìn ngang ngửa, ai cũng cầm một bó thẻ cắm ruộng như bó chông. A lô, a lô… Bà con nông dân tập trung bên bụi duối nghe điểm danh… A lô, ngày hộ thắng lợi, hát lên, hát lên… Một hai ba… Chủ lực là nông dân ta… Ai đi hò lờ… Hò lơ, hó lơ…
Tôi ra đồng nhưng tôi không túi bụi vào đám chia ruộng, nhận ruộng.Tôi rà rà men bên bụi tre. Ở đấy, mọc dại những bụi hoa mò đỏ sẫm, những cành tầm xuân gai lủa tuả hoa màu đào phơn phớt. Tôi hái hoa mò, hoa tầm xuân, bó thanh bó. Đội trưởng Cự đã biết tới sau lưng.
Đội trưởng Cự cười:
- Trang trí hội trường à?
Rồi Cự nói:
- Vợ tớ sắp được sang đội công tác cải cách bên Thái Bình. Tối nay tớ cho nó lên để cậu kết nạp một thể. Tớ kết nạp nó ở dưới ấy thì không khách quan, quần chúng người ta phê bình.
Rồi đội trưởng Cự tăng tả đi, câu nói và việc việc nhẹ nhàng coi như gài thêm, như tình cờ. Chiếc loa giấy đeo đằng lưng nho nhốp như con chó con leo dây giật giật. Cũng chẳng nghe câu đệm nịnh của tôi “Anh yên tâm, sẽ kết quả”, đội trưởng đã mải miết biến vào đám người xúm xít giữa đồng. Tôi biết việc kết nạp vợ Cự đáng lẽ phải nói từ hôm nọ thì bây giờ Cự làm như chợt nhớ ra.
Chặp tối, bác Diệc đun sẵn nồi nước chè tươi vò. Cái chè voh thật đạm giọng. Tôi uống đâm ra nghiện. Xuống ở nhe Cối, được cái Cối cũng uống chè vò sáng sớm. Tôi mới để ý ở đây đi ra đồng ai cũng uống mấy bát nước chè vò rồi đến trưa mới ăn cơm. Gà gáy tan canh bác Diệc đã lúi húi vò nắm chè hái chiều qua bỏ vào cái ra con, dội đổ một lượt nước sôi “làm lông chè”. Xong đâu đấy, bỏ chè vào cái ấm đất, đun liền một nồi. Khi ấy, tôi cũng vừa dậy. Tôi chưa dậy bác Diệc gọi to: Nước đương ngon, anh đội, anh đội ơi! Tôi lồm cồm bò trong chõng ra, mắt nhăm mắt mở, hớp từng ngụm. Che tươi vò ngọt chát mà bùi, cái ngái ngủ, cái mệt quần thảo với Đơm cả khuya đêm qua biến hết. Bác Diệc và tôi làm hết liền hai ấm nước. Rồi bác Diệc ra đồng. Vác cày, cuốc, bừa hay cái cào cỏ thì cũng cái giỏ đeo lưng, được con cua, con nhái thì bỏ lên đấy. Ở nhà, có hôm tôi với Đơm lại quần nhau nữa, khi các em Đơm cũng đã ra đồng cả, rồi tôi có đi đâu mới đi”. Đã lâu quá, tôi đi khỏi nhà Đơm, mà vẫn nhớ, nhớ thế.
Bây giờ, trên chõng, bên ấm nước, ngọn đèn hoa kỳ không có bóng hiu hiu lay lắt. Trên gian thờ, bó hoa mò và hoa tầm xuân, trong nhấp nhoáng cũng lạ mắt. Duyên vừa đến, trong thấy bó hoa, nói một câu khiến tôi chưng hửng.
- Cái hoa mò nhiều bọ mò lắm. Bọ mò chui vào cắn rốn thì có mà ngứa toác bụng ra.
Tôi chống chế:
- Màu đỏ hoa mò đẹp.
- Đẹp nhưng mà cả đêm chẳng ai gãi rốn hộ tôi.
Duyên bước lại, rón ngón như sợ con bọ mò leo lên tay.
Chẳng cần hỏi tôi, Duyên cầm bó hoa vứt ra bờ rào rồi vào bậu cửa ngồi với Đơm. Bà lão loà trong kia đã lẫn vào bóng tối chẳng ai nhìn thấy đâu cả. Muỗi ở cái chuôm cạn sau nhà tràn vào vo ve ram ran, táp vào mặt như vốc trấu ném.
Một người con gái dáng tháp nhỏ đương vào qua bụi duối. Vợ đội trưởng Cự. Một lần nữa lại trông khác hôm nọ. Áo nâu mới có xây vai đeo túi vải ka ki tím. Đầu búi tóc kiểu cán bộ, không chít khăn nâu như mọi cô gái trong làng.
Tôi nói với mọi người:
- Hôm nay kết nạp có cả vợ đồng chí đội trưởng. Duyên đứng phắt lên, rít hàm răng:
- Con đĩ kẻ Đìa hả?
Vợ đội trưởng Cự bước vào nền đất thềm nhà:
- Chào…
Duyên đã lao ra túm tóc, dìm xuống: “Tiên sư con đĩ! Bà xé xác con đĩ!” ả nọ chưa kịp biết thế nào đã bị ngã huỵch lưng vào chiếc cột tre như cây dừa đổ, cả cái nhà rung răng rắc chao đi. Đơm cũng vừa lăn xả tới. Tiếng chửi, tiếng đấm đạp huỳnh huỵch, tiếng xé quần áo rợn tai. Ả nọ chết dí không ngoi đầu được. Duyên ngồi cưỡi lên – Mày mà kêu, thì ba nhét cứt vào mồm!”. Người đàn bà bị hai người nắm tóc dằn xuống ngồi phệt vào mặt, cứ xoay như cối xay, tiếng ngạt ú ớ. Ngọn đèn lung lay vì gió đòn, tắt phụt. Tối om om, tiếng đấm, gót chân đạp càng huỳnh huỵch và những tiếng xé quần áo soàn soạt. Bác Diệc và tôi loanh quanh lính quýnh không biết làm thế nào.
Vụt một cái, bóng người vùng được lên, chạy thoát ra ngõ. Vấp vào trưởng thôn Cối đã đến từ nãy vẫn đứng ngoài. Cối văng ra, cũng không kịp nhìn ai. Nhưng Cối cũng không vào nữa.
Buột mất con thù rồi, Duyên và Đơm hổn hển lên ngồi xuống đầu chõng. Bác Diệc chẳng biết ngô khoai thế nào vào bếp thổi đống dấm, đem cái đóm ra châm lại đèn. Hai khuôn mặt mồ hôi nhợt nhạt trong ánh đền chập chờn. Đơm cầm lên cái túi vải đeo vai của vợ đội trưởng. Đơm móc tay lôi toạc cái túi. Chẳng có gì, chỉ thấy lòi ra mảnh rẻ. Duyên đương còn hầm hầm sưng mặt cũng cười ré: “Cái túi cán bộ tố điêu của con đĩ!” Cái tay Đơm rơm rớm máu. Đơm giơ lên khoe: Tớ đấm mó gẫy mấy cái răng… Duyên cũng hớn hở: - Tớ ngồi day đít thật lực vào mặt nó!
Thế là vỡ họp. Uống hết ấm nước chè rồi tôi về nhà cả Cối bên Chuôm. Suốt ngay túi bụi ngoài đồng cắm thẻ mới về, đã đến thẳng nhà bác Diệc. Chẳng nên công chuyện gì
Tôi kể chuyện trận đấm đá vừa rồi, Cối cũng lắng yên nghe như vừa mới biết. Cối cười hê hê.
- Ối giời, có thể mà anh chẳng đoán ra.
- Không đoán ra làm sao?
- Chúng nó đánh ghen. Ngứa ghẻ đòn ghen
Tôi lờ mờ nghĩ ra. Hmh như cái gì tôi cũng hiểu chậm, nhiều khi có việc tôi chưa tóm được đầu đuôi thì xung quanh đã vanh vách cả. Tôi đâm bối rối, vẩn vơ, một mình lang thang, toii lại đi đến khuya, đầu óc lơ mơ. Hôm sau cả làng lại sôi lên, tất tả, hừng hực những rơi rớt chuyện ruộng và quả thực.
Tôi tìm đội trưởng Cự để nói cái việc tối qua hỏng bét, tôi lại thật thà muốn bảo Cự rằng tôi thấm thía cái đuôi câu nói của cả Cối. “Vì anh đội trưởng máu dê cho nên chúng nó đánh ghen. ăn vụng nhiều quá, chùi mép không hết”. Nhưng chỉ nghĩ thì hăng hái vậy thôi, tôi chẳng dám nói.
Tôi đi tìm Cự nhiều nơi, đến tận chiều cũng không thấy Cự. Không hiểu Cự đi đâu. Chập tối, tôi lại ra đi tuần với dân quân, một ngày có buổi đi tuần là vui thú nhất. Khuya, tôi vào cái lều canh trên mặt nước bùn inh tai tiếng ễnh ương như mọi khi. Nghe rào rào người nói và tiếng khúc khích từ xa. Hình như đám con gái đang cong mỏ chuyện đánh ghen nọ. Tiếng Duyên lát xát nỏ mồm nhất. Chúng họ đã trông thấy tôi.
- A anh đội! Anh đội!
Tiếng chào hỏi và những cầu nói trống không chớt nhả:
- Xê ra, bọn dòi bọ xê cả, xê ra. Rước anh vào với cái Duyên. Cái Duyên được ngồi cạnh anh trước, cái Duyên trước. Thế anh Bối xử kiện đám đánh nhau chập tối hôm qua thế nào? Anh phụ trách toà án giỏi đấy, không có anh thì có án mạng rồi. Tội nghiệp qua, vợ đội trưởng bị đứa nào đấm gẫy răng lại chát đít vào mặt, đứa nào thế, hả anh?
Tiếng cười the thé. Cả lũ lại đã nằm thườn thượt chen nhau kín cái sàn hóp đá. Lại nhao nhao.
- Sao anh Bối không vào can? Nhớ để có đứa chết thì làng mang vạ.
Tôi chỉ lặng im trong bóng tối đêm khuya mát trời. Chẳng mấy lúc, đã rập rờn những tiếng ngáy, không biết ngáy thật hay giả. Cái trạm gác vẫn như mọi đêm, cứ nằm đây thì tôi chẳng còn nhớ còn sợ anh đội trưởng đã doạ “mày ngủ với bao nhiêu con dân quân”. Tiếng chẫu chàng uôn oạp râm ran rõ lên từng lúc. Chỉ giun dế thì rỉ rả liên hồi. Chốc chốc, dưới nước gầm sàn một con cá chuối quẫy đớp chiếc lá súng kêu chách một cái.
Tôi lần sờ vào cổ Duyên. Duyên hất tay tôi vật lại ngực tôi huỵch một cái. Thế là nổi lên tiếng choe choé ở một góc. “Háu thế, trò chuyện cái đã nào!” Rồi các góc cười rộ lên. Cả những đứa lúc nãy vờ ngáy cũng cười sặc, ho khòng khọc. Chúng nó cợt nhả, chẳng khác ếch nhái kêu chẳng chuộc dưới gầm sàn, như mọi đêm, tôi đã quen. Và chúng tôi cứ rì rầm trong bóng tối, biết chúng nó đương dỏng tai lên nghe cả. Duyên cắn tai tôi, nói: “Đánh cho nó về bảo liệu hồn những thằng đàn ông máu dê này này”. Nhưng rồi Duyên lại dịu dàng vuốt mu bàn tay tôi.
- Anh Cự chia cho em được một miếng ruộng với một gian nhà địa chủ Thìn.
- Về nhà chồng đến nơi, lấy nhà làm gì!
- Của giời cho chẳng lấy cũng thiệt. Mà bán ngay rồi.
- Phải cho nó ngủ mấy lần?
- Còn hỏi thế nữa thì thiến.
- Sướng thế mà lại đánh vợ người ta.
- Cứ đánh chứ. Hí, hí…
Đêm dần dần khuya.
Sớm hôm sau, cái chòi canh lại biến hết người lúc nào. Như mọi khi, tôi vẫn rũ rượi ngái ngủ chưa dậy được. Tiếng lạt xạt cỏ, tôi hấp háy nhìn ra. Đội trưởng Cự đương xăm xăm vào.
Cự nói ngay:
- Tôi hôm kia, tớ nắm được chuyện hết rồi.
Tôi ngồi dậy, vẫn lúng túng, Cự lại nói:
- Cũng coi như xong, không có gì đáng lo.
- Là xong thế nào?
- Xong là xong, là kết nạp cả rồi. Đồng chí làm báo cáo ngay đầy đủ tên tuổi như tôi đã bảo, tôi ký chứng nhận rồi gửi lên đoàn uỷ cho kịp.
Chẳng hiểu thì cũng như hiểu, thế là được rồi. Tôi đương nghĩ đến cái giấy giới thiệu mai kia tôi sẽ được về sinh hoạt Đảng ở cơ quan, đội trưởng Cự sẽ kỹ xác nhận, dấu đỏ đoàn uỷ kèm bên. Đội trưởng Cự làm cái gì cũng được, lão này như cú như cáo, có thể nó đã biết tôi không phải đảng viên. Nắm đằng chuôi, làm được việc cho lão cái đã, tôi viết báo cáo ngay. Việc của tôi rồi tính sau.
Đội trưởng Cự dửng dưng nói sang công tác khác.
- Các thôn đã cắm thẻ gần xong. Nhân dân đương phấn khởi chuẩn bị liên hoan thắng lợi. Tôi phải lên đoàn uỷ, có công văn triệu tập hoả tốc. Sáng nay không hội ý đội, đồng chí về xóm Chuôm thấy nếu còn thì chia nốt chỗ đồ thô quả thực ở nhà địa chủ Thìn. Cái nhà thì tôi đã cho bốn hộ cố nông. Hôm nào xong đem hết quả thực đi, người ta đến nhận mà. Đấy, công tác hôm nay của đồng chí. Chưa xong hôm nay, mai phải dứt điểm.
Nói rồi đội trưởng Cự đi, khoác cái sắc cốt nặng những công việc xô lệch một bên vai áo đại cán.
Tôi lại vào nhà địa chủ Thìn - hôm trước mít tinh xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn thôn tôi đã cho đưa lên xã hết qua thực. Có còn mấy cái chum vại, cái khung cửi vải, cái thuyền gang tán thuốc bỏ tuềnh toàng giữa bãi, mỗi đêm lại mất trộm một thứ. Chẳng biết bây giờ có còn gì.
Cái nhà ngói ẩm thấp, cổ lỗ, như mấy mươi đời nay vẫn lụ khu thế. Những bức tường gạch vồ để mộc không vôi vữa đã lên rêu xanh đen, lại thêm từ mấy lâu nay những dây mã đề, lá mảnh bát, dây bìm trong kẽ gạch mọc ra. Hai lần cổng tán ngoài ngõ mới vào đến cái cửa gạch xây trên rấp chông trá chống cứơp cao như chòi canh. Năm gian nhà ngói thông thống trước cái sân gạch Bát tràng, cuối sân có một bể nước hứng nước mứa hai cây cau.
Trong nhà ngoài sân tan hoang, sạch như chùi chẳng còn một bóng đồ đạc. Hôm trước những cái còn lại được đem về đến đây rồi đêm hôm người ta đã mang đi, đội trưởng không biết - chẳng ai lạ, chỉ đám dân quân thôi mà. Hàng cây cau liên phòng lùn tịt, không phải mùa qủa cũng chưa đến mùa hoa, đứa nào ngứa tay đã chặt trụi hầu hết. Trong nhà, các bậu cửa gỗ, hai gian trái lồng bức bàn thành buồng cũng bị tháo vác đi. Một mái nhà hậu trống hốc, đã dỡ mất một mảng ngói. Nhưng hộ mới được chia chưa đến ở nhưng gian nào cũng đã rấp rong, những hàng gạch sân được nạy lên xếp phân ranh giới, lại chăng dây ngăn từng khoang như rào bờ ao. Tôi không đoán được gian nào Duyên được chia. Nhưng mà nó bán cho người ta rồi, có biết hay không biết, cũng chẳng làm gì.
Không ai lai vãng đến, ở thôn khác cũng đương có chia của người ta kéo đến hôi. Tôi ngồi xuống thềm, định ngồi một lát rồi về, tôi thờ ơ trông ra bể nước. Cả xóm cũng không nghe động tĩnh chỗ nào. Nhiều nhà còn đổ ra đồng xem chỗ ruộng mới được cắm thẻ, không thì kéo nhau đi tìm những nơi còn chia quả thực, rồi lại quay về ngắm ruộng. Những khoảng ruộng đã được rào kín như dàn trầu không, mà vẫn chưa yên tâm. Ngày thì đi quanh xem ngắm cho thuộc mặt ruộng mới, tối còn mò rình có đứa nào nhổ thẻ cắm lấn bờ.
Một người lừ đừ ngoài cổng tán vào. Thoạt nhìn cái áo da cứt ngựa, biết trưởng thôn Cối, tôi vẫn giật mình. Cái áo của địa chủ Thìn tôi đã trông thấy Cối lột, vẫn mặc cả ngày cả đêm từ hôm ấy.
Trông thấy tôi, Cối sững lại. Cối ngỡ trong nhà không có ai.
- Anh ở đây à?
- Ừ. Quả thực đâu cả mà đây không thấy? Đội trưởng bảo tôi đến chuẩn bị chia nốt.
Cả Cối cười.
- Còn cái quái gì mà chia với bôi. Đội trưởng chỉ còn thấy lúc nghe báo cáo thôi. Chiều hôm qua có mấy cái mễ lăn lóc, em định đến đem về, thế mà bây giờ cũng đã biến.
Cả Cối chắp tay ngắm quanh rồi trỏ cái dây mây, nhìn tôi:
- Cái rơm cái rác này chẳng đáng một tiền, anh cho em nhé.
Rồi Cối cởi cái dây mây hai đầu buộc vào hai cái định chốt ở tường, dây phơi xống áo. Cối nhổ cả đinh rồi Cối cuộn vòng tròn lại, cắp lên nách. “Chào anh Bối”, Cối cung cúc ra. Đến cổng gạch ngoài, Cối ngoảnh cổ lại gọi to:
- Anh Bối! Anh cho em…
- Cái gì?
-Cái mê tín này ấy mà.
Cối trỏ tay vào con chấu đá to bằng hòn gạch chỉ chôn ngập chân cho đầu tường. Cối vừa hỏi vừa lay nậy con chó lên. Không nghe tôi trả lời, cũng không phủi đất, Cối cắp con chó đá vào nách bên kia rồi lui lủi đi.
Tôi vẫn ngồi thừ đấy. Tôi không biết đi đâu, tôi ngại ra đường nhỡ gặp việc lại phải làm. Nhưng ở không cũng không tiện. Lúc nào cũng bận rộn, anh đội không thể ngồi ơ mặt ra thế này. Viết báo cáo kết nạp đảng mà Cự nói thì trong đầu chưa nghĩ được chữ nào. Bây giờ mở sổ tay ra hí hoáy viết nháp, viết không khó, nhưng nghĩ thì mỏi mắt lắm mà lại không kềnh ra ngủ ngay ở vỉa hè này được. Tôi nhớ hay là về nhà bố cả Cối. Cái ba lô kê ra, úp quyển sổ lên mặt. Giả bộ làm việc mệt quá, không ngờ lại chợp đi – thường vẫn thế, mà cũng đương phải nghĩ phải làm thế thật.
Tôi đeo túi lên vai. Bỗng Đơm ở đâu nhớn nhác đến. Dạo này Đơm bảnh gái hẳn ra. Chắc đội trưởng đã vẫn ra uốn nắn tợn. Mảng vá đụp đít qìân hứng cái bẩn thấy tháng đã được thay bằng một miếng vải nâu da bò mới vuông vắn. Tấm áo tấc nâu đã ríu lại những chỗ sứt chỉ, lộ cánh tay trùng trục. Đôi vú tròn vồng ra như hai qua bưởi. Lại hay đỏ mặt cười toe toét. Đơm có chửa rồi cũng nên. Biết nó chửa với thằng nào, với tôi hay Cự, hay thằng nào nữa. Đội không rút nhanh, nó phưỡn bụng ra đứng chỉ vào mặt đứa nào; thì có mà chết mất ngáp. Đơm đến đây làm gì. Có thể Đơm trông thấy tôi, Đơm vào. Chưa đã cơn à.
Nhưng Đơm làm như không thấy tôi. Đơm nhìn xéo trong nhà rồi đi thẳng vào. Tôi ngờ ngợ thế nào, đây là nhà bên ngoài, Đơm đã thuộc cả. Đơm lúi húi trong ấy một lúc chưa thấy ra.
Tôi hỏi vọng vào:
- Ngủ trong ấy à?
Đơm nhón gót bước ra, mặt cau có khác lúc nãy. Đơm lẩm bẩm một câu, rồi sa hai dòng nước mắt.
- Chúng nó đào mả cha nhà chúng nó hết rồi.
- Cái gì?
- Em chôn chục cái bắt chiết yên ở chỗ gầm trạn mà cũng có đứa moi lên.
- Vào xem lại, xem kỹ cái đã.
Đơm lừ mắt, có khi đã đoán không phải tôi nói vào xem lại còn hay không. Nhưng Đơm vẫn đi với tôi vào gian khuất trong bếp. Một thoáng, hai đứa đã nằm rúc chân tường dưới những dây thài lái tía. Ai đi ngoài không trông thấy, nhưng nằm ở đây có thể nhìn sang được bên kia bờ ao, thấy chân người đi vào.
Đơm nói:
- Chỉ được cái này là giỏi.
- Có giỏi hơn đội trưởng không?
Đơm đương nhay tôi tưởng đến sứt miếng môi. Bỗng Đơm nhả ra nghển lên, lơ láo nói khe: “Cái cối! Cái cối!” Rồi Đơm đẩy tôi ngã xuống mép tường. Đơm kéo quần, chạy ra. Đơm cứ thế chạy, quên cả tôi vẫn nằm trong bụi thài lài. Nhưng tôi cũng đứng ngay dậy. Bây giờ mới sợ nhỡ con rắn dưới ao bo lên.
Tôi thần người, ngồi lên cũng nhìn được vẫn ở đấy cái cối đã lâu đời đã thủng chôn như hòn gạch bot lăn lóc, chỉ đến mua để đập lúa. Đơm chạy thoắt đến bên cối. Đơm bê cái cối nghiêng lên rồi cứ thế Đơm vần cối ra ngõ. Cái cối đá thủng lăn như bánh xe. Không biết làm thế nào rồi Đơm vần được cái cối đá từ bên Chuôm về thôn Am. Vào đến sân, hai tay Đơm nâng hẳn cối lên, đẩy vào giữa nhà. Rồi Đơm lại chạy biến đi. Nhưng Đơm không trở lại chỗ tôi. Đơm lại nhớ ở đâu có cái gì. Mấy hôm ấy ai cũng bận bịu hớt hải đi tìm kiếm vơ vét.
Người mẹ tàn tật vẫn chầu hẫu trong xó luồn cuối vách. Có lúc nghiêng đầu như nghe được tiếng chân, tiếng cái cối lăn thình thịch. Hai con mắt cùi nhãn ngước ra. Người đàn bà như con cóc ngồi gầm giường. Con cóc lúc trở trời kèn kẹt nghiến răng. Người này chỉ là cái bóng con cóc. Nhưng hôm này bỗng nhiên như biết nghe ngóng. Hai bàn tay chống lên hai miếng gõ, người ấy bò ra chỗ sang sáng trước cửa, lại lần đến bên cái coi thủng. Ban tay vêu vao khô đét, đen như đất, rờ lên lỗ hổng miệng cái cối.
Ôi con người đến lúc tỉnh lại. Bao nhiêu lâu nay mọi cái trong lều này người đàn bà ấy có tỏ tường như mọi người ta hay không, chẳng ai có thể rõ được. Cái cối đá, cái cối đá, có bé qùe đã trèo leo từ tấm bé. Ngay xưa, buổi chiều, cơm nước xong ngày nào chả được chị được em ôm ra ngồi thọt đít vào cái hũm đã thủng. Còn bé cởi truồng tồng ngồng, mẹ đem ra tắm ao rồi cõng lên đặt xuống cái lỗ cối đá. Như thằng phỗng, như con tò he ai đặt đâu thì ở đây. Hai con mắt đục mờ, hai đầu gối, cái khoeo teo lại như cái sống tàu lá chuối héo. Không biết gì, nhưng cái ngày xưa của con người thì như tranh đám cưới chuột, tranh con lợn tết dán lên cột, nhớ mãi. Ơ là vậy, con bé bộ xương ngồi giữa chiếc cối đá thủng trông ra hàng cây cau như những chân còn sếu gió đánh lắc lư. Ngoài kia, mặt nước ao bèo cái xanh om chốc chốc từng đàn cá trắm ăn lên quẫy ùm ùm tưởng như người ngã xuống ao. Chiều chiều, tiếng người ta gọi nhau lao xao bên đường làng, rồi một chùm sao Hôm lấp lánh lên đằng chân tre, đứa con gái ốm yếu lui vào giấc ngủ, vào cơn mê mù mịt đời người.
Nhưng chỉ một bàn tay run rẩy đụng vào mắt cối thì trong khoảnh khắc tất cả thảng thốt nhớ lại. Người đàn bà cúũig, đặt cái đầu tóc rũ rượi trên cối. Hơi mát mặt đá như đứa trẻ ngay xưa ra ngoài cầu ao vốc nước lên mặt rửa cơn ngái ngủ. Thời còn trẻ của ta ở đằng kia, ở bên kia, ở đâu, người tàn tật lồng lên dằng xé chạy tới. Cái đầu đập xuống mặt đá, như chày giã, toé máu loã lợi, chúi xuống, chúi mãi xuống ngày xưa.
Tôi đương đi, tính xem về đâu nằm khoèo một giấc hay tìm đội trưởng báo cáo đã chia xong nốt quả thực.
Đơm chạy tới, mặt nhợt nhạt.
- Anh Bối!
Tôi không để ý, dở giọng cợt:
- Lại đi đâu nào?
- Mẹ em chết rồi.
- Ối.
- Mẹ em va đầu vào cối đá.
- Cái cối đá em vần về ấy à? Chết thật à?
Tôii không về nhà Đơm, tôi đi sang bên Chuôm tìm Cự. Có người chết, đằng nào cũng phải báo cáo đội. Tôi đến nhà bố Duyên. Bấy giò chiều đã xế, nắng vàng nhạt ủ ê ngoài cái sân đất. Trông vào nhà không có ai, nhưng nghe tiếng lục sục như gà đạp ổ đằng vác trong. Rõ ra tôi vô ý. Có người ở nhà mà không biết. Tôi lùi ra tận ngoài ngõ rồi hỏi vọng vào:
- Đồng chí Cự có đây không?
Cự bước ra ngay. Vẫn cái túi đã như chiếc ấm rỏ trễ vai, hai con mắt ngầu đỏ. Còn thoáng tiếng đụng trong vách, Con Duyên vẫn trong ấy. Chắc nó ngủ rồi, cứ làm xong thì nó ngủ ngay vẫn thế. Tôi lại nhớ cái bài báo thằng Nguyễn Bồn, hay là con nào khác, không phải con Duyên, biết đâu. Nhưng khi Cự cất tiếng hỏi nghiêm nghị thì tôi quên phắt cái chuyện tóm qủa tang đội trưởng chơi gái ban ngày.
- Đồng chí Bối đến có việc gì? Rồi nét mặt Cự lại dịu ngay. Nhưng tôi cũng chưa thấy nhẹ nhàng lại được, bởi thói quen chỉnh tề, khúm núm trước đội trưởng. Cự cười xuề xoà: “Cả đêm qua tớ viết báo cáo tổng kết thắng lợi mà chỉ được mấy chữ. Dân bần cố đánh vật với văn hoá, phải nhờ đến đằng ấy thôi”.
- Báo cáo đội trưởng vợ đồng chí Diệc chết.
- Sao? Thế nào?
- Va đầu vào cối đá.
- Chết chưa?
- Chết rồi.
- Đồng chí khám nghiệm chưa?
Tôi đáp:
- Khám nghiệm rồi.
- Chết thế nào?
- Chắc là tự tử.
- Tự tử! Người què, đui mắt, tai điếc, lại câm, tự tử sao được . Âm mưu địch, thế là địch vẫn phá ta. Tôi đã bảo mà, xã này có thôn còn phát động chưa lên hết, nhiều chậm tiến làm cho cho địch ẩn náu. À chia quả thực xong chưa?
Tôi nói trôi chảy:
- Chia hết, còn mỗi cái cối đá thủng cho đồng chí Đơm vần về nhà, thế là mẹ đập đầu chết.
- Không phải! Không!
Đội trưởng Cự bứt rứt bỏ túi xuống lại khoác lên. Rồi đùng đùng đi. Tôi luống cuống theo. Nhưng ra ngõ tôi còn ngoảnh lại xem đứa nào trong vách thò ra. Im lặng, không thấy ai. Tôi lại nghĩ là cái Duyên thì nó ngủ say rồi. Cự bước nhanh nhanh, nói như hét:
- Đập đầu, đập đầu là làm sao. Đồng chí mất cảnh giác đến thế nào nữa! Chỉ có địch, địch phản ứng giai cấp mới thế. Tính xem, từ bước một, mấy người chết. Sắp tổng kết rồi mà nó còn giết đến người nhà cốt cán, làm rối loạn hàng ngũ ta. Thế này thì quá lắm.
Tôi lập cập bước, như người có tội bị giải đi. Mà có tội thật. Tôi nói liều, nào đã trông thấy người chết. Bác Diệc đi đâu vẫn chưa về. Cũng không thấy Đơm. Có khi lũ thằng cò con sếu sợ quá đã chạy hết. Nhà chẳng có ai. Tôi trong rõ cái đầu trên hũm cối một mớ tóc đốm nâu đốm bạc bùi nhùi rũ rượi. Đích là chết thật. Đội trưởng Cự vào trong vách cầm ra cái đòn gánh khêu ngửa mặt người chết. Cổ đã cứng ngẳng, vạc xuống lằn máu tím đen vằn vèo như còn ga bị cắt tiết.
Đội trưởng Cự bảo tôi:
- Trông thấy chưa, những nhát dao đâm vào cổ còn máu đông lại. Vết dao bầu, chỉ có dao bầu mới nhát ngọt thế này. Đồng chí Bối, ngay bây giờ. Một là tìm cho được đồng chí Diệc, đồng chí Đơm. Hai là, gọi tất cả cán bộ đội, các trưởng thôn đến hội ý ngay. Ở nhà đồng chí Cối. Ba là cho dân quân các xóm lập tức bí mật, thật bí mật lùng xem nhà ai có dao phay, dao bầu mổ lợn, mổ trâu thì thu hết. Đi ngay, hơn bốn giờ rồi, mau lên mới kịp, tối còn họp việc khác.
Nhưng nói xong Cự vẫn giữ tôi lại:
- Những vụ giết người bịt đầu mối thế này chỉ do tổ chức phản động. Đấy hôm bắt thằng tư Nhỡ, đương ghi biên tài sản cũng có người tự tử. Truy thằng tư Nhỡ nó phải nhận làm chủ mưu, lại khai nó đã làm trưởng thôn hai mang, trước nó đi lính thông ngôn cho Pháp, nhớ không nào? Mấy thôn đã xảy ra ma ném doạ người đi họp, đánh què trâu mất trộm trâu, giết trâu ngoài đồng, trộm gà, đốt nhà, người thắt cổ, người bỏ đi. Chỉ chưa có một vụ nào bỏ thuốc độc. Nhưng thế đã quá đủ, quá rõ. Nếu ở đây không có thì địch chỉ huy từ xa.
Tôi chạy liền đi. Dù vất vả, cũng thấy dễ thở hơn phải loanh quanh đây với Cự, mỗi chốc lại nghĩ ra toàn những địch.
Chập tối, đội trưởng dân quân Duyên với ba cô nữa vào nhà Vách.
Vách nằm trong xó nhà tối om, không biết đã ngủ hay còn ngật ngưỡng say rượu. Thấy người nhấp nhoáng, Vách đứng dậy. Duyên gõ cạch cạch đầu súng vào cột mái.
- Anh Vách có nhà không?
- Vách đây. Đứa nào hỏi tao?
- Đội yêu cầu anh nộp con dao bầu.
- Dao bầu nào?
- Dao bầu ấy.
- Sáng mai tao phải đi mổ lợn.
- Đội bảo thế.
Vách đã khuệnh khoạng ra trước mặt Duyên.
- Đội à? Mày về bảo cái thằng đội nhà mấy rằng thằng Vách không nộp dao bầu. Đứa nào thò mặt đến đây thì ông chọc tiết, bây giờ ông cắt tiết chúng mày trước, lại đây. Không lại thì ông nhảy ra bóp cổ? Này, này…
Duyên và mấy cô hốt hoảng nhảo chạy ra.
Vách gọi:
- Duyên! Duyên!
Duyên đứng lại ngoài ngõ.
- Vào đây đã. Cho tao làm một cái, tao không giết đâu. Mấy nằm ngửa cho bao nhiêu thằng đội còn được, tiếc gì người làng. Vào đây…
Cả mấy cô dân quân khiếp quá, lẩn vào bóng tối.
Cuộc họp đội với các trưởng thôn và nông hội cả xã ở nhà Cối rộn rịch suốt đêm. Xã này đón bước ba vẫn chưa bàu được uỷ ban, được chi uỷ, lần nào họp rộng cũng ồn ã thế. Nhưng cũng chỉ đội trưởng Cự bảo đấy là có địch phá hoại và chỉ một Cự lên tiếng át cả. Những bác Diệc, cả Cối, cô Duyên, cô Đơm và cốt cán các thôn khác với cả chục cán bộ đội nhiều lúc ngồi ngây, ngủ gật. Tiếng gá lại đã gáy râm ran.
Cự nói như quát:
- Sắp bước vào tổng kết thắng lợi thì địch tấn công ta. Tên Vách đã phản bội giai cấp, nó không nộp dao, có khi chính nó gây ra vu án này chưa biết chừng. Tôi yêu cầu dân quân thôn Am, thôn Chuôm gác nhà tên Vách ngày đên. Sáng nay tôi lên đoàn uỷ xin được lệnh, thì đồng chí Bối đến bắt nó ngay. Có khi cấp bách quá cứ bắt không cần đợi tôi về. Các đồng chí có tán thành không?
Tất cả bật lên “đồng ý” rồi họp tan. Dân quân hai thôn ẩn nấp rình suốt từ ngõ nhà Vách ra bờ giếng. Trong nhà, Vách vẫn im như không. Có người nghĩ ngờ khéo thằng Việt gian trốn rồi. Bảo nhau vào tận nơi xem sao. Vẫn nghe tiếng ngáy rờn rợn trong vách. Lại bò ra, thế là yên chí địch vẫn trong vòng vây.
Trời sáng hẳn, tôi đưa dân quân ậkp vào. Không thấy ai. Hay là thằng ấy trốn mất rồi, nguy quá. Đương thì thào, Vách ở trong bếp nhảy ra, hai tay hai con dao bầu, múa lên.
- Tránh ra, tránh ra! Đứa nào vô phúc cứ vào gần ông đây thì ông cho ăn cả hai nhát.
Mọi người nháo nhác. Vách ung dung đi ra cổng làng lên đê. Đến chiều cũng không thấy về.
Trên đoàn có lệnh cho bắt Vách. Nhưng thế là nó đã trốn mất
Việc rắc rối tới đâu, cũng như mỗi ngày, rồi cứ qua đi, lại việc khác đến. Một buổi sáng, đội trưởng Cự mặt phừng phừng hớn hở đến nhà cụ Cối gặp tôi. Vừa ngồi xuống đã rút ra một đệp tài liệu, tôi trông thoáng, một tờ in to. Tôi đoán là tờ khẩu hiệu mừng cải cách thắng lợi, sắp được tổ chức.
Cự nói một thôi:
- Như thế, đã vào bước kết thúc. Tôi vừa được lên đoàn uỷ nghe dự thảo báo cáo tổng kết toàn đoàn. Hơn một trăm đội của đoàn rải ra trên một trăm xá. Chỉ có đội trưởng hai xã trọng điểm với đội ta được về đoàn góp ý kiến với dự thảo tổng kết. Chắc chắn ta lại vớ tuyên đương đợt này rồi. Tình hình khắp nơi phức tạp, địch lồng vào tổ chức cũ trăm phần trăm, đâu cũng giương bẫy cải cách giả, chỉnh đôdn tổ chức giả trước khi đội về. Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ từ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế. Bây giờ vào đợt cuối, tớ đưa cậu. - tôi thật dễ chịu được nghe Cự nói tớ tớ cậu cậu - đây là khẩu hiệu cho treo ở hội trường tổng kết thắng lợi ở các xã, những 12 câu, dài đấy, phải làm sẵn. Mừng cải cách ruộng đất… kẻ câu dài nhất trước. Làm luôn thì vừa cho kịp dự chi bột, dây, đinh, giấy, lên văn phòng lấy tiền mua. Sang bước bốn, các thôn phải từ báo triệt để không một trường hợp tồn đọng nông dân chậm tiến. Ta đã có chủ tịch, có xã đội trưởng còn chi uỷ thì hai cũ một mới cứ thế lên xa cộng lại, tất cả các tổ chức phải xong ngay đầu bước mới kịp tổng kết.
Sáng hôm ấy, tôi hội dân quân lại phổ biến kế hoạch tập đi đều bước duyệt binh trong mít tinh mừng cải cách thắng lợi. Một lúc nhìn lên trên để thấy đổ xuống có đến hai chục cái xe đạp. Những người trên xe mặc quần áo nâu, ba lô đeo lưng, đạp bon bon. Từ hôm nọ đã được nghe có đội sửa sai cải cách ruộng đất sắp về. Có lẽ đây. Chúng tôi cũng có xe đạp, nhưng đã phải để lại trên đoàn uỷ. Từ hôm về, cấm không cho xe đạp vào làng cơ mà. Thế là đoịi cải cách kém thớ cái đội này rồi. Đội gì đây.
Đoàn xe phóng vào nhà văn phòng đội. Đã tám giờ, nhưng xe và người tiếp theo về nhộn nhịp. Mới chỉ có vài dân quân ra bãi. Tôi cũng không cho tìm thêm, để nghe xem cái gì thế này. Lát sau tôi được gọi về họp. Những cán bộ là những trông quen mặt vì những cái áo đại cán mầu xi măng, quân nâu, mũ cát két tím, xắc cốt da, xắc cốt vải. Dường như mọi người đều đã quen, hay đội trưởng Cự làm ra bộ bặt thiếp bắt tay, trò chuyện thế
Cuộc họp không do đội trưởng Cự điều khiển mà một người loắt choắt có cái túi da to bằng chiếc ba lô đặt xuống cạnh cựp kính trắng như ông trưởng phòng nói mở đầu; họp công nhân viên chức cơ quan, vừa trịnh trọng, vừa thân, lại vừa hách.
- Thưa các đồng chí công tác “Sửa sai và tiến lên” do tỉnh uỷ chỉ đạo, huyện uỷ thực hiện. Tôi thay mặt đoàn sửa sai của tỉnh uỷ giới thiệu với đội, đây là đồng chí huyện uỷ viên phụ trách đội sửa sai về công tác xã này.
Rồi người cán bộ tỉnh nói một thôi như đọc lại bài “Cải cách ruộng đất thắng lợi, sửa sai và tiến lên” tuần trước chúng tôi đã họp đội đọc bài ấy trên báo để thông suốt. Người huyện uỷ viên còn trẻ, bộ quần áo nâu non, hai mắt sâu trũng, mặt phờ phạc như mới ốm dậy hay mới ra khỏi trại giam của doàn uỷ cải cách. Chỉ mới nói mấy câu đã thở, mặt đỏ lừng, vẻ mệt. Tôi ngồi nghe không, ra chăm chú, không ra lơ đãng. Bởi vì đương sửa soạn tổng kết thắng lợi, bây giờ lại bảo sửa sai. Cả mấy đợt, lúc nào cũng cảnh giác, cũng đánh địch rồi chia ruộng, chia quả thực, chỉ thấy thành tích trên bảo sao làm vậy tôi chẳng thấy sai cho nào, bây giờ lại sửa,biết rồi đến đâu hay là sai cả, lại phải vào ngồi tù không biết chừng. Tôi đâm lo lo, nghĩ chỉ thấy rối tơ vò.
Đội trưởng Cự ngồi yên, mấy lần mấp máy miệng toan nói, nhưng chắc nhớ ra đây là đội trên mới về, lại thôi. Mọi khi người khác đương nói Cự cũng cắt, cũng kết luận và giải tán, chẳng coi ai ra thế nào.
- Chúng ta qua công tác bàn giao sẽ hiểu nhau. Tôi giới thiệu hai đội phó sửa sai.
Hai người ngồi phía ngoài đứng lên. Đội trưởng Cự ngứa ngáy quá, mắt ngầu đỏ. Đến cỡ hai người kia chỉ bằng đội phó Nguyễn Văn Bối tôi mà cũng được đứng lên đi giới thiệu thì đội trưởng Cự không thể chịu được đột nhiên khùng lên. Khác mọi khi, nói đến lúc hăng mới băm tay bây giờ ngay một lúc cả hai bàn tay Cự vung như gạt ra đỡ đòn mà trước mặt chỉ có chúng tôi.
- Báo cáo các đồng chí, chúng tôi đã kết thúc bước ba để sang bước bốn tổng kết thắng lợi. Xã này hết sức phức tạp, mới hôm qua địch còn đập đầu giết chết một nông dân giữa ban ngày. Chúng tôi đã báo cáo đoàn uỷ cho truy lùng hung thủ.
Ông cán bộ tỉnh khẽ ngắt lời:
- Đoàn uỷ cải cách đã kết thúc công tác. Từ nay mọi việc phải báo cáo với huyện uỷ.
Cự vẫn nói, mỗi lúc một đùng đùng:
- Chúng tôi đương triển khai, đội nhất định phá tan âm mưu địch. Báo cáo đồng chí, tôi quen tác phong quân đội, quyết tâm đánh đến cùng. Đồng chí huyện uỷ mới được thả trong sửa sai, đồng chí chưa nắm được tình hình.
Người huyện uỷ đứng lên hỏi gắt:
- Đồng chí phát biểu xong chưa?
Cự cụt hứng
- Báo cáo hết.
Người huyện uỷ ngoái tay ra sau lưng lấy khẩu súng lục đặt lên mặt ba lô, lạnh lùng:
- Tôi báo để các đồng chí biết trên huyện đã có đội sửa sai chúng tôi về nắm mọi công tác của xã từ giây phút này. Chung tôi sẽ lựa chọn lưu một số đồng chí đội cải cách ở lại công tác. Tôi yêu cầu đồng chí đội trưởng từ giờ tới chiều chuẩn bị, sáng mai đến báo cáo toàn bộ tình hình với chúng tôi.
Đội trưởng Cự đương đứng mà chân khấp khểnh như còn gà què lơ láo, nhìn khẩu súng lục bóng nhoáng, đen sì trên mặt ba lô. Đằng lưng áo ông cán bộ tỉnh cũng gồ gồ có súng, nhưng không thấy ông rút ra. Tôi lại đoán cái boc nặng chịch mọi khi thấy cộm trong ba lô Cự không phải khẩu súng. Chắc cái cục gì bọc giấy. Mặt đội trưởng Cự sụp xuống.
Tôi không được chọn ở lại làm cán bộ sửa sai. Tôi như mở cờ trong bụng. Nhưng làm bộ mặt ủ rũ, tôi lủi thủi đi ra. Ngay lúc ấy, các đội viên sửa sai phóc lên xe đạp toả ra các thôn, công việc dường như đã sắp đặt trước cả. Không vào nhà tổ chức cũ, tổ chức mới, không đưa rễ chuỗi nông hội, đội sửa sai ở lung tung các nhà. Sáng hôm sau, đến buổi làm mỗi người một cái cào cỏ, xuề xoà như chúng tôi, người mặc áo, người cởi trần, ai cũng mặc quần đùi, lam lũ như người trong xóm, tất cả oà ra đồng. Thế thì khác gì đội cải cách, sửa sai ở chỗ nào. Các xóm xôn xao: đúng đội cào-bằng về vác cào đi kia kia, cào bằng rồi; cả làng đóng khố đuôi lươn đến nơi. Các anh cải cách cũng phụ hoạ thế.
Bố con Cối với cả chục người nữa lò dò đến. Rối rít người hỏi, người nói, người trả lời lẫn nhau.
- Đội cào bằng hay đội san bằng, hả anh?
- San hay cào thì khác nào!
- Khác chứ, có phải không anh Bối?
- Không, đây là đội sửa sai. “Hoàn thành tốt cải cách ruộng đất, sửa sai và tiến lên” khẩu hiệu thế, đọc kỹ khẩu hiệu mới chưa.
- Thế cải cách sai hả?
- Cái gì sai thì sửa.
- Sửa thế, nào?
- Tôi bắn địa chủ Thìn, bây giờ bảo địa chủ Thìn chết oan, thế tôi có bị bắn không?
- Chưa biết thế nào!
- Ối giời ơi!
- Tôi được chia một gian nhà thằng tư Nhỡ, tôi phải dọn đi à?
- Tôi có phải trả hai chân trâu quả thực không?
- Nghe nói đội cào bằng về bắt cả làng này đổi ra chỉ để một họ Nguyễn hay họ Lê?
- Được quả thực mỗi một cái chum, cả làng biết đấy.
- Tôi… tôi…
- Chẳng hiểu ra thế nào.
Tôi cũng không cắt nghĩa được điều nào rõ hơn. Thế là mọi người i đùng đùng kéo đi tìm đội trưởng. Một mình Cối ngồi lại.
- Chỉ có anh với em, em hoi thật nhé. Đội cào bằng về đuổi đội cải cách đi để làm lại tất cả à?
- Không phải đội cào bằng, đội sửa sai.
- Ừ, đội sửa sai thì cũng là đội đuổi đội các anh. Tôi phải từ chức đảng viên, trưởng thôn, trả nhà, trả ruộng, đội sửa sai dựa vào rễ khác chứ ai.
- Không đâu.
- Thế đội sửa sai về làm cái chó gì!
Tôi nói như hô khẩu hiệu:
- Sửa sai và tiến lên!
Câu nói dứt khoát và mạnh mẽ ấy chẳng làm cho Cối để ý, mà Cối lại ra chiều bực bội. Cối lại tất tả đi. Nhà tối om. Lũ trẻ con vừa nghịch choe choé đấy, đã ngủ khì cả. Không biết nhà này lo quá bỏ bữa tối hay quên, để đói anh đội. Tôi có ý mong Duyên. Duyên vác cả súng, - có thế mới là đi tuần suốt đâm, tôi cứ xó nào Duyên cũng mò được. Không biết đâm nay Duyên có về không, buồn quá.
Từ gà gáy, mấy người vừa được chia ở nhà địa chủ, ở nhà phí nông rộng quá tiêu chuẩn phải nhường lại, họ nạy gạch sân quảy đi. Người nhà phú nông xót của ra cản, đôi bên đánh nhau bằng đòn gánh, kêu rầm rĩ, cả xóm đổ ra đứng xem. Trời đã tảng sáng, ở đâu đi ra mấy tay trung nông lấp lửng chúa hay nói ngang họ chẳng được chia bôi, cũng không mất cái lông chân, cứ vừa đi vừa rên lên như những thằng rồ: ai đi hsửa sai lờ, hod lơ hó lơ…
Không có lệnh, không ai về truyền dat, đội cải cách đương rầm rộ sắp tổng kết, bỗng dưng tan như ao bèo gặp mưa to. không còn hội ý sáng sáng, đội trưởng Cự lúc đi lúc đến lúc nào đi đâu cũng chẳng biết.
Cự đi ở đâu về, hớt hải:
- Anh công tác thống kê giỏi sao không được giữ lại làm sửa sai, anh bị đuổi về à?
Tôi nói vu vơ:
- Mai kia lên đổi công, lên hợp tác, không cần thống kê,
- Thế thì đích xác là cào bằng rồi.
Cối lại ngơ ngác đi ngay. Mới bảnh mắt mà chỗ nào cũng tụ lại từng đám người loanh quanh như gà vướng tóc.
Đội trưởng Cự đến. Cối ở đâu lại về hỏi:
- Các anh đi thì chúng em làm việc thế nào?
- Đã có đội sửa sai
- Đội sửa sai có dựa vào chúng em như các anh đâu.
Tôi còn ngái ngủ, ngáp một cái:
- Ối thôi, mấy tháng bù đầu, cũng phải cho chúng tớ xả hơi một cái.
Đội trưởng Cự quắc mắt. Một câu nói quen thuộc nhưng nghe lúc nào cũng ghê ghê.
- Không được có tư tưởng nghỉ ngơi!
Dù sao, chẳng nghỉ ngơi thì cũng hết việc, thong thả. Tôi ở nhà như người thừa. Cối đi họp với đội sửa sai, chẳng biết tình hình thế nào đêm về không buồn nói một câu. Tôi nằm dài, hồi này dân quân cũng bỏ gác đêm. Tôi lại mong hôm nào được về đoàn uỷ lấy xe đạp ra chợ huyện đánh một bữa bánh đúc riêu kễnh bụng. Tồi được thông báo lên đấy mới thật biết lại đi công tác sửa sai nơi nào hay được về cơ quan. Thế là chúng tôi sắp đi, mọi sự quanh mình cũng khá là điều ngẫm nghĩ. Đội cải cách bị vứt bỏ, mà tôi vẫn không biết cải cách sai ở chỗ nào, chỉ thấy mọi người dửng dưng qua mặt. Bác Diệc, anh Cối vẫn được trưởng thôn, được đảng viên hình như tỏ ra thương hại tôi, đem đến cho xôi ngô, bánh đúc mua trên chợ huyện.
Bác Diệc nói: “Chúng em chưa quen với đội sửa sai, các anh sắp rút về tỉnh có phải không?” Chẳng biết câu hỏi tò mò hay hỏi đuổi. Nhưng nghe tiếng bác Diệc thì không phải thế. Đêm trăng suông, tiếng đập lúa thình thịch, nghe thấy no ấm quanh mình khác những ngày mới về đây. Bac Diệc mau nước mắt, còn mắt viền vải điều đã mòng mọng. Bác nói bao giờ quên được nết ăn nết ở của anh tối hôm anh về nhà này. Có hôm mấy chị em Đơm đương cắt rạ ngoài đồng, tưởng tôi đã đi cả bọn tất tả chạy lên, khóc hu hu. Cô Duyên cũng đỏ hoe mắt, cô về nhà nhìn lên chỗ sợi thừng tôi vẫn vắt áo, không thấy. Duyên bỏ cơm, ra ngõ nhìn lên đường cái tây. Đến lúc thấy tôi về vai đeo cái sắc cột, vẫn anh đội như mọi khi, Duyên chạy ra, lột cái mũ là của tôi, đội lên đầu hí hửng như trẻ con. Tôi hỏi: “Có nhớ anh không?” Duyên bảo: “Anh mà đi thì tháng nào ở cữ thằng cu em bỏ thư cho anh. Anh sờ vào cho rốn em mà xem, thằng cu đương cựa quậy đạp đây”. Tôi có ý nghĩ hay là tôi ở lại đây. Ừ, tôi ở lại đây, tôi về cơ quân hay tôi ở lại cũng thế, hay là tôi ở lại đây với Duyên.
 Ven đê dưới kia, trong những khoảnh tre lưa thưa có nhà bác Diệc, nhà bố Duyên, nhà cả Cối, thêm nhà tôi, lại nhà thằng Vách nữa - cái thằng khùng không biết mấy hôm này trốn ở đâu, nghe tin đội sửa sai đánh gục đội cải cách rồi, đã trở về, lại vác còn dao bầu đi mổ lợn thuê.
Trên cánh đồng hôm nào mới cấy mầu mạ còn vàng ửng, đã nghe gió rì rào lùa vào chân lúa. Các nhà mới được ruộng chia tìm cây lúa bát, nếp voi, nếp vằn, cốt được cái chóng ăn. Đấy, thế thì đội cải cách sai ở đâu, từ khi đi cải cách tôi chỉ biết có thắng lợi, thắng lợi “. Cái sợ, cái buồn, cái vui, cái hồi hộp, tôi như con quay ném vào đám chơi, cái dây vật quay tít hay đã còn quay lăn long lóc, tự tôi chẳng biết ra thế nào. Người ta thường nhớ lâu những cái mình làm được, bây giờ thấy vườn tược, đồng ruộng mỗi hôm mỗi khác, phút chốc thấy như tôi thật có thành tích, chứ chẳng phải… Ôi, mà thôi.
Ngõ nhà Vách, bụi duối lưa thưa, sần sùi đi qua nhiều lần nhìn đã quen mắt. Bỗng Vách lừng khừng đi ra. Thấy tôi, Vách đứng lại, không chào, nhưng giơ tay vẫy. Trông dị dạng, nó đương lên cơn dở người. Nhưng nó nói tinh tường lắm.
- Bây giờ đến lượt tôi bắt, tôi trói anh, tôi đem đi đấu chứ. Mà nói đùa thôi, xuý xoá cả, buồn lắm. Anh Bối vào chơi, tôi bảo cái này
Nhà Vách không có ai. Vách đã đuổi vợ đi hay vợ Vách đã bỏ đi từ dạo Vách bị rình bắt, không thấy về nữa. Mấy con dao bầu của Vách đứng một hàng ở chân vách, trong ghê mắt. Tôi ngồi xuống bậu cửa, hỏi:
- Vợ đi đâu?
- Tôi cho nó đi ăn mày rồi.
Vách lại nói:
- Từ hôm anh về, tôi chưa kể khổ với anh lần nào phải không?
- Anh đã tố tư Nhỡ đấy thôi.
- Nhưng mà nông dân chưa hết khổ thì vẫn phải kể ra chứ. Chưa đâu vào đâu, thằng tư Nhỡ đã thót trốn mất. Chẳng đi bắt nó, các anh lại chộp tôi, rõ thật, cho ăn thịt chó, các anh định dấu tôi, bắt tôi. Thằng Tây còn chẳng giết nổi tôi, cácc anh thì là cái thá gì. Thế mà bây giờ tôi lại không muốn sống nữa, tôi muốm chết,
- Nói dại!
- Tôi mà dại thì cả cái xóm Am này phải ngu như con bò. Lại nói chuyện ngày xưa nào. Nói cả đời chẳng vợi được cái núi khổ đâu. Nói một việc thôi nhé. Thằng hương kiểm, thằng phó lý bô tư Nhỡ đây, cái năm đói 1945 nó bắt tuần đinh đêm nào cũng phải đi ra xem có người đói ở đâu đến chết ở đường làng thì khiêng vứt xuống sông cho khỏi phải chôn. Mỗi đêm, tôi đi ném vài xác xuống sông. Tôi vác phải cái xác thối quá, những người còn mềm, bụng thở bòm bọp. Tôi phân vân, nó chưa chết mà ném xuống sông bắt nó chết thì hồn oan nợ máu mấy đời. Nhưng đi một quãng thì trên vai tôi lạnh dần, rồi thằng người chết cóng. Họ chết rồi, tôi quẳng cái xác xuống nước. Làm sao mà người tôi vẫn thối khẳn mùi người chết, khắp mình ngứa ngáy muốn phát điên.
Sáng ra nhìn thấy hàng đàn con rận bò đen kịt từng đám trên áo, dầy cả đầu tóc, xuống cổ, xuống mặt. Thì ra tôi còn hơi nóng, đàn rận ở cái xác đã bò sang đổi chỗ trú ngụ từ lúc nào.
- Thôi thôi…
- Kể chuyện khác vậy nhé. Khi đi du kích, mấy lần tôi về tìm giết bố thằng tư Nhỡ. Những đêm nó lần lên ngủ bốt hương dũng.
- Những chuyện chán bỏ mẹ!
- Thế mà tao vẫn cố nông, cố nông cái mả bố chúng nó. Đội cào bằng có bắt đổi họ, tao bảo tao là họ Cố, Cố Văn Vách. Tiên sư thằng Diệc, thằng Cối chúng nó bảo tôi có con dao đi mổ lợn kiếm ăn thì tôi là thành phần công thương, không được chia quả thực.
Tôi ngại Vách lại nói bắt quàng về các thứ chuyện cải cách, tôi đứng dậy. Vách bước đến, túm vai tôi. Hai trong mắt nó đỏ như miếng tiết, trông phát hoảng. Tôi phải ngồi xuống.
- Tôi quý anh nên mới mời anh vào đây. Tôi đếch thèm bảo thằng đội Cự, cái đội cào bằng ấy à, đêm qua họp xóm, trong cán bộ nói hách địch như quan huyện, tao ngứa mắt lắm, rồi đến phải chọc tiết có thằng. Nhưng nghĩ lại tôi giết Tây, giết ta, giết ợn nhiều qua rồi, bây giờ giết đến tôi thôi, chả giết ai nữa. Cho nó hết rắc rối. Anh có trông thấy cái gì trong kia không?
Nhìn vào vách thấy một cái thừng buộc trên xà tre, múi tròng lọng hoác ra như đợi người chui đầu vào. Dưới đất, hai chiếc gạc đập lúa xếp chéo. Người đưa đầu vào tròng lọng rồi đạp cái gạc ấy, thế là boông beêng. Tôi đã biết người ta làm thắt cổ tự tử như thế.
Tôi hấp tấp hỏi:
- Cái kia? Cái kia?
- Cái thắt cổ, đã bảo mà.
- Không, không.
- Không phải tôi thắt cổ anh đâu. Em thích anh được xem em thắt cổ, em thắt cổ. Đừng mà đi tố điêu là địch phá hoại nhé, tao thắt cổ tao thôi.
- Không, không được.
- Không có gàn quái. Gàn tôi thì tôi cho cả anh cũng chết chứ không phải một mình tôi.
- Đừng làm thế.
- Câm cái mồm sẹo gỗ đi. Nói thế chứ chán làm, chúng mày như ruồi, giết ruồi làm gì, tao chỉ muốn có một thằng đội xem tao chết để đừng đi tố điêu là địch phá hoại. Tớ quen đằng ấy từ cái chập tối đằng ấy về làng này mà. nhớ không. Đằng ấy là thằng ma tịt biết cái qué gì về mà làm loạn làng, Nhưng cũng còn chơi được, chưa đểu bằng thằng đội Cự , cho nên tớ mới cho vào xem tớ chết.
Vách nói lung tung, gáy tôi dần dần lanh. Tay Vách nắm chặt cánh tay tôi run bần bật, toát đẫm mồ hôi.
- Tớ không đun đằng ấy lên tròng lọng đâu. Đừng sợ. Con dao bầu này chọc một cái, thì đằng ấy…
- Lậy anh.
- Ấy chớ! Hèn thế mà cũng đòi đi giải phóng người ta. Đã bảo tớ chỉ gọi đằng ấy vào xem tớ chết, chẳng có mưu mô phá hoại như các đằng ấy hay sai người tố đâu.
- Thế…
- Thế thế. Tớ trèo lên, đưa cổ vào.
- Anh…
- Chỉ dặn anh đội chớ dại mà cắt dây hạ tôi xuống bắt tôi sống. Tôi sống thì tôi tố anh đội hủ hoá với con gái cả xóm này, tôi tố anh đội đập chết con mẹ què rồi anh đội đem thắt cổ tôi để bịt đầu mối. Đã biết thế thì đáng tội thế nào chưa?
Tôi bàng hoàng như ngã xuống nước. Có điều tôi hiêu ngay là chớ có đụng đến thằng Vách. Nó biết tất cả, thế thì cho nó chết. Vách buông tôi, Vách xăm xăm vào bước lên đống gạc đập lúa, chui đầu vào tròng lọng tròn hai con mắt nhìn ra.
Tôi ù té chạy.
Nghe sau lưng cái gạc lúa đổ văng, lăn lách cách. Cho đến hôm đi - và đến bây giờ, tôi không dám thì thào với ai về cái chết của thằng Vách.

Chương 4

Mười mấy năm sau.
Hồi ấy thành phố vẫn bị máy bay Mỹ  bỏ bom. Mới chập tối những đoàn xe chở tân binh ầm ầm ngang qua trên cầu Long Biên. Tiếng hát vang động những phố xá đi tránh bom đã vắng.
Rồi tôi lại trở về cơ quan. Người đi cải cách lũ lượt về, người công tác sửa sai lại ba lô lên vai. Đã thành nếp mỗi khi nơi nào có công tác quan trọng, mỗi cơ quan đều phải cử từng đợt đi. Ai cũng nhiệm vụ đi, từ anh nuôi, chị tiếp liệu văn phòng, đến các bộ phận chuyên môn. Chỉ có những chánh phó thủ trưởng “không đi được vì công tác lúc nào cũng bù đầu”. Mà cũng không ai đề nghị thủ trưởng đi đâu.
Tôi đã đi cải cách cũng là thế. Những tôi đã đem được giấy chứng nhận và giới thiệu “đồng chí Nguyễn Văn Bối được kết nạp đợt 5 cải cách về sinh hoạt chi bộ cơ quan”. Đội trưởng Cự ký tên rồi đoàn uỷ đóng dấu và chữ ký xác nhận. Cự nói “Chia tay, tớ tặng cậu cái này”. Tôi nghĩ trong bụng: “Lão Cự tài thật, đoàn uỷ giải tán rồi mà vẫn lấy được dấu”. Cự chỉ nói thế, rồi đi ngay. Có lẽ lão cũng ngượng không muốn nấn ná lại trò chuyện thêm về những con vịt, chuyện vịt. Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói. Từ đấy, không bao giờ còn gặp lại.
Cái tội trộn đường vào mì chính của tôi cũng đã lâu, nhạt rồi, quả nhiên chẳng còn ai biết hay biết cũng thôi, cơ quan lúc nào chẳng có những thời sự mệt mỏi. Vả lại, tôi vừa đi những ba đợt cải cách ngót hai năm trở về với cái giấy ghi chức vụ đội phó phụ trách toà án kèm tờ chứng nhận và giới thiệu đảng viên. Mạnh quá. Thế là tôi đàng hoàng phổng mũi.
Một hôm, tôi được phòng tổ chức gọi lên. Á à, có thế chứ… Tôi bắt đầu tưởng tượng ra những kiến hiệu của các thứ giấy tờ.
- Đồng chí ngồi.
Sự trịnh trọng lại kèm câu nói cộc lốc hơi lạ khiến tôi hồi hộp. Tôi ngồi xuống ghế. Quen tay, lấy sổ cộng tác và cái bút mấy “oe rơ vơ” ra cầm sắn.
- Địa phương có đơn về đồng chí.
- Địa phương nào, việc gì ạ?
- Ở xã cải cách, đơn tố cáo.
Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi nảy đom đóm mắt - Những đêm đi gác, ở trong lều, đã chung cha với những ai, nằm ngồi thế nào, ai bằng lòng, ai bị đè ra, ôi chao, ở những bờ tường, những bụi chuối… Đơn lại tố cáo tôi đảng viên giả có chữ ký của Cự - đội trưởng cải cách. Thế có chết không, nó cho húp nước đường lại tống theo quả lửa. Bao nhiêu tên ký, trông hoa lên những Gái, những Nụ, những Má, những Tôm, những… Chẳng biết trong đám chữ ký tíu tít có Duyên, có Đơm không. Dưới tờ đơn có chữ ký của đội trưởng, đội phó sửa sai xác nhận và đề nghị kiểm điểm một đệp những cuộc họp tố cáo các xóm Am, xóm Chuôm, xóm Đìa và cả những xóm tôi chưa đến bao giờ.
- Ý kiến đồng chí ra sao?
- Tôi… tôi… Tôi không nói được thế nào.
- Thế là đồng chí đã nhận.
- Không, tôi phản đối, tôi…
- Các cấp xác nhận rành rành ra đây, thế là đích xác rồi. Có 10 điều cấm khi đi cải cách, đồng chí đã vi phạm tất cả mà điều 4 nặng nhất.
Tôi ngồi tây ngây. Những câu dội nước đá, tôi chỉ ấp úng, lắp bắp không ra đầu đuôi.
- Thôi, về.
Chẳng khác đuổi tôi.
Tôi nhìn người trưởng phòng tổ chức, mặt đen gồ ghề, đầu hói. Bên chân bàn có cái xích buộc chiếc điếu cày. Tôi ngỡ ông là đội sửa sai, về đây xử tôi, nghiêm quá. Tôi lủi thủi ra.
Hội đồng kỷ luật bắt tôi thôi việc vi phạm lỗi nặng về hủ hoá và giả mạo giấy tờ. Có thể bị truy tố, những cơ quan chiếu cố. Không lương hưu, chỉ được lĩnh nốt lương tháng ấy. Tôi chẳng là cái đinh gì, cũng không biết ai thù tôi, chẳng lẽ lại là cái lão trưởng phòng tổ chức mới được điều ở đâu về tôi mới biết mặt. Tôi cắm cúi viết đơn gửi lên cục, lên bộ. Chẳng đâu trả lời. Hồi ấy, tội hủ hoá còn bị coi xấu xa nặng nề hơn cả việc giả mạo giấy tờ. Tôi bị mất việc.
Trong nhà đâm ra lục đục, ai oán làm sao. Lương tôi và tem phiếu cũng chẳng đủ nuôi ai, những cũng là một cọc tiền có ngữ. Con trai tôi đã lên mười. Vợ tôi vốn chân chạy chợ gặp gì vơ nấy. Mua thì cái rau, mớ chè, có khi ngược tàu Phòng lên, lẩn được cán bộ thuế. Có khi chui thoát thúng cá, con mực. Ả kiếm ra miếng mới được thêm thắt đồng ra đồng vào. Bỗng dưng đâm ra hẫng. Lại thêm vợ chồng ở với nhau lâu cũng sinh nguy, cãi nhau vặt rồi cãi nhau to, rồi đánh nhau cũng thành thói quen lúc nào không biết, cũng như trông nó cứ bẩn mắt dần mà từ trước kia không thấy. Cái môi nó trều nhờn nhợt trề ra gớm chết. Cái áo phơi ngoài dây thép, hai nách thâm xì, lưng áo mồ hôi dầu ăn bạc phếch, sao tởm thế mà ngày trước không để ý.
Mỗi ngày lại thêm một cái khó chịu. Ăn uống thì bốc bải, hay nói dối vặt, hình như ngày trước tính nết nó khác. Người này nói, người kia vặc lại. Um nhà một lúc, hung lên rồi xông vào thụi nhau. Họ cũng chẳng chịu lép, bớp lại tôi ra trò. Tôi xước mặt, toác cả áo. Tôi không thể cạy thế thằng đàn ông được. Dạo trước, thỉnh thoảng có lục đục, láng giềng sang lôi hai bên ra, cũng khi ban hoà giải khối phố đến phân tích lý lẽ. Rồi đến nữa, vì mới hôm trước hôm sau đã lại loạn lên.
Ngày ngày qua. Những xô xát trong nhà tôi thành trò cười, như hát hay, hàng phô không ai hơi đâu đến cản ngăn. Từ khi mất việc lại càng não nùng, khi lại chính tôi là thằng xuống thế.
Tôi chẳng biết một nghề ngỗng gì. Nhưng mà ở đất đô hội, có người thì sinh ra việc. Cũng như ở rừng trời cho củ mài, củ nâu, ở phố phường khó khăn mấy rồi cũng tìm ra cái ăn. Đống rác có người bới nhặt. Rồi thì bó củi, mài dao, móc cống, cái bơm xe đứng ngã ba ngã tư, thêm hòm đồ và xăm lốp. Phải có cách nào kiếm được thì mới đõ nhục.
Tôi xắm chiếc bơm xe đạp.
Tôi nhảy lên cái cán bơm, mặt cúi vục xuống, không dám nhìn lên. Lâu lâu, đã quen tôi khoan thai ấn cái bơm, trong bụng yên yên một chút.
Máy bay Mỹ ném bom liên miên. Giữa thành phố bom bị rắc hàng thúng vào chỗ cây đa đền Bà Kiệu, rơi lõm bõm xuống hồ Gươm. Người ta lũ lượt chạy khỏi thành phố. Càng nhiều người đi xa, phải bơm xe cho căng, tôi vẫn đứng với cái bơm ở ngã năm. Vợ tôi đem thằng còn chạy bom, đi đâu tôi cũng không hỏi. Đêm trước vừa to tiếng, tôi bóp cổ mụ đến lúc kêu ằng ặc tôi mới nới tay, rồi lại đánh nhau tiếp mặc kệ còi báo động với máy bay ầm ừ trên trời. Sớm hôm sau, mụ đi thẳng.
Từ đấy, không còn tăm hơi hai mẹ con. Đầu tiên, tôi cũng tưởng mụ chỉ dỗi bo bo lăng nhăng rồi lại đâu vào đấy như mọi khi. Nhưng rồi bặt hẳn. Tôi sốt ruột, nhưng cũng không biết thế nào biết hỏi ai. Hàng phố xì xào. Cô ấy đã theo người ta xuống Nam Định, tôi trông thấy ở Chợ Rồng… Cô ấy trốn vào Nam rồi. Có người lại nói như thật: có ấy số đỏ như tiên rồi, xin được chân phụ bếp ở cục phục vụ được sang nấu bếp ở nhà khách sứ quán ta bên Liên Xô. Những cũng chỉ là nghe nói, chẳng thấy tăm hơi đâu. Thế rồi đến năm đất nước thống nhất cũng vẫn bằn bặt thế. Có lúc nghĩ hay là vướng bom đạn chết đủ đường chết chợ rồi. Trong chiến tranh, biết bao nhiêu người mất tin, mất tích, không phải riêng mẹ con nhà nó.
Tôi ở gian nhà ọp ẹp ấy và vẫn một mình với cái bơm xe. Hiu quạnh, có lúc cũng nhớ cái khi tung hoành ở xóm Am, xóm Chuôm nhưng chỉ nghĩ đến đã xấu hổ, còn ra cái thá gì mà vác mặt về. Lưỡi dao cạo hiếm mà đắt, tôi chẳng buồn cạo, mặc kệ. Râu ria tóc tai bù xù như con gấu vườn Bách Thảo. Tôi cảm thấy mau lão quá, ngoài năm mươi mà lụ khụ, nói nói thở thở. Tôi đo sức bằng mỗi lần bơm xe. Năm trước chỉ ấn một cái được một nhát bơm, bây giờ phải nhảy trẹo mông mấy lần, buổi chiều thì móp bụng lại, đến bốn phát mới xuống được một nhát. Tối về lử lả, xiêu vẹo, xách cái bơm cũng trĩu tay, mặc dầu tôi tịnh không chè thuốc, bia rượu. Cái già xốc đến tận đít rồi. Đàn bà con gái dửng dưng qua mắt tôi và tôi cũng nhìn người ta thờ ơ như nhác mắt qua đường.
Một hôm, tôi nhận được giấy bưu điện báo nhận hàng. Lật xem đi xem lại: bưu cục Bờ Hồ báo lần thứ nhất - tôi đi hỏi người ta bảo giấy này gửi từ bên nước Úc. Tôi bỏ một buổi làm, lên hiệu sách xem nhờ tờ bản đồ treo bán tìm nước Úc ở đâu. Đêm mất ngủ, hay là bưu điện nhầm. Tôi lại mở giấy xem lại, rõ rằng viết số nhà cái buồng cái lều này và cả ba bốn bên đường phố hàng xóm bảo năm này chỉ có một Nguyễn Văn Bối tôi.
Tôi lên nhà bưu điện. Người ta cho biết hàng nước ngoài gửi về phải có sổ nhận hàng trên thành phố cấp. Tôi bảo tôi không biết về hỏi hàng gì. Có nhân viên chỉ cho tôi trong ngăn tủ bề bộn, một hộp giấy vuông vắn: “Đây, hôm nào đủ giấy tờ, hải quan cho mở ra mới biết hàng gì, bác ạ “.
Rồi tôi cũng lo được từ khối dân phố lên khu, lên thành phố cho có nổi một tờ giấy sổ lĩnh hàng nước ngoài. Tiền mua các thứ phí tổn bạc nghìn. Đến nơi lại bảo nộp phạt tiền lưu kho mất hai nghìn rưỡi. Nặng quá, tôi đã nghĩ toan bỏ. Nhưng đằng nào cũng đâm lao rồi, tôi lại về cào cấu, cả giật nóng, cả vay lãi ngày. Cũng có lúc chợt hoảng. Nhỡ một cái lại là cái hộp cứt như trong truyện Trạng Quỳnh thì có mà toi đời. Nhưng không, một gói những lọ, những hộp xinh xinh. Người hải quan xem từng lọ rồi bảo đây là thuốc bổ, được phép nhận.
Tôi ôm cái hộp lên ngực mới gạt được đám người bám ngoài cửa, nhao nhao:
- Thuốc à? Có bán không. Bao nhiêu? Xem nào, xem nào…
Tôi đứng bơm hàng ngày một cụm ngã năm ấy, có người bơm xe lại đã thành quen biết, một vài phút đợi bơm, đã ra khối chuyện phố phường. Chỉ hôm sau, tôi đã hỏi biết được toàn thuốc vitamin A, B, C, B6. Thuốc Pháp, thuốc Mỹ, đắt đấy, bán được tiền. Tôi hỏi mỗi người một tý, chắp lại, đã ước lượng được giá cả. Thế là không dưng trời cho tôi của.
Ai ở nước Úc gửi cho tôi? Không có thư, không tên người gửi. Hàng chữ tên tôi, số nhà, phố thì đánh máy. Người ta bảo ở các nước văn minh, ra hiệu xe đạp, mua cái xe rồi lại thuê gửi, thế là cửa hiệu cứ việc đóng gói và gửi đi, người mua không phải động tay, không cần biết mặt cái xe. Nhưng ai gửi, lục soát đến đâu cũng không ra ai. Không một cớ nào để đoán nổi. Cuối cùng, trong ý nghĩ tôi đọng lại hai con vợ mất tích kia, mà có lần người ta đồn nó đã đi những nước nào nước nào sướng hơn tiên. Có lẽ là mụ ta. Lúc khó nhất người ta cũng nghĩ rồi ra có lúc được mở mặt, hay là nó, chỉ có nó mới biết tên tôi, số nhà tôi, mà xét những mối quen biết thì quanh đây cả, chỉ bọn khố dây, ai mà có được hộp sang này! Đích là nó rồi. Chỉ có con vợ trước ở Tam Mai thấy bảo lấy chống, làm cut-lít có thể nó về bên Tây bên Mỹ, Nhưng con ấy lại không biết chỗ tôi ở bây giờ. Thế thì ai gửi cho tôi, lại rồi ruột thêm. Tôi có hai vợ, hai đứa con thật sự còn con rơi con vãi ở đâu không kể. Chẳng nhẽ con vợ nào của tôi đã sa chân xuống tận vũng bùn tư sản lại còn hơi sức nhớ đến tôi. Hay là…
Hay là cái này của địch, là âm mưu địch, thằng địch chúa thằn lằn nham hiểm đi cải cách ruộng đất đã thấy đấy. Tôi mất mũ cán bộ đã lâu, mà vẫn chưa quên cách phân tích địch ta. Thế nhưng ở trên đời này, thằng địch ba đầu sáu tay nào mà lại biết tên tôi là quân tố hửu Nguyễn Văn Bối. Ông bơm xe, ông bán nước, quanh năm không nhìn ra ngoài cái bơm, cái chén, nhưng thoáng mắt đã nghe biết cái khôn dại của bao nhiêu người đời. Nghe nói có nhà có người ở nước ngoài gửi các thứ về cho nhà bạn để ăn, để sướng, tôi cũng đương được “tiếp tế” như thế, chứ có phải địch mua chuộc đâu.
Bao năm nay, trời nắng hay trời mưa, tôi chỉ có cái bơm và lê la quanh mấy gánh cơm dưa cà đậu om, canh đậu, có cái ghế treo trôn, quang khách đến bà hàng mới bỏ ghế ra, sợ ngồi xúm xít thì công an đuổi.
Số thuốc tôi bán dần. Ôi, những chi tiêu thăng hoa khỏi mụ hàng cơm gánh. Tôi xuống chợ trời mua bộ quần áo ka ki đại cán cũ. Mới ngày nào, cán bộ thủ trưởng và nhân viên mặc đại cán như nhau, bây giờ có tiền hoạ hoằn mới có người mặc, anh xe ba gác, xe xích-lô… Dù qua mặt cũng không ai nhìn, việc đời cái gì rồi cũng trôi đi. Đời cán bộ của tôi đã chấm dứt từ bộ đại cán sang cái bơm, tôi vẫn thấy mặc đại cán được và hợp mắt. Chập tối, tôi không đến gánh cơm quán đầu ghế nào. Đã lâu, mới nhớ phải hưởng một bữa có chất. Cuối phố kia mà tôi vẫn biết ở đấy có một hiệu ngoài tủ kính bày mấy lọ mắm tôm bán sỉ, nhưng trong nhà làm chui cơm tắm giò chả. Tôi đi đánh chén một bữa cật lực, bội thực không thở được, chỉ còn sức bửa say được về nhà, lăn đùng ra.
Tôi nhét cái bơm vào gầm giừơng. Nghỉ ít lâu cho khuây khoả cơn sầu đã nào. Nhưng vài ba tháng nằm khàn, ăn vỗ béo rồi ngủ, gói tiền to đến bằng cái tải gạo cũng phải toang ngoảng. Rồi hết tiền, lại vác cái bơm ra ngã năm. Tôi chép miệng. “Tiền bắt được như tiền cờ bạc, của phù vân vẫn vào nhà rồi của phù vân lại đội nón ra đi, thế thôi”. Tôi thở dài, tự an ủi.
Tôi khắc khoải vu vơ mong lại nhận được giấy báo nhà bưu điện. Tôi tính ngày, so sánh năm tháng, đoán có lẽ vào dịp Tết ấy ra. Rồi mấy Tết cũng chẳng thấy đâu. Cái gói tiền đã xa như chiêm bao từ ngày xưa, Tôi lại cắm cúi, vật vã nhảy nhấp nhô cỡi lên cái bơm.
Nhưng quái sao, tôi thở dốc: Tôi béo tốt hẳn hoi, râu mọc um tùm đem mỡ ra. Thế mà hai cánh tay rã rời muốn vập mặt xuống cái bơm rỉ. Tôi không bơm xe được nữa. Tôi đẫy đà ra nhưng tôi kiệt sức rồi. Cái túi tiền đã giết tôi.
Hôm sau, tôi lại vác cái bơm ra. Nhưng cả buổi chẳng được một nhát. Khách quen không có ai. Người lạ trông thấy tôi mặc cái áo đại cán, mặt mắt húp híp, người ta đạp xe thẳng. Rồi tôi cũng được khách, nhưng vừa buông buông cái bơm, tôi nghẹn cổ không thở được. Ông khách đùa: “Ông béo sung sướng phát phì thế thì đi nghỉ mát, chứ bơm xe là ốm đấy”.
Tôi chết thôi. Cái thằng Vách, thằng Vách chết như đi chơi, lại còn gọi người đến xem nó chết. Thế mà hay. Lẽ nào tôi hèn không bằng thằng Vách. Tôi chết cũng vừa, đủ mùi đời rồi.
Tôi ngồi dậy. Tôi với tay vào góc buồng kéo cái hòm gỗ. Trong ấy, mọi thứ đều được nhặt trữ lại. Người khó nhặt nhạnh chẳng muốn vứt đi cái gì. Tôi tìm cái quần rách. Tôi bện thành cái thừng. Tôi chợt thấy vẫn còn chiếc ruột tượng đựng gạo ở cơ quan trên Thái Nguyên. Mỗi lần ra khỏi rừng đi công tác ai cũng đeo vắt vai một hai bao gạo. Ôi, cái ruột tượng đựng gạo còn lại đến bây giờ, được được đấy.
Tôi đứng lên mặt bàn, buộc một đầu ruột tượng lên xà nhà, ở bên kia thõng xuống, thắt nút tròng lọng lại. Tôi ngắm nghía. Chui vào, đạp đổ cái bàn dưới chân thì tôi bằng thằng Vách.
Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Không phải tôi ngần ngừ mà tôi mỏi như sắp chết, tôi ngồi thế này chắc một lúc nữa tôi cũng chết. Không phải. Tôi nhớ ra tôi sắp lả đi vì đói. Thế thì đi ăn cái gì, chẳng nên làm còn ma đói.
Chiếc tròng lọng ruột tượng trắng nhờ như giải khăn tang lơ lửng giữa nhà. Tôi khoá cửa, bước ra.
Lại biết chỗ ấy có quán cơm mà mật hiệu là cánh cửa đóng một bên. Mở mảnh ni lông che tường ra, tròng treo cỗ lòng tráng, cái cổ hũ trắng phau, có phở, có cháo lòng, tiết canh đủ thứ. Thành phố tiêu điều không phải vì chốc chốc lại báo động máy bay. Bề ngoài thôi, người ta ở trong nhà mà vẫn hàng phở, bánh cuốn, bánh giò, rượu cuốc lủi được gọi nhẹ nhàng là nước mưa…
Vừa đi vừa nghĩ những cái ăn, như người thành phố bom đạn đương thiếu đói, thì chết làm sao được. Tôi cũng tự mang máng thế. Tôi lử khử, dật dờ đi. Dẫy phố im ỉm. Thế mà cái quán này đèn sáng. Ngọn điện che mảnh bìa cứng, bớt sáng hắt ra, theo lệnh phòng không. Tôi bước qua chỗ của tôi vào sáng đèn, tôi choáng người. Lão chủ quán cái mặt hệt thằng địa tư Nhỡ. Chỉ khác bộ râu quai nón trắng như cước, tóc và râu dài xuống giữa lưng, giữa ngực. Tôi hốt nhiên phấp phỏng. Hay là tôi đã thắt cổ tôi chết rồi, tôi gặp hồn thằng tư Nhỡ ở cửa địa ngục suối vàng.
Chủ quán nhác nhìn tôi, hỏi ngay:
- Anh đội Bối phải không? Cũng râu ria như thằng địa chủ à?
- Ông… tư Nhỡ.
- Nhớ dai đấy. Anh ngồi chơi.
- Bây giờ ông…
- Thế thôi. Ồ lâu lắm mới gặp. Đánh chén cái đã. Không phải ăn nhà hàng, mà tôi thết ông. Dám chứ? Tôi vẫn ơn ông không qui tôi là địa; nhưng ông vượt mặt thế nào được thằng đội Cự, có phải không ạ?
Toàn việc người sống. Tôi còn biết nói thế nào. Cái anh đội Bối cũng xa xôi hoá thành thằng bơm xe rồi. Những kiểu cách ta đây cán bộ ra về hiểu biết, đứng nói hấm hứ băm băm tay, tôi chẳng còn đâu điệu bộ dở dang ấy nữa. Quên rồi, cả như chuyện Âm Phủ. Tôi không ngại, cũng chẳng ngượng với tư Nhỡ. Dường như lại quen ngay. Ai cũng chỉ ưa nhớ lâu những cái dễ chịu. Rồi vừa nhớ lại, vừa không muốn nhớ, như mê ngủ. Bây giờ rõ rằng tư Nhỡ mời tôi đánh chán. Ừ, đánh chén. Thằng bơm xe đạp nhặt từng hào giấy thì chỉ thèm đánh chén.
- Vào, vào uống chén nước đã.
Nhà tư Nhõ hai buồng, liền phòng trong, cái bếp đã được dênh ra ngay đầu gian bán hàng, đây chỗ ngủ kê vừa chiếc giường một.
Trên mành mành che, buộc cái mạt to sơn kẻ đòng chữ xanh tròn quanh theo khung: Hutte cent ans kèm chữ quốc ngữ hắc ín đen nhánh “Lều trăm năm”.
“Vẫn cái “động trăm năm “, ông ạ.
Tôi pha trò:
- Có còn tay cán nữa đâu
Tư Nhỡ vuốt râu cười:
- Vẫn còn công an, cán bộ thuế mà mình là thằng bán hàng chui. Cái lều ông già trăm năm này có giá trị trình bày lắm. Tôi lão rồi, tôi ốm yếu sắp chết rồi, tôi kiếm ăn cò con, các ông tha cho. Ít người biết chữ Tây nên phải viết kèm chữ ta cho các anh ấy để hiểu để thông cảm. Chỉ có bây giờ mà đội bắt tôi thì tôi chịu chết, không còn sức leo tường nhà giam. Nhưng cũng chẳng cần. Mấy chục năm từ ở cái “động trăm năm” này tôi đã luyện đắc đạo phép tiên.
Tư Nhỡ miết ngón tay cái vào ngón tay trỏ, giơ cao bật tanh tách rồi cười khơ khớ: Phép tiên Xìn! Xin tiền! Tiến! Tôi bây giờ tên là thằng Xìn.
Tôi lờ đờ vẻ không biết, hững hờ hỏi:
- Ông có hay về Am không?
- Tôi biệt xứ từ ngày ấy. Vợ tôi chết tôi cũng chôn ở Văn điển. Không biết dưới ấy vào hợp tác rồi có cao bằng cả làng thành một hố không, còn tôi đã từ làng, từ họ rồi. Họ hàng mà đấu nhau đến thế, còn mặt mũi nào. Nhưng mà có phúc có phận cả, nhờ các anh về làm tan hoang lên thế, thằng tư Nhỡ có suýt chết mới lại được thế này. Mấy lỵ tôi mà thò đầu về, đứa nào dò được tông tích tôi trên đây, có khi tôi lại ăn đất, anh ạ. Chốc nữa anh lên công ăn khu báo cáo có thằng địa trốn lên đây đội lốt công thương thì tôi cũng rũ tù Hoả Lò ngay. Nhưng mà anh đã thương tôi, nỡ nào, phải không. À mà tôi cũng thay tên đổi họ rồi. Bây giờ họ tên tôi là Tạ Xìn, Tạ Xìn. Tiếng Tầu “xìn” là tiền, “Tạ xìn” là một tạ tiền, tôi thờ than tiền. Khi nhỏ, tôi hay chơi chữ, đã “lều trăm năm” lại hoá ra “tạ tiền”. Tạ Xìn bán phở ngầu pín dái bò dái dê, lại cả phở không người lái. Bánh phở Tạ Xìn đương có tiếng đấy.
Lão nói toang toang gay gắt một cách từ tốn. Ở đời không rõ đầu lưỡi hay trong bụng, tôi thấy ai cũng tự tin hơn tôi, tôi cũng đâm ra rúm ró. Tôi mờ mờ những sóng gió thôn Am, thôn Chuôm. Tôi có cảm tưởng tư Nhỡ đương là thằng Tề Thiên Đại Thánh đánh cả trời mà tôi như con nhái đứng dưới đất giương mắt chẫu, mắt nhái, mõm nhìn lên.
Tôi nhấm nháp chén chè Tân Cương pha bằng nước đun ở cái ấm điện tý hon chỉ vừa vài chén hạt mít. Một lát, thấy một đứa con gái bưng một mâm vào. Trên mâm, hai bát chậu đựng những cánh xương sườn lợn cong lên như cọc bờ rào, khói béo nống bốc nghi ngút. Xương ninh làm nước phở, ngon nhất. “Bán phở mà tôi cấm có ăn phở. Tôi không thích mâm bát lôi thôi. Tôi chỉ nhắm rượu, gặm xương. Ông chiều tôi”.
Tư Nhỡ lại nói, giới thiệu:
- Cái này là út của tôi. Nó làm mậu dịch, nó là cô mậu bán thịt cho nên bố nó mới được cái khoái này. Bây giờ là nhất nhà mậu, nhà mậu được cái chén ngay, rồi mới đến nhì thân, ba thế.
Lúc này nhìn đứa con gái tôi ngỡ con bé con, bây giờ mới nhận ra cô mậu dịch áo vét xanh da trời, hai bím tóc tết buông xuống lưng, đội dép râu, tôi đâm sợ. Ai mà chẳng sợ những cô mậu cong cớn, cô ném ra bán như thí cho bó rau nào thì được nhặt bó ấy.
Tôi uống rượu chẳng mấy. Tư Nhỡ thì vén râu tì tì từng chén. Tôi nhấm nháp theo cũng hào hứng dần lên và thế là nhãng mất cả chuyện thắt cổ. Đấy, tôi ví thế nào, tôi hèn, tôi bằng thế nào được thằng đồ tể Vách kia, tôi mới chỉ gặm miếng xương mà đã…
- Ông tư ơi, ông được mấy người giỏi như có mậu này?
- Mỗi đứa một phân, không đứa nào giống đứa nào.
- À…
- Chẳng giấu ông, nhà tôi có hai thằng xuất ngoại, một ở Liên Xô, một ở Hung.
- Hai đứa đi nước ngoài? Luật chỉ được một thôi mà.
- Đã bảo tên tôi là Xìn, tôi là Tạ Xìn, giới thiệu mãi rồi.
- A.
Thế mà tôi lại nhờ cái thơ ném lại cho “cậu mợ và các em Hương, Hiền, Vinh, Phú, Quý” của đứa nào ngày ấy bỏ nhà đi. Không biết nó là đứa nào trong đám con Tư Nhỡ.
Tư Nhỡ lại nói:
- Một thằng đi bộ đội, chốc nữa về.
Tôi đáp giữ nhịp:
- Thế à?
- Cũng cho một đứa đi bộ đội cho phải phép. Bộ đội thời đánh Mỹ mà được ngủ nhà, thế mới chúa. Cái đấy phải chạy mệt hơn lo cho những thằng đi nước ngoài.
Từ lúc ngồi ở cái giường trong “Lều trăm năm” ở thành phố này mỗi lúc tôi lại rạp người xuống, tôi lạy phục tư Nhỡ, rồi chúi đầu ăn như ma đói. Chẳng mấy lúc say đứ, nằm đờ ra. Cái thân tôi ăn cũng khổ, lúc nào cũng sắp chết vì bội thực. Tỉnh lại, thấy tư Nhỡ ngồi nguyên thế, đầu gối rung bành bạch, chốc lại vạch râu tiếp một ngụm.
- Thức rồi à? Làm bát không người lái. Phở nóng, nhiều hành, tỉnh ngay.
- Tôi về…
Về làm gì. Trời mát, tao với ông nằm cái giường này vừa mà nhà mày thì như cái ổ chó!
- Ông biết nhà tôi?
- Tao biết cả mày đứng bơm xe đạp ở ngã năm, biết lâu rồi.
Chưa húp bát phở nóng mà tôi tỉnh tức khắc. Tôi bơm xe đã thành tật cứ lúi húi vặn vặn, lắp vòi, lúc nào cũng rũ mặt xuống hai tay ấn bơm, chứ mấy khi nhìn ai.
- Về đây làm với tao.
Tư Nhỡ đứng dậy chếnh choáng vịn tay vào tường.
- Ấy cái tội của các ông cải cách đây. Thằng tư Nhỡ tụt tường nhà giam trốn ra, què một chân.
Bắt chợt, tư Nhỡ hét:
- Bối! Thằng đội Bối!
Tôi trố mắt, ngơ ngác.
- Kìa “dạ” đi, lậy ông địa đi. Tao đương bắt chước các ông đội đây. Như mà làm trò chèo tuồng cải lương thế thôi, tao không báo ân báo oán như cái con Thuý Kiều giang há nhà thổ đâu.
Mỗi việc, mỗi câu của tư Nhỡ như đấm vào mặt, vào bụng, vào lưng, tôi chỉ biết oằn người ra chịu đòn.
—Nhà nước chỉ cho ăn vã bo bo, bột mì rán khan, cái bánh phở là quốc cấm, phải chạy nhiều cửa mới có chén rượu, có miếng xương này. Mai đến đây, khối việc. Mày không ra sao cả.
Tôi thì không ra sao từ lâu lắm rồi. Cái vốc tiền dạo trước cũng chỉ nuốt hết chứ có nên trò trống gì đâu. Nghe nói thế tôi coi như ông chủ đang mặc cả công. Được thì gật, không thì lắc, chẳng còn biết đỏ mặt. Nghe nó nói cũng thuận, có khi mà hay, đỡ nắng gió, khỏi phải há mồm nhảy bơm, mà cái của trời ơi của tư sản giẫy chết kia thì biết bao giờ nó còn rơi xuống nữa. Tôi gật gù, lóng ngóng.
Tư Nhỡ đập bốp bàn tay bên kia vào tay tôi.
- Mai đến nhé.
Tôi bước len lét, lử khử, râu ria lướp tướp như con chó ốm. Mở cửa trông thấy cái tròng lọng ruột tượng lơ lửng giữa nhà. Tôi mới nhớ lại. Tôi cúi xuống, vứt lại vào cái hòm rác rưởi. Quên ngay, tưởng như chưa khi nào đã định chết thắt cổ.
Tôi ngủ say như chết. Hôm sau, tôi cưỡi cái bơm, mỏi nhức lên đến cánh tay. Thật không thể trông vào cái bơm được nữa rồi. Cái bọc tiền đã giết tôi. Nhớ đến những câu chuyện với tư Nhỡ lại càng đau ê ẩm.
Một buổi sáng, tôi đến nhà tư Nhỡ.
Tư Nhỡ cười, vỗ vai tôi.
- Biết anh còn nghĩ đi nghĩ lại mấy hôm mà. Cũng sĩ diện chứ, nhưng mà cái bơm chỉ bằng cái tăm hương ấy mà nặng đấy.
Tôi bắt đầu làm một công việc kỳ quái mà dễ hiểu. Không phải phụ bếp, không lau bàn, bưng bê, không rửa bát hay giết gà, mổ lợn - thịt gà và từng súc thịt lợn sống đã có cái cô út làm nhà mậu mỗi buổi đèo trộm về một túi ni lông rồi.
Tôi đi lấy bánh phở. Hồi ấy, cả thành phố trông vào tem phiếu gạo. Bánh trái, chè cháo hàng quán đều dùng đến gạo, bột gạo đều bị cấm, nhưng người ta vẫn chui lủi, thế nào cũng có cách nhoi ra. Mỗi ngày hai buổi đúng giờ như người đi làm cơ quan, tôi vác một bị bánh phở nặng lệch vai về.
Tư Nhỡ dặn:
- Chỗ lấy bánh này nghiêm lắm. Anh có bộ đại cán hay đấy, dễ vào. Những cấm nói, không được nhìn ngang nhìn ngửa. Đêm bánh về đến đây, gặp “cá” thì bảo là giữa đường người ta nhờ bán hộ. Rồi tôi gỡ cho, không được đổ cho tôi.
Mấy lâu này lặn ngụp trong chợ đời, tôi đã hiểu giữa đường ngoài hè còn biết bao những ma quái bằng bậc cụ, những mưu mô và những đòn đánh ở cơ quan tôi ngày trước.
Tôi đến một toà nhà hai tầng có vườn bao quanh ở một phố tĩnh mịch. Các cửa sổ gác đóng kín chắc là nhà cán bộ to. Tuy to, những chưa phải cỡ có bốt gác cửa.
Tôi đi thẳng vào vườn sau. Bên cái nhà ga ra ô tô có một buồng lửng ngay đầu cầu thang xuống. Trong buồng, một cái nồi ba mươi, bột đương nghi ngút sôi sùng sục. Mấy người xoay trần, tráng bánh cạnh cái công tơ điện xình xịch chạy máy.
Một người đứng tuổi mặt mũi nhẵn nhụi mặc áo đại cán, ka ki hồng nhạt. Trông thấy tôi, ông bước ra, bắt tay - lại bắt tay, chưa quen đã bắt tay lu bù. Ông ấy bỏ kính trắng, - tôi ngờ là kính giả, ông trỏ tay:
- Cái bọc to nhất đi ngoài cũng là của anh – Người ấy cúi nhìn đồng hồ đeo tay, - Lúc nào ô tô ra đỗ cho kia thì anh vác bọc này đến, lên ngồi ghế trên. Chỗ nào ô tô dừng lại, chú lái mở cửa cho anh xuống. Không được quay lại nhìn, không phải chào hỏi ai cả. Nhớ chưa? Không thì mất lương đấy!
Tôi đã nhớ từ lúc tư Nhỡ dặn, nên cũng chẳng buồn trả lời. Nháy mắt, cái xe đen bóng lừ chui ra, cửa kính sau và hai bên khoang dưới treo miếng vải hoa sặc sỡ như bướm đậu. Người lái xe mở cửa trên, tôi bê bọc bánh bước lên, mắt nhìn thẳng đằng trước. Nghe tiếng người bước lên đằng sau rồi sập cửa. Xe lướt ra cổng loang loáng. Nhớ những lần đi cải cách ở Thanh Hoá, ở Thái Bình, hội nghị tổng kết ở Hậu Hiền, ở Quỳnh Côi có cán bộ trên về dự cũng đi những xe đen kềnh càng choáng lộn như thế này. Các ông ấy toàn mặc áo nâu, đi dép râu, không biết ông ngồi sau tôi mặc áo nâu hay đại cán. Đương nghĩ loăng quăng, cái xe đã đỗ êm nhẹ. Người lái xe với tay sang mở của. Tôi lùi lũi ôm bọc bánh xuống. Chiếc xe lại bon vút đi. Đây là ngã ba, rẽ vào một quãng thì đến nhà Tư Nhỡ.
Mỗi ngày hai chuyến đi lấy bánh như thế, kể cũng nhàn. Được muơi hôm, dần dần tôi biết mọi lai lịch những bị bánh tôi lấy về và những túi thịt lợn, mỡ lợn, sườn lợn của cô ả mậu. Tư Nhỡ lại tự vác đi bán các nơi khác. Thảo nào, lão bảo bánh phở Tạ Xìn có tiếng là ý tứ thế và cái hàng vắng, lão cũng chẳng cần.
Tôi lại biết bọn làm bánh không phải người nhà này, cũng không phải nhân viên cơ quan. Có manh mối, người ta đến xin làm đây. Mọi công chuyện và tiền nong tính toán với bà chủ. Làm bánh trong nhà hộ đặc biệt, các ông “cá” đánh hơi được cũng chịu. Lại cái ô tô thủ trưởng ngày ngày tải bánh ra, chẳng dám đụng đến.
Cái ông chủ lò bánh mặc áo đại cán, kính trắng, cái cặp da như chánh văn phòng ngày nào cũng đến xin ý kiến thủ trưởng, ông chuyện với tôi, ông tặc lưỡi:
- Cả làng đều phải kiếm thêm, cán bộ nào chẳng như nhà ông này.
Cái giọng hệt Tư Nhỡ, đủng đỉnh, móc máy, xỏ lá. Hay cũng là địa trốn lên thành phố, bây giờ tên là Xìn, là Tiền. Ai biết được.
Tôi đến lấy bánh chui ở nhà ông cán bộ to nọ, tôi lại tìm được cách nghĩ cho yên lòng hơn về sự an bài của xã hội bây giờ. Tình cờ tôi được tin cái lão trưởng phòng tổ chức đã sa thải tôi ngay trước, lão bị đi tù rồi. Ông “chánh văn phòng tên là Xìn” ấy một hôm đọc báo rồi kể lại cho đám xay bột, tôi đứng nghe đích xác tên người, tên cơ quan tôi trước. Nguyên do là lão ta sắp về hưu. Lão mưu với thủ kho làm một quắn lấy trộm hoá chất.
Sau khi tuyên án, lão được nói một câu “Lậy toà, một đời con công tác - toà án không cho lậy, không cho xưng con, những lão cứ nói thế, con không ăn cắp một tờ giấy, một ngòi bút. Nhưng con sắp phải được nghỉ hưu, con cần kiếm cái dưỡng già, con chỉ kiếm đồng tiền dưỡng già. Xin toà rủ lòng thương”. Lão ấy sáu mươi ba tuổi. Thì tôi lại ngậm ngùi nông nỗi đời người. Tôi lại quên cái lão trưởng phòng mặt sắt ngày trước. Ai chả thế, cố cùng mới chịu đói, ai chẳng thèm no.
Tối tối, tôi ngồi hầu rượu tư Nhỡ. Quan hệ của tôi với lão cứ nửa nạc nửa mỡ. Không ra chủ cũng chưa hẳn đầy tớ. Tôi không còn nhớ mấy về địa chủ tư Nhỡ ở thôn Am. Nhưng lão nhớ ác, thỉnh thoảng vẫn móc tôi vài cú.
- Cái đài Oreông này của tôi khoẻ lắm, nghe được Sài Gòn, cả đài Mỹ, đài Anh. Bây giờ tôi mới là Việt gian toàn nghe đài địch. Cái thằng đội Cự dốt đặc cán mai như con bò, cái galen kêu ẹc ẹc bắt dây lên cột tre lại bảo là dây điện đài đánh đi liên lạc với địch.
Tôi im, nhai thong thả.
Bát xương sườn lợn bốc khói mỡ béo ngậy. Tôi phải làm bát phở không người lái đã rồi mới uống - cũng giữ ý, kẻo lại kềnh ra như hôm nào.
Tôi đảo mắt nhìn tư Nhỡ. Lão vẫn đương ừng ực mấy chén cũng như lúc đứng bán phở, lúc đeo túi bánh túi thịt đi, lão nói lão làm phăm phăm, hống hách, máu nhà địa chủ và lão đương làm ông chủ, còn thằng Bối thì hủm hoẳn như con thằn lằn cụt đuôi. Tôi đã làm xong bát phở không mà từ khi tời thành phố hay có máy bay không người lái của Mỹ vào thám thính, bát phở không thịt cũng thành cái tên “phở không người lái”, chẳng ra cợt chẳng ra mỉa nó hay mỉa ta. Tôi nhấc chai, rót lấy chén rượu. Tôi cũng đương làm ra tiền cho nhà này mà.
Tư Nhỡ bỗng đứng hỏi:
- Này cái thằng đội cải cách tên là thằng Cu, thằng Cự gì nhỉ?
- Thằng Cự.
- Ừ, Cự. Nghe cái tên con hốt đến tận giờ. Đêm hôm qua cái đài Sài Gòn nói có hai thằng đại tá Hà, đại tá Cự người bên ta mới chạy sang nó, hai thằng đi họp chống cộng châu á ở Đài Loan về.
- Cái thằng Cự ấy hả?
Tôi lơ đãng
- Nào biết được!
Tư Nhỡ cười hê hê:
- Anh chỉ còn chúi mũi xuống cái bơm, chẳng biết con khẹc gì cả. Nói thế chứ tôi có biết đâu thằng Cu, thằng Cự. Chả là tôi mê cái giọng con Hà Thanh rồi con Hoàng Oanh đài Sài Gòn, chúng nó hát cho tê tái lòng người đến như thế mới là hát chứ. Đến giờ đây, đi tìm luồng Sài Gòn… Mà đài nó nói đêm nay các thằng ấy họp báo. Anh nghe xem có phải không?
Tôi lẳng lặng thong thả nhấm nháp mảnh xương sườn lợn. Thằng Cư,, thằng Cụ xa lắc chẳng bận đâu đến tôi. Chiếc Oreon trên đầu giừơng tư Nhỡ đã lên nước ám khói màu vàng nhợt. Cái nút quay ọ ẹ ró ráy như chuột chạy. Tay tôi nhờn mỡ, Tư Nhỡ phải làm lấy. Tư Nhỡ áp tai nghe rồi rối rít: đấy, đấy… Cúi xuống… này… này… Tư Nhỡ đứng dậy ra cài then cửa. Tôi hờ hững ghé tai vào mặt đài.
Tiếng người đương nói:
… thưa đòm bào, chúng tôi đại tá Tam Ha, đại tá Huỳnh Cự… ngày… Đại hội chống cộng toàn châu á ở Đài Bắc về. Thưa đòm bào, tôi xin báo cáo…
Tôi nhỏm lên, nhớn nhác:
- Đúng Huỳnh Cự…
Tư Nhỡ kêu, rồi chửi một câu:
- Ối giời ơi! Đéo mẹ thằng chó đái!
Tôi còn đương ngổn ngang những thằng Đình, thằng Cự ngày nào chưa nghĩ thấu sự đời lộn phộc quái ác này. Tư Nhỡ choang choác:
- Bên ta có hai thằng chó ra hàng. No cơm ấm cật thì ở bên ta nó cũng sướng chán. Đâu không biết chứ dạo ấy, rễ chuối ngày nào chả lên chợ mua rượu thịt về cho thằng đội Cự. Anh sai con Duyên; con Đơm ấy đi mua cái bánh ngô, bánh dầy. Người ta đếm đấy, cả hàng huyện biết chứ. Thế ra nó vào B, nó lại mò ra chỗ ăn chơi, trâu đi tìm trâu đấy, các cụ nói không sai. Mà ai chả thích sướng. Bây giờ tôi sướng hơn ông, nhưng đã ra quái gì, bán cái bánh phở mà như thằng kẻ trộm.
Tôi lủi về, tư Nhỡ vẫn lảm nhảm huyên thuyên một mình đến tận lúc nào. Tôi nằm xuống giường rồi vẫn vang tiếng thằng Cự với những câu chửi rủa của Tư Nhỡ. Đúng nó, đòm bào, đòm bào. lại nhớ như mới họp, mới mít tinh hôm qua. Nó leo lên cao thế thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên. Những mưu mẹo, những trắng trợn khủng khiếp. Nhưng thế rồi mà lại chạy. Nó muốn lên tận đâu nữa? Tôi nghĩ tôi vẫn hơi hướng máu cán bộ, tôi phân tích.
Rồi tôi lại tơ tưởng đến những hộp đựng thuốc bên Úc gửi về. Ừ làm người ở đời ai chả muốn sung sướng, câu ấy rõ chẻ hoe, khác cái thằng tôi bơm xe, thằng tôi đi lấy bánh. Tôi chợp mắt, những lọ thuốc tây rơi lả tả xuống mặt, gạt ra không kịp.
Cái ô tô đen bóng đỗ êm ven hè. Người lái xe trườn đẩy cánh của. Tôi bê cái bọc, lù rù xuống. Bây giờ tôi cũng thôi thấy thơm thoảng, thôi thấy êm đít như mấy hôm mới được ngồi lên ô tô. Tôi chẳng quay lại, không biết có ông cốp nào ngồi sau lưng. Tôi đã thành ông Tả Ao, thấy địa lý dặn khi về chỗ ấy không được ngước mắt lên nhìn. Lắm cái nghĩ quá, chồng chất những nghĩ, muốn yên không được. Cái xe lại bon bon giữa đường phố đi làm những việc to tát hay tủn mủn, việc vặt vãnh hay việc chui lủi, tôi không thể biết, mà tôi vẫn nghĩ.
Tôi khệ nệ vác tải bánh vào nhà tư Nhỡ, đặt lên bàn rồi ngồi xuống thở. Có người lố nhô vào theo. Mấy người, cả người mũ áo công an vàng vàng. Hình như các ông thuế, ông công an đã ngồi chõm ven đường bên kia. Tôi bủn rủn, choáng váng.
- Yêu cầu mở cái gói.
- Tôi, tôi…
- Mở ngay!
Tư Nhỡ ở trong cái lỗ “lều trăm năm” loạng choạng ra, dụi mắt, đương còn ngái ngủ.
- Chào các ông! Ơ thằng kia, thằng lưu manh ở đâu chạy vào đây? A nó đem hàng lậu. Mày định đổ vạ cho nhà ông hả?
Tư Nhỡ xông đến đấm đạp liền hồi vào mặt, vào bụng tôi, vừa đánh vừa rền rĩ kêu: “Các ông trói nó lên đồn cho tôi. Mả cha thằng ăn cắp, thằng ăn cắp”.
Trong khi tư Nhỡ xấn xổ đánh tôi, mấy người chức việc ngồi vào ghế mở sổ hý hoáy ghi chép, cũng không ai để mắt đến người bị đòn trước mặt.
Tư Nhỡ nghển lên với tay lấy cái roi mây phất trần. Tôi ù té vùng chạy thục mạng. Một lúc nhìn lại, chẳng thấy người đuổi. Xung quanh nhộn nhịp qua lại buổi sáng. Tôi hổn hển bước trong đám đông. Không biết đòn thật hay đòn giả, hay nó làm phép đuổi tôi, quỵt công tôi. Hai đầu gối tôi như muốn long ra.
Lúc buồn quá người ta hay bịu vào những mơ màng. Những tôi mơ màng phía nào cũng vướng. Lại loé lên thằng Vách và cái thừng tròng lọng. Cái ruột tượng ở nhà tôi hình như vẫn để múi tròng lọng. Nhưng tôi quên cái việc thắt cổ rồi.
Tôi sờ lên môi. Ngón tay dính nhoè máu. Hàm trên, hổng một lỗ lợi không thấy đau. Cái răng gẫy văng đi đâu hay đã tụt vào cổ họng lúc thằng tư Nhỡ đánh quai hàm tôi. Ôi những đứa bị gẫy răng đương ra đứng sắp hàng trước mặt, con đĩ kẻ Đìa này, thằng Đình này, thằng tôi này…”. Tư Nhỡ cũng khuyết chiếc răng cửa. Ngày ấy nó đã bị ăn cú đòn mất răng chăng.

Chương 5 ( kết)


Ở xóm Am, xóm Chuôm và cả làng ấy đến bây giờ còn kể một câu chuyện ly kỳ và chắc còn kể mãi, đời này qua đời khác đến mai sau.
Năm ấy, có một đợt tuyển bộ đội. Hai anh em Vó và Cò, con bác trưởng thôn Diệc đều tòng quân. Một năm sau, nhận được thư của hai chiến sĩ gửi từ miền Nam ra. Bấy giờ, cuộc kháng chiến chống Mỹ đương giai đoạn khẩn trương, tuổi trẻ cả nước ra mặt trận, miền Nam xa mà gần. Đôi khi, có thư chuyển tay về nhà, có lần có người qua lại, do vậy ở nhà cũng biết tin tức. Thế cũng là còn rõi theo được hơi hướng rồi.
Cò thì vào bộ đội vận tải. Vó thành chiến sĩ đặc công. Ở làng bàn tán thấy bảo Vó là đặc công nước, không phải đặc công bộ. Có lẽ thật như thế, bỗng nhiên một lần kia Vó được về thăm nhà. Cả làng xúm lại hỏi: “Thế thì Vó bơi từ trong mặt trận ra à?” Rồi đâu đâu cũng đồn rằng chiến sĩ đặc công Vó đã bơi từ mặt trận ra. Chỉ có đồng chí Quyết Thắng mỉm cười. Vó là đồng chí Quyết Thắng. Rồi Quyết Thắng lại đi.
Thế mà cái tin đội trưởng Cự vào mặt trận phía Nam rồi ra hàng địch, nghe đài Sài Gòn nói, những người cũng biết. Cự chẳng dây mơ rễ má, chẳng họ hàng bàng sang với nhà ai, họ nào, nhưng bởi Cự đã về làng làm những chuyện động trời xưa này chưa bao giờ xảy ra, cho nên người ta nhớ, nhớ cái hồi làng nước áo xám. Đòn đau nhớ lâu… Mọi người còn biết rõ hơn nữa, không biết là thêu dệt hay tường tận. Chuyện cứ hệt như tận mắt trông thấy. Bên ta đã hạ quyết tâm tiêu diệt bằng được thằng phản bội ấy. Cả một trung đội sẽ tấn công, những chỉ một người trách nhiệm đặc biệt phải bắt sống hay là giết nó tại trận. Nhiều người giơ tay xin nhận lệnh, rồi chỉ có chiến sĩ đặc công đồng chí Quyết Thắng được vinh dự. Quyết Thắng được hơn mọi người, Quyết Thắng nói: “Tôi biết mặt thằng Cự, nó đã ở nhà tôi mà”.

Một trận đánh chớp nhoáng đột nhập vào cơ quan chiêu hồi của ngụy ở giữa Sài Gòn. Quyết Thắng đã rút dao chém đứt cổ Huỳnh Cự trong đám loạn quân tháo chạy. Lại còn xách được cái đầu Cự đem về làm bằng.

Câu chuyện anh dũng cứ được kể lại mãi, không biết thực hay hư thế nào.

1992


Những điều ấy khác nhau như mưa với nắng hoàn cảnh người cầm bút hôm nay với người cầm bút chúng tôi ở lứa tuổi thanh niên. Chúng tôi những cánh bèo vật vờ. Có thể phơi phới ra biển khơi mênh mông. Có thể giạt lên khô héo trên bờ cát.
Ngày nay, lớp lớp các bạn lớn lên, phát triển giữa cuộc sống không phải chỉ bằng vào mong ước, mà ở ngay trong tổ chức, trong đội ngũ.
Ví dụ đơn giản, một nét lớn nét chung về cuộc đời một cây bút ở lớp người cầm bút trẻ. Bạn ấy tốt nghiệp nhà trường phổ thông, trường trung cấp hay trường đại học. Rồi vào thực tế đời sống: đi bộ đội. Vừa qua chiến đấu chiến trường B, chiến trường C, bây giờ trên biên giới hải đảo, hoặc đi làm nhiệm vụ quốc tế bên Lào, bên Căm-pu-chia. Hoặc bạn ấy làm công nhân ở nhà máy, ở xưởng, ở cơ quan, ở công tác nào mà xã hội đòi hỏi và bạn có chuyên môn. Trong khi ấy, bạn thích viết văn, làm thơ, tự rèn luyện rồi viết thử, rồi ham mê dần và viết ngày một khá hơn. Đã lác đác có bài in trên báo, đã có lúc phẩm xuất bản. Rồi thì vẫn cảm thấy chưa đủ tri thức cho người viết, bạn đi học lớp báo chí, lớp chính trị, lớp viết văn, những việc cần để hổ túc cho nghề mà bạn say mê.
Nét chung ấy đang thấy ở những người cầm bút có triến vọng hôm nay. Chế độ tạo ra điều kiện, không phải chỉ cho một ai, mà cho cả một lớp người, một thế hệ. Thật khác chúng tôi ở tuổi ấy trước kia. Không biết có phải người có tuổi thường hay vui buồn nặng về kỷ niệm, nhưng nhìn lại đời văn của mọt lớp người không bao giờ tôi quên dược những hiu hắt, những chua sót, những nỗi niềm những mong chờ dường như vu vơ.
Tôi có biết ít nhiều về nhà văn Nam Cao, từ quãng 1940 cho tới 1951: ngay trước ngày anh hy sinh năm 33 tuổi trên đồng bằng sông Hồng, thì khi đó Nghĩa Đô làng tôi, khi ở Đại Hoàng quê anh khi Hà Nội hay trên Việt Bắc, chúng tôi thường ở cùng nhau.
Chúng tôi cũng mang khá đủ tính nết và tâm tư thường thấy trong lớp người túng bấn mà có chút chữ nghĩa ở xã hội ấy. Dân nghèo ở chợ không coi chúng tôi là những người khố rách áo ôm như họ. Mà cũng không muốn bị khinh rẻ thế, chúng tôi cũng không có tính nết của những người khốn cùng ấy. Những nghĩ ngợi trong đầu óc chúng tôi khó đọng lại một cái gì là khẳng định. Tầng lớp trên nhìn chúng tôi là những kẻ mà họ xỉa tiền ra, có thể gọi dạ bảo vâng được. Mặc dầu, có khi âm thầm vắt tay lên trán mà nghĩ nước đời đến nông nỗi ấy chúng xấu hố, tủi nhục. Đối với xã hội cứ vừa nhìn ra cái bất công lại vừa loạng quạng mơ hồ. Lẫn lộn thấy và không thấy. Rồi thì tâm trạng vẩn vơ, quẩn quanh và cúi mặt. Rồi thì vừa bực bội, vừa buồn thương. Ở những người nào đó có được đôi chút niềm tin và mong ước, có thể anh ta đã biết bực bội và chán chường không phải chỉ đối với thời thế, mà cả với chính mình.
Nam Cao lớn lên trong một gia đình khá giả bị sa sút. Nhà anh gốc quê, nhưng ra làm ăn ngoài tỉnh khấm khá nên dọn cả ra tỉnh. Bố anh buôn gỗ và có của hàng đồ gổ tiện ở thành phố Nam Định. Nhưng rồi ông rượu chè, cờ bạc. Tiền kiếm được không lại với ăn tiêu, cơ nghiệp cứ xuống dần. Rồi qua một vài chuyến buôn bán thua lỗ, bị mối lái lừa đảo, đâm khánh kiệt.
Bố anh phải bán cả cửa hiệu, trở về làng, nghèo khó hơn trước và tất nhiên trong nhà lục đục hơn trước. Cứ trông cuộc đời mấy anh em nhà Nam Cao cũng có thể thấy vẽ ra quang cảnh nhà anh và xã hội đổi thay thế nào. Nam Cao, anh lớn nhất, được học đến tốt nghiệp tiểu học lên bậc thành chung, mười một năm. Các em trai anh không biết cửa trường học ở đâu. Người thì gồng thuê gánh mướn, sống đời cố nông. Người đến tuổi, đi sở mộ vào Nam Kỳ làm phu cao su. Riêng có người em trai út, năm 1945 mới là thiếu nhi, đến 1954. khi hoà bình lập lại, được đi học thành kỹ sư.
Nam Cao kể với tôi khi anh đã lớn, biết rõ việc nhà, anh rất ghét bố anh. Tất nhiên ghét theo cách lặng lẽ của Nam Cao. Bây giờ ông cụ mất đã lâu.
Nhưng tôi tưởng ngay cá lúc sinh thời, cũng khỏng bao giờ cụ biết được có lúc người con cả của cụ lại nghĩ về mình như thế. Ghét bố, bởi chỉ vì bố mà gia đình phải tay không về làng. Vì bố mà các em anh không đứa nào biết mặt chữ. Vì bố mà... bao nhiêu tội lỗi ở cái nhà này đều vì ông ấy cả. Có lúc anh đương cười to, chợt nhận thấy hình như mình có cái dáng vừa cười vừa giơ tay, bố anh cũng hay cười và giơ tay thế. Nam Cao cố chữa cho không cười và giơ tay giống vậy. Nam Cao cực ghét người đánh bạc và không biết cờ bạc là gì. Nam Cao kiểm lại những cử chỉ, các sinh sống, cái gì có thể giống bố, nhất định làm khác. Nhưng ngẫm nghĩ, rồi lại thương. Ông ấy phá, ông ấy làm ra, rồi ông ấy phá, công của ông ấy chứ nhà này ai đẻ được đồng tiền nào mà căm ghét gì ông ấy. Thế là lại thương, thương bố, thương mẹ, thương bà nội, cụ ngoại sống lâu quá, thương vợ, thương thân, thương những người đã cùng túng lại cứ cằn nhằn cấu xé làm khổ nhau trong cái bể khổ đầy vơi khắp thế gian này.
Cứ giận dỗi lại xót xa, lại hối hận như thế.
Nam Cao lấy vợ được chưa đầy một năm thì anh đi Sài Gòn. Cũng chẳng có mục đích gì mà đi. Duyên do vì ông Lễ, một người cậu họ có cửa hàng may đo Tây ở trong ấy. Ông cậu muốn có một người nhà vừa sổ sách, vừa tay hòm chìa khoá, thế là ông về mang cháu đi.
Cũng không phải chàng thanh niên này thất tình, thất chí gì đâu. Vợ chồng lấy nhau do cha mẹ gả bán từ khi còn ít tuổi, theo phong tục thông thường thời ấy. Cũng khó khăn đôi chút, vì chị ấy người bên lương, nhà anh đi đạo, nhưng họ đạo xôi đỗ mà anh thì tự nhiên đã nhạt đạo nên rồi cũng nên vợ chồng. Năm ấy, anh ốm, không thi hết bậc học thành chung ngoài Nam Định được đến năm ở Sài Gòn về, anh thi mới đỗ. Vợ anh thì chỉ như đứa con gái được mua bán đem về nhà để cha mẹ anh sai bảo. Với anh, mọi ràng buộc riêng tư chẳng thành vấn đề cản bước anh đi. Làm đời trai thử bay nhảy xem sao. Thế là đi.
Hơn hai năm trời ở Sài Gòn anh làm việc chí thú như mong muốn của người cậu: sổ sách, xuống tàu Tây cảng Nhà Rồng đo quần áo cho khách hàng và trông nhà. Nhưng cũng không phải anh chỉ bằng lòng và yên ổn sống như thế, anh cũng chút ít tìm ra ngoài xã hội.
Anh vào tráng đoàn hướng đạo. Một hôm, đoàn anh đi cắm trại ở Lái Thiêu. Mỗi tốp chia nhau ra chơi trò thỏ rùa, bịt mắt bắt dê... Sau đó về, từ đấy, anh không đến với đoàn nữa. Bao nhiêu năm rồi kể lại mà anh vẫn không nín được cười: thằng con trai to đầu đến độ có vợ rồi mà lại còn đi chơi trò trẻ trâu ấy làm gì! Anh cũng đến báo Kịch Bóng, xin được cái thẻ làm phóng viên. Rồi có lần phóng viên Kịch Bóng chưa viết được bài nào, cũng đi Nha Trang bằng tiền túi của mình dành dụm được.
Những hoạt động của phong trào Bình dân hồi 1935, 37 sôi nổi khắp thành phố và ngay cả quanh mình anh ở hiệu may Tây trong ngõ hẻm Chợ Cũ. Đêm đêm và buổi trưa anh nằm ngủ trên mảnh ván ghép kê dưới gầm chiếc bàn cắt to đặt giữa nhà. Quanh bàn và cả trên mặt bàn, những câu chuyện hào hứng về đình công, về biểu tình, về hội ái hữu, về nghiệp đoàn Đông Dương miên man đêm ngày không lúc nào ngớt. Ông Ngôn, cậu ruột anh khác ông Lễ cũng là tay hoạt động hăng hái trong ái hữu thợ may.
Nam Cao ngủ dưới gầm bàn, anh không để ý và cũng không ai để ý anh. Có thể có bạn nào nghiên cứu về Nam Cao sẽ nghĩ ra đại loại những câu hỏi: thế thì vì động cơ gì mà Nam Cao lại không tham gia phong trào chính trị lúc ấy rầm rộ đến thế. Tôi thì tôi chịu không cắt nghĩa được. Bởi tôi không thể nào tìm được vì cái gì cả. Nhưng, nếu thế, tôi xin hỏi ngược lại: vậy sao anh lại dửng dưng trước tài hùng biện của tờ-rốt-kít Tạ Thu Thâu, hầu như chủ nhật nào cũng diễn thuyết ở "bùng binh" chợ Bến Thành náo nức Sài Gòn.
Vâng, chỉ có điều dễ hiểu là lúc ấy anh chưa để ý, vậy thôi. Thời cơ chưa đến với tâm tư con người ta.
Mấy năm sau, khi cậu Ngôn bị mật thám Pháp truy lùng và ông ấy phải trục xuất về nguyên quán vì những hoạt động dính líu đến Nam Kỳ khởi nghĩa. Tôi được làm quen với ông Ngôn ở Đại Hoàng. Hồi ấy, những câu chuyện ông kể cho chúng tôi nghe về Tây đốt làng, Tây xâu dây thép vào tay người ném xuống biển, Tây bắt ông ấy... Hình ảnh ông Ngôn tham gia "cuộc phiến loạn ở Nam Kỳ" rồi bị xích tay giải về làng, lại đi làm thuê làm mướn như những ngày nghèo khó năm xưa, hình ảnh ấy đã xúc động Nam Cao nhiều. Nam Cao rất phục ông Ngôn. Trong cuộc đời và trong sáng tác của Nam Cao, tôi nhận thấy qua trò chuyện và ao ước của anh, cậu Ngôn là một hình ảnh sâu sắc mà chưa khi nào anh viết tới, tôi tin có những ảnh hưởng quyết định tới công việc tham gia hoạt động sau này của Nam Cao. Nhưng Nam Cao đã mất sớm, không biết, kháng chiến ở vùng giải phóng khu du kích Đại Hoàng, ông Ngôn bị bắt trong chỉnh đốn tổ chức và bị chết oan.
Hoàn cảnh và tâm sự con người ta thường éo le, khúc khuỷu, nổi chìm như thế.
Rồi cái hào hứng đi cho biết đó biết đây của Nam Cao bỗng biến thành một ân hận suốt đời. Ở Sài Gòn, anh ốm đến phù nề chân tay và phải trở về Bắc.
Một hôm, ngồi ăn cơm ở nhà, anh chợt để ý thấy bàn tay vợ rám nắng. Tôi nghĩ có khi bàn tay người làm đồng nắng mưa vất vả, dù ở tuổi con gái cũng bị rám nắng như thế từ đời thuở nào rồi, nhưng mà cái bệnh lo nghĩ của anh, anh rất cả lo, lan man lo, đã khiến lúc ấy anh thương vợ và anh giận anh đến thế.
Anh ân hận làm sao anh lại ngu dại đến bỏ đi Sài Gòn để đến nỗi bây giờ hai bàn tay người vợ yêu thương của anh đã nhăn nheo cả rồi anh mới về - tuổi thanh xuân và tình yêu đã qua đi, đã mất rồi, không bao giờ trở lại, không bao giờ vợ anh lại có được bàn tay của người đương xuân.
Bàn tay đẹp không bao giờ anh được thấy đã từ ám ảnh trở thành ước mơ. Cái đầu đề truyện ngắn Bàn tay đẹp ấy của Nam Cao in báo Quân du kích ở Việt Bắc viết về một cô du kích ở hậu địch đồng bằng sông Hồng có hai bàn tay đẹp cầm súng không có gì khác là ở nơi xa xôi nói được một câu về nỗi ao ước ngày trước của mình.
Trong sáng tác, Nam Cao thường viết rất thật - sự thật thông qua sức mạnh sáng tạo của anh. Đọc sáng tác nào của anh, tôi cũng có thể tìm ra và đoán được chuyện này anh thấy ở đâu, anh nghe ai kể, nhân vật ấy là ai. Khi viết xong tiểu thuyết Chết mòn(1) Nam Cao hay nói đùa: "Bao giờ những người trong tiểu thuyết này chết đi, mình mới đem in được sách. In bây giờ thì không dám nhìn mặt ai nữa!". Nói huếch thế chứ tiểu thuyết Chết mòn dài mấy trăm trang, vào thời buổi khó khăn 1943, 1944, cũng chẳng nhà xuất bản ma nào hỏi đến.
Chỉ có mỗi nhân vật hay trở đi trở lại trong các tác phẩm của anh, thì hoàn toàn anh tưởng tượng. Mà tưởng tượng cũng đơn giản thôi: chỉ việc làm ngược lại Đó là vai "vợ" của các nhân vật thường xưng "tôi" trong truyện ngắn của Nam Cao. Khi nào người vợ ấy cũng nanh ác, lắm điều, luôn miệng rin rít chửi con, doạ đánh chồng, còn chồng thì sợ vợ một phép. Trong cuộc đời vợ chổng, chị ấy đối với anh, hiền như bóng.
Nhưng sáng tác, anh tưởng tượng nghịch ngợm khác đi, “vợ" tác giá thành dữ, thành ác. Có phải có vợ quá hiền cũng buồn, cũng muốn vợ lắm điều đôi chút, cuộc sống hằng ngày đỡ tẻ hơn chăng. Nhưng nghĩ cho cùng thì lúc nào con người và tình cảm anh cũng đượm buồn thương và một tấm lòng chân thành, thực như đếm được Chúng tôi thường túng chuyện viết. Tháng nào cũng phải có truyện ngắn, truyện dài nộp cho báo và nhà xuất bản thì mới được người ta chi tiền. Khan cái để viết đến nỗi chúng tôi phải đi bói thầy bói Kế đương có tiếng ở Nam Định rồi về Nam Cao viết lại thành truyện ngắn tả quang cảnh và lời thầy bói đã nói tốt thế nào cho anh và người xem bói, anh chỉ sáng tạo ra có cái đuôi khi viết thành truyện ngắn: thầy bói vừa nói tốt số xong, ra khỏi vỉa hè, người xem bói bị ô tô chẹt chết. Túng đến nỗi có lần anh phải lấy chuyện Kinh Thánh ra viết phỏng theo thành truyện cho trẻ em đọc. Như truyện Bảy bông luá lép(2). Tôi cũng đã tìm báo Nam Phong xem bài của người ta nghiên cứu về đình chùa rồi đem viết lại thành truyện cho thiếu nhi.
Cả đến trong những cuộc chơi, anh cũng chỉ biết thương người. Hồi ấy, cuối năm lại cuối tháng rồi mà chẳng có gì để viết, một đêm chúng tôi cố tình đi chơi bơ vơ một chuyến hóng cái viết. Nghe còi tàu hoả trong đêm, tưởng như đã gợi hứng rồi. Nửa đêm, từ Hà Nội xuống Nam Định. Không phải về quê, nhà Nam Cao chỉ cách thành phố khoảng chục cây số. Chúng tôi đương giang hồ vặt mà. Tìm chỗ ngủ, sục vào nhà trọ, nhà nào cũng chật khách. Chúng tôi đến nhà săm(3) Đông Phương gần Bến Củi. Nhà này cũng chẳng còn phòng trống. Đã trở ra cửa, nghe có tiếng người gọi lại: "Các anh ở tạm phòng em vậy. Em đi ngủ nhờ nhà bạn cũng được”. Trông mặt cô em và câu mời với cung cách bả lả nói cười trong đêm hôm khuya khoắt như thế, ả này ắt gái làm tiền loại thuê tháng nhà trọ rồi đi kiếm khách hoặc có người bao.
Chúng tôi bằng lòng ngay. Rồi thì cô ấy cũng chẳng đi ngủ nhờ nhà ai cả. Cô ấy cứ mở chăn leo vào nằm giữa hai chúng tôi. Đến nửa đêm tôi nghe tiếng khóc ri rỉ bên cạnh đầu rồi tiếng Nam Cao rì rầm khuyên, can gì đó, tôi cũng không thủng được câu chuyện đầu đuôi ra sao. Sáng ra, Nam Cao kể lại.
Giọng anh rất xúc động, anh hỏi chuyện tình cờ mà được biết hoá ra trước kia cô ấy là em một người bạn anh ở Sài Gòn. Chẳng may yêu đương lỡ dở rồi cuộc đời chồng con mấy phen đau đớn, rồi giận đời đen bạc, cô cắt tóc đi tu, rồi sa chân lỡ bước đến đây...
Tôi thì tôi không tin. Bởi vì trong đêm tối có một lúc cô điếm ấy đã quay sang cắn tai tôi. Nhưng trông nét mặt cảm động vẻ sùng đạo của anh, tôi không đám nói. Trở về nhà tôi ở Nghĩa Đô, anh hì hục ngồi viết. Hồi ấy, chúng tôi viết khá khoẻ. Thường một truyện ngắn chỉ lia một mạch từ đầu chí cuối. Một truyện dài trên trăm trang cũng dăm bữa nửa tháng thì xong.
Nam Cao viết được một truyện vừa lấy tên là Một đời người, theo câu chuyện cô gái điếm đã kể đêm ấy ở nhà săm Đông Phương. Chỉ có một việc bịa: anh đặt cho nhân vật chính một cái tên "đầm”, là cô Suy-gian.
Rồi đem truyện Một đời người bán cho nhà xuất bản Cộng Lực, được chủ xuất bản ứng trước cho tám mươi đồng. Cuốn truyện này rồi nhà xuất bản đưa kiểm duyệt, bị bỏ. Lão kiểm duyệt Nguyễn Văn Chỉnh vốn là giáo học, nhắn tôi - như tôi đã có dịp viết trong Tự truyện(4): "Ông, bảo hộ tôi là cái ông Nam Cao thâm lắm, ông chửi Tây bằng cách đặt tên Tây cho nhân vật rồi bắt nó đi làm đĩ. Không được đâu!”.
Tám mươi đồng bạc hồi ấy không phải nhỏ đối với những người giật gấu vá vai quanh năm như bọn tôi. Huống chi, Nam Cao còn vợ con nheo nhóc ở quê, tháng tháng đợi chồng gửi tiền về đỡ đần.
Chiều hôm ấy, Nam Cao rủ tôi đáp tàu xuống Nam Định. Nhưng cũng không phải anh về nhà. Tám mươi đồng bạc tiền bản quyền anh đếm ra năm mươi đồng.
Anh đem năm mươi đồng về biếu cô gái điếm, cái cô mà anh cho là em người bạn cũ của anh ở Sài Gòn - mà tôi nghi ngờ chỉ là câu chuyện làm quà của cô điếm với khách làng chơi, mà anh thì thương xót, và anh nói nếu anh sẵn tiền, anh sẽ đưa cả tám chục cho cô ấy.
Nhưng không gặp lại cô gái điếm. Tìm mấy nhà xăm nữa cũng không thấy. Nam Cao ân hận mãi về lần không gặp lại này.
Còn biết bao nhiêu chuyện tương tự như thế.
Những con người chúng tôi trôi giạt lúc ấy. Chúng tôi cũng mang đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỷ, ganh ghét nhỏ nhen, mọi thứ. Hỏi chúng tôi thích giàu có không.
Thèm đấy, mà không biết làm thế nào giàu được. Cũng bon chen, bon chen chứ, có khì chỉ vì không ngóc lên được thì đâm ra chán chường, nhưng chúng tôi cũng thấy được xã hội bất công. Những mơ hồ cứ dần dần bị bao nhiêu khủng khiếp của tình hình đất nước và thế giới thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai và những hoạt động quyết liệt của cả nước sửa soạn đứng lên - những sự kiện lớn lao ấy đã xoá đi cho chúng tôi biết bao mịt mù. Chúng tôi đến được với cách mạng bởi phán tốt đẹp còn có trong con người.
Những năm trước tháng tám 1945 cách mạng chưa trở thành không khí bao trùm đất nước một cách tất nhiên, như làn khí quyển bao quanh trái đất, như ngàn nay. Những người viết văn ở Hà nội có thể chia thành từng loại:
1) Những người không biết thế nào là cách mạng, hoặc nếu biết cũng ngoảnh mặt đi. Các bạn ấy muốn sống cho đã, chơi cho đã. Các bạn ấy muốn yên thân, bởi làm cách mạng chẳng biết thế nào, dễ bị tội
2) Những người cũng muốn thay đổi, nhưng theo đuổi những con đường khác, anh tờ-rốt-kít, anh Đại Việt, anh Phật tử, anh Tin lành...
3) Có người được bè bạn thuyết phục, đọc sách báo bí mật giác ngộ đường lối của Đảng cộng sản và gia nhập các đoàn thể Việt Minh.
Nam Cao là một trong những bạn vào loại thứ ba ấy của tôi.
Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Chúng tôi mới chỉ bước tới, mà trong mình vẫn mang theo vô khối thứ hành lý cũ lôi thôi. Từ đây về sau, trong tinh thần, cuộc đời tư tưởng và ngòi bút của chúng tôi mới bắt đầu và mãi mãi đấy lên cuộc chiến tranh đưa công cuộc sáng tạo kịp với thời đại, đòi hỏi cao hơn, mạnh hơn trong đời người cầm bút, khác trước kia.
Con đường đi tới của mỗi người không mảy may dễ dàng. Tôi không biết nhiều về Trần Đăng như tôi đã biết Nam Cao trước kia. Tôi chí biết Trần Đăng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, anh quê ở Đăm (xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm) là sinh viên. Những ngày khởi nghĩa lớp sinh viên các ngành này đã hồn nhiên hăng hái đến với cách mạng và văn học cách mạng.
Các bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ (Tri Chơn), Nguyễn Sĩ Quốc (Minh Đạo), Từ Giấy. Hồi ấy hành động biểu lộ tinh thần mạnh mẽ nhất là gia nhập Vệ quốc đoàn. Rồi các anh dần dần đi sâu vào các ngành chuyên môn khác. Riêng có Trần Đăng làm nghề cầm bút. Năm 1950, Trần Đăng hy sinh ở Bản Trại trên biên giới phía Bắc. Đơn vị có phóng viên mặt trận Trần Đăng đi theo đã mắc mưu quân Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, trên đường bộ đội ta tiến lên đón Hồng quân Trung Hoa xuống phía nam. Một số đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn và Trần Đăng đã hy sinh.
Tôi còn giữ được một tập sổ tay của Trần Đăng gửi. Cuốn sổ bằng bàn tay sổ tay trong ba lô chúng tôi đeo lưng thời kháng chiến không thể nào to hơn thế.
Trần Đăng đã ghi đủ thứ trên đường đi, vào quãng từ tháng 8-1948 tới tháng giêng 1949 - mới chỉ năm tháng, mà rất rõ nét, những đấu tranh trong tư tưởng và phong cách làm việc trong con người Trần Đăng. Cuộc đấu tranh bằng hành động, ý thức rõ ràng dứt khoát của nhà văn chiến sĩ.
Có thể tóm tắt nhật ký ghi chép tài liệu của Trần Đăng thành bốn phần như sau:
1. Trần Đăng luôn đi với các đơn vị chiến đấu- Mùa xuân 1948, theo bộ đội vào hậu địch Đông Bắc - vùng Ba Chẽ - Tiên Yên, anh bị phỉ bắn bị thương một ngón chân. Nhưng khi trở về căn cứ, gặp một đơn vị lên biên giới phía bắc, lại đi luôn.
Trần Đăng có thói quen vừa đi vừa viết trên đường. Trong chiến dịch biên giới thu đông 1950, anh viết bài về chiến dịch Sông Thao 1949 (bút ký Trận Phố Ràng), trong những ngày sắp đi hậu địch Đông Bắc, Trần Đăng viết bút kýMột cuộc chuẩn bị (cũng về chiến dịch Sông Thao).
Trong quãng năm tháng, Trần Đăng đã đi các mặt trận, tháng tám đến Phủ Thông và Đào Lâm, mặt trận Bắc Cạn. Tháng mười từ Việt Bắc về vùng địch Sơn Tây, qua miền tạm chiếm ở Bến Rau rồi xuống đồng bằng khu Ba - vùng hậu địch Ba Thá rồi vào Gián - Khuất.
Sống cuộc sống chiến đấu mãnh liệt, dũng cảm của người chiến sĩ cầm bút.
2. Trần Đăng đọc rất nhiều - Đọc và ghi chép cấn thận. Mỗi lần Trần Đăng ghé về cơ quan, trước khi đi một chuyến mới, hoặc có lần bị sốt rét phái nghỉ lại, Trần Đăng vẫn mê mải đọc.
Trong có 5 tháng, Trần Đăng ở cơ quan báo Vệ quốc quân hơn một tháng, đã đọc và ghi vào số tay: Sách báo ở chiến khu: báo Độc Lập, báo Văn Nghệ. Phóng sự Chặt gọng kìm đường số 4. Chép bài thơ Viếng mộ của Hoàng Lộc. Ghi những ca dao về Đồng Tháp Mười của Bảo Định Giang, ghi các phong tục và bài hát của dân tộc Tầy trong tập truyện ngắn Núi Cứu quốc của Tô Hoài.
Sách báo Pháp: báo Ngã tư tháng 12-47, bài của Barjavel viết về các nhân vật của E. Mauriac. Báo Khoa học và Văn nghệ Xô-viêt bài của Benjamin Goriely viết về chủ nghĩa nhân văn mới. Báo Nước Pháp trước đã, nhật ký của A. Gide. Đọc các tiểu thuyết của W Walenska (Ba Lan), Jozep Pot (Đức), Ernesl Renau, J, Stinbeck (Mỹ), Curzio Malaparte (Ý), Jean Louis Curtis, Gabrielle Roy, Piene Damino. Ngoài ra, không biết lấy ở sách báo nào, còn thấy ghi nhiều câu của Jean Paul Sartre nói về chủ nghĩa hiện sinh. Một đoạn tin về giá vàng, tính theo đồng franc, giá ở Paris, Hồng kông, Sài Gòn.
3. Trần Đăng thường xuyên chép bích báo các đơn vị- Trần Đăng chịu khó chép bích báo. Sổ tay có trên một trăm trang, thì 72 trang ghi các bài bích báo đơn vị có thể lấy ra in hẳn một bài về các bích báo này. phán ánh sinh động được thời kỳ đầu chiến đấu và sinh hoạt của quân đội. Trần Đăng chép tỉ mỉ, kỹ lưỡng, đơn vị nào, ở đâu. Ngoài ra, còn những đoạn tóm tắt tổng kết trận đánh các chiến dịch ở Trị Thiên, ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ năm 1948.
4. Trần Đăng luôn luôn chuẩn bị sáng tác - Trong tập sổ tay nhỏ bé thế mà cũng đủ những ghi chép cho chuẩn bị sáng tác và suy nghĩ của nhà văn. Trần Đăng ghi những chi tiết có đặc điểm quan sát được ở mặt trận, ở chiến sĩ, ở những nơi đã đi qua, anh chép những từ lạ, từ mới đã nghe được hoặc đọc thấy, anh ghi ý những bài dự định viết, có chỗ viết hẳn dàn bài một truyện ngắn.
Đôi chỗ, Trần Đăng ghi suy nghĩ và việc mình làm. Có chỗ rất ngắn, nhưng thật nhiều ý nghĩa và tâm sự
Ngày 15 tháng 10, Trần Đăng ghi một kế hoạch:
Phát động thi đua 300 trang, à commencer (bắt đầu) tháng hai 1949.
Ngày 11 tháng 11, viết chữ to nửa trang, hai dòng giống nhau: Hôm may 11 tháng 11, 27 tuổi chẵn.
- Có một đoạn không đề ngày tháng, Trần Đăng viết:
Đêm nay đọc một cuốn phóng sự dự thi Việt Bắc kháng chiến. Một đêm nổi gió. Vẫn là tiếng gọi đi. Đi, trông, thấy. Đã bỏ qua những điều rất tầm thường, nhưng rất sống. Không thể được. Không có tình cảm, không có xúc động, không có tư tưởng chủ quan.
Trong rừng Yên Thế, Lúa mới(5)
là những cái xác chết chủ quan. Chỉ có sống, sống cái khách quan và kể lại.
Hãy khoan một tấm sơn mài. Hãy làm nhiều croquis cho thật đúng hệt. Giản dị, thành thực và thật".
(Một câu viết bằng tiếng Pháp): "Những tưởng tượng hoang đường, những ám ảnh ma quái, những mơ tưởng nhân đạo hư không, những xúc cảm cá nhân kiêu ngạo và đạo đức giả, những tro tàn ấy hãy tan biến hết đi”.
Tình cờ, lần ấy tôi đã gặp Trần Đăng ở Đông Bắc về, trước khi anh lên biên giới và hy sinh ở Bản Trại trên đường Thất Khê ra. Kế hoạch sáng tác của Trần Đăng mà anh đã phác vào sổ tay thành một công trình của cả một giai đoạn như sau:
- Tập truyện ngắn tên là Bạn mới.
- Tập tiểu luận tên là Thư cho Tô Hữu (kinh nghiệm cách mạng tư tưởng và sinh hoạt quần chúng).
Tập bút ký lấy tên chung là Tiền tuyến gồm ba phần:
Phần một: Xuân chiến thắng, có 3 bài: 1 - Tất cả cho tiền tuyến. 2- Nhật ký của Phan Phú. 3- Một trận vui lớn trên đường số 4.
Phần hai: Sông Thao hè 1949, có 6 bài: 1- Đường đi Tây Bắc. 2- Dóm(6) I. 3- Một cuộc chuẩn bị 4- Phố Ràng. 5- Khe Pịa. 6- Tàn cuộc, Dóm II.
Phần ba: Đông Bắc với chiến dịch, có 5 bài: 1- Vào sâu Đông Bắc, 2- Vân Ca, 3- An Châu, 4- Đình Lập chờ chiến dịch 5- Đoàn quân tiếp tế.
Trong chương trình trên có những sáng tác Trần Đăng đã viết (Một cuộc chuẩn bị, Phố Ràng). Đọc nhật ký Trần Đăng, biết chương trình sáng tác của Trần Đăng, hiểu được công phu lao động sáng tạo của nhà văn từ gốc tới thành hình một sáng tác đã công phu đến như thế nào. Ở đấy, nổi lên tinh thần và tư tưởng của một người cầm bút luôn luôn khắc phục nhược điểm con người của mình bằng cách lao mạnh mẽ vào những nhiệm vụ đang đặt ra cho người cầm bút. Chẳng những chỉ là một phương hướng, một kế hoạch, mà là những hành động cụ thể, chi tiết, chịu thương, chịu khó, từ bài bích báo đơn vị được ghi lại đến một chi tiết hay quan sát được, đến những suy nghĩ thúc giục mình đi sâu nữa, làm việc nhiều nữa, lúc nào cũng cảnh giác và quyết tâm thay đổi nữa, bỏ đi, dìm đi những tàn dư tiểu tư sản thường còn lảng vảng ve vuốt mình.
Cũng như với Trần Đăng, đọc tác phẩm Nam Cao viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp - kết quả sau cùng của một lao động sáng tác, thấy được rất rõ bước đường phát triển của con người và nhà văn Nam Cao - từ truyện ngắn Đôi mắt cho đến nhật ký Ở rừng.
Trong các nhà văn nước ngoài mà Nam Cao đã từng đọc, Nam Cao mê nhất Sê-khốp. Tôi nhớ anh cũng chỉ phục có một mình tài năng Sê-khốp, với một số phận cùng cực và mong manh của những con người những nhân vật cỏn con của ông: người công chức già, cô gái ế, cậu bé mồ côi, những luẩn quẩn vụn vặt đến nhức đầu trong gia đình nghèo và những cái rởm đời của những người có máu mặt.
Ấy thế nhưng những lúc cao hứng lên, anh cũng chẳng coi ai ra gì. Nhưng chỉ từng lúc hứng chí mênh mông thế thôi. Rồi lại bần thần nghĩ lại, anh không cải chính và hối hận mình đã lỡ lời, đã bốc tếu, nhưng những việc anh cặm cụi hàng ngày làm đã trả lời rành rõ hộ anh, anh sửa mo-rát, anh viết tin, từng tin vặt trên báo Cứu Quốc - tờ báo hàng ngày mà chúng tôi làm phóng viên. Chủ nhiệm Xuân Thuỷ bảo anh viết cuốn sách giải thích về nhiệm vụ người công giáo kháng chiến (cuốn sách này chưa được xuất bản), anh cộng tác với Văn Tân soạn in những tập Địa lý thế giới cho học sinh phổ thông, anh viết bích báo cho cơ quan, mỗi tuần một tờ dán ở vách bếp ăn, anh viết ca dao, ký tên Suối Trong, khi chúng tôi làm tờ báo hàng ngày Cứu Quốc Việt Bắc. Nghĩa là việc gì thấy có ích, anh đều làm, không nề hà việc to việc nhỏ. Trong khi ấy anh mơ tưởng và thực sự anh đã bắt tay vào cuốn tiểu thuyết dài về làng Đại Hoàng kháng chiến. Cuối năm 1950, mấy chương đầu anh đã viết lại mấy lần, Nguyễn Huy Tưởng và tôi đã đọc những chương đó, rồi anh bỏ, anh chưa vừa lòng...
Nam Cao vốn không phải là người xông xáo, mạnh dạn. Tính anh trầm lặng, hay nhường nhịn và dường như nhút nhát. Nhưng tất cả những trường hợp không cần phải thế, đều tỏ rõ khí phách ở anh. Chiến dịch thu đông 1950, chúng tôi ghé lại Bắc Sơn rồi về ở Vũ Lăng. Máy bay địch bắn phá Vũ Lăng. Ba lô quần áo chúng tôi cháy hết. Sổ tay của anh bị đạn đâm nát.
Nhưng mặc đấy, anh đi cứu thương. Máy bay quay lại ném bom, anh vẫn cùng dân quân dọn dẹp các đám cháy cho tới tối mịt. Khi chiến dịch giải phóng biên giới sắp mở, chúng tôi vượt đường số 4 quãng Lạng Sơn sang với cánh quân của ta đóng bên kia huyện Thoát Lãng. Đường số 4 bị địch chiếm đóng, canh gác và tuần tra suốt ngày đêm. Chúng tôi đến trạm liên lạc, chờ giao thông vào báo lúc nào vượt đường được.
Người đợi ở các trạm giao thông không phải người của một tổ chức, một đơn vị, nên rất tạp. Không ai biết ai và hiểu ai như thế nào. Cách thức vượt qua đường: theo giao thông và đi hàng một, ai cũng trù trừ, không ai muốn là người thứ nhất đi sau người giao thông vượt qua đường. Bỗng dưng, Nam Cao lưng đeo ba lô, bước xuống đứng xếp hàng vào chỗ người đầu tiên sau người giao thông. Tính anh là vậy.
Tôi được nghe kể lại chuyện anh hy sinh(7) ở vùng đồng chiêm Hoàng Đan dưới khu ba, khi vào vùng địch chiếm, cũng tương tự như chuyện vượt đường số 4 mà tôi đã được chứng kiến. Có bảy chiếc thuyền nan lúc chập tối bơi vào vùng địch. Bảy chiếc đi cách quãng thành một hàng dài. Nam Cao ngồi ngay trong thuyền đầu. Hai thuyền đi đầu đã bị địch vây bắt. Nam Cao như thế đấy. Nó biểu hiện mạnh mẽ con người và cuộc sống của anh. Trước sau như thế, khi cần thì tất cả vì nhiệm vụ.
Tôi vẫn trở lại cắt nghĩa con người chúng tôi từng bước biến đổi. Cuối cùng- sự chân thành trở thành niềm tin, đã đưa bước ta đi.
Chúng ta khẳng định sự hình thành những nhà văn thời đại, có nhiều người xưa kia đã góp stíc lực thành lớp nhà văn kiểu mới trong lực lượng văn học to lớn hiện giờ. Những người ấy đã dự phần tạo nên thành quả của văn học Việt Nam ba mười lăm năm qua. Đó là một nét trong đặc điểm văn học ta.
Những chuyện mà tôi vừa kể có thể xa lạ với bạn cầm bút ở các lứa tuổi đang lớn lên hôm nay.
Chú thích:

(1) Tiểu thuyết Sống mòn, đầu tiên, Nam Cao đặt tên là Chết mòn.
(2) Bảy bông lúa lép, truyện của Nam Cao, Nhà xuất bản Cộng Lực 1941.
(3) Nhà săm (do chữ Pháp chambre), nhà chứa trọ, phòng cho thuê, thường có gái điếm
(4) Tự truyện, hồi ký của Tô Hoài, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1976 (tái bản 1984, 1997)
(5) Những đoạn văn ngắn của Trần Đăng, in trên tạp chí Độc Lập
(6) Một đồn của Pháp trên một quả đồi tên là Dóm ở bờ sông Thao địa phận tỉnh Yên Bái.
(7) Nam Cao hy sinh ngày 1-10-1951.

3. Người bạn đọc ấy


   Ngày 6 tháng ba năm nay(1), Nguyễn Công Hoan sáu mươi tuổi.
Cũng tới năm nay, tập truyện ngắn đầu tiên của anh, quyển Kiếp hồng nhan đã ra đời được bốn mươi năm.
Những con số ngày tháng đơn sơ mà xiết bao cảm động. Tuổi của văn xuôi hiện đại chưa mấy. Tuổi văn Nguyễn Công Hoan, mới tính đến giờ, đã có thể đọ được với tuổi đúng của nền văn xuôi hiện đại.
Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc ngồi, đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu “Tự Lực”, thì, lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế tam đảo ba vì hùng vĩ vượt qua cả hai thời kỳ tiến ngày nay.
***
Tôi ghi lại những ý trên khi lôi nhớ tới hai ngày sinh của người bạn kính mến thân yêu của tôi.
Tôi đương có công tác về thôn Vân ở Đan Phượng.
Từ cầu Phùng vào Vân, còn hơn mười cây số, mà bóng chiều đã ngả: Ông, mặt trời mùa xuân hiếm hoi lừ đừ màu đỏ ngọt ngào đã xế trên chỏm núi Ba Vì. Đê sông Đáy kẻ sợi chỉ mờ thẳng tắp nhấp nhô những luỹ tre xanh nhạt, đôi chỗ chấm tròn một lùm cây vải đen thẫm. Tất cả quen quen như đã gặp nhiều ở đâu.
Cách đây hai mươi năm trước, bước chân trôi giạt của một người làm công nhà buôn đã đưa tôi đến Móng Cáy. Tôi đi tính sổ bán hàng cho đại lý hiệu giày Ba-ta ngoài ấy. Trên bãi bể Trà Cổ, anh bạn nọ trỏ cho tôi một người và bảo:
- Ông Nguyễn Công Hoan đấy!
Lần đầu tiên tôi trông thấy anh. Không phải như những kẻ phong lưu đi nghỉ mát Trà Cổ mà là anh đương làm công chức "gõ đầu trẻ” ở ngay làng Trà Cổ.
Một người đàn ông đứng tuổi đắt tay một cô bé gày gò lững thững đi đôi guốc lê trên cát còn hầm hập nóng. Bãi Trà Cổ đã vắng lại càng vắng. (Ngày ấy không phải ai cũng háo hức nghỉ mát Trà Cổ như bây giờ).
Chỉ có mấy cái nhà tây của các quan binh Móng Cáy, Đằng kia, nhà thờ Trà Lộ nhòm xuống bãi biển càng hiu hắt lạ lùng.
Tôi vẫn còn nhớ mãi cái đêm sáng trăng, trên tàu Tây Điếc từ Mũi Ngọc về Hải Phòng, anh đứng trên boong nhìn vào Hà Cối. Tôi vừa đọc truyện ngắn Nghĩ người ăn gió nằm mưa của anh ở báo Tiểu thuyết thứ bảy. Tôi không cố ý giữ một hình ảnh tượng trưng.
Nhưng làm sao mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn lạc về bãi bể Trà Cổ xa vắng và đêm trăng một mình qua Bái Tử Long ấy. Sự sáng tạo chân chính ở thời kỳ đen tối này, sao mà lớn lao, cũng sao mà cô đơn.
Hai cha con cứ lùi lũi đi về cuối bãi. Vài chiếc vỏ sò, vỏ ngao, vỏ ngán, vỏ hà và bọt biển giạt từ Bắc Hải bên kia tới. Những vật nhỏ bé phương xa đó làm tò mò cô gái. Nhưng đôi mắt người cha đăm đăm theo những đàn chim gì không biết, đương lặng lẽ bay xa, thật xa.
Có lẽ không thể tới Vân được. Trời muốn tối đến nơi. Những tiếng ban ngày ộn ã trên cánh đồng giờ nghe mơ hồ vời vợi. Và người đi đường cảm thấy quạnh quẽ hơn, âm thầm hơn.
Nhưng, đằng sau lưng bỗng trỗi lên một liếng xoang xoảng nhộn nhịp. Như trâu bồn, như tiếng quăng lưới gõ cá trên mặt hồ chưa tan sương. Tôi quay lại. Từ trong làn sương đục phủ mặt đê cao, một chiếc xe ngựa rong ruổi hiện ra, nghe rõ tiếng cười nói xôn xao của những người ngồi trên xe. Xe càng gần tới.
Trước nhất, thấy hai vành bánh cao su đặc to thô lố. Ở giữa chất lù lù toàn những mạ, lấp cả hai hàng người ngồi dưới. Đằng trước đánh xe, là một cô gái. Cô lừ lừ nét mặt. Vành khăn nâu non ló sau mũi khăn vuông cao chót vót, lối chít khăn của con gái Sơn Tây bờ sông Đáy.
Chiếc xe vừa lướt tới, tôi thấy cô đánh xe cười. Thì ra, có cái dáng mặt nghiêm lừ lừ kia là vì con ngựa. Cô đương giơ ngọn roi tre lên dứ cho ngựa chạy nhanh hơn.
Cô ngoái ra, nhanh nhảu hỏi:
- Về đâu tối thế?
Câu hỏi cộc lốc, nhưng giọng hồn nhiên và táo tợn.
Xung quanh tôi chỉ còn có cánh đồng và một mình, càng cảm thấy đường xa.
- Về Vân đây.
Mấy cái đầu lấp ló nhìn ra.
- Về Vân à?
Tôi gạn:
- Cho đi nhờ với.
Cô đánh xe nói:
- Được thôi.
- Chứ đi bộ thì sang năm mới đến Vân?
- Ngồi nhích một tý nào, các vị ơi!
Anh Nguyễn Công Hoan à, anh có thể tưởng tượng như thế này không, khi tôi ngồi trên cái xe ngựa lắc lư chạy, trong tôi cứ bập bỗng rồi lại thiết tha theo đuổi những ý nghĩ lúc nãy về anh. Điều đó không phải nhiên và không có lý. Những tưởng tượng về anh ngày sinh của tuổi đời và tuổi tác phẩm nhà văn những bóng xa xa, mờ mờ về Trà Cổ với đêm Bái Tử Long qua Hà Cối. Ý nghĩ tôi khấp khểnh theo vòng bánh trong khi tôi trầm ngâm nhìn cô gái đánh xe.
Cái dáng quen, ừ rất quen. Cách đây nhiều năm rồi, gặp năm nước lớn, hương lý làng Nghĩa Đô đốc thúc người đi đê. Trai tráng làng tôi suốt lượt phải hộ đê từ Tứ Tổng lên tận vùng này. Chúng tôi cơm nắm cơm đùm kéo bộ cả đêm đến sáng mới tới điếm canh đê hàng tổng. Nhớ làm sao buổi sáng hãi hùng ấy, cái cảnh tôi trông thấy đoàn người chạy nước từ dưới bãi lên lấm vùi như đàn chuột trong hang đang bị ộc nước. (Về sau, một trong những truyện ngắn đầu tiên tôi viết, là truyện ngắn Nước lên in trên báo Hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan, trong đó đã chép lại nhiều hình ảnh đau thương hôm ấy).
Bao nhiêu năm, bây giờ tôi trở về đây. Trở về những làng Vân đất bãi điêu tàn năm nào. Phải, tôi cố nhớ ra cái dáng. Vẫn dáng người con gái xốc vác của những cô thợ đấu tỉnh Sơn, vai chắc lẳn, cổ cứng, đội đất rất khoẻ. Chỉ khác, không phải người lam lũ từ nước lụt chạy lên. Đây là cô gái làng Vân, bảnh choẹ giong chiếc xe ngựa
Cái xe lắc lắc đều đều qua cánh đồng. Tay cô ấy dứ roi, mắt nghiêm, rất sắc, rất tươi. Tôi nghĩ đến lớp nhóm trưởng nhóm cấy? Là tổ phó tổ kỹ thuật? Hay đội phó, đội trưởng phụ trách sản xuất, tổ cô ấy vượt diện tích, hết mạ dự trữ, phải đi mua mạ chợ xa?
Trong xe, đang râm ran chuyện. Những chuyện chống hạn, đào giếng chống hạn và linh tinh... Người kẻ Cốc ăn khoẻ, con gái Hạ trêu anh cán bộ đến phải bỏ xe đạp mà chạy; trên huyện vừa mở thêm hiệu bào chế đông y, lớp ngô sớm phải hạn khéo đến hỏng ăn.
Nhưng chuyện ồn ào nhất là việc cấy phải xong giữa tháng...
- Xong thế cóc nào. Nước đâu kịp!
- Cũng chẳng cần. Năm nay nhuận tháng tư thì tháng hai cũng như tháng giêng, cấy sớm cho nó cong cây à?
- Ấy, còn tính thời tiết trông giời thì không phải "nông dân cải tiến 63" đâu nhé!
Người ngồi cuối cùng hàng nghếch mặt lên khỏi đống mạ, gọi ra:
- Cô Ninh Bình ơi...
Cô đánh xe quay lại:
- Gì thế?
- Đội cô nhất định cấy xong giữa tháng này a?
Cô đánh xe trả lời bằng miệng cười nhoẻn rồi lạl dứ chiếc roi lên cho ngựa chạy.
Sương lam đã vần vụ cả quanh xe rồi. Tôi chợt có cảm giác hồi hộp như trẻ con. Một cái gì xa xôi mà thắm thiết. Không phải vì câu chuyện phong phú và miên man trong xe. Cũng không phải vì làng Vân trước mặt kia đương phảng phất những kỷ niệm thời thanh niên, khi tôi mới cầm bút tập viết văn. Không, chính vì cái tiếng ai ngồi đằng kia vừa gọi “Cô Ninh Bình ơi! Cô Ninh Bình...". Cô Ninh Bình Cái tên hiền hoà nghe mà như trông thấy hoa nở và yên lành, vừa lạ vừa quen làm sao. Trong tiếng bánh xe, tiếng vó ngựa lọc cọc là lạ trên nền đất mỡ gà ấm đỏ, giữa làn sương buông mỗi lúc một dầy, tôi vẳng nghe chen nhau những tiếng gọi, tiếng đùa cợt, tiếng cười, cô Ninh Bình cô Ninh Bình ơi, tôi nghĩ đến anh.
***
Từ ngày anh kể cho tôi nghe chuyện ấy, mỗi khi qua Ninh Bình, hoặc chợt nghe ai nói đến hai tiếng Ninh Bình, tôi không thể nào không trạnh nhớ.
Bấy giờ 1à mùa hè 1938, anh nhỉ? Hơn hai mươi năm trước, ở Nam Định.
Những truyện ngắn anh viết lúc ấy đăng trên các báo Hà Nội quả thực là những con dao bầu mổ phanh cái bụng giới quan trường và bọn nhà giàu. Cái giàu sang kệch cỡm và bất nhân của chúng, dưới ngòi bút vạch toạc sự thật giễu cợt đắng cay của anh, thành những bỉ ổi thối tha mỉa mai trước mắt bạn đọc.
Thế những cuộc đời kẻ cầm bút bấy giờ chỉ những mưa gió. Chẳng những bởi cái nghề dạy học ăn gửi nằm nhờ lăn lóc từ Hải Dương, Nam Sách, Kinh Môn, Nam Định, lên Lào Cai, ra Trà Cổ, đã cho anh trải anh thấy. Chẳng những chỉ vì khi tấm bé anh đã ở cái cửa phủ, cửa huyện ở Thanh Oai ở Phù Ninh. Ở Thái Bình, cậu bé Nguyễn Công Hoan đã chứng kiến và băn khoăn vì không thể cắt nghĩa được biết bao nhiêu khốn khổ xám trời, xám đất cứ từ các làng, các xóm ngày đêm lũ lượt kéo lên "công môn".
Và thời ấy, ngay ở thị xã Nam Định này, những hồi còi tầm hút người và nhả người ra chẳng kể gì đầu hôm gà gáy qua những bức tường cổng toà Nhà Máy sợi đen kịt một góc thành phố. Những người nông dân ngày đêm đội rơm, đội gạo đội con cái vượt cánh đồng chiêm trắng nước từ bốn phía cổng tỉnh vào ngồi chồng đống ở chợ Rồng ngay dưới mắt anh, trong suy nghĩ của anh. Không thể một cái gì, một chỗ nào phơi ra nhiều vẻ hơn, trái ngược hơn ở cái chợ thời trước, xã hội thế nào nó bày thế ấy ở chợ. Thôi thì bát nháo kẻ cười người khóc, người đói, người chết đói, nơi kia hằng hà của cải, nơi này núi rác núi ruồi, cái gác nhà ông giáo Hoan thuê ở trông xuống những khổ ải nhất đời ấy. Cửa nhà anh ngỏ xuống nóc cái địa ngục người và nắng. Hằng ngày, hằng năm anh đi qua, anh lặn lôi giữa cái chợ chìm nổi quằn quại những người là người, lẽ nào anh không viết, anh không viết không được, anh phải viết, anh đã viết. Có lần anh nói "để trả ơn những cộng sản” đã bồi đắp cho suy nghĩ của anh hồi Mặt trận dân chủ Đông Dương, anh viết tiểu thuyết Bước đường cùng. Tôi muốn nói rằng tiểu thuyết Bước đường cùng của anh đã bắt đầu từ những khổ ải đời người và đời mình mà ra.
Vâng, thân phận anh, một nhà giáo khổ, khổ mọi cảnh. Người đứng bét cùng ở cái hàng người có tên là tiểu tư sản trí thức ấy chưa bao giờ ngớt đi vay nợ. (Tôi không hiểu sao, cho tới giờ, anh chưa viết về cái thảm cảnh âm thầm mà khốc liệt, là nạn vay nợ lãi), anh nợ suốt đời. Anh lo suốt đời. Trong nhà, các em các con lần lượt ra đi hoạt động. Không mấy khi tết đến, đủ người về. Nhà lúc nào cũng có người tù ở Hoả Lò, ở Côn Đảo, có người đi bí mật - kể cả cô gái út mảnh khảnh năm nào anh dắt đi trên bãi Trà Cổ. Và anh, anh theo nghề nay đây mai đó, sống đời lưu lạc bất đắc dĩ.
Lúc này, chính quyền thực dân lại sắp đói anh ra Trà Cổ dù anh đã ở tỉnh đường ngược Lào Cai về. (Theo luật lệ của Tây lúc ấy, công chức đã làm việc ba năm ở miền núi, được về xuôi hẳn). Cái hiu hắt kéo lê bóng cha con trên bãi Trà Cổ hoang vắng kia, tôi đã thấy rồi.
Thế nhưng, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã cất tiếng. Tiếng nói nhà văn thống thiết nêu lên những khổ ải quanh mình. Không hiu hắt, không tuyệt vọng.
Bạn đọc đã thấm thía với tiểu thuyết Bước đường cùng.
Trong cánh cửa nhìn xuống những mái lợp tôn chợ Rồng, ngòi bút viết ra những nỗi đau đớn đời người.
Buổi trưa nắng hầm hập hơi nước đồng chiêm ngột ngạt tràn qua cái thành phố ủ ê, lử lả. Cầu chợ Rồng dưới kia, những cái chảo hầm người.
Bỗng có tiếng đập cửa.
Khi mở cửa anh đã nghĩ sẵn điều để ngừa trước.
Bọn mật thám thường đến nhà người ta thình lình.
Nhưng không phải.
Người gõ cửa là một người "nhà quê" - anh không quen biết. Người ấy trạc bốn mươi tuổi. Khuôn mặt to hơn hẳn so với khổ người thấp bé lại gồ ghề, khắc khổ, vừa rám nắng, vừa vàng nghệ, thành màu đất thó xám, không thể đoán được người ốm hay người khoẻ.
Người ấy chít khăn lượt, mặc áo the lửng, tay cầm cái ô vải trắng lơ, đi đất.
Khách nói:
- Thưa ông, tôi ở huyện Yên Mô trong Ninh Bình ra.
Anh chưa hiểu thế nào.
- Tôi muốn thưa với ông một việc.
Anh càng lúng túng nhìn người lạ.
- Ông ơi, đời tôi rất khổ.
Chỉ một câu ấy, nét mặt tần ngần đăm chiêu ấy, anh đã hiểu. Một câu nói, một câu nói vào một cánh một tình, có thể mở ra cho nhà văn nhìn thấu suốt trước sau. Thế rồi người ấy đều đều kể ra nỗi khổ chồng chất nghìn đời.
Người ấy nức lên. Khuôn mặt to lớn sầm lại, nhoà nước mắt. Rõ ràng là một người không hề khóc bao giờ: Nhưng người ấy đã khóc, rồi nói:
- Tôi đã thắt cổ mà không chết được. Tôi mới biết thì ra số kiếp tôi còn phải chịu khổ lâu, muốn "đi” cũng không “đi” được. Đã thế, bọn lý dịch còn cho là thắt cổ vờ. Nó lại kiện tôi thắt cổ để doạ quan trên.
Người ấy thở dài:
- Tôi biết làm thế nào...
Rồi im một lúc lâu. Nắng trưa càng nặng nề.
- Bây giờ tôi trông cậy vào ông.
Anh nhìn người ấy. Không ngạc nhiên, con mắt và trái tim nhà văn hiểu ngay sự tin cậy ấy. Nhưng chẳng hay người ấy tin cậy gì ở anh? Anh là thế nào? Những câu tự hỏi và có thể tự trả lời ngay được, tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội ba đào như thế, anh đã viết một loạt truyện "xã hội ba đào ký" mà - cũng lắm khi con người không biết mình là ai nữa. Số phận khủng khiếp của người nông dân kia và của người cầm bút viết văn âu cũng đương là một. Hai con người cùng khổ ở đời.
Anh vẫn im lặng nhìn người bạn mới.
Người ấy nói:
- Không, tôi không đến nhờ ông làm hộ cái đơn để kêu oan cho tôi. Tôi chỉ thấy khổ như cảnh tôi là khổ đến tuyệt trần đời rồi, cho nên tôi phải kể cho ông viết, ông phải viết thành sách, nếu không thì chẳng ai biết được dân đen chúng tôi cực nhục đến như thế nào, bọn hào lý quan trên độc ác đến như thế nào.
Người ấy tin cậy anh thế đấy. Bỗng nhiên, trong cơn nung nấu đến ngạt thở trên cái chợ người giữa trưa, nhà văn cảm thấy được sức mạnh ngòi bút mình không sóng gió nào vùi dập được, không thế lực nào địch được. Trước mắt, chỉ có anh và người nông dân khốn khổ.
Tiểu thuyết Bước đường cùng anh viết mùa hè 1938, khi anh còn ở rốn lại Nam Định. Song, từ ngày ấy tôi cũng chưa hỏi xem anh đã gặp người nông dân ở Ninh Bình kia khi nào, có phải lúc anh viết Bước đường cùng không. Nhưng tôi có một yên trí đặc biệt, tôi tin rằng Bước đường cùng có anh ta. Bước đường cùng là người ấy.
Rồi khách không nói gì nữa. Khách đứng dậy. Đến lúc ấy, anh mới bàng hoàng, như chợt tỉnh, anh hốt hoảng hỏi:
- Ông đi à?
- Vâng, xin chào ông.
- Ông về Yên Mô bây giờ?
- Không.
- Thế ông đi đâu?
Người ấy cười nhạt:
- Tôi đi cùng trời cuối đất này, cái số tôi không chết được mà.
Rồi người ấy quay, đi.
Anh không hề biết tên, anh kể chuyện cho tôi nghe đến đấy, chúng tôi im lặng một lúc thật lâu.
Vâng, đấy là người bạn đọc thân thiết, bạn đọc chân chính, nhà phê bình đúng nhất, nguồn sáng tạo và sức mạnh cổ vũ to lớn, mạnh mẽ cho nhà văn.
***
Tôi chỉ nghe anh kể lại mà cũng không thể quên được. Cả mỗi khi qua Ninh Bình, mỗi khi nghe ai nói hai tiếng Ninh Bình, tôi lại sực nhớ người bạn đọc thiết yếu ấy của anh. Người viết văn trong lúc đen tối nhường này, đã gặp người bạn đọc vĩ đại người bạn đọc và sức mạnh cảm hứng chân chính, quả là một điều mà trước nay trong văn chương không mấy ai đã được niềm ao ước ấy, chiếc xe ngựa về Vân vẫn lóc cóc đi. Con đường đất đỏ trên đê cao mờ dân dưới làn sương.
Tôi ngồi đầu hàng ghế trong khoang xe: Những bó mạ lắc lư dần dần nghiêng xuống muốn đè lên người.
Vì thế, mở một khoảng cách, nhìn sang cô Ninh Bình, một cảm tưởng man mác, tôi trông cô đội trưởng đánh xe ngựa, và nhận ra người con gái ấy mỗi lúc một đẹp hơn. Mặt cô đỏ lừ vì chiều muộn đã tắt nắng, mà chân trời Sơn Tây trong sương sa trước xe còn phơn phớt ánh hồng lại. Cô Ninh Bình ơi!
Câu chuyện trong xe cứ càng hoàng hôn càng rôm rả. Mọi người đương chế giễu cô đánh xe.
Một thanh niên nhìn ra cánh đồng rồi kêu lên:
- Không về kịp thôi. Tối mất rồi.
Câu nói bâng qươ, nhưng hình như cô đánh xe chạnh lòng, đối đáp ngay.
Cô quay lại, cười cười, bướng bỉnh.
- Tối thì ngủ lại?
Người ta lao xao:
- Hoan hô cô Ninh Bình! Hoan hô!
Một người khác nói to:
- Tối ở đâu mà chú rể không mò đi đón được, đừng có là ba chục ki-lô-mếch cũng băng.
Mọi người lại cười rầm. Tôi cứ nghe, đoán, rồi cũng thủng câu chuyện. Câu chuyện bình thường, chuyện trai lấy vợ gái lấy chồng bình thường. Đối với lớp tuổi ấy thì như cơm ăn áo mặc tự nhiên, nhưng câu chuyện này đã xôn xao tuổi trẻ làng Vân đấy.
Nguyên là tối thứ bảy tới thì "tiệc trà" cưới cô Ninh Bình, đội phó sản xuất làng Vân. Cô đội phó lấy chồng. Nếu câu chuyện yêu nhau rồi lấy nhau của lứa đôi ngày một tốt đẹp, cuộc sống tình cảm hai người cứ đằm thắm lên, thì vụ đông xuân này lại đương qua bước thử thách nặng nề. Hơn hai tháng nay trời không mưa. Những bãi ngô sớm úa rồi vàng quấn hết lá, châm cái lửa đốt cháy được. Đâu đâu cũng khổ công chống hạn, đổ một lúc hàng nghìn người ra đồng.
Trên huyện cho ba máy bơm xuống. Thế là, nước về trắng đồng. Các đội đua nhau cày trâu theo nước về, lên quá mức khoán. Tổ kỹ thuật cất công đi các làng, các chợ lùng mua thêm mạ. Cô đội phó Ninh Bình phụ trách kỹ thuật phải tất bật vào công việc ấy.
Nhưng cái khó không phải việc đi lùng mạ, mà điều “rắc rối” là "tiệc trà" đã định ngày trước rồi, mà ngày nào cũng phải đi thế này.
Chúng ta đã thấy cô Ninh Bình rong ruổi chiếc xe mạ đó.
Tới làng Vân thì trời vừa tối. Chiếc xe vào tận cái sân phơi rộng đầu làng. Mạ được xếp cả xuống đấy.
Cô Ninh Bình bảo tôi:
- Bây giờ sang xóm chủ tịch thì tối quá rồi, anh ạ. Mời anh về nhà tôi nghỉ, mai sớm hãy sang.
May quá! Không phải vì chỉ cớ tôi đang tò mò cuộc gặp gỡ có thể, mà thật ra, đêm hôm đèn đóm lại không có, lại còn lục đục tìm nhà. Vả chăng, việc tôi không gấp.
Nhà cô Ninh Bình ở bên một bờ ao dài. Những cây chuối xoã lá toả bóng mặt nước trăng suông im lặng. Lui vào trong một căn nhà nhỏ giữa nền sân đất phẳng. Ở đây, có cái tĩnh mạc vẻ chùa chiền, tưởng bao đời nay vẫn thế.
Ông cụ - vâng, bố cô Ninh Bình, anh ạ. Ông cụ đã cơm chiều, uống rượu xong, vừa đi ngủ. Cụ đắp chiếu tùm hụp nằm gian bên, ngáy khò khò - dễ chăng biết có người lạ đến nhà - ít thấy cụ già ngủ khoẻ thế. Một lát sau mới trỗi dậy.
Ông cụ có ba người con, anh lớn đi bộ đội: người thứ, hai làm du kích đã hy sinh trong trận giặc càn làng. Cô Ninh Bình là út. Cụ vẫn khoẻ. Những buổi đội cần cày gấp cho kịp thời vụ, cụ vẫn đi cày. Hàng ngày, cụ trông một chuồng trâu cho đội.
Cuối xuân trời ấm, gió nồm giật mạnh. Nằm nghe tưởng như từng cơn gió dào dạt giải trên cánh đồng nước chống hạn nhởn vào tận chân tre đáu xóm quanh đây Gần sáng, tôi sực thức. Trông sang gian bên, le lói ánh đèn. Nghe viếng nõ điếu nổ tanh tách. Bóng ông cụ gật gù lung lay in trên lườn nhà. Tôi trở dậy.
Ông cụ vồn vã:
- Anh dậy à? Có nước sớm, anh sang đây.
Nồi nước chè xanh vò đặc bốc khói thơm ngạt mũi đã đặt sẵn đấy. Vả lại, cứ trông cung cách đóm điếu thong thả lúc gà gáy như thế, tôi hiểu: ông lão dậy sớm đã thành lệ. Tôi đương ngồi trước mặt một cụ già quắc thước. Người vạm vỡ, mặt to chân tay xương đầu gối chắc chắn, thố lố, nhưng những chuôi vồ, những lưỡi cày 58, những cuốc bàn còn tốt. Chịu không đoán được tuổi. Bảo sáu bảy mươi hay bảy, tám mươi cũng thế - thường khó đoán được tuổi các cụ già khoẻ mạnh.
Ông cụ nói:
- Tôi thì quanh năm, gà gáy tan canh, làm xong tuần nước, là đi lo trâu được no sớm, ngày mùa không kịp cho trâu ăn trước buổi cày sáng. Tôi không ngủ được hết đêm, anh ạ. Tôi không ngủ nổi hết cái đêm, có lẽ thành tật từ lúc còn trẻ kia.
Tôi có cảm tưởng thật khác lạ, nhưng tôi lúng túng chưa biết hỏi thế nào.
- Cụ ở quê ta...
Ông cụ đáp ngay:
- Tôi gốc người trong Ninh Bình. Đấy, tên các em nó tôi cứ đặt lung tung, gọi là nhớ quê cha đất tổ, con Ninh Bình, thằng Yên Mô...
Tôi thong thả thở một hơi dài. Như vừa suy nghĩ được một điều hệ trọng. Ông cụ lại nói với theo câu vừa rồi:
- Từ ngày còn trẻ, tôi chẳng tài nào chợp mắt được đẫy đêm. Cái đời người ngắn lắm, phải thức mà lo liệu chứ. Đời tôi xưa kia cùng cực quá, ông ạ. Thắt cổ mà cũng không chết được...
Rồi ông cụ cười, trống hốc cả hai hàm móm.
***
Tôi nén xúc động, cúi uống bát nước chè vò đặc sánh. Ngoài trời còn đầm sương. Tiếng bánh xe lẫn tiếng vó ngựa lọc cọc qua. Xe ống bơm chống hạn, xe mạ ra đồng cấy. Những tiếng ban ngày lại bắt đầu.
Anh Nguyễn Công Hoan, anh đoán cũng có thể biết sung sướng đến thế nào, tôi được gặp người bạn đọc của anh. Người bạn đọc trong những bạn đọc cực kỳ đông đảo, nguồn sáng tác suốt đời của chúng ta.
 
Chú thích:

(1) Tháng giêng 1963

4. Nguyễn Công Hoan


  Năm 1963, trong dịp anh Nguyễn Công Hoan lên lão sáu mươi, tôi có viết một bài mừng thọ. Bài bút ký Người bạn đọc ấy, anh Hoan nói vui:
- Tôi đọc bài anh mà rơm rớm nước mắt, khỉ thế!
Anh bảo tôi như vậy. Cách nói rất Nguyễn Công Hoan!
Tôi xiết bao bâng khuâng với nguồn cảm thông của anh trước tâm sự tôi đã giãi bầy trong bài ký đó.
Anh đã cho in cả bài Người bạn đọc ấy vào tập hồi ký của anh: Đời viết văn của tôi(1). Và cảm động, tự hào khó tả bao nhiêu cho tôi, bài Người bạn đọc ấy, của tôi còn khơi gợi để anh viết thành tiểu thuyết Con trai người bạn đọc ấy.
Bao nhiêu năm nay, những gì anh viết, tôi đều đọc, có thể nói, không sót một chữ. Tưởng như từ tập truyện Kiếp hổng nhan đến giờ, anh viết bài nào ở báo nào, sách nào, người học trò chăm chỉ của anh đều tìm đọc.
Tôi đã nghe anh kể anh cũng chú ý đọc tôi từ những truyện ngắn đầu tay của tôi đăng báo Hà Nội tân văn. Đến bây giờ anh vẫn đọc và thường cho tôi nhiều ý kiến về mọi cái tôi viết ra.
Có lẽ từ hơn nửa thế kỷ làm nghề văn, tới nay, lúc nào anh cũng viết. Những truyện ngắn trong Kiếp hồng nhan anh viết cái năm tôi mới được sinh ra, năm 1920, thế mà tới nay, anh vẫn là người viết hăng hái, siêng năng như vẫn siêng năng, cần mẫn từ bao lâu nay, anh bảy mươi lăm tuổi rồi mà bạn bè không ai hề nghĩ tuổi anh đã cao. Người ta chỉ thấy anh cũng đương viết như chúng tôi, và như chúng tôi. Một nhà văn lúc nào cũng đương viết thì không bao giờ biết già và không bao giờ ai cho là già. Những người lớp tuổi sau kính trọng tuổi anh, ao ước được thân thiết với lao động sáng tác của anh.
Tháng trước, anh phải nằm bệnh viện. Cũng tháng trước, báo Văn nghệ ngày 21 tháng năm 1977, in bài bàn vấn đề Về chữ “nhà" của anh. Bài anh đề viết tháng 5, viết cả khi ốm nặng. Tôi đọc bài ấy, ghi mấy chữ vào sổ tay để nhớ và tôi nghĩ thêm được những chữ: nhà bàn, nhà tàu... Vẫn định, rồi lúc nào gặp nói đùa "biếu anh thêm mấy chữ này".
Trong bài Người bạn đọc ấy tôi có kể lần đầu tôi gặp anh Nguyễn Công Hoan ở bãi biển Trà Cổ, quãng một năm trước năm 1940.
Hồi ấy, anh dạy học ở làng Trà Cổ. Còn tôi đương làm phụ kế toán cho nhà giày Ba-ta ở Hà Nội. Tôi ra Móng Cái tính sổ hàng của đại lý. Thấy anh ở Trà Cổ rồi tình cờ cùng đáp chuyến tàu thuỷ chở khách của hãng Tây Điếc từ Mũi Ngọc về Phòng. Tôi làm quen với anh. Tất nhiên, anh chẳng biết tôi là ai. Tôi chưa viết văn. Cũng chưa có cái tên như tên tôi bây giờ.
Nhớ hôm ấy anh mặc quần soóc trắng, đội mũ cát đít vịt, hút tẩu thuốc lá, đứng tựa lan can tầu trông ra biển. Tôi mon men đến. Tầu qua Hà Cối, anh trỏ hòn đảo mà tàu vừa rời xa, nói Tây gọi đảo ấy là Chapeau Chinois. Tôi trông hình đảo nổi trên mặt biển cũng giống núm cái mũ cói rộng vành của người lao động Trung Quốc thường đội. Trên tàu có Trần Trọng Kim hồi ấy là đốc học Hà Nội ra nghỉ mát Trà Cổ. Về đến Quảng Yên thì ông Trần xuống, anh bảo tôi là ông ta xuống chơi với tuần phủ Quảng Yên. Trên tàu có đoàn chị em ái hữu tiều thương chợ Đồng Xuân đi chơi Móng Cái, sang cả Đông Hưng bên Trung Quốc. Tôi cũng có sang Đông Hưng. Sau chuyến ấy, tôi viết một bài phóng sự về quang cảnh thị trấn Đông Hưng chuẩn bị chống Nhật. Tôi gửi bài vào báo Mới, một cơ quan công khai, của phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở Sài Gòn. Chỉ thấy ở mục hộp thư báo đăng tin có nhận được bài mà thôi.
Ngót bốn mươi năm rồi, mà vẫn nhớ nguyên chuyến tàu. Cái tàu thuỷ cũ kỹ chạy ven biển - hai ngày, hai đêm mới từ Mũi Ngọc về tới bến Bính, guồng tàu quay ầm ầm, sủi bọt trắng xoá ngày đêm đằng đuôi tàu Nhưng phải nói là biết anh Nguyễn Công Hoan, tôi biết từ khi học, lớp cấp ba tiểu học, khi bắt đầu biết đọc sách và đọc truyện ngắn trong tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, số 1, in năm 1933...
Đến hồi đương tuổi thanh niên tôi lại "biết" anh vào dịp anh em ái hữu thợ dệt quê tôi diễn vở kịch Tấm lòng vàng của anh. Kịch kể chuyện một nhà giáo, từ tâm giúp một học trò nghèo. Sau anh học trò ấy làm nên, kín đáo đền ơn tạ thày. Tôi đóng vai người học trò nghèo trong kịch Tấm lòng vàng. Thầy là Thịnh, thầy giáo dạy tôi lớp 1 ngày trước, lại đóng vai thầy giáo. Con gái thầy giáo là cô Mỹ Ảnh, một cô đào tuồng rạp Quảng Lạc. Chúng tôi đã xuống Hà Nội thuê cô ấy về đóng, ngày ấy chơi kịch nghiệp dư, khó kiếm được vai nữ thật.
Hồi này, anh đã được đổi về dạy ở Nam Định.
Tôi viết thư xin phép tác giá. Thật ra, tôi ao ước được thấy mặt chữ một nhà văn nổi tiếng hơn là việc xin phép. Tôi đã được như ý. Chữ ký trong thư anh không chân phương như bây giờ, mà loằng ngoằng búi tròn lại thành một đám như con nhện rồi buông một nét sa xuống dài thõng, anh Nguyễn Công Hoan vốn tinh nghịch, hay làm ngược. Có phải vì ngày ấy các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Đoàn Phú Tứ ký tên thường phất những nét cao ngất đài mây lên trời mà nhiều người đã bắt chước, thì anh ký thành một cục chữ rồi cho chọc một nét xuống đất.
Tôi giữ cẩn thận cái thư ấy, tới sau tháng tám 1945, đã đưa anh xem.
***
Thật thì cũng chẳng mấy khi tôi có dịp gần hoặc làm việc lâu với anh, nhưng tôi nhận thấy ở anh lúc nào cũng lạc quan hay nói đùa. Cái vui của một người có nhiều nỗi buồn, không biết có phải thế không.
Trước những khó khăn, những đau khổ, trong mọi hoàn cánh, anh vẫn tìm ra cách nghĩ, và làm việc tạo niềm tin.
Xin kể đôi ba kỷ niệm nhỏ.
Năm ấy, cuộc kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu. Tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc mặt trận Hà Nội, anh Nguyễn Công Hoan đã vào bộ đội, ở ban biên tập báo Vệ quốc quân, anh Lê Tất Đắc phụ trách. Báo đóng trong một xóm trên đồi Đồng Lư vùng So Sở giữa chùa Thầy và chùa Trầm. Cùng làm tuần báo Vệ quốc quân lúc ấy có Thôi Hữu và Thâm Tâm. Thấy tôi đến chơi, anh Nguyễn Công Hoan giữ lại bảo “ở lại đây làm báo với chúng tớ cho vui". Thế là thủ trưởng Lê Tất Đắc ký giấy xuất kho cho tôi bộ quần áo bộ đội xanh lá cây, cái mũ cứng, thêm chiếc mũ ca-lô. Tôi ở lại có đến mấy tháng, cho đến hôm cơ quan Vệ quốc quân chạy Tây rời lên Lâm Thao.
Có một chuyện buồn cười, buồn cười khi anh nói lại chứ thật ra, đây là chuyện gay go, suýt chết. Hôm ấy anh Nguyễn Công Hoan cùng Thôi Hữu lên Sơn Tây. Không nhớ đi việc gì, tôi mang máng như cũng là các anh đi chơi thôi, anh Nguyễn Công Hoan mặc quân phục, mũ ca-lô sĩ quan dạ tím có sao vành tròn.
Lưng anh dắt gồ gồ bao súng lục anh Lê Tất Đắc cho mượn - mà tôi chắc anh cũng không biết bắn. Người anh cao lớn, mặt bộ đội, trông oai lắm.
Chẳng may, đúng hôm ấy, Tây ở Hà Nội tấn công nống lên tận huyện Phúc Thọ. Một đằng thì Tây đã lố nhố lên mặt đê, bắn loạn xạ vào trong làng. Một đằng thì người ta chạy giặc đương gồng gánh xô xuống bãi.
Anh chạy với mọi người.
Anh bị dân quân hỏi, rồi giữ giấy. Người ta, nghi anh là Việt gian, trói anh lại. Ở ngay mặt trận, địch đang đuổi sau lưng mà bị dân quân bắt, nghi là Việt gian thì chết đến nơi rồi.
Nửa đêm, anh mới mò được về đến Đông Lư. Bùn lấm lên tận mặt, mất cả mũ ca-lô, cả súng lục. Vết thừng còn lằn đỏ hai cô tay.
Chúng tôi theo lệnh chuyển lên Lâm Thao, anh đi theo luôn. Dọc đường, lúc ngồi nghỉ, anh Nguyễn Công Hoan thong thả vui vẻ kể lại chuyện “nguy hiểm chết người” ấy. Rồi anh cười:
- Từ giờ thì kệch không dám đeo súng!
Một chuyện mới đây. Cục địch vận của Quân đội tổ chức cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ bàn việc sáng tác cho địch vận. Các vùng bị chiếm ở miền Nam dường ngập ngụa sách vở, ta cần tìm cách thổi luồng gió mới vào.
Các anh ấy đề nghị chúng tôi viết những truyện - viết theo lối sách chưởng, tình báo, lãng mạn đương thịnh hành nhưng nội dung lành mạnh, khơi gợi tình yêu nước. Và ký tên khác. Để in công khai trong thành hoặc in ngoài chiến khu, đem lồng bìa giả, bí mật đưa vào các đô thị.
Chưa ai làm được gì thì anh Nguyễn Công Hoan đã xong một tiểu thuyết trên một trăm trang bản thảo. Hồi kháng chiến chống Pháp, anh đã viết một truyện như thế, do quân đội in, quyển Sổng cũi, ký tên là Nguyễn Văn Lung (Anh cắt nghĩa: là lung tung thiên ấy mà).
Tôi đọc, rồi nói với anh:
- Những đoạn tả tình yêu chưa được.
- Sao?
- Anh cho trai gái Sài Gòn bây giờ viết thư tình như thư tình trong truyện của anh từ hồi "min-nớp-săng-cà-cộ". Có cả sợi tơ lòng, đài gương, dấu bèo, nhạn én thoi đưa, tháng ngày thấm thoắt...
Anh im. Rồi vỗ đùi, cười to:
- Ờ nhỉ, lâu nay cái việc ấy mình không có thực tế. Toàn viết theo xú-vơ-lia(2). Hỏng!
Anh bằng lòng với nhận xét ấy, của tôi và tự giải thích theo cách hài hước riêng. Rồi anh bỏ cả cuốn tiểu thuyết Một kiếp người. Chịu nghe, Nguyễn Công Hoan vẫn trẻ trung như thường.
Năm trước, anh khoe:
- Mình mới nghĩ ra một truyện dài cái truyện dài này thì dài vô tận.
- Truyện gì ạ?
- Truyện "Nhớ gì ghi nấy".
Tôi vẫn chưa hiểu, anh cắt nghĩa: ở tuổi anh ấy bây giờ, những từng trải buổi giao thời, những mắt thấy tai nghe qua mấy chế độ, biết bao chuyện, phải ghi lại cho lớp người sau biết.
Thế là anh đóng từng tập giấy khoảng trăm trang mỗi khi nhớ một việc, anh suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Hết tập giấy ấy, anh đóng tập khác.
Anh cười, giơ tay, vẻ đắc chí:
- Ơ hay, chẳng phải là chuyện dài vô cùng tận thì là cái gì. Từ nay đến ngày mình chết, chết thì thôi chứ những điều đáng nhớ đáng ghi thì cái bộ đại trường thiên tiểu thuyết này của Nguyễn Công Hoan cũng chưa xong cơ mà!
Những ghi chép ấy của Nguyễn Công Hoan đã có dịp ra mắt bạn đọc một vài đoạn trên tạp chí Tác Phẩm Mới. Có ý kiến cho là anh ghi nhiều điều quý. Có ý kiến cho là có cái không hay, không nên ghi, không nên cứ nhớ gì ghi nấy.
Anh chỉ cười:
- Tất nhiên, phải nghĩ rồi mới ghi chứ, tay mình viết chứ có phải là cái máy viết đâu, nhưng mà đợi người ta bàn xong xem mình ghi hay hay dở thì không còn thì giờ, cứ phải làm việc thôi. Từ khi tôi nghĩ ra cái nhớ gì ghi nấy này, thấy lúc nào cũng bận.
Luôn luôn anh tìm ra nguồn vui, cả trong lúc sáng tác khó nhọc, anh hay pha trò, nhưng công việc anh làm thì không đùa. Lúc nào anh cũng tập trung trí tuệ và nghị lực. Chúng tôi thường nghe anh kể và đã biết về cách anh làm việc, nơi anh làm việc, trước kia cũng như bây giờ. Thật giản dị: một cái bàn, cái ghế, lọ mực tím, lọ mực đỏ, cái kéo, lọ hồ, tập giấy. Mỗi tối thường anh viết xong một chương truyện trên mười trang bản thảo giấy khổ nhỏ. Hôm sau, chữa lại chương ấy bằng mực đỏ. Chỗ nào hỏng, hoặc xê xích câu văn trên dưới thì cắt dán. Đến bữa, đứng dậy đi ăn cơm, ăn thật no.
Anh bảo: Mình ăn khoẻ, quà bánh chẳng tham vào đâu. Phở cứ hai bát mới lửng.
Có lần đi Hải Phòng, tôi thấy anh ăn một lúc hai bát phở. Không bao giờ ăn quà vặt, thỉnh thoảng, dăm bữa nửa tháng, cao hứng mới uống chén rượu chơi. Viết liền sáu hôm được sáu chương, chủ nhật nghỉ, viết hai tuần lễ mười hai chương, cứ thế làm tiếp cả tháng, cho đến khi xong.
Sức mạnh tập trung và thói quen làm việc dữ đến thế là cùng, anh đã kể trong hồi ký Đời viết văn của tôi, anh viết liên tiếp xong tiểu thuyết Bước đường cùng thì bị đau bại một bên vai phải, anh làm liền một loạt truyện ngắn, in báo rồi in thành lập Đào kép mới.
Viết xong, đứt kẽ mắt, bị sưng húp lên.
Đến khi có tuổi, cách thức làm việc của anh vân khoe tương tự, mặc dầu bệnh nghề nghiệp của một người thực sự lao động nghề văn, đã khiến những năm sau này, anh đau bả vai bên phải như tê thấp, không ngồi cầm bút được lâu hơn một tiếng và bên chân trái anh đi thường bị run.
Đời anh từ nhỏ, biết bao ngậm ngùi. Người đọc đã thấy trong Đời viết văn của tôi những chuyện cười cợt về thầy ký rượu phố phủ, về anh nho khúm núm cửa huyện hoặc về tác giả tự giễu mình là cậu bé nghịch tinh, nhưng người đọc đã thấy đằng sau những truyện cười đến giàn giụa nước mắt ấy là nỗi buồn của cậu bé sớm phải xa cha mẹ, là cái lo nhà mình cứ nghèo mãi, bố mẹ lại đông anh em, mà đi thi mấy lần đều hỏng, tớn lên, đau nỗi đau mất nước, anh không thờ ơ với thời cuộc, anh đã giác ngộ và đầu tiên anh hoạt động cách mạng với nhà yêu nước Nguyễn Thái Học, bạn học của anh ở trường sư phạm Hà Nội.
Đời anh, đận nào cũng đầy những âu lo. Từ nhiều năm trước, đến những ngày Tổng khởi nghĩa 1945, trong gia đình, các em anh rồi đến các con anh lần lượt thoát li đi hoạt động, có người phải mang án chém, án tù đày chung thân. Sáng tác của anh có quyển bị cấm lưu hành như tiểu thuyết Bước đường cùng, thời kỳ Mặt trận Bình dân. Đến khi phát xít Nhật sắp làm đảo chính, anh bị mật thám Tây cấm viết, anh phái viết ký tên khác, nhà xuất bản mới in. Những truyện viết cho thiếu nhi hồi này anh viết ký tên Ngọc Oanh (chữ Nguyễn Công Hoan viết tắt và xếp ngược), anh đi dạy học, nhưng thực dân Pháp không cho anh được ở đâu lâu. Ngót hai mươi năm làm nghề gõ đầu trẻ - anh đã viết thành tập tự truyện trào lộng có cái tên ngộ nghĩnh: Godautre, - chữ "gõ đầu trẻ”, viết liền và đọc theo kiểu chữ Tây.
Cách mạng tháng Tám thành công. Gia đình anh được niềm vui chung của đất nước. Rồi, bước vào hai cuộc kháng chiến ngót ba mươi năm, trải bao nhiêu gian khổ, nhà anh cũng trong những hy sinh gian khổ ấy. Mẹ anh và nhiều người trong gia đình đã bị bom giết hại. Em anh, con cả anh đã hy sinh trên đường công tác. Con trai anh vào chiến trường miền Nam.
Nhưng đầy nghị lực và tinh thần trách nhiệm trước cuộc sống, bao giờ anh cũng vượt lên. Những đức tính ấy ảnh hưởng quan trọng đến toàn bộ sự nghiệp văn học của anh về tư tưởng, về vốn sống và tài năng sáng tạo.
Tiểu thuyết Đống rác cũ tập I, có nhiều chương miêu tả gia đình một nhà nho, một gia đình phong kiến điển hình với những thói tục hủ lậu, đã giam hãm và hành hạ người phụ nữ đến tàn đời trong ngưỡng cửa gia đình. Thành công của anh trong biểu hiện và mổ xẻ tâm trạng với khung cảnh những nhân vật phong kiến ấy, tôi hiểu được, do bao nhiêu từng trải và cảm xúc, suy nghĩ của anh. Tôi có được nghe anh kể về người phụ nữ đau khổ có thật ở Hải Dương đã trở thành hình ảnh nhân vật phụ nữ xấu số trong truyện. Tâm sự và cuộc đời người trong truyện cũng là những rối bời trong tâm sự và cuộc đời người viết và xã hội.
Đời viết văn của tôi có nói một chút về cái chết thê thảm của người thiếu phụ đáng thương mà anh dựng thành nhân vật. Đối với nỗi lòng anh, tôi hiểu được sâu hơn những thầm lặng, những xót xa, những nguyên nhân nào khiến anh yêu văn Vũ Lang, văn Vũ Lang viết như thơ - một nhà văn lãng mạn mất rất trẻ hồi ấy.
Bạn đọc anh thường chú ý tính xã hội của nhân vật và tính trào lộng đặc biệt của anh. Tôi thấy ở anh, không phải chỉ có hài hước mà còn có thơ. Chất thơ ấy làm cho cái cười của anh buồn thăm thẳm hay bay bổng lên. Những truyện ngắn như Nghĩ người ăn gió nằm mưa, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng, và những tiểu thuyết Tấm lòng vàng, Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Tơ hồng. Cô giáo Minh, Bước đường cùng và những bài thơ mà đôi khi anh làm, có đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy và cả cuộc đời lúc nào cũng nén đau thương - những điều tưởng không dính líu tới sáng tác, nhưng thật đã ảnh hưởng lớn tới tâm hồn sáng tác của anh. Những cái đẹp, những nét thơ và u uẩn đó ánh lên như hương thơm của chùm hoa mộc tinh khiết đưa thoang thoảng rất xa trong đêm hè.
Không phải chỉ do, tôi suy luận từ sáng tác tới cuộc đời anh, mà có những điều tôi trực tiếp hiểu được như thế. Chỉ một bài Người bạn đọc ấy của tôi đã gây ra giông bão trong sức mạnh sáng tạo của anh và anh đã tạo nên tiểu thuyết Con trai người bạn đọc ấy. Phải có cảm xúc thơ, tâm hồn bao la mới chắp cánh được cho ngòi bút mạnh mẽ được vậy.
Không, bao giờ anh trả lời cho tôi về những suy nghĩ của tôi, như thế, anh có cho là tôi nói đúng không, anh chỉ im lặng. Có khi gõ tẩu thuốc. Có khi nhả khói thuốc. Đấy là vẻ im lặng và thoáng buồn không bình thường ở một người vốn hồn nhiên như anh, anh Nguyễn Công Hoan đã kể lại trong hồi ký Đời viết văn của tôi: ngày trước anh đọc tuần báo Hà Nội tân văn, anh chú ý những truyện ngắn đầu tay của tôi.
Khi nhà xuất bản Tân Dân ra loại sách Truyền Bá cho thiếu nhi, anh mách ông Vũ Đình Long nên mời tôi cộng tác. Thế là tôi bắt đầu viết cho loại sách Truyền Bá. Những truyện đầu tiên cho thiếu nhi: Con dế mèn, Dế mèn phiêu lưu ký Mực tàu giấy bản, Chuyện cái đầu tôi. Anh nói anh không thích Con dế mèn như nhiều người trầm trồ. Mà anh khen truyện Mực tàu giấy bản, trong đó có nhiều đoạn dí dỏm, ngộ nghĩnh.
Tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng, anh viết từ những ngày tháng tám 1945 ở Hà Nội, cùng loạt với tiểu thuyết Đồng chí Tơ của anh in trên báo Sao Vàng, cơ quan của Vệ quốc đoàn Nhà xuất bản Sự Thật đương in tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng thì bùng nổ toàn quốc kháng chiến.
Anh Nguyễn Công Hoan không giữ được bản thảo viết tay, anh thường nhẹ nhàng, không chằm bặp mấy với những cái đã viết ra. Vứt đi cái này, viết cái khác, có gì đâu, anh bảo thế. Ở Việt Bắc, một lần tôi lên nhà in Tiến Bộ sửa bài ở bến Chanh sông Lô trong vùng rừng Chiêm Hoá trên Tuyên Quang, thấy trong đám giấy lộn của nhà in từ Hà Nội mang đi có một tập ngót trăm trang tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng đã dập bản in thử. Tôi đem về cho anh. Nhờ vậy, khi hoà bình lập lại, anh có cơ sở viết tiếp tiểu thuyết này.
Kể lại mấy việc trên, chỉ vì tôi nhớ có lần anh bảo:
- Tôi với anh có nhiều duyên nợ và hợp nhau.
Rồi anh lại nói:
- Tôi phải truyền nghề viết cho anh mới được.
Anh thường bảo nghề văn có những cách, những mẹo riêng mà ít người biết, anh hay nói là tôi xem ra bây giờ chỉ có anh, anh Quang Dũng và cô Vũ Thị Thường là có thể học được nghề, anh nói lý do là khi nói chuyện với chúng tôi - Quang Dũng và tôi, bao giờ anh cũng thấy dí dủm lý thú, nghĩ thêm ra được nhiều cái bất ngờ, thế thì anh giống tôi, anh có thể học tôi được. Không phải anh chỉ nói vui, mà nói nghiêm chỉnh.
Anh viết truyện cười, nhưng anh sống mực thước, chu đáo, kể cả trong câu nói, lời hứa và mọi sinh hoạt thường ngày.
Và anh Nguyễn Công Hoan đã làm việc truyền nghề cho tôi, anh không giảng như anh thường đi giảng các lớp bồi dưỡng sáng tác. Mà anh dặn: nghề viết phải hóc lỏm, học mót, học thế nhớ lâu, người ta nói một, minh hiểu mười, phải tinh mới được. Này tôi bảo anh... phải láu mới được.
Lúc anh nói thế, hai bàn tay xoè thẳng, giơ ngang, khi mở rộng, khi thu hẹp, anh đương giảng giải làm ví dụ, hệt như thầy đứng trước bảng đen. Nghề dạy học lâu năm đã làm anh có thói quen và cử chỉ nghề nghiệp ấy Năm trước, anh có sáng kiến khiêm tốn và chịu khó đi phỏng vấn nhiều nhà văn, nhà thơ: ở mỗi người anh hỏi một khía cạnh sở đắc nhất của cây bút ấy. Tôi cũng được anh hỏi riêng về ngôn ngữ và kinh nghiệm kiến trúc câu văn.
Anh mở máy ghi âm và chúng tôi cứ việc rôm rả chuyện lung tung quanh những câu văn và chữ nghĩa.
Ít hôm sau, anh đưa tôi xem bài anh viết theo máy ghi. Có nhiều đoạn anh đề là tôi nói, mà lại thật là của anh viết. Nhiều chỗ ví dụ cho rõ nghĩa hơn, cả những đoạn tôi tự nhận xét chất thơ trong câu vặn của tôi như thế nào, cũng anh viết cả.
Anh nhìn tôi đọc bài anh. Vẻ ung dung, bằng lòng.
Anh đương đoán ý của tôi. Rồi anh nói như đinh đóng Tôi chắc anh phải đồng ý!
"Anh sẽ bằng lòng, anh sẽ thích, vì nhưng điều tôi viết đều như ý anh”. Thầy giáo tôi sao dễ tính và chủ quan thế nhưng cũng đúng thế thật. Khi đăng bài ấy trên tạp chí Tác Phẩm Mới và rồi nhà xuất bản sửa soạn in thành sách(3), anh có đưa tôi đọc lần nữa. Tôi nghĩ lại, cũng không có ý gì thêm và khác anh.
Các bài báo, bài bút ký hay truyện ngắn, truyện dài tôi viết, anh đều đọc, khi bản thảo, khi sách in, anh đọc kỹ và bao giờ cũng khen chê rõ ràng như thầy giáo chấm bài. Phần nhiều anh chê, "yêu cho vọt mà"... anh bắt bẻ rồi cắt nghĩa, vẽ ra cách chữa. Nếu không định bảo ban tôi, “truyền nghề” cho tôi, chắc chẳng bao giờ anh bỏ công thế.
Những nhận xét của anh về hai cuốn sách tôi mới xuất bản, tiểu thuyết Đảo hoang và truyện ký Lăng Bác Hồ. Tất cả đều là những câu anh chê. Xin trích vài đoạn ý kiến anh về tiểu thuyết Đảo hoang... Giấy anh viết chi chít trên mặt trái trang bản in hàng ngày dính với nhau bằng hồ.
1 Dưa đỏ mọc ở đâu mà chim đưa hạt ra đảo? Cho rằng nó mọc ở một đảo hoang nào đó. Bố con An Tiên biết lấy hạt để trồng rồi thả cho quả trôi vào đất liền. Vậy sao từng ấy năm ăn dưa mà nhân dân không lấy được hạt để trồng? Lĩnh Nam Chích Quái c chỗ sơ hở, nhưng “Đảo hoang” phải lấp chỗ hở ấy.
5. Giống chim trắng ở biển, các nhà thơ gọi là hải âu thì dân vùng biển gọi là con chim mố. Chim mố chỉ ăn cướp cá của các thuyền đi khơi đánh cá. Nó rất bạo người. Nó đậu ngay ở mạn thuyền để rình cướp cá.
Người chỉ đuổi nó, chứ không giết để ăn thịt, vì thịt nó dai hơn thịt trâu. Nó không phải là loài chim ăn rau quả. Anh xem lại xem hải âu có biết ăn dưa đỏ không?
7. Ma-Li là người nước ngoài được cứu sống cho đến hôm nó nói được thì cứ im lặng không nói câu nào cả.
9. Chương 2, chương 3. Gấu được học như người có vẻ xiếc quá, không hợp.
Anh lại tìm ra những cái thiếu, cái sai từng câu từng dòng.
Trang 13 dòng 6 (dưới lên) "Tứ chiếng", tác giả nói tiếng này thì được, An Tiêm nói không được. Vì tiếng này mới có từ thời Lý. Bởi chữ tứ trấn nói kiêng. Tứ trấn là Thăng Long tứ trấn. Có bốn đền thờ bốn ông thần trấn thủ bốn phương thành Thăng Long; đông, đền Bạch Mã (Hàng Buồm), tây: đền Voi Phục, bắc, đền Trấn Võ; nam, đền Cao Sơn ở Kim Liên. Tứ chiêng là dân các nơi đến ở quanh kinh đô, ý nghĩa như khinh bỉ.
Trang 27 dòng 1l (dưới lên) - ở hội vật có cái cử chỉ mà tác giả gọi là "múa lên đình" thì theo tôi đã biết là hai đô vật “lễ” thần trước khi vào keo.
Trang 42 dòng 2 (dưới lên) và những trang khác, con cá nghiêng người... người con gấu... người con trăn phải viết “người” là "mình" mới chính xác.
***
Có lúc, anh bảo tôi:
- Một năm trở lại đây, tôi tự nhiên thấy khác hẳn trước. Lên gác thư viện, mới được một tầng, đã phải vịn tường. Đi xe đạp thấy tay lái chập choạng, không dám đi nữa. Thường ngày tôi ghét nằm, bây giờ chỉ muốn năm.
Anh đã cao tuổi, nhưng anh vốn có sức, anh em chúng tôi chỉ nghĩ như chúng tôi mong muốn: mong sao anh được mạnh khoẻ, mong sao sức anh chỉ kém đi bình thường theo tuổi già mà thôi.
Có khi, dường như anh ngập ngừng:
- Này tôi bảo anh (anh hay gọi tôi thân mật, bắt đầu bằng: Này, tôi bảo anh...) tôi còn tồn kho một ít. Anh chữa cho tôi, thế nào cũng được.
Anh đương nghĩ xa. Rồi anh cười nhẹ nhàng:
- Bấy giờ thì tôi còn cãi thế đếch nào được anh.
Nhưng mà thôi...
Anh vốn không ưa nói điều gì buồn
 
Chú thích:

(1) Nhà xuất bản Văn Học 1971
(2) Xú-vơ-nia (tiếng Pháp) có nghĩa là kỷ niệm. Nguyễn Công Hoan nhại đùa: Xú-vơ-lia.
(3) Hỏi chuyện các nhà văn, Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, 1977

8. Nguyễn Bính


 Nhà thơ Thâm Tâm giới thiệu cho tôi quen với Nguyễn Bính. Những năm ấy Nguyễn Bính đã được giải thưởng thơ Tự Lực Văn Đoàn và đương đăng nhiều thơ trên tuần báo Tiểu thuyết thứ năm. Tôi chỉ mới viết vài truyện ngắn đầu tay.
Ở cái nghề báo, nghề văn bát nháo hội này, lắm người vừa cầm bút, lại làm áp-phe, làm du côn, vay chẳng, chơi bửa, tống tiền, ăn tiền mật thám, người ở lẫn với ma, người nửa người nửa ma, không biết thế nào, cho nên cách người ta làm quen với nhau cũng lắm sự lạ. Có thể trông thấy thì quay mặt đi, lỉnh ngay. Có thể khệnh khạng không thèm giơ tay đáp lễ. Có thể xông luôn đến cho một cú “thôi sơn” quai hàm, mạng mỡ. Lai có thể sụp xuống, chắp tay "đại huynh mới là thiên tài, hân hạnh... hân hạnh...". Tôi biết như thế thôi. Chứ tôi mới cầm bút, được làm quen với một bạn viết nào cũng là điều mình n jng mỏi. Và với Nguyễn Bính, cũng thấy dễ chịu ngay, anh nhà thơ này dường như cũng tàng tàng, cảnh mình.
Còn nhớ Nguyễn Bính mặc bộ quần áo tây trắng đã tã, gấu quần và ống tay áo lờm sờm như tóc tai, anh không cắp mấy quyển sách gì đó như mốt của những người viết trẻ lúc ấy. Nguyễn Bính lại còn cầm một hộp sắt tây màu đỏ lựu- cái hộp đựng bánh bích quy.
Nhưng đây là cái hộp không đựng bánh. Những chiếc hộp này và những cái vo chai thường thấy các bà "chai bao chè đồng nát” mua ở các nhà Tây vứt đi, bồi bếp nhặt bán rồi người ta quảy đi bán rong ở các phô ta.
Tôi chưa hiểu Nguyễn Bính có cái hộp bích quy đựng gì.
Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi.
- Này, có tiền không?
Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han thân tình như thế. Tôi mỉm cười. Thế là, cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái cười hiền lành của tôi đã khiến anh thấy tôi sẵn sàng, anh sai luôn:
- Vào nhà bánh giò "Đờ-măng” chỗ kia, mua dăm chiếc nhé, năm chiếc cũng không thừa đâu. Từ sáng, tớ chưa được miếng nào vào bụng.
Hàng bánh giò ngon có tiếng, ở xế cửa toà báo hàng ngày Trung Bắc tân văn gần vườn hoa Cửa Nam, bên cái nhà gì của Tây mà người ta gọi là nhà "Đờ-măng” và cũng thành tên hàng bánh giò cạnh đấy.
Nhưng cũng không phải Nguyễn Bính không có đồng nào trong túi. Buổi trưa oi nắng ấy, chúng tôi đem cả xâu bánh rúc vào một tiệm thuốc phiện đầu phố Nhà Hoả. Nguyễn Bính và Thâm Tâm không ai nghiện, nhưng đi hút, đua đòi đi hút cũng là một thói của thời thượng. Chúng tôi đánh trần ra, ngồi chầu rìa quanh tấm phản gỗ trong bóng tối ẩm thấp trần nhà bọc nhật trình thấp gần đụng đầu của cái tiệm hút cà khổ, vắng ngắt, thế mà dường như chẳng ai biết nóng bức thế nào. Kéo xong một điếu, Nguyễn Bính nằm gối đầu lên chiếc hộp bánh quy, mắt môi nhẫy lên, rợn như mắt mèo.
Chỉ một lát sau, tôi đã biết được sự tích cái hộp bánh quy, khi Nguyễn Bính ngồi lên, vuốt ve, xếp đặt lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình. Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi mờ đọc đi đọc lại đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối tình, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ và những người ta ở những đâu đâu ấy đã "cho rơi" anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời ơi trong cái hộp gối đầu ra.
Bây giờ nghĩ lại những ngày ấy, đứng ở góc nào mà ngẫm, khi vui khi buồn cũng thế, chỉ rặt một màu ảo não, mặc dầu khi đó chúng tôi đương vào lứa tuổi đôi mươi và mỗi bài thơ, cái truyện ngắn viết ra, các "thiên tài" lại bốc nhau lên mây, mặc dầu những cuộc chơi nghiêng lệch cả đêm ngày, bằng tiền của ai không biết, như lũ thiêu thân lao vào ánh đèn, chúng tôi đi, cứ đi, không biết đi đến đâu, bởi chẳng biết đi đến đâu cả. Không phải tôi nói bóng gió cao xa về sự nghiệp, về lý tưởng mà tuổi trẻ đi tìm. Tôi chỉ so sánh mọi việc bình, thường ở mỗi con người. Người ta tuổi đương độ, ai mà chẳng ao ước được sống tử tế, trai có vợ, gái có chồng. Nhưng, với biết bao người, đấy chỉ là cơn mộng. Không biết nhà thơ Nguyễn Bính tích được đến mấy chiếc hộp sắt đựng thư và thơ tình của những ai ai đã tơ vương với anh, để anh cắp nách cả, cái hộp kỷ niệm tha đi từ bắc vào nam, nhưng suốt một thời thanh xuân, tôi cũng chưa thấy anh một lần nào lấy vợ. Dẫu cho những bức thư tình kia là những bằng chứng sống về lời thề sông cạn đá mòn, có lúc doạ cắt tóc đi tu và uống thuốc phiện dấm thanh cho chết, nhưng chẳng có người con gái nào yêu thơ rồi say mê người làm thơ đến bỏ nhà đi theo không. Còn anh chàng thì không làm sao lo nổi tiền cưới, ở cái thời mà những thói tục phiền nhiễu và đồng tiền to hơn nghìn vạn lần tình cảm và tóc thề, trăng thề của con người.
Tôi nghĩ mãi cũng không ra được câu trả lời nào khác hơn là đem cái kết luận dung tục, phũ phàng kia mà phủ lên những mối tình xếp vào hộp gối đầu của kẻ si tình. Nhưng mà tuổi trẻ vẫn nhởn nhơ những gặp ai tìm ai. Chán nằm trong cái ngõ Sơn Nam tiểu thuyết Sau ánh sáng nhà Trần Huyền Trân chỗ Cống Trắng Khâm Thiên, lại xuống ăn báo một người bạn chài lưới yêu thơ ở đầm Linh Đường, rồi đến nhà Chu Ngọc "mà ai cũng tá túc được” ở phố Hàng Đồng, rồi có khi kéo lên Nghĩa Đô. Những lúc ấy túng bấn nhất. Chơi bời có bao nhiêu, nhưng ở đâu cũng không vùng vẫy khỏi cái cảnh tương tự ngày ngày ra bờ sông Tô Lịch mua xu rau muống, có hôm xin được mớ rau của cô bơi thúng hái rau sinh hảo tâm bởi đã thuộc lòng cả bài Lỡ bước sang ngang.
Mà mải mê đến thế. Tối đến, hình như mọi việc mới bắt đầu. Chúng tôi với Cương và Lập mấy anh em trai làng lại nhởn khắp vùng đến rạc cẳng. Các làng Bưởi làm nghề giấy, từng dãy tàu seo đêm seo đèn, từ dọc bờ sông vào suốt dãy làng Đông sang Cầu Sau, ra hồ Tây. Ánh đèn quang treo giữa lều tàu, những cái đèn chai xách lúc hết seo, như đom đóm bay. Những chàng trai, những Cương. Lập và cả Nam Cao ló mặt ra trong ánh đèn thấp thoáng, tiếng cái khuôn liếm khua vào thành tàu đã kiệt nước đổ rả rích lẫn liếng cười canh khuya, như xé cơn buồn ngủ của những cô thợ seo. Chỉ có thế mà cứ săn đón nhau suốt, đêm nào cũng như đêm nào.
Lại nhớ những hôm rét mướt vào áp Tết, chúng tôi chen chúc ngồi đánh tam cúc trong ổ rơm. Đánh chơi ăn đẹt mũi, búng tai mà thôi. Những cô Tý, cô Mơ, cô Hứa - gái làng canh cửi, thuộc Kiều lạ cũng thuộc cả quyển Lỡ bước sang ngang. Khi cười thì cười ngặt nghẽo tít con mắt lá dăm. Tưởng như dứt cơn cười, những cô gái đa tình ấy vứt cả lồng tơ khung cửi mà đi theo cái anh làm thơ tài đến thế. Nhưng cũng chỉ vậy thôi.
Những ngày lang thang, những thất vọng và vô vọng bất đắc dĩ. Ở đâu cũng thế. Lại cái lần đi Sài Gòn với Vũ Trọng Can tìm Nguyễn Bính - lại "chữ một đi không bao giờ về”. Chẳng phải qua sông Dịch đâm chém ai đâu. Ấy mượn câu thơ xưa để nói bóng cho đẹp và buồn cái nỗi chỉ xoay được tiền vé tàu hoả đủ suất vào đến Sài Gòn mà thôi.
Có lẽ đây là một việc làm ngỗ ngược và ngây ngô nhớ đời, mà ý nghĩa của nó thật bao thảm thương.
Ở trên tàu bước chân xuống ga xe lửa Mỹ giữa thành phố. Chẳng có người quen đến mức phải ra ga đón và trong túi không đứa nào còn một xu. Chợ Bến Thành với cái bãi Bùng Binh trước mặt, người ăn uống rào rào như tăm ăn rỗi. Làm thế nào được bây giờ? Rồi tìm được Nguyễn Bính. Nhưng cũng đương ăn nhờ ở đậu.
Vũ Trọng Can nghĩ ra một kế hay hay. Mắt anh trố ra, ngơ ngác một cách hồn nhiên.
- Ờ mà phải như thế. Sẽ làm ra tiền, có tiền hẳn hoi. Chúng ta sẽ diễn thuyết thu tiền nhé. Đúng, diễn thuyết thu tiền. Cả ba thằng lần lượt sẽ diễn thuyết. Tổ chức diễn thuyết thu tiền người đến nghe. Được lắm chứ.
Nguyễn Bính hay cợt nhả, như thói quen của anh:
- Ừ, cũng được, như đi hát xẩm. Không phải xẩm mù, mà xẩm chợ. xẩm sáng. Còn thiếu cái nón, cái nón ngửa ra, hay là làm cái nong cho người ta ném tiền thưởng vào.
Vũ Trọng Can không chấp câu mỉa mai, lại hăng hái hơn:
- In vé, in vé. Ta sẽ bán vé. Có người bán vé cẩn thận. Một công việc lương thiện.
Vũ Trọng Can còn cắt nghĩa nhiều lần, trong khi chúng tôi không tỏ ra vồ vập, cũng không phải là ngãng ra. Viết sách, viết báo, bán chữ lấy tiền, thì người ta có thể bán nói. Thế rồi làm thật. Vũ Trọng Can đã tìm được một người bạn làng, anh Nguyễn Văn Tập. May mắn sao anh Tập đã sốt sắng tận tình lo liệu cho cuộc diễn thuyết kiếm ăn này. Một tập vé từng tờ con con như cái vé chợ, vé xe điện. Trong đó là những hàng chữ in: "Sáng ấy... sáng ấy... từ giờ... tại rạp Thành Xương, văn sĩ Vũ Trọng Can, tác giả truyện ngắn Màu hoàng yến đã đăng trên báo Ngày Nay của Tự Lực Văn đoàn, mới ở Hà Nội vào nói chuyện về... Kính mời... Giá vé...".
Nơi diễn thuyết tại rạp Thành Xương mới ghê! Tuy vậy, những rạp hát vào buổi sáng thường bỏ không. Giá thuê rạp chẳng bao nhiêu. Nhưng bởi vì chẳng có cách nào - nghĩa là không đào đâu thêm tiền, cho nên không thể thuê đăng báo hay in cáo bạch. Chỉ viết được hai tờ quảng cáo rồi thuê chỗ mà dán vào tấm bảng gỗ cổng rạp và ở Bung Binh cửa chợ. Trước giờ sớm hôm ấy, mỗi người chúng tôi cầm một nắm vé, đi các phố xung quanh, từ đường Ga-li-ê-ni sang ga xe lửa, chợ Bến Thành, đường Ét-banh, hễ thấy người nào ăn vận vẻ chững chạc dân thày, bèn chìa xếp vé ra: "Mời thầy đi nghe diễn thuyết... Văn sĩ... Giá vé một cắc, có một cắc thôi mà... Xin mời..."
Tôi không thể hình dung lại được cái quang cảnh cuộc diễn thuyết lấy tiền có một không hai này ra thế nào. Cả đến hôm ấy Vũ Trọng Can nói những gì, cũng không nhớ. Nhưng tôi lại nhớ như nguyên vẻ lộn xộn từ hăng hái đến rầu rĩ của luôn mấy hôm. Chúng tôi chia ra, người đứng cửa bán vé, người soát vé, người mời khách vào. Diễn giả ra đứng ngay trước cửa, tóc chải bi-ăng-tin uốn lượn, thắt chiếc cà-vạt màu hoàng yến. Từ ngày Vũ Trọng Can có cái truyện Màu hoàng yến đăng báo, anh hay đeo cà-vạt màu hoàng yến, mỗi lần lại phải đi mượn, mà cũng cứ cầu kỳ khó nhọc thế.
Diễn thuyết bán vé, kể cũng thật lạ và hình như chẳng mấy người, bước vào. Ở nách rạp Thành Xương có cái trường nữ học, Nhật đã đóng, có lính nguỵ Ấn gác cổng mà người ta gọi là lính oẳn Bô(1). Hai người lêu đều mặt bồ hóng, đầu quấn khăn thừng, tay cầm chiếc côn gỗ, thơ thẩn nhìn người qua lại. Người đi chợ, người đi đường tò mò xúm xem mấy "anh chín" quấn thừng có phần đông hơn người vào rạp. Chốc chốc, hai cái đầu xe lửa kéo lũ toa ngược xuôi chạy rầm rầm ngoài kia.
Tôi chỉ nhớ bằng cái cảm tưởng nhộn nhạo buồn bã như thế. Không nhớ được hôm ấy đông hay vắng, vé còn ế một xấp hay mấy xấp. Nhưng không bao giờ có buổi diễn thuyết thứ hai, thứ ba mà chúng tôi cũng phải đăng đàn như Vũ Trọng Can đã doạ. Chỉ một buổi ấy thôi, một buổi ấy thôi. Đấy cũng là một điều quả nhiên không vui vẻ như ý rồi.
Chỉ đi ăn vài bữa cơm thố, bấy giờ cơm thố còn là loại cơm mạt hạng rẻ nhất như cơm đĩa bây giờ, lại đã hết tiền. Ngày ấy, cạn túi lắm mới phải đi quán cơm thố của mấy chú chiệc Chợ Cũ. Cơm thố chưa cầu kỳ lắm món. Có một xu cơm ca la thầu với nửa xu canh cải cúc - như hàng cơm đầu ghế ở các cổng chợ ngoài Hà Nội.
Thế rồi chúng tôi lại chia tay. May mà cũng êm ả, không có xô xát, cũng không cãi cọ to tiếng cấu xé nhau, đánh nhau như thường cái cảnh bè bạn mỗi người mỗi ngả khi đương cơn túng bấn.
Vũ Trọng Can và tôi lại trở ra Hà Nội.
Nguyễn Bính trôi nổi trong ấy cho tới 1945 rồi đi kháng chiến.
Năm 1976, tôi trở lại Sài Gòn. Năm ấy anh Nguyễn Văn Tập còn sống, anh vẫn nghèo, làm ăn nhì nhằng như ngày trước. Tình cờ, tôi đi nhậu với Nguyễn Quang Sáng và Đoàn Minh Tuấn. Gặp anh trong cái quán thịt chó gần chợ Đũi mỗi tuần chỉ bán có ba buổi ở hẻm đường xe lửa của một bà già người Bắc xưa kia làm ả đào, anh Tập ngồi ăn một mình, cái ô đen dựng cạnh bàn, anh móm hết răng, chỉ còn nhai bằng lợi được món ăn dựa mận quá lửa. Tôi hỏi vui về cái ngày anh in vé giúp cho Vũ Trọng Can diễn thuyết tang thương ấy. Cũng là bên chén rượu, hoài cổ chơi thôi.
Anh lắc đầu, anh nói anh chẳng nhớ. Có lẽ anh vẫn nhớ - trí nhớ người ta khi trẻ thường nhớ dai, nhưng dường như anh không muốn nhớ; chẳng còn hào hứng nói lại nữa. Cũng như những chuyện bông lông chìm nổi như trên về Nguyễn Bính có thể kể hết đêm, trời sáng rồi trời lại tối, câu chuyện lại bắt đầu, những thương đau của đời người trong xã hội ấy bao giờ cạn được.
Chỉ biết cái thời ấy nó thế. Muốn có miếng cơm tử tế mà không được, muốn yên thân cũng không thể yên. Chứ đâu phải bệnh giang hồ - đấy là những lời đẹp tự trang trí hoa mỹ mà thôi. Chúng tôi chưa ai nghĩ có khi nào có thể có một cái xe đạp. Ôi chao?
***
Tất cả những điều ấy sống trong mộng mị và đã thành thơ. Từ cuộc đời phũ phàng đến thế, từ những ước ao thực như thế, đã thành thơ. Đấy cũng là tâm sự, là mộng của vô vẫn người trong xã hội lúc ấy. Điều đó nói được tại sao thơ Nguyễn Bính nhiều người đọc, nhiều người thuộc. Bạn đọc và người thơ đã gặp nhau, hai người cùng sống trong thơ, cái làng Thiện Vịnh trong thơ Nguyễn Bính cũng chỉ là một bóng mơ. Làng Thiện Vịnh thật có giữa vùng chiêm khê, mùa thối đất Nam Định, đâu đâu cũng xơ xác, nước trắng đồng, gió lùa sóng đồng cồn lên, quằn lại, lặt thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết đuối. Mỗi năm, mỗi mùa, biết bao người đã bỏ làng đi tha phương. Nhà thơ bó gối nhìn vào trong đêm. Chỉ nghĩ lại cũng đã se lòng. Nhà thơ tưởng tượng, trên những khổ cực ấy, phấp phới những lứa tuổi đương tơ, hoa cải vàng tháng chạp, mưa dây mưa dợ, trang rằm sáng như ban ngày và những đêm chèo hát...
Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ, đâu là cái hoa hoè hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tháng như chẳng liên quan gì đến những bài thơ quê đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại rõ ra ý nghĩa sâu thẳm của mỗi câu thơ với quê hương. Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỷ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình tuyệt vời của Nguyễn Bính.
Những lịch lãm, những trải biết con người tất bật giữa cuộc sống bon chen cùng với những lặn lội từ tấm bé đã làm cho Nguyễn Bính thành con người như mọi con người, con người của làng xóm cả đời trong luỹ tre, nằm mơ có quyển sách ước gối đầu mà những điều to tát nhất cũng chỉ là ba gian nữa lá, giàn đỗ ván, cái chuôm, tháng chạp chuôm cạn nước thì cấy cần. Mộng đẹp nho nhỏ ấy cũng chưa bao giờ có được cho riêng mình.
Thì trong thơ có cả.
Nguyễn Bính chẳng khác một người tài kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về mọi cái quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý. Ở mỗi làng quê, thường thấy những bác thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngoã, bà hàng nước nụ vối, nước chè tươi, hầu như vùng nào cũng có những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, pha trò kể chuyện khéo đến đỗi “con kiến trong lỗ cũng phải bò ra", ai cũng thích nghe, ví như cuốn truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối, Nguyễn Bính là một người tương tự. Cái thần của sáng tạo chính là cũng ở một người ấy, việc ấy, cảnh ấy, ngòi bút đã tìm ra những dáng vẻ riêng biệt, trong khi ta trễ nải nhác qua, chẳng thấy khơi gợi được điều gì mới mẻ khác lạ.
Con người Nguyễn Bính trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám, quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như “ông từ vào đền”, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như vừa lướt mướt từ đồng sâu mà lên, dẫu cho anh đương mũ áo chững chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính.
Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình. Ở Nguyễn Bính, tình quê là hình bóng đất nước, những nơi anh đã đặt chân với vô vẫn kỷ niệm và quê anh cũng là vùng chiêm trũng mênh mông Phú Xuyên, Bình Lục, Ý Yên, Vụ Bản - cái rốn nước đồng bằng sông Hồng, ở đấy, nhà thơ thân thương của chúng ta đã lênh đênh thân con cò, con diệc đồng sâu.
Sức mạnh sáng tạo của Nguyễn Bính cũng từ nơi đồng đất trắng trời, trắng nước này. Làng Thiện Vịnh, làng quê chôn rau cắt rốn của anh, cái làng đồng trũng mà chắc đến mùa nước thì con đường, con đê lên huyện kia chỉ còn là một sợi chỉ mỏng manh bên làn nước giữa gò đất, bờ bụi, tre pheo. Sao mà cái lần tôi về Thiện Vịnh hôm ấy lắm gió thế, gió trên đồng đêm ngày giật lên, gào lên từng cơn. Làng nước xám ngắt, quang cảnh tiêu điêu lam lũ, ám đạm, nheo nhóc.
Thế mà:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

Tầm vóc thật, tầm vóc mỗi câu thơ Nguyền Bính.
Trong cuộc sống triền miên đồng trắng nước trong cả đời người ta vẫn đợi chờ mong ngóng những rộn ràng óng á của một Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ. Tinh thần và triết lý ấy, nhìn suốt đáy thơ Nguyễn Bính - thấy được từ mỗi ước vọng hàng ngày của người ta. Tài năng và sức mạnh sáng tạo của nhà thơ là một với cội nguồn thơ. Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại. Mùa này mất trắng lại mong cho đến mùa sau được thấy mặt hạt thóc. Cái củi rều trôi qua ngoài sông, không vớt được, cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ ôm mặt, than thở: "Giá như ngày ấy tôi theo cái người dưới Đông thì chẳng đến nỗi nào, khổ cái thân tôi...". Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã sinh ra từ những chuyện như thế. Người ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước ao, ở giữa làng mà tưởng như quê mình tận đâu đâu kia.
Được như thế mới là Nguyễn Bính. Thơ và cuộc đời, những con người và cuộc đời. Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé. Vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ, tài năng thơ bẩm sinh. Cho đến khi thành những bài thơ đầu tiên, những bài thơ hay nhất của. Nguyễn Bính.
Thật rõ ở Nguyễn Bính, năng khiếu trong thơ được khơi từ cuộc sống chân thực, lý trí và bản năng nhà thơ hoà một tấm lòng, khi ấy thơ Nguyễn Bính tuyệt trần.
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...

Nguyễn Bính kể những câu thơ anh viết ở Thái Nguyên. Cũng chẳng ai chờ đợi, chẳng có đò có bến, chỉ là tưởng tượng ra sự chờ đợi cho được có nỗi nhớ nào viết chuyến này rồi bồng bềnh đi đâu. Tình cảnh tang thương của một lớp người. Chuyến lang bạt kỳ hồ ấy cũng không khác mọi cuộc đi kiếm ăn. Nguyễn Bính có người anh em lên vỡ đất làm ruộng trên Thái Nguyên. Thuở ấy, lên đến vùng chè Đồng Hỷ, Tân Cương đã là vào đất đồng rừng xa xôi và người đồng chiêm tìm lên đường ngược vào ở đồi như thế, làng nước xót xa cho con người phải bỏ làng đi quê người.
Thế mà lại còn phải đi theo những người tha phương, xem may ra kiếm được việc, có tìm được chỗ ngồi bảo học kiếm cái ăn. Nhưng mà cũng lỡ, lại đi.
Bỏ đất quê, lại nhớ đất quê, đi đâu cũng lẽo đẽo, thui thủi một nỗi buồn. Những cái gì không tới được thì nhớ. Những ước vọng thiết tha và xót xa ấy gắn bó trong tâm hồn người làm thơ.
Nguyễn Bính làm thơ thật nhiều. Và sinh sống bằng thơ. Dẫu gặp mọi khốn khó, phải long đong chạy vạy, nhưng Nguyễn Bính vẫn lần hồi có cái ăn do tiền bán thơ, chứ không chỉ nhờ bạn bè hoặc phải lấy tay khác nuôi thơ, trong khi nghề viết thời ấy chưa hề được coi như một công việc ngay ngắn, mực thước.
Tinh hoa của tài năng con người nảy nở vào một khi sức lực nhất - có thể chỉ nổi lên ở một bài thơ, thậm chí ở một câu thơ. Một văn tài lỗi lạc đến mấy cũng không thể cả đời lúc nào quanh mình cũng lung linh hào quang những sáng tạo tầm cỡ. Sức mạnh sáng tác cũng ví như sức khoẻ con người, không phải và không thể lúc nào cũng sung sức nhất được.
Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ với những mảnh đất quê. Trong đời thơ của anh, đáng lẽ đến hết thời kỳ hồn nhiên năng khiếu phải được nâng cao hơn nữa - như bây giờ ta nhận xét hoặc nói cách khác, sự rèn luyện tâm hồn và ngòi bút phải được, cái tài trời phú lên hơn, mới bồi đắp được độ, bền và sức sống của sáng tạo. Nguyễn Bính không tới dược cơ hội ấy. Dù trong kháng chiến và cho đến bài thơ cuối cùng, Nguyễn Bính vẫn thường viết về quê hương, nhưng tinh hoa chỉ có một thời, và thời ấy đã qua rồi.
Nhưng thôi, chẳng nên nhận xét thơ và công việc làm thơ của Nguyễn Bính với con mắt sắp đặt trong sự việc hôm nay. Tìm ra cái tinh hoa của Nguyễn Bính, hãy trở lại cuộc sống và thơ từ ngày ấy.
Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới sự toàn bích. Rồi Nguyễn Bính bôn ba đây đó Hà Nội và Sài Gòn, rồi cuộc sống tự nhiên thế nào, mà Nguyễn Bính trải biết đều phản ánh trong thơ anh.
Nguyễn Bính không cắt nghĩa được số phận đời người và đời mình ở những nơi đó. Nguyễn Bính cũng không bao giờ biết như thế, không bao giờ biết mình đã phí hoài những chân chất tình quê, thơ anh lạc vào những "bụi kinh thành", "vua nước Bướm" "hồn trinh", "mây Tần", "đốt đường sạn đạo”. Anh ngỡ đấy là thiết tha, nhưng thật ra, lại là hời hợt. Ở Nguyễn Bính, mỗi khi thơ sa vào câu chữ sẵn lại chính ở những bài thơ tình yêu "một nghìn cửa sổ, "mười hai bến nước", những bài thơ "bụi bậm kinh thành". Tôi nhớ lại. Ở quãng phố gần vườn hoa Cửa Nam, lần đầu tiên gặp anh với chiếc hộp bích quy đựng thơ và những bức thư tình. Bao nhiêu cuộc tình tưởng não nùng tê tái kia chẳng qua chỉ là hờ hững và nó đã đẩy thơ anh ngoi ngóp vào những đau thương hình thức mà thòi.
Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà thơ tình quê, chân quê, hồn quê.
***
Thơ Nguyễn Bính, một trường thơ. Một khoanh tre trong luỹ tre làng thơ. Có thể dễ dàng nhận thấy hiện tượng ấy ở thơ của anh và bè bạn anh trước cách mạng và thơ Nguyễn Bính trên sách báo những ngày đầu kháng chiến tại các chiến khu Nam Bộ.
Đấy cũng là thực tế phong trào thơ mới phát triển đa dạng trước và sau những năm 1940. Thơ Việt Nam ở thời kỳ này hoàn toàn đổi mới. Các nhà thơ mới đã nhanh chóng chiếm được trận địa thơ với sự chấp nhận, cổ vũ và tin yêu của mọi người đọc thơ. Không phải bằng chiến công những cuộc tranh cãi, mà bằng sự ra đời những bài thơ dân tộc. Nghiễm nhiên, tức khắc "thơ mới" bay vào quỹ đạo thơ, thơ Việt Nam.
Thơ Nguyễn Bính là một nhành hoa trong trào lưu cách tân thơ. Và cùng với Nguyễn Bính, xuất hiện một trường thơ, một phái thơ.
Còn nhớ, vào mùa sen, có khi cả phiên chợ Mơ, chúng tôi về ở trong cái lều canh sen trên hồ Linh Đường, phía nam thành phố. Chúng tôi đọc thơ rồi cãi nhau về thơ. Chúng tôi chế giễu cuộc thi thơ bát cú có đầu đề và hoạ vần "Nghìn năm văn vật đất Thăng Long” mà rải rác còn có báo đăng, như những bài thơ chết đuối. Chúng tôi công kích những bài thơ son phấn màu mè cầu kỳ một câu cộc lốc và những bài bắt chước "mười hai chân" Tây của Nguyễn Vỹ.
Bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính không phải chỉ là đôi lời than thở của anh ả gặp chị ả nào đó. Chan quê đã tuyên bố quan điểm của phái thơ này trong trào lưu thơ đương rầm rộ:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

Tôi đã được thấy như thế ở thơ và hành động trong đời làm thơ của Thâm Tâm, của Trần Huyền Trân, các bạn thơ Nguyễn Bính. "Đưa người ta không đưa qua sông”... và "Nhớ nhau vảy bút làm mưa gió"... Những áng thơ phảng phất "thét roi cầu Vị" kỳ thực mang trong lòng hình ảnh tâm sự của người, cầm bút thời đại, giữa khi cả đất nước và dân tộc đương chuyển biến.
Ở trường thơ ấy, mỗi người thể hiện một phong cách. Thâm Tâm và Huyền Trân sừng sững và cũng cô đơn như gốc đa, con đò một mình. Nhưng Nguyễn Bính in đậm ảnh hưởng vào thơ của các bạn bè, vang vọng dư âm trong lòng một lớp độc giả rộng rãi.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đi vào kháng chiến ở Nam Bộ. Bởi đấy là triển vọng của những điều mơ ước về quê hương.
Chú thích:

(1) Sanda Bô, bù nhìn Ấn Độ theo phát xít Nhật

5. Nguyên Hồng


Tôi muốn giới thiệu với bạn đọc về nhà văn Nguyên Hồng, mà không biết nên bắt đầu từ đâu.
Ở sách giáo khoa, từ trung học đến đại học, học sinh các lứa tuổi đã học những đoạn trích giảng của Nguyên Hồng. Có những ai lơ đễnh, ít chú ý đến văn học, nhất định cũng đã học văn và biết lý lịch Nguyên Hồng.
Tôi bạn với Nguyên Hồng, mấy chục năm đã qua.
Nhiều khi, đối với người thân, lại không hay chú ý nhau như thế nào. Cũng như lắm khi hay đến nhà, đến luôn, lai nhãng không để ý số nhà.
Có điều, có thể nói ngay là, nếu như những năm trước, nhiều lớp bạn đọc khác nhau của Nguyên Hồng, ai đã tình cờ gặp nhà văn - dẫu cho bạn có thói quen nhận xét tinh tế đến thế nào, cũng không thể ngờ ngợ một chút - một chút thôi, người vừa gặp ấy lại là một nhà văn. Không thể có một nét, một nét để ta bám lấy làm cớ cho nhận xét của ta, dù chỉ một nhận xét thoáng qua. Bởi ít ra, trong tưởng tượng mơ màng và sáng trong của bạn đọc, nhà văn ấy nhiều từng trải, khi còn ít tuổi đã viết hồi ký Những ngày thơ ấu hay cực, nhà văn ấy đã lặn lội xông pha khắp nơi, ở mặt trận và trong hầm lò. Và bất kể người như thế nào, trước trang bán thảo, theo cách nghĩ của bạn đọc, hình ảnh nhà văn phải liên quan đến bóng dáng bút mực, trang giấy, tập sách, với nét mặt hằn những ưu tư, vừa đăm chiêu lại vừa thơ mộng, vân vân...
Đừng ai đợi như thế ở Nguyên Hồng.
Tưởng tượng như thế, không bao giờ trông thấy Nguyên Hồng.
Lần ấy, trong kháng chiến chống Pháp, ở một hàng cơm dọc đường, quãng Ba Giăng gần tới Đại Từ, đường đi thị xã Thái Nguyễn trên Việt Bắc. Sáng ra, theo thói quen của phố kháng chiến, vách nữa, mái nữa ghép dựa nhau, lèo tèo, vừa bảnh mắt, nhà nào cũng đã dọn đồ đạc giấu vào bụi cây, bờ rào và khách trọ thì sắm nắm đi sớm. Để tránh máy bay.
Thế mà trong góc cái giường giát nữa lạch cạch ở gian trong vẫn còn có một khách trọ nằm co quắp, run rẩy, rên rỉ. Khốn khổ, người đi đường ấy đương lên cơn bệnh sốt rét.
Một người khách khác cũng nghỉ đêm ở nhà hàng đang soạn ba lô, sắp bước ra cửa. Bỗng ngừng lại nhìn sang giường có tiếng rên trong bóng tối âm xâm.
- Anh làm sao thế? Sốt ngã nước à?
- Hừ... hừ...
- Tiêm nhé. Ki-lô-phoóc(1) mạnh đấy. Nhưng mà dậy đi được ngay.
Người khách sốt sắng nọ hối nhà hàng lấy nồi đun nước luộc kim. Rồi trèo vào chỗ người ốm nằm, tiêm luôn.
Cái người tốt bụng ấy là nhà văn Nguyên Hồng.
Chúng tôi đã thuộc tính Nguyên Hồng, cạnh chiếc ba-lô con cóc trên lưng, trong cặp đúp(2) da bò nâu xỉn giữ gìn từ ngày trước cách mạng vẫn được tha đi bất cứ đâu, Nguyên Hồng xếp chồng bản thảo, lại còn lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm, nhiều thứ thuốc tiêm, thuốc uống, thứ cho không, thứ bán, phân minh, ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh và bảo người ta phải để mình tiêm. Như một thày thuốc, một y tá thực thụ.
Như thế, nhà văn đi đường lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn đã bạc cả hai vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác chút nào với màu sắc, dáng nét những người đi chợ, người nghỉ quán hàng, người trên đường.
Nguyên Hồng chen vai giữa mọi người, như mọi người. Nét mặt lúc nào cũng đăm đăm - không phải khó đăm đăm, mà đăm đăm chăm chú, dường như ít khi rỗi rãi, cả lúc đương đi. Người nhanh nhảu trò chuyện hay có ý kiến với xung quanh. Cái bà này mắt để đâu, sao mà quang gánh nghênh ngang, sắp đâm vào người ta kia kìa. Nguyên Hồng giơ tay gạt gạt: đi cho ra hàng ra lối chứ. Một người xách bu vịt vào chợ. Vịt của nhà à, đúng rồi, vịt của nhà mới béo nần nẫn ra như thế chứ. Đám gì mà quần lại như ở sân chọi gà như kia. Sao? Trẻ con đánh nhau. Này các con ơi (các cháu ơi), quá tay mà rách áo rách quần thì rầy rà đấy. Thôi mỗi đứa nhịn nhau một tý.
Chúng tôi ngồi nhìn cửa sổ trên gác xuống đường Hàng Bài. Bỗng chốc, nhà thơ Thế Lữ đội mũ phớt, lững thững qua dưới bờ hè. Nguyên Hồng gọi to: "Thế Lữ! Thế Lữ". Rồi chạy sầm sầm ngay xuống, tay bắt mặt mừng chào anh Thế Lữ, vồ vập như lâu lắm mới gặp:
- Tôi nhớ suốt đời Tiếng sáo Thiên Thai, từ ngày xưa ở Hải Phòng kia.
Rồi cứ nắm tay ông Thế Lữ, Nguyên Hồng cất tiếng sang sảng đọc to một mạch bài thơ Tiếng sáo Thiên Thai, trong khi người đi trên hè phố và cả lũ trẻ con dần dần xúm lại quanh hai người.
Đã nhiều lần chúng tôi lên nhà anh ở Nhã Nam.
Một quả đồi cạnh chân rừng vùng Yên Thế. Đấy là nơi tản cư khi kháng chiến, ở cùng chỗ với gia đình các nhà văn Ngô Tất Tố, Kim Lân, hoạ sĩ Trần Văn Cẩn và Tạ Thúc Bình... Đến khi hoà bình, mọi nhà về xuôi, Nguyên Hồng cũng dọn về Hà Nội ít lâu rồi bầu đoàn thê tử lại lên, thế là một mình nhà Nguyên Hồng ở đấy, thành quê.
Tôi xin nói về nơi làm việc và cung cách làm việc của nhà văn. Đấy là gian nhà ngang vách đất cạnh bếp trống hốc. Đứng ngoài giọt gianh trông xuống chân đồi, thấy mặt ruộng liền vào đến viền rừng xanh sẫm.
Nguyên Hồng thường ngồi yên hàng giờ, lơ đãng nhìn thăm thẳm. Bàn làm việc là chiếc chõng tre, chập tối lại bê ra đầu hè, nhà văn và các con nhỏ nằm chơi xem sao, tìm con vịt bơi trên sông Ngân Hà.
Mảnh chiếu trải xuống mặt đất thay ghế ngồi. Lúc nào mỏi, ngả lưng luôn xuống chiếu. Nguyên Hồng ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Mánh ván gỗ che mặt chõng lổn nhổn những trang giấy học trò có kẻ xanh.
Và lọ mực tím, cái bút quản gỗ. Thứ giấy ấy, mực ấy có lẽ Nguyên Hồng đã dùng quen từ thời xa xưa Những ngày thơ ấu đến bây giờ. Cứ thế, ngoẹo người, trễ kính, hí hoát viết một thôi một hồi. Đôi lúc, đứng dậy, ra cái sân trước mặt, khua khoắng chân tay máy động tác thể dục. Có khi lấy chiếc thùng, xăm xăm xuống cái giếng chân đồi, xách lên mấy thùng nước giúp chị ấy chốc nữa thổi cơm.
Không phải Nguyên Hồng chỉ mới quen giản dị ở cái khi ai cũng ba lô trên lưng, thời kháng chiến. Từ trước năm 1945, hồi vợ chồng Nguyên Hồng thuê nhà dưới bãi Phúc Xá, đã thế. Ở Hà Nội mà chui rúc ngoài bãi trong mành mành cửa, kê vừa một cái giường, còn hòm xiềng, nồi niêu và mấy cái hoả lò, mấy bó củi nhét cả dưới gầm. Đến bữa, chị ấy lôi các thứ ra nhóm bếp, Nguyên Hồng ngồi trên giường - ngồi xếp băng từ ngày ấy, hai đầu gối vểnh lên, và viết. Đọc Nguyên Hồng, bạn đọc hắn đã được biết chiếc phản mọt cạnh vại nước trong gian nhà ọp ẹp với một thanh niên mê mải cắm cúi ngồi viết, từ thuở ông kể mình đã viết Những ngày thơ ấu như thế nào.
Khi người viết say mê đưa xuống ngòi bút những điều mình ấp ủ, không hề biết đến xung quanh nữa, miễn sao có mực, có bút và chỗ kê được trang giấy lên.
Nghề nghiệp nhà văn bề bộn giữa mọi người, mọi nghề trong xã hội. Nỗi lo suốt đời của Nguyên Hồng là những tập bản thảo.
Hầu như những thú vui, cả những khó nhọc, khi có tiền cũng như xưa kia đói khó, miếng cơm manh áo, tâm hồn và tất cá, chí tận tuỵ gắn bó với những công việc sáng tác.
Những năm gần đây. Nguyên Hồng đã có tuổi, thỉnh thoảng lại khoanh tay đấm lưng thùm thụp.
Nguyên Hồng chữa đau lưng bằng rượu ngâm vỏ quít và cách đấm lưng như thế. Một người hay tiêm hộ cho người ta, tiêm cả lúc đi trên xe hoả, mà không lấy y bạ, chẳng hề biết đến cửa bệnh viện. Thế nhưng, vẫn cọc cạch cái xe đạp thiếu nhi Liên Xô không phanh, màu xanh rợ thủng thỉnh Hà Nội - Nhã Nam. Ấy là nói chuyện gần đây đấy.
Nguyên Hồng thường kể cách thức mình đi xe đạp từ Hà Nội lên. Không phải than thở, cũng không hẳn thích thú, nói vui bình thường thôi. Ngày trước đi một mạch không biết cả đêm tối, lúc nào về đến nhà cũng thế. Bây giờ không "hái hăng” thế được - tiếng nói rỡn của Nguyên Hồng. Phải chia ra từng trạm. Nhà trọ ngả lưng, trạm số một ở dốc Vân. Cơm nước nhà hàng này khá. Vả lại đi lâu năm, hàng cơm đã quen khách. Đến Bắc Giang, có nhà thằng con công tác ở đấy. Từ thị xã lên, còn trạm nữa, trạm nữa, cung đường dài, cung đường ngắn, tuỳ sức chân đạp và mình phải tính. Đấy, đấy... Cái xe đạp con con, lúc ở Nhã Nam xuống, thồ nào lạc, nào rượu ngâm vỏ quít, khi lên cũng trăm thứ bà rằn. Ghé vào cửa hàng quốc tế phố Hàng Trống mua đôi chiếu. Xách ra, buộc dọc vào khung xe, lại lạch xạch thồ lên Nhã Nam. Lúc đạp, lúc dắt, vẫn vậy.
Đối với Nguyên Hồng, quần lành áo tốt hay áo quần lôi thôi, đều chỉ như vậy. Năm ấy, tình cờ gặp nhau, có cả Nguyễn Tuân, ở khách sạn Bắc Kinh trung tâm Mát-xơ-va. Chúng tôi chén một bữa linh đình, mời cả bạn nhà văn Liên Xô. Mừng thọ nhà văn Nguyễn Hồng sáu mươi tuổi. Nguyên Hồng, đôi giày mới chững chạc, thắt cà-vạt cẩn thận. Nhưng, làm sao mà vẫn thấy trong cái bề ngoài tươm tất ấy, con người tất bật, luộm thuộm như mọi khi, ở chợ Bắc Qua, ở dọc đường lên Nhã Nam.
Nhà văn Pháp Pier Abraham (1892-1974) chủ nhiệm tạp chí Châu Âu đến Hà Nội, tiếp Nguyên Hồng ở khách sạn Thống Nhất. P. Abraham đã viết trong ký sự thăm Việt Nam về buổi gặp gỡ đó trên tạp chí Châu Âu "Như từ bờ bãi sông Hồng đỏ rực gió cuốn đến đây, nhà văn lớn này là người của đất, thật là người của đất”.
Lại kể chuyện đùa về Nguyên Hồng. Như thế, mới hợp với anh ấy. Tính riêng tôi vốn ưa thầm lặng, vùi mình vào một xó. Lắm khi, đột ngột, Nguyên Hồng can thiệp ồn ào vui vẻ với xung quanh, mà mình cứ ngượng sững người. Cả những khi thong thả đi chơi cũng vậy. Chúng tôi hay uống bia ở một quán bia hơi gần phố Huế. Những năm ấy, các hàng bia chưa có cốc vại, người Hà Nội mới quen với cốc bia pha nước ngọt si-rô. Khách biết uống, chúng tôi đã thân ngay với nhà hàng. Mỗi lần xe bia về, người xích-lô đẩy những thùng bia xuống đường. Cứ tự nhiên, Nguyên Hồng ra ghé vai vác thùng bia vào. Bà hàng bia béo phục phích, cũng cứ tự nhiên đứng nhìn, không cười không cảm ơn ông khách tốt bụng. Nguyên Hồng hì hục vác cả bốn thùng, lại còn cẩn thận kê một thùng lên bậc cửa, đặt vào chỗ cho bà ấy mở chốt rót cốc bia đầu tiên, chẳng bao lâu, mọi lần xe bia đến, thấy chúng tôi, người xích-lô đã quen mặt, lại gọi to:
- Ông khách ra đỡ một tay nào!
Thế là Nguyên Hồng lại ra tận xe khiêng thùng bia, người xích-lô khói đạp thùng lăn xuống hè. Sau đó, người xích-lô và chúng tôi uống những cốc bia mới nhất vừa rót trong thùng ra. sáng khoái.
Bà hàng bia người đẫy đà ở cái phố khuất nẻo nọ không bao giờ biết bạn tôi là ông nhà văn. Cũng như năm trước, người đi đường được tiêm phát thuốc sốt rét và cũng nhiều người khác nữa, đâu biết cái ông dễ tính ấy là ai. Bà hàng nghĩ đấy cũng là bác xích-lô, bác xã viên hợp tác xã nghề mộc: nghề đan lát ở quanh đấy ra uống bia và cũng có ý bờm xơm bà và bà đã lợi dụng sự phải lòng đôi chút quá mùa ấy. Có lẽ Nguyên Hồng cũng nghĩ về mình chẳng khác bà hàng bia.
Nghề văn một nghề lương thiện như mọi nghề trong xã hội, có gì mà phải khoe với ai.
Nhất nghệ tinh... Đã gọi là nghề cơ mà. Sự quý trọng: công phu trau dồi, rèn luyện của Nguyên Hồng đối với nghề, những cái đó mới là điều đáng quan tâm cả đời. Nguyên Hồng giữ gìn từng trang bản thảo. Cẩn thận đến độ đi đâu cũng ôm đồm vác theo. Không yên tâm để chỗ nào. Sợ lạc, sợ mất, Nhà văn quá lo lắng về bản thảo còn hay tưởng ra những việc oái oăm bi đát nhất, không dễ gì xảy ra: để ở đấy, ngộ nhà nó cháy thì sao. Thôi, chịu khó đem theo. Cẩn tắc vô ấy náy...
Nghề văn cũng là trăm nghề lao lực, lao tâm như mọi nghề. Những bản thảo, sự sáng tạo, cái dáng ngồi nghiêng nghiêng vất vả, thật quan trong, thật nghiêm.
Cống hiến của tác phẩm Nguyên Hồng vào kho tàng văn học Việt Nam thế nào, nhà phê bình cực kỳ vô tư là thời gian đã lên tiếng và sẽ đánh giá. Nhưng tôi nghĩ thái độ, cách sống hàng ngày về nghề nghiệp, cho nghề nghiệp của Nguyên Hồng thật tỏ rõ trách nhiệm với ngòi bút.
Làm sao mà quên được chợ Bắc Qua những năm ấy.
Chúng tôi đi chợ Bắc Qua đã bao nhiêu lần, nhưng khi nào nhớ lại cũng nhớ những đêm chợ vào mùa đông thời chống Mỹ. Người ta đi suốt đêm, chợ và phố xá suốt đêm, có lẽ đấy chỉ là tưởng tượng và còn lẫn lộn theo kỷ niệm. Mỗi khi Nguyên Hồng về Hà Nội, thế nào chúng tôi cũng đi Bắc Qua.
Bấy giờ lại đương độ máy bay Mỹ đánh phá vào Hà Nội. Suốt ngày, trời thành phố rả rích còi báo động.
Loa, đài báo "máy bay địch cách hai mươi, ba mươi ki-lô-mét... mười ki-lô-mét! rồi máy bay địch đã bay xa..." Hồi ấy, tôi cũng đương làm công tác khu phố. Đêm thường cùng ban bảo vệ đi tuần. Nguyên Hồng thích đi với tôi, đòi đeo băng đỏ cẩn thận. Chúng tôi la cà ra cửa ga - ga Hàng Cỏ thức suốt sáng. Làm cốc bia hơi mậu dịch rồi kéo bộ thẳng lên chợ Bắc Qua vào nửa đêm.
Chợ Bắc Qua đêm đông hơn cả ngày, nhất là từ quãng một hai giờ sáng đổ ra. Người các miền giáp ranh Bắc Ninh - Bắc Giang về chợ kìn kìn gồng gánh suốt đêm sang sông.
Nói theo tiếng chợ búa, chợ Bắc Qua, cái chợ đổi vai: Mọi vùng bên sông phía bắc thành phố, từ thật xa trên Cao Thượng, ở Quế võ bên kia bến Hồ, người buôn, người trồng tỉa đưa xuống thành phố mọi thứ rau quả, mùa nào thức ấy. Xe ba gác cải tiến và người gánh nào cà-rốt, su-hào, nào cải bắp, cái bẹ, cải Lạng Sơn, hoa lơ. Những bó hành hoa, củ trắng nõn xếp chật cả hai bên thùng sau xe đạp.
Những xe đạp thồ gà, chim câu, chim sẻ. Áp tháng chạp dương lịch, tiếng gà tây kéc kéc kéc kéc loạn gầm cầu Long Biên. Vùng bến Hồ có nhiều hợp tác và nhiều nhà mới biết nuôi gà tây. Gà tây bên Bắc được thồ về, nhà Hoả Lò ra mua làm cỗ lễ Nô-en cho tù binh giặc lái Mỹ - phong tục nước Mỹ, tết năm mới nửa đêm nhà nào cũng chén thịt gà tây. Thế là chợ Bắc Qua mỗi cuối năm lại nảy nòi ra mặt hàng mới. Và hầu khắp các chợ nội với các hàng bán rong phố từ trong cầu Giấy lên Bưởi xuống Ô cầu Dền đều ra chợ Bắc Qua đợi mua rau cỏ bên Bắc sang. Đổi vai đòn gánh bán cất bán mớ ở chợ ấy người ta quẩy vào các chợ trong, chợ đông vui suốt đêm, khắp các ngả. Đèn đường loáng thoáng và mỗi xó một đốm đèn con le lói, như hội làng ngày trước. Lúc còi báo động, chẳng còn một ánh lửa. Trong bóng tối, tiếng rào rào râm ran. Chúng tôi len vào, kẻ mua người bán xúm xít quanh các hàng cơm bát, gánh cháo lòng tiết canh, thịt chó, thúng bánh cuốn và miến dong riềng. Hàng nào cũng sắp sẵn đôi quang, có báo động một cái, gọn ghẽ ngay.
Những lúc ấy mắt Nguyên Hồng ánh lên, gò má bóng nhẵn chòm râu hất ra như người ốp đồng lắp bắp sắp nói. Những đêm vui, đầm ấm, thú vị của Nguyên Hồng ở chợ. Quang cảnh ăn uống, lẫn lộn quanh gánh với người nằm ngủ úp nón lên mặt, người đương bơm xe sắp sang cầu, một cái bu sắt nhốt chó với cả những thồ hành hoa vừa tới. Tiếng à ầm ầm không ngớt líu tíu bối rối mà lại như rẽ ràng, đâu ra đây, vẻ lộn xộn lẫn với nền nếp của cái chợ đêm lắm thức mua bán.
Nguyên Hồng ngồi ngất ngưởng, bắt chuyện với mọi người. Chốn hàng quán giữa chợ, ai cũng vui tính cả ồ, những người bán quán chợ Bắc Qua, chẳng ai buồn lưu tâm, chắc lại như cái bà bán bia dưới phố Huế, ứõc đoán già ra cũng chỉ ngỡ đấy là ông lão kỹ tính, theo con cháu xuống chợ. Đứa cháu mới đi thồ lần đầu, ông phải chịu khó đi theo bảo bạn chúng nó.
Ông lão ấy vào hàng ăn uống, vừa gắt với lũ cháu bướng bỉnh rồi lại cười xoà. Những ông lão trong làng ra chợ búa thành phố, nửa lấm cẩm, nửa cẩn thận, hay hỏi dớ dẩn như thế, ở chợ đêm Bắc Qua này chẳng thiếu.
Hồi ấy, Nguyên Hồng đã để râu. Bộ râu ria lưa thưa mà chúng tôi thường đùa: bộ râu già nua của ông không hợp với hai con mắt lúng liếng nhanh như chớp còn tống tình được của ông. Nguyên Hồng rung đùi, cười khơ khớ, nói: "Quái quỷ! Quái quỷ!". Chẳng hiểu tự cười mình hay thú vị vì câu nói đúng.
Vậy mà cả đến bộ râu hiếm hoi ấy cũng chẳng phải Nguyên Hồng cố ý điểm trang cho vẻ già của mình đâu. Nguyên Hồng để râu khoảng ngoài năm mươi. Nhưng nói Nguyên Hồng để râu, chữ nghĩa cùng sự việc chưa thật chính xác. Nguyên do là lắm khi Nguyên Hồng ở bên cả mấy tháng trên Nhã Nam, ngày đêm viết miệt mài. Mấy năm, xong cả bộ tiểu thuyết Cửa biển, vở kịch Thái hậu Dương Vân Nga, đôi khi cao hứng, làm bài thơ, hay viết cho thiếu nhi.
Ở nơi khuất nẻo, hết dao cạo râu. Hồi này, lưỡi dao cạo không dễ kiếm. Thế là mặc kệ, rồi đâm quen. Chỉ vậy thôi, thành "để râu”.
Những đêm chợ Bắc Qua, những đêm chợ Bắc Qua. Chẳng mấy chốc, ông nhà văn đã như hàng xay hàng xáo với mọi người từ bao giờ. Giá hành, cà chua ra sao. Đem được mấy chục gà tây xuống, ở nhà còn lứa nào không. Đợi tuyển quân trên ấy đã xong chưa, à ra thế.
Lại nói lỡm, lại đùa nhả, cấu véo, đẩy vai nhau.
Chuyện cứ nổ ngô rang. Ông bên cạnh vừa nói choang choác đã đắp mảnh ni-lông, gối đầu lên chiếc đòn gánh đặt ngang vành bánh sau xe đạp. Tiếng ngáy khò khò hoà tiếng rào rào không dứt của buổi chợ đêm đương đông.
Bỗng còi báo động trên đầu cầu Long Biên rú lên.
Đèn điện và các đốm đèn dầu lập loè, vụt tắt. Bóng Nguyên Hồng khom khom đứng lên.
Nguyên Hồng hét:
- Đâu ngồi đấy nhé, đâu cứ ngồi đấy nhé!
Hai tay Nguyên Hồng dang ra. Nhưng chẳng đợi có người quát lên như ra lệnh thế, cái chợ mới khỏi nhốn nháo. Chợ không vỡ đâu. Chợ đêm thời bom Mỹ có qui luật và nền nếp chợ thời chiến. Tiếng ồn vẫn tiếp tục đều đều mọi chỗ, nghe rõ cả tiếng cắt nem, tiếng kéo tanh tách của anh hàng đu đủ thịt bò khô và những lời lẽ ngã giá thúng cà chua. Đằng kia, bọn gà tây bị nhốt trong gầm cầu vẫn khục hục, khẹc khẹc rộn rã. Và, ngẩng đầu, trên mênh mông trời nhung thẫm, rét ngọt, long lanh những vì sao. Cái chợ không biết bóng tối và dường như không nghe tiếng còi báo động, nhưng đã ra một vé thích ứng tối mò mò.
Nguyên Hồng rất mê chợ. Chúng tôi cũng nghĩ giống nhau. Cái chợ giúp ta biết nhanh mà chính xác về sự thật tình hình trong vùng. Không phải chỉ những thứ đem ra chợ, mà chính trị, kinh tế, văn hoá, phong tục, đủ vẻ, đều có thể trông ra cái chợ mà luận ra.
Nguyên Hồng nói:
- Học đấy chứ đâu. Người ta nói bao nhiêu chữ cho mà học, mình biết cái mách gì. Cái bà hàng gọi lão nằm ngủ lúc còi báo động: trỗi, trỗi, đúng là người chợ Thắng. Trên ấy người ta nói: trỗi trỗi. Chứ không nói đầy đủ: trỗi dậy, trỗi dậy đâu nhé. Chữ nghĩa hình thức trong sách lại đâm ra thừa.
Từ những nhỏ nhặt bình thường trong ý ăn nhẽ ở hàng ngày, mọi lúc, đã hoà liền như dòng máu cùng trên cơ thể, với tư tường và nghệ thuật của ngòi bút.
Thực tế sâu sắc tự nhiên như đời sống con người đã góp phần tạo ra tâm hồn và phong cách sáng tác, một khi quan niệm được cốt cách một tác phẩm nhất thiết phải bắt nguồn từ mọi mặt của xã hội, từ tâm tư tình cảm cuộc sống con người, trong đó có người cầm bút.
Toàn bộ tác phẩm Nguyên Hồng, từ hồi ký Những ngày thơ ấu đến bộ tiểu thuyết lịch sử Núi rừng Yên Thế viết chưa xong, mỗi tình huống được sáng tạo, ở nhân vật nào, vấn đề nào, tinh thần nhân đạo của tư tưởng chủ thể thật đằm thắm, thật thiết tha từ bắt đầu như thế.
Một đời chuyên cần, yêu thương, mải mê...
Lại thấy ra bao nhiêu điêu muốn nói nữa về Nguyên Hồng. Ngỡ như chưa biết đặt bút từ đâu, từ ky niệm nào.
Thường thường đêm Nô-en chúng tôi hay đi chơi quanh hồ Hoàn Kiếm rồi vòng vào nhà thờ Hàng Trống. Cả đêm Nô-en 1972, trận Điện Biên Phủ đương ác liệt trên trời Hà Nội. Và đêm Nô-en năm trước, ở hiệu cao lâu ông Khải 202 phố Huế ra.
Chúng tôi dừng lại trên hồ, chỗ ánh điện ngõ Bảo Khánh trông xuống.
Tôi kể với Nguyên Hồng:
- Nhà chị Vân Đài ngày trước ở đầu phố này trên hàng Trống. Chị bảo khi còn nhỏ, bờ hồ còn ăn sâu vào tận đây. Nhiều cầu ao nhà trong phố bắc ra hổ, tắm giặt, vo gạo, rửa rau.
Nghe thế, Nguyên Hồng bỗng sa nước mắt.
Nguyên Hồng vốn mau nước mắt. Chắc câu nói vừa rồi của tôi gợi điều gì Nguyên Hồng đương nghĩ.
 
Chú thích:

(1) Một thứ thuốc chữa sốt rét
(2) Cặp hai ngăn

2. Nguyễn Huy Tưởng


Năm 1942, tôi quen Nguyễn Huy Tưởng trong một hội nghị ban dạy học hội Truyền bá Quốc ngữ.
Tôi làm giáo viên dạy buổi tối các lớp Truyền bá Quốc ngữ vùng Bưởi. Nguyễn Huy Tưởng có chân trong ban trị sự của Trung ương Hội.
Ở Hà Nội, phong trào chống nạn mù chữ đã nhen nhóm từ 1938, khi hội Truyền bá Quốc ngữ được thành lập, nhưng dần dần phải cho đến những năm 1940 mới phát triển ra khắp thành phố và ngoại thành, cùng nhiều tỉnh. Những người không biết chữ - phần đông là thợ thủ công, người, đi ăn đi ở các nhà giàu và thanh niên trong các làng nghề chịu khó đi học.
Nhưng cả người dạy học và người đi học đều không trong một tình hình bình thường. Hội Truyền bá Quốc ngữ phải công phu hô hào quyên góp thế nào cho có được sách bút mực phát không và kêu gọi đến thế nào cho có được người có tâm huyết sẵn sàng đêm đêm đi dạy học.
Trong những năm ấy, phong trào cách mạng đương lan rộng, tổ chức Việt Minh đã phát triển vào lực lượng giáo viên, học viên ở nội ngoại thành. Bởi vậy, những người có tinh thần tối nào cũng đi dạy học, đã nghiễm nhiên coi đấy là một công tác có ý nghĩa to lớn. Điều đó đã được chứng thực ở Hà Nội ngay những ngày đầu cách mạng, tổ chức chống nạn mù chữ trở thành nha Bình dân Học vụ, và hầu hết những anh chị em hội Truyền bá Quốc ngữ đều là cán bộ Bình dân Học vụ và các ngành văn hoá khác.
Với những người đi học, lại ở một cảnh khó khăn khác. Trong chiến tranh, bao nhiêu khắt khe trói buộc của thực dân Pháp, lại thêm Pháp-Nhật ủng oẳng, người ta phải hứng lấy đủ mọi tai bay vạ gió. Khủng khiếp nhất, nạn đói ập đến, như một cơn lốc, trời đất mịt mù. Thế mà những người cùng khổ ấy vẫn cắp sách đi học. O tròn như quả trứng gà, Ô là đội mũ, Ơ là thêm râu... Người ta linh cảm những chữ i, chữ t, những lớp học toàn người nghèo, những thầy giáo tận tuỵ chỉ bảo, có điều gì khác thường. Không phải chỉ cố cho biết chữ, mà rồi còn có thể biết được một cái gì lớn lao đưa con người ta thoát ra ngoài những ngột ngạt khốn cùng của cuộc sống. Ở vùng tôi, cứ tối tối, các lớp học dưới Nghĩa Đô, trên Yên Thái quanh chợ Bưởi, trong ánh đèn le lói, đông nghịt người.
Tình cờ, Nguyễn Huy Tưởng ngồi cạnh tôi ở hội nghị, chúng tôi quen với nhau, anh bắt tay rồi cầm tay rất lâu, anh hơn tuổi tôi, người tầm thước, đĩnh đạc, đôn hậu. Bộ râu được cạo kỹ, chân râu xanh lên lận má. Tôi kính trọng, khép nép trước vẻ đạo mạo của anh. Nhưng Nguyễn Huy Tưởng lại cười cười và nói: "Nhà văn, nhà văn trẻ quá, tôi rất phục, rất phục”. Đôi mắt một mí của anh nhìn người ta một cách trìu mến từ lúc thoạt gặp. Đôi mắt ấy cũng bộc lộ nét riêng đức tính vốn quý người của anh. Và sự say mê cái đẹp cao cả thiêng liêng mà về sau, tôi càng hiểu rõ hơn. Đến với anh, người ta thương dễ có cảm tình ngay. Cũng như tình tình anh, con mắt đầu tiên nhìn người không lạnh nhạt, ơ hờ, mà độ lượng và sấn sàng thân thiết.
Anh thường thấy ở người ta những cái đáng mến trước mắt.
Hồi ấy, tôi mới in được vài truyện ngắn đầu tay trên báo, cùng với truyện Con dế mèn, Dế mèn phiêu lưu ký. Nguyễn Huy Tưởng cũng có truyện dài lịch sử Đêm hội Long Trì đăng từng kỳ trên tuần báo Tri Tân.
Báo này chuyên về lịch sử hoặc khảo cổ, ít người đọc.
Rồi, tôi còn biết không phải đấy là những sáng tác đầu tiên của anh. Yêu cái đẹp, đôi khi anh lại thiên về sùng bái. Nguyễn Huy Tưởng đã từng thích thú, thần tượng "triết lý sức mạnh" kiểu Phạm Ngọc Khuê. Để biểu hiện cái tư tưởng “siêu nhân" ấy, anh đã viết lý luận và sáng tác bằng tiếng Pháp. Tất nhiên, rồi cũng vứt đi hết những trang chữ viển vông, và cũng là câu chuyện tự cười mình, mỗi khi kể lại những ngông cuồng chốc lát của tuổi trẻ. Nghĩa là, Nguyễn Huy Tưởng đã có tước muốn cầm hút hẳn hoi mà chưa tới được đâu. Cho nên, Nguyễn Huy Tưởng mới bảo tôi: Đằng ấy mới là nhà văn. Còn tớ, cũng múa may đấy, nhưng chỉ là thằng "sớm vác ô đi, tối vác về”.
Ấy là anh nói theo một cách tính giản dị, vừa đúng mà cũng vừa nực cười chua chát, anh đã ước muốn cuộc đời của tôi, một người thất nghiệp dở, sống còm cõi bằng vài đồng nhuận bút. Nhà văn Vũ Ngọc Phan có lòng tốt, đã trả nhuận bút, mỗi khi tuần báo Hà Nội tân văn của anh ấy đăng cho tôi một cái truyện ngắn.
Có lẽ cả Hà Nội chỉ có Vũ Ngọc Phan làm cái việc phúc đức ấy. Báo khác, kể cả những tờ tuần báo Ngày nay, báo Chủ Nhật của văn đoàn Tự Lực nổi tiếng đã in truyện ngắn Mê gái (Con gà mái ri) của tôi lên trang nhất, nhà văn Khái Hưng ra tiếp tôi, bắt tay thật chặt mà cũng không trả tôi xu nào và không cho tác giả được một tờ báo biếu! Bởi vì, không có thể lệ thế. Lý do: tự dưng ông gửi bài cho tôi chứ không phải tôi mời ông viết. Tôi chỉ trả tiền người tôi mời viết. Thế là ông cần tôi, thì không lẽ gì tôi lại phải trả tiền ông. Dẫu cho cả năm ông gửi bài đến và tôi in, cũng vẫn là ông phải cảm ơn tôi. Luật rừng của nghề báo thời ấy.
Những hoạt động chống nạn mù chữ cứ đi vào giữa những trớ trêu, những khủng khiếp của tình thế. Nhưng mà phong trào vẫn lan rộng. Chúng tôi xuống Nam Định. Cùng đi với đội kích ban tuyên truyền của Hội.
Tôi nhớ đại khái ban kịch có một vở vui nhộn, cổ động đi học. Câu chuyện vợ chồng Vua Bếp và các thần đất, thần thổ tả hăng hái học quốc ngữ. Bấy giờ diễn kịch còn là một việc rất mới. Nhưng vở kịch này đến đâu cũng được người ta cười ngặt nghẽo. Chúng tôi góp nhặt anh em lại, đã đi các lỉnh, lần này xuống Nam Định.
Những đêm kịch cổ động Truyền bá Quốc ngữ ở thành phố Nam Định thế nào, không còn nhớ. Chỉ nhớ trong số người đi với đoàn kịch có Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Xuyến(1) - một công chức trẻ hăng hái. Tôi nhớ nhất những hôm ở Nam Định, anh Sắc bạn của Nguyễn Hữu Đang. Ông bầu Sắc của chi nhánh hội Truyền bá Quốc ngữ dưới ấy chúng tôi đã ăn no kềnh bụng và sao mà ăn khoẻ, ăn ngon miệng đến thế. Khốn khổ, ở Hà Nội, nếu không cả lũ, thì ít nhất có Nam Cao và tôi đương đói vêu, ngày có một bữa. Bây giờ được chén cơm thoả thuê, đến đỗi chỉ ở Nam Định vài hôm mà có cảm tưởng trong người phổng phao hẳn lên.
Trên chuyến tàu thuỷ trở về, chúng tôi nằm dồn vào một góc boong tàu áp cái guồng quay rào rào đinh tai. Chao ôi, những cái tàu thuỷ sông Hồng đường Nam Định, Thái Bình hồi ấy. Tàu Long Môn, tàu Bắc Kinh, và còn bao nhiêu con tàu, chủ tàu. Đã có lần tôi, viết về những chuyến tàu thảm hại này mà vẫn như chưa viết.
Con sông sống, con sông chết. Người vùng đói không thấy có cái tàu cứu mình bỏ xứ đi nơi nào đấy, hoạ may bới đất lật cỏ ở đâu mới ra cái ăn. Mỗi khi nghĩ lại, vẫn thấy lù lù những con tàu năm đói hiện ra những ghê rợn này. Cái tàu cô độc xình xịch giữa sông. Đêm cũng như ngày, trên bờ, đoàn người rách rưới nháo nhác nhìn theo chạy theo, tàu màn xế, người xô ra, ai ngã xuống sông cũng mặc, ai chưa lên được lại đuổi theo. Cái tàu nghiêng đi hất người xuống nước vì người ta trèo lên đông quá. Cái tàu lại đắm vì bị máy bay Đồng Minh đuổi đánh, máy bay Mỹ ném bom tất cả những cái di chuyển trên sông.
Chiếc tàu đem chúng tôi trở về Hà Nội cũng là cái tàu chở người đói như thế. Màn xế vào bến nào, người lao xuống, tàu chòng chành chênh cả chân vịt, cả guồng lên. Tàu không dám vào bến nào nữa. Cứ thế, chạy về Phà Đen.
Trời tờ mờ sáng, trong cảnh bối rối người tranh nhau lên. Không hiểu thế nào, hối há đi tìm cái ăn, không lên nhanh thì chết hay sao. Một tấm ván bắc chênh vênh. Mỗi lán lườn tàu nghiêng đi, tấm ván bập bềnh rúm lại, người ngã lộp bộp xuống nước, tiếng rú thất thanh cũng rơi theo. Người cứ chen ra, cứ rơi...
Chúng tôi đứng chụm vào trong boong, rã rời cả người. Đêm qua oi quá. Cái guồng máy lại quay ào ào suốt đêm dưới gáy, ai nấy cởi trần nằm xếp quần áo gối đầu. Thế nào mà sáng ra Trần Kim Xuyến rờ thấy mất cái quần. Cũng chẳng có gì khó hiểu. Chắc là sức trai đương tuổi ăn tuổi ngủ, người nào đi qua đã rút mất.
Ngoài cầu, chốc lại tiếng rú, tiếng khóc. Nguyễn Huy Tưởng thở dài.
- Có khi cái quần của thằng Xuyến cũng ngã xuống nước rồi.
Câu nói đến lạnh rợn. Chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện thế nào là ăn trộm, ăn cắp. Nạn đói ghê gớm đương trùm lên tất cả. Rồi Nguyễn Huy Tưởng bàn:
- Nhà mày ở trên dốc Hàng Than gần đây, hay là mày mặc cái quần của tao về rồi lại đem ra cho tao.
Mọi người đương đăm chiêu mà cũng phải cười gượng. Trần Kim Xuyến nói to:
- Có gì mà phái phiền nhiễu. Tớ chỉ lột cái sơ mi ra là chẳng khác gì cu-li xe cởi trần quần đùi đi làm đêm về. Rét bỏ mẹ mà kìa lên đê khối người ở trần.
Trần Kim Xuyến cởi phăng áo cầm tay, và chúng tôi lên bờ. Chúng tôi bước im lặng.
Nguyễn Huy Tưởng nói một câu, như đương nghĩ dở:
- Đến thế này thì dạy người ta biết chữ để làm gì!
- Phải làm thế nào?
- Những người chúng ta dạy chữ đương chết đói.
Tôi nói:
- Rồi đến chết cả chúng ta.
Nguyễn Huy Tương đăm đăm nhìn tôi.
- Chi có đoàn thể...
Tôi nhìn lại Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tường đã có hoạt động bí mật. Hai chữ “đoàn thể" rất thiêng liêng đối với chúng tôi.
Ít lâu sau, một cuộc họp của một tổ Văn hoá Cứu quốc địa điểm được hẹn ở phố Giắc-canh (Jacquin), một phố khuất sau Chợ Hôm. Đến nơi, mới biết đấy là nhà Nguyễn Huy Tưởng. Chúng tôi, như vồ lấy nhau. Điều bất ngờ, điều bất ngờ mà chúng tôi cảm thấy và mường tượng ra, đã lâu.
Từ đấy, Nguyễn HuyTưởng là người liên lạc giữa mấy tổ, bí mật khác nhau...
Một điều, đặc biệt là mật thám Pháp đến cả những ngày cuối cùng đời thực dân ở Đông Dương, vẫn ráo riết khủng bố cộng sản. Một số anh em chúng tôi bị bắt năm 1944. Thế mà sau đảo chính Nhật 9 tháng ba 1945, đoàn thể cứu quốc các giới ở Hà Nội gần như công khai hoạt động. Tín phiếu của Việt Minh được rộng rãi mua ủng hộ, có người không làm Việt Minh cũng muốn có tờ tín phiếu. Nhiều tay sai mật thám Pháp còn lại, đã bị những đội trừ gian của Việt Minh tiễu trừ. Tên Sinh, mụ Thiên Nga và bọn Cai Long, Ba Lự ở Bưởi đã phải đền nợ máu. Nhật càng điên cuồng, khát mắu, chúng bắt và bắn tức khắc. Trên đường từ Phùng lên Sơn Tây vốn nhiều cướp đường, Nhật vào làng lôi người ra, chém đầu, treo lên cây. Phát xít Nhật cùng quẫn, hỗn loạn.
Trước thời cơ ấy, các đoàn thể cứu quốc trong thành phố đã rộ hẳn lên và ra mặt thị uy. Treo cờ nóc tàu điện. Rải truyền đơn giữa phố Pôn Be. Rạp Tố Như, Hàng Bạc đương buổi diễn, đèn phụt tắt, cán bộ Việt Minh lên nói chuyện hô hào tổng khởi nghĩa và tung truyền đơn. Kho thóc của Pháp, của Nhật ở làng Mọc ngoại ô bị phá chia cho người đói. Cả đến các kho ở phố Bắc Ninh và dưới Phà Đen cũng bị tan tành. Chợ Canh, chợ Diễn, phiên nào Việt Minh cũng mít tinh tuyên truyền võ trang. Người ta thì thào súng ống đã được đưa từ chiến khu về: suốt đêm tải sang sông.
Những cán bộ nữ Việt Minh, chít khăn vuông, đeo kính đen, tay cầm súng lục, vừa đứng trên bàn diễn thuyết giữa cầu chợ, lại biến ngay đấy. Tiếng đồn càng dậy lên.
Chúng tôi gặp nhau luôn. Không phải còn giữ bí mật nghiêm ngặt như mọi khi chỉ tổ ba người biết với nhau. Chị Tưởng đem các con đi tránh bom Mỹ về quê đã lâu. Một mình Nguyễn Huy Tưởng ở lại. Chẳng biết cái sở Đoan anh làm có còn ở Hà Nội hay đã đi trốn bom, chỉ thấy anh mặt quần soóc, với cái xe đạp trần trụi không phanh không chuông đi khắp nơi. Chẳng mấy ngày không lên Nghĩa Đô gặp Nam Cao và tôi.
Khi thúc bài cho báo Cứu Quốc, khi đem lên báo Cờ Giải phóng, tạp chí Cộng sản. Căn gác nhà Nguyễn Huy Tưởng có cửa khoá chữ, anh để số 1789, năm cách mạng Pháp, chúng tôi đều biết, ai đến cứ việc mở vào, lúc ngủ nhờ, lúc hội họp. Nguyên Hồng không còn ở dưới bãi Phúc Xá, anh đã đưa gia đình tránh bom về Thuận Thành bên Bắc Ninh. Thỉnh thoảng, hai vợ chồng đi một chuyến buôn nón và áo tơi. Cả cái xe bò nón lá của Nguyên Hồng cũng được đẩy đến đế trước cửa, có khi tá túc mấy hôm rồi lại chồng cầm càng vợ ẩn xe qua cầu Long Biên về bên Bắc.
Những cuộc họp nghiên cứu tài liệu Việt Minh đọc các báo bí mật, có khi chúng tôi ở cùng nhau liền mấy ngày. Hồi này, Lê Quang Đạo, bí thư ban cán sự đảng ở Hà Nội, sau lần bị mật thám bắt hụt ở nhà Vũ Quốc Uy, phố Phó Đức Chính bây giờ, đã lên chiến khu Việt Bắc. Nhưng các tổ Văn hoá Cứu quốc vừa được sự chỉ đạo trực tiếp của trung ương chặt chẽ và liên tục mà sau này tôi mới được biết cơ quan của thường vụ đóng ở Xuân Đỉnh, Phú Gia, Phú Thượng và các làng ven hai bờ sông Hồng. Trần Độ Trần Quốc Hương và Văn to đầu (Khuất Duy Tiến), các cán bộ phái viên của Trung ương thường đến với chúng tôi. Lúc thì ở nhà Nguyễn Huy Tưởng, khi vào làng Vạn Phúc trong Hà Đông, nhiều hôm ở nhà tôi trên Nghĩa Đô, có lần ở cái nhà nghỉ hè của nhà Như Phong xóm Cung bên Tây Hồ.
Trong những cuộc họp mở rộng ở nhà Nguyễn Huy Tưởng, ngoài các anh em, như Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng. Nam Cao, thêm Hồng (Thép Mới) là sinh viên. Lưu Văn Lợi cùng làm sở Đoan với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Cộng Mỹ, nhà giáo dạy dưới Hải Phòng cũng lên bắt liên lạc.
Chúng tôi đương sửa soạn in bí mật số 1 báo Tiên Phong, cơ quan của hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam.
Tình hình chuyển biến hết sức khẩn trương. Trong một cuộc họp ở Vạn Phúc trong Hà Đông, Văn hoá Cứu quốc được cử đại biểu trong đoàn trí thức Hà nội đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào: Nguyễn Hữu Đang: Nguyễn Huy Tưởng.
Bút ký Lên chiến khu của Nguyễn Huy Tưởng in nhiều kỳ trên tạp chí Tiên Phong sau Tổng khởi nghĩa đã kể lại chuyến đi với những kỷ niệm không bao giờ quên của anh về những ngày lên vùng trung tâm cuộc tổng Khói nghĩa.
Trong những tưởng lượng hào hứng của chúng tôi ngày ấy, cả nước đã thành chiến khu, và thiêng liêng, bí ẩn vô cùng là các chiến khu biên giới phía bắc. Hình ảnh gương chiến sĩ dũng cảm, hy sinh được đọc trên báo bí mật Cờ Giải phóng, Kèn gọi lính, Cứu Quốc đã tường thuật những trận quân giải phóng phục kích Nhật ở châu Tự Do (Sơn Dương), ở Bắc Cạn: rồi trận tiêu diệt đồn Nhật trên núi Tranh Đấu (Tam Đảo) giải phóng một trại tù binh Pháp ở Hà Nội, chỉ đứng trên đê sông Hồng đã trông thấy núi Tam Đảo xanh biếc.
Tin tức các nơi rầm rộ. Khắp nước, đã thành chiến khu, các Chiến khu Hoàng Hoa Thám. Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Phan Đình Phùng, Trưng Trắc, Nguyễn Tri Phương, Hà Nội cũng được bí danh là thành Hoàng Diệu. Như đã trông thấy trên núi rừng phía bắc, các dân tộc Kinh, Thái, Nùng, Mán đoàn kết đương sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa sắp bùng nổ, tràn như nước cuốn về đây rồi.
Chiến khu! Chiến khu bí mật, hấp dẫn, mong ước, chờ đợi, tất cá ở hình ảnh chiến khu.
Nguyễn Huy Tưởng và tôi đương đi tàu điện Bưởi xuống Bờ Hồ.
Những cái hầm xây gạch nổi để nấp máy bay, lỗ chỗ, vằn vèo lượn xung quanh hồ Hoàn Kiếm đã bị người đói các nơi về chiếm ở chi chít như tổ mối đun.
Ngày nào cũng có báo động: Máy bay Mỹ đã ném bom xuống nhiều chỗ đông người trong thành phố, chợ Hàrng Da, ngõ hàng Đũa sau ga Hàng Cỏ, các phố khu Đấu Xảo và vùng Bưởi, Quần Ngựa... Tôi làm chân "phòng thủ thụ động” đi khiêng người chết không biết bao nhiêu mà kể, từ dưới Bờ Hồ lên dốc vào hàng Đào xe bò chất những bao gạo đóng tải trắng nối đuôi nhau, người đẩy xe cúi rạp mải miết. Đấy là kho gạo dỡ ra hay đấy là gạo Sài Gòn mà những chuyến tàu hoả, tàu thuỷ của nhà binh Nhật mới thoát bom đêm trước, lọt vào ga Hàng Cỏ hay bến Phà Đen. Không biết tải đi đâu.
Nhưng chắc không phải gạo phát chẩn. Lính Nhật đeo súng cưỡi xe đạp canh hai bên hàng xe.
Tiếng còi trên nóc Nhà Hát lớn bỗng rú từng hồi.
Báo động! Những chiếc xe bò gạo thình lình chững lại giữa dốc. Người cầm càng quị xuống. Không biết tại đói quá nặng quá hay hốt hoảng quá, không ủn lên nổi nữa. Đoàn xe ùn lại. Người tứ phía nhao nhao ra: Bọn Nhật đã nằm ghếch súng nấp sau những chiếc xe đạp quăng chỏng gọng giữa đường. Mặc, người cứ xô đến cướp gạo, như sóng đen nghịt...
Máy bay ầm ầm tới, những chiếc phóng pháo hai thân hiện ra phía lông Hồng, rồi một đoàn trắng xoá ba cái một, lừ lừ đến tiếng rú rền ngay trên đầu. Đạn cao xạ nổ ùng ục vào nền trời xanh nhễ nhại: người ta đã phân biệt được súng phòng không Nhật khói trắng khác súng Pháp khói đen sì ở pháo đài Láng và Xuân Tảo. Tiếng bom rơi nổ từng chặp, dậy đất, nghe như... lại nhà xe lửa Gia Lâm... lại ở Sét, ở Giáp Bát...
Máy bay vẫn rền trên đỉnh đầu, bom xuống đây rồi, bom đến nơi rồi...
Bọn Nhật bỏ cả xe đạp, chạy chết. Những chiếc xe bò gạo đã được đám người đến xúm xít đẩy biến về phía phố Bắc Ninh. Trong chốc lát, giữa dốc chỉ còn lại xác người cầm càng ngã lúc nẫy, đã bị lính Nhập đâm chết, máu loang khắp mặt đường. Chiếc xe bò trống không, cái trục gẫy rời ra, hai bánh nằm úp như hai cái nong, mấy chỗ gạo lẫn máu - cái gạo máy Sài Gòn hạt tấm hạt gầy trắng nhởn như vôi bột bắt đầu khô đen lại.
Đấy là những cánh Hà Nội đau thương cuối cùng, khi chúng tỏi chia tay.
Nguyễn Huy Tưởng thì thào:
- Cậu có biết trên chiến khu bây giờ, một lão đồng chí quốc tế về lãnh đạo cách mạng? Có nghe đồn Nguyễn Ái Quốc đã về chiến khu không? Tổng khởi nghĩa đến nơi rồi.
Rồi Nguyễn Huy Tưởng ghé sát tai tôi:
- Thôi, mình đi nhé.
Tôi cầm tay bạn sắp đi. Tôi không biết đi đâu, nhưng chắc đi xa. Cảm động, bùi ngùi, đau xót. Cái quang cảnh người chết, người cướp gạo vừa rồi đã lấy đi hết cả những câu nói của chúng tôi. Mỗi người không biết ngày mai thế nào. Chúng tôi chỉ nhìn nhau.
Rồi Cách mạng tháng Tám thành công. Trong cuộc họp đầu tiên gặp lại Nguyễn Huy Tưởng, ở nhà Trần Kim Xuyến trên Hàng Than, Tổng bí thư Trường Chinh đã phân công chúng tôi vào mọi công tác báo chí, tuyên truyền, thông tấn, phát thanh, bình dân học vụ...
Bề bộn những công việc mới. Nguyễn Huy Tưởng ở trong ban phụ trách hội Văn hoá Cứu quốc, lại biên tập báo Cờ Giải phóng, cơ quan đảng Cộng sản Đông dương.
Một hôm, Nguyễn Huy Tưởng đến báo Cứu Quốc tìm tôi. Chúng tôi đạp xe lên ô Yên Phụ rồi ra Phú Gia.
Tôi cũng không hỏi đi đâu. Vẫn còn thói quen giữ bí mật công tác như dạo trước. Thì ra, Nguyễn Huy Tưởng rủ tôi đến một nhà cơ sở ở dưới bãi làng Gạ.
Trước khi lên chiến khu, Nguyễn Huy Tưởng đã được giao thông đưa đến đợi liên lạc ở đấy. Rồi, anh để lại áo sơ mi, quần tây thường mặc. Ở trạm anh em đưa cho Nguyễn Huy Tương bộ quần áo nâu cũ và cái nón mê.
Anh sang sông, lên châu Sơn Dương. Đò sang ngang chỗ bến Hối.
Chúng tôi lên mặt đê, trông sang Hối. Chỉ thấy một làn dâu xanh mờ. Nước sông Hồng đương cữ lớn, mênh mang đỏ rực. Nguyễn Huy Tưởng nhìn xa xôi, nghẹn ngào:
- Những ngày lên chiến khu, mình nhớ...
Nguyễn Huy Tưởng vốn người trầm mặc, dẫu gặp việc vồ vập, bồn chồn, anh vẫn thường giữ điềm nhiên.
Nay anh lại sa nước mắt. Cái vui của con người, dẫu cho bề ngoài âm thầm, không phải bao giờ cũng lặng.
***
Nguyễn Huy Tưởng người làng Dục Tú. Dục Tú cạnh Lộc Hà, quê nhà văn Ngô Tất Tố. Những làng ven nội xinh đẹp, cổ kính ở bờ sông Hồng.
Tôi bỗng nhớ một chuyện thật sự thiết tha và tự nhiên của một ngòi bút với đất quê. Nguyễn Huy Tưởng, con người và tình cảm cùng trang giấy trắng trước quê hương.
Những lần về Dục Tú với Nguyễn Huy Tưởng.
Thường những ngày giáp tết hoặc tháng hai, tháng ba, vào buổi xuân sang hội hè, tết nhất ở các làng ngoài thành. Nguyễn Huy Tưởng hay rủ bạn về Dục Tú.
Mưa bụi vân vân trên cánh đồng màu. Có những đoàn người trảy hội đi qua cửa đình. Không phải chỉ loàn những tiếng cười ròn của đám con trai quần phăng áo trấn thủ ô trám và những cô gái sơ mi hoa đào. Mà còn thiết tha nền nã các bà áo bông ngắn mặc ngoài tấm áo the nâu, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Trong làn mưa nhẹ như sương, xa kia, sừng sững mờ mờ không nhìn rõ là chân tường thành cổ hay những dãy nhà máy đương lên móng phía Đông Anh. Những gợi cảm thật lạ lùng. Trong cái vui xuân trên miền đất phát tích của dân tộc không phải chỉ có một bề hoài cổ, mà còn những nỗi niềm, những khát khao của mỗi người cầm bút hôm nay.
Về Dục Tú, lần nào cũng sang Cổ Loa. Tất nhiên, Nguyễn Huy Tưởng là người thuộc Cổ Loa nhất trong bọn, anh chỉ cho biết nên để ý, nên xem Cổ Loa những gì, như thế nào. Một điều dị thường mà lại bình thường, mỗi khi ta thăm những nơi có di tích từ truyền thuyết đến hôm nay. Làm sao mà được cảm thông từ hồng hoang đến một lúc bây giờ. Vậy mà Nguyễn Huy Tưởng đã có những say sưa ấy. Đi trên những gò cỏ, những bờ thành đất, dưới cây đa cổ thụ, bước thẩn thơ trong đường quanh bờ tre những bãi mía xanh tốt và những làng xóm lá mít xum xuê mà trông ra nghìn xưa.
Nguyễn Huy Tưởng hăng hái làm cho mọi người thấy được bên trong làng xóm, đồng ruộng ấy, xưa kia đã nguy nga những thành quách có một không hai ở phương nam từ thuở ban sơ của đất nước với bạt ngàn chiến trận của vua Hùng, vua Thục, của Ngô Quyền.
Làm cho chúng tôi phải thấy được cả một trung du giáp núi giáp đồng bằng với những kẻ Nhồi, kẻ Vang, kẻ Chủ, đất nước của những con người mở đầu hiển hách thế nào. Nguyễn Huy Tưởng lúc nào cũng mê mải, suýt xoa, mỗi lần kể những điều anh mới biết thêm, mới nghĩ ra.
Vết tích của chợ Sa ở Cổ Loa. Chợ Sa là xa gần, chợ Sa là cái sa xe chỉ hay chợ Sa là tên người, tên họ, hoặc cái gì khác. Địa điểm chợ Sa chỗ nào tụ hội giữa thành hay đầu bến, chợ giữa thành và chợ đầu bến, tính chất khác nhau đấy. Những lúc ấy, Nguyễn Tuân - mà nơi sinh và quê gốc anh ở Mọc Thượng Đình huyện Từ Liêm, hào hứng vào chuyện: các anh chắc biết đường tiến quân của Đô đốc Bảo(2) sau khi đánh tan cả vạn quân Thanh ở Đầm Mực tồi tiến ra Đống Đa. Thế thì, cánh quân Đô đốc Bảo phải vu hồi lên Kim Giang, Kim Lủ rồi lập kết ở bốn làng kẻ Mọc chúng tôi chứ?
Chuyện đấy những đoạn ấy bao giờ cũng sảng khoái quanh truyền thống và lịch sứ Hà Nội hôm qua hôm nay. Hiểu biết đến thế nào, bàn bạc đến bao giờ cũng không đến đâu cùng. Ý thức và tình cảm đó đã như tự nhiên trong Nguyễn Huy Tưởng. Cả mỗi khi viết cho các cháu đọc. Những tích luỹ về vùng quê cổ kính nghìn đời của anh, Nguyễn Huy Tưởng mới chỉ cho lứa tuổi bạn đọc thiếu nhi được thưởng thức chút ít ở một áng văn xuôi như thơ, truyện An Dương vương xây thành Ốc.
Hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tác nhiều thể loại văn xuôi nhiều đề tài khác nhau. Nhưng, với anh, đề tài Hà Nội là tiềm lực sức sống liên tục trong tất cả các giai đoạn và là những tác phẩm chính của Nguyễn Huy Tưởng. Ở mỗi trang Nguyễn Huy Tưởng đều có thể gặp được bóng dáng của Cổ Loa, của Thăng Long, của Hà Nội. Trong đó, cuộc sống và con người, từ truyền thuyết tới ngày nay, qua mọi giai đoạn lịch sử, vẫn là một con người Việt Nam nhẫn lại, kiên cường đương đầu với mọi thử thách, mọi biến thiên và đứng vững. Là cây bút sử thi hùng tráng, Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng bao giờ cũng lộng lẫy và hùng vĩ, ngay từ những tác phẩm ban đầu Có nghĩa là từ khi Người cầm bút chưa hẳn đã có một ý trí và đường hướng rõ rệt, nhưng lấm lòng đối với lịch sử và quê hương từ tiềm thức đã gắn bó và thôi thúc.
Thực tế tình cám ấy là bộ phận quan thiết xương máu trong cơ thể vốn sống người viết. Một nhà văn phải tạo ra, phải rèn luyện cho có được những vùng quê của sáng tác. Hai chữ "vùng quê" ở đây có ý nghĩa nhắc nhỏ người cầm bút không được lơ đãng một phút đắm mình trong thực tế để có được những kỷ niệm thiết tha trong đời. Vùng quê sáng tác của nhà văn có thể bất cứ ở đâu, mà những!nguyên quán, sinh quán của người cầm bút chỉ là một trong những trường hợp - trường hợp tự nhiên, nhưng có giá trị to lớn đối với người cầm bút. Nguyễn Huy Tưởng với Hà Nội là như vậy Nguyễn Huy Tưởng viết hai tác phẩm đầu tay trong những năm 1940, tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và kịch Vũ Như Tô.
Đêm hội Long Trì, những sinh hoạt xưa ở kinh kỳ mà trong đó, huyên náo những cảnh lộng hành bạo ngược của chị em bà Chúa Chè người Kinh Bắc. Những đau khổ của người dân phải chịu đựng mọi thói ăn chơi vô độ của các triều đại vua chúa. Nhưng chồng chất giữa những oan khiên này vẫn thấy được đời sống người Kẻ Chợ cùng mọi quang cảnh phố phường sinh sôi Đấy là sức sống âm thầm mà mãnh liệt của "bách tính" đã làm nên bao đời Kẻ Chợ. Thăng Long nhộn nhịp suốt sáng không biết có đêm trong những đêm hội Long Trì quanh hồ Gươm, hồ Tây. Những hội vật đua tài của đô các lò ở Kẻ Chợ đã có nói. Những đám rối cạn, rối nước, những cuộc đánh roi rất hiệp sĩ của kinh thành vốn đất thượng võ. Rồi chọi gà, thả chim, đu tiên, chợ thi cây cảnh và những đám rước kỳ ảo, thần tiên. Thôi thì mặc sức, từ ngoài ô vào đến phố phường quanh hồ, đêm ngày nô nức người về hội. Những quang cảnh bộc lộ và biểu hiện sức mạnh truyền thống của dân tộc, các triều đại cứ thay đổi, ân oán và giết chóc cứ lay chuyển tất cả các cung vua phủ chúa, Kẻ Chợ ngày một sầm uất.
Ở kịch lịch sử Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả một nghệ sĩ lớn thời Lê. Công trình vĩ đại của Vũ Như Tô chỉ còn được một dòng chữ trong sử sách, những muôn đời người Kẻ Chợ ngước trông lên vẫn thấy trên trời nước hồ Tây ẩn hiện bóng cao trăm trượng toà lâu đài cực kỳ tráng lệ. Công trình của Vũ Như Tô - kết tinh tinh hoa đất nước, mơ ước xây Cửu Trùng đài, cũng là khát vọng của người cầm bút làm sống lại nhà kiến trúc thiên tài trong đau khố sáng tạo.
Một tác phẩm suốt đời xây dựng, không biết bao giờ xong, mãi mãi là một khắc khoải, là niềm tin. Khi mà một người viết lại chùng gân bằng lòng cái đã làm được, thì ngòi bút ấy chẳng còn gì phải nghĩ thêm. Đài Cửu Trùng và Vũ Như Tô cũng chính là quan niệm về tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng. Suốt đời viết đã mơ ước, đã thất vọng, lại mơ ước... Sức lực của Nguyễn Huy Tưởng tập trung vào công phu sáng tác, cùng lúc với mọi công việc ngổn ngang những ngày đầu của cách mạng, mà anh đam nhiệm. Tuy nhiên, Nguyễn Huy Tưởng vẫn có ý thức sâu sắc được trách nhiệm nhà văn, không thể có gì mạnh mẽ hơn vũ khí ngòi bút.
Nguyễn Huy Tưởng miệt mài viết báo, viết sách. Ở báo Cờ Giải phóng, nhiều bài xã luận tiểu luận ký Điều Tử. Ở tạp chí Tiên phong ký Thao Trường. Viết cho thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng lấy bút danh Vương Như Trang. Chuyện gương chiến đấu Ba anh hàng thịt ở chợ Cái Răng (Nhà xuất bản Văn hoá Cứu quốc, 1946), Bắc Sơn, vở kịch dài Nguyễn Huy Tưởng đã viết liền trong hai ngày hai đêm.
Đề tài truyền thông, đề tài lịch sử trong thời kỳ chuyển biến vốn là sở trường của Nguyễn Huy Tưởng.
Cuộc trường kỳ kháng chiến trên toàn quốc vừa bắt đầu, Nguyễn Huy Tưởng viết Những người ở lại. Kịch dài Những người ở lại miêu tả thái độ và cuộc đấu tranh của các tầng lớp trí thức đối với kháng chiến trong Hà Nội bị chiếm.
Tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, "đài Cửu Trùng của Vũ Như Tô" Nguyễn Huy Tưởng đã được nghiền ngẫm ngay từ những ngày đầu tiên Trung đoàn Thủ đô chiến đấu trong vòng vây của địch.
Sự tích một sáng tác không biết đâu bờ đâu mốc mà tính được thời gian và công phu sức lực bỏ ra.
Ngày tháng ghi ký niệm ở trang cuối chỉ là ước lệ.
Trung đoàn Thủ đô đã ra đời trong những ngày đêm ác hệt giữa Hà Nội. Rồi suốt chín năm kháng chiến, Trung đoàn Thủ đô đã tham gia tất cả các chiến dịch lớn, sau cùng, từ chiến thắng Điện Biên Phủ về Hà Nội giải phóng. Tấm lòng vẫn nguyên như đêm ra đi: các chiến sĩ Hà Nội đã cất lời thề hẹn ngày về, khi ngoảnh lại nhìn thành phố rừng rực trong lửa cháy.
Một ngày đầun ăm 1947, chúng tôi đi đón Trung đoàn Thủ đô, vừa từ giữa lòng thành phố ra. Các chiến sĩ đã bí mật hành quân luồn dưới cầu Long Biên, qua sông Hồng, vào chân núi Tam Đảo. Rồi bất thần, nửa đêm lại trở sang bên này sông. Liền mấy ngày, máy bay địch lùng khắp từng làng, từng cánh đồng phía bắc thành phố. Trong khi đó, Trung đoàn đã lại sang sông về đóng quân ở vùng Gối.
Lễ đón mừng các chiến sĩ Thủ đô ở Thượng Hội.
Hồi này, địch trong thành phố đã nống ra tới cầu Diễn, trên đường Sơn Tây. Ở cánh đồng làng Thượng Hội trông ra Diễn, đốt lửa to còn thấy vầng sáng, moóc-chê địch thường bắn qua trên đầu. Nhưng địch chẳng thể ngờ lại có cuộc hội quân lớn như thế này ở trận tuyến trước mặt chúng.
Những ngày ấy, tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc trên mặt trận Hà Nội. Tôi thường cùng ở với Thôi Hữu tại chùa làng Án Thọ ở Sống - nơi cơ quan báo Thủ đô do Thôi Hữu phụ trách. Nguyễn Huy Tưởng đến rủ và ba chúng tôi đã ra Canh, rồi sang Thượng Hội đón các chiến sĩ Thủ đô.
Cả vùng các làng Kẻ Gối náo nức. Hai tháng trời ác liệt trong vòng vây địch đã in dấu xám ngắt trong tưởng tượng của mọi người đến dự lễ mừng? Nhưng không, các chiến sĩ thật nhanh nhẹn, rất Hà Nội. Trong hàng quân, có nữ chiến sĩ, ở cả cấp chỉ huy, nữ chính trị viên tiểu đoàn Tuyết Minh. Những cô gái HàNội, trong mọi tình huống thật đã tài đảm, thao lược. Các chiến sĩ, hôm qua còn là sinh viên, nữ sinh, là công chức, là thợ đóng giầy, đóng thùng, nghề bồi bếp, thợ nguội, thợ điện. Giờ đây như nhau, chiếc mũ ca lô dạ tím, đôi giầy có cổ, chiếc thắt lưng trễ tràng một điệu kiểu cách cố ý với bên hông khẩu súng lục, con dao găm, - kể cả những khẩu trung liên, đại liên đặt cảnh giới trên các gò cao ở đầu đồng, hầu hết đều là quân dụng, quân trang, võ khĩ nhãn hiệu Mỹ mà các chiến sĩ đã đoạt được.
Không có thể nghĩ những con người thơ thới đáng yêu vừa trải những trận đánh sống còn liền hai tháng qua. Cảm tưởng cứ chập chờn, lung linh hư hư thực thực. Khác nào, đứng đây, vừa nãy hoàng hôn xuống còn trông thấy trong bóng chiều vàng mờ lạnh buốt cuối đông ánh lửa của người chiến sĩ rút sau cùng đã đốt lên cháy cả kinh thành, báo cho hàng quân đi đầu biết thế là tất cả đã ra khỏi, các phố. Câu chuyện thần kỳ ngoài tưởng tượng.
Trên cánh đồng đầu làng, những đống sưởi được nhóm lên. Các chiếp sĩ vào Cuộc lửa trại. Nguyễn Huy Tưởng ngồi im. Suốt đêm, anh lặng lẽ chămchú nhìn mọi người, nhìn lửa, nét mặt hân hoan.
- Vĩ dạ quá! Vĩ đại quá! Cái gì cho xứng được.
Câu nói và diện mạo ấy cũng là tư tưởng triết lý, chủ đề và đề tài về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng quán triệt cho tới các tác phẩm sau cùng. Đức tính đó ở Nguyễn Huy Tưởng đã có ngay ở bước đầu tiên của công việc sáng tác. Phân tích vấn đề, sự việc con người, thường Nguyễn Huy Tưởng phát hiện từ khía cạnh tích cực. Cả mỗi chữ, mỗi câu, Nguyễn Huy Tưởng cũng đậm đà ở phương pháp trước tác và tình cảm ấy. Văn phong Nguyễn Huy Tưởng ấm áp, đôn hậu, hùng tráng.
Trong kháng chiến chống Pháp, Trung đoàn Thủ đô mà đặc biệt là tiểu đoàn 54, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn đã kết nghĩa làm em nuôi hội Văn nghệ
Có được niềm vui đó không phải tình cờ, mà sự gắn bó quân dân đẹp dẽ này có trách nhiệm và công lao Nguyễn Huy Tưởng. Nhiều người trong chúng tôi đi tham dự cùng đơn vị em nuôi hầu hết các chiến dịch, lớn trên chiến trường miền bắc, từ các mặt trận quanh Hà Nội lúc khởi chiến đến chiến dịch sông Thao 1949, chiến dịch Trung du và chiến dịch Biên giới 1950, cùng với các chiến dịch Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào rồi Điện Biên Phủ.
Thực tế lớn lao của người chiến sĩ Hà Nội, cũng như của chúng tôi, cuộc sống thành phố đã trải rộng khắp đất nước, qua vô vẫn thử thách gian lao. Không nhũng là người chứng kiến, mà chúng tôi đã là những con người góp phần làm nên giai đoạn lịch sử ấy.
Khi Trung đoàn Thủ đô tiến vào Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng đã ở trong đoàn cán bộ tiếp quản thành phố. Cả thành phố xua tan cơn chìm đắm chín năm và suốt thế kỷ. Bao nhiêu sự kiện lớn lao của đất nước, của đời người. Phải viết, phải viết cái gì cho xứng đáng tầm vóc thành phố. Như vậy đấy những trải biết của Nguyễn Huy Tưởng tiến lên một bước sáng tạo, đã dần dần rõ nét. Sự ra dời của mỗi chân móng tiểu thuyết Sỗng mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng đã nối tiếp thời gian, không gian từ thật xa như thế.
Nguyễn Huy Tưởng thường kể về những chắt chiu, góp nhặt, những dự định cho cuốn tiểu thuyết ước mơ này. Mỗi khi bàn luận về nền văn xuôi Việt Nam đương phát triển anh thích thú hình dung ra hình ảnh cuộc kháng chiến của nhân dân ta. "Tôi thì tôi không thể viết nổi" - anh nói. Nhưng Nguyễn Huy Tưởng ao ước đến một phút đầy cảm thông thiêng liêng đến thế nào đó, ở thế kỷ nào đó, xuất hiện những tác giả dựng lên được cuộc trường kỳ kháng chiến từ nam chí bắc thành những bộ, những pho sử thi biên niên hết sức hấp dẫn, trong đó, mỗi vùng đất nước, mỗi dân tộc anh em, mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh, mỗi chiến sĩ, mỗi vị tướng cầm quân, tất cả trở thành một lập thể nhân vật anh hùng, tính cách mỗi con người khác nhau mà lại giống nhau, tiêu biểu cho con người Việt Nam trước thế giới. Và, thế nào và bao giờ Nguyễn Huy Tưởng cũng kết luận: Tất nhiên, trong những trường sử thi hào hùng ấy của dân tộc Việt Nam có người Hà Nội. Đời nay chưa có nhà văn giỏi đến thế, thì đời sau, đời sau nữa phải có tài năng làm được, phải làm được.
Nguyễn Huy Tưởng đã công phu, cẩn trọng cho tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Mấy năm đầu trở về, Nguyễn Huy Tưởng đã viết xong tập 1. Những trang bản thảo chữ đẹp rõ nét, đều đạn, dược chép ra, đánh máy cẩn thận. Nguyễn Huy Tưởng vẫn để đấy. Hình như ở anh, vẫn còn băn khoăn, lưỡng lự những điều chưa thoả đáng, chưa nghĩ ra được hết xung quanh công trình lớn. Hãy đế đấy, rồi Nguyễn Huy Tưởng đi Tây Bắc. Mấy tháng ở nông trường Điện Biên về, Nguyễn Huy Tưởng cho xuất bản tiểu thuyết Bốn năm sau, bốn năm Điện Biên Phủ sau chiến thắng. Nhưng bản thảo Sống mãi với Thủ đô thì vẫn chưa đụng chạm đến. Một mùa luyện quân, Nguyễn Huy Tưởng lại đến với các chiến sĩ Hà Nội thân thiết của chúng tôi. Trung đoàn Thủ đô đã qua ngót mười năm chiến đấu không còn như những ngày mới tập hợp trong Chiến khu 1 ra.
Hàng loạt gương mặt chiến sĩ mới trong đội ngũ, qua mỗi thu đông chiến dịch, mỗi mùa luyện quân. Những ban chỉ huy đại đôi, tiểu đoàn đã vắng nhiều người ở đêm liên hoan Thượng Hội. Nhưng truyền thống chiến thắng nhanh vẫn là nền nếp ngày một phát huy phong cách đánh nhanh của chiến sĩ Hà Noi, từ trận kỳ tập vị trí Bồng Lai ngay bên sông Cái trước mặt Hà Nội đến các trận thần tốc ở chiến dịch sông Thao, ở Nghĩa Lộ đồi, ở Bản Hoa châu Mộc trên Tây Bắc và các trận diệt viện gọn như cắt ở Thượng Lào, ở Điện Biên.
Nguyễn Huy Tưởng ra Lai Xá, lại có dịp đến ở lâu với các chiến sĩ của đơn vị đầu tiên đã chiến đấu trong Liên khu 1. Những người còn sống vẫn tinh anh phong độ ngày ấy, và ai cũng đã dày dạn trận mạc. Cái nhìn lại những ngày non trẻ và hào hùng của các chiến sĩ đã cho Nguyễn Huy Tưởng những hiểu biết, những khám phá mới, khác lạ, vẽ lên những nét sâu sắc riêng, anh hùng có, trứng nước có, hoang dã có. Nguyễn Huy Tưởng được cơ hội hiểu nguồn gốc tính chất người chiến sĩ của các tầng lớp nhân dân Hà Nội trong một giai đoạn lịch sử đất nước. Nguyễn Huy Tưởng cảm kích đến sửng sốt, bàng hoàng. Nguyễn Huy Tưởng rất hào hứng và thấy ra những cái anh đã mô tả về chiến sĩ Hà Nội chưa thể như ý.
Phải viết cho thật xứng với cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng mọi mặt vừa khốc liệt vừa quyết liệt đúng với hiện thực thời ấy. Mười năm trước, ở cánh đồng Gối, khi đón Trung đoàn Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn lo lắng với câu nói: Vĩ đại quá! Cái gì cho xứng!
Nguyễn Huy Tưởng quyết, định viết lại. Tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô mà chúng ta được đọc, chỉ là cái bản thảo cần phải viết lại ấy của Nguyễn Huy Tưởng.
Thói quen làm việc của Nguyễn Huy Tưởng cũng khá khác thường. Sự cần mẫn, chịu khó bao giờ cũng sẵn sàng ở anh. Và thường để suy nghĩ, để chuẩn bị, đôi khi là việc đổi tay viết một cái khác, Nguyễn Huy Tưởng đã dùng khoảng cách nghỉ ngơi có ích như thế, trong khi sửa soạn viết lại Sống mãi với Thủ đô, anh viết cho thiếu nhi chuyện Trần Quốc Toản ra quân: Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Rồi lại sáng tác kịch bản phim Luỹ Hoa (chữ của Nguyễn Tuân đặt), dựa trên sườn tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô.
Như tay đô vật vào gióng còn đương múa vờn.
***
Những năm đầu, nhà xuất bản Kim Đồng ở phố Triệu Việt Vương.
Xưa kia đây là nơi bờ bụi lầy lội lau sậy làng Đức Viên, làng Thể Giao, làng Vân Hồ. Phố xá, những nếp nhà một hai tầng so le, không có cửa hàng buôn bán, chỉ mới mọc lên quanh chợ Hôm khoảng trong ngoài năm sáu mươi năm trước. Vỉa hè còn nền đất và vắng vẻ đến độ người đi dưới lòng đường hay trên vỉa hè cũng như nhau. Phố của các công chức ngày ngày đi làm. Nhà khá giả máu mặt đôi chút có cái cửa nách, lấy lối ra vào cho người culi và chiếc xe tay nhà.
Trong kháng chiến chống Pháp, ở Việt Bắc, công việc xuất bản sách cho thiếu nhi tập trung vào Tủ sách Kim Đồng Nhà xuất bản Văn Nghệ. Về hoà bình, "Tủ sách Kim Đồng” là một bộ phận của nhà xuất bản Thanh Niên. Nguyễn Huy Tưởng cùng một số anh em chúng tôi đề nghị với Trung ương Đoàn đứng ra xin phép thành lập một nhà xuất bán riêng cho thiếu nhi.
Và giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản là Nguyễn Huy Tưởng.
Hồi này, Nguyễn Huy Tưởng chuyên lo công việc cho nhà xuất bản mới khai trương. Cái ham mê bé nhỏ cũng thật sự hồn nhiên trong sự bận rộn, từ biên tập đến trị sự, lại đọc bản thảo gửi đến, lại sáng tác. Chúng tôi thường nói vui về Lê-ôn Tôn-xtôi khi về già mới sáng tác cho thiếu nhi và ông lấy làm tự hào đã viết cho tuổi thơ những câu trong sáng nhất đời văn. Ông Tôn-xtôi Việt nam của chúng tôi vốn phục luôn Tôn- tôi, lấy chuyện đó làm một sự thú vị.
Những tình cờ của thời gian không gian trở đi trở về, hay là của đời người! Ở vùng chợ Hôm, hầu như mỗi góc đường, anh lại gặp lại những năm tháng đã qua. Căn gác, phố Ngô Thời Nhiệm bấy giờ là tổ ấm ngày ấy của đôi vợ chồng trẻ, của những sáng tác sôi nổi, chỉ hai ngày hai đêm viết xong vở kịch dài Bắc Sơn. Và chúng tôi vẫn thuộc số 1789 ở cái khoá chữ một thời say mê, say sưa với những "thế giới đại đồng” trong những ước mơ cao xa.
Nguyễn Huy Tưởng nói:
- Mới đấy, mà như từ bao giờ. Mà cũng hay. Chúng mình làm việc cho văn học thiếu nhi. Những kỷ niệm trong sáng, những nhớ lại đẹp như tuổi thơ, biết đâu chẳng gợi ra những sáng kiến lớn.
Câu nói của một người lo toan công tác, nhưng cũng là những ý nghĩ, những chờ đợi bất chợt lạ lùng day dứt về những suy nghĩ chưa xong. Tiểu thuyết Sống mãi mới Thủ đô lúc nào cũng dày vò anh.
Nguyễn Huy Tưởng không coi đấy chỉ là việc sửa, chữa bản thảo. Một người viết luôn luôn có trạng thái tin, lại chưa tin sức mạnh sáng tạo của mình là biểu lộ một sức bật, một đổi mới. Nguyễn Huy Tưởng đang có những khát vọng lớn, anh muốn thay đổi hết. Mỗi nhân vật, từng tình huống soi trong bóng lồng lộng cửu trùng dài của sáng tạo, cuộc sống chiến sĩ từ hoang sơ Liên khu 1 đến tinh thần một binh đoàn thiện chiến hiện đại, xưa kia và mai sau hội tụ trong một phút giây, tất cả đương là những thực tế uy nghiêm, bắt người viết phải kiểm tra, phái lục soát lại từ quan niệm đến phương pháp, đến việc đưa từng chữ xuống trang giấy.
Mỗi quãng đường, mỗi lúc gặp những năm tháng đã qua, lại thôi thúc.
Buổi sáng ấy trên bờ hè gốc cây nhồi cạnh cửa viện Mắt, có những toán bộ đội cặm cụi đào hố. Rồi nhặt lên từng chiếc xương sườn, xương ống, một sọ người. Trong suốt phố, nhiều đám người đương nhặt xương trong hố lên như thế. Các nhà hai bên đã đem ra thau nước trầm bốc khói ngào ngạt. Từng đốt xương được rửa nước trầm cẩn thận rồi bỏ vào tiểu, trên phủ quốc kỳ sao vàng. Thành đội đương tổ chức đào tìm hài cốt các chiến sĩ đã chiến đấu ở Thủ đô những ngày đầu. Mỗi hôm, hoa viếng của những người trong phố đưa đến, khói hương bay toả trên màu cờ đỏ suốt bờ hè. Đằng kia, vẫn còn những đám người đi nhận dấu tích gốc cây, hòn gạch, hướng nhà và các chiến sĩ lại đào Nguyễn Huy Tưởng châm những nén hương chúng tôi vừa mua ở chợ Hôm về, cắm lên trước chiếc tiểu bên gốc cây nhồi cổ thụ.
- Vĩ đại quá, làm thế nào cho xứng được!
Ngày trước, đón các chiến sĩ ở Thượng Hội, Nguyễn Huy Tưởng đã nói thế. Năm nọ, ở Trung đoàn Thủ đô về bây giờ anh lại đương nghĩ về cuốn tiểu thuyết phải viết lại.
 
 
Chú thích:

(1) Sau tháng tám 1945, Trần Kim Xuyến công tác tại đài Tiếng nói Việt Nam. Đầu 1947, đã hy sinh trong trận Pháp tấn công vào nơi phát thanh của đài trong núi Tử Trầm gần thị xã Hà Đông
(2) Đô đốc Bảo, một dũng tướng của Tây Sơn Những phát hiện mới đây được biết Đô đốc Bảo là Đông Lĩnh hầu Đô đốc Đặng Tiến Đông, người xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, hiện có tượng thờ ở chùa Trăm Gian: huyện Hoài Đức (Hà Tây)

6. Như Phong


Nhà Như Phong ở trước cửa chợ Đồng Xuân, anh thật cũng không rõ nhà mấy đời ra Hà Nội, ở vùng chợ Đồng Xuân. Chỉ biết ngày trước ở trên Yên Ninh, Hàng Than rồi chuyển dần xuống phố chợ búa buôn bán này.
Có thể nói, gốc gác anh người Hà Nội. Nhà anh nòi võ. Cụ nội anh đã từng đi thi võ - cụ bạn bè với cụ cử Tốn, cử võ mà thời chúng tôi cũng còn biết tiếng.
Nhưng rồi Tây sang, cái thuở Kẻ Chợ trên bến người dưới thuyền mảng vào đậu bến Nữa tự nhiên cũng không còn nữa.
Thời ấy, các phố cũ chật chội, nhưng để ý cũng phân biệt những khác nhau. Chỉ một dọc từ hàng Giấy xuống cuối hàng Đào thấy dần dà mọc lên những nhà giàu mới nổi: Cửu Nghi hàng Bồ, Lê Thuận Khoát hàng Ngang, nhà đỏ Chấn Hưng hàng Bạc nhô ra những dinh cơ đồ sộ như những con trâu, con voi giữa đám tường so le dựa nhau của những nhà ở phường cùng nghề phố Hà Trung, hàng Quạt, hàng Mành, hàng Hòm... Vùng buôn bán sầm uất của người Tàu, hiệu thuốc và hiệu cao lâu, chè Chính Thái. Ninh Thái- dâu Đại Quang và hàng Buồm, phố Kiến (Phúc Kiến) Quãng hàng Đường, hàng Chiếu (phố Mới) vẫn có những nhà buôn cổ, nền nếp nhiều đời. Cửa hàng cũ kỹ, thạp đường khay chè sơn then mà ngày nay vẫn còn có thể trông thấy những tấm ảnh chụp trong các sách của người Pháp thời kỳ ấy ở các thư viện khoa học. Và những nghìn giấy bản, giấy moi, cửa hàng kẹo bột, kẹo chày, nước hoa bưởi cất, hàng đường cát, đường phèn, hàng chè búp, hàng thùng, hàng củ nâu...
Nhà Như Phong vốn nghề cất bán lẻ những thứ hàng cổ xưa ấy. Hai ben chen những dãy nhà như những bao diêm chồng cạnh nhau, nhà hẹp mà thấp sâu trông vào tối âm xâm, tun hút, không có gió lùa cửa ngách: hơi ẩm đất, ẩm gồ, ẩm ngói lành lạnh đến gây người.
Những nhà, những phố những cửa hàng cũ kỹ già như tuổi của thành phố.
Những truyện ngắn đầu tiên của Như Phong viết về các mái nhà phố phường Kẻ Chợ, về mỗi căn nhà và mỗi con người ở đấy. Những truyện ngắn của anh đượm một hơi văn: một tinh thần và quang cảnh vừa trang trọng vừa lịch sự lại là thật hiện đại. Trong cái eo xèo thường ngày của đời sống thành phố, phảng phất một thoáng trong sáng, mới lạ. Đấy là cảm tưởng tôi lần đầu đọc truyện ngắn của Như Phong ở Hà Nội, của Cao Thọ Ân ở Hải Phòng in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, quãng năm 1936.
Có khi Như Phong nói vui: "Mình được sinh ra giữa những bức tường và mái nhà, cả đời chưa bao giờ trông thấy mặt trời mọc. Mỗi ngày nhìn lên đã gặp ánh nắng ở trên đầu tường rồi”. Dễ thường câu nói nhận xét ấy cũng phản ánh hình ảnh mơ ước của tuổi thơ, của tinh thần những sáng tác đầu tiên của chàng trai phường phố khi đưa xuống bút những ý nghĩ xa vời của mình. Tôi ngỡ như thế và thông cảm sự ham chuộng cái gì khác thường ngày trong những sáng tác đầu tay của Như Phong. Những suy nghĩ, những khắc khoải, những ước mơ, những tưởng tượng xanh trong như trời xanh trên kia của lứa tuổi nhìn ra cái ô cửa sổ cánh gỗ gạn sát mái nhà, mỗi khi mở then lại phải nhấc tấm mành, mà cũng chỉ thấy gờ lên những mái nhà, lại những mái quanh quẩn.
Ai từng ở những căn gác hẹp chật chội quanh co giữa thành phố mới nhìn ra được vùng sông quái lạ nhấp nhô những mái nhà, những đầu tường, những mỏm chuôi vồ nóc mái cứ xám mờ như làn sóng đất.
Sóng quẩn, cao thấp quành quanh, phía nào cũng thấy thế, mái nghiêng, từng miếng chìa ra dưới cánh cửa mắt bò ti hí hé như con mắt ngái ngủ ngỡ ngàng trước làn ngói lô xô vây bọc đời đời, cả đời.
Những mà ngẩng đầu lên trên làn sóng mái ngói u uất ấy, in một khoảng trời xanh. Trời thu thành phố xanh vô cùng xanh. Đấy có phải là biểu tượng một khắc khoả một hy vọng trên cái trơ trọi tẻ ngắt nổi lên niềm mơ ước đến không cùng.
Trong những cây bút viết truyện ngắn thời kỳ này mà tôi thường đọc, tôi không thích những truyện ngắn nhẹ nhàng của Khái Hưng, Nhất Linh, mà trong lớp trẻ hơn viết truyện ngắn như Nguyên Hồng, Cao Thọ Ân, Nguyễn Xuân Huy, Ngọc Giao, Thanh Châu, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du tôi yêu truyện ngắn Cao Thọ Ân và Như Phong hơn cả, mặc dù Như Phong viết không nhiều. Truyện ngắn Như Phong gọn thoáng, mới lạ, khơi gợi nhiều đối với một người đương tìm học và tìm lẽ sống như tôi.
Trong đời viết, Như Phong chỉ sáng tác có độ trên, dưới mười truyện ngắn đầu tay. Sau này, vào kháng chiến chống Pháp, khi ở Gia Điền (Phú Thọ), Như Phong cũng viết một tiểu thuyết, nhân vật chính tên là Tâm và Như Phong cũng định đặt tên tiểu thuyết là Tâm. Có lẽ là một tiểu thuyết tự truyện. Nhưng anh cũng chỉ mới viết được có mỗi một chương.
Những truyện ngắn của Như Phong mang tâm sự và khát vọng của một thanh niên mới lớn ngồi trong ô cửa sổ con con nhìn ra "thèm chân trời mà chưa hề thấy chân giời". Nỗi lòng cùng ý chí và ước muốn của người traí tré giữa chật hẹp, bức bối mà xa kia là trời xanh thăm thẳm.
Đấy không chỉ là dáng nét quang cảnh bề ngoài, mà là những con người, những tâm sự. Trong truyện ngắn, Như Phong miêu tả một lớp nhân vật trẻ tuổi. Lớp người, có cả tác giá, có cả bạn đọc, cả lứa luôn chúng tôi lầm lụi quanh quẩn dưới những mái nhà hũ nót, bao nhiêu đời nay đã thế, có thể còn cứ thế mãi với cuộc sống vật lộn bon chen, nhưng mỗi lúc cực nhọc, u uất quá, trông ra, thấy được mảnh xanh phương trời hình như có đem lại một ý nghĩa khác. Đối với những ai trong khắc khoải, những gì làm cho thấu hiếu thêm nỗi đau khổ cùng lứa tuổi chúng tôi, nhân vật - người viết và người đọc cũng như nhau, tất cả đều cảm thương những người trẻ tuổi ấy cứ xám ngắt lại có cơ cọc cằn, tàn úa đi, nếu chỉ như thế nào ngày ngày...
Những cái như tưởng tượng đó chính lại là hình thù mọi mặt của sự thật cuộc sống và tư tưởng một lớp thanh niên vào quãng trên dưới thập niên 40 của thế kỷ này, những năm cao trào công khai Mặt trận Dân chủ Đông Dương, cờ đỏ được trương lên giữa cuộc mít-tinh quần chúng ngày 1 tháng năm 1938 ở khu nhà Đấu Xảo với những đợt chúng tôi hô đến khản giọng, đả đảo tờ-rốt-kít. Tình thế đã khẩn trương thật đặc biệt.
Thế rồi, chiến tranh thế giới xảy ra. Đợt khủng bố ác liệt ập đến. Pháp, Nhật: thực dân và phát-xít đều vằn máu mắt, ra tay bắt và giết. Nhưng sức mạnh nổi dậy đã là một sự thật, như mảnh trời xanh nguyên rất Hà Nội kia, chàng thanh niên Như Phong, lớp tuổi trẻ Như Phong thời ấy, đã có mặt và tham gia Tổng khởi nghĩa.
Dưới mái những nếp nhà cổ xưa ngói lượn lộn xộn, trong ô cửa mắt cáo tối om, những bàn tay con người giơ ra, đã vốc được trời xanh, trời xanh lồng lộng trong mắt, trên tay. Tiếng nói gửi gắm vào những truyện ngắn của Như Phong đã thành sự thật của hiện thực ước vọng của tuổi trẻ.
***
Cuộc sống chẳng bao giờ đơn giản. Nhìn lại tình thế thời đó, tình thế ở mỗi người, dằng dặc, éo le những khủng khiếp mà người ta đã vượt qua hay đành chết chìm trong ấy. Một bên, đêm ngày khốc liệt những tàn sát đẫm máu của thực dân và phát xít. Một bên, những hoạt động cách mạng đưa từ âm ỉ tới thức tỉnh. Hai làn sóng sôi sục, lay động tất cả. Mỗi con người phải thế nào, sẽ thế nào. Không ai có thể đứng yên, ở yên.
Chúng tôi, những người đương quằn quại trong sóng gió ấy, chúng tôi rã rời đi hay là tới được khoảng trời xanh vẫy gọi kia.
Khi tôi bắt đầu cầm bút, các nhà lớp trước như Tản Đà, như Vũ Trọng Phụng đã mất, tôi không được biết mặt. Các đàn anh Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân đều ở lứa tuổi trên. Các nhà văn trước kia đã từng sôi nổi hướng nghĩa như Trúc Khê, Nhượng Tống cũng đã luống tuổi và sống yêu phận ngày ngày đi làm công việc dịch thuật, trước tác lĩnh lương tháng.
Hình ảnh lý tưởng về con người cầm bút khá hấp dẫn lúc ấy đối với tôi là Như Phong và Nguyên Hồng - những người viết gần gũi, xấp xỉ trên tuổi tôi một chút.
Chúng tôi thường gặp nhau tại phố Phạm Phú Thứ toà báo Thế giới, cơ quan Đoàn thanh niên Dân chủ. Ở đấy có Đào Duy Kỳ, giỏi lý luận, có Trần Mai Ninh viết lối văn vừa thơ mộng, vừa khác lạ, cực mới, có Thành Ngọc Quản biết bốc ăng-lê và chúng tôi say sưa bàn về một tờ báo phiêu lưu mà lý thú, toà soạn ở Hà Nội, nhưng in và phát hành ở Sài Gòn. Tôi còn nhớ, cái nhà báo Thế giới, mặc dầu chỉ là một gian hẹp, khác nào cái cửa sổ mở ra trên nóc những đợt sóng mái nhà trước cửa chợ Đồng Xuân. Giữa phòng kê tấm áp-phích to hơn chiếc chiếu liền dán lên cót ngăn đôi gian phòng. Áp-phích của Đoàn thanh niên Cộng sản Pháp: một đám trai gái giơ nắm đấm kiểu chào mặt trận Bình dân. Tờ tranh khuấy động không khí gian nhà âm thầm. Và ở đấy nhiều khi đã sôi nổi những cuộc tranh luận quanh những gói thịt chó, gói thịt vịt quay và cút rượu mua ở chợ hàng Da về.
Những người viết văn, viết báo ở Hà Nội thời kỳ này sống ồ ạt, phóng túng, làm ăn và chơi bời, không ai coi như thế là không bình thường. Nhưng chúng tôi cũng không hẳn là những tay ăn chơi đến vục mặt xuống. Sống và sáng tác, chúng tôi vừa ngoi ngóp, lại vừa tự vượt lên. Cuộc sống thời thượng, sa đoạ kề cạnh những hoạt động mải mê, hăng hái. Có khi thức trắng đêm viết một cái truyện ngắn trên gác một nhà ả đào ở dưới Ngã Tư Sở. Không cắt nghĩa mà chỉ thấy thế là ngang tàng, tối hôm trước ngủ xăm đầu phố Sinh Từ, sáng hôm sau xông đi gặp tờ-rốt-kít Nguyễn Tế Mỹ tranh luận một trận lôi đình. Ở một tiệm hút cuối phố hàng Chiếu, âm thầm nghi ngút như trong cửa điện đồng cô, cãi nhau rầm rĩ về H. Bác-buýt, về Phít-ni-ê...
Tôi ngỡ thế mới thật kiểu nghệ sĩ và cách mạng. Nhưng, thời thế biến chuyển hàng ngày, tình hình không phải lúc nào cũng đọng lại, phóng khoáng và miên man như vậy. Trên Hàng Giấy, những hiệu bán đối trướng Tùng Lâm, Tiến Cảnh- cơ quan liên lạc bí mật của Xứ uỷ Bắc Kỳ, đã biến mất. Ô tô mật thám lùng bắt người suốt ngày. Những người ở toà báo của Đảng không biết đã rút kịp hay đã bị bắt: Đoàn thể gọi Nguyên Hồng xuống Hải Phòng định đưa đi thoát ly, nhưng rồi Nguyên Hồng bị bắt, bị đầy lên căng Bắc Mê, Như Phong bị xích tay giam ở sở mật thám...
Thành phố đêm trong ánh đèn phòng thủ thụ động tối như hũ chum. Những người còn sót lại có cảm tưởng rỗng không.
Mật thám dung dưỡng cho mấy tay tờ-rốt-kít đánh võ mồm mặc sức hò hét "giai tầng vô sản làm cách mạng thế giới". Cánh ấy ra báo, cũng in bí mật dưới tên báo Tranh đấu có dòng chữ "đệ tứ quốc tế phụng sự cách mạng thế giới!”. Trên đường phố len lét mấy người mất tinh thần trước cơn khủng bố trắng. Bọn mật thám để yên cho những người ấy trước cũng hoạt động bây giờ đi lang thang. Có người gặp ai cũng xin tiền ăn, hút. Họ viết báo, sáng tác tầm phơ - mà trước đây đã có những bài rất cách mạng đã đi mít tinh đứng trước chị em tiểu thương chợ Đồng Xuân, tay cầm ba-toong, mặc vòi rồng xả nước vào người, vẫn đứng.
Không còn ai nữa. Những sôi nổi đã qua. Chúng tôi bàng hoàng, lặp ngụp giữa ngột ngạt, giữa bế tắc, giữa những tình huống quái ác ấy. Khác nào lại ngồi nhìn làn sóng quẩn các mái nhà, có trời xanh trên kia. Hoặc là ngạt trong tăm tối ấy, hoặc là mở cửa tới được.
Ở một tiệm thuốc phiện phố Mã Mây. Gác xép trong ngõ tối tăm, ướt át kiểu này, cứ nhô lên khỏi cái thang gỗ, chỗ nào cũng là tiệm hút. Những ổ rệp rải rác các ngóc ngách tồi tàn. Mấy tấm phản kê đổi đầu đổi đuôi, vừa bằng hai cái áo quan ghép một, đã nhếch nhoáng mồ hôi lên nước nhẵn thín, với khúc gối gỗ trơ trọi.
Những hạng người nào lui tới đây? Ở tuổi tôi lúc ấy chưa đủ trải biết những lọc lõi đến thế. Tôi trông thấy chỗ nào cũng người ngả lưng âm thầm, lúc nhúc như nhau. Đám áp-phe. Du côn. Me tây. Con bạc.
Người sắp đi tự tử. Những đứa choai choai tập tọng ăn chơi. Đám nhà vặn, nhà báo với bọn đàn em để sai bảo. Quần áo, mặt mũi người nào cũng rầu rĩ u ám. Họ không phải những ông nghiện bóng môi lên như ông Thạch Lam hay ông Lê Văn Trương. Nhiều người còn thật trẻ cũng không đoán được tuổi tác thế nào. Lại những ông bị đoàn thể bỏ rơi, viết báo nhăng nhít và đi xin tiền. Sợ bọn này hơn cả, có khi họ đã muối mặt làm mật thám rồi.
Họ là ai? Có phải họ là những người bơ vơ sau cơn địch khủng bố. Sự trống rỗng đến khủng khiếp. Không, ở Sở mật thám, Như Phong bị đánh, bị tra điện, bị doạ từ giờ phải “chừa làm cộng sản". Nhưng Như Phong vẫn nghiêm nghị và chững chạc thế. Như Phong vẫn như thế. Chúng tôi gặp nhau, kể lại những tin đồn anh nào, anh nào đã chạy thoát. Nghi ngờ anh nào trước hăng hái thế mà sao bây giờ không phải bắt? Tiếc Nguyên Hồng đã không đi thoát ly, lại bị. Chuyện huyền thoại Thành Ngọc Quản trốn xuống bãi Nghĩa Dũng, chập tối mật thám ập vào Quản chơi miếng bốc hay quá, bọn chó chỏng kềnh, thế là Quản thoát.
Chẳng biết có thật vậy không, nhưng chuyện cứ rỉ tai mãi như sự tích thần kỳ. Chúng tôi không hốt hoảng. Nhưng mà trống rỗng, buồn đến thê thảm.
Phản hút ở góc u ám ấy thật tĩnh, không còn biết mình ở đâu, ai cũng trầm ngâm im như chết. Cả cái gác lỉnh kỉnh giường kê ngang kê dọc, những ngọn đèn dầu lạc trong khay thuốc, lui húi như ánh đèn bên bát cơm quả trứng cạnh những xác người còng queo. Cái chỗ chui lên gác đã được đậy nắp gỗ xuống. Những cửa sổ đều kín mít, đến chỗ mảnh kính trên nóc đón chút ánh sáng vào, các ông khách bẹp tai cũng bắt chủ tiệm phải bịt mảnh giấy nhật trình lại. Cho đỡ hả hơi thuốc. Trong nấm mồ lơ lửng giữa trời này cứ khói um lên, người như những cái bóng sợ gió và ánh sáng.
Không biết đương trưa, hay chiều, hay đã tối. Nghĩ gì, làm thế nào. Mỗi thời kỳ khi bước ngoặt lịch sử tiến tới ở từng con người đều tới lui những tâm trạng khác nhau, ai biết ở nơi tàn tạ cùng cực đây, cả đến hai chữ “truỵ lạc” cũng ý nghĩa khác ở mỗi người.
Nghe có người kỳ cạch trèo lên thang gác, rồi tiếng đội nắp cửa lên. Hẳn phải là khách quen. Rồi cũng chẳng ai để ý. Bóng tối vẫn âm u trẩm lẳng lặng.
Người ấy nhô đầu, nhìn quanh một lát cho khỏi quáng mắt rồi vịn phản đến chỗ chúng tôi. Chẳng rõ mặt mũi, nhưng thấy trên đầu trăng trắng vành khăn ngang. Biết rồi. Lại cái anh đã vung ba-toong giơ nắm đấm hô ủng hộ đám biểu tình của chị em tiểu thương chống thuế, ở cửa chợ Đồng Xuân, mặc vòi rồng đội xếp phun nước vào mặt. Bây giờ thế này đây.
Như Phong "à" một cái, không nghe rõ là thở dài hay tiếng kêu nhận ra hắn. Người chít khăn ngang ngả vào giường chúng tôi, anh cứ tự nhiên kéo một điếu rồi nằm yên thưởng thức hơi thuốc ngấm vào mình. Nghe chừng một lát mới lại hơi, rồi nói rầu rầu nho nhỏ:
- Bố tao chết đã được một tuần. Biết tin thế, mà chẳng cách nào về được.
Im lặng.
Như Phong mở ví, nói:
- Này, cầm tiền về mà làm ma cho bố mày.
Người ấy nhét tờ giấy bạc vào ngực áo, rồi lại ngóc cổ lên, tay đặt vào dọc tẩu, tay xoe tiêm trên đèn sắp sửa làm điếu nữa. Cái môi thưỡn ra, nhầy lên một màu đói khát trong ánh đèn dầu lạc lờ mờ.
Như Phong dằng cái tẩu rồi thong thả nói từng tiếng:
- Mày xin tiền tao để làm ma bố mày đã mấy lần, quên rồi à? Tao bảo cho mày biết lần này là lần cuối tao thí cho, từ nay mà mày còn mở mồm ra xin tiền làm ma bố nữa, ông đập vỡ mặt, biết không!
Người ấy thản nhiên cầm lại cái tẩu, về điếu thuốc, có lẽ là điếu sái, anh ta vừa mới tự tiêm xong. Hút đoạn rồi chiêu một ngụm nước, nằm im, ngửa mặt lên.
Bỗng rền rĩ anh ta ngâm:
Tự quân chi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tự quân như mãn nguyệt
Dạ dạ giảm thanh huy
(Thơ Trương Cửu Linh, đời Đường)
Dịch nghĩa: Từ khi chàng ra đi. Thiếp không còn lòng dạ nào sửa sang lại khung dệt dở. Nhớ chàng chẳng khác mặt trăng tròn. Từng đêm, từng đêm hao mòn vẻ trong sáng.
Tiếng ngâm thơ hay tiếng rên, tiếng khóc, tiếng ô hô bố chết mẹ chết đằng sau lưng. Hay là tiếng cái thằng chính trị vỏ một thời viết báo lăng nhăng lại đến.
Không biết tiếng gì, và không liên quan đến câu Như Phong chửi thằng này. Chúng tôi mặc nó đấy. Chúng tôi lật đật xuống cái lỗ cửa thang dựng đứng.
Rồi có bao lần Như Phong trở lại cái tiệm hút phố Mã Mây ấy, không biết. Nhưng viết về Như Phong mà nhỡ tôi không kể lại cái lúc anh đã nói như những câu tát vào mặt đau đớn khủng khiếp đến như thế với cái thằng mất tinh thần “bố chết không biết bao lần”, thì thật không phải với anh.
Đứng trên bờ sông, chỗ cột Đồng Hồ trông xuống bãi, Như Phong hỏi tôi:
- Mày có được tin tức gì không?
Những câu hỏi han như thế thường hay xảy ra sau những chuyện đau lòng tương tự vừa rồi. Chúng tôi vừa kinh rợn quanh mình, vừa mong ngóng, chờ đợi một cái gì, một khoảng trời xanh.
Một hôm, Như Phong lên nhà tìm tôi, anh lấy trong túi áo ra mấy tờ in litô bé bằng bao diêm, bìa đỏ nhạt “Chương trình và điều lệ Việt Minh”.
Chúng tôi nhìn nhau, không nói. Lời nào hơn được khoảng khắc im lặng này. Vẫn là mảnh trời xanh vô cùng chờ đợi ngoài cái cửa sổ gác xép tù túng của một lớp trẻ trong một tình thế sôi lên giữa cuộc sống thật va cái chết tan rã.
Mùa thu 1944 Như Phong và tôi bị bắt. Bị bắt lần thứ hai, nhưng Như Phong vẫn thế. Bình tĩnh can đảm, không hoảng hốt, không khai. Được tha ra lại lao vào cơn lốc những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội.
Đêm 17 tháng 8 năm 1945, Như Phong cùng đội tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu võ trang đột nhập ba nhà in báo hàng ngày, các tờ Tin mới, Đông Pháp và cả tờ Bình minh thân Nhật. Những đội công nhân cứu quốc các nhà in này đã sẵn sàng. Các báo đều phải in trang nhất bài tường thuật Như Phong viết về cuộc mít-tinh ban chiều của công chức biến thành mít tinh ủng hộ Việt Minh ở quảng trường Nhà hát Lớn.
Cũng trên trang nhất, Việt Minh thành Hoàng Diệu ra lời hiệu triệu toàn thành võ trang xuống đường ngày hôm sau: mười chín tháng tám.

9. Trần Huyền Trân


Có lần, trên hồ Tây, Nguyễn Huy Tưởng đã hỏi Trần Huyền Trân:
- Tại sao cậu lại dùng cái bút danh khăn yếm như thế, dẫu cho đó là tên một tuyệt tác giai nhân?
Câu hỏi cũng là một nhận xét. Nhà tiểu thuyết lịch sử ấy đã thấy gợn gợn khi xem ra cái tên kiều diễm không hợp chút nào với dáng dấp con người nhà thơ
Trần Huyền Trân, nước da bánh mật, ánh mắt thăm thẳm và cặp này xếch, từ thuở nào tới giờ vẫn dường như khắc khổ, nhưng lại trang nhã và phảng phất vẻ gì giăng gió.
***
Trần Huyền Trân chỉ lặng lẽ mỉm cười.
- Ồ, cái nàng công chúa Huyền Trân nhất thực đa tình nọ nào có bận đất đến nhà thơ của chúng ta.
Người con gái tài sắc phải bán mình sang Chiêm để cho vua cha được người la dâng đất châu Ô, châu Ri. “Nước non ngàn dặm ra đi... Mượn màu son phấn, đến nợ Ô Ly... Thế rồi cái anh chàng tướng trẻ tài hoa Trần Khắc Chung kia phụng mệnh sang Chiêm cứu nàng khỏi bị nạn thiêu sống bởi phải chịu tang chồng, đã dùng mưu đưa được người đẹp từ giàn lửa ra bờ bể làm lễ chiêu hồn ở ven trời". Rồi lại cướp được Huyền Trân thoát xuống thuyền. Con thuyền trở về lênh đênh mãi ngoài khơi qua những cửa Thần Phù, Tuần Vương bao nhiêu tháng, bao nhiêu lần mà cố tình vẫn chưa nhìn ra đường nước vào bến. Đôi trai gái đã để lại thế gian một trang tình sử cực não nùng.
Ai đếm được, làm sao kể xiết biết bao nông nồi đẹp và buồn trong đời tình của mỗi tuổi trẻ. Thuở ấy có người mê thơ Trần Huyền Trân, nhiều năm ròng, bàn tay yêu kiều ở một thị trấn trung du ủ bóng đồi cọ đã thêu những bài thơ Trần Huyền Trân trên lụa, chữ lụa. Năm tháng qua đi, “Mặt nhau chưa từng biết. Tiếng nhau chưa từng nghe” (Trần Huyền Trân) chẳng khi nào ai biết ai. Nhưng biết rằng thế là đã gặp những chiêm bao không gì sánh nổi, không bao giờ có được.
Ai còn nhớ những câu thơ "trở lại vườn Thanh có một mình" quãng 1937 ở cái khi mà những người yêu của chúng tôi chắc chắn các cô còn vắt vẻo tóc bỏ đuôi gà và chưa biết tỉa lông mày.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thôi!

Có lần tôi gặng hỏi Thâm Tâm, nhưng con người bé nhỏ âm thầm mà gai gạnh ấy chỉ nói: "Vườn Thanh là Thanh Giám, chứ không phải xứ Thanh đâu. Lại càng khó hiểu hơn.
Trên gác báo Bút Hà, - Trần Huyền Trân thuê lại báo của ông Bùi Đức Dậu, làm được mấy số - phố Cao Đắc Minh trông sang Thanh Giám Văn Miếu. Bãi cỏ bậc thềm bậc đá, tường gạch vỡ, mái ngói rêu phong, những gốc đề, gốc muỗm cổ thụ và sự vắng lặng. Câu chuyện tình u ẩn mà nhiều báo nhiều thời bàn tán nào Hai sắc hoa ti-gôn, nào T.T.Kh, nào Thâm Tâm và Khánh, là hai người ấy hay là ai. Những éo le mơ hồ, các anh Thanh Châu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính - những đồng tác giả câu chuyện tình huyền thoại ấy hôm nay cũng còn có bạn có thể kể lại rành rõ được (hay là người ta cứ muốn để mờ ảo mãi như thế), tôi không quan tâm, mà chỉ muốn mách các bạn: không phải chỉ Nguyễn Bính làm thơ về T.T.Kh, mà riêng nhà thơ Trần Huyền Trân có đến bốn bài thơ viết ở "vườn Thanh". Những bài Thưa bà - 1938 (Gửi một bà yêu thơ), Tiếng đàn đôi ta - 1938, Có những mùa đông - 1939 và Trưa ấy qua rồi - 1939, đều viết ở Thanh Giám.
Và bài thơ sau cùng Trưa ấy qua rồi miêu tả tâm sự "trở lại vườn Thanh" của Trần Huyền Trân có những câu:
Bây giờ năm tháng vô duyên quá
Em đã theo những bên cát xa
Đò đã sang sông, chèo lái mới
Sao còn khua bóng mãi thơ ta
Ai vẽ giùm tôi một buổi trưa
Bối, trời mây gió đến đem cho
Một hy vọng lao từ đâu lại
Giấu o trong lòng mấy tiếng thơ

Thanh Giám 1939
Bạn yêu thơ chắc, còn nhớ những "sang sông, sang ngang", "bốn trời", và "bến cát xa" không phải của riêng Trần Huyền Trân. Hình ảnh những chữ mênh mang man mác ấy cũng thường thấy ở thời kỳ ấy trong thơ và tên bài thơ, tên truyện ngắn của Thâm Tâm, của Nguyễn Bính.
Đó là những câu chuyện thơ mộng có và không có của một thời, của một lứa tuổi, một lớp người.
Cái bút danh Trần Huyền Trân cũng thế, đấy là sự tích một thiên trong những pho tình sử não lòng người thơ. Huyền Trân không bận, không dính dáng chút nào đến cô công chúa nhà Trần dan díu với Trần Khắc Chung mà Nguyễn Huy Tưởng đã hỏi. Huyền Trân này là cái tên của những ngày khốc liệt, oan nghiệt.
Ơi hỡi! Đứa con không có tên
Nằm trong xác bụng mẹ vô duyên
Con lên mẩm sống trong lòng chết...

(Cái thai hoang, 1942)
Ngày trước, Trần Huyền Trân có viết một tiểu thuyết tên là Sau ánh sáng. Những cảnh và người quanh phố Khâm Thiên trong tiểu thuyết được miêu tả như một tự truyện, những lều cá, những bè rau muống trên các ao chuôm, cống rãnh khúc khuỷu cạnh ngõ Sơn Nam, ngõ Liên Hoa qua Cống Trắng, sau ánh sáng của nơi ăn chơi nghiêng trời.
Thời ấy, những người cơ cực các nơi lên thành phố kiếm cái sống đều tìm chỗ trú ngụ ở vùng bãi sông Hồng và bám vào các rìa phố phường như thế. Sau lưng, phố Khâm Thiên đủ loại trác táng và bài bạc, những lầu xanh chỗ chơi của người phong lưu, nhà thổ đèn đỏ cho người kiết xác, các tiệm nhảy Pa-gốt, Ta-na-ka, thời Pháp - Nhật. Nhưng ngay ở nơi mà hai chữ Khâm Thiên dễ làm cho người ta ngày nay tưởng ở đấy chỉ rặt những cảnh đêm ngày ném tiền qua cửa sổ, không phải, còn vô số những con người lênh đênh giạt đến các nhà hát làm đào rượu, một loại gái điếm chuyên đứng quạt, hầu rượu, ăn ghẹ rồi mắc màn ngủ vòi tiền khách làng chơi, những gái nhảy bị đổ bệnh tim la, mọi số phận cùng đường.
Cô Hiền, cô Trần Nguyệt Hiền không phải gái giang hồ nhưng cũng ở trong cảnh lẽ mọn tương tự đám người có những cái tên hoa lá cành được khách làng chơi đặt cho, nào Mộng Điệp, Mộng Hồ, nào Tuyết Hấp, Tuyết Lành, Nguyệt Lìm, đại khái vậy.
Trần Huyền Trân gặp Hiền ở một nhà hát. Cũng không phải gốc gác "rằng xưa vốn là người Kẻ Chợ" mà Hiền đã trôi từ đồng quê ra, có lẽ đã có lần đứng ở phố Mới buôn người đợi kẻ có tiền đến giắt đi làm con sen, con nụ cho những nhà giàu bạc ác. Rồi người ta thản nhiên tống khứ con ở ra khỏi cửa, Hiền ra khỏi kiếp tôi đòi ở một nhà quyền quý kia với cái thai trong bụng. Xót sa, những con người lận đận, cơ nhỡ gặp nhau. Hiền trở dạ. Chỉ có anh chứng kiến, một mình anh lo cho Hiền được mẹ tròn con vuông với đủ mọi việc: niêu nước mắm chưng, tiền đút nhà thương làm phúc, cái áo cũ xé làm tã và làm tờ khai sinh cho cháu bé. Chút thương đau chết đuối trong cảnh ngộ ấy của hai con người họ Trần giữa trầm luân đời người, đã khiến cho họ nghĩ ra cái dấu nối đẫm nước mắt. Trần nối với Trân bằng dấu huyền ở giữa là Trần Huyền Trân - cô bé con thiên hạ được khai sinh là con anh và tên là Trần Huyền Trân, đấy là đứa trẻ tội nghiệp và là bút danh, tên thơ yêu dấu của anh.
Tên đứa trẻ và tên thơ tuyệt nhiên không ngẫu nhiên. Tính nhân đạo cao đẹp, Trần Huyền Trân tiếp thu được do anh đã giác ngộ cách mạng. Cuộc đời luân lạc và ý chí, lý tưởng trong thời kỳ đất nước trải qua những hoàn cảnh hết sức lớn lao, mỗi người đứng trước cái sống cái chết trong giai đoạn khẩn trương cả nước, nhà thơ bất giác tự nhận ra mình và dặn đứa con không bao giờ gặp lại.
Rồi lớn lên con mở mắt nhìn
Khóc cùng bách tính sống như đêm
Nhưng không! Đừng khóc! Thán gân cốt
Ta bậc thang đời, con giẫm lên

(Cái thai hoang)
Tên thơ, ba chữ Trần Huyền Trân ra đời xiết bao tình nghĩa như thế.
Bây giờ cô bé Trần Huyền Trân năm xưa ở đâu nếu trời còn để cho chứng sống đến hôm nay, chắc đã nên bà.
Sau ánh sáng
Bóng người trên gác kinh là tên những tiểu thuyết của Trần Huyền Trân. Những "sau" những "bóng", những chau mày hồi hộp và tiếng thở dài não ruột, những ảo tưởng, ước muốn.
Bạn tôi được sinh ra giữa thành phố, thật giữa kinh thành - hai chữ "kinh thành" du dương một cách vu vơ của mấy người cầm bút đói khát và lãng mạn, bởi nếu tôi có kể lể một chút về cuộc đời của bạn tôi giữa Hà Nội thì người đọc cũng chỉ thấy như câu chuyện ngổn ngang vướng vất heo hút đồng sâu nào chứ chẳng hề liên quan tới bóng dáng những kinh thành hoa lệ tưởng tượng kia.
Mẹ ở cữ anh ở khu nhà thương thí trong bệnh viện Phủ Doãn. Kể ra, cái năm 1913 ấy, người khốn khó mà được đến đẻ ở cái nhà thương làm phúc, không phải nằm ở trong xó buồng có bà già hàng xóm sang cầm chiếc que nứa soi đèn lên cắt rốn cho đứa trẻ, kể cả như tôi, thì cũng là may. Được may, cũng bởi mẹ anh làm "cu ly san" nhà thương Phủ Doãn. Trần Huyền Trân được mười tuổi thì bố chết, mẹ anh một nách nhếch nhách bốn con mọn, trai có gái có, nhưng tất cả các em đã chết dần chết mòn hết. Làm thế nào lần hồi qua bước cơ hàn, người đàn bà "cu ly san" ngày ngày đi làm, tối tối đội cái thúng đi rao bán bánh khoai lang rán, mà khách ít tiền ăn quà gọi sang trọng là bánh dừa rán. Tiếng ời ời vào các ngõ phố quanh co đêm đông giá buốt sang đêm hè, quanh năm thế.
Nửa đêm kia, bà bị cảm giữa đường, tình cờ, một người đi làm khuya về nhìn thấy, vực bà lên, giúp tỉnh lại. Rồi bà lấy người đàn ông đã cứu bà. Nhưng oái oăm, cuộc đời vẫn chỉ như bước từ ngoài sân vào cái nhà dột, ông ấy vốn là cu ly khuân vác trên ga Hàng Cỏ, đã có vợ con. Cảnh đò nát đụng nhau, làm không đủ ăn, lại eo sèo vợ lẽ con thêm, ông ấy đến dựng lều kéo vó kiếm thêm con tép com tôm ở Cống Trắng sau lưng Khâm Thiên. Bà ở lều thả bè muống quanh cọc kiếm ăn bòn mót những chợ Hôm, chợ Đuổi, đầu ô, anh sống lay lắt trên mặt nước với mẹ, cái lều kéo vó trong đầm nước cạnh Cống Trắng đối với Trần Huyền Trân chẳng phải chỉ là kỷ niệm buồn tủi một thời thơ dại, mà túp lều còn thực sự là nơi đi về sinh sống hẳn hoi cả về sau này, khi anh đã biết đi kiếm ăn, đã làm thơ.
Đi đâu thì đi, rồi lại chui lủi rúc ráy về đấy. Cái lều kéo vó, hình ảnh hiện thực cuộc sống rách nát đã vào Trần Huyền Trân suốt cả đời thơ.
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa

(Thu 1939)
Bạn bè đến với Trần Huyền Trân cũng tụ hội lênh đênh mặt nước, trong cái lều trước mặt có bốn chiếc gọng vó chỏng lên trời. Mỗi lúc đi về lều bám ngón chân vào vấu cọc tre, khoả chân rửa rồi chui vào cái sàn nữa, những ngày gió bấc gió nồm chúng tôi nghe óc ách nước khua bốn phía phên liếp.
Mưa lũ ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã rời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Trạnh lòng cá nhẩy với chim bat
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Dăng phải hồn tôi một lưới đầy

(Một đêm Lều vó, 1940)
Gió ngớt khua lau dưói gậm cầu
Người về gió lạnh bước thôi mau
Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm
Đây lúc đôi mùa tiễn đưa nhau
Ấy lúc hồn hoa trở gót về
Thả đàn chim mộng xuống thâm khuê
Tôi nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi

(Đôi Mùa, 1940)
Hồi sau, anh thuê được một gác xép ở ngõ cạnh đấy, cùng một lối trổ xuống bến. Các bạn gọi một cách khoa trương là gác Sơn Nam, không phải Sơn Nam hoài cổ, mà các nhà trong ngõ cho thuê là của ông chủ Bạch Sơn Nam, nhiều truyện ngắn và thơ được đề một cách hoa mỹ “Viết ở gác Sơn Nam”, “ở đầm Liên Hoa" cũng chỉ là ở đấy. Những cái tên đẹp đẽ chỉ là chiêm bao gửi mộng vậy, lẫn lộn, thực và mộng, cuộc sông gay gắt và hoạt động đổi đời, đương đến với một lớp người.
Trong những năm Hà Nội dũng cảm và quyết liệt sửa soạn Tổng khởi nghĩa, chính ở cái gác "Giường ken chiếu nối xoay ngang dọc. Xương gối vào xương chẳng đủ nằm” (Trần Huyền Trân, 1940) có những chuyến liên lạc của đoàn thể Việt Minh, mối giao thông đã đến gửi cán bộ trú tạm ở đấy. Ở mái lều vó ngoài hồ, Trần Huyền trân đã gài báo và tài liệu bí mật mới nhận đợi chuyển đi. Đã có những lần anh Bé (một bí danh của Lê Quang Đạo, bí thư ban cán sự Đảng ở Hà Nội những năm ấy) đến với Trần Huyền Trân ở lều, ở gác Nam Sơn những ngày thành phố đen tối quằn quại.
Thơ Trần Huyền Trân càng về sau càng gồ ghề sắc thái thời thế.
Thuở ấy ra quân lớp lớp dài
Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai
Lòng con nắng giục mầm hoa lửa
Gió bốn phương lùa lộng chí trai.

(Lòng chiến sĩ, 1939).
Trông lên đèn cũng nở hoa,
Tưởng đâu trong ruột bấc già đượm hương.
Đèn soi giấy mực yêu thương,
Đón sang trang mới mở đường xuân đi

(Đêm trừ tịch, 1943)
Máu bốc lên! Hỡi anh em!
Chân trời đã rạng một nền tự do.

(Những người chưa chết, 1944)
Hiện tượng đó không phải bất chợt, mà đấy là tâm hồn, sức sống và hành động đã quyện làm một trong thơ Trần Huyền Trân, ở các bài trên báo chí công khai và báo chí bí mật. Trong giai đoạn Tổng bộ Việt Minh kêu gọi toàn dân "đánh Pháp, đuổi Nhật tiến tới Tổng khởi nghĩa”, Trần Huyền Trân đã sáng tác nhiều thơ và ca dao ký bút danh Đỗ Quyên, hoặc không ký tên. Như Phong và Nguyễn Huy Tưởng đến liên lạc lấy các bài ca dao của Trần Huyền Trân đem in trên các báo Cờ Giải phóng của Đảng Cộng sản Đông Dương và báo Cứu Quốc của Mặt trận Việt Minh, phát hành bí mật.
Một vẻ nhọc nhằn vất vả mãnh liệt từ đất đấy lên, nhưng lúc nào cũng vẫn như dang dở. Ở con người cũng như trong sáng tạo. Đấy là cảm tưởng mỗi lần tôi nghĩ về bạn, không phải chỉ bây giờ, mà từ những ngày tôi thường lui tới với anh và Thâm Tâm ở ngõ Sơn Nam.
Cuộc đời điêu đứng từ trong trứng của con người lăn lóc “từ buổi chân làm ngựa" (Trần Huyền Trân) để kiếm miếng sống, từ nghề gõ đầu trẻ tư gia và các trường tư còm cõi quanh quẩn Khâm Thiên, Ô Chợ Dừa, rồi làm ét thợ chiếu bóng vác cái phim Người kẻ cắp thành Bát-đa đi hầu khắp các tỉnh, tới Sài Gòn, sang Phnom Pênh. Thay đổi công ăn việc làm trên bước đường luân lạc chẳng qua chỉ xoay xoả đến thế, mà cũng không đủ miếng cơm manh áo. Những gian truân ấy càng đưa anh đến với những khao khát đổi đời. Trong đời văn của một người có nghị lực tự học, Trần Huyền Trân đã trải đủ bước và bước lên từ những chập chững. Lúc đầu, anh viết loại truyện kiếm hiệp “tiểu thuyết ba xu”, viết lời ca cho “bài hát ta theo điệu Tây” ký Trần Kim thì cũng vẫn chẳng khác anh dạy trẻ học, làm thợ nguội, làm ét chiếu phim. Rồi dần dà anh viết truyện ngắn, tiểu thuyết, làm báo, làm thơ, hoạt động báo chí trên nhiều mặt.
Từ sau cách mạng cho tới nay, Trần Huyền Trân say mê sân khấu, viết vở và đạo diễn. sau cùng chuyên về nghệ thuật chèo mà tôi đã có duyên với anh trong vở chèo Giáng Kiều, Tô Hoài viết, Trần Huyền Trân chuyển thể.
Trong văn học, không thiếu những người có khả năng, đà thả sức vào hầu hết các lĩnh vực sáng tác. Khi đương xuân, phơi phới đi trong những thành quả, những nghênh đón, đôi khi chỉ một loạt vỗ tay cũng khiến được ta ngây ngất. Thế rồi, một lúc nào đấy nhìn lại mới chợt nhận ra dẫu cho đâu cũng có mặt, nhưng không ở đâu đọng lại được thành tựu thực sự. Mà sức lực đầu óc với tinh hoa sáng tạo thì không phải lúc nào cũng như nhau và thì giờ lúc xế bóng cũng chẳng còn bao năm.
Ở Trần Huyền Trân không có những biểu hiện đến đỗi giật mình, như Cao Bá Quát xưa thở dài "một đời đã phụ cả năm xe sách”. Trong thơ và sân khấu, Trần Huyền Trân có đường nét sắc thái riêng biệt và hấp dẫn.
Nhưng mà làm sao tôi vẫn thấy ở Trần Huyền Trân chỗ nào cũng tưởng như đương còn dở dang, chưa hẳn đã tỏ rõ đầy đủ khí thế lẫm liệt có thật của anh, nhất ở trong thơ. Nếu ai đã đọc thơ Trần Huyền Trân dễ thấy có lẽ những bước nhảy vọt trên đường phát triển mà anh chưa sửa soạn, chưa có khai phá mới, luôn luôn mới mà lại tưởng chừng như bị đứt quãng, trong khi thật sự tiềm lực sáng tạo của anh hơn thế nhiều.
Đường thơ Trần Huyền Trân, nhật ký thơ Trần Huyền Trân có thể gọi như thế, với một phong cách tung hoành của người thơ cùng với quá trình phát triển và hình thành bước đường tư tưởng Trần Huyền Trân.
Từ mọi tâm tư giằng xé giữa đời vươn lên thái độ và trách nhiệm của con người trước vận nước Rồi trải hai cuộc kháng chiến. Rồi sự nghiệp xây dựng đất nước. Rồi tình cám với con người và đất nước bạn bè không biên giới, ở Mát-xcơva, ở Xi-bê-ri, ở Beclin, từ những bài thơ đầu tiên 1938 đến bài mới viết năm 1980 ở Nam Đồng, vẫn một thái độ, một tấm lòng.
Đọc lại bản thảo thơ Trần Huyền Trân cảm thấy thật lạ lùng khi nhẩm lại tưởng như mắt trông rõ được thơ anh quấn quít với đời, từ đầu thế kỷ tới hôm nay.
Hầu hết cả đời anh đã đi về sinh sống ở một góc thành phố, từ khi lặn lội ao chuôm sau lưng Khâm Thiên sang Ô Chợ Dừa. Bao nhiêu năm rồi, bây giờ anh lại về ở Nam Đồng cũng trong vùng ấy. Ngoài song cửa hôm nay lưa thưa bóng trúc và xa kia nhấp nhô ánh nước ngát mùi hoa sen. Cụ bà sinh ra anh, "bà lão chài" xưa, tuổi ngót một trăm còn mạnh khoẻ, cụ ngồi chiếc ghế đẩu ngoài hiên nhà.
Sự kiên nhẫn và thời gian không bao giờ phai mờ có thể là hình ảnh ví được với mạch thơ, hơi thơ Trần Huyền Trân gồ ghề, uy nghiêm. Như lời tựa thơ Trần Huyền Trân của Thâm Tâm:
Hôm nay
Thơ lên đường
Hồn chàng ra thiên hạ
Ta vừa nghe lã chã dòng sưong
Ngâm thôi
Quăng bút cười ha hả
Đây một loài hoa khác hải đường.

Những câu thơ Thâm Tâm viết 1942 đề đầu tập thơ Trần Huyền Trân chép tay, tới nay vẫn là bản thảo chép tay đã bốn mươi tư năm, lạ thay.
Nhưng nghe sảng khoái đến tận bây giở...
Đây một loài hoa khác hải đường.

13. Trọng Hứa


"Đây gió... đây trong rừng”
Năm 1950, Nam Cao và tôi được chuyển công tác từ báo Cứu Quốc về hội Văn Nghệ. Rừng Chiêm Hoá trên Tuyên Quang xuống huyện Đại Từ dưới Thái Nguyên. Gặp Trọng Hứa trong xóm Yên Dã, chân triền núi Tam Đảo, đã ở cơ quan trước khi chúng tôi về.
Hơn bốn mươi năm đã qua, vậy mà tưởng như vẫn thế. Nguyễn Trọng Hứa biệt hiệu là Phong Giang - tuổi trẻ mơ ước mây gió sông hồ, ai mà chẳng một thanh xuân như thế.
Bóng núi Tam Đảo âm u xanh ngắt trên đầu. Sau này, có lần trông ảnh Trọng Hứa, lần ấy đi công tác, chụp đứng ven tường Vạn Lý Trường thành ngoại ô Bắc Kinh, phương trời và thời gian khác nhau, nhưng vẫn ngỡ như ở xóm núi Yên Dã, Trọng Hứa ôm cây đàn ghi ta mốc thếch - may mà mối đồi chưa xông đến.
Tiếng trầm tiếng thanh và câu hát ngẩn ngơ của một ca khúc Phần Lan, Đào Vũ dịch lời Trung Quốc: Đây gió, đây trong rừng...
Năm tháng vô tình và độc ác, chúng ta lụ khụ cả rồi. Nhưng lặng lẽ trong ta vẫn những muốn, những ước của mỗi người. Ngày ngày, chiếc bóng tha thủi rẽ phải rẽ trái sang đường... Ngày ngày... chúng ta...
Trọng Hứa hay nói: Tôi lúc nào cũng đói sách. Tôi nhèm phố phường. Tôi muốn viết. Tôi sẽ viết... Trên hè đường, chúng ta lút vào những ngổn ngang quanh mình. Kẻ quen nhận ra không phải ở cái mã người chẳng còn đáng vướng đuôi mắt ai. Ông già từ tốn giơ tay phải ra cho xe đạp, xe máy biết có người làm hiệu sang đường. Xưa kia thì lướt phăng phăng trong cái đám nườm nượp quanh co ấy chứ!
Những ai mắt trắng, chớ tưởng mảnh giẻ lau bát này chưa khi nào đã là tấm lụa Trữ La. Thời ấy trai Hà Nội mê đến cuồng lên, tìm cách được đầu quân Nam tiến, ai đến huyện Gio Linh viếng nghĩa trang Trường Sơn của hai cuộc kháng chiến trên đồi chính giữa, cả nghìn tấm bia liệt sĩ Hà Nội hy sinh 1946-1947... 1953, 1965... 1979... Trọng Hứa cùng một lớp thanh niên sôi nổi và lãng mạn ấy. Chàng tuổi trẻ về quê ở Bắc Ninh rồi với chiếc đàn ghi ta nhập ngũ vào trung đoàn Bắc Bắc.
Tôi chưa công tác cùng Trọng Hứa thời kỳ đầu ở hội Văn Nghệ, khi cơ quan vất vả chạy giặc chiến dịch thu đông 1947, địch nhảy dù Bắc Cạn, Cao Bằng, ngược sông Lô lên tàn phá Chiêm Hoá. Cơ quan hội văn Nghệ vượt sông Công, sông Thao, ở Thái Nguyên sang Phú Thọ, rồi Yên Dã sang Gia Điền, Văn Lang, Đan Hà...
Sau mới đến những ngày cùng ở Tuyên Quang, qua đò bến Phao Lồ, chui vào rừng Thượng Yên. Khi lên cây số 7 ở làng Dao trong Động Móc chân núi Là.
Không quên được mấy chuyện tiếu lâm. Con tê tê ở đồi chạy ra thung lũng Yên Dã, ông Phan Khôi cuống quít hò hét giục người ta đuổi bắt “thịt tê tê ngon hơn thịt gà" ở Thượng Yên, ông Ngô Tất Tố xơi thịt lợn lửng của cụ bếp Ban kho, tanh quá, ông Tố mửa ngay ra bếp. Nam Cao quá chén, chửi Sôlôkhốp ầm lên "thằng ấy viết ra chó gì"... Nhưng ai nấy hầu như vương vấn nhiều về thị xã Tuyên Quang, cái Hà Nội tha hương của chúng tôi.
Thường ra thị xã chơi, ai đi những đâu, chiến dịch lên biên giới, chuyển công tác khu 3, khu 4, có khi vào tận miền Nam rồi trở lại đây, Trọng Hứa, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân và những trang hảo hán ngựa hồng súng côn bạt từ mặt trận về hậu phương, lạnh lùng làm điệu ném cương ngựa vắt lên cửa quán ven đường. Hơi hướng thành phố theo chúng tôi từ xuôi lên ngược, qua những băm sáu phố phường tưởng tượng ở Thái Nguyên, ở Đại Từ, ở Phú Thọ, ở Thanh Cù, Vũ Yên tới Bắc Cạn rồi dừng lại thị xã Tuyên Quang "Ngày nào trở lại cố đô. Ôi Thăng Long rợp bóng cờ vinh quang. Hẹn nhau ý thiếp lòng chàng. Xuân mười phương mộng tuổi vàng đêm nay" (Đinh Hùng).
Nào những phở Đất, phở Dơi bờ sông Lô, cà phê, cô Pháo êm đêm, cô Hạ máy chém "Cây đa nước chảy”, thế mà ai cũng muốn kề cổ vào, rồi cốc sữa dê tươi nóng cây số 3 đường Hà Giang, riêng Trọng Hứa và tôi hay lui tới. Bỗng dưng nửa đêm trăng sáng ấy giữa đường tôi gặp lại cố nhân. Cầm tay mà không nói được nên lời... Quả thực, nhớ những giăng gió hẹn hò ngoài làng mạc, phố xá thị xã nhiều hơn ở trong rừng.
Thu đông chiến dịch Trung du, chiến dịch Đông Bắc, Tây Bắc, chiến thắng Điện Biên Phủ, ban ngày rồi cả ban đêm, máy bay Pháp lên bom bắn tơi bời mà không đánh gẫy nổi Cầu Chả, cái cầu sắt chơ vơ giữa thị xã. Thì chúng tôi vẫn thế thôi. Vẫn nhơn nhơ và đam mê thế.
Cứ như nô giỡn với sống chết, với mọi trang, nghiêm hàng ngày. Có phải tinh thần niềm vui và nghị lực? Bởi lại nhớ những lần lên bến Ngọc làm công tác thu xe đạp của người qua đường phục vụ mặt trận Điện Biên. Xe đạp sang bến, “mặt trận mượn” hết. Chiến trường trên biên giới đương khẩn trương. Mỗi người bị giữ xe được phát một biên lai chứng nhận. Thế là bằng lòng. Rồi lại đổ đi các làng làm công tác vay thóc cho tiền tuyến - Nam Cao đã viết kịch Đóng góp và tôi viết truyện Tạm vay phát hành ngay trong chiến dịch. Lại những hôm xếp hàng một nghiêm chỉnh ra thị xã tham quan trại tù binh Pháp ốm sắp được thả mảng xuôi sông Lô về trao trả ở Việt Trì. Hai lần chi bộ họp kết nạp vào đảng Nguyễn Tuân và Xuân Diệu. Đãng tử Phong Giang đồng chí Trọng Hứa nhiệm kỳ ấy làm bí thư đã cùng chi uỷ quyết định kết nạp hai đảng viên mới. Tố Hữu, một trong hai đảng viên cũ giới thiệu.
Bao nhiêu cái nghĩ trong hai buổi kết nạp ấy. Rồi chúng tôi liên hoan nhảy "sòn la sòn" trên sàn nhà ông chánh Cuốn. Kim Lân bíu vai áo Ngô Tất Tố níu vào nhau nối theo dòng dài Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Quang Châu, Nguyễn Văn Mãi, Nguyễn Hổng... có cô Bích Thuận bên hội phụ nữ đến chơi cũng nhảy góp vui. Đoàn rồng rắn vằn vèo lạt xạt sàn nhà, ai nấy hò sòn la sòn... sòn la sòn... và hát réo lên: Dân Liên xô vui hát trên đồng hoa... Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa...
Tài tử Trọng Hứa một mình uốn éo ôm đàn đứng trước đoàn người hí hửng như trẻ con đồng quê làm trò chơi "rồng rắn đi lấy thuốc cho con”. Tiếng ghi ta réo rắt và: Đây gió... đây trong rừng... Đây... cánh đồng...
Rồi chiến thắng Điện Biên Phủ. Sắp trở về Hà Nội, Trọng Hứa bị ốm liệt giường. Bệnh sốt rét viêm gan hiện lên vàng lạnh tận mắt, hai tròng con mắt như bôi nghệ. Trần Phương đạo diễn điện ảnh nghệ sĩ ưu tú bây giờ, với Phùng Cung, hai cậu làm văn phòng, đã khiêng người sắp chết ra bệnh viện ngoài Lang Quán.
Thế nào mà Trọng Hứa mò về được, lại vào đoàn tiếp quản Hà Nội trước cả mọi người. Cái bệnh gan kinh niên không vật chết nổi người, nhưng đã thành cục trai gan dai dẳng hành hạ Trọng Hứa đến tận hôm nay.
Trọng Hứa được phân công sang phụ trách văn nghệ đài Tiếng nói Việt Nam. Tình hình mới, đài và các báo đương cần bổ sung. Nguyễn Văn Bổng ở khu 5 mới ra, cùng Bùi Hiển với tôi về phóng viên báo Nhân Dân. Từ Tuyên Quang, báo yêu cầu tôi xuống thẳng Phúc Nhạc, không qua Hà Nội. Dưới ấy, các vùng công giáo nhiều người di cư đương bối rối.
Giữa năm 1946, truyện ngắn Thằng Bần của Trọng Hứa đăng hai kỳ tạp chí Tiên Phong của hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam ở Hà Nội. Có lẽ vì cái duyên ấy mà vào kháng chiến, Nguyễn Huy Tưởng mời Trọng Hứa cộng tác và Trọng Hứa đương ở báo Bắc Sơn đã được bộ tư lệnh quân khu I cho về hội Văn Nghệ.
Trọng Hứa viết không nhiều. Nhưng đọc thì thiên kinh vạn quyển. Ngày nay vẫn miệt mài, cặm cụi đèn sách thế. Lắm lúc bực mình, tôi bảo: Đọc mãi làm gì?
Trọng Hứa hiền lành, nhỏ nhẹ: thành tật mất rồi.
Thường buổi sáng chỉ đạm bạc chén nước chè, phong lưu đôi chút thì tách cà phệ. Nhưng không chịu được đói sách.
Trọng Hứa đọc la liệt. Kể chơi cho thấy màu sắc vài món chữ mà xưa và nay con người ấy đã ngốn.
Của nước ngoài và sách dịch: Đôttôiepsky, A. Môravia, K. Malapac, B. Patecnac, F. Sagăng. I. Ka phu, A. Ka bo, G. Simơnông, H. Milơ, Kapka, Guê... Liêu trai chí dị, Hồng lâu mộng, Sử ký, Đông chu liệt quốc, Anh hùng náo, Hoàng Truyền tam pháp yếu, Đạo đức kinh, Nam hoa kinh, Ánh lửa đằng trước, Thánh Tông di thảo, Khoá hư lục, Thiền học, Tuệ Tĩnh, Tuyển tập Mác (đọc có ghi chép hồi học trường Nguyễn Ái Quốc trung ương).
Của nước ta: Nguyễn Đỗ Mục, Đỗ Đức Thu, Vũ Bằng, Hồ Biểu Chánh, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Đỗ Tốn, Vũ Trọng Phụng (Trọng Hứa còn nhớ: Đông Dương tạp chí 1939, Nguyễn Giang chủ bút in truyện ngắn Sao mày không vỡ, nắp ơi của Vũ Trọng Phụng), Nguyễn Bính, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Hoàng Thị Ý Nhi. Vũ Thị Thường, Bùi Đức Ái, Võ Huy Tâm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Văn Chuông, Chu Thiên (Trọng Hứa viết thư cho tôi "đọc được đến đâu, do mọi cách có sách trong tầm tay mà thôi. Nếu điều kiện đủ thì thích nhất nghe nhạc, ngồi chơi xơi nước và đọc lung tung, không phải làm việc, không viết, lúc nào muốn đi chơi phố thì đi, về lại đọc, nhưng...”
Trọng Hứa viết ít, mà kỹ. Và có những cái ao ước tưởng như không bao giờ viết được. Người ta thường theo đuổi những mong muốn, đôi khi cũng đơn sơ, nhưng làm được và tới được hay không lại là chuyện khác. Cái chẳng bao giờ lới được ấy đã trở nên khắc khoải suốt đời. Lúc nào Trọng Hứa cũng thiết tha yêu vùng Vĩnh Yên. Những trang sách phảng phất Vĩnh Yên, từ Nhất Linh đến Đỗ Tốn và cho tới bây giờ dù chỉ hơi hướng khoảng khắc, một bóng dáng mơ hồ Vĩnh Yên đã khiến tâm sự anh bồi hồi rồi. Nhưng chưa khi nào Trọng Hứa viết được một chữ về Vĩnh Yên, nơi đã in hình ảnh tuổi thơ, mà dẫu cho đời người vui buồn thế nào cũng không phải mờ. Ở đấy, những chập chững, bi bô đã đến với thằng út thứ mười bốn trong gia đình, khi mẹ mới sinh đã "ốm thiếu tháng", đến độ đã nên người, nghe tiếng gió kẽo kẹt chân tre cũng vẫn ngơ ngác. Ở Vĩnh Yên, năm Trọng Hứa tám tuổi, một chuyện không may trong gia đình đã xảy ra.
Ông thân sinh Trọng Hứa làm quản lý cho một chủ đất người Pháp ở Nam Kỳ. Đồn điền lớn, năm thoảng ba thì chủ mới ra Bắc. Người quản lý tay hòm chìa khoá nghiễm nhiên là một điền chủ giàu sang. Chuyện xa xưa ấy tôi chỉ được biết vang bóng. Năm trước, Trọng Hứa đưa tôi đến may, chữa quần áo ở hiệu Đông Hà phố Huế. Cụ Đông Hà lịch sự thưa gửi với Trọng Hứa một điều cậu, hai điều cậu. Ông phó may này ngày trước đã được thuê riêng may cắt xống áo mọi người trong nhà.
Một ngày kia, người đại diện chủ Tây ở Nam Kỳ ra thăm đồn điền. Không biết ông ta với người quản lý vấp chuyện vặc nhau thế nào, quản lý nóng mắt cầm khẩu súng săn bắn ông kia một phát chết tươi. Mấy năm theo kiện thoát được án thì nhà cũng khánh kiệt.
Đỗ thành chung rồi, Trọng Hứa ở lại Hà Nội, ăn cơm trọ chùa Bát Mẫu, học đàn nhạc sĩ Bùi Công Kỳ, sống nhờ vả bè bạn và lang thang.
Kháng chiến, Trọng Hứa vào bộ đội. Ông cụ làm chủ tịch Uỷ ban kháng chiến xã rồi tản cư mất bệnh già trên Thái Nguyên.
Ở hội Văn Nghệ, Trọng Hứa chuyên trách công tác cơ quan. Quanh năm chạy gạo, chuyển địa điểm.
Những khi có chiến dịch, dù chiến trường tận Tây Bắc, Đông Bắc ở cơ quan vẫn phải sẵn sàng đề phòng. Bởi địch đã nhiều phen thình lình nhảy dù xuống đánh úp thị xã Bắc Cạn, chợ Mè Phú Thọ, trường đại học Y ở Liễn Sơn chân Tam Đảo.
Trọng Hứa đã biết truyện vừa Gợi khổ (Nhà xuất bản Văn Nghệ) về cải cách ruộng đất và khi hoà bình, năm 1954 cho in tập truyện Quê ta (Nhà xuất bản Văn Nghệ), lấy tài liệu khu căn cứ du kích chợ Cháy, địa đấu vùng trũng Hà Đông và Hà Nam. Quang cảnh đồng chiêm Quê ta của Trọng Hứa buồn man mác đến chân mây, như những cánh rừng cằn taiga bạt ngàn trong truyện Đồng cỏ của Sêkhốp.
Khi ấy, những người có trách nhiệm đã đánh giá cao truyện Gợi khổ, Nhà xuất bản Văn Nghệ in lần thứ hai hàng vạn quyển, nhưng tôi thì tôi thấy ruộng đất hay đồng chiêm không phải là Trọng Hứa. Trọng Hứa không a dua thời thượng được. Trọng Hứa chỉ viết cái gì Trọng Hứa. Hai tập truyện ngắn Ngã ba cuối phố (Nhà xuất bản Hà Nội) và Ngã ba ngã tư (Nhà xuất bản Tác phẩm mới) mới thật Trọng Hứa. Trọng Hứa, người phố phường.
Nhân vật của Trọng Hứa trong hành động, trong tư tưởng, trong triết lý, con người giữa phố xá, như tác giả, là tác giả. Có lúc nào bạn lại ngồi một quán hàng ngã ba, ngã năm mà trông ra. Các ngả đường đấy là những tác phẩm quyến rũ kỳ thú. Bạn dần dần thấy trước mắt đương phơi bầy, đương chuyển động. Cái túi, cái cặp đến cơ quan. Chiếc làn đi chợ. Đôi giày, đòi dép hay đi chân đất. Người bước tất tả, người thì nhẩn nha. Một đám túm tóc chửi nhau. Những cuộc gặp gỡ tình cờ, những câu đầu Ngô mình Sơ. Cái ô tô cứu thương ở ngoại thành vào đỗ ven hè, người lái xe xuống lôi ra trong gầm xe mấy bìu ni lông xanh Trung Quốc bọc bong bóng rượu lậu Phú Xuyên lên. Người kia đứng thần mặt là cán bộ thuế? Người vừa mất tiền? Hay người sắp định móc túi? Nếu bạn bắt chuyện mỗi người, mỗi kể lể bất chợt đều hôi hổi tràn vào tưởng tượng và trang giấy. Làm thế nào chúng ta chỉ biết bái phục cuộc sống sôi sục xoay vần. Vô vàn nhân vật con người ngoài đường không người nào biết người nào, nhưng tất cả là trời đất bao trùm sinh sôi ra sáng tạo.
Nhân vật ngã ba, ngã tư đầu phố, cuối phố của Trọng Hứa như vậy. Bóng mờ làn sương thu trôi trong lòng đường, mông lung và đáng yêu. Đến cái lão xích lô ngái ngủ vừa đạp xe vừa đái xuống lòng đường, hai đầu gối khoắng loằng ngoằng cho kịp đón tàu đêm dưới Phòng lên cũng chẳng nên ghét guổng lão không nếp sống mới. Những hoàng hôn thành phố trong truyện Trọng Hứa mới khác thường sao. Cô hàng gạo nhà mậu chặp tối vừa xong công việc ở nơi sơ tán ngoại thành về. Còi báo động vẫn “máy bay gần... máy bay xa”. Chạng vạng tối rồi mà, cái bếp thổi nấu muộn còn chập chờn. Tay đôi kia vừa dựng vội xe đạp vào gốc cây ven hồ. Sau xe treo buộc lỉnh kỉnh cái nõn, chiếc mũ lá, túi bột mỳ và chai dầu. Họ vội ôm nhau rồi tưởng đi hoá ra lại dừng lại. Chốc nữa, đạp ra đến làng tránh máy bay ngoài kia chắc cũng đã khuya.
Nhân vật truyện Trọng Hứa, những người trong nhà ngoài đường âm thầm nặng trĩu lo toan giữa thoáng chớp bom mà chỉ những năm tao loạn ấy mới thế. Mỗi con người không tên đã nhật ký vào đời sống thành phố.
Giọng văn Trọng Hứa ngẩn ngơ một cách sáng trong, thâm thuý. Như những thằng ngốc, những ả gái điếm, bọn cờ bạc cặn bã xã hội lại là những đầu óc minh mẫn, những người trong trắng và cao thượng nhất nước Nga, ở tiểu thuyết của Đôttôiepsky.
Một lần kia, tôi được thư Chế Lan Viên ở Sài Gòn kể vừa đọc xong tập truyện ngắn Ngã ba ngã tư. Những truyện ngắn phong cách rất riêng của Trọng Hứa đã khiến Chế Lan Viên khám phá được một mảng Hà Nội thực mà không thực, vừa mơ hồ vừa chi tiết đến cặn kẽ, Chế Lan Viên chưa biết bao giờ.
Người viết có được vài ba bạn đọc hiểu thấu mình, tưởng cũng đủ.
Ít lâu sau, Trọng Hứa bỏ đài phát thanh về cơ quan cũ. Ngẫm nghĩ, chẳng khác sự tích và số phận các nhân vật Trọng Hứa. Trước mắt mọi người. sự chuyển đổi công việc ấy chỉ là câu chuyện hôm sớm bên hè đường, thờ ơ trôi qua.
Nhưng với cả cuộc đời Trọng Hứa lại là một ngạc nhiên đến không hiểu nổi. Năm ấy, Trọng Hứa muốn lập gia đình. Nhưng không được cơ quan bằng lòng. Bởi người đàn ông là trưởng ban văn nghệ một cơ quan quan trọng, người đàn bà thì lý lịch không rõ ràng.
Buồn quá không biết làm thế nào. Trọng Hứa giận dữ theo lối riêng của người yếu đuối. Trọng Hứa lẳng lặng trở về với chúng tôi.
Cái anh chàng lom đom như chiếc que đóm, bệnh gan vàng úa mặt, mỗi bước rụt rè khẽ khàng như đợi tránh trước người ta. Ấy thế mà những "chuẩn người trong mộng" lại kiêu sa, khắt khe đến kỳ quặc. Giai nhân của chàng phải là bồ liều, không lệ liễu, phải là một nàng Kiều "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang". Tôi cũng có căn vặn Trọng Hứa về những điều kiện oái oăm “hết ý” ấy, Trọng Hứa lại chỉ mỉm cười.
Nông nỗi nhân duyên, làm thế nào! Cái gì bây giờ cũng đưa được vào máy tính, chỉ có tơ tình thì hình như chưa. Có giơ ngón tay bấm từng đốt chung quy rồi cũng lại qua nhịp cầu dải yếm ngang sông mà thôi.
Những nhớ thương xa lăng lắc của anh chàng kiết xác nọ trong truyện của Đốt, ngồi bên cửa sổ hầm rượu ẩm ướt, bẩn thỉu, xỉa tiền uống đếm từng cốc bia lại ngỡ mình sắp đi làm phò mã lấy nàng công chúa con vua bên nước Ấn Độ. Điều kiện bên trai thách bên gái của Trọng Hứa là nàng công chúa nhất thiết phải gốc Trung Quốc. Tàu lai cũng tạm được, nhưng người đẹp phải béo tốt phẳng lừ như chiếc chăn bông phủ kín giường. Vậy mà Trọng Hứa đã gặp được như thế.
Cô ấy tên là Lầy, cô Lầy Tán Lầy, làm nhà bàn ở cao lâu Bôđêga phố Tràng Tiền. Nguồn cơn họ quen nhau và rồi dan díu đến nặng tình, tôi chỉ láng máng.
Nhưng tôi biết Trọng Hứa thân quen với cả mẹ đẻ ra cô Lầy.
Tôi cũng hơi biết cô Lầy. Chỉ bởi cô ấy thì bưng bê, mà chúng tôi là khách quen nhà hàng. Nghĩ lại bấy giờ cũng hay. Tiền nong lương soạn vét túi, mà tối tối vẫn la cà được quanh gánh cháo gà, cháo cá, hàng chè hạt sen vỉa hè các rạp Chuông Vàng, Kim Phụng, Lạc Việt chim quay Tứ Kỳ, óc đậu nhà Siêu Nhiên. Rượu Ý Chianti chai quấn rơm ở Bôđêga, cơm rang bọc lá sen Tiểu Lạc Viên, cà phê Phúc Châu...
Cô Lầy làm nhà bàn tầng hai. Không phải vì cô đi đôi giày nhung thấp gót mà đoán được cô là người Thượng Hải. Mái tóc Hỷ Nhi xén la tha trước trán, vừa đi khuất vào góc phòng đã réo rắt bài hát "Nhị lang sơn". Nét mặt, mái tóc và nụ cười, má tròn trắng, phúng phính mà Trọng Hứa thờng tán vẻ thành thạo rằng người Tầu không để ý về nơi ở, chỉ trọng miếng ăn, cứ trông đôi môi hơi dậm của cô Lầy cũng biết.
Tôi đã làm việc chín năm với Trọng Hứa trên Việt Bắc. Bây giờ Trọng Hứa lại về giữa bề bộn công việc, anh tiếp tục những lo lắng ngày trước. Cơ quan sơ tán sang Quế võ, máy bay ném bom kho xăng Đức Giang, lại chuyển về qua sông Hồng, vào mạn chùa Hương.
Không phải tôi đã biết ngay mối tình dang dở ấy của Trọng Hứa. Anh chàng vốn e dè. Ít lâu sau, Trọng Hứa cho tôi tin không vui: mẹ con Lầy Tán Lầy đã về Thượng Hải.
Quán cà phê nhà Lý Hảo ở ngóc ngách hẻm Đào Duy Từ. Chỗ này không ai tơ vương ai. Chúng tôi lui tới Lý Hảo để cho anh hàn sĩ Trọng Hứa mê cái đẹp đất Trung Nguyên được dịp trải dài nỗi nhớ thương Hà Nội - Thượng Hải. Lý Hảo là một trong hai cô con gái đẹp của “xinh xáng” Lý Quảng, nhà buôn lớn ở hàng Buồm trước kia. Cứ ví quá đi cho sướng mắt, chị em Lý Hảo như Chiêu Quân, như Tây Thi, như Thuý Kiều, tài sắc lồ lộ ở khuôn mặt trái xoan và đôi má hồng kiều diễm. Chỉ khác, người đẹp Lý Hảo này vừa sắc nước hương trời làm hoa cho quán cà phê, lại khỏe quá, tuyệt giỏi thể thao, thể dục. Hội thi lướt ván hồ Hoàn Kiếm năm nào danh thủ Lý Hảo cũng đứng quán quân.
Chao ôi, ngắm và mơ mộng. Bông hoa Lý Hảo nhởn nhơ, chồng là thằng Thái thì pha cà phê và thu tiền. Tách cà phê nhạt đường mà chúng tôi rất ưa, trò chuyện đôi ba câu, khi với nàng, khi với Thái. Tôi chẳng bận tâm đến khoảnh khắc chiêm bao của Trọng Hứa mà tôi thú vị tên Thái kia hơn. Có khách mà Thái vẫn mặc may ô trần, lông nách sum sê, dáng thấp lực lưỡng hệt một thằng Nhật, vai vuông, mày chổi xể, mắt một mí, mặt lầm lỳ, cười nhếch mép.
Những tưởng cứ năm nào cũng đến hội lướt ván hồ Gươm và nhà thể thao nữ Lý Hảo lại chiếm giải nhất và tay Thái thì cứ đứng pha cà phê để cho các ông khách, người chiêm ngưỡng Bao Tự, người mê lại thời bài hát Hà nhật quân tái lai (Ngày nào chàng trở lại).
Không, đời dữ dằn hơn mọi suy nghĩ nhút nhát, trễ tràng của ta. Rồi thằng Thái ngủ với một nàng khác.
Lý Hảo lấy chồng mới. Cả Lý Hảo và Thái bây giờ đứa bên Mỹ, đứa sang Canađa. Hôm rồi, Thái bên Canađa mới về chơi. Tôi tò mò tìm nhưng không gặp. Thái bận lên ngược thăm người cô ruột vẫn còn ở thị xã Hà Giang. Lão Sẵn đầu bếp nhà đặc sản Phương kể: “Ông ạ, thằng Thái bây giờ béo bụng xệ, để ria Hoa Kỳ”.
Nhưng tất cả những chiếc bóng có thể làm khuây khoả cơn sầu Thượng Hải đưa con người thất tình bất đắc dĩ, phải kể về cà phê Sính. Cũng không hiểu làm thế nào Trọng Hứa am tường cả đến những nỗi khó khăn, ế ẩm khi quán Sính còn ở phố Hàng Da rồi mới dọn về đường Cột Cờ. Lại biết mỹ nhân đã từng là một trong hàng tá nhân tình của vua hộp đêm Bảo Đại. Sinh đã có phen thuê người đi phục nắm tóc, xé quần đánh ghen những con Mộng Hà, Lệ Hà nào đó của Bảo Đại.
Nàng chỉ hút "ba số" và quanh năm dù giữa mùa hạ, nàng đều tắm nước ấm pha nước hoa Mộng Vàng Rêve d’Or Pháp chính cống. Cho hay cái anh chàng bụt mọc Trọng Hứa mới tinh tế và đa tình làm sao!
Mỗi lần đến quán Sính chúng tôi âm thầm xám xịt như cơn mưa rấp vào một xó khuất. Trọng Hứa im lìm tựa một khách lạ - hoặc bởi quá quen nên thân, như không có mình ở nơi khách khứa thiên hạ. Hay thực cũng là ngõ ngoài mà những tọc mạch nơi thâm khuê kia chỉ nghe hơi cho phảng phất thêm một giọt nước hoa Mộng Vàng vào mây trời Thượng Hải. Tức rằng là chúng tôi không một chút kình dịch, tình địch, chẳng dám nhô ra khỏi cái bàn âm u để đối mặt với hiệp sĩ kiêu hùng Từ Chi và tổng binh chạy cờ rạp hát Trần Quốc Vượng mỗi khi các "xếnh xáng" này tưng bừng vào chủ nhân nở nụ cười hàng quán ra thềm đón.
Nhưng mà tôi, tôi ấy, riêng tôi thôi, cũng đôi chút một mình biết tiểu thư Sính ngày xưa. Tôi nhấp lách cà phê pha rượu rom nhấm nháp lại những trang thơ ấy.
Cái mụ Sính đẫy đà hôm nay - người trong mộng của Trọng Hứa, vẻ khoan thai đài các của mụ không dính dáng máy may đến cô Sính ngày xưa nhà ở phố Mới - phố Hàng Chiếu đông ngộn người bây giờ.
Sính chưa hắn được điểm danh vào hạng người đẹp đầu sổ như cô con gái nhà thuốc lào Đông Mỹ cửa chợ Đồng Xuân mà các nhà thơ giời đầy Nguyễn Bính, Đinh Hùng đương mê mẩn. Ngày ngày viết lách, không thì đi nã liền, chè chén còm rồi phất phơ phố xá xem đâu có cô nào đáng để mắt, thách nhau dám làm quen, chịu khó hơn thì cố vào trong một cái, hỏi một câu bâng qươ cũng đã hách hơn thằng khác.
Nguyễn Bính quê kệch nhưng lại mới in tập thơ Lỡ bước rớc sang ngang, đi với Đinh Hùng trắng trẻo, nhỏ nhắn, lắm khi bị các nàng thoạt đầu nhầm chàng công tử bột này là người đã làm ra những bài thơ não lòng ai cũng thuộc. Không sao, họ cũng chẳng hơi đâu mà tức tối nhau. Các cha ném bao nhiêu đồng xu, đồng năm xu không cán trả lại vào cái thúng nhòi đựng tiền của cô hàng thuốc lào. Mỗi bận mua một phong, hai người hai phong, ngày mấy phong, hút thuốc đến tuôn khói ra đằng nách, vừa hút vừa vứt đi rồi lại vào mua.
Để được hỏi "cho tôi phong thuốc" điểm theo đôi mắt ốc nhồi của Nguyễn Bính và cái liếc trai lơ của Đinh Hùng... cô Đông Mỹ vẫn dửng dưng. Mấy chàng suốt mùa rét mặc bađờxuy môngtanhăc dạ trơ khố tải cứ sớm tối mua phong thuốc lào, cũng bằng bỏ tiền xuống cống thôi. Rồi người đẹp cửa chợ Đồng Xuân lên xe hoa về với một quan tri huyện trẻ, với cô Sính thì khác. Nhà Sính không buôn thuốc lào, không bán chiếu, bán củ nâu như trong phố. Sính là con gái rượu tiên sinh Lý Ngọc Hưng, nhà dịch truyện kiếm hiệp. Chẳng biết ông dịch hay ông bịa, nhưng ông là người Tàu, chẳng hiểu Tàu nguyên chất hay Tàu lai, chỉ biết bạn đọc cho là người Tàu, thì các pho giang hồ mãi võ của ông được khách hơn. Tôi cũng còn đương tuổi mê Thất kiếm thập tam hiệp, Hoả thiêu Hồng liên tự, Hoang giang nữ hiệp, bộ Bồng lai hiệp khách nhà thuốc cao đan hoàn tán Lê Huy Phách hay thuốc đau mắt Từ Ngọc Liên in, mỗi tuần một quyển ba xu. Bồng lai hiệp khách của Lý Ngọc Hưng còn bán được hơn những truyện đơm đặt quá trời như Người cá voi của Văn Tuyền Phạm Cao Củng, Người nhạn trắng của Thanh Đình hay nặng mùi diễm tình bay bướm, Người đẹp mài gươm của Tân Hiến.
Hồi ấy, Sính đã phây phây, phổng pháp, thường ra đứng cửa, thướt tha tấm áo dài màu hoàng yến. Bởi ông "via" nhà cô chơi trội, nội thất toàn màu vàng. Hoành phi câu đối vàng chóe. Khăn bàn vàng. Con gái áo vàng, ông mặc sơ mi lụa chuội vàng. Hoạ mi vàng- hoàng yến lồng vàng, chim ăn gạo trộn lòng đỏ trắng gà và kê vàng.
Chỉ bởi vì trong bộ Bồng lai hiệp khách của Lý Ngọc Hưng có kiệt nữ kiệt Hồ Điệp tài sử dụng phi tiêu Phi tiêu Kim Hồ Điệp phóng đi, địch thủ mất vía ngã quay đơ. Kim Hồ Điệp cài vào ngực áo người vừa toi mạng một con bướm vàng - xưng danh Kim Hồ Điệp đã hạ thủ.
Vì thế cả nhà Lý tiên sinh chơi màu vàng. Nhưng vàng hay hồ lơ trứng sáo chúng tôi không để tâm.
Hiềm một nỗi, vào cô thuốc lào chỉ mất một xu một phong. Chẳng lẽ chốc chốc lại kiểm cớ mua một số Bồng lai hiệp khách ba xu. Mà ba xu, năm xu không nhỏ, chỉ vậy đã gọi được một đĩa phở xào giòn, xào mềm rồi.
Những chuyện xa xưa của tôi dừng lại đấy, như mỗi lần đến lầm lỳ ngồi một góc thế này. Nhưng hẳn cái tên Sính, cũng như Lầy, như Sồi với khổ người phổng phao và cái sự Tàu ở người đàn bà nạ dòng kia đã gợi nhớ cho ai. Còn tôi lơ đãng nhìn sang hiên nhà trên. Nghe nói ông Lý ở buồng ấy. Thỉnh thoảng vẫn trông thấy ra đầu tường tưới mấy chậu lan địa.
Nhưng những chuyện nghìn đêm lẻ ở cà phê Sính không phải chỉ có tráng men thế. Hãy sửng sốt dương mắt lên, những địch thủ của Trọng Hứa. Vợ chồng hoạ sĩ Linh Chi, anh chị của Trọng Hứa đã lên thăm hỏi nhà Sính. Có một bạn người Hoa đứng ra làm mối Sính cho Trọng Hứa.
Chẳng may, lại không đến đâu. Rồi nhà này cũng biến hết. Sang Tây Đức hay Canada, hay Menbuốc, Sít Nây bên Úc. Những giấc mộng kê vàng dài dài của Trọng Hứa có còn tiếp theo chương hồi chuyện Tàu nào nữa không. Chỉ thấy anh chàng vẫn e ấp, vẫn hồi hộp như vốn tính thế. Và con người đường phố vẫn ngày ngày thẩn thơ. Từng nhà, từng cửa hàng, chú ý nghe ngóng, quan sát, ngẫm nghĩ. Bà Lìn ngã năm Lò Đúc xưng là con dâu quán phở tái lăn Nghi Xuân hàng Quạt. Lại bà Lìn người ta lấy chồng Tàu hiệu vằn thắn phố Huế. Trọng Hứa thuộc cả. Cái hồi vằn thắn nước, vằn thắn khô ở hàng Da, ở Cầu Gỗ, các nhà ấy bỏ đi, mấy ông ta cũng vờ đeo tạp dề xanh, cửa treo bảng hai chữ hán “hoành thánh" kèm dòng quốc ngữ: vằn thắn, sủi cảo Nhưng không qua mắt được Trọng Hứa. Tầu thật, Tầu lai, Tầu dởm, biết ngay.
Gặp Trọng Hứa giữa phố, tôi hay trêu, hỏi bô bô:
- Thế nào, có con nào, con Nga, con nước đá, con nước mắm, chúng nó còn đến quấy ông không?
Trọng Hứa nghiêng mình chào lịch sự, thoáng nhìn quanh rồi thì thào:
- Khẽ... khẽ chứ...
Tôi vẫn cố ý nói to: "... Có con nào thì khai ra...!".
Chưa kịp hết câu Trọng Hứa đã giơ tay làm hiệu che miệng: "Khẽ... khẽ...". Ơ hay, cái ông cụ trai tơ còm nhom như con mèo ốm đã chẵn bảy mươi tuổi rồi mà vẫn còn giữ được nền nếp kín đáo tế nhị. Quý hoá thật.
***
Nhiều bác đến tuổi thì về hưu, Trọng Hứa cũng thế. Cái bình thường một đời cạo giấy hiền lành, lương thiện, thế mà đâm ra cũng khổ. Bác Vạn Lịch tính: bán cái xe máy Giava, gửi tiết kiệm. Lương hưu cùng với lãi tiết kiệm, làm con số cộng cũng đủ tùng liệm hết đời. Tự nghĩ chẳng hơn ai kém ai, một đời chiến trận và công tác từ thuở tóc xanh đến nay đầu bạc, thế cũng là được. Nhưng rồi ngân hàng thình lình đổi tiền. Một nghìn đồng hoá một, một đống bạc còn ăn có vài tờ.
Bác Vạn Lịch mất cả xe, cả tiền lãi. Từ đấy, triền miên điêu đứng, con người như cái rác quay cuồng giữa cơn lốc mưu sinh. Chẳng biết xoay xở ra sao. Mùa đông tới, đi tìm ông chữa giày, nhờ thăm lại cho những mép dây khâu đã ải. Bệnh áp huyết phải giữ chân ấm, thầy thuốc dặn thế. Nhưng mấy ông giày dép thường đóng đinh treo giày trên tường các góc phố, mỗi năm một vắng. Thời buổi mới, giày hỏng thì vứt xe rác, không vá víu lôi thôi. Chỉ mỗi việc tìm đâu ra ông chữa giày mà cũng loanh quanh ca cẩm cả đêm, thì còn làm nên nỗi gì. Người có tuổi đâm mụ mị lẩm cẩm lúc nào không biết.
Cụ Trọng Hứa về hưu, mỗi mùa đông lại tìm lão vá giày, chẳng có nổi cái xe Giava gửi tiết kiệm như cụ Vạn Lịch để được ngồi chửi cái thằng sinh ra chuyện đổi tiền. Quá nghèo cũng làm cho người ta được đạo sống thanh thản vậy. Nhìn bề ngoài thế thôi, Trọng Hứa cũng lo, phải lo. Bà chủ rượu trước rạp xiếc và bà lão Có bán nước ở hẻm chợ Hôm. Chúng tôi uống nước và rượu suông ở hàng bà Có từ khi chồng bà còn hay chống gậy ra ngồi đầu ghế. Ông chủ cho thuê xe đòn đám ma vẫn mặc áo lụa mỡ gà ngày xưa, cái thời trong nhà từng chen chúc vợ hai, vợ ba, vợ tư chứ chẳng vừa.
Làm sao mà hai bà già hàng nước lại một lúc cũng lo lắng giùm cho ông khách lâu năm đến thế.
- Thuốc lá cuốn hồi này bán được, ông ạ.
Chợ thuốc lá bao đương tàn. D’rao, Sông Cầu, Bắc Sơn... xuống dốc. Thuốc Thăng Long, người bên Đình Bảng, chợ Dầu mua tay trong tận nhà máy cả vỏ với giấy thuốc. Đầu lọc, giấy cuốn thuốc “ba số” chính cống được xe tải bên Thái Lan sang theo đường Lào.
Riêng ruột thuốc sợi vàng trộn lá đu đủ, từng mẹt phơi khắp các nhà hàng huyện Từ Sơn. Người hút đâm ra hãi của giả, chỉ còn điếu thuốc cuốn tay thì ngửi biết.
Nghe bà chủ rượu cửa rạp xiếc kể lại: Trọng Hứa đã thành nhà sản xuất thuốc lá cuốn. Cuốn thuốc lá, làm bánh ngọt đưa các quán nước, chuyện ngã ba ngã tư thường tình.
Ngày tám tiếng cơ quan rồi về nhà kiếm việc làm thêm. Người ta bây giờ soi tờ giấy bạc và chỉ vàng, cây vàng lên nhìn nhau, nguýt nhau, chửi nhau. Nhà kia bỗng dưng xe cúp, cát sét, cửa xếp, chó bẹc giê - không buôn lậu thì cũng ăn cắp, đi lừa. Người ta thương hại cô ấy hết giờ ở bệnh viện về, ra cửa ngồi quạt bánh đa. Lúc đầu, cô bác sĩ huyết học còn đội nón che mặt trước xoong than. Nhưng sau quạt vướng, cũng bỏ nón. Xóm giềng cười buồn, thở dài khen cô chịu khó.
Cũng may, còn giữ sĩ diện, ông Trọng Hùa cuốn, dán, đóng gói thuốc lá trong buồng, chỗ vẫn ngồi đọc sách. Ông không biết làm thế, nhưng giá có thái kèm lá sắn, lá đu đủ thì cũng chẳng sao. Lá sắn vẫn để làm dưa và lá đu đủ, quả đu đủ xanh cho vào nồi sáo chó càng chóng nhừ.
Một hôm, bà hàng cửa rạp xiếc bảo tôi:
- Ông ấy thôi quấn thuốc rồi.
- Sao thế?
- Chán quá.
- Ông ấy chán? Bà không bỏ mối giùm cho ạ?
- Vưỡn chứ.
- Thế mà ông ấy lại thôi.
- Chẳng thấy ra đưa.
Bà hàng chép miệng:
- Cũng vất vả. Chắc ông ấy không quen.
Một nhận xét phải và một câu nói khéo. Chúng tôi đã chót cả đời ngay xương dài lưng tốn vải rồi, không mỗi chốc khác đi được. Dù có mua giấy, mua sợi thuốc sẵn về thì cũng phải lăn, phải cuốn, hì hục, cắm cúi, tay chân thoăn thoắt chứ đâu như nằm dài đọc sách và đi bát phố.
Tôi cũng không nói lại, hỏi lại Trọng Hứa. Một lần nào đấy gặp nhau, chúng tôi ngồi quán bia phố Thiềng Cuông. Trọng Hứa hỏi toi:
- Anh có biết tôi đương làm gì không?
- Lại cuốn thuốc lá.
- Dẹp lâu rồi.
- Thế thì chịu.
- Gác đêm!
Đi gác đêm ôi cái việc gác đêm xa lạ mà chúng tôi thường dọc thấy trong tiểu thuyết phương Tây, Trọng Hứa làm gác đêm. Tôi hỏi lại, Trọng Hứa gật và kể hai hôm nay đi gác đêm cho một hợp tác xã làm vành xe. Ngồi ở chỗ này cũng trông thấy bên kia ngã ba đường cái bảng treo trên tường nhà xưởng "Quyết Thắng" hợp tác xã cấp cao sản xuất vành xe cải tiến. Ấy đấy.
Tôi chẳng biết thế là tốt lành hay cực chẳng đã, việc đi gác cho cái xưởng làm vành xe. Tất nhiên, chắc Trọng Hứa không dám nửa đêm trèo tường dỡ mái kho. Nhà văn đương làm việc tử tế. Như cô bác sĩ huyết học quạt bánh đa ở phố nọ.
Trọng Hứa cắt nghĩa:
- Tôi khó ngủ, ngủ ít, anh biết đấy. Việc này có thể khá hợp. Một cái gậy. Chiếc đèn tám pin. Mười giờ người ta tan ca, mình gác đến sáng. Sẽ viết được một cái gì cũng nên.
Trọng Hứa ra vẻ khoái. Tôi cũng vui lây như tróng thấy bạn có đồng ra đồng vào thêm thắt. Ngày trước, tôi đã biết người Miên người Chà gác đêm ở rừng cao su Dầu Tiếng, ở nhà máy thuộc da Thuỵ Khuê, nhà bia Ô Mền. Ông Tây đen quấn thừng đặt cái tích nước trước mặt, cạnh chiếc đồng hồ chẩm cầm gẩy đàn báo giờ. Mảnh khố tải khoác cho sương xuống khỏi ẩm vai. Hai chân duỗi thẳng. Chiếc gậy để ngang đầu gối. Ông ngủ ngồi hay đang thức, trông vào cái mặt râu xồm tối sẫm, thánh cũng không thể biết. Đồng hồ đến giờ, cuộn gai đồng quay lên những tiếng tính tang. Ông đứng dậy, bỏ vào túi chiếc đồng hồ vẫn đương kêu. Xách tích nước, cầm gậy đi, dạo hai tua quanh tường nhà máy rồi lại về ngồi ngủ đúng cái chiếu chỗ lúc nãy. Trên Việt Bắc, Trọng Hứa và tôi cũng đã nhiều đêm gác cơ quan. Mới dạo trước, làm công tác khối phố, đêm tôi cũng đi tuần tra với tổ dân phòng. Cái đèn pin, cái băng đỏ, cái còi và rà các ngõ hẻm chỗ tối đèn. Việc gác đêm chẳng lạ, nhưng chỉ từng giờ và chưa khi nào gác suốt đêm được trả lương, như Tây đen, như Trọng Hứa thế này, tôi tìm ra câu an ủi vuốt đuôi:
- Ừ, sẽ có cái để viết. Cũng hay!
- Chưa biết thế nào. Hồi đi thực tế vào đường sắt công phu thế, cũng chưa viết được. Nhưng cũng có thể hy vọng.
Nhất định rồi. Thành phố ban đêm, lâu lắm chúng mình không biết.
- Ờ, ờ...
Một ngày kia, tôi gặp lại Trọng Hứa.
Trọng Hứa nói nho nhỏ:
- Được một tuần, xin thôi rồi.
- Sao thế?
Trọng Hứa mỉm cười, rầu rĩ:
- Không phải cứ ai ít ngủ thì làm gác đêm được ông ạ.
Cũng lại chẳng hỏi thêm làm gì. Cái câu ngậm ngùi buồn thiu kia mang tính tổng kết và triết lý đã cắt nghĩa đủ.
Bây giờ, thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ngoài phố.
Trọng Hứa nhẩn nha mấy phố quanh nhà. Chẳng đủ sức, đủ tiền đi qua hồ Gươm tung tẩy lên vùng cà phê Lý Hảo Phúc Châu xưa. Nghe biết những nơi ấy các hàng quán lại mở, cả người nước ngoài kéo đến chè chén, đông vui gấp mấy lán trước. Đành chịu.
Từ xa, đã nhận ra, dù trên vỉa hè, các lô quần áo cũ, mới Thái Lan, Đài Loan, Nhật treo bán lấp cả mặt người đi Nhưng thoáng trông đôi ống quần quá quen và cái mõm giầy da cóc đã đoán được Trọng Hứa đương đi tới.
Những mối tình hờ, những lo toan ký cóp, những dự định không bao giờ có, ấy vậy. Trọng Hứa vẫn đương cùng những nhân vật hiu quạnh không tên, đi lẫn vào mọi người. Đây... gió... Đây... trong rừng...

7. Trúc Đường


Trúc Đường, tác giả chín kịch bản sân khấu về đề tài lịch sử: Nguyễn Trãi Hoàng Diệu, Bà đô đốc áo đỏ, Khuôn mặt đời Trần, Tấm vóc đại hồng, Thái hậu Dương Vân Nga, Quang Trung đại phá quân Thanh...
Hơn bốn mươi năm về trước, khi anh Trúc Đường dạy học trường Hà Văn, một trường tư trong thị xã Hà Đông, đấy là ông giáo còm, còm tiền và còm gù cả lưng mà lũ đàn em chúng tôi hay đến quấy nhiễu quá nhiều.
Ông giáo dạy tư Nguyễn Mạnh Phác lấy việc gõ đầu trẻ nuôi miệng. Nhưng rồi Nguyễn Bính từ quê lên ở hẳn với anh, sau khi được giải khuyến khích về thơ của Tự Lực văn đoàn. Cái vinh quang ảo ảnh xui chàng thanh niên bỏ làng lên "kinh thành gió bụi" chứ có ăn thua gì đâu. Bọn chết đói dở, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, lại còn cả một lũ cùng trường phái thơ văn với nhau, nào Trần Nhân Cư ký ga Đầu Cầu, nào Trần Hồi (làm thơ ký là Jeannine Lệ Thuỷ!) vốn sống nhờ vợ bán thịt lợn chợ Hôm, nào các Tản diệt Nguyễn Tố, Nguyễn Tuất, Phan Như chạy hiệu xuất bản... Chúng tôi cứ dông dài đâu đâu đến lúc không đào ra được một tiếng tử tế lại mò về báo hại anh Trúc Đường.
Tất nhiên, thầy giáo trường tư hay ông ký công nhật nhà in Trúc Đường cũng chỉ có thể đãi được bữa cơm rau dưa hay mỗi người một bát phở trộn cơm nguội, chẳng hạn.
Ba năm trở lại đất Hà Đông
Người cũ cô Oanh má vẫn hồng
Tóc vẫn bỏ lơi răng vẫn trắng
Vẫn ngồi bên cửa liếc qua song
Mã vẫn vô tình với khách thơ...
Cái cô Oanh con cái nhà ai ở thị xã thật tình cũng chẳng quen thuộc và đăng đối gì với cuộc sống khó khăn từng ngày của bọn thất nghiệp dở này. Cả thơ, cả người cũng chỉ phất phơ bóng gió đầu đường mà thôi.
Thế mà như thật. Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố hàng Bông, Nguyễn Bính bấm tôi: "Oanh đấy! Oanh đấy!”. Tôi nhỏm sang bên kia hè. Trời ơi! Oanh! Thiên tình sử Ngậm miệng não nùng của Nguyễn Bính đăng nhiều kỳ trên báo Tiểu thuyết thứ năm: Tâm hồn tôi chỉ là bình rượu nhỏ... Rót lẩn lần rót mãi xuống nàng Oanh... Bây giờ gặp Oanh đây... Một cô con gái hình như mặt tròn như chiếc bánh đúc, chít khăn sa tanh đen, kiểu các cô bán cau khô, hàng xén chợ tỉnh, mà cái chàng "khách thơ" Nguyễn Bính đâu có quen người ta cho cam! Hình như chỉ biết là con ông ách, ông quản hay bà giáo, bà ký gì ở tỉnh lỵ. Thế mà cứ rối cả lên.
Đã có lần tôi có nhận xét trên Tạp chí Văn học về những sự việc và con số không đúng trong một cuốn từ điển các tác gia Việt Nam trong đó có chỗ về Nguyễn Bính. Sách nói Nguyễn Bính đi Nam tiến 1945 rồi tham gia kháng chiến ở Nam Bộ. Đúng, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Rạch Giá. Lời bài nhạc Tiểu đoàn ba lẻ bảy thơ Nguyễn Bính mà Quốc Hương đã hát một cách hết sức trầm hùng, cả nước đều thuộc.
Rồi Nguyễn Bính ra tập kết. Nhưng không phải Nguyễn Bính đi Nam tiến thời kỳ Tổng khởi nghĩa, mà anh đã có mặt ở Cần Thơ rồi Rạch Giá và là một trong những nhà thơ kháng chiến có tiếng nhất ở Nam Bộ.
Và ở thời kỳ đầu, trên chiến trường Nam Bộ, thơ Nguyễn Bính có ảnh hưởng nhiều trong hơi thơ Huỳnh Văn Nghệ, Bảo Định Giang, Xuân Miễn, Hoàng Tố Nguyễn, Vũ Anh Khanh...
Quãng những năm 1940, đói rách cả rồi, ở lại Hà Nội ăn bám anh em mãi không còn được, đành phải kéo nhau đi kiếm ăn nơi xa xôi. Lúc đầu thì ba người: Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can và tôi. Bạn bè lại phải làm một cuộc đưa các Kinh Kha sang Tần ở ga Hàng Cỏ lần nữa. Lần này những ba Kinh Kha! Anh Trúc Đường cũng đi tiễn chúng tôi.
Ghé xuống Thanh Hoá trước tiên. Ở Thanh, lại ăn vạ người ta, đến nỗi bạn bè không kham nổi, phải tống tiễn lo cho ba xuất vé tàu hoả vào Sài Gòn. Nhưng lại xuống Huế. Vào Huế cũng sống vật vờ như ở Thanh.
Thỉnh thoảng, Nguyễn Bính gửi thơ về Hà Nội. Những bài thơ Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương... Nguyễn Bính viết. Hồi ấy, Trúc Đường cho đăng báoĐàn bà rồi gửi liền nhuận bút vào. Nhưng thơ làm sao nuôi nổi người, huống chi lại những ba người. May nhờ có các bạn yêu thơ Lỡ bước sang ngang mà chúng tôi vẫn thất thểu dưới nước và trên bờ sông Hương được. Rồi gặp may, có hoạ sĩ Nguyễn Đức Nùng đương dạy vẽ ở Huế.
Thời ấy, bất cứ ai đi làm cho nhà nước, đem so với nghề còm cõi khác, thì cũng gọi là ung dung hoặc có máu mặt đôi chút. Văn thơ là việc dông dài lông bông, không được gọi là một nghề. Thế là chúng tôi đến ăn báo cô nhà anh Nguyễn Đức Nùng ít lâu. Tôi cũng không nhớ được ai mách báo, một hôm lên chơi với sư chùa Trúc Lâm. Nhà sư trí thức Thích Mật Thể, tu tại đấy. Rồi lại không biết làm sao mà Vũ Trọng Can nảy ra sáng kiến đọc sách Phật rồi cặm cụi viết quyển Tinh thần Phật giáo (Nhà xuất bán Đời Mới ở Hà Nội đã in). Sư Thích Mật Thể nuôi Vũ Trọng Can ngồi tại chùa viết sách Phật. Thế là Nguyễn Bính và tôi cũng được nuôi lây. Chúng tôi ở yên chùa Trúc Lâm có đến hàng tháng, cũng đến ngày phải đi khỏi Huế. Nhưng lần này tôi đã thoái trí lang thang cầu bơ cầu bất, tôi trở về Hà Nội.
Hai người ở lại Huế. Không biết có phải chuyến ấy Nguyễn Bính ghé Bình Định chơi với Yến Lan và hai anh đã cùng viết kịch thơ Bóng giai nhân không. Mới đây, tôi được Yến Lan nói là khi ấy Yến Lan đã ra Huế vở kịch thơ được viết và diễn lần đầu tiên ở Huế, đông người xem mà bị coi như thất bại vì nhiều nỗi.
Cuối năm 1943, lại gặp Nguyễn Bính ở Sài Gòn - chuyến này tôi lấy vé đi tàu suốt đàng hoàng. Ngày ngày ăn cơm thố. Hôm nào có tiền đi uống rượu quán cháo cá Chợ Cũ. Nhưng xem ra Nguyễn Bính có vẻ ung dung. Chẳng cần đoán thì cũng biết bạn bè nuôi thôi.
Không biết bạn còn những ai nữa, nhưng Nguyễn Bính đưa tôi đến làm quen với nhà thơ Việt Châu, người có đạo Hoà Hảo- tác giả tập Lông ngỗng gieo tình mới in.
Người anh của Việt Châu đi làm cho hãng buôn Nhật, có tiền và sau này vào đảng thân Nhật.
Chúng tôi hẹn hụt nhau một chuyến đi Hà Tiên, rồi thôi, tôi lại trở ra Hà Nội.
Tôi phải lan man "chuyện ngày xưa" một chút về Nguyễn Bính. Bởi vì làm sao mà hai anh em ấy khác nhau và cũng giống nhau thế. Trúc Đường được học hết bậc trung học thời Pháp. Nguyễn Bính, chẳng biết có ngồi xong cái lớp bét trường huyện không. Mỗi người một tính, một nết, một hoàn cảnh khác nhau.
Trúc Đường đứng đắn, chăm chỉ, mực thước, nhũn nhặn. Nguyễn Bính hoang toàng, khinh bạc, tự cho "tài mình phải được cung phụng”, mà đời (bạn) không nuôi thì chửi. Bởi vậy, với Nguyễn Bính chúng tôi thường cứ vừa mến vừa thương lại vừa giận, anh Trúc Đường thì thật bao dung và quý tài em. Không khi nào Trúc Đường đi chơi bời hát xướng phá phách như em, nhưng bao giờ anh cũng thương yêu em. Vì thế nên khi ở Hà Nội chúng tôi mới theo được với Nguyễn Bính về ăn hại “phá nhà" anh được.
Cái hồi Trúc Đường thôi dạy học ở Hà Đông- tôi không nhớ năm nào, anh ra Hà Nội làm tuần báo Ích hữu của nhà xuất bản Tân Dân với Lê Văn Trương.
Làm báo ở ban biên tập có lương hẳn hoi, chứ không chỉ gửi lai cảo ăn tiền bài mà thôi, anh còn dạy thêm chữ Pháp cho một người bà con trên phố Bờ Sông. Bấy giờ, tôi cũng đương ham hố viết văn. Thằng Đào Hanh ở Bờ Sông bảo tôi: "Ông Mạnh Phác làm báo Ích hữu đấy”. Tôi đã phục lắm.
Ở báo Ích hữu giữ một mục, như kiểu mục "Lọng cụt cán" của Tam Lang báo Tin Mới. Mỗi kỳ anh phác hoạ chân dung châm biếm, cười cợt một nhân vật xã hội, anh ký tên thật là Mạnh Phác. Thỉnh thoảng, có in một truyện ngắn, kịch ngắn.
Ích hữu ra đời được ít lâu thì báo chết. Trúc Đường tìm được việc sửa bài nhà in tại nhà in Lê Cường phố Hàng Bồ. Hồi này anh thuê nhà ở Nam Tràng, chỗ những phố ngắn ngủi giữa cái bán đảo nhô ra hồ Trúc Bạch trong Ngũ Xã.
Tôi quen Nguyễn Bính thời kỳ ấy. Vì thế mới biết anh Trúc Đường.
Tôi nói tôi được biết anh Trúc Đường, tôi chỉ biết Trúc Đường, bởi cho tới khi anh đã về già và tôi cũng đã già, làm sao tôi vẫn cứ cảm như đối với nhau vẫn như ngày ấy, anh ấy bao giờ cũng là đàn anh bọn chúng tôi. Không bao giờ trong công việc trước tác, anh bàn một câu nào với chúng tôi. Chúng tôi cũng không hề hỏi. Chỉ biết với nhau là anh đi làm, có khi mình túng thiếu, cho mình nương nhờ được, anh là nhà báo, nhà văn, có “học cao”, có nghề nghiệp. Bao giờ cũng nền nếp bậc anh, không kéo bè kéo lũ lông nhông chơi bời, chẳng khi nào "phùng trường tác hí" với chúng tôi cả Chúng tôi kính trọng anh từ cung cách ăn, ở, đi đứng. Đi làm đúng giờ giấc. Về nhà, ngồi vào bàn bật đèn sáng, đọc sách, viết văn.
Tôi chỉ biết có thế. Nhưng một điều tôi biết hơn là từ ngày ấy, anh đã viết kịch. Và viết nhiều. Tôi đã trông thấy bản thảo những vở kịch đài từng tập giấy trên bàn anh. Hồi này, Vũ Trọng Can đương viết truyện ngắn. Thấy Trúc Đường viết kịch, anh chàng này cũng học đòi. Nhưng rồi thế nào mà kịch Biển lận của Vũ Trong Can được diễn ở nhiều nơi. Vũ Trọng Can lại có cả một cái kịch dài tên là Cái vạ in nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn. Bài được in báo Ngày nay là sang trọng lắm. Còn kịch Trúc Đường, chỉ xếp trên bàn, chẳng thấy tăm hơi ở đâu in, ở đâu diễn.
Trúc Đường kiếm sống bâng nghề sửa bài cho nhà in Lê Cường, anh còn kiêm làm báo Đàn bà của Thuỳ An. Cũng là tình cờ mà làm báo ấy. Chỉ vì báo Đàn bà in ở nhà in Lê Cường.
Nói về cái nghề làm báo ở Hà nội mấy năm rối ren này thật phức tạp và mỉa mai. Phức tạp vì những âm mưu của Pháp, của Nhật, chúng nó chui vào làng báo, có tay chân có mưu đồ khác nhau. Mỉa mai, vì thời ấy phần nhiều làm báo cũng như đi buôn chạy hàng xách mà thôi.
Theo luật lệ của Pháp: có ra báo mới được mua giấy cung cấp theo giá nhà nước qui định (rẻ hơn giá chợ đen). Nhiều người xin giấy phép ra báo, mua được giấy, bán ngay giấy đi: chỉ tìm cách sắp chữ in vài tờ gởi lưu chiểu. Báo Đàn bà của Thuỵ An không hẳn làm như thế. Nhưng nó cũng chỉ in số lượng ít. Chủ báo đem giấy bán buôn cho lái. Trên báo Đàn bà còn có một mục lạ kiểu hơn tất cả các báo lúc ấy. Đó là mục nhắn tin mua hàng hộ bạn đọc. Các bà các cô đọc báo Đàn bà có thể là người phong lưu. Ở tỉnh xa, gặp thời buổi chiến tranh, cái gì cũng khan hiếm. son phấn vải vóc và mọi thứ trang sức đều khó tìm khó mua. Báo Đàn bà đứng ra làm việc ấy, môi giới hoặc mua hộ rồi thiến tiền hoả hồng. Cái mục mua hàng giúp bạn đọc mỗi kỳ dài mấy cột chứ không ít!
Chủ báo Đàn bà thuê Trúc Đường cáng hai trang văn thơ ở giữa báo. Vì vậy, thời kỳ này, ở Huế hay ở Sài Gòn, nhiều thơ Nguyễn Bính gửi về báo Đàn bà ở Hà Nội. Trúc Đường viết truyện, nhà xuất bản Lê Cường đã xuất bản tiểu thuyết Nhan sắc của Trúc Đường.
Ngày, nay, Trúc Đường là một tác giả nổi tiếng kịch đề tài lịch sử của văn học Việt Nam. Nhưng thời ấy, kịch chỉ là một nghề chơi, dẫu rằng nghề chơi cũng lắm công phu. Ở thành phố, mà cũng chỉ Hà Nội là chính, người ta chơi kịch chứ đâu có nghề kịch, nghệ thuật kịch. Mà nghề chơi, thì đến tay chơi lọc lõi như Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ còn chật vật, huống chi lại chân chỉ hạt bột như Trúc Đường thì mọc mũi sủi tăm làm sao.
Có người bây giờ cứ nghe mang máng ngày xưa mỗi năm, những đêm mở đầu mùa kịch (mùa thu, như bên Tây) các tác giả kịch mời bạn bè đi xem tổng diễn tập không khí huy hoàng, tưng bừng làm sao? Có phải thế không? Tôi cũng là bạn bè một vài kịch gia như Vũ Hoàng Chương, Vũ Trọng Can, có được hưởng ít nhiều cái “hân hoan” ấy trong đêm mở đầu mùa kịch. Tôi cũng nghĩ bây giờ ta nên cải tiến sao cho những đêm duyệt kịch phải là những đêm làm việc mà vui, thật vui, như đêm chờ đợi đứa con ra đời.
Nhưng tôi cũng phải kể thêm là không phải "ngày xưa" mở màn mùa kịch chỉ có phấn khởi rồi rủ nhau "xuống xóm" làm chầu hát kỷ niệm. Cái nao nức ấy phần nhiều cũng nằm trong ao ước và tấm lòng của tác giả và bạn bè. Còn phải kể đến một việc tày đình phải lo, đấy là Tây có nhòm ngó và có cho qua hay không, rồi diễn cho khách xem không, hay chỉ đông khách vì giấy mời như đêm Bóng giai nhân ở Huế.
Còn nhớ, năm ấy, anh em chúng tôi ở trong làng hay tổ chức những đêm kịch cỏn con ở sân đình. Tuy vậy cũng tự đặt tên cho oai là Nghĩa Đô kịch đoàn!
Kịch diễn sân khấu giữa trời người xem không mất tiền nên đứng chật cả cửa đình. Chúng tôi diễn Toà án lương tâm của Vũ Đình Long, Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng, Tấm lòng vàng của Nguyễn Công Hoan. Năm trước, diễn Biển lận của Vũ Trọng Can và Gái không chồng của Đoàn Phú Tứ. Người xem đông và mọi sự đều ổn. Lần này, quan đồn Bưởi không để yên cho. Đêm ấy mà không buông phông sớm mà chuồn đi (vì có một chú lính khố xanh tốt bụng ra mách), nếu cái nhân vật ông già loà mắt lại ốm nặng của Vũ Trọng Phụng trong Không một tiếng vang mà thằng Điều đóng cứ nằm còng queo giữa sân khấu kêu khóc, chửi rửa lão chủ đến đòi tiền nhà thêm lúc nữa, thì chắc hẳn là bọn chúng tôi phải vào nhà giam trong đồn đêm ấy. Chỉ có một tên khố xanh đã có thể tóm cổ cả bọn được, còn đến mật thám duyệt vở, duyệt sách thì bỏ tù như bỡn chứ gì.
Ấy mặt nọ còn có mặt kia là thế.
Cái khó nghề kịch ngày nay đã không kiếm ăn nổi, lại còn nói người ta có để yên cho hay không, làm sao có Trúc Đường được. Mà chỉ đến ngày nay Trúc Đường mới trở lại viết kịch và thực sự trở thành kịch tác gia.
Trong kháng chiến, Trúc Đường về quê ở Nam Định, anh làm báo Công dân của Uỷ ban kháng chiến tỉnh. Các bạn làm báo Công dân với Trúc Đường, các anh Lộng Chương, Phạm Lê Văn, Chu Hà, Trần Lê Văn, Bùi Hạnh Cẩn... đã gần gũi và cộng tác cùng anh ở Liên khu Ba.
Mặt trận lan rộng, cuộc kháng chiến trên vùng đồng bằng sông Hồng gay gắt dần lên. Theo đuổi kháng chiến hay trở về các thành phố bị chiếm: mỗi người công dân đương đứng trước một thử thách lớn.
Một số như Vũ Hoàng Chương. Đinh Hùng đã về Hà Nội trong những giờ phút quyết liệt này.
Khi ấy, nghe tin Trúc Đường đã thoát khỏi vòng vây những cuộc càn quét của địch vào Thái Bình, anh đưa gia đình chạy lên ngược, vượt đường số 6 dày đặc đồn bốt, tới được Thái Nguyên. Rồi Trúc Đường cùng vợ con vào cư ngụ trong Khe Mo vùng đồi huyện Đồng Hỷ. Sốt rét, ròng rã ốm cả năm trời.
Nhưng anh Trúc Đường đã ở Đồng Hỷ suốt cho tới kháng chiến thành công. Trúc Đường đã ở với gia đình một người em đã lên đấy từ ngày trước cùng làm ruộng sinh sống. Thực sự, anh trở thành người nông dân.
Nhưng ở nơi đồng đất bán sơn địa, không thể mỗi chốc làm chơi ăn thật, như dưới xuôi. Ruộng trằm, ruộng dốc, đất hoang... Bà con trong làng nhường cho một phần, vợ chồng bỏ công khai phá. Nơi cấy lúa nước, lúa nương, nơi trồng chè, trồng thuốc lá.
Cuộc sống ruộng vườn chợ búa qua ngày, nhà tranh vách đất. Có lẽ hai chữ tên biệt hiệu "Trúc Đường” của anh lúc này mới thật đắc ý. Như mọi nhà trong cuộc kháng chiến, Trúc Đường đã gánh vác việc nhà việc nước bình thường, bền bỉ và kiên nhẫn của một người công dân chân chính, cũng như cả triệu triệu công dân từ Nam chí Bắc.
Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội được giải phóng, Trúc Đường trở về.
Hình ảnh một người anh chân chỉ, đức độ từ ngày nảo ngày nào ở Ngũ Xá, tới hôm nay, tôi vẫn hình dung ra nguyên như thế.
Nhớ như thế, lại nhớ Trúc Đường đã đeo đuổi viết kịch từ thời trai trẻ. Có lẽ những vở kịch ấy, anh đã vứt đi cả rồi. Nhưng, không phải ngẫu nhiên khi có tuổi anh mới viết kịch, anh đã say mê kịch từ khi mới cầm bút. Cái thiết tha và tâm sự ấy ít anh em bạn trẻ bây giờ biết, và chỉ đến khi sân khấu cách mạng đã đưa nghệ thuật và thể loại kịch Việt Nam trở thành một bộ môn văn học và nghệ thuật không thể thiếu, Trúc Đường mới đạt được mơ ước của đời mình. Nếu như trước kia, kịch chỉ là chơi kịch - thật sự ngày ấy chúng tôi nói là "chơi kịch", Trúc Đường cũng chưa chơi nổi kịch.
Trúc Đường, con người với quyết tâm và sự dùi mài của anh và sân khấu đã tạo thành kịch tác gia Trúc Đường của đề tài lịch sử trong nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
***
Còn nhớ một đêm, vở Tấm vóc đại hồng của Trúc Đường diễn ở hội trường Ba Đình. Có lẽ đêm ấy tác giả hào hứng lắm, anh giục tôi phải đi xem.
Nửa đêm ra về, trên đường Điện Biên Phủ lá đa rụng xào xạc thành tiếng lẫn ánh điện và bóng trăng.
Tôi nhận ra sức mạnh sáng tạo của Trúc Đường, sở trường dựng những nhân vật lớn như Trần Thủ Độ, Lê Hoàn, Quang Trung... những quang cảnh lớn: Hội thề Đông Quan, cuộc tụ nghĩa Lam Sơn, điện Diên Hồng.
Đề tài và người viết như cá gặp nước. Trúc Đường đã đặt ra được nhiều giải pháp mới cho lịch sử, nổi bật như vấn đề Dương Vân Nga.
Và ở kịch Trúc Đường, lại còn thấy những vương vấn, bâng khuâng, những thiết tha thấp thoáng trong bóng trúc, ngõ tre, trên đò ngang bến nước. Một cô gái canh cửi. Một ông tiều. Một quán bên đường. Những vai phụ, những nhân vật không có tên của Trúc Đường đều ý nghĩa lạ lùng. Chỉ một cảnh thoáng qua nhưng lại là một nét phướn mày của người đàn bà họ Dương vốn tài sắc kiên nghị.
Tôi tưởng như đây cũng là, đây mới là, ở đây có tâm sự người viết. Người viết nào chẳng gửi gắm vào sáng tác niềm vui, nỗi hờn của tâm sự của tấm lòng vào một cảnh, một người, một vấn đề. Cái lớn của sự sáng tạo được góp lại từ mảnh trấu, một hạt kê, và từ những đam mê, những thương cảm đến không bao giờ nguôi của người nghệ sĩ. Với Trúc Đường là cái bóng của hình ảnh vách trúc nhà tranh đơn chiếc... những hoài vọng không bao giờ còn... Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ. Con thuyền đấy là Trúc Đường ư?
Một hôm, tôi nói với anh như vậy, anh cười hiền lành như mọi lúc, rồi bảo tôi: "Thằng này thế mà quái". Tôi hiểu có thể là anh có ý khen.

12. Vân Đài


Đời chị Vân Đài
Nhà thơ Vân Đài sinh ngày 9 tháng giêng năm 1903 ở phố Hàng Trống. Tôi phải thêm một chi tiết. Trong bán tóm tắt lý lịch ở cơ quan Hội Nhà Văn, bút tích chị Vân Đài ghi: (theo CMT: ngày 15 tháng ba năm 1909) Nhưng đấy là công việc của các nhà nghiên cứu với con số, không bận đến những nhớ lại này của tôi Ngày ấy, anh Nguyễn Cong Hoan học trường Bưởi có những năm trọ ở phố Hàng Trống. Khi đùa cợt, tôi hỏi: "Ông cùng tuổi với bà Vân Đài, mà khi mười tám đôi mươi ông cùng ở phố Hàng Trống, thế ông có lọt được vào mắt xanh của giai nhân không?", anh Nguyễn Công Hoan cười khơ khớ thật sảng khoái:
- Con Minh ấy mà (nhà thơ Vân Đài tên thật là Đào Thị Minh) ba chị em nhà nó đẹp nhất phố Hàng Trống, nhất cả Hà Nội cũng nên. Đuôi chúng nó dài lắm. Tớ có sắp hàng thì cũng phải đứng vào loại ngoài rìa hàng tá, ăn thua mẹ gì!
Phải rồi, cậu học trò trường huyện lên Kẻ Chợ thì làm sao hớp nổi cái liếng mắt của những con người nghiêng nước nghiêng thành. Bao nhiêu năm về sau, mỗi khi trò chuyện lông bông về những ngày ấy, nói đến chị Vân Đài, trong chỗ thân tình như tôi, khi nào anh Hoan cũng gọi là "cái" Minh, con Minh, "cái con" Minh và trước mặt mỹ nhân đầu thế kỷ thì anh Hoan thân mật, dịu dàng: cô Minh, tôi đề nghị cô Minh... chứ không gọi là Vân Đài.
Thế nhưng một cuộc tình éo le, cay đắng đã đến với con người hồng nhan mà bạc phận này. Một chàng sinh viên quê Trà Vinh ra Hà Nội học trường thuốc đã chiếm được trái tim người đẹp.
Chắc là các bạn trai gái thanh lịch hôm nay nghe câu chuyện giăng mắc tơ tình ngót trăm năm trước có thể thấy xa lạ như một huyền thoại.
Thời ấy, thông thường, trai gái đến thì đều được cha mẹ gả bán, con cái chỉ biết đặt đâu ngồi đấy. Lề thói là thế, vậy mà hai người ấy đã gặp nhau và yêu nhau. Dẫu thế nào, trước miệng tiếng thế gian, cũng là chuyện vụng trộm, xấu xa. Cái chàng sinh viên cao đẳng tận miền Nam ra đây học, dù đã đánh tiếng là công tử Bạc Liêu gia tư bậc triệu phú thì cũng không khác chuyện đâu đâu.
Bên nội bên ngoại không ai bằng lòng, lại còn nặng lời, nữa. Thế rồi hai người trốn đi, đem nhau về Trà Vinh. Một chuyện tày đình. Người sắc nước hương trời con nhà dòng dõi bỏ nhà đi theo trai đã chán động cả một thành phố nền nếp nho phong. Họ Đào là một nhà gia thế lâu đời ở Hà Nội. Chẳng phải chỉ là điều xấu xa riêng cho một nhà, một họ, mà tai tiếng lan khắp. Gia đình đã ra trước pháp luật, từ bỏ đứa con bất hiếu.
Nhưng cuộc tình ấy cũng không hạnh phúc. Mười ba năm đằng đẵng ở Trà Vinh rồi phải "Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi” (Thế Lữ). Hai con lớn ở lại với cha. Một con trai thứ ba và cô gái út còn trứng nước với mẹ trở ra Hà Nội.
Nỗi đau mối tình tan vỡ đã chôn vùi mãi, nhưng cả đời thơ Vân Đài không khuây được nỗi niềm gắn bó với một phương trời mà người con gái ngót hai mươi tuổi đã lỡ bước tới - một day dứt ngược đời. Hình ảnh những "Trà Vinh thương nhớ", những địa danh xa lạ An Trường, Tiểu Cần Càng Long đã hiền hiện trong mỗi lời thơ. Nhớ thương ấy không chỉ là một trạnh nghĩ mà là nỗi đau đời người.
Năm 1954, khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, chị Vân Đài nhận được đứa con thứ hai theo người ta từ miền Nam ra tập kết. Huỳnh Tấn Khanh năm ấy đã ngoài ba mươi tuổi. Khanh người nhỏ nhắn, thanh tú.
Khanh mắc bệnh dại bẩm sinh - một chứng điên hiền lành.
Tôi đã làm quen với Khanh. Tôi thường nhận thấy ở người bệnh thần kinh có một tư cách và suy nghĩ lạ, như sinh vật ở hành tinh khác tới. Tưởng như sự im lặng hay mỗi câu nói của họ đều ngoài hiểu biết của ta.
Như em Dũng đương học lớp 1 thì loạn óc, cả ngày đi tha thẩn. Hơn mười tuổi, em theo cả nhà về Quảng Ngãi. Em nhớ Hà Nội đến độ em cố học lại, viết được thư cho tôi. Tất nhiên, nguệch ngoạc vài dòng. Thư nào cũng hỏi thăm sức khỏe bác Nguyên Hồng, dẫu cho mỗi lần trả lời thư Dũng tôi đều bảo cháu là bác Nguyên Hồng mất rồi. Thư sau lại hỏi thăm bác Nguyên Hồng! Có lẽ người điên được hạnh phúc có cái đinh ninh vĩnh viễn. Nhiều năm, tôi quen Châu ở vùng ngã năm phố Bà Triệu. Tôi đã để ý cái anh ngớ ngẩn này từ hòi anh ta làm bưng bê cho hiệu nem Cát Tần.
Trẻ con các trường học quanh ngã năm vừa sợ lại vừa hay trêu "Trâu Điên". Ngày ngày Châu đun nước gội đầu cho các hiệu cắt tóc và rửa bát hàng phở, kiêm húp nước phở thừa. Lâu lâu không gặp tôi, Châu đi các hàng quán và hiệu cắt tóc quen, hỏi: Có thấy ông Tây đến không. Châu gọi tôi là "ông Tây" không phải vóc vạc tôi to như Tây, mà có lẽ vì đôi khi tôi cho Châu tiền. Thấy tôi, Châu chụm chân giơ tay chào kiểu nhà binh. Có hỏi, chỉ trả lời dóng một - Đi đâu - Về, ăn cơm chưa? - Rồi. Lấy vợ chưa? - Chưa...
Vài năm nay không gặp, chắc đã chết ở bờ tường nào rồi.
Còn Khanh thì lúc nào cũng xách cái túi cói, trong có mấy cái lá cải bắp. Khanh không chào hỏi, hai con mắt đăm đăm nhìn. Tôi đưa tiền. Khanh lắc đầu. Đã biết tính, tôi mua cho mấy điếu thuốc lá, Khanh cầm ngay, rút hút luôn một điếu, rồi đi. Con mắt vẫn nhìn đằng trước, cũng lẳng lặng như cái bóng lúc đến.
Chị Vân Đài thương đứa con thứ hai này lắm. Chị thường ao ước bao giờ để dành được đủ tiền chị sẽ sắm một cái máy khâu cho Khanh. Có việc làm vui tay thì thần kinh nó sẽ đỡ ốm, sẽ khỏi - chị Vân Đài thường tưởng tượng thế. Vậy mà, cho đến khi hai tay buông xuôi, chị vẫn chưa lo xong được việc ấy cho con.
Chị Vân Đài mất ngày 31 tháng mười hai 1964, thọ sáu mươi mốt tuổi. Tôi còn nhớ hôm đưa tang chị, Khanh cũng được đội mũ, đeo băng đen, như Hùng, như Tuyết, các con chị, nhưng Khanh không ngồi trong xe tang với mọi người trong gia đình. Khanh đứng bíu vào cửa xe rồi trèo lên ngồi bó gối trước mui xe linh cữu mẹ. Chốc chốc, rít một hơi thuốc lá rồi lại gục đầu xuống, Khanh thương mẹ, Khanh khóc mẹ, Khanh đưa mẹ về nơi an nghỉ cuối cùng theo cách của Khanh. Rồi Khanh còn sống vất vưởng đến năm nào, tôi không biết.
Cái năm bỏ Trà Vinh về lại Hà Nội, chị Vân Đài ba mươi tuổi. Bốn năm sau, Vân Đài tái giá với Nguyễn Khắc Tường, một công chức chuyên viên ngành vô tuyến điện, anh Tường goá vợ. Cuộc tình duyên của anh chị đã toàn vẹn đến trọn đời.
Xưa nay, tôi hay để ý hồ Gươm, không phải đền chùa cũ, nhà máy điện, toà thị chính, bến xe điện Hà Đông ngày trước, mà những cái nhỏ nhặt, nếu người biết chẳng nói thì không mấy ai tỏ tường được. Đôi khi, những lặt vặt ấy lại là điều mà các nhà nghiên cứu không thể bỏ qua.
Cụ Trần Huy Bá - Bờ hè các phố giữa Hà Nội nhiều quãng bọc thềm bằng đá núi Thày, núi Trầm - thời ấy, xi măng và gạch ngói phải tải bên Pháp sang, những vỉa hè đá là vỉa hè đầu tiên ở Hà nội. Bây giờ, nếu có sửa các hè phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay, mấy quãng phố Ngô Quyền và một số phố khác, xin thành phố đừng cho bỏ đá ốp xi măng với cát mà nên giữ vẻ đẹp và di tích của đá ban đầu.
Ngày trước, ở vườn hoa Cửa Nam có một pho tượng lớn. Tượng thu nhỏ hình thần Tự Do ở cửa cảng Nữu Ước bên Mỹ. Tác giả tượng là một nhà điêu khắc Pháp. Nước Pháp đã đưa niềm vinh dự của tài năng đất nước họ đi khoe với các nước thuộc địa và đặt tượng này vào một chỗ lộng lẫy nhất Hà Nội, thủ đô xứ Đông Pháp.
Cụ Hoàng Đạo Thuý - Đầu tiên, tượng được dựng trên mái Tháp Rùa. Có ý để cho bốn phía hồ đều trông thấy. Nhưng rồi các báo Pháp ở Hà Nội và Hải Phòng đã kịch liệt phản đối. Họ bảo là: Tượng đặt trên cái tháp mỏng manh dễ bị đổ, vì xứ này hay có bão. Vả lại, tượng người đàn bà nà lại ngồi lên nóc cái chùa thì phạm vào phong tục phương Đông. Ông đốc lý Pháp đã phải dỡ pho tượng trên nóc tháp Rùa xuống, khiêng ra đặt ở vườn hoa Cửa Nam. Người qua đường gọi là tượng "bà đầm Xòe" - có ý mỉa mai làm vế đối với tượng đồng “Bôn Be” chỗ vườn hoa Nhà Kèn.
Mặt nước hồ Gươm lăn lăn gợn sóng. Từ bên tháp Hoà Phong qua tháp Rùa sang bờ bên này, những đám sóng đỏ nhấp nhô. Mùa thu, cánh hoa lộc vừng rụng từng đám đỏ hây lững lờ rạt sang bên này hồ. Một con rùa ngoi đầu lên đớp những cánh hoa.
Chúng tôi ngồi bên mép nước, dưới chân đã tụ lại từng làn cánh hoa lộc vừng đỏ. Chị Vân Đài ngoảnh nhìn quãng dốc lên phố Hàng Trống.
- Nhà tôi trước ở xế ngã ba đầu dốc ấy. Chị em chúng tôi thường rửa rau vo gạo, giặt giũ ở cái cầu ván bắc ra hồ đầu ngõ Bảo Khánh bây giờ. Những tối sáng trăng còn ra hồ tắm. Bấy giờ, những bụi cúc tần phủ dây tơ hồng vàng rượi cả một mé bờ hồ bên này.
Thế ra chỗ ghế đá chúng tôi ngồi đây, ngày ấy còn lơ lửng trong lòng hồ. Người Pháp làm đường vòng quanh hồ Gươm đã ngang ngược cắt đôi sân đền Bà Kiệu khiến cho cái cổng vào đền phải đứng mồ côi một mình bên kia đường đến tận hôm nay. Nhưng cũng nhờ con đường mà từ đấy về sau lòng hồ bớt bị lấp thêm.
Chị Vân Đài thông thuộc vùng hồ Gươm như người ta quen cái đầm nước y con đường làng. Những quang cảnh không bao giờ còn nữa, nhưng nghe chị kể thì tưởng như phảng phất chỗ cầu Gỗ vẫn cái lạch nước và từ bờ sông Cái vào, buổi trưa, những bãi dâu và cánh đồng ngô tràn nắng đến tận đầu cầu Thê Húc.
Ai mà nhớ được như chị! Những miếu âm hồn đầu Hàng Giò. Ở bờ hổ chỗ Hàng Trống trông xuống, vào những đầu mùa hạ và tháng bảy, hàng phố làm lễ kỳ yên, cúng chúng sinh, khói vàng mã bốc lên như cháy hồ. Trên mặt nước oan nghiệt vô tình kia, chẳng mấy hôm mà không có người ra trẫm mình, người sảy chân, vơ vẩn biết bao nhiêu hồn oan.
- Anh có biết một cảnh thật là quê ngay giữa thành phố này. Chỗ bên kia hồ thôi.
Tôi theo chị đi men hồ đến nơi khác thường ấy và nghe chị nói chuyện về tháp Rùa. Cái gò cỏ nhô giữa hồ, vào những ngày đông hanh hao, từng đàn rùa - thật ra, đấy là một loại ba ba, những con rùa có con to bằng cái nia, lên mặt gò phơi nắng. Một nhà phú hộ, ông bá hộ Kim được phép làm công đức xây một tháp trên gò, tháp được người ta gọi nôm na là tháp Rùa.
Đại lộ Hai Bà Trưng quãng giữa ngã tư Hàng Bài và Bà Triệu, trên vỉa hè um tùm mấy cây nhãn, như lề đường các phố cũ, nhấp nhô ngôi nhà cổ rêu phong ẩm ướt. Chen với những toà biệt thự được xây dựng hồi giữa thế kỷ. Nếp nhà tựa ngôi đền ấy là từ đường ông bá hộ Kim, ngày nay con cháu vẫn đương ở. Quá vào trong, một khu vườn, cỏ loang và bóng cây um tùm sang tận bờ dậu các vườn dinh thự bên đại lộ Lý Thường Kiệt.
Bỗng nhiên, chúng tôi lạc vào giữa vắng lặng. Bao nhiêu nhộn nhịp phố phường đã chìm nghỉm ngoài kia.
Giữa cái khoáng đãng thôn dã, một tiếng gà gáy trưa không biết trong các bụi cúc tần hay ở một gốc cây nhãn cổ thụ nào. Tiếng gà gáy trong im ắng, cảnh thôn dã thơ mộng vừa khác thường vừa gần gũi xiết bao.
Chị Vân Đài nói:
- Nghe tiếng gà gáy vang ra tận các ngách tường xung quanh, anh thấy thế nào? Tôi rất ưa những nơi như làng mạc mà bước ra cửa đã gặp thành phố. Trước kia, chúng tôi đã tậu một thửa đất khá rộng ở Xã Đàn, có ý định thực hiện điều mong ước ấy. Nhưng cứ nay đây mai đó, không lúc nào được ở lâu Hà Nội. Đến khi đi kháng chiến về, tôi đã hiến nhà nước chỗ đất ấy. Có gì đâu, chúng tôi đã cao tuổi, đứng trước mảnh đất hoang, thấy cái mơ ước xưa kia và thực tế của mình bây giờ, thật so le, chẳng còn hào hứng và sức lực nữa.
Tôi hỏi:
- Hình như ngày trước từ khi trở về Bắc, chị đã được đi và ở rất nhiều nơi. Tôi nhớ những bài thơ của chị đăng báo Đàn bà hồi ấy, khi thì viết ở Luang Prabang, khi ở Cham Bát Xăc. Chị đã đăng ở báo nào những câu "Tiếng đêm":
Tưởng hồn thu theo trong khuya vắng
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời

Chị Vân Đài trầm ngâm rồi nói:
- Chúng tôi ở đảo Cát Hải bốn năm. Rồi nhà tôi phải đổi ba năm sang Lào, khi Thượng Lào khi Hạ Lào, có dạo ở trên cao nguyên Bôlaven.
Rồi chị lại nói:
- Nhưng mà những kỷ niệm buồn vui nhất đời đối với tôi vẫn là thời trẻ và những ngày kháng chiến. Trước kia được đi lắm nơi thật, như là con người trong cuộc sống nội trợ gia đình, tất nhiên là đường xa cảnh lạ được biết nhiều. Từ khi cách mạng thành công, nhà tôi tình nguyện nhập ngũ. Ông ấy vốn là chuyên môn vô tuyến điện.
"Thế là tôi cũng vào bộ đội. Bấy giờ tôi mới có được một đời sống ý nghĩa với xã hội. Năm 1948, tôi gia nhập Đảng trong quân đội, tôi đã đi bộ đội hầu khắp Việt Bắc. Tôi ở trong Ban văn nghệ liên khu 1 và viết các báo: Xông pha, Bắc Sơn, Quân Tiên Phong. Về hoà bình, làm báo Phụ nữ Việt Nam, báo Văn Nghệ...
"Thôi, bao nhiêu gian khổ thì khỏi nói. Nhưng chưa bao giờ tôi có được những ngày sôi động, gây được ấn tượng nhớ mãi đến như thế. Ở thời kỳ này tôi làm được nhiều thơ nhất”.
1954, những năm chúng tôi trở về Hà Nội.
Lại một mùa thu tới, mỗi khi nhớ chị, tôi cứ nghĩ đến mùa thu, không hiểu vì sao. Có lẽ vì bấy lâu chỉ nghe chị nói những chuyện buồn xưa và những xế chiều. Dạo ấy, cơ quan có sáng kiến lập một cái căng tin. Ngôi nhà trụ sở vốn là một biệt thự cả mặt bằng tầng trệt là nơi tiếp khách bây giờ, ghép bàn lại làm cái quầy trên bày một loại chai rượu mùi: chanh, mơ, si rô lựu đỏ bán pha với bia cho người Hà Nội đương tập uống bia. Và mấy tút thuốc lá D’rao rẻ tiền với Thăng Long bao bạc. Khi ấy, ngoài chợ, mậu dịch bán phân phối từng lạng muối, cân bột mì Liên Xô thay gạo phiếu và tôi đã công phu biết nhóm bếp thổi cơm bằng sách cũ giấy vụn, ngoài đường tuyệt nhiên không có hàng quán và ai mua bán gì, thì cái căng lin ú ở này cũng là một niềm an ủi cơn sầu nhiều lắm.
Người giữ căng tin là chị Vân Đài. Ừ, con người đã viết cả một quyển sách dạy ai muốn trở thành Người thanh lịch thì ít nhất ở chỗ này cũng là dịp cho người cầm bút thấy được sự thanh lịch và vang bóng.
Căng tin dập dìu mỗi chiều chiều.
Nguyễn Tuân và tôi hay đến ngồi bên thềm cái bồn nước, trên dàn rủ xuống những dây hoa ớt vàng nhòe.
Chúng tôi uống bia Hữu Nghị - một thứ bia đen quý hiếm hồi ấy có nhìn thấy ở quầy, khách sạn "Mêtôbôn Thống Nhất" mà chỉ khi nào cùng đi với khách nước ngoài mới được mua uống, thật như lá trong chiều thu mặt hồ yên sóng, người đàn bà thanh lịch ấy bước ra.
Cử chỉ và phong thái Hà nội thuở nào, con người của phòng khách, của các thứ salông đài các và sang trọng xưa kia. Mặc dầu vẫn bộ áo đại cán ka ki màu "be" may đồng loạt trên Thái Nguyên, nhưng quần áo là thẳng nếp. Mái tóc hoa râm, vẻ yểu điệu thanh xuân không còn nữa, nhưng cách thức nhấc, đặt chiếc phin và tách cà phê vừa như hững hờ lại thật như ý tứ. Ôi, điếu thuốc lá - chỉ là điếu thuốc lá mà nói là cầm thì không đủ nghĩa, điếu thuốc lá như một búp ngọc lan chín trắng mịn giữa những ngón tay một thời ngà ngọc của chị.
Chị Vân Đài hút thuốc lá thơm. Chị không uống bia, chị chỉ "giúp đỡ” chúng tôi uống bằng cách đặt cái quyển sổ ghi nợ đã để sẵn đấy. Không biết có còn những ai thế nữa chăng, còn chúng tôi hôm nào cũng uống biên sổ. Thiếu nợ nhà nước vài ba két bia uống chơi đã ăn nhằm gì, chưa khi nào chúng tôi tính đến chuyện trả. Rồi căng tin của chị Vân Đài vỡ nợ, đóng cửa.

14. Võ Huy Tâm


Một hôm, Đức Lân đưa cho tôi một tập bản thảo: “Truyện này lạ lắm, anh đọc mà xem". Bấy giờ Đức Lân đánh máy chữ cho cơ quan Hội Văn Nghệ. Đức Lân hiểu biết văn học, đánh máy giỏi cực nhanh. Tôi hay nói đùa: "Ngày trước đây hằng năm mở cuộc thi đánh máy toàn Đông Dương- Cô Hoàng Thị Thế con cụ Đề Thám cũng thi đánh máy ở phủ Toàn Quyền đấy. Cậu mà thi ắt phải đỗ ngoại hạng”. Nhưng làm văn phòng thời ở rừng thì linh tinh mọi nơi, việc văn thư chưa chắc đã chiếm nhiều thì giờ hơn hội ý tổ tam tam, chăm đồi rau cải, rau muống vườn, nuôi bè cải xoong dưới suối và đêm đi săn con chồn, con gà rừng và thui chó. Tập bản thảo viết tay dầy mấy trăm trang, không biết bằng đường nào: hình như giao thông bên công đoàn đem sang. Tiểu thuyết có đầu đề là Làm reo hay Đình công người viết là Võ Huy Tâm.
Chữ chân phương, không chốn nél gẫy nét, vẻ cổ kính từa tựa chữ các cụ thời cầm bút chấm mực, hoa tay một cái ướm làm đà rồi mới hạ ngòi bút xuống trang giấy. Lối chữ ngay ngắn ấy Võ Huy Tâm vẫn giữ như thế mãi về sau này. Tôi có đọc nhưng cũng biết vậy theo Đức Lân nói và không chú ý. Tuy chữ rõ, nhưng chữa loằng ngoằng rối mắt trên tờ giấy Hoàng Văn Thụ xốp đen mờ.
Nguyễn Huy Tưởng hỏi tôi:
- Đã đọc cái tiểu thuyết của Võ Huy Tâm chưa?
- Mới thấy. Đọc qua thôi.
- Đức Lân nó nói đúng. Lạ đấy.
Nguyễn Huy Tưởng thường trực cơ quan và chuyên lo công tác nhà xuất bản Văn nghệ. Rồi tôi cũng không cố gắng hơn, nhưng mỗi hôm Nguyễn Huy Tưởng lại kể về cái hay của bản thảo cây bút mới.
- Nó viết về công nhân, công nhân mỏ. Đề tài này chưa có trong văn học ta, tác giả như nghĩ đến đâu viết đến đấy, có cái hay sốt rẻo, nhưng phải chữa nhiều, chân chỉ hạt bột quá làm thế nào vẫn giữ được đặc sắc...
Nói "làm thế nào", nhưng Nguyễn Huy Tưởng lại nói: vẫn lụa là ấy, ta đem dỡ ra khâu lại, làm thế.
- Mình đã liên lạc với bên công đoàn. Tác giả là cán bộ công đoàn hoạt động hậu địch Đông Bắc. Ra ngoài này chữa bệnh, đương ở Bắc Giang. Ta bàn với anh Lành cho gọi sang đây. Phải chữa kỳ được, không thì phí một tác phẩm có thể hay.
Ít lâu sau. Võ Huy Tâm đến cơ quan với chúng tôi. Người mảnh khảnh, mặt sốt rét tai tái hốc hác con mắt ngơ ngơ như nhìn đi đâu. Cái vóc dáng này ở Võ Huy Tâm cho đến bao nhiêu năm sau, khi sáu bảy mươi tuổi, đã già khô héo đi, tôi thấy Võ Huy Tâm vẫn tương tự thế. Lần ấy Võ Huy Tâm ở với chúng tôi có đến mấy tháng. Ngày ngày ngồi vào cái bàn mặt nữa ở góc gian nhà, như mọi người làm việc giờ hành chính.
Nhưng đây là cậu học trò mà thầy giáo Nguyễn Huy Tưởng chuyên kèm cặp. Nguyễn Huy Tưởng rì rầm nói. Võ Huy Tâm cầm bút, chốc lại hỏi. Hai người cứ nhẩn nha ngày rộng tháng dài như thế, không nghe to tiếng.
Cách làm của Nguyễn Huy Tưởng là thế này: từng đoạn một, nên cắt thế nào, nối chỗ nào, chữa chữ nào.
Cái chính là cắt, cắt, không thêm. Tất cả những việc ấy, Nguyễn Huy Tưởng chỉ bàn khi nào Võ Huy Tâm nghe vỡ ra rồi Võ Huy Tâm làm. Nguyễn Huy Tưởng không viết hộ Võ Huy Tâm một câu, một chữ. Võ Huy Tâm kỳ khu chép đi chép lại rồi đóng những quyển vở mới. Đến một hôm nào không biết, thành tập bản thảo tinh tươm, Nguyễn Huy Tưởng đưa cho quản lý Nguyễn Văn Mãi đem lên nhà in Tiến Bộ trên ngã ba sông Lô. Mấy trăm trang trước kia, cô lại còn ngót hai trăm trang, đấy là tiểu thuyết Vùng mỏ mà chúng ta đã được đọc.
Lúc rỗi rãi, chặp tối cơm nước xong hay khi cuốc xới tăng gia ngoài đồi, lôi dần dần làm quen với Võ Huy Tâm. Tâm kém tôi nửa giáp - sáu tuổi, anh đã lang bạt nhiều, vì miếng cơm manh áo thôi. Làm phu hồ, làm cu li bến bãi, làm thày bói xem tướng, lắm khi đói dài ốm đứng, lẩn thẩn bắt con dế, con cào cào ăn như đứa dở người, cám hấp, anh cười: “Ốm cái bụng móp thôi, chứ cám oong cám đơ đâu”. Anh bảo anh chẳng đến trường bao giờ, cứ “khắc học khắc biết rồi được cái chữ”. Có lẽ vì anh sáng dạ, nhanh trí, lại nhớ lâu và có hoa tay nên chữ viết được nắn nót thế. Cũng không phải anh làm phu mỏ đã lâu. Quê anh ở Nam Định, nhưng từ tấm bé đã lưu lạc ở Hải Dương, sang Bắc Giang. Năm 1945, 19 tuổi gặp tổng khởi nghĩa ở Bắc Giang, anh xin được đi hoạt động công nhân cứu quốc. Kháng chiến, công đoàn tỉnh đưa anh lên khu. Ở khu 12, anh được điều ra Hòn Gai, Cẩm Phả vùng địch chiếm. Cán bộ dùng giấy tờ giả công khai mà hoạt động bí mật. Trước kia anh cũng đã ra đây tìm việc, học việc, nhưng giai đoạn này mới là thợ chính cống.
Anh ở một xóm đạo, vận động bà con công giáo thợ mỏ, anh thuộc Tân ước, Cựu ước sách kinh chẳng khác người có đạo, anh lại đã thuộc lòng từ ấu thơ nhiều kinh Phật, cả kho kinh tệ với các truyện văn vần Bà Chúa Ba, Hoàng Trừu, anh nói thành vè, anh kể truyện Kiều Liên Tất Chánh cả đêm, bà con bên đạo cũng thích nghe.
Tiểu thuyết Vùng mỏ là sự thật xưa và nay xảy ra ở Cẩm Phả mà anh đương là cán bộ cơ sở, hoạt động hết sức căng thẳng, nguy hiểm. Vùng bờ biển Đông Bắc, khu công nghiệp quan trọng lại là cảng quân sự, nơi địch tiếp tế thuận lợi nhất cho cả Việt Bắc, các tỉnh Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn đương còn bị chiếm.
Cán bộ Võ Huy Tâm hàng ngày cật sức đi làm lấy cái nuôi thân, lại phụ trách một khu vực công tác, có khi đi suốt đêm. Chẳng bao lâu, Võ Huy Tâm bị ngã bệnh. Sốt rét đến phát điên, đoàn thể phải đưa ra vùng tự do ở Bắc Giang.
Cách Nguyễn Huy Tưởng giúp Võ Huy Tâm làm lại tiểu thuyết Vùng mỏ như thế thật tài tình. Chỉ khơi gợi cho đến khi Võ Huy Tâm nghe ra và làm. Học và thực tập cung cách vậy giúp được Võ Huy Tâm phát triển sau này.
Tôi trọng thị cho đến bây giờ những công phu bàn bạc kinh nghiệm viết của Nguyễn Huy Tưởng. Tôi cũng đã giúp đỡ cho một số cây bút. Nhưng chưa bao giờ tôi chịu khó và kỳ công được như Nguyễn Huy Tưởng - có khi cũng chịu khó nhưng ấy là tôi chữa hộ. Cho nên thường nếm thất bại và cũng làm hỏng người viết.
Làm thế tôi cho là tôi đúng. Nhưng cái đúng chẳng mấy ai để tai. Mạc Phi đã đưa tôi đọc bản thảo tiểu thuyết hai tập Rừng động. Tôi nói với Mạc Phi nên dồn lại một tập. Nhà văn nước ta thế lực và sức óc đều ngắn - không phải do người viết sinh ra thế, khó cáng được những cái dài hơi. Ôi chao, bạn ấy đã khó nhọc viết cả nghìn trang rồi, mà tôi nói như chơi: bỏ đi một nửa. Tất nhiên, Mạc Phi chẳng tìm theo đề nghị hời hợt của tôi.
Một lần kia, tôi vào bệnh viện thăm Phan Tứ. gặp anh ở cổng đi vào. Khi có rượu, mặt Phan Tứ trắng bệch, nhưng nói thì vui lắm. Phan Tứ ra uống rượu chui ngoài chợ gần đấy. Chúng tôi ngồi ngoài sân, Phan Tứ khoe với tôi Phan Tứ đương viết bộ tiểu thuyết nhiều quyển có tên khác nhau nhưng sự việc và nhân vật bao trùm cả các giai đoạn cách mạng từ Tổng khởi nghĩa 1945 lấy trung tâm là Quảng Nam, Đà Nẵng. Tôi biết Phan Tứ vốn kỹ tính, sửa soạn cho viết thật chặt chẽ, cẩn thận, anh học tiếng Nhật, vì tiểu thuyết của anh có đoạn tả về sau đảo chính Nhật, anh học tiếng Anh, vì tiểu thuyết của anh... Tôi nói ý tứ rằng người viết người đọc mỗi thời kỳ một khác. Những pho đồ sộ vừa tả cánh vừa biện luận của V. Hugo, thời nay chỉ vài chục trang đã xong. Nhà văn đương thời nổi tiếng của Pháp M. Druon có hai bộ tiểu thuyết Gia đình lớnNhững ông vua bị nguyền rủa, nếu vào tay Ban dắc thuở trước chắc phải cả vạn trang Tấn trò đời. Nhưng M. Druon chỉ viết ba quyển mỗi quyển trên tlăm trang, r an Tứ hỏi tôi có các sách M. Druon, cho mượn xem, tôi đưa anh bộ Gia đình lớn, vài hôm sau, Phan Tứ trả sách tôi. Phan Tứ không lặng lẽ như Mạc Phi. Phan Tứ nói: "Tôi viết theo tôi đã chuẩn bị".
Tôi còn biết thế nào? Lại góp ý kiến với tiểu thuyết đương viết của Thái Lãng trên Đà Lạt. Nhưng bây giờ Thái Lãng đã đi ở nước ngoài, chuyện cũ kể lại mất vui, thôi chẳng dài dòng. Lù Dín Xiềng trên Lào Cai viết một tiểu thuyết về dân tộc Dáy quê anh dài cả chục vở viết. Tôi chưa gặp anh Lù Dín Xiềng bao giờ, nhà xuất bản nhờ tôi biên tập. Tôi cặm cụi cắt xén, rút lại còn khoảng một trăm trang. Cuốn sách được nhà xuất bản Tác Phẩm Mới in ra, tôi được nghe kể Lù Dín Xiềng bảo với bè bạn quyển truyện này "không phải của tôi mà của ông Tô Hoài". Nhưng Lù Dín Xiềng cũng chẳng gửi tặng tôi quyển nào và từ đấy không còn thư từ với tôi như trước kia.
Nhiều bạn khác nhờ, tôi cũng chữa, miệt mài chữa, thật mất công mà chẳng nên việc, thường chỉ nhận được im lặng. Có người rồi không viết tiếp được - bởi vì tôi đã làm quá đi, có phải bạn ấy viết thế đâu.
Nhưng cũng không phải chỉ gặp những thờ ơ, anh Nông Văn Lạc năm nay 82 tuổi. Tôi đã sửa giúp anh hai cuốn hồi ký Ánh sáng đây rồiTiếng gọi miền Tây. Hai tác phẩm đều được nhà xuất bản Văn Học, nhà xuất bản Văn Hoá Dân tộc in rồi tái bản. Không có gì khác, tôi vẫn làm như với Lù Dín Xiềng. Nhưng vì truyện vốn có chất, tôi đánh dấu câu cho mạch lạc rồi cắt và dán. Mới đây, Nông Văn Lạc ở Thái Nguyên về, hỏi: "Tôi có nên viết nữa không?". Tôi trả lời:"Còn có cái anh thấy cần viết thì cứ viết". "Rồi anh lại giúp tôi nhé" "Được, anh “ạ.
Nhưng với những chuyện của Vi Hồng thì khác. Vi Hồng không như Nông Văn Lạc, “đi cách mạng rồi mới biết chữ”. Vi Hồng là nhà giáo giảng dạy văn học dân gian trường đại học sư phạm Việt Bắc. Tôi cũng đè ra chạy chữa truyện Vãi Đàng của Vi Hồng như với Nông Văn Lạc. Vi Hồng lại lấy làm bằng lòng, nhưng tôi cũng chỉ làm thế với một bản thảo đầu tiên của Vi Hồng. Tới nay, Vi Hồng đã cho in cả chục tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Nghĩa những là cái tôi sửa trong bản thảo ngày trước chắc là có điều hợp, Vi Hồng đã nhận nó và phát triển theo sức sáng tạo của riêng mình. Vậy là cũng có khi làm được. Nhưng mà trước tiên cũng như trong trò chuyện bên nói thì có bên nghe, nhất định phải có sự nghĩ lại và thấu đáo khác nhau. Những bản thảo có thể chữa được cũng ví như gánh phở sẵn thịt, bánh và gia vị chỉ có thái, nấu thế nào chứ không phải mọi thứ lúc ấy mới chạy mua. Tuy nhiên làm được như Nguyễn Huy Tưởng với Võ Huy Tâm, biết là chỉ có kết quả, nhưng mà ngại. Sau cùng, cuốn tiểu thuyết của Võ Huy Tâm được đặt tên là Vùng mỏ, tôi không biết Võ Huy Tâm hay Nguyễn Huy Tưởng đã nghĩ ra tên ấy.
Hơn bốn mươi năm qua, sau tiểu thuyết Vùng mỏ, Võ Huy Tâm đã in sáu tập truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài. Trông vào đầu đề năm in sách thì có ba chỗ cách quãng thời gian xa nhau. Tiểu thuyết Những người thợ mỏ (quyển 1 - Không thấy in tiếp quyển 2) năm 1961 rồi mười năm sau mới ra đời truyện vừa Đi lên (1971), lại từ truyện Rượu chát (1981) tới nay, Võ Huy Tâm không in tác phẩm nào nữa.
Tiểu thuyết Những người thợ mỏ (quyển 1), Trịnh Xuân An (Tạp chí Học Tập) và một số cây bút phê bình ở báo khác chỉ trích là có tư tưởng "chủ nghĩa công đoàn". Võ Huy Tâm cười hà hà nói: "Biết thế thì viết thế, tôi có sinh ra được cái chủ nghĩa gì đâu”. Câu nói hồn nhiên mà thật. Cũng như hồi Nguyễn Công Hoan in tiểu thuyết Đống rác cũ tập 1 cũng bị Trịnh Xuân An cho là theo học thuyết Freud, Võ Huy Tâm còn băn khoăn mình biết thế thì viết thế, có nghĩ ra được đâu, còn Nguyễn Công Hoan thì bảo tôi: "Tớ biết thằng Phờ Rớt là thằng nào?" Nguyễn Công Hoan đã nổi tiếng là người ít đọc tác phẩm nước ngoài - còn Freud thì chắc ông không biết là ai thật. Và tiểu thuyết Đống rác cũ những tập sau mới in ra chỉ toàn tích cực và tích cực. Nếu hồi ấy được in tiếp ngay thì những cây bút đã phê bình chê bai sẽ bị lúng túng đến thế nào. Còn Võ Huy Tâm, không biết có viết tiếp Những người thợ mỏ không, chẳng khi nào anh nói đến nữa.
Có lẽ người vốn liếng viết văn trường khoát như Võ Huy Tâm, anh chả cần. Từ 1981 về sau Võ Huy Tâm vẫn viết, nhưng lại vừa viết vừa lên cày cuốc với đất vỡ hoang trên đồi rừng rồi làm lều nương ở luôn đấy mà anh đặt cho nơi kinh tế mới khỉ ho cò gáy cái tên thơ mộng: Thạch Anh Trang. Thoạt nghe, cảm như Võ Huy Tâm nặng về lãng mạn và phiêu lưu. Có nhà ở phố hẳn hoi lại chui lên rừng, dẫu cho rừng và mỏ ở Hòn Gai, Cẩm Phả cũng chỉ lên qua cái dốc sau lưng phố.
Nhưng cái phiêu lưu lãng mạn của người lao động Võ Huy Tâm cũng có kiểu của nó, anh nói: "Hai vợ chồng đã về hưu mà các cháu còn đương tuổi ăn tuổi học. Củ sắn, quả dứa, cây chè sinh sôi ra cũng thêm được tí chút lương thực với đồng ra đồng vào". Chẳng biết mồ hôi đổ ra có được như mong mỏi thế không.
Hầu hết các tác phẩm Võ Huy Tâm cũng như tiểu thuyết Vùng mỏ đều khai thác một đề tài, một loại nhân vật: người công nhân mỏ hoặc người cơ nhỡ cố cùng trong xã hội trước kia. Những tác phẩm ấy, giá trị nghệ thuật và trình độ biểu hiện đều na ná tiểu thuyết Vùng mỏ. Với người viết, tác phẩm nổi chìm khác nhau là thường tình, không phải cá biệt ở Võ Huy Tâm, nhưng tìm đến nguyên nhân thì Võ Huy Tâm có những biểu hiện riêng. Võ Huy Tâm không hẳn lặp lại, nhưng cũng chưa phải đã phát hiện và sáng tạo được những vỉa mới. Tại sao vậy? Võ Huy Tâm chột đi sau tiểu thuyết Những người thợ mỏ. Không phải. Cái người đã nói thật thà tôi chỉ viết được những điều tôi đã thấy thì chắc chắn anh ta cũng lơ đễnh với những điều ong tiếng ve, không thể mỗi chốc đã dễ dàng bỏ đi được những cái hiển nhiên đã biết đã sống, mà cuộc đời anh thì chỉ có lăn lộn và mấy mò, chắc chắn với sự thực.
Một ngòi bút thấm sâu một thực tế dữ dội nhường ấy như Võ Huy Tâm sự sáng tạo đặt ra là những từng trải một đời được thể hiện thật mới mà lại cũng thật xưa, như thế mới thực sự Võ Huy Tâm và bước tiến của anh.
Nhưng Võ Huy Tâm đã không vượt lên được khác Vùng mỏ.
Anh chịu khó, cả lo, lại được nhiều điều kiện hỗ trợ, nhưng cũng chẳng nên. Khoảng năm 1954, cán bộ tại chức chưa đủ văn hoá so với công tác đều được đi học trường bổ túc công nông. Võ Huy Tâm đã đi ngay và dùi mài suốt niên khoá đến tốt nghiệp, anh biết cần một trình độ mọi mặt cho người cầm bút mà xưa nay anh mới chỉ học mót, học lỏm.
Nhưng học cũng không vào. Hay là học được, nhưng sự học không giúp cho nghệ thuật biến hoá được kho báu vốn liếng qua những hiểu biết mới. Thực tế trong sáng tác của Võ Huy Tâm có thể có một không hai, mỗi câu đều bề bộn, la liệt chi tiết đặc sắc. Nhưng chỉ vốn dĩ và ngổn ngang thế thôi.
Võ Huy Tâm cũng biết và băn khoăn về cái yếu ấy. Võ Huy Tâm lo, nhưng Võ Huy Tâm lại cũng tự hào - hay là bị tự hào, vì chữ nghĩa giầu có của anh ở mỗi trang viết. Thủa còn thơ dại và khi hoạt động ở cơ sở, khi chung đụng vất vả với mọi tầng lớp, Võ Huy Tâm hoá thân được với tất cả, là tất cả. Câu nói và chữ của anh tinh tuý cô đúc như ca dao, tục ngữ. Tôi hay đùa chơi thách thức "đấu chữ” với Võ Huy Tâm - như chơi kéo tay xem ai được, lần nào tôi cũng chỉ có thua.
Trong khi không thấy ra những cái mới hơn - vô vàn cái mới được khai thác ra ở sự việc cũ, thì những kỷ niệm trong trí nhớ lại là sức cản khiến cho những cái hôm nay không thấm vào được. Trau dồi vốn sống cũng là yêu cầu khách quan của hai mặt như vậy.
Nhưng nói cho cùng, bí quyết này ở mỗi người viết chỉ dần dà tự gỡ, khó ai mách bảo tức khắc được.
Không tự biết, nhưng Võ Huy Tâm lại biết cái cũ và cái mới liên quan và cần thiết nhau đến thế nào trong sáng tạo, anh biết thích thú cái mới đến mức đặc biệt. Khi đất nước mới thống nhất, Võ Huy Tâm vào Sài Gòn. Võ Huy Tâm bảo:
- Tôi có một kế hoạch tìm hiểu miền Nam thật nặng ký. Tôi sẽ đi một trăm nhà máy. Tôi lần lượt đi 100 nhà máy khắp các tỉnh. Sau chuyến đi thì mình có thực tế 100 nhà máy, anh thấy thế nào?
Tôi chỉ thấy ngồ ngộ. Không bài bác. Không vun vào, tôi nói đưa đà: "Thế thì làm đi”. Và hỏi thêm "Làm thế nào đi được? “. Võ Huy Tâm cười hiền lành: "Không cần. Đến đâu lo đến đấy”. Ôi chao, lúc này cả trăm cái nhà máy trong thành phố đang rối mù. Cái còn việc, cái đóng cửa, cái tư nhân, cái quốc doanh mới chuyển vào, tất cả như nghe ngóng. Tự dưng cha căng chú kiết ở đâu đến, chẳng ra cấp uỷ, loại cán bộ gì, đầu đội cái mũ tai bèo nhợt nhạt của anh bộ đội thải ra, lưng cõng chiếc ba lô con cóc mua ở chợ giời, mặt mũi vàng vọt, ngơ ngơ đưa cái giấy giới thiệu... Công đoàn thành phố... Nhà báo... Nhà văn... Rồi ai cho ăn, phải mất tiền hay được mời, ai đưa đi cái nơi rồi ra sao... ra sao... trăm thứ nhiêu khê. Chỉ một khu công nghiệp Biên Hoà, liệu có nổi vài ba xưởng?
Chẳng bao giờ tôi hỏi lại cái kết quả "đi thực tế 100 nhà máy". Võ Huy Tâm cũng không kể lại. Có lẽ sau chuyến ấy thấu hiểu nỗi đời hơn là tích luỹ vốn liếng, Võ Huy Tâm về rồi đi vỡ hoang. Ở trên rừng đồn về những chuyện kinh dị và khác thường, vừa đồn thổi vừa có thật: Võ Huy Tâm gọi trẻ con xóm núi đến anh dạy vỡ lòng. Võ Huy Tâm ăn sắn luộc chấm muối cả tháng. Nằm sàn áp đất, có khi đương đêm rắn bò vào màn. Có lần người ăn mày mò lên xin ăn, anh đãi cơm, cho ngủ nhờ, hôm sau lại tiễn cả một vác sắn... Âu cũng là tiếp tục kiểu mơ màng "100 nhà máy". Cái mỏ sống Võ Huy Tâm đã có, Võ Huy Tâm vẫn chăm chú làm giầu. Tuy nhiên vun đắp những hiểu biết xã hội mới, những ý thức hoà quyện và trái ngược mà thống nhất của những thực tế ấy trong sáng tạo đã thật mờ nhạt, do vậy ảo tưởng lẫn lộn dã thể hiện ngay trong tích luỹ, Võ Huy Tâm đăm chiêu, đăm chiêu nhọc nhằn.
Ngôn ngữ văn anh thật lam lũ mà người đọc phái trân trọng. Và nếu văn cũng là người thì kể ra, trong giao du, Võ Huy Tâm và tôi khó có mặt nào hợp nhau. Ấy thế mà có sách in và bản thảo Võ Huy Tâm thường gửi cho tôi. Võ Huy Tâm tính toán dễ thương và thiết thực: "Anh hay viết bài "đọc sách”, anh đọc tôi, có cao hứng thì cho vài chữ. Khen hay chê cũng được. Sách in mà chẳng ma nào để mắt đến thì cũng bằng cái rơm, cái rác người ta dửng dưng bước qua".
Không những thế, đôi khi chúng tôi cũng hay bù khú ăn uống, anh nặng về chén, cơm thì đánh đến no thật lực, tôi cảnh giả và uống nhiều hơn. Thế mà cứ vui. Có hôm nhận được mảnh giấy: Hôm nay tôi có tiền... Mời anh... chỗ... giờ...
Võ Huy Tâm ăn cũng khác người. Mặt mũi hom hem nhợt nhạt như người mới ốm dậy mói ăn mói ngủ. Hôm ấy, ở hồ Tây, có hàng chuối quảy qua, Võ Huy Tâm mua một nải chuối tiêu. "Ở nhà sáng tác Quảng Bá, được quả chuối trứng quốc này tráng miệng thì tuyệt. Ta ăn thử một quả”. Võ Huy Tâm bẻ một quả "Đương mùa tháng tám hồng cốm, chuối tiêu thơm quá". Rồi ăn quả nữa. Cứ vừa ăn vừa thử, vừa nói chuyện. Một chốc, cả nải chuối chỉ còn đống vỏ và cái đài trơ long lóc. Chuyện ấy tôi chứng kiến. Còn được nghe kể có hôm, Võ Huy Tâm gọi hàng rượu nếp mua từng bát mà ăn sạch cả rá rượu nếp của cô hàng.
Hồi ấy, đầu phố Hàng Lọng còn nhà hàng Văn Phú. Nhà này được tiếng vì mấy món đặc biệt: ba ba tần, thịt sỏ và chân giò luộc. Võ Huy Tâm ngồi vào bàn trên gác, cửa sổ trông xuống đường vào ga hàng Cỏ tấp nập.
- Cũng miếng thịt trong con lợn nhưng cái ngon chỗ này chỗ kia khác nhau, anh thấy thịt lợn thì chỗ nào ngon nhất?
Tôi đáp:
- Chủ quán sắp dọn cái ngon lên cho ta. Thịt sỏ hay chân giò...
- Nhưng cái thật là sướng kia?
- Mình thấy hai thứ cũng thế.
- Không, chỉ cái tai khoái nhất. Cái tai lợn nhá sướng răng đến không chịu được. Cái tai, vâng, cái tai lợn. Dứt khoát nó không phải là thịt, cũng không phải là sụn. Nó không gau gáu, không sừn sựt... nó... sướng quá
Lát sau, Võ Huy Tâm lại hỏi tôi:
- Anh có bao giờ làm thơ không?
- Thuở trẻ, khi mình mới tập tọng viết.
Võ Huy Tâm cười hà hà:
- Tôi thích làm thơ. Làm thơ cũng như chén miếng tai lợn. Tiểu thuyết, truyện ngắn, văn xuôi là thịt lợn, ai cũng ăn thịt lợn. Kiêu kỳ một tý thì người ta ưa thịt lợn đen, ghét lợn lang, lợn trắng Móng Cái. Nhưng đều vẫn là thịt lợn. Văn xuôi thịt lợn. Còn nhắm cái tai lợn là người biết thưởng thức, đấy là thơ. Tôi... tôi...
- Thôi, thôi... Ông cứ đánh hết đĩa thịt sỏ đi.
- Tôi làm thơ... thơ là tai lợn, tuyệt cú...
Tôi cũng coi chuyện ba lơn ấy làm đùa. Trò chuyện với Võ Huy Tâm lúc nào cũng như ỡm ờ, anh có những tiếng à à... ờ... ờ... cười hà hà. Võ Huy Tâm như một nhân vật ngồi trước mặt cho mình ngắm, ngộ nghĩnh, thú vị.
Rồi những năm gần đây, tôi được đọc rải rác thơ Võ Huy Tâm trên báo. Có bài bốn câu, tám câu, anh nằm nhìn lên trần nhà và gầm trời tối suy nghĩ thành triết lý thơ đêm trông ra vịnh Cẩm Phả. Tôi buồn cười. À thơ tai lợn. Có lẽ báo người ta thấy tên Võ Huy Tâm thì nể đăng mà thôi. Nhưng rồi đọc lại - tôi có thói quen khùng khùng không hề ngán những bài thơ dở, thấy thơ Võ Huy Tâm lại có cái là lạ.
Võ Huy Tâm viết không mạch lạc. Rõ ràng dòng nghĩ có dứt quãng, có khoảng cách được chắp nối lại. Ở văn xuôi Võ Huy Tâm dễ thấy, trong thơ thì khó phân biệt. Thật thế, hay tôi bị định kiến về cái năm anh ở hậu dịch, bệnh hoảng loạn phảng phất di căn, cũng có thể.
Năm ấy, tôi đương nằm bệnh viện. Bệnh thống phong mãn tính, khi trở trời sang thu thì các khớp gối tôi lại như rão ra. Một buổi sáng, cô y tá bảo tôi:
- Nhà văn Võ Huy Tâm vừa vào bệnh viện, bác ạ.
- Ông ấy bệnh gì thế?
- Cháu không biết. Xe cấp cứu đưa vào.
- Ông ấy nằm ở đâu?
- Tầng dưới nhà này, khoa thần kinh.
Tôi xuống tầng dưới. Người bệnh đương trong phòng cấp cứu, không được vào. Nhưng hỏi ngoài trực khoa được biết chuyến xe khách Quảng Ninh lên sớm, có ông khách bị ngất. Người ta xem giấy tờ rồi gọi xe cấp cứu đưa về bệnh viện này. Rồi, tôi cũng ghé, nhìn được vào cánh cửa hé. Đúng Võ Huy Tâm, anh nằm thiêm thiếp, mặt xanh lét, nhưng không phải vẻ người hấp hối.
Tôi vẫn lo. Tôi dạo loăng quăng ra ngoài sân. Hay Võ Huy Tâm bị trở lại chứng tâm thần. Hay ngồi trên xe thình lình bị "động kinh”. Thì cũng những bệnh tương tự. Có thể anh không chết, nhưng mà cứ ngại. Càng buồn hơn khi tôi trông chỗ cái ghế đá kia năm trước, những hôm trời ấm, ông Ba Du lão nghệ sỹ cải lương lừng danh hay ra ngồi sưởi nắng chỗ ấy. Người bị trọng bệnh, biết mình không qua khỏi, hai con mắt chẳng ra dại, chẳng ra dữ dằn, cứ nhìn, mà không nhìn ai. Có hôm tôi chào ông rồi ngồi ghé vào ghế, ông cũng chẳng buồn nhúc nhích người...
Buổi trưa, trông thấy bà kế cầm bộ quần áo đại cán còn gấp nếp tất tả qua sân. Thấy tôi, bà nói:
- Ông ấy bảo tôi về lấy quần áo...
Tôi theo bà vào phòng cấp cứu. Thì ông Ba đã đi rồi. Trong buồng không có một ai. Bác sĩ ra phòng giấy ký biên bản. Hai cô y tá xuống nhà xác, lấy xe.
Cái xe tải thương trên có cái xác phủ vải, trắng được đẩy xuống nhà lạnh. Không phải người ốm nằm trên, cái bánh xe xác lăn chồm chồm, bần bật, sao trông ai oán thế. Rồi sau tôi kể cho Đoàn Giỏi chuyện ấy, Đoàn Giỏi thở dài.: "Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...”.
Thuở tiếng tăm vang dậy sóng cồn, mỗi đêm hàng nghìn người hồi hộp xem, ngắm, nghe từng một câu hát, một cái nheo mắt, thì khi, chết, bị cô quạnh thế"...
Tôi không, nghĩ Võ Huy Tâm lại đi như ông Ba Du
Nhưng mà cứ vẩn vơ. Tôi trở vào, giật mình: Cửa buồng cấp cứu mở toang, không thấy Võ Huy Tâm.
May quá, cô y tá mau miệng:
- Bác ấy về buồng rồi, buồng số 6...
Võ Huy Tâm ngồi nhòm nhõm trên giường. Thấy tôi Võ Huy Tâm nhoẻn miệng, cái cái hiền hiền nhợt nhạt như mọi khi, anh, kể lại chuyện bị ngất phải khiêng vào đây. Võ Huy Tâm đáp chuyến xe sớm Quảng Ninh - Hà nội đến ga Gia Lâm, trời còn mờ mờ. Mấy thằng đầu gấu, đầu chó bất thần nhảy lên ca bin kề dao vào cổ anh tài, anh lơ rồi đi lần lưng từng người. Chúng nó chưa trấn đến, Võ Huy Tâm đã xỉu. Thế mà cũng bị mất cái mũ cà khổ, không biết mũ rơi hay chúng nó lấy.
Võ Huy Tâm cười:
- Thôi, của đi thay người.
- Thế bây giờ thế nào?
- Bác sĩ hỏi: Bấy giờ anh đã ăn sáng chưa? Tôi trả lời: Chưa. Bác sĩ bảo: Anh ngất đi vì bụng rỗng thôi. Tôi bảo: Thế thì cho tôi mua bát phở, ăn rồi xuất viện chứ gì? - Phải ở vài hôm cho lại người đã. Hôm nào về, nhỡ xe lại bị trấn thì có sức dự trữ, không ngất được nữa. Tôi đáp: Cảm ơn bác sĩ. Yên trí lớn.
Sự tình Võ Huy Tâm nằm bệnh viện là vậy. Rồi Võ Huy Tâm ra trước tôi. Võ Huy Tâm lên buồng tôi.
Anh cầm cái túi giấy bóng bọc bốn quả táo, nửa cân đường.
- Mai tôi được ra. Tôi biếu anh, để anh bồi dưỡng.
Lạ nhỉ. Võ Huy Tâm với tôi cũng không phải kiểu bè bạn đãi nhau bát phở rồi áy náy cố tìm dịp trả nợ miệng bằng được. Cũng không phải bạn cần quà cáp nghiêm chỉnh. Thế này là thế nào. Quả nhiên, sự lạ đã tới Võ Huy Tâm ngồi xuống, nói:
- Này ông...
- Gì thế?
- Ông nghe tôi đọc bài thơ: Tôi tính giờ rồi chỉ nửa tiếng.
- Anh còn nhớ cái hôm chén thịt sỏ ở nhà Văn Phú tôi đã nói anh có rỗi mà cao hứng thì làm vài câu thơ chơi, còn thì phái để thì giờ lo văn xuôi, anh là nhà văn xuôi.
- Nhưng mà...
- Tôi không nghe thơ anh đâu!
Võ Huy Tâm đứng dậy. Tôi nói:
- Cái này...
- Không, biết anh để bồi dưỡng mà.
Rồi Võ Huy Tâm bước ra. Võ Huy Tâm đã không bằng lòng tôi một cách lặng lẽ, nhưng tôi còn băn khoăn lâu về hôm ấy. Vì định kiến không tin Võ Huy Tâm làm thơ, nên bất chợt sỗ sàng thế chứ tôi vốn mát tính, khi còn trẻ thì rụt rè, bây giờ thì nhẹ nhàng dửng dưng chẳng phũ mấy khi.
Nhưng rồi tôi nhận được một cái truyện 56 trang viết tay của Võ Huy Tâm - như mọi khi anh thường gửi cho tôi. Vẫn thế, và muốn thế nào không rõ, không bao giờ anh có thư kèm "nhờ đọc hộ” hay “gửi đăng báo giúp”. Chỉ biết, thế là Võ Huy Tâm đã không để ý giận tôi.
Cái truyện này Võ Huy Tâm viết 1993, cũng lạ lùng. Đọc nó, hình như tôi đã trông lại tất cả Võ Huy Tâm, từ cái tiểu thuyết còn tên là Làm reo, là Đình công đến khi bề thế thành tiểu thuyết Vùng mỏ - một tác phẩm góp giá trị vào buổi đầu văn học cách mạng và kháng chiến sau 1945. Và cả Võ Huy Tâm trong những tác phẩm đã in ra sau này, có thể nói là thấy được Võ Huy Tâm toàn tập. Những đoạn văn sắc sảo, cả xa xưa và cả nay, chen lẫn sự ngẫm nghĩ cách quãng của bộ óc kinh dị không bình thường - cái không bình thường hài hoà với những ngời ngời thông minh.
Chẳng rõ đâu là nhân vật, đâu là tác giả, cái truyện và nhân vật xuyên suốt chủ đề đã định hướng: nạn tham nhũng và đứa gian tà phải bị tiêu diệt.
Võ Huy Tâm có đưa truyện này cho báo nào, tôi không biết, nhưng tôi không gửi báo hộ Võ Huy Tâm.
Tôi chắc là báo sẽ yêu cầu Võ Huy Tâm chữa, nhiều nhà xuất bản những năm gần đây thường đòi anh phải chữa bản thảo. Võ Huy Tâm không kiêu kỳ nhưng mà cứ bị bắt bẻ lòng vòng thì tiếc thì giờ. - Võ Huy Tâm bảo thế. Hơn bốn mươi năm trước Võ Huy Tâm đã được Nguyễn Huy Tưởng chỉ vẽ cho cử soát lại bản thảo từng chữ, nhưng bấy giờ chưa phải là nhà văn Võ Huy Tâm. Mà không chữa thì nhà xuất bản không in.
Chỉ có nhà Kim Đồng biết tôi hay đọc Võ Huy Tâm - hoặc Võ Huy Tâm đề nghị nhà xuất bản thế, các anh ấy hay nhờ tôi đọc và biên tập giúp bản thảo Võ Huy Tâm còn đương bị phân vân - tất nhiên, cái nào của Võ Huy Tâm tôi thấy cũng là in được.
Tôi trích dưới đây một đoạn dài dài về truyện ngắn này. Để chứng minh - nếu có thể được, những điều tôi đã cắt nghĩa ở trên. Một sáng tác thật rõ trạng thái người viết, trạng thái Võ Huy Tâm. Cái tuyệt vời đi đôi với cái ngẩn ngơ, có lúc thật tinh tế, thật mới, có lúc lại như ông lão nông ề à nói chính sách ở cuộc họp xóm, có lúc lại hẫng cách quãng...
Nhân vật chính của truyện tên là Ủi, có trình độ chung cấp kỹ thuật. Ủi là ổi, cô Ổi. Nguyên âm "o", nhưng người miền Đông nói chệch thành "u", quả ủi, cái chủi. Ủi là con gái nhà làm ruộng. Không hiểu sao, tác giả đã tả lý lịch cô Ủi là hậu duệ tám đời của một võ tướng. Trong cô có hơi hướng máu Bồ Đào Nha. Vì một bà vợ lẽ con hầu ông tướng nọ đã ngủ bụi với một cố đạo người Bồ.
Khi việc trong truyện xảy ra, Ủi đương công tác thanh niên ở nhà máy. Cô phụ trách tờ báo tường lên là Tiếng thợ.
"Lão Bang đã điều tra nghiên cứu ra hệ của Ủi từ thời các giáo sĩ phương Tây chưa sang thì đi đời. Mà đã đi đời thì các gia đình đại nho cũng có phần theo đạo Phật, mà đã theo đạo Phật thì dù không nói ra được, cái ý thức chống ba nghiệp chứng là thâm, sân, si (trong si có kiêu ngạo và ganh ghét) cũng như giới luật là 5 điều răn về sắc, dâm, đạo, vọng, tửu, đã ăn sâu vào tiềm thức của từng người. Sau này, gia đình Ủi mới tiếp thu nguồn văn minh Do Thái trong đó có mười điều răn của đạo đức chúa Lời. Lý lịch Ủi khai là không tôn giáo, nhưng điều răn “chớ làm sự dâm dục" và "chớ muốn vợ người, chồng người" đã trở thành máu thịt của Ủi.
Từng là gái công trường, cô thường ngủ rất say và hễ ngủ thì ngáy vang như sấm, có chàng trai nào đến sờ lưng, bóp vú thì còn có thể được chứ, đụng đến “cổng thành La Mã" là cô kêu váng lên. Thời này nghiêm lắm. Hãy chuẩn bị giấy bút mà làm bản tự kiểm thảo. Phải tả rõ động cơ tư tưởng và hành động.
Sau khi ra trường, Ủi được gửi về một nhà máy sửa chữa và chế tạo ra các thứ máy. Tư tưởng cô chỉ thích làm văn hoá chứ không là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Nhưng cô lại có tham vọng trước khi sáng tạo ra một nhà máy kiểu mẫu trong tác phẩm thì hãy góp phần xây dựng một xí nghiệp tiền tiến trong hiện thực. Cô được phân công sửa chữa công cụ, rồi máy nổ, rồi đứng tiện hàng loạt chi tiết máy. Cô khỏe và tính lại sáng dạ. Các bác thợ bậc cao có tay nghề giỏi rất thích cô làm cho những việc nặng nhọc. Cô vận động anh chị em góp tiền mua cái máy giặt nhãn hiệu "Yêu vợ" của Nhật để giặt những bộ quần áo lao động. Người ta thì thào về nhà ở, về cách sinh hoạt nhất là những bữa tiệc của Phạt, cô muốn tìm hiểu về thực chất trong bữa tiệc này.
Giá thử xuất hiện ở bữa tiệc thì cô cứ như ngôi sao sáng trên màn ảnh. Nhưng trên đường đi đến gần cửa hàng đặc sản, nghe tiếng nhạc giật gân, quan khách đến đã đông đủ, thức ăn đã được bưng ra bàn, Phạt chỉ còn chờ Ủi đến. Thì Ủi bỗng ngoặt trở lại. Cô nghĩ mình đến chỉ để làm cảnh cho họ. Dễ mua thế. Đừng hòng.
"Tiệc tùng hát xướng quanh năm. Hỏi tiền đó lấy ở đâu ra? Trời lại sắp mưa rồi. Những viên ngói kiểu Pháp đóng ẩu bằng cát, xi măng: hòn nào cũng vênh vênh váo váo. Nhà không trần. Trời nắng thì người ở trong đó như trong cái bếp tập thể. Còn trời mưa thì nước cứ giọt như rổ xảo. Mình cứ lui tới những bàn tiệc như thế này thì công nhân họ sẽ ghét đổ nọc. Đảng viên mà xa rời quần chúng thì Đảng sẽ bị tiêu diệt. Gương tầy liếp ra rồi đó.
Cô phải luồn lách trong bóng tối để trở về nhà mình. Hệ chiếu sáng của thị xã chưa được tốt lắm. Trong lúc này mình không phải là bọn trộm cắp hay đĩ thoã mà lại thích bóng tối ư? "Sự vật cái gì cũng tiềm tàng những mâu thuẫn bên trong".
Đúng quá. Sáng hôm sau, một anh công nhân hỏi:
- Tối hôm qua cái Mão nó bảo không thấy chị Ủi đi ăn tiệc. Những con tôm hùm to bằng cái này này - Anh ta giơ cái cổ tay như cái dùi đục gỗ kiêng lên - Lòng đỏ trứng gà đánh thành kem, trộn với dầu, xà lách với muối với hạt tiêu để làm nước sốt chấm tôm hùm. Sâm banh nổ bôm bốp. Đời người ta có sướng không?
- Tôi nghĩ họ ăn mặc lòng - Ông thợ tiện già nói, nhưng họ phải làm thế nào cho nhà máy phát triển, công nhân không khổ là ở được rồi...
"Hồi này công nhân thiếu việc. Hàng xấu quá, người ta không mua. Nhưng Phạt nói: "Làm kinh tế phải tính đến hiệu quá cuối cùng". Phạt có lý của Phạt.
Độc lập, thống nhất rồi, không còn ai bóc lột của ai nữa, thế thì anh nào nghèo là anh ấy đần, nếu chưa phải là đầu óc ngu si!
Nguyên trước anh ta có cái tên là Dương Thanh Danh. Cái tên đó, ba tiếng đầu là thanh bằng, nghe nó thế nào ấy. Vả lại nó lại là một câu trong sách vỡ lòng của bọn hủ nho. Có người bạn biết Hán Nôm nó bảo thế, anh phải đổi tên mới được. Khi vào Đảng, Danh lấy cái tên (bí danh) là Phạm Bần Phạt. Dịch mổ cò là nếu phạm vào cảnh nghèo khổ thì phải phạt.
"Tiếng thợ là một tờ báo lớn, nó lớn đến chiếm gần hết một bức tường của nhà máy. Mới số đầu người ta đã đến xem đông như kiến mà phần lớn là các cô con gái xứ Đông.
"Lúc đầu, tờ báo như không nói về chính trị mà bàn về thời trang. Nguyễn Thị Ủi nêu vấn đề các cô gái xứ Đông nhất là các cô con gái thành Đông có quyền mặc váy ngắn, váy rất ngắn. Các bà, các cụ nhà mình, các mẹ, các cô mình đã từng mặc váy rất ngắn.
Cô lần lượt chứng minh. Váy quai cồng là một thứ mini giuyp! Ngắn đến độ các bà, các mẹ khi đi cấy, đi gặt thường phải lấy rơm buộc giùm gấu váy lại. Đó là phương pháp tuyệt vời biến cái "quần một ống" thành hai ống. Cái gì cũng có tính lịch sử của nó. Chính vì thế cho nên rằng thì là... Ủi kết luận bài báo bằng một khúc "vĩnh cửu ngâm" đọc hết ngày này đến ngày khác cũng không hết: "Lạ gì con gái xứ Đông. Cái váy thì ngắn cái lông thì dài. Lạ gì con gái xứ Đoài. Cái vú bên ngoài, cái váy bên trong. Lạ gì con gái xứ Đông...”.
Người từ đâu kéo đến xem báo Tiếng thợ đông quá. Không có tủ ảnh của đại sứ quán nào ở Hà Nội lại người đến xem đông như thế. Rồi người ta cũng phải xem đến những quáng cáo. Nhà máy có bán và sửa chữa các loại máy làm đất, bơm nước, phun thuốc trừ sâu, đập lúa, tách hạt ngô có bảo hành do kỹ sư tài năng Phạm Bần Phạt trực tiếp săn sóc, bạn đọc thông cảm, văn kẹo kéo thì thường dùng những khẩu ngữ đưa đẩy ê a như hát chèo ấy mà.
Ủi nhìn bằng con mắt của trái tim. Nhu cầu của chị em hiện nay là chưa cao. Xã hội chủ nghĩa đối với chị em là cái gì? Cơm cá và nước chè! Sự ở và sự mặc cũng như nhu cầu văn hoá khác cũng chỉ cần tương xứng với sự ăn. Nếu không mất cân đối (với sự ăn) thì các nhu cầu khác càng nhiều càng tốt. Các chị đã có con, thì tí son, tí phấn, tí nước hoa không xén vào quà sáng (ở thành thị), vào cơm nguội (ở nông thôn) của các con thì đều có thể chấp nhận được. Càng chấp nhận được, nếu là tối biểu diễn văn công. Mà đã văn công thì phải thật hay, nếu không thà bóp vú đàn ông còn hơn. Thưa các bạn văn hoá nghệ thuật Hải Hưng kính mến ạ.
"Ủi có lập trường giai cấp công nhân của mình.
Bây giờ nói đến “lập trường” thì người ta ngán hơn là phó mát "Bò cái cười". Nhưng đây là lương tri, là tấm lòng như bánh đúc bày sàng của Ủi. Là một đảng viên của đảng cầm quyền sống như thế nào đây? Riêng đối với Ủi thì không ngại vì Ủi chỉ thích làm thơ, làm thợ.
Làm thợ lương sản phẩm, có năng xuất, chất lượng thì mới có lương. Bài thơ nào hay thì được in, không hay thì thôi. Tiền nhuận bút một bài thơ đăng báo, nếu tác giả ngã vào hàng chè chén thì phải bù lỗ! Vụ này có lẽ không cần nhân chứng.
Ta đang theo dõi về báo tường Tiếng thợ. Hãy ước lệ với nhau: Tiếng thợ đương đưa ta vào một thế giới trong thí dụ Tiếng thợ mà không có tinh thần quốc tế thì nó còn ra cái hệ thống cống rãnh gì nữa. Không có bài bình luận thời sự thì phải đi đặt. Đi đặt không có người viết thì phải tự viết lấy. Cái loại hình thức nó là như vậy. Vả lại, viết báo tường như văn tế. Người viết, người đọc, thần nghe, người nghe xong rồi đốt vèo đi, nó có như văn bia đâu mà sợ. Vậy Ủi phải viết bài thơ xã luận:
Lại nhuốn nhơ nữa ư
Lá cờ cao quý

thiêng liêng
của Liên Hiệp Quốc
đã được tẩy uế chưa?
Mà còn định nhuộm nước cống ở Li Bi
Bu triệu người dân thích dòng sông nhân tạo
đe doạ nền hoà bình của siêu cường quốc nào
Lá cờ của Liên Hiệp Quốc
Đang định nhuộm cả nước cống và cả máu
Hỡi những người Châu Phi
Hỡi nhân loại
Chúng ta đang nghĩ gì
Về lá cờ cao quý đó?
Về Li Bi
Li Bi
Ký tên: Người đàn bà Ả Rập"

Sau đây là phần cuối truyện, như có đoạn Võ Huy Tâm đã dặn "Nhiều chi tiết trong giai đoạn sinh động hơn trong hiện thực dù người viết luôn luôn nhắc nhở bạn đọc đang sống trong ví dụ. Nó vẫn chưa hoàn toàn trở thành huyền thoại, nếu cái Ủi không đang quét nhà như lên đồng chùi, như ngày còn bé, cô chèo đò bằng tay".
Truyện tiếp theo là nhà máy làm ăn ngày càng thua lỗ, ban thanh tra về phát hiện những tội lỗi và bịp bợm của phó giám đốc kinh doanh “Dương Thanh Danh - Phạm Bần Phạt”.
Võ Huy Tâm kết thúc truyện như sau:
"Phạt xuất hiện trong bộ quần áo bảo hiểm lao động ủ rũ như con cò phải bão đứng trước mặt “lệnh tướng” tay đang cầm cái chổi, không phải cái chổi mới được buộc mà cái chổi mòn bởi lưng còn một cái đai. Trong phong trào chống tham nhũng sẽ đẻ ra những vị tướng chống tham nhũng. Vị tướng đó có thể là ngài thanh tra tài chính có trình độ khoa học và nhất là toán học rất cao và cũng có thể có những vị tướng bình thường như cái Ủi.
- Em có tin trên đời này... - Phạt ủ rũ như người thất vọng vì tình giờ lâu mới mở miệng - có tình yêu cao thượng, tình yêu thuần tuý về tinh thần không?
- Có thể lắm chứ. - Ủi trả lời - Nếu không có nó thì con người ăn ở với nhau ra cái giống gì được?
- Như thế thì anh đã tham ô, đã hủ hoá và cũng đã yêu em bằng một tình yêu cao thượng.
Nói được câu đó, Phạt không ôm hôn, không áp má như đối với những “bồ” tầm thường khác, mà ông quỳ xuồng để “chiêm ngưỡng" Ủi. Ông cứ thế bé dần, dần biến thành con cò bão, biến thành rác công nghiệp, rác thương nghiệp, biến thành cọng rác phổ thông rồi tan biến vào trong không gian.
Trước mặt cái Ổi
Chỉ có một cái chổi
Như bức tranh minh hoạ một bài thơ
Mà người ta bảo của
Lê Thánh Tông

Rồi bản thảo truyện này Võ Huy Tâm có gửi cho ai, cho nhà xuất bản nào, cũng chẳng thấy Võ Huy Tâm kể lại với tôi. Nhớ lại nó, tôi chỉ ngẫm ngợi, và mong ngóng vu vơ như cái cảm tưởng mọi khi đọc Võ Huy Tâm. Ý chính, chủ đề, cái tâm của người viết rõ ràng mà lại không rõ ràng vì sự thể hiện cứ loăng quăng như thế nào và tinh hoa hé ra, ánh lên rồi lại mờ đi từng chỗ. Làng văn thế giới cũng chẳng thiếu người như Võ Huy Tâm. Như tác phẩm tự truyện người tù khổ sai đã thành biệt danh, phổ biến là Papiông. Câu chuyện kể một người bị án oan và những cuộc vượt ngục ly kỳ. Tác giả, nhân vật chính trong truyện khi về già và đã viết lại đời mình. Nhưng ông viết tác phẩm thứ hai đòi hỏi nhiều tưởng tượng và sáng tạo thì nhạt hẳn. Nhưng Võ Huy Tâm không phải, không giống ngòi bút Papiông. Võ Huy Tâm tràn đầy cái để viết xưa cũ đã có và những nóng bỏng thời nay cũng không thiếu. Nhưng Võ Huy Tâm đã cuốc vào những vẩn vơ mà tưởng là đương cất công khám phá. Mỗi người viết đều có thời không phải là lúc nào cũng tinh hoa và sức lực nhất, tôi thường nghĩ.
Và Võ Huy Tâm lại làm thơ! Các bạn ở Quảng Ninh nói anh làm thơ nhiều lắm. Võ Huy Tâm không bực tôi đã can anh đừng có thơ thẩn, nhưng Võ Huy Tâm cũng chẳng để ý lời tôi nói. Võ Huy Tâm vẫn làm thơ, càng làm thơ. Lại viết cả truyện ngắn bằng thơ.
Bài thơ dài đầu đề là "Nhựa sống cây trí tuệ - truyện ngắn có vần của Võ Huy Tâm" đăng trên tạp chí Diễn đàn gần đây. Một đoạn mở đầu:
Tổ kiến! Kiến tổ!
Vừa đố vừa giảng
Đố bạn
Quả gì to nhất
Không kể quả chuông
Quả núi
và quả đất
Hoặc trứng của động vật như trứng chim khổng lồ
Cây của nó chính là cây trí tuệ phương Đông
Người Ấn Độ gọi là bla mít sa
Cây đó được trồng từ đời ông đời cha
Người Trung Hoa phiên Bà la mật.
Ta gọi nôm na là cây mít
Đời con ăn quả
đời cháu làm nhà
Gỗ của nó người ta có thể tạo ra toà sen, tượng Phật
Đóng bàn thờ và tiện đồ thờ
Cả giá nến, cây đèn, bình hương bình hoa
Cả những cái lồng oản có đáy rời
Những cái đài có nắp sơn
son thếp vàng
như đồ mỹ nghệ
Dùng để đựng chén khi tế lễ
dẫn rượu
dâng trà
Lá của nó thường được lót dưới đáy phẩm oản
hoặc gấp cuộn bồ đài đựng cháo hoa
đem phát cho thập loại chúng sinh
Hơn nữa lõi của nó được đẽo thành cái mõ
(Tinh tinh - cúm!)

Rồi những đoạn sau chẳng bận gì đến cái dài dòng mở đầu này. Ấy thế nhưng ở "Nhựa sống cây trí tuệ phương Đông" cũng nhặt ra vô khối câu chữ đặc biệt Võ Huy Tâm, những câu chữ dân gian được lẩy ra từ cuộc sống. Cách nói như hát đố cổ “Tổ kiến! Kiến tổ! Vừa đố vừa giảng”. Tục ngữ sinh hoạt và nhận xét "Đời con ăn quả, đời cháu làm nhà". Những chữ hay, chữ chính xác (giá nến, cây cây đèn, cái đài, bồ đài, tiện đồ thờ, lồng oản có đáy rời, dẫn rượu...). Và lối kể câu chuyện thật nôm na, lôm lam.
Nhưng thôi, còn dông dài nữa mà chi!
1997

11. Vũ Bằng


"Thương nhớ mười hai"
Vũ Bằng lớn hơn tôi khoảng trong ngoài một giáp.
Anh thuộc lứa các anh Thế Lữ và Nguyễn Tuân. Tôi quen anh lúc tôi viết tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy khoảng năm 1940.
Đối với tôi lúc ấy tất cả là mọi công việc bắt đầu của nghề mới. Cái hiệu phở Tàu tái lăn Nghi Xuân góc hàng Nón hàng Thiếc mà Vũ Bằng hay dắt Nam Cao và tôi đi ăn, tưởng như cả đời chưa được thưởng thức phở ngon như thế. Một hôm Vũ Bằng cho tôi mượn một cuốn tiểu thuyết mà anh bảo là hiếm. Không hiểu vì sao anh đã cao hứng khoe với tôi. Người đọc chọn lọc ở Hà Nội bấy giờ hay có thói quen găm sách một mình. Để khoe, để dễ bề “thuổng” mà không ai biết chăng, tôi không rõ. Vũ Bằng nói:
- Ba hôm phải trả nhé.
Ba hôm, anh xe nhà Vũ Bằng lên Nghĩa Đô tìm và đưa cho tôi mấy chữ đòi sách. Vóc vạc Vũ Bằng to béo phục phịch, thế mà chữ của anh tròn như hòn bi, ngờ nghệch như chữ trẻ con. Biết sách quý không ai cho mượn lâu, chúng tôi đã truyền nhau đọc cả đêm. Đó là cuốn tiểu thuyết Phố Mèo câu cá của Gian Phônđet, một nhà văn nữ gốc Rumani.
Cái truyện Phố Mèo câu cá cừ thật. Sau này, thư viện Hội Nhà Văn cũng có một quyển, tôi đọc lại thấy vẫn một cảm tưởng thế. Năm mươi năm đã qua mà cảm hệt như trước mắt đọc lần đầu đó. Chuyện xảy ra ở Pari, những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918. Trên thế giới nhiều cái đảo lộn, nhất là ở Châu Âu. Bao nhiêu họ hàng hang hốc những ông vua mất ngai vàng ở các nơi mà còn sống sót, đều chạy cả về Pari. Họ không còn đâu quyền thế, chức tước, của cải. Các cô công chúa nước Ý ngày ngày đi làm công nhật đánh máy chữ thuê. Có cô sang hiệu thợ may đứng thay người gỗ cho khách ngắm nghía một mốt váy, một chiếc cà vạt. Những chàng phò mã điển trai thành ra thằng kẻ cắp, kẻ cướp. Mỗi sáng sớm, các ông lão anh em vua nước Đức, nước Lỗ lại lụ khụ chống gậy xách túi đã phải nối quai, ra hàng bánh mì. Như thế còn là tử tế hơn đám họ hàng nhà Nga hoàng đi làm điếm, làm đĩ đực, đi tù thuê, đánh nhau thuê...
Những rác rưởi sau chiến tranh ấy đọng lại ở cái ngõ, có cái tên không biết tiếng lóng hay để chỉ di tích gì mà bây giờ không ai còn biết, Phố Mèo câu cá, nhưng đường vào không có đến một vũng nước và chặp tối chẳng thấy bóng một con mèo ra đứng gào trên góc nhà. Cái hẻm rặt những nhà trọ tồi tàn, đi ra đi vào những ông hoàng bà chúa mặt bệch như giấy, lúc nào cũng bàn những chuyện trời biển đâu đâu. Ngõ phố hẻo lánh với cái tên Mèo câu cá bỗng trở thành nơi tin tức khắp thế giới dồn lại qua ăng ten thu phát cứ như ễnh ương sau trận mưa. Tin chó chết ngoài phố được nhặt vào cũng thành quan trọng và hình như hôm nào cũng có một cái gì mới về nước Ý, nước Nga mà dưới mắt những người này, các nơi ấy đương tan nát, hỗn loạn đâm chém nhau tơi bời vì ở đấy vắng mất, không còn vua quan trị vì nữa.
Tiểu thuyết Phố Mèo câu cá phần nào là một tự truyện của Gian Phônđet. Sau đấy, bà cũng còn viết một số tác phẩm khác, nhưng không thành công như Phố Mèo câu cá. Giữa đám người đài các cũ mà nay những cái phong lưu không còn đã thành nỗi đau hành hạ người ta, ở phố ấy lọt vào một nhà thợ giày quê ở thành phố Bucaret. Cái gia đình thợ thuyền này ra đi không phải vì chiến tranh. Người thợ giày không có số phận trùng với các ông hoàng bà chúa. Nỗi khốn khó ở đất quê đã đuổi người nghèo đi tha hương, thế nào mà rồi sa vào ngôi nhà trong hẻm Mèo câu cá, chui rúc ở một cái buồng bệ rạc tối om tương tự bóng mờ mọi nhà xung quanh.
Anh thợ giày kiết xác ấy vừa khâu giày, vá giày vừa đấu chuyện với các bô lão thất thế, khói thuốc lá khét um cả phòng. Ngồi xó Pari mà tin tức ở các nơi khắp Châu Âu cứ tràn đến, rồi câu chuyện biến hoá thành dài ngắn, tròn méo theo tâm trạng, ông thống chế nhớ cái gậy bịt vàng duyệt binh ở Rôm, bà gái già công chúa Nga mơ màng mùa thu thuở trẻ cưỡi ngựa chơi rừng Tula.
Vợ chồng người thợ giầy cũng có tâm sự. Họ nhớ Bucaret, ngày đêm nhớ lại Bucaret thành phố quê hương. Trí nhớ và tình cảm, tưởng tượng bao giờ cũng đậm đà, phong phú, thiết tha hơn cái trước mắt. Càng ngày càng nhớ đến không thể chịu được.
Bao nhiêu năm về sau mới dành dụm được suất tiền tàu về Bucaret. Bấy giờ vợ chồng đã luống tuổi, những đứa con đã lớn rồi, chẳng biết đâu là quê quán, có đứa ở lại Pháp, có đứa bỏ đi Mỹ. Vợ chông trở về với đứa con gái nhỏ nhất. Khi đoàn tàu dừng nghỉ ở cái ga đầu tiên vào nước Rumani, cả hai người bàng hoàng từ trên toa bước xuống. Người chồng nằm rúc đầu vào búi cỏ, nhìn ra khoảng trời quê xanh bồi hồi. Người vợ dàn dụa nước mắt. Rồi về Bucaret, lại khâu vá giày và vất vả, khốn khó. Một hôm, bỗng nhiên họ lại nhớ Bucarét, nhớ da diết, Bucaret ở đâu?
Những tác phẩm của Vũ Bằng, nhất là những quyển chính được viết thời kỳ ở Hà Nội và ở Sài Gòn, ngót ba mươi năm, thời Pháp và thời Mỹ, dù là bút ký, hay truyện ngắn hay truyện dài cũng đều thấy được đấy là hơi hướng tự truyện. Bốn mươi năm “nói láo”, hồi ký về nghề báo và những tập bút ký Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười hai... một cái gì như là bóng gió hình ảnh cái câu mà chàng Vương Quan khéo mắng chị Thuý Kiều ở bãi tha ma chỗ mồ Đạm Tiên: "... chị nói hay sao. Một lời là một vận vào khó nghe" như thế nào đấy. Mà thật như thế, mỗi trang của Vũ Bằng là một u ẩn, một ước mong không nguôi không tới được, không bao giờ tới được không thể cầu được ước thấy, như Thương nhớ mười hai đương mở trước mắt ta đây. Tôi cũng đã có dịp đọc hồi ký viết về kỷ niệm Hà Nội của Hồ Hữu Tường, của Nguyễn Vỹ, của Bàng Bá Tân và một số cây bút khác. Nực cười, phần, nhiều người đọc và biết đều cảm thấy lố bịch đến ngượng cả mặt. Chắc người ta cho rằng chẳng bao giờ còn gặp lại và trông thấy Hà Nội nữa thì mới dám hạ bút văng mạng như vậy. Ở Vũ Bằng thì khác, trân trọng và giản dị.
Trong phạm vi nhỏ, loáng thoáng đôi chỗ có những câu Vũ Bằng viết về tôi. Tôi không cùng chà cùng lứa bè bạn chơi bời với anh. Nhưng anh đã nói lại thật như tôi bấy giờ ở độ ngộc nghệch “uống nước lã cũng đã say". Khi Hà Nội sắp được tiếp quản 1954, tôi có viết một thư cho Vũ Bằng. Nguyễn Bắc cán bộ hoạt động nội thành ra họp ở Việt Bắc rồi cầm thư vào.
Nguyễn Kế là đã cho một chú bé cơ sở đi đánh giầy đặt thư ấy vào trong giầy của nhà văn. Trên báo Bách Khoa ở Sài Gòn, Vũ Bằng đã viết về bức thư này của tôi, và đến khi in lại trong Bốn mươi năm “nói láo” sự việc còn được kể tỉ mỉ, kĩ lưỡng. Nhưng sau đó Vũ Bằng đã không ở lại, anh xuống Hải Phòng rồi đi Sài Gòn.
Thời kỳ ấy, chúng tôi - Nam Cao và tôi, rất yêu và rất lạ truyện ngắn Vũ Bằng. Giờ đây, xem hồi ký làm báo, làm văn của Vũ Bằng mới biết được khi cho in một loạt truyện ngắn với phong cách khác thường độc đáo đó là một chủ trương của Vũ Bằng. Vào những năm giữa thập kỷ 30, Vũ Bằng không còn là một cây bút mới. Tiêu Liêu Vũ Bằng viết nhiều báo, đã in tạp văn Lọ văn, tiểu thuyết Một mình trong đêm tối, thể loại văn xuôi của ta đã phát triển, khác hẳn tình hình khoảng mười năm về trước. Bên những tác giả có cá tính và phong cách, mỗi tuần, báo chí văn học từ nam chí bắc đã cho ra đời biết bao nhiêu sáng tác làm nền cho phong trào văn xuôi vào cơ hội nảy nở. Truyện dài, truyện ngắn của một văn đoàn có tổ chức và mạnh như văn đoàn Tự Lực đã vượt qua lối viết biền ngẫu, khoa trương hoặc nhẹ nhàng và bóng bẩy. Các sáng tác đã đi sâu phân tích cá tính và cuộc sống như những tác phẩm sau này của Khái Hưng, của Thạch Lam. Và những truyện mổ xẻ cái tôi tinh vi hơn, như của Đỗ Đức Thu rồi Đỗ Tốn. Và các nhà văn Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân đều nghênh ngang một cõi, có riêng bạn đọc tâm đắc của mình. Vũ Bằng đã góp vào sự phát triển ấy một sức nặng quan trọng.
Những tạp văn và sáng tác đầu tay trước kia của Vũ Bằng chưa thành tiếng vang. Phải đến khi Vũ Bằng cho in liên tiếp một loạt truyện ngắn, truyện vừa trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy mới nổi cái đặc biệt, cả đến những tên truyện cũng khác kiểu: Có bốn đứa trẻ đi nghỉ mát; Hai nhát dao dưới một trời trăng sáng; Để cho không khỏi khổ... Ở truyện nào, chỉ có hai nhân vật chính tên là Trâm và tên là Hải cứ trở đi trở lại, với hai tên ấy, vẫn cô Trâm vẫn anh Hải, dù là chuyện trong nhà hay một mối tình, Vũ Bằng miêu tả nhân vật hoạt động và nội tâm khăng khít với quang cảnh, có nghĩa là cuộc sống con người quấn quít, dằng co giữa tâm trạng và hình thức, giữa tất cả với xung quanh, đẩy gần hơn nữa nhân vật với sự thật và cuộc sống. Tác giả không chụp ảnh, không ghi lại, không chau chuốt đưa nhân vật ra. Hình như tự các nhân vật với vấn đề triết lý tư tưởng của mỗi số phận với xã hội tác động nhau, nghiêng ngả khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ của đời người.
So sánh kỹ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan càng thấy cái mới của Vũ Bằng. Mãi đến về sau này, Nguyễn Công Hoan vẫn tuân thủ nghiêm ngặt cách dựng nhân vật không lẫn lộn xen với tả cảnh; nhân vật nghĩ dứt rồi mới hành động; miêu tả nhân vật này nghĩ và làm xong mới miêu tả nhân vật khác... Vũ Bằng thì lẫn lộn, xuôi ngược như cuộc sống gắn nhau không tách ra được.
Những năm ấy Nam Cao đương ở với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mải mê đọc Vũ Bằng. Bấy giờ tôi vừa viết được một số truyện về loài vật mà sau này in thành tập truyện O Chuột. Nam Cao thì đương loay hoay mỗi cái truyện ngắn, mỗi bài thơ lại đổi một bút danh, từ Xuân Du đến Nguyệt, mà vẫn long đong chưa biết đứng lại ở đâu. Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông.... của tôi trên báo Hà Nội tân văn có thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng. Chính chúng tôi cũng vẫn thường thành tâm tự nhận xét ảnh hưởng ấy với anh Vũ Bằng.
Văn xuôi Việt Nam thời kỳ này đã phát triển sang một giai đoạn mới. Bấy giờ xuất hiện nhiều truyện ngắn với những dáng vẻ khác nhau của từng nhóm tác giả. Vũ Trọng Phụng chua chát, dữ dội. Nguyễn Công Hoan cười cợt, mỉa mai, Nguyễn Tuân tài hoa và câu chữ. Thanh Châu, Thâm Tâm, Ngọc Giao, Nguyễn Xuân Huy thì đẹp và buồn. Những truyện ngắn đầu tiên của tôi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đều do nhà văn Ngọc Giao biên tập. Nhưng ảnh hưởng có tính nội dung và cả hình thức tôi lại được gợi ý nhiều ở sáng tác Vũ Bằng. Nhân vật Vũ Bằng hủn hoen không thật minh mẫn cũng không thể là ngơ ngẩn, không hẳn cốt cách Việt Nam nhưng cũng không Tây. Vũ Bằng mê Đôt-tôi-epsky và Sêkhốp, anh là một sách, chuyên tìm những tác giả xa lạ như Ch. Phitner với truyện Thông hành giả và Gian Phônđét, Phố Mèo câu cá.
Cái say mê người ta của Vũ Bằng cũng đặc biệt, như nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã phát hiện Vũ Bằng dùng nhiều từ nguyên si của các tác phẩm hay nước ngoài. Những câu ngồ ngộ về hai nhân vật Trâm và Hải trong các truyện ngắn Vũ Bằng; "bàn tay trắng như đường tây”; “khóc như cái vòi máy nước", "cổ em tròn như cuống huệ"; "ngã như cái tủ đổ”, cũng thường thấy ở truyện ngắn Những con bạc và Những đêm thức trắng của đại văn hào Đốt.
Ở tiểu thuyết Truyện hai người, viết lời tựa, Vũ Bằng nói ông đã đọc một tiểu thuyết hay quá của nhà văn nữ Bắc Âu- tôi quên mất tên, do đấy ông viết Truyện hai người. Không dịch, cũng không phỏng hay bắt chước mà chỉ bởi vì ông mê tiểu thuyết ấy. Kể cũng hiếm nhà văn nổi tiếng mà lại tự sự chẻ hoe như thế của nỗi niềm cầm bút. Ông không dấu diếm và cho thế là thường. Còn nhớ, khi đọc Vũ Ngọc Phan viết bảo mình đã "thuổng" văn của Đốt, Vũ Bằng cười xoà với chúng tôi: "Ồ, của người ta cừ quá, biết làm thế nào?
Giá trị ảnh hưởng của Vũ Bằng với chúng tôi đã chắt lại ở sự gợi ý to lớn. Đọc cùng một lúc Chí Phèo của Nam Cao với những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy có thể nhận ra phong cách phảng phất nhau, nhưng không giống nhau. (Và cũng phong cách ấy, Vũ Bằng vẫn giữ được man mác cả trong tập bút ký Thương nhớ mười hai). Sự ảnh hưởng qua lại rồi nảy sinh những sáng tạo khác nhau thường thấy ở những tài năng.
Nhân vật trong truyện ngắn Vũ Bằng và Nam Cao dường như sáng láng, nhưng lại có phần ngẩn ngơ. Họ thường vừa đi vừa nghĩ, có trăng sáng, có tiếng giã gạo, có tiếng gió xào xạc lá ngô và cánh muỗi bay quanh ngọn đèn điện mờ nước mưa, đốm đèn hoa kỳ xanh như con đom đóm. Nhưng ở Vũ Bằng, cái ngẩn ngơ trở lại ngẩn ngơ bằng những nhát bút khinh bạc. Ở Nam Cao là cái gì bi phẫn, cái gì dằng xé. Điểm cuối cùng đi tới ở mỗi người một khác.
Một thời đã qua, những kỷ niệm.
Mỗi khi qua đầu phố Hàng Da từ Hàng Bông xuống, tôi vẫn nhớ như ngày ấy. Trên hè đường bây giờ, bóng những cây xà cừ lạ lẫm vẫn không che khuất được những cây nhồi mốc rêu lồi lõm, khiến cho quãng phố ngắn lúc nào cũng ẩm ướt u sầu thâm căn cố đế.
Không còn những quán ăn Anh Mỹ, quán Sầm Sơn xinh xinh như nụ tầm xuân bé bỏng so với các cao lâu tố hảo hàng Buồm, hàng Gai, nhưng mà ấm cúng dễ chịu. Cái nhà Vũ Bằng ở đến bây giờ vẫn nguyên - cả hai cánh cửa vẫn thế. Tầng dưới nông lòng chỉ vừa chỗ kê bàn nước và bộ đồ chè. Trên gác, mà cửa số kề bên những cành nhồi hoa đỏ kệch dấm dớ. Ngoài chiếc giường lớn còn khắp phòng chồng đống các thứ báo tây báo ta mà khách vừa vượt thoát qua con chó bécgiê to như con bê nhưng dữ dằn có số, nhô đầu lên gác lúc nào cũng thấy chủ nhân hí hoáy quì phục giữa nhà.
Như một ông thợ nấu cực kỳ thành thạo, tay dao tay thớt, mắt để vào món vừa chín, mắt nhìn món bưng ra.
Những chồng báo ấy là thức ăn nuôi bài. Vũ Bằng làm báo, viết báo, thầu báo cai đầu dài ba bốn tờ một lúc: Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền Bá, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Truing Bắc Chủ Nhật... anh viết đủ thứ, thượng vàng hạ cám, từ cái hộp thư, cái tin vặt, cái vui cười cái mục "Biết ai tâm sự" đến truyện ngắn, truyện dài đãng từng kỳ. Một nhà báo kiệt thiệt, Vũ Bằng ký rất nhiều bút danh. Sau này, ở Sài Gòn, có lúc túng bấn, anh ký tên bác sĩ Lê Tâm viết cả những sách kích dục như Gái dậy thì nên biết... Cách làm việc khoẻ nhưng phân tán và tạp nham ấy đã huỷ hoại khả năng và khát vọng của người viết mà anh không tự biết. Cả đời viết của Vũ Bằng chỉ được một hai cái tiểu thuyết, tập truyện ngắn và ký, có lẽ vì thói ôm đồm trên.
Gác nhà Vũ Bằng cũng là nơi chúng tôi thường lui tới, tụ tập rồi mới đi bát phố. Hũ rượu rùa, rượu rắn của anh nó vật người uống, tôi không thể nào quên. Và chị ấy quả là một tài ba nấu nướng. Chị hơn tuổi anh. Thường chít khăn nhung, đeo chuỗi ngọc thạch và trang nhã kín đáo xoa phấn cả mu bàn tay Mãi đến khi hoà bình lập lại, tôi mới gặp lại chị ấy ở Hà Nội khi Nhà xuất bản Hội Nhà Văn định in lại tiểu thuyết Một mình trong đêm tối. Trong kháng chiến chống Pháp, chuyến Nam Cao từ Hà Nam lên Việt Bắc, đã gặp vợ chồng Vũ Bằng đương tản cư ở vùng trung du Quế Quyển trên đường vào Chi Nê.
Nam Cao đã kể lại cho tôi nghe chuyện cuộc gặp gỡ này. Rồi truyện Đôi mắt Nam Cao viết đúng như câu chuyện gặp Vũ Bằng, chỉ có nhân vật chính được đặt tên là Hoàng. Mùa đông năm 1948, báo Cứu Quốc Việt Bắc chúng tôi đóng trên đỉnh Ích Cáy núi Phía Biếc, bên kia Đèo Giàng, xe nhà binh Pháp lên Cao Bằng quét đèn ven sườn núi suốt đêm. Nam Cao viết truyện ngắn ấy ở xóm người Dao bên Vàng Kheo, thoạt đầu đặt tên truyện là Tiên sư thằng Tào Tháo, nhưng rồi nghĩ lại - Nam Cao hay nghĩ lại. Khi nghĩ lại thì nhụt dần. Mặc dầu nhân vật Hoàng thốt lên câu chửi vì thích Tào Tháo quá, thích đến phải thốt lên câu chửi mới sướng. Trong câu chuyện thật, chị ấy đọc Tam Quốc cho cả nhà nghe khi trời tối cơm nước xong, vừa lên đèn. Chốc chốc, Hoàng lại gửi gắm ý tứ đẹp vào nhân vật Tào Tháo là câu chửi yêu. Nhưng rồi Nam Cao ngại, rồi đổi ra cái tên hiền lành là Đôi mắt.
Đọc hồi ký của Vũ Bằng viết, biết được Vũ Bằng ở Sài Gòn có nghe người ta kể truyện ngắn ấy của Nam Cao viết về anh và rồi Đôi mắt cũng đến tay anh. Vũ Bằng đã viết rằng anh bằng lòng Nam Cao đã miêu tả anh như nhân vật Hoàng, con người mơ màng bước vào trường kỳ kháng chiến, cái anh chàng nửa chán đời nửa yêu đời, nửa thông minh nửa dở hơi, vừa đi kháng chiến vừa sợ kháng chiến, cứ khật khưỡng trong nước sôi lửa bỏng như thế. Con người ấy bộc lộ tình cám thước đo cuộc sống cũng đánh giá mình như vậy. Ở với kháng chiến thì ngao ngán, xa đi thì thương nhớ, càng xa càng thương nhớ. Thương nhớ mười hai là một nét anh hoa của tấm lòng với cuộc đời. Vẫn quẩn quanh đeo đẳng cái Phố Mèo câu cá ngày ấy, ở Pari lại nhớ Bucarét mà thôi.
Người ngồi xó ở cái hẻm Mèo câu ca, nhà anh thợ giày nhớ thương Bucaret khác nào Vũ Bằng lạc lõng ở Sài Gòn quanh năm chói chang nắng nhớ thương bốn mùa Hà Nội. Tâm sự của Vũ Bằng, của người tha hương ám ảnh suốt đời anh. Thương nhớ mười hai, bàn tay giơ lên đếm một tháng, một ngày, một năm, một đời. Đấy là cái thiết tha đầu tiên và cuối cùng. Tôi đã đọc những bài thương nhớ ấy từ ngày Vũ Bằng viết dần từng kỳ đăng trên các báo ở Sài Gòn. Đến khi in thành sách, xem ở đuôi sách thấy lời ghi biết được tác giả đã miệt mài ròng rã hơn mười năm trời mới viết xong được cái mười hai tháng thân phận một kiếp người.
Từng câu tha thiết với Hà Nội đã làm cho đến cả người đương ở giữa Hà Nội cũng phải thương lây yêu lây.
Sành sỏi và sắc sảo toát ra ngòi bút, sao mà nhớ đến não nề. Tháng chín cơm mới, chim ngói. Tháng năm, quả nhót đỏ mọng đem xát vỏ phấn trắng vào tay áo, ăn Tết giết sâu bọ. Đừng quên nắm lá móng nhuộm móng tay Tết mùng năm. Và mưa phùn, cái mưa tháng hai những khi rớt mùa. Quá đi một chút thành mưa rươi, nhưng không. Bụi mưa giêng hai không ướt áo người đi giữa đường, tre pheo gió đánh ẽo ợt hai bên, ngửa mặt lên cho thấm được phấn mưa thơm ướp gò má. Sành ăn chơi đến thế nào ở đâu rồi cũng qui tụ vào một nỗi nhớ đất chôn rau cắt rốn. Những ai đương ở phương trời, đọc Thương nhớ mười hai, ai mà không có một cái quê để nhớ.
Khi Sài Gòn giải phóng - mười bốn năm trước đây, tôi đã được dịp trở lại vài tháng sau. Một hôm, tôi đến chơi nhà Nguyễn Điều - tức Tô Hà, bên Khánh Hội - một bạn nối khố của tôi từ khi để chỏm còn ở Nghĩa Đô. Vũ Bằng tới. Tình cờ có người mách anh biết tôi đến đây và tôi cũng chưa biết nhà anh ở đâu. Thì ra nhà anh ngoài bờ sông gần đấy, anh lồm cồm lên gác.
Vẫn cái áo "tăng quát” và mũ phớt mua thu Hà Nội loà xoà như năm nào. Bấy giờ chớm thu, mà người Sài Gòn năm ấy đồn rằng giải phóng đã đem cả cái lạnh ngoài kia vào. Mấy người quê Bắc chỉ đợi được mặc áo ấm, đã nói đùa hơi mát mẻ đôi chút.
Đứng trước mặt tôi là một người đã luống tuổi, tôi chỉ nhận ra mang máng cái dáng quen. Khuôn mặt, anh trễ tràng, võ vàng, không còn béo mập như trước.
Vũ Bằng nắm vai tôi một lúc thật lâu rồi mới thốt lên:
- Ô này, thật mày đấy a? Chúng mày cứ chửi ông bơ sữa, vậy mà ông thì ốm thế này, bịnh thế này...
Rồi chẳng đợi ai mời, anh cởi áo khoác ngồi vào mâm đánh chén. Vẫn tính xuề xoà thế. Nhưng vừa bị một trận ốm nặng, đã phải bỏ rượu. Tối hôm sau, tôi đến nhà anh. Nhà một tầng, hai buồng rỗng như đít bụt, chẳng có tủ có đài gì cả. Chị hai đi họp tổ dân phố. Trẻ con thì chơi đâu ngoài bờ sông.
Vũ Bằng lại xuýt xoa khen tôi béo khoẻ. Cơ chừng có sự thèm muốn, sự ghét guổng mà thích thú và sự lạ lùng nữa, ở anh. Vì cái thằng "uống nước lã cũng đã say" bây giờ uống tốt, mà anh là cái hũ rượu thì phải kiêng.
Tôi nói:
- Khó khăn thì nhiều đến độ không đếm được, nhưng lòng người yên tĩnh. Có lẽ khoẻ nhờ thế, anh ạ.
- Chí phải, chí phải. Ở cái đất loạn này, cứ nát óc ra hại người thật.
Tôi cười:
- Vả lại, những "Mười hai thương nhớ" nữa, còn gì là người!
Vũ Bằng nhếch miệng, mủm mỉm, bâng khuâng:
- Ừ còn gì. Ông cũng đọc đấy à!
Rồi anh trầm ngâm nhìn ra sông Khánh Hội trong bóng trăng.
- Mấy năm nay tao yếu hẳn. Đã thiếu đói lại mới bị một chuyến kiết lỵ tưởng chết, như thằng Nguyễn Dân Giám xưa chết bệnh này ở trên Phú Thọ đấy, nhưng rồi chỉ ốm rộc người thôi. Chẳng phải chỉ có mười hai thương nhớ, đã hơn hai mươi năm ở cái hẻm Mèo câu cá này, còn gì là người. Mày có thương tao không?

10. Vũ Ngọc Phan


Anh Phan, chị Phan
"Tôi viết thành cái truyện ngắn Nước lên hôm đi hộ đê ở Tứ Tổng về.
"Truyện ngắn này tôi gửi báo tuần Hà Nội tân văn.
Đấy là tôi tả quang cảnh bi thảm của một năm sông Hồng nước lớn.
"Sau này, chị Hằng Phương kể cho biết truyện tôi viết vào giấy lèm nhèm, chữ tôi lại gãy nét rất khó xem. Chị tình cờ lấy trong đám truyện đã loại lên đọc và thấy đáng chú ý. Đấy là truyện ngắn đầu tiên của tôi in trên báo mà được trả tiền nhuận bút. Hồi ấy không phải cứ có bài đăng báo thì toà báo đều trả tiền người viết như thể lệ bây giờ. Toà báo chỉ trả tiền người nào được toà báo mời, còn như mình gửi bài "lai cảo" thì người ta đăng đến bao nhiêu bài cũng thế thôi.
"Vì đấy là anh gửi cho người ta, chứ người ta có mời anh viết đâu. Bởi vậy, đồng tiền báo Hà Nội tân văn mở hàng cho tôi vào nghề và những quyển tiểu thuyết Đỏ và đen của Stăngđan, tiểu thuyết của Panai Istrati mà anh Vũ Ngọc Phan khuyên tôi đọc, đó là cái duyên quyến tôi vào nghề văn “(Tự truyện - Nhà xuất bản Văn học (1976).
Bạn đọc hãy tưởng tượng lại quãng những năm 1940 - cách đây gần năm mươi năm. Tôi đương khoảng hai mươi tuổi, anh Vũ Ngọc Phan trạc tuổi bốn mươi - cái so le tuổi tác khá xa xa, nếu anh chị mau mắn, tôi chỉ xấp xỉ đứa con đầu lòng của anh chị. Mà tôi thì chập chững cầm bút. Mà anh Phan thì làm nghề báo từ bao giờ, lâu lắm. Tôi chỉ biết, chỉ lạ lùng rằng cứ như thế mà tôi được làm bạn vong niên với anh và đấy là những năm tháng buổi đầu đời người, đời văn của tôi.
Tôi viết, tôi đọc, tôi lại viết đủ thứ thơ, truyện gửi đi, chẳng báo nào đăng nhưng, lại viết. Không biết khó nhọc, mặc đầu ngày ngày phải đi làm, tối sẩm mới về đến nhà. Cũng không phải vì chăm chút, vì cay cú một cái tên. Nông nỗi cầm bút của tôi gần như một thôi thúc tự nhiên. Bởi tôi không có nổi một mấu cớ nào để có thể nuôi được mơ ước của mình - mà tôi cũng chẳng có mơ ước xa xôi gì. Bấy giờ tôi đương làm công nhật bán hàng cho hiệu giày Ba-ta bên số lẻ giữa phố hàng Đào rồi sau xuống cửa hàng hàng Khay.
Mấy truyện ngắn của tôi được đăng trên tuần báo Hà Nội tân văn: Nước lên, Một đêm sáng giăng suôn, Bụi ô tô... Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Ngô Thúc Dung, bạn của hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung, hoạ sĩ vẽ cái bàn tay to gần bằng người. Tôi mê mải ngắm bức tranh, lại đọc lại truyện không biết bao nhiêu lần, lần nào cũng ngỡ ngàng nhìn dòng chữ mình viết hoá ra chữ in, sờ tay mà vẫn thấy khác thường. Những truyện ngắn của tôi được trình bày trân trọng giữa báo, in cùng với những tiểu thuyết nhiều kỳ: Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, Thiếu quê hương của Nguyễn Tuân.
Một hôm, tôi đến gặp anh Vũ Ngọc Phan ở nơi làm việc của báo tại một bộ phận nhà in Trung Bắc đầu phố Hàng Buồm. Không phải đến đưa bài, cũng không phải tìm người "đàm đạo văn chương”. Tôi vốn đọc như ngốn sách. Không mượn đâu được đủ sách cung đốn nổi cái đói sách của tôi. Trong thành phố có một thư viện lớn ở Tràng Thi. Nhưng thư viện này chỉ cấp thẻ đọc cho người đỗ bằng thành chung trở lên. Tôi muốn nhờ anh Phan giúp tôi được vào thư viện ấy, một giấy giới thiệu, hoặc anh quen ai, chẳng hạn.
Anh Phan đã kể lại cảm tưởng lần ấy gặp tôi, anh rất ngạc nhiên. Một đêm sáng giăng suông của tôi nói về một cô gái làng quê ra thành phố bị dụ dỗ thành gái điếm... Bụi ô tô tả vợ chồng nhà nghèo kia quảy con đi chợ bán... ít nhất anh tưởng tượng tôi cũng như một Tam Lang, một Nguyễn Công Hoan con con đeo bàu quảy níp làng văn làng báo thế nào. Nhưng tôi chỉ là một cậu bé ngoại ô mặc áo dài thâm, quần vải ta, đi đôi guốc mộc.
Tôi nói:
- Thưa ông, tôi muốn ông làm ơn giúp cho tôi được vào đọc sách ở thư viện Tràng Thi.
Anh Phan người nhỏ nhắn, trắng trẻo, mặc bộ đồ tuýtxo lụa ngà hoa cau, đi đôi giày tây màu gan gà, đúng như tôi vẫn tưởng tượng thế, “nhà văn nhà báo phải gày gò, lịch sự, nho nhã". Bàn làm việc của anh ngay giữa nhà, đối mặt bàn chủ nhà in. Cái nhà in tối như hũ nút, chỉ có khoảng ngoài cùng áp hè không phải thắp đèn điện. Gian sắp chữ, gian máy, ầm ầm rậm rịch như tàu ngoài ga chuyển bánh. Luôn luôn, thợ chữ, người sửa bài đem bản in thử ra.
Anh Phan mời tôi ngồi xuống cái ghế đẩu mà người sửa bài vừa đứng lên, anh ra nói nhỏ với bác loong toong ngoài cửa rồi lấy ví đưa tiền cho người ấy.
Trở vào, anh Phan nói:
- Bánh ngọt bên cao lâu Nhật Tân khá lắm. Nhà văn Nguyễn Tuân hay ăn trưa bên ấy.
Lát sau, bác loong toong cấm về một bọc giây bóng mở ra, đặt bốn chiếc bánh xốp lên cái khay khảm, bên chén và ấm chè. Cả ông Khánh chủ nhà in cũng sang uống nước. Rồi anh hỏi tôi đủ mọi chuyện.
Thế là anh đã biết tôi là người đương bán hàng hiệu giày phố Hàng Đào gần đây. Nhà tôi trên Bưởi, đi làm tôi vẫn qua đẩu phố này. Tôi thích viết văn. Tôi thích đọc truyện tiếng pháp, vừa đọc vừa học.
Tôi chỉ nhớ cảm tưởng anh đã biết thật rõ về tôi và có lẽ anh thương tôi. Bởi khi tôi ra về, anh nói:
- Anh đừng phải vào thư viện, nhà tôi có một thư viện nhó, nhỏ cũng đủ cho anh thừa sức đọc. Tôi sẽ bảo anh đọc cho có phương pháp. Chủ nhật này xuống nhà tôi nhé!
Nhà anh Phan ở dưới ấp. Xuống xe điện cổng chùa Đồng Quang rồi rẽ vào. Chỉ tạt vài bước ra đường Ngã Tư Sở ồn ào, vào đây đã ra quang cảnh thôn trang êm đềm. Những bụi tre, hàng rào ô rô dọc bên bờ kênh dài, nước phẳng lặng, cuối xa nhìn lúa cánh đồng Láng.
Ngôi nhà ngói cổ giữa khoảng vườn râm mát. Một tầng xép cửa sổ trông xuống vườn. Ngôi nhà hương hoả của cụ thân sinh anh đế lại, anh kể trước kia đây là nhà tiến sĩ Dương Khuê, người Vân Đình. Chí một câu ấy, tôi đã mê... "Bác Dương thôi đã thôi rồi. Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta...". Những câu thơ mà lứa tuổi tôi cắp sách đến trường ai cũng thuộc lòng. Nơi đây, xưa kia cũng như bây giờ, liên quan đến ý tình, tâm sự các danh nhân. Riêng tưởng tượng như thế cũng đã cảm đượm một vẻ thơ mộng mơ màng thế nào rồi, mặc dầu cũng chỉ là ngôi nhà cũ kỹ, vườn cây nho nhỏ, nhiều lần anh Phan chị Phan chỉ cho tôi những cây hoa quỳnh, đỏ quyên, đỗ quyên Nhật cánh tim tím và những cây gì nữa, tôi không thể nhớ mà chỉ nhớ khoảng vườn và nếp nhà thanh bạch và ngay bên kia bờ rào ruối lưa thưa là nơi xưởng xe đay, đập nữa, người ta lao lực cởi trần đánh thừng đánh chão bán đứng bên này thấy rõ mồn một.
Anh Phan chị Phan vốn hiếu khách. Chỉ để ý khách đến chơi cũng có thể thấy ra được bóng thời thế qua số đông trong tầng lớp trí thức, nhà báo, nhà văn vào thời kỳ căng thang trước và sau đảo chính Nhật.
Những bè bạn nhà anh Phan, đến bây giờ, kẻ khuất người còn, nhưng hầu hết đã như anh chị, cùng nhau bước vào chặng đường sóng gió nhất của sự nghiệp đất nước trong thế kỷ. Các anh Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư. Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Đỗ Đức Thu, chị Vân Đài, chị Lê Thị Xuyến... Một số tờ báo mà anh cộng tác đương lung lay, rồi đình bản như tạp chí Pháp Việt của E. Babuýl, một người Pháp có xu hướng Đờ Gôn, anh Phan đem về những quyển sách gáy dày cộp, nói của Babuýt gửi. Babuýt lo có thể bị Nhật bắt. Một hôm, anh nói nhó nhỏ: Babuýt bị Nhật bắt rồi. Tôi cũng đã biết mặt Babuýt ở một cuộc mít tinh trong nhà kỷ niệm Quốc khánh Pháp năm 1939. (Sắp chiến tranh thế giới lần thứ hai. Chính quyền thành phố không cho phép tổ chức mít tinh lớn như ở khu Đấu Xảo năm trước).
Babuýt đại diện chi nhánh đảng Xã hội Pháp ở Hà Nội.
Văn Tiến Dũng phát biểu (bằng tiếng Pháp) thay mặt các hội ái hữu thợ thuyền. Nhưng tôi im lặng nghe anh kể. Như chưa được trông thấy cái ông Babuýt râu tóc lụ khụ ấy bao giờ.
Khách đến nhà anh Phan hầu hết là nhà văn và các bạn của anh chị cũng lắm cung cách, lứa tuổi và kiểu sinh hoạt khác nhau. Nhưng với ai, anh Phan chị Phan cũng vui bạn đến nhà, anh Nguyễn Công Hoan dạy học ở Lào Cai, ở Móng Cái, ở Thái Bình, thỉnh thoảng về ở chơi cả tuần, anh Mạnh Phú Tư gặp khó khăn việc vợ con, anh chị giúp đỡ đến nơi đến chốn. Bạt tử như Lưu Trọng Lư vẫn là bạn đến nhà được. Hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan in tiểu thuyết từng kỳ, truyện Chuyến tàu định mệnh của anh Lư. Hồi ấy, các nhà văn đã có tiếng khi viết truyện dài thường chỉ viết từng đoạn, đưa báo in dần, có lúc viết từng kỳ như Thiếu quê hương của anh Nguyễn Tuân. Báo Hà Nội tân văn in Chuyến tàu định mệnh được vài kỳ, tác giả viết nối đoạn kết rồi bán cho Nhà xuất bản Cộng lực(, với cái tên tiểu thuyết Em là gái bên song cửa. Nhà Cộng lực kiện báo Hà Nội tân văn in quyển sách mà tác giả đã bán bản quyền cho mình. Tôi đã theo anh Vũ Ngọc Phan hôm phải ra toà. Trạng sư Phan Anh cãi cho báo Hà Nội tân văn, rất hăng.
Anh Phan thua kiện phải nộp phạt một đồng bạc và thôi không được đăng tiếp Chuyến tàu định mệnh nữa.
Anh Phan bảo: "Anh Lư nhắn tôi: cái thằng Cộng lực kiện láo, sợ gì nó. Đoạn cuối Chuyến tàu định mệnh tôi viết cho báo của anh khác sách bán cho nó cơ mà.
"Nhưng thôi..." Giọng anh nhẹ nhàng, anh cũng chẳng để tâm giận anh Lưu Trọng Lư.
Ai người thế nào, một khi dã vào qua cái vườn xinh xắn, lên thềm ngôi nhà nền nếp, thì dẫu cho áo quần lôi thôi lếch thếch, người bã ra vì rượu, thuốc phiện, vì bao nhiêu đêm thức trắng, thì những câu chuyện văn chương thanh lịch ở đây cũng đưa anh vào công việc nghề nghiệp và những ước mơ sạch sẽ trở lại.
Thế mà, anh Phan không phải là người hiền lành đâu nhé! Anh nói anh chưa thành nhân vật trong tiểu thuyết Bốc đồng của Đỗ Đức Thu tả chân một số văn nghệ sĩ chơi bời, vì tác giả nể anh, mà ngại đấy, anh bảo cho tôi biết các nhân vật Tịnh là Nguyễn Tuân, Văn là Mạnh Phú Tư, và Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu... là nhân vật nào trong Bốc đồng. Tôi đến nhà in phố Hàng Buồm, anh bảo tôi: "Thiết Can vừa ở đây ra, bị Nguyễn Doãn Vượng đón đánh. Tôi phải ra, nó mới thôi đuổi đánh Thiết Can. A đừng có đụng đến tôi. Mác sen Hàng Bạc, Hy Chả Cá bạn tôi cả. Tôi sẽ bảo chúng nó nện cho biết tay. Không hỗn được với tôi”.
Có lần anh kể:
- Anh ạ, một đêm tôi đi hát cô đầu với mấy tướng ấy. Khuya về, thấy Hằng Phương vẫn đứng đợi cửa. Từ đấy, mình thôi.
Rồi anh cười, vẻ lịch lãm.
Thật ra, những câu chuyện làng văn, làng báo ở trên, phần nhiều tôi cũng chỉ nghe anh Phan chị Phan kể lại. Tôi chưa được quen các đấng ấy và chưa được có cơ hội để khoác lác với bạn: mình mới đứng nói chuyện với nhà văn Giáp, mình vừa bắt tay nhà văn Ất, con người tôi lúc ấy tương tự năm xưa. Ở Sài Gòn, Vũ Bằng viết hồi ký về nghề làm báo, khi chợt nhớ đến tôi anh đã chụp ảnh cho tôi một dòng - "cái anh chàng mặt non choẹt, uống nước lã cũng say".
Tôi cũng không đủ gan học đòi các cha Đinh Hùng. "Giannin Lệ Thuỷ" Trần Hồi, cả bọn thường ngày ngày cất công kẽo kẹt đạp xe hàng một theo từ trường về nhà, thành cái đuôi dài dài sau xe của các nàng tiên Hằng em chị Phan. Bọn này muốn vào làm quen với nhà anh Phan bằng chết, mà không dám.
Chúng nó đâm ra tức tôi, chửi tôi, gán cho tôi...
Nhưng tôi đến với anh chị, là người trong nhà.
Lắm khi có khách anh chị xuống tiếp mình tôi ngồi lại giữa gian sách chất ngất. Tôi thường ăn cơm thêm đũa thêm bát, rau muống, đậu rán, tương ngon. Có gì đâu mà vẫn nhớ. Tôi cũng xấp xỉ bằng trà bằng lứa với những Bê những Tuân, những Hoàng và các em xinh xắn vừa hiền vừa hóm, nhiều em đã cùng cha mẹ lên chơi nhà tôi trên Nghĩa Đô. Khi anh Phan chị Phan làm nhà xuất bản Hà Nội, một trong những sách đầu tiên của nhà xuất bản in là tập hồi ký Cỏ dại, tôi đã đề trang đầu “Tặng đàn thỏ bạch trang Vũ gia" ấy.
Bởi vì, tôi đến nhà anh để học. Đầu tiên, anh Phan đưa cho tôi quyển Đỏ và đen của Stăngđan, anh bảo:
- Đỏ và đen là mẫu mực tiểu, thuyết Pháp thế kỷ 18. Anh phải đọc kỹ!
Tôi đọc chẳng hiểu mấy. Có lẽ vì nhiều chữ khó, phải tra từ điển luôn tay, mất thú, anh đưa tiếp theo kịch Con chim xanh của Mateclinh in khổ lớn trên tạp chí sân khấu Jnluýtxtraxiông. Tôi vừa đăng truyện ngắn Mê con gái (Con gà mái ri) trên báo Chủ nhật của Tự Lực Văn Đoàn, anh bảo: "Có thể cái kịch thần tiên này gợi ý nhiều cho anh về viết truyện loài vật". Một hôm khác, anh cho tôi xem tiểu thuyết của Panai Istrati - nhà văn gốc Rumani, xuất thân làm cu li cảng, viết về những người cùng cực ở các cửa bể Địa Trung Hải, Hắc Hải... anh Phan dặn: “Truyện của tác giả này gần với truyện của anh. Phải đọc thật kỹ”.
Năm này qua năm khác, tôi đến nhà đều đặn. Tôi trả sách, anh đưa sách mới. Dặn cách đọc, cách chú ý.
Anh chị kể cho nghe chuyện làng văn, làng báo. Mọi việc đọc và viết của tôi suốt thời gian ấy đều theo kiểu học trò cắp sách đi học như thế. Và đôi khi tôi giúp anh ghi “phích” cho anh soạn bộ Nhà văn hiện đại.
Anh Vũ Ngọc Phan in cho tôi liên tiếp nhiều truyện ngắn, truyện cổ tích, phóng sự lên báo Hà Nội tân văn. Anh đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ giấy bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên tôi được viết có chữ “Ông” trên đầu. Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy là cây gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy nó hiện lên bộ "phô tuýtxo" thứ vải rẻ tiền may quần áo tây, nhưng bền. Lại đôi giày vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba đồng, mà tôi đã trút được cái áo dài chéo go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về chia cho cả nhà. Lại còn mua cho em gái tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!
Thế thì tôi còn đi bán hàng cho hiệu giày làm gì nữa? Ngày cuốc bộ hai buổi từ trên Bưởi xuống, đến cửa hiệu, giờ giấc không chệch một phút, từ lúc rỡ cánh cửa mở hàng. Tháng được lương sáu đồng, chia ra, một tuần lễ lĩnh hơn một đồng bạc, trong khi vào lúc bấy giờ mỗi đêm tôi có thể khoắng xong một cái truyện ngắn ngon ơ. Thế là tôi vào nghề văn.
Anh Vũ Ngọc Phan chủ bút Hà Nội tân văn cũng chỉ là người làm công cho nhà tư sản Vũ Đình Dy, chủ báo Éppho tiếng Pháp và tuần báo Hà Nội tân văn. Tới khi phát xít Nhật càng dính sâu vào Đông Dương, thì nhà trí thức cơ hội này đổi màu. Tờ Hà Nội tân văn anh Vũ Ngọc Phan cáng đáng không đáp ứng - có nghĩa là không tán thành chủ trương và thái độ Vũ Đình Dy. Thế là chủ báo không bỏ vốn ra nữa. Báo chết. Sau Vũ Đình Dy theo Nhật sang Chiêu Nam (Xingapo) với Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc.
Nhà anh Phan, chị Phan khó khăn nhất vào thời kỳ này. Nhưng trình độ nghề nghiệp, phong thái nền nếp, cách làm việc chu đáo của anh khiến một nhà xuất bản lớn, nhà Tân Dân, đã ký hợp đồng in trọn bộ 5 quyển Nhà văn hiện đại của anh. Cũng khi ấy, nhà Tân Dân chủ trương loại sách "Truyền bá" cho thiếu nhi, anh Vũ Ngọc Phan giới thiệu tôi viết. Có lần anh Nguyễn Công Hoan cũng kể anh mách nhà xuất bản mời tôi viết "Truyền bá", vì "tôi đọc thấy văn của cậu tinh nghịch, trẻ con chắc thích”. Sinh thời hai anh, chưa bao giờ tôi hỏi lại việc đó. Bởi tôi tin là cả hai anh đã giới thiệu tôi, anh Phan tìm việc cho một bạn trẻ bấy lâu anh chăn dắt, giúp đỡ, anh Hoan yêu văn tôi dí dỏm - khi ấy tôi cũng chưa được quen anh Hoan.
Bây giờ thoạt nghe thấy nhuận bút một cái truyện ngắn hồi ấy mà mua được nhiều thứ như thế, có vẻ dễ dàng, dễ chịu quá, thế nhưng viết văn cho kiếm được miếng thời kỳ này chẳng dễ chút nào. Chợ búa buôn văn bán chữ theo luật cung cầu thị trường. Quyển sách in ra, mà cả năm vốn chưa quay vòng lại được, thì anh hãy lỉnh đi, chớ vác mặt lại nhà xuất bán ấy nữa. Bởi vì thế là anh đương làm sạt nghiệp người ta. Ngòi bút phải múa may thế nào cho có được người đọc bỏ tiền ra mua. Cả trăm nghìn người viết thời ấy, bây giờ còn lại mấy ai. Phải khác thường ngay lập tức, Nguyễn Công Hoan với những truyện ngắn có một không hai. Thanh Tịnh - Quê mẹ. Nguyên Hồng - Những ngày thơ ấu và Bỉ vỏ, Thạch Lam với Cô hàng xén, Đỗ Đức Thu truyện vừa: Ba, Bùi Hiển: Nằm vạ... Và Nam Cao. Mở đầu đã phải có giọng điệu không lẫn với ai. Phải thế mới mọc mũi lên được ạ.
Anh Vũ Ngọc Phan giúp tôi hiểu cái vất vả và công phu ấy, anh làm cẩn thận mà hồn nhiên, tự nhiên. Tập truyện ngắn O Chuột in trong tủ sách Những tác phẩm hay nhà Tân Dânl, Vũ Ngọc Phan đề tựa, anh cầm bản thảo, và nói:
- Anh viết cả loạt truyện loài vật thế là được, phải viết hàng loạt cho nổi hẳn. Tôi đề tựa, tôi “lăng xê" anh.
Anh nói, thích thú, sảng khoái như một công trình của anh vừa xong. Khen chê của anh, cũng như sự kèm cặp, tình nghĩa và nghiêm, anh Phan bảo tôi đến học công việc làm báo với nhà in. Tôi được cái sẵn tính chịu khó, tỉ mỉ, anh chỉ tôi cách chữa bông bài, để ý những khâu nối tiếp của bản thảo với sắp chữ, với sửa bài. (Ngày trước, bài đưa thẳng nhà in, ít đánh máy, thợ chữ cầm trang bán thảo mặt sau tờ giấy bị bẩn mực cho nên có thể lệ bản thảo viết một mặt). Cả chữ ký của tôi bây giờ cũng là tôi ký theo kiểu của anh. Thoạt đầu dấu chấm chữ i sau cùng, tôi đưa loăng quăng lên trời bắt chước "đài mây" của Xuân Diệu. Rồi tôi thấy anh ký rõ ba chữ Vũ Ngọc Phan nghiêng nghiêng với cái gạch dài ở dưới. Tôi cũng ký chân phương hệt thế cho đến ngày nay. Chỉ khác, tôi viết ngang dòng.
Mùa thu 1944, tôi bị bắt vì hoạt động Văn hoá Cứu quốc Được thả ở Nam Định về, tôi xuống nhà anh chị Phan. Trông thấy cái đầu trọc lốc của tôi, chị Hằng Phương rơm rớm nước mắt. Anh Phan thì lặng im. Tôi lại được ăn cơm trưa trên gác làm việc của anh chị như mọi khi. Cho đến lúc về, chị Hằng Phương hỏi nhỏ:
- Thế có nguy hiểm không?
Dễ thường anh chị muốn bảo tôi nên tránh ở đây ít lâu chăng. Tôi cười và thưa:
- Tôi đã về nhà rồi, chẳng có gì lo anh chị ạ.
Tôi tự coi anh chị Phan như anh cả chị cả, như thầy cô giáo lớp vỡ lòng cho mình. Dường như anh chị cũng nhìn tôi như thế. Lúc vui, khi bảo ban, khi thương khi giận cho tới bây giờ - dần dà bây giờ tôi cũng đã là ông lão sáu bảy mươi rồi.
Nhưng bao giờ cũng vẫn thế.
Cái năm đi chiến dịch Tây Bắc 1952, về Tuyên Quang ít lâu, tôi gặp anh ở hội Văn nghệ, anh chị và cả nhà mới từ Thanh Hoá chuyển lên Việt Bắc. Có đến bảy năm mới được gặp lại. Tôi đưa anh xem tập ghi chép của tôi về thơ ca Mường, Thái, Mèo mà tôi đã sưu tầm được khi vào hậu địch Sơn La, Lai Châu vừa giải phóng, anh khen rất thày giáo:
- Ừ! Anh đã biết làm việc có phương pháp khoa học.
Đến khi in Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, anh đã lấy nhiều bài trong tập ghi chép của tôi vào phần cuối, và với tính cẩn thận minh bạch xưa nay, anh chú thích rõ ràng: Trích sổ tay của...
Anh viết bài phê bình tập truyện Vỡ tỉnh của tôi trên Tạp chí Văn học. Gặp anh, tôi cám ơn. Nhưng anh nghiêm mặt nói:
- Lâu lắm sao không đến chơi nhà? Hằng Phương rất không bằng lòng như thế.
Tôi chỉ biết lặng im. Tôi không dám nói với anh rằng người ta mỗi tuổi lại cứ thành nét những tính nết kỳ quặc, riêng biệt, dần dần về sau tôi đâm ra lười nhác giao thiệp, ưa lủi thủi. Tôi ngờ ngợ có thể anh chưa cần trò chuyện thêm, đã "có ý kiến ngay" rồi. Các thày giáo thường thế. Quá nhiên; anh bảo tôi, vẫn nghiêm nghị:
- Cái khinh bạc của anh trong văn chương tôi nói ngày trước đã lây sang cả tính nết anh rồi đấy, nặng đấy!
Tôi bỗng nhớ lại, khi đọc bản thảo tiểu thuyết Xóm Giếng với cái tựa Xóm Giếng ngày xưa, anh Phan báo tỏi: "Anh viết có nhiều cái mới. Nhưng hơi văn anh có vẻ khinh bạc, mà khi anh mới viết không có. Không nên a dua thời thượng", anh cũng đã phê bình thành chữ nghĩa như thế, về tôi, trong tập Nhà văn hiện đại.
Đến bây giờ vẫn nhắc nhở vậy. Trước mắt anh bao giờ tôi cũng chỉ là anh chàng mới cầm bút, hôm ấy lần đầu tiên đến tuần báo Hà Nội tân văn ở phố Hàng Buồm.
Chao ôi, làm sao thành phố đã lên đèn, mà trời vẫn xanh trong tưởng tượng của tôi hôm nay nhìn lại vẫn trong xanh như thế.


Soan còn nhớ như in cái hôm Triều bỏ nhà đi ra hậu phương (trong kháng chiến chống Pháp, người các vùng bị chiếm thường gọi vùng tự do là “hậu phương”). Mỗi lần nhớ, lại thương.

Hồi ấy đương đồng cạn, đêm nào vợ chồng cũng đi tát nước, gà gáy về lúi húi thổi cơm, ăn xong thì vừa tang tảng, chồng lại sắp gánh cho vợ đi hàng xáo. Hôm ấy, cơm xong, Triều sửa soạn gồng gánh sớm hơn thường ngày. Nhưng vừa rửa bát dưới ao lên, đột nhiên Triều quơ cái thanh tre dựng cửa bếp, không nói không rằng, quật luôn hai cái vào lưng vợ. Soan oằn người, gieo thúng gạo, gieo theo cả người xuống. Triều điềm nhiên phết cho hai cái nữa. Khi đó, Soan đã hết ngơ ngác và bắt đầu nổi giận. Chị lăn ngay ra đấy. Hai chân giãy như tuồng trẻ dỗi mẹ, rồi rũ tóc ra, gào khóc.

Bà Cam, mẹ chồng, đương quét sân, thấy to tiếng, nhưng bà không ngẩng lên, như đã quen những chuyện ấy. Bà vừa lia cái chổi, vừa lẩm nhẩm: “Sáng mùng một vừa mở mắt ra đã quạc mồm như con quạ khoang”. Ở bên kia rào găng, mụ Nắp đứng chắp hai tay sau lưng, nhìn nghếch sang, chép miệng một mình: “Mát ruột, mát ruột. Cái đồ lười vãi thây chỉ mộ ăn không mộ làm thì cũng phải được đòn đánh thế mới bớt rửng mỡ”.

Hôm ấy lại là ngày phiên chợ. Cả xóm trong đi chợ qua, nghe tiếng xô xát, bảo nhau. “Cái anh Triều nom nhu mì thế mà dữ đòn, đánh vợ cứ như đòn mật thám”. Những miệng hớt lẻo ấy loang ra chợ, và chị Soan lại bỏ buổi chợ hôm ấy, thế là cả bốn xóm đều nói dăng dăng: mới sáng mùng một mà thằng Triều nện vợ một trận đau.

Soan gào một lúc rồi ngồi dậy, vén hai mé tóc xoã xượi, vạch ra cái mũi khóc đã bóng đỏ, khạc mấy cái, đứng lên nhấc hai thúng gạo vào buồng. Rồi không kể lể, không xụt xịt nữa, lẳng lặng nằm queo xuống giường, quay mặt vào trong vách. Đó cũng là cái thói quen mỗi khi có chuyện dỗi bỏ, Soan vẫn nằm vạ như thế.

Trong khi ấy, Triều cầm cái sào nứa, hầm hầm đi thẳng ra ngõ. Bà Cam quét sân xong, ngẩng lên đã thấy con trai thấp thoáng cắp cái nón mê ra tận giữa cánh đồng. Bà đoán Triều đi mua bèo hoa dâu. Việc ấy đáng lẽ vợ nó đi được, bà càng xót con. Hễ cứ vợ chồng Triều cãi nhau, bà lại cho là thằng Triều hiền lành lấy phải con vợ thần nanh đỏ mỏ. Bà cất chổi vào xó ngõ, rồi quay vào. Thấy cửa buồng đã che cánh cót, bà biết con dâu lại nằm dỗi rồi. Bà xuống đuổi con gà mái mẹ đương cục cục với lũ con bới đống dấm trấu vừa vun lên. Mụ gà mái ấp ham con, cứ xòe cánh ra quặc lại. Bà vừa xuỳ xuỳ dồn, vừa chửi, không ra chửi gà, không ra chửi người: “Cha đẻ mẹ mày! Gan à? Công bà quét còng cả lưng đấy. Gan à? Tiền trăm bạc chục mua về đấy chứ chả nước lã đổ hồ đâu, ngay xương lắm thì bà chẻ xác ra... Gan à, gan này... gan này...”. Soan nằm trong buồng, tuy nghe không thủng, nhưng cứ cái giọng to nhỏ trì triết ấy thì Soan đã thuộc, Soan biết bà đương xói móc. Soan nghẹn đến cổ, nước mắt lại ứa ra. Đau chồng đánh một phần, đau mẹ chồng rức lác còn cay đắng gấp trăm. Nước mắt Soan cứ nối nhau bò nghiêng một bên má rồi rỏ xuống từng giọt.
Cơn tức cũng dần dần vơi, Soan nằm nghĩ loăng quăng trong cái góc buồng tối. Chợt trông thấy một vệt ánh nắng thả xuống, rọi vào mấy củ khoai dưới gậm giường. Biết thế là mặt trời đã lên cao, nắng ra tới giọt tranh, mất buổi rồi. Con chim chào mào ở đâu bay đến hót trước sân, nghe rõ tiếng chân nó đậu rào rạo vào cái sào nứa cọc rào mùng tơi. Như thế là ngoài sân vắng, mẹ chồng đã đi cào cỏ. Soan liền ngồi dậy, quấn tóc, ra hè tìm cái rổ sảo, bốc đống khoai lang ngồi đầu hè nhặt khoai hà. Nghe tiếng lao xao ngoài gốc vối bờ ao, Soan đứng lên bậc cửa, nhìn thấy bà Cam cầm cái cào cỏ, đương chuyện với mụ Nắp. Mụ này đưa hai ngón tay vuốt mép trầu:
- Cô ả nằm ngửa quen rồi, cái quân làng Trường ấy mà.
Bà Cam gật gật, ừ ào. Thật thì bà cũng không nghe mụ Nắp nói, bà đương kể lại cái chuyện ban sáng “thằng Triều nó đánh vợ nó”. Trong khi mụ Nắp cũng chẳng nghe chuyện bà, mụ cũng cứ “cái con làng Trường nằm ngửa quen rồi”, hai người cùng nói và cũng không ai nghe chuyện nhau.
Đứng xa không rõ, nhưng Soan đoán “họ lại chỉ thối mồm”. Soan bực, cáu quá, Soan vơ một cây nứa. Soan đập chát chát lên cái cột. Ngoài kia nghe động, hai người bỏ đi hai ngả.
Bà Cam xách cào cỏ, trở về. Soan vội bê sào khoai lủi nhanh vào buồng, lại nhấc cái phên che kín cửa lại như lúc nãy. Bà Cam về lấy túi trầu bỏ quên. Thấy cửa buồng vẫn che, bà chép miệng hai cái, rồi lại vác cào cỏ ra ruộng. Mẹ chồng đi khỏi, Soan lại ngồi dậy, bưng cái sảo ra đầu hè nhặt khoai. Ánh nắng lên, mồ hôi xâm xấp ra lưng, Soan ngoái tay sờ thấy hai vết đòn lằn con trạch, đau rát. Soan lại ứa nước mắt. Nhưng Soan không thể ngờ được những roi đòn vũ phu thế. Bởi nửa đêm, nó còn hùng hục như quỷ giãy. Lúc đi tát nước, lại cười đùa ngặt ngẽo, thế mà giở mặt chóng thế.
Triều đi hôm ấy không về.
Tan chợ hôm sau, vẫn chưa thấy về. Soan ngờ ngợ, quơ tay lên dây treo áo thì thấy quang hẳn hai cái quần và cái áo nâu cũ.
Sợ quá, quên cả những chuyện mẹ chồng nàng dâu đương giận nhau, Soan chạy ra, môi run không bắt được tiếng:
- U ơi! Nhà tôi nó đi rồi.
Bà Cam vào xờ lại cái thừng vắt áo trong hóc cột. Hai mẹ con ngẩn ngơ. Nhà bỗng vắng hẳn đi.
Một phiên chợ nữa cũng không thấy Triều về.
Một hôm, lúc chặp tối, có người ở xóm trên đến. Anh ta gọi Soan và bà Cam lại, nói nhỏ:
- Anh ấy nhắn tôi về bảo cả nhà yên tâm.
Hai người ngơ ngơ không hiểu. Người xóm trên mới kể: anh ấy và anh Triều ra hậu phương đi tòng quân. Vào phòng tân binh khám sức khỏe thì Triều trúng, được nhận ngay.
Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Bất giác, thấy lẻ loi, cô đơn quá. Những chuyện giận dỗi mấy hôm nay đã bỏ quên đâu tất cả.
Đêm ấy, mãi đến lúc sảy xong hai mẻ gạo, khuya lắm, vào giường nằm, Soan vẫn còn như chiêm bao mất tiền. Bây giờ mới sáng dần cái việc anh ấy đi.
Ra họ đã ý tứ sửa soạn với nhau từ bao giờ! Nghĩ lại mới tỏ ra. Nhớ có hôm vợ chồng đi tát nước chiều, trông đường cái ù trắng bụi ô-tô, Soan bảo chồng:
- Xe nó bắt lính ở Ninh Giang sang kìa.
Triều cười nhạt:
- Rồi nó vào bắt lính làng này ấy.
- Nói dại!
- Dại với càn gì! Nó muốn lùa hết con giai vùng này đi lính mà. Nhưng tao đã có bài của tao rồi. Hừ, ai đi đạo cứ đi đạo, ai đi đời cứ đi đời, chứ trâu hoá ra bò thế nào được. Không bao giờ tao chịu thân phận lính tráng cho chúng nó đâu.
Rồi Triều cười, tiếng cười khô không khốc. Còn Soan thì im lặng.
Ra anh ấy đã nói bóng, cười bóng như thế. Soan bỗng đột ngột giận chồng. Rồi lại tủi. Sao bỗng dưng nó lại đánh mình rồi bỏ đi. Hay là nghĩ mình chợ búa đi hôm về tắt giai gái thế nào... Hay mình cũng muộn mằn... Nhưng những ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, mà một nỗi lo khác hiện ra. Lệ thường ở đây có người đi, lý trưởng biết đi ra “ngoài kia”, chúng nó đến hạch, có khi đánh đập, bắt bẻ nộp phạt, vòi tiền. Song nay anh ấy đi, cả bốn bên hàng xóm đều biết là chỉ vì giận vợ, đánh vợ mà đi. Đã rào trước đón sau có mưu mẹo cả rồi. Thế là Soan lại thấy thương chồng. Lấy nhau đã được ba cái Tết, nhưng vẫn còn son rỗi. Bây giờ lại đi, biết bao giờ về? Mà đêm ngày thì cứ đùng đoàng thế này, biết có còn mà về với nhau không. Soan nằm nghiêng qua nghiêng lại trên ổ lá chuối khô, cánh tay Soan duỗi dài, buông xuống giường. Cái giường rộng hơn mọi khi nhiều.
Ăn cơm sáng hôm sau, Soan nói với mẹ chồng:
- U ạ, nhà con nó gan quá.
Bà Cam nói: “Tao biết rồi”, rồi buông bát, mếu, nghẹn không ăn được. Bà đứng dậy, ra bậc cửa ngồi một lúc mới xách cái cào cỏ đi. Soan cũng không ăn nốt được. Chỉ có cô gái bé vẫn ngồi đến no mới đứng dậy rồi cũng cầm cào cỏ theo. Nhưng bà Cam ra đồng quơ quàng mấy nhát, cứ bồn chồn như ai cào ruột gan mình, lại bỏ về nhà người con gái lấy chồng xóm dưới. Chưa hết buổi, Soan đã đi gọi bà về. Soan sợ cái nhà vắng quá. Bà ngồi nhà một lúc, cũng không yên, lại ra đồng cào cỏ. Không đứng đâu ngồi đâu yên hồn. Bà Cam có nhiều con, đứa thì đi xa, đứa thì phải tù trên tỉnh, đứa ở riêng, đứa chết năm đói. Bà ở với Triều là con trai út.
Bà Cam về tới gốc vối thì gặp mụ Nắp. Gốc vối ấy ở ngay cổng nhà mụ, lại là cầu ao. Chỗ ấy cũng gần như cái chỗ chuyện mảnh, chuyện thoáng của các nhà láng giềng, những đầu mối chuyện hũ mắm cáy, bát nước dưa, chuyện mẹ chồng nàng dâu, chuyện làng nước xa gần, ai phải lòng phải bề ai, ai đánh con chửi cái, đều là tin tức ở gốc gối cầu ao ấy mà ra.
- Này người ta nói thằng Triều nhà bà đi Việt-Minh?
Bà Cam chối đây đẩy:
- Vợ chồng nó đánh nhau quá nó giận bỏ đi, cả làng biết đấy, bà biết đấy, tôi biết nó đi đâu!
Nhưng, chẳng kịp nghe bà Cam trả lời, mụ Nắp đã lại nói:
- Chẳng đi thì thằng Triều cũng chẳng thể ở được ở nhà. Cái con ngay lưng ấy mà đáo để! Chứ có ai mà giận vợ đến nỗi phải biệt tích đi tìm cái khó nhọc. Nó là quân Đắc Kỷ chứ không phải con người.
Hôm ấy, bà Cam không bắt chuyện nói xấu con dâu với mụ Nắp.
Từ khi quận về đóng cái bốt tổng dũng chỗ cây đa đầu đồng, bà Cam càng buồn. Nhà bà gần bốt quá, đứng trong sân cũng trông thấy lô cốt, trông rõ cả thằng lính ngồi gác và cái kẻng bằng một dóng sắt treo ngoài mái tôn. Cứ tối đến, chốc nó lại gõ, inh ỏi khó chịu như gõ vào tai. Nhưng khổ nhất là, thâu đêm, trên lô cốt thường bắn phóng xuống. Đạn lung tung vào bụi tre, vào sân, vào nhà. Có người đã phải đạn, chết. Các nhà ở dọc bờ tre trông sang bốt, hãi đạn, tối nào cũng phải vào ngủ nhờ trong làng.
Chỉ có việc tối đi ngủ nhờ mà hai mẹ con cũng hay vằng nhau. Nhà mụ Nắp tường gạch cửa kín, nhà ngang khuất hai lần tường, đạn khỏe đến đâu cũng không phá được. Tối tối, bà Cam và cái Gái cắp chiếu sang nhà mụ Nắp. Nhưng Soan thì đi nằm nhờ nhà khác. Mụ Nắp nói mát: “Cô ấy cành cao lá dài. Bà Cam có cô dâu út kiêu kỳ nhỉ”. Nhưng Soan nhất định không chịu vào nhà mụ Nắp. Soan ghét “con mẹ lắm mồm hay đưa chuyện”. Bà Cam tức tím ruột, mà không nói nổi con dâu. Vì có đi ngủ đâu, nhưng nửa đêm đi cấy, gà gáy đi tát nước, Soan vẫn lăn lưng làm chẳng thiếu một việc. Nhưng rồi năm này sang năm khác, nhà cửa càng nhạt nhẽo, cứ gà lên chuồng thì mẹ con mỗi người một nơi. Khi chiều, khi đêm, thật buồn. Soan nhớ chồng, chẳng biết làm thế nào khuây được.
Có lần Soan lại dỗi về nhà mẹ bên làng Trường. Vì chuyện gặt ruộng làm của nhà mụ Nắp. Cánh đồng triều, mùa nước cả ngập đến cổ, Soan phải túm từng đầu lúa, lặn xuống mới cắt được mà vứt lên thuyền. Phải năm mất mùa, cắt suốt đêm quang ruộng mà chưa nổi được lưng thuyền thúng lúa. Từ khi Tây về đóng bốt, thóc gặt được, bà Cam cũng đem để nhờ nhà mụ Nắp. Tây đi càn thường lùng xét nhà tranh không hay vào nhà ngói. Gửi thế cho chắc chắn. Soan nói:
- Mùa này mất, chỉ cắt được có vậy thì mang về. U đem gửi, nhỡ bà ấy mà trừ nợ thì toi công.
- Mày rõ trứng khôn hơn vịt...
Bà Cam mắng. Soan dỗi cơm, vào buồng nằm. Bà Cam xách giỏ đi bắt cua. Soan nằm ngoảnh mặt vào vách. Nhưng mà sao nằm dỗi vắng chồng, nó buồn thế, chán thế, lâu thế! Quơ tay lên cái thừng vắt áo trên đầu giường, chỉ có muỗi vo vo bay ra. Thế là Soan trở dậy, đi về nhà mẹ đẻ.
Sang làng Trường, mẹ đuổi Soan cũng không về. Rồi nói mãi hoá nhàm, vả lại vốn mẹ chiều con, cũng thôi.
Một hôm, bà Cam sang gọi Soan. Hai bà dâu da ngồi nhai trầu nhọp nhẹp, thăm chuyện gặt hái, rồi bà Cam khóc, mẹ Soan cũng khóc. Những giọt nước mắt cùng cảnh. Bố đẻ Soan năm trước phải đại bác chết ngay đầu ngõ. Nhà cửa từ bấy giờ hắt hiu như mưa rầm về chiều. Hôm ấy, mẹ đẻ Soan bắt Soan về, bà nói: “Mày phải thương chồng mày...”. Nghe nói thế, Soan trở về. Trước chặp tối, bà Cam đương sắp chiếu bảo cái Gái đi ngủ nhờ, bà nghe tiếng chào “u ạ”, rồi tiếng mở cửa liếp buồng. Biết con dâu về, trong bụng đã hồ hởi, nhưng vẫn làm mặt lạnh, không nói. Bà cắp cái chiếu ra ngõ, bà quay lại, đứng ngoài sân, nói vọng vào: “Nhà mày dấm cái bếp rồi hãy đi!”. Cảnh nhà lại như thường, và thế cũng là yên rồi.
Nhưng, cũng chỉ yên thoảng yên thì. Một lần kia, không biết lại vì việc gì, Soan cãi rồi vào nằm góc nhà, che kín cửa liếp.
Chợt một bọn lính quận đi tuần ở đâu xộc vào, bảo bà Cam:
- Gớm cho mụ già! Con cháu đi chui hầm, đêm mới hiện lên chứ gì. Mày là phụ lão cứu quốc thổi cơm tiếp tế, chúng ông khám mà thấy...
Trong buồng, Soan rón rén mở vách - trước nay cái vách vẫn mở sẵn đề phòng khi chạy tháo, Soan chui ra vườn. Soan chạy một mạch về làng Trường.
Thôn xóm ê chề phải chịu luôn mấy trận càn lăn đi lăn lại, cả vùng. Làng nọ đứng cạnh đồng trông thấy làng kia mà không ai dám qua. Bà Cam không dám đi gọi con dâu. Soan thì ở lỳ nhà mẹ. Bà Cam khóc ngày khóc đêm, lúc chửi thằng Tây, lúc chửi đàn gà hay bới, lúc chửi con dâu, lúc gọi: “ới Triều! Thằng Triều ở đâu không về mà cho cái con trời đánh không chết kia một trận”. Cứ chặp tối lúc mọi người đi tìm chỗ ngủ tránh đạn thì những tiếng lầm rầm chửi lại từ căn nhà vắng tanh vắng ngắt cất lên.
Mẹ chồng nàng dâu, hai người cùng đầy đoạ, làm khổ nhau. Những chuyện nhỏ nhen, lặt vặt không đâu và những giận dỗi, những riếc lác, móc máy.
Lại một năm nữa qua.
Rồi một hôm, đương nghe nhiều tiếng súng dữ dội thì có tin ngừng bắn. Mừng quá, Tây còn ở trên bốt, trên tỉnh mà ai cũng cứ đi tênh tênh ngoài đường.
Mừng quá, Soan bỏ cả cơn dỗi mẹ. Soan ở làng Trường về. Soan quẩy về thúng khoai riềng và một bu hai con gà nhép. Bà Cam lẳng lặng coi như không có chuyện gì cả. Bà đem cho con gà một nắm ngô. Mẹ chồng nàng dâu cùng ăn khoai riềng và nhìn ra cánh đồng. Thật thì cũng chẳng khác lạ, nhưng Soan nói: “Hoà bình có khác, trông cánh đồng cũng khác”. Bà mẹ chồng cười nhăn nheo nói theo đuôi: “Ừ, có khác thật”.
Tối ấy, nhiều nhà ngủ yên ở nhà, người phản nọ chuyện trõ sang phản kia rất khuya. Trong giấc ngủ đêm mịn màng, không gợn tiếng súng. Soan trở mình qua lại và thở dài, gãi ngón chân xuống chiếu. Soan thao thức lại cái hôm Triều đi. Triều đội nón, cầm chiếc sào, lủi thủi giữa cánh đồng kia. Thế mà đã năm, sáu năm rồi. Trong làng, nhiều người đi kháng chiến, rồi cũng lần lượt biết tin. Riêng Triều thì chỉ biết là Triều đi bộ đội, rồi cũng thôi, bằn bặt. Vì thế càng nhớ. Nhưng Soan kín đáo, không bao giờ nói ra. Bà Cam nghe người ta tính: làng ta có bốn anh hy sinh. Có anh thì biệt tích. Có anh về rồi... Anh ấy về rồi, anh kia về rồi, chỉ còn anh Triều chưa có tin. Bà Cam nghĩ: “Phải, còn thằng Triều sắp về”. Nhưng hai mẹ con cùng im lặng, không nói, hồi hộp, lo lắng.
Bà Cam bây giờ tươi tỉnh hơn, song có chuyện gì cũng vẫn kể với mụ Nắp. Nhiều khi bà cũng giận mụ Nắp, nhất là cái năm mụ ấy khấu mất thuyền thóc thì bà Cam bỏ hai ba tháng không sang nhà. Nhưng rồi phai phai đi, vả lại tuần rằm mùng một vẫn sang đèn hương bên điện - bà Cam đội bát hương ở điện đồng Nắp - thế là rồi lại lân la, lại chuyện, thỉnh thoảng lại đứng to nhỏ dưới gốc vối.
- Ra bà lão này gan to, con giai đi bộ đội mà cấm có cho ai biết. Chuyến này thì bà lên xe xuống ngựa rồi. Tôi có phải lên địa chủ thì đừng quên tôi nhé.
Mẹ lại phàn nàn hộ bà Cam:
- Người ta đi đông đi tây về cả, mà sao anh Triều bên ấy chẳng tin tức gì. Hay là vợ Tây, vợ Tầu đâu rồi. Phải, mà những như cái ngữ vợ ở nhà thế thì anh ấy cũng cầm bằng cởi cái áo rách vứt đi chứ tội gì!
Cứ mỗi lần chuyện với mụ Nắp, những câu tai ác của mụ lại thêm chồng chất thật nặng, thật cay trong đầu bà.
Bà Cam vừa quẩy bánh khoai về, mụ Nắp đã sang. Mụ đảo mắt một lượt, rồi rướn cổ, rà rà ngồi xuống, khẽ hỏi:
- Đâu rồi?
Bà Cam chép miệng:
- Biết được người ta đi đâu. Bà ngồi chơi.
Thế là hai bà lão lại ngồi cà kê kể xấu con dâu và mọi chuyện làng xóm khác.
Tháng tám năm sau, đội cải cách về xã, Soan được ra làm cán bộ xóm. Tối đến, chưa dứt tiếng kẻng gọi họp, người các ngõ đã đổ ra. Tíu tít bề bộn những hội ý, họp xóm, họp xã, chẳng mấy lúc Soan có nhà.
Một hôm, Soan về nói với mẹ chồng:
- Từ giờ u đừng sang nhà con Nắp nữa.
- Người ta thế nào mà con nọ con kia, mày ăn nói xô bồ quá.
- Nhà nó thì địa chủ đến nơi, u chưa biết à?
Nghe hai chữ “địa chủ” thì bà Cam im. Phải như mọi khi, nghe Soan nói thế, thể nào là cũng choác lên. Nhưng lúc này bà lặng lặng. Khi Soan lại tất tưởi đi, thì bà lẩm bẩm: “Phải, chưa biết... tôi chưa biết... chị biết nhiều, biết nhiều... Cứ chạy long lên thế thì rồi có khối cái đổ vào mồm, rồi rã họng ra... Nó mà ở nhà thì nó đánh tuốt xương chứ lại coi người nửa con mắt được à”. Không nghe rõ câu, nhưng Soan đã biết tính mẹ chồng hay nói làm bàm sau lưng. Bà lão lại đương chửi mình. Thế là, Soan tối sầm mặt lại. Trong bụng đương tấp nập tính toán việc xóm, bỗng lại lạnh ngắt.
Rồi bà Cam vẫn cứ thì thầm với mụ Nắp. Vẫn cái tính người già ưa trò chuyện và than thở. Làm sao mà mụ Nắp khéo thế, cứ những lúc nhà chỉ có một mình bà Cam, mụ lại dò sang. Mụ vờ hỏi:
- Chị Soan có nhà không?
- Người ta đi đâu, chắc lại đi họp rồi.
- Chẳng biết tôi gọi thế có được không đấy. Bây giờ, bà biết chưa, ai cũng phải gọi chị ấy là bà Soan. Có người xóm trên chào, chị ấy nghe không thủng, chị ấy bắt chào lại. Con dâu bà hách ra lửa đấy.
- Chết, chết...
- Việc gì mà chết, danh giá mới được thế chứ.
- Giá với rổ chẳng thấy đâu, làng nước người ta chửi cho ủng mả đã. Thằng Triều nhà tôi mà ở nhà thì nó đánh cho...
- Này thật đấy, thời đế quốc cũng không khinh người đến thế! Mà bà ạ, tôi nghĩ thế cũng chỉ mang tiếng ác chứ được gì đâu. Từ ngày chị ấy ra công tác, xem chừng càng lỏng tay việc nhà. Một mình bà thì bao giờ mới cấy hết?
Bà Cam thở dài. Quả thật, lúa người ta xanh ngọn rồi mà ruộng mình còn trắng nước. Bà Cam bực, nhưng không nói. Dù sao, từ ngày Soan ra làm công tác, bà Cam cũng nể nể, ngại nói, mà chỉ bực bội ngầm. Đêm bà thở dài, rền rẫm, thườn thượt, buồn rứt. Đi họp khuya về, cũng thường nghe mẹ chồng thở dài. Nhưng Soan cho những chuyện ấy là “lạc hậu”, mẹ chồng là “lạc hậu”. Vì thế, dù có nghe thở dài, chép miệng, Soan cũng chỉ hơi khó chịu, khi nào khó chịu quá thì ra điếm nằm với chị em du kích.
Nhưng, thật thì Soan cũng buồn. Mỗi lần thấy mặt bà Cam chảy chữ nãi, tối như trời mưa, tiếng thở dài rền rẩm, Soan muốn đối đáp ngay, nhưng nghĩ đến xung quanh, thì Soan đành bấm bụng. Có khi Soan khóc một mình. Khối đứa cùng một cảnh làm dâu mà sao chúng nó tốt số. Nàng dâu đi về quá bữa, mẹ chồng mở rá úp mâm cơm bảo ăn. “Chẳng bù với mình, mẹ chồng chưa mở rá úp cơm đã đi nói xấu nàng dâu mười hôm không hết chuyện”. Soan tiếc cái đời con gái ở với mẹ đẻ chẳng bao giờ có thể trở lại được. Có lúc Soan tha thiết nhớ Triều. Giá Triều mà có nhà, thế nào phen này cũng được cùng nhau làm công tác. Bây giờ Soan không như trước nữa rồi. Nhưng tiếc những cái đã qua thì chỉ càng buồn hơn mà thôi.
Buổi trưa ấy, cơn tức của bà vẫn còn nguyên. Thì Soan bỗng ở đâu về. Cơn tức vì sao thì cũng không rõ. Giận đấy, không đấy, vốn như cơm bữa. Bà Cam nghe tiếng con chó sủa nhủng nhẳng nửa quen nửa lạ ngoài đầu ngõ, nhìn ra, trông thấy Soan. Nhưng, cô con dâu cứ vào gần tới đâu thì bà mẹ chồng càng sững sờ. Soan thắt lưng bao da, khẩu súng trường nhấp nhô sau vai. Hôm mới hoà bình, bộ đội ta vào lấy tỉnh, bà Cam đi xem duyệt binh, trông thấy một đội các chị du kích chít khăn vuông, áo nâu mới, đeo súng, cũng oai như thế này. Soan đã vào đến trong sân. Những điều tức giận từ hôm qua, từ lúc nãy của bà Cam cứ phao phảo đâu mất. Soan hạ khẩu súng xuống, “chào u”, thì bà Cam nói một câu hiền lành mọi ngày:
- Về mà ăn cơm.
- Con vội đi bây giờ, con mang lẻ gạo đi đường thổi ăn thôi.
Ô hay! Mấy sào ruộng nước còn chan chan, chưa cắm xuống được một cây mạ gọi là, lại “mang lẻ gạo đi”, nghe cái giọng chỏng lỏn ấy, bà Cam vụt nổi cơn, những toan thốc cho một hồi. Nhưng, ngoài gốc rạ có tiếng lạt sạt, bà nhìn ra thấy cái lão tổng Sa đứng đấy từ lúc nào, hai vai áo xo lên rù rù như con gà ốm. Chánh tổng Sa, nhà ngói bát vần một dãy, ruộng nhà ông chánh rải từ cổng làng rải ra. Là người làng đây, nhưng cả khi còn con gái, bà cũng chưa được tường mặt tổng Sa. Hách dịch sấm sét trong vùng này, bây giờ trông thấy tổng Sa như cái tã rách phơi bờ rào thì bà Cam rất lạ. Bà ngây nhìn. Soan quát:
- Đứng đấy, ai cho mày đi!
- Thưa...
Tổng Sa lúng túng, lập cập, lẩn thẩn quay một vòng rồi lại đứng yên một chỗ.
Bà Cam sợ sệt khẽ hỏi Soan:
- Đem người ta đi đâu bây giờ?
Rồi bà vào vại, xúc một bát gạo, bọc vào khăn vuông cho con dâu. Lát sau, Soan đeo súng lên, bà Cam bần thần theo ra tận ngõ ngoài. Không phải để chửi nguýt, rủa Soan. Mà bà Cam đương nhìn theo sự thật cái đời con người quyền quý chết rồi, mà nàng dâu mình đeo súng đi kia, đích là người ta đã đến thời “được ngồi ghế cao”. Lúc bà trở vào, mụ Nắp đã đứng trong bờ rào. Mụ Nắp hỏi bà:
- Đeo súng đi thế thì bao giờ về?
- Chẳng biết.
- Cũng bận lắm nhỉ? Ruộng nhà bà cấy hết chưa?
Câu nói kháy ấy kéo bà Cam nhớ thửa ruộng làm rồi chưa cấy được, nước vẫn trắng nhởn, khi ấy khắp đồng, lúa nhà người ta đã bén rễ. Nhớ thế, bà Cam lại chán ngắt và khó chịu. Ấy, từng lúc, bà cứ giận, cứ sợ, cứ lạ, cứ mừng, không ra thế nào.
                          *
Các xóm đương bầu người đi đại hội nông dân xã. Hai lần trước, Soan đều trúng đại biểu. Tối ấy, hội nghị xóm đã bầu xong, sắp thông qua, thì có người giơ tay:
- Các đại biểu khác thì tôi đồng ý. Nhưng cái nhà chị Soan thì hồi này tôi thấy ra mặt quan liêu lắm. Đề nghị...
Thế là đâm ngang ra. Nhiều người lúc nãy ngồi họp không để ý, bây giờ cũng đại khái nghĩ: cái Soan ấy ngày trước củ mỉ cù mì, bây giờ ra làm việc, ờ mà có vẻ khác, “hình như” cũng lên mặt đấy. Lại hay vừa đi vừa hát, trông thật toe toét. Trong các cuộc họp, thường có khi không ai có ý kiến thì thôi, nhưng, việc gì cũng vậy, hễ có người ngãng ra thì nhiều người hay hồ đồ mường tượng như thế.
Một người nói:
- Tôi thấy nói có người xóm trên chào, chị ấy không nghe rõ, chị ấy bắt chào lại thật to. À hách ra lửa nhỉ!
Một người nữa giơ tay:
- Mẹ chồng chị ta cũng nói thế.
Lố nhố những cánh tay giơ không bằng lòng Soan đi đại biểu. Soan không cãi lại câu nào được. Lối họp thời cải cách, Soan cũng không được cãi.
Soan cứ bàng hoàng rừn rựt màng tai. Soan ngồi chúi đầu ở đống rơm ngoài sân, ngượng quá, tưởng mọi người đương trông cả vào mặt mình. Kỳ thực cái đèn lù mù trên đầu bàn chủ tịch kia chỉ vun quanh một vũng sáng ở đấy. Hội nghị ngồi thầm, cũng chẳng ai biết ai ngồi cạnh. Soan lủi đi.
“Bà Cam cũng nói thế”. Chính người nhà mình ăn không nói có cho mình, cay quá. Đầu óc nhộn nhạo, Soan loăng quăng đi mà không định đi đâu. Trong trạm gác, mấy chị du kích đương ngồi hát. Không nhận được tiếng ai, nhưng Soan đứng lại trước cái dại nứa. Ánh đèn trong trạm lé ra dưới chân. Soan không dám bước vào. Thình lình có tiếng hỏi ra: “Đồng chí Soan đấy à?”. Soan giật mình rồi không thưa, đi thẳng. Nhưng một lát sau, Soan lại quay lại. Soan trèo vào trong cùng cái giường nứa trong trạm gác, nằm cuộn chiếu tổ sâu một mình. Nhiều chị cùng nằm chơi đợi lượt gác, cười khúc khích. Chị ngồi ngoài ánh đèn quay vào, vờ nói: “Có một đồng chí bộ đội tên là Triều có giấy về phép, đồng chí trưởng xóm có cho người ta đi qua không?”. Thế là cả lũ đấm thùm thụp xuống cuốn chiếu tùm hum. Họ tưởng Soan ngủ, càng trêu tợn. Nhưng Soan không ngủ, nước mắt chảy ướt cả chiếu. Sao quanh ta vui thế, chỉ còn riêng ta khổ. Soan cứ mở chong mắt nằm cho tới lúc gà đã gáy sáng, trống canh ba, trời dần dần loãng, Soan mới chui dậy, lần về nhà.
Đứng dưới mái tranh, Soan nghe trong giường bà Cam trở mình, rên. Mấy hôm nay bà lão giở giời. Soan không động lòng, không thay đổi cái ý định từ nửa đêm qua. Giết nhau đến nước này thì không còn mặt mũi nào. Soan đã quyết định. Soan cũng không nhớ gì đến công tác và chúng bạn nữa. Soan nhất định về làng Trường. Soan vào góc nhà, chỉ lấy một cái quần nái, rồi Soan đi tắt qua cánh đồng.
Về đến bên Trường, trời mới tảng sáng. Như mọi khi, người làng Trường lại đoán cô Soan dỗi mẹ chồng.
                          *
Mấy hôm nay, Soan vẫn ở bên làng Trường.
Khi cơn giận nhạt đi rồi, mỗi buổi chiều nghe tiếng cái kẻng sắt gõ cồồng cồồng gọi họp, Soan lại bồi hồi nhớ các buổi họp. Những tiếng kẻng gọi họp, gọi học, tiếng phát thanh, những khi họp tan đầu xóm, tiếng chân chạy, tiếng đùa đấm nhau, tiếng cười, hát lô lố ngoài đường cái, sao mà thúc đẩy tợn. Mẹ Soan đã đi họp về, tiếng lẹt xẹt mở cánh cửa liếp; bà bước vào, quen miệng, chửi phủ đầu: “Cha đẻ mẹ mày! Rõ cái thân làm tội cái đời!”. Soan ngồi thần mặt, môi cong vều lên, hai hàng nước mắt đổ ra. Mà tủi, mà nhớ, mà cực, bối rối không biết nghĩ thế nào.
Nhưng không thấy bà mẹ chồng sang gọi như mọi khi. Cơn giận thì nguôi rồi, song chẳng nhẽ tự dưng lại lù lù về. Sốt ruột quá, Soan nghĩ: “Hay là cứ về”.
Có người đi tìm lợn giống, tạt đến bảo:
- Bà Cam ốm mấy hôm nay.
Bây giờ thì Soan đã quả quyết. Tuy vậy, cũng phải đợi lúc mặt trời xế hẳn sang bên kia sông, khi Soan qua cánh đồng làng, sương và bóng tối đã lẫn lộn nhọ mặt, những con ếch, con trẫu chàng ngồi trên vũng nước mưa mới dưới gốc rạ đã nhảy ra, kèng kẹc kêu rối cả tai thì cũng vừa lúc ấy, Soan vào đến cổng. Đường vắng. Các nhà đương sắp cơm, cũng chưa đỏ đèn. Soan không gặp ai. Soan mừng thầm.
Soan đi thẳng vào sân. Trong nhà, thoáng ra tiếng rên, tiếng ú ớ nói mê. Mùi cứt gà, mùi rêu mốc bốc lên, càng vắng như nhà hoang, làm cho Soan xót xa, và thấy mình là tệ.
Hình như bà Cam biết có người vào nhà. Bà thì thào hỏi:
- Ai thế?
Soan thưa:
- Con.
Bà lão lặng ắng một lát, rồi lại rên. Soan hỏi:
- U sốt à?
Không có tiếng trả lời. Biết tính bà, Soan không hỏi thêm. Soan xuống bếp thổi đống dấm, nấu cháo.
Hôm sau, Soan đi vờn cỏ sớm.
Đến trưa, trở về, anh em đội công tác biết tin, đã vào đầy nhà.
- Bà mẹ chỉ tham công tiếc việc. Các cụ ai chẳng tham công tiếc việc. Chị phải vừa công tác vừa tranh thủ mà làm.
Nghe nói “phải tranh thủ mà làm”, Soan lại khó chịu. Còn có lúc nào Soan ăn bơ làm biếng, từ khi Soan về nhà chồng. Nhưng, nghĩ cho cùng thì bà Cam đúng là người tham công tiếc việc. Giá Soan đi họp, và vẫn quẩy nước, rút rơm, trưa về đi vờn cỏ, thì mọi việc yên hết. Soan biết tính bà Cam thế, chẳng đợi ai nói mới biết, nhưng Soan hay bướng: chẳng nịnh ai mà phải lăn lưng vào làm cho vừa lòng.
Dù sao thì bây giờ Soan đã nghĩ khác. Phải, Soan chỉ chịu khó một chút thì xong cả. Soan đã vừa làm vừa mê mải công tác. Mỗi ngày, Soan đi vờn cỏ với nhóm đổi công. Cánh đồng mới cấy đã xanh biếc. Lá lúa vừa mọc đuôi, gió thổi vào bắt đầu có tiếng thầm thì.
Bà Cam đã khỏi hẳn. Bà đi làm cỏ với con dâu. Câu chuyện dỗi bõ cũng đã qua. Bà chỉ để ý một điều là ở bên Trường về, nó không mặt bùng mặt phỉu, và dù có bận họp xóm, họp xã cũng không bỏ việc nhà. Chắc ở bên làng Trường người ta cũng rũa cho một trận rồi. Có thế mới nhảo về một mình. Phải, ở đâu bây giờ chẳng có cải cách, người ta chỉ đòn đánh bằng lời nói mà phải ngóc cổ dậy, chứ cứ đắp chiếu nằm vạ mãi được a? Bà Cam yên tâm. Sự thuận hoà lặng lẽ tới với hai người lúc nào, cũng không ai biết.
Một hôm, Soan đi đâu về, thấy một bát hương úp sau gầm giường thờ. Soan hỏi:
- Nhà có bát hương nào thế này?
Bà Cam lúng túng nói:
- Tao vừa sang đem bên điện nhà Nắp về...
Nghe thế, Soan mừng lắm. Bà Cam đã biết cảnh giác phòng mụ Nắp lên địa chủ đã đi lấy bát hương thờ điện về.
Nhưng bà Cam đã nói dối. Thật ra thì vừa lúc chặp tối, mụ Nắp sang nhà bà Cam. Mụ xách cái bát hương đặt xuống nói:
- Nhà tôi sắp sửa thất đức, không được ăn mày lộc thánh nữa, tôi xin đem trả bát hương của các ông các bà.
*
Bấy giờ, tết Nguyên Đán sắp đến. Soan nghe đội nói: “Có thể lấy một số cán bộ xã đi công tác. Sẽ đề nghị trên cho đồng chí Soan đi”. Soan cười: “Cho tôi đi thật nhé”, nhưng bụng Soan thì vừa phân vân, vừa mừng.
Tết nhất lại đến nơi. Những ngày cuối năm đầm ấm, người ở nhà hay nhắc người đi xa. “Anh Triều sắp về chứ! Tết hoà bình thứ hai mà chưa về à? Gan thế...”. Soan cứ nghĩ miên man. Soan tưởng tượng từng cảnh thế này: một hôm, Triều về, Soan sắp đi công tác, tình cờ Triều về. Sao mà anh ấy về khéo thế. Vừa trông thấy nhau, mình giơ tay trước bắt tay anh ả một cái. Cán bộ bắt tay nhau là thường. Nào bắt tay, bắt tay rung lên rung xuống...
Nghĩ đến đây, Soan không dám nghĩ thêm nữa. Trong lòng thì man mác chan hoà, nhưng Soan thấy câu chuyện mơ tưởng có vẻ cứ lạ dần mãi. Có gì đâu, bởi vì Soan nhớ lại năm năm về trước. Khi Triều còn ở nhà, nhiều lần Triều đã nghe mẹ chửi đánh mình. Vả lại, ngày Triều đi cũng là cái ngày Soan phải chồng đánh trận đòn đau. Dù đấy là đánh che mắt thằng Tây, nhưng chỉ vì che mắt thằng Tây mà phải đòn thì cũng là đau lắm. Bây giờ Soan được giác ngộ rồi, lại càng khó chịu. Soan không dám tưởng tượng nữa. Soan lừ mắt, vẻ nghĩ ngợi. “Ừ, để gặp xem thế nào. Xem hắn ta tiến bộ được bao nhiêu rồi”. Làm như Triều thế nào cũng về. Triều đương đi ngoài bờ ao. Những ngày cuối năm, gió bấc thổi hun hút, nằm ổ rơm mà cứ như dội nước vào người. Trằn trọc, lăn đi lăn lại khó ngủ quá. Đêm ngoài điếm tuần, mấy chị du kích cứ quấn chiếu tùm hum, chen nhau, cấu nhau, rúc rích “cậu cậu, anh anh, mình mình”, không nhớ không mong sao được!
Thế rồi, nhớ quá hoá ra thật, buổi sáng hôm ấy, Triều về.
Quần áo và mũ, giầy quân đội. Triều to, cao lềnh khềnh. Gặp người làng, Triều chào. Người làng đứng sững, nhìn đi nhìn lại, rồi mới nhận ra cái mặt, cái cười anh Triều, “cái thằng cu Triều, bà Cam đẻ rơi ở ngoài đồng ruộng triều, đặt tên là thằng Triều”. Cả cánh đồng đương làm chống cuốc chống cào quay về phía xa xa anh bộ đội đương đi vào cổng làng. Có người theo lên tận đường cái nhìn mặt cho được. Có người mau miệng đã báo cho Triều biết Soan đi đào giếng chống hạn dưới đồng sâu, bà Cam đương làm màu khoai đằng kia.
Triều tạt lại chỗ mẹ đương làm. Triều nhận ngay ra mẹ. Nhưng lạ sao, như người mẹ bé nhỏ hơn trước. Từ nãy Triều thấy cái gì cũng bé nhỏ hơn trước. Cả con đường cái chính xứ, ngày bé chạy đứt hơi chưa hết, bây giờ hình như ngắn ngủn, đi ba bước đã qua.
Triều cởi ba lô và túi để đầu bờ, xuống đặt dây khoai với mẹ. Câu thứ hai muốn hỏi về vợ, nhưng Triều cứ nấn ná. Lát sau, đã đặt xong cả ba luống dây khoai. Hai mẹ con xách cuốc về. Đến nhà bà Cam nói: “Bây giờ thì nhà mày nó cũng về rồi”, Triều mới yên trí.
Bà Cam xuống ao rửa chân. Triều đứng nhìn cái nhà mình, vẫn ba gian như ngày trước. Trận mưa đêm qua làm cho cả mái, vách tối đen, như cái ụ đất.
Soan đứng trong đầu bếp nhìn ra. Tiếng đồn Triều về đã bay ngay ra tận chỗ đào giếng. Soan chợt nhớ một điều là nhà hôm nay không có gì ăn. Hết buổi làm, Soan chạy ra lạch bắt quàng một mẻ cua và bây giờ đã lấp ló nấp đầu bếp. Triều đã vào tới gốc vối. Triều mặc quần áo bộ đội mầu xanh cỏ ấu, người càng cao càng chỉnh tề, đúng như mình thường tưởng thế. Chẳng còn dấu vết đâu cái bộ áo rách tơi, cái nón mê, cái sào nứa, buổi sáng hôm trốn đi. Thế là, bao nhiêu ý nghĩ của Soan không còn cứng cựa như lúc Triều chưa về, Soan thấy mình luống cuống “không thể nào dám bước ra bắt tay anh ả được nữa”. Và, lẳng lặng trước khi Triều vào sân, Soan đã vội xuống bếp, ngồi quay lưng vờ thổi lửa. Mãi đến lúc có nhiều người đến thăm hỏi, Soan mới bước ra.
Triều nói chuyện, chào hỏi tíu tít và Triều làm như chưa trông thấy vợ. Hai người cũng không hỏi nhau.
Lạ thay, Soan có cảm giác rụt rè như tám năm trước, mới về nhà chồng, buổi sáng đầu tiên dậy sớm quét nhà. Mãi cho tới lúc các chị vào rủ đi hội ý buổi chiều, Soan mới trở lại tự nhiên. Họ cười nói như phá, làm cho Soan tỉnh, nhanh nhẹn và thấy lại được mình đương là cán bộ xóm.
- Tối nay cho anh Soan ngủ nhà, không phải ra điếm gác tập trung nhé.
Soan tự ái:
- Nhiệm vụ nào đi nhiệm vụ ấy chứ.
- Thế tối nay không phải ngủ nhà chắc?
Họ đấm nhau, nhộn ra cả ngoài sân.
- Anh Triều này, tối nay phải phê bình con bé tợn vào. Độ này nó lồng hổng lắm.
Triều cứ ngồi cười, vừa thích vừa hơi khó chịu vì câu nói chớt nhả. Một chị nói:
- Cái Soan ở nhà tiến bộ lắm. Cuối tháng này được tỉnh cho đi công tác đấy.
Triều cười, miệng mở rộng, nhưng nhạt không thành tiếng.
Mấy chị nữa vừa đến, đứng ngoài sân hỏi vào:
- Cậu Soan đi họp chứ?
Họ vờ như chưa biết Triều về.
- Sao cứ ngồi thu lu thế kia, nhớ chồng à? ờ kìa, anh Triều mới về đấy à, thế mà chúng em vô ý không biết. Chào anh ạ. Trông anh khác hẳn đi thôi. Chị Soan hôm nay nghỉ họp, hôm nay giời mưa to.
- Phải gió, họp trên hết chứ!
- Cái gì trên, hả cậu Soan?
Thế là lại đấm, đẩy nhau cười. Lát sau, tiếng cười tiếng chân đuổi nhau đã xa ra tận ngõ xóm. Bọn họ đi họp cả rồi. Triều ngồi lại một mình, nghĩ lăng quăng, tự dưng buồn. Vợ mình bây giờ hay nhí nhảnh, hay chớt nhả thế ư? Vóc người Soan có đẫy hơn, nhưng cũng lại phảng phất khô hơn trước. Cái heo héo của tuổi. Năm nay Soan hai mươi nhăm. Cái thì mười tám đôi mươi đã đi qua rồi. Triều lại ra ý tiêng tiếc.
Triều hỏi mẹ:
- Nhà tôi nó sắp đi công tác à?
- Thấy nói thế.
- Công việc ở nhà thế nào?
- Không cho đi thì lại hoá buộc cẳng nó, mà người ta nói. Mày về thì mày bảo, thôi tuỳ các anh các chị, tôi thế nào cũng xuôi.
Thật ra thì bà Cam cũng chẳng ưa cái việc Soan đi công tác. Bà Cam không muốn Soan đi, nhưng cũng không thích Soan ở nhà. Bây giờ có ruộng, đủ ruộng rồi, chẳng còn thiếu đói được nữa. Vả lại, cháu gái nhớn, nó với bà làm cũng được. Thì để cho cô ta bay nhảy. “Còn son rỗi thì cứ bay nhảy đi”. Tuy lâu nay trong nhà êm ả, không có to tiếng, nhưng bà Cam vẫn cánh nánh chuyện mẹ chồng nàng dâu xung khắc, bà cho là “cái số thế, suốt đời thế”. Cho nên, ai hỏi có phải chị Soan sắp đi công tác thì bà chỉ ừ nhạt. Không ai biết bà bằng lòng hay không.
Triều cũng không hiểu sâu được ý mẹ. Nhưng thấy mẹ nói thế thì Triều phát cáu:
- Công tác gì thì cũng phải đầy đủ việc nhà đã. Phụ nữ nước nào chả thế.
Bà Cam không biết nói thế nào với con trai. Bà thì tiếc việc, tham người. Nhưng bà không muốn, mà cũng không thể giữ Soan. Thời buổi giờ khác xưa, chúng nó như người hớn hở đi ra đường, mình là cái người già chân yếu, chỉ biết đứng xó trông theo, mình có bảo chúng nó đi, chúng nó đứng, thì cũng như chuyện. Cho nên bà không nói.
Triều lầm lầm im lặng. Bà mẹ không biết con khó chịu, tưởng như tính nó xưa nay cũng thường lầm lì như thế.
Trời tối, rồi trời khuya dần. Lúc nãy thấy Soan khoác súng đi. Đêm nay ngủ du kích tập trung chăng? Tất nhiên, Triều không hỏi mẹ. Triều lẩn mẩn, sửa soạn chỗ ngủ tinh tươm, cẩn thận. Vẫn ở cái góc buồng đầu bếp có phên che, trên ba mảnh phản gỗ, ngày trước, khi mùa đông tới thì Soan trải ổ lá chuối khô và vợ chồng đắp một cái khố tải. Bây giờ, Triều gạt ổ lá xuống đuôi giường, trải ra phản một mảnh bạt. Cái màn thì Triều căng thẳng như kẻ chỉ, rồi vắt gọn lên. Triều rút trong ba-lô một chiếc gối bông nhỏ bọc vải hoa, cùng mầu với chăn. Túi ni-lông đựng đồ trải răng thì treo trên góc cột.
Mấy thứ xinh xẻo ấy Triều mới sắm. Rồi Triều lấy trong xắc cốt ra một quyển thơ, nằm đọc vẻ tự nhiên ê a. Nhưng thật đầu óc vẩn vơ nhiều nghĩ, nhiều nghe, khiến mắt Triều không thể trông thấy chữ nữa. Mùi lá chuối khô mốc, Triều đoán ít khi Soan ngủ nhà. Có lẽ Soan ngủ ở những điếm canh. Cái cảm tưởng về Soan nằm lang chạ như thế làm cho Triều buồn buồn. Trong khi ấy thì miếng xà phòng ở túi ni-lông của Triều cứ toả mùi thơm êm đềm, ngòn ngọt.
Triều chợt nhớ mình đương nằm ở cái phản ngày trước vẫn góc phản ngày trước. Nhưng mùi xà phòng, cái quyển sách, cái bút... những gì nữa này, những thứ ấy làm cho Triều thấy mình khác trước. Người cũng còn đổi nữa là, nhiều cái đã khác. Triều bỗng để ý đến đôi dép cao-su đen Triều vừa treo lên đầu cột. Triều nghĩ về đôi dép cao-su đen. Trên đã phát giày vải, đôi giày mình đương đi đây.
Triều suy nghĩ lan man về đôi giày, đôi dép trong khi trời dần dần khuya. Những con chuột cống, con cầy hương, lúc này đường đã vắng, chúng ra tìm ăn, chạy lẹt xẹt trên những lốt bùn và lá khô, nghe xung quanh càng lặng, cứ vừa êm đềm lại vừa thao thức. Từa tựa có người đi vào, rồi lại không phải. Chốc chốc, Triều giật mình.
Bỗng ùa đến tiếng chân rậm rịch từ ngoài đầu ngõ. Rồi tiếng cười, tiếng nói ào ạt qua ngoài vách, nghe rõ mồn một.
Triều nhìn lên dui nhà. Ánh đèn và tiếng cười loang loáng qua trên ấy. Triều cảm thấy mình nằm thu lu lẻ loi, lép vế, Triều trở mình quay mặt vào vách, tay nhấc quyển truyện kề giáp vào bóng đèn, như đương mải đọc.
Soan bước vào, rỗ phịch cái súng xuống góc nhà. Triều không quay ra, nhưng hỏi tự nhiên:
- Về đấy à?
Rồi Triều lại nói:
- Để súng thế là không bảo vệ vũ khí. Mà phải cảnh giác, treo súng vào phía trong giường chứ.
Soan làm theo lời Triều, ra cầm khẩu súng trường đặt vào vách trong, rồi cởi bao da lưng đạn, treo luôn lên đấy. Triều vẫn nhìn vào sách, lại hỏi:
- Đi sinh hoạt về à?
- Anh có nhớ cái Pha không?
- Cô Pha hay giấu truyền đơn vào giỏ cua rồi lội cánh đồng đằng chợ vào tỉnh chứ gì.
Soan hớn hở nói:
- Lễ kết nạp trọng thể lắm, anh ạ. Từ thuở bé, giờ em mới thấy cờ búa liềm.
- Cốt ở cái tinh thần chứ cứ gì hình thức. Tinh thần cô Pha thế nào?
- Tinh thần phụ nữ xã ta cao lắm. Cán bộ toàn xã phần nhiều là phụ nữ.
Triều toan nói: “Thôi đi, đừng tự phụ”, nhưng thấy Soan ngồi ghé bên ánh đèn, Soan nhặt quyển sách Triều vừa bỏ xuống. Soan ngắm rồi thong thả đọc từng câu, thì Triều không nói nữa. Từ lúc nãy, Soan như không để ý tới những thay đổi trên cái giường lôi thôi, mà Triều đã mất công bày lại, Soan cứ nhẹ nhàng, nhởn nhơ như không màng tới, Triều đã lạ. Bây giờ thì Triều phục vợ quá. Vì Triều tưởng chỉ có mình bao năm ở doanh trại, mới biết chữ được. Soan vẫn đọc thong thả, rành rọt. Ánh đèn bắt nghiêng lên mặt Soan. Đôi mắt vẫn lừ đừ năm xưa thế ấy. Cái lưng áo cánh nâu chắc nịch bốc nóng rình rịch. Nhưng nhìn thoáng khuôn mặt thì không còn tròn phính như trước. Dưới gò má, quầng một vệt tối, hơi trũng xuống. Nét mặt Soan có nhẹ đi. Sáu năm, bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm đã qua rồi. Triều bồi hồi và Triều âu yếm nói:
- Tắt đèn chứ, khuya đấy.
Soan đứng dậy, đặt cái đèn lên mặt hòm phản. Câu chuyện hai vợ chồng lầm rầm dần dà lặn vào bóng tối. Đêm mùa đông ấy, trời khô, vừa rét lại vừa ấm.
- Anh ở chơi nhà mấy hôm?
- Ngày kia thôi. Này, sắp đi công tác đấy à?
- Ừ.
Trước khi Triều về, mỗi lần Soan tưởng tượng chuyện sắp đi công tác thì đầy đủ lắm: túi vải, ba-lô, bút máy gài túi. Nhưng lúc này, mặc dù vẫn hãnh diện về chuyện này và những điều nghĩ ngợi về lễ kết nạp chị Pha vào Đảng lúc nãy vẫn bổi hổi trong đầu, Soan có thể kể cho Triều nghe bao nhiêu chuyện, thế mà khi đó Soan chỉ “Ừ” một tiếng, Triều nghe thấy vừa hiền, vừa ngoan, trong khi hai vợ chồng nằm nghiêng lại với nhau. Triều nghĩ những ngày mới lấy nhau. Soan nết na, hay làm, Triều thì cục tính, hễ trái ý là chửi, đánh. Cả hôm đi tòng quân, lấy cớ che mặt mọi người để ra hậu phương cho dễ, Triều cũng đánh Soan một trận, nghĩ bây giờ còn ngượng. Soan cũng nhớ lại việc ấy một cách tinh nghịch.
- Anh còn nhớ cái lần anh đánh em rồi anh ra hậu phương. Thế mà nhà đồng Nắp cũng đi báo đồn xuống đòi tiền phạt “nhà có người đi Việt Minh”.
- Mình chỉnh huấn đã kiểm thảo thái độ đối với phụ nữ rồi.
- Không, em không nói anh đánh em đâu. Em kể chuyện nhà Nắp ấy. À anh ở bộ đội có kiểm thảo cả việc đánh em đấy à?
- Ừ.
Chợt nhớ ra một điều vui lắm, Soan rinh rích cười, cười to, nghe giường ngoài bà Cam cựa mình, mới im.
Triều để ý Soan gọi Triều bằng “anh” và xưng “em” rất tự nhiên. Triều thì chẳng dám “mày tao” với Soan như ngày trước, nhưng vẫn lúng túng chưa biết gọi thế nào, nên vẫn chỉ đối đáp trống không, Triều thấy ở Soan một vẻ chững chạc, mà trước kia Triều không hề tưởng tượng ra. Triều lạ và phục, nhưng cũng thấy tưng tức, cảm như mình bị coi thường, dù mới chỉ về nhà một lúc. Triều buông một câu:
- Đi thì ai ở nhà làm?
Soan nói gì về những ở nhà và đi công tác, nhưng Triều không nghe rõ. Sự bực bội và thương yêu cứ lẫn lộn, bối rối, vẩn vơ. Câu chuyện lào xào một lúc rồi im trong tiếng lá chuối sột sạt và tiếng cơn gió đông cứ dạt dào huýt sáo vào cái ống tre trên đầu hồi nhà. Một lúc thật lâu, Triều bảo Soan:
- Ngủ đi.
Nhưng nào ai ngủ được. Chẳng bao lâu, tiếng gà đã nổi lên. Nhìn ra, đêm đã loãng trắng trên khung cửa liếp. Triều quay mặt vào, nhắm mắt. Bỗng khó chịu cái khung cửa liếp làm cho người ta thấy sắp sáng nhanh quá.
Còn tối đất, Soan đã dậy đi bừa. Triều cũng đứng lên, hăm hở ra sân tập thể dục.
Mặt trời lên độ con sào thì Soan về, khoả chân tay ngoài cầu ao rồi vào gác bừa. Triều đương lúi húi với đôi dép râu ở đầu hè.
Triều bảo Soan:
- Xỏ chân thử nào.
Soan đặt chân lên chiếc dép. Triều ngắm, nheo mắt, rút quai, đánh dấu bút chì. Miếng xà phòng và bát nước đã để sẵn. Triều tuốt xà phòng vào quai dép, rồi lần lượt xâu lại.
Đã đoán được việc Triều đương làm, nhưng Soan vẫn cứ hỏi:
- Anh làm gì đấy?
- Cho em đôi dép này... để em đi...
Triều buột miệng một cách cố ý gọi vợ bằng “em”, tiếng nhẹ nhõm, tự nhiên.
- Cho em thì anh lấy gì anh đi?
- Anh đã có giày của trên phát rồi. Rút quai cho ngắn lại vừa chân em, xinh lắm.
Đôi má Soan hây hây cảm động, Soan rất tinh ý. Nghe cách nói, Soan biết đêm qua Triều không muốn cho Soan đi công tác. Nhưng bây giờ Triều đương sửa lại dép cho Soan, thế là Triều bằng lòng rồi. Vừa day tay rút xong được một bên quai dép, Triều ngẩng lên nhìn Soan, và cười.

Thật ra thì Soan chưa đoán hết được nghĩa cái cười ấy của chồng. Thì Soan sẽ đi công tác. Triều đã nghĩ vậy. Nhưng mà Triều cũng đương nghĩ giá lần này mà Soan có mang. Có thể có mang lắm chứ. Triều nhìn đôi má đỏ hồng của Soan và Triều cười. Ừ, Soan có mang thì rồi Soan sẽ ở nhà, Soan đã có con. Cái mong muốn yếu đuối cuối cùng của người chồng chỉ còn âm thầm bám lại.

Soan không biết. Soan cũng hồn nhiên cười chúm chím. Ờ, đi công tác mà có dép thì nhất rồi. Soan cúi buông hai ống quần còn lấm tấm bùn, vẫn xoe lên tận bẹn, từ nãy quên chưa bỏ xuống.

1956

Mực Tàu, Giấy Bản

Vào truyện


Học trò thò lò mũi xanh,
Cầm miếng bánh đúc chạy quanh nhà thầy

(Câu hát trẻ con)
Cả nhà tôi, ai cũng bảo tôi là một đưá trẻ nhút nhát, nhút nhát như con cáy. Động người nào nói đuà một chút cũng đỏ mặt. Hễ đi đến chỗ lạ tôi chỉ đứng thì lì, một ngón tay trỏ đút vào mồm. Thầy tôi nói: "Con trai con đưá mà nhát như mày sẽ chẳng làm nên được đỉnh đùng gì đâu. Phải mạnh dạn mới được." Thuở đó, tôi không lấy những lời ấy là một điều suy nghĩ. Nhưng sau này tôi nghiệm ra cũng đúng. Nhút nhát thành khờ dại; mà khờ dại thì hay sợ hãi, hốt hoảng, không làm được việc gì đến nơi đến chốn.
Thuở đó, thấy nhiều người bảo mình nhát, song chính tôi, tôi vẫn cho là tôi bạo lắm. Tuy tôi chẳng bắt nạt ai, tôi chẳng chơi với một trẻ nào trong xóm, nhưng tôi cũng có thể bắt nạt được lũ ngan, lũ vịt, mấy con chó tí nhau cuả nhà tôi. Tôi đá chúng, chúng chỉ biết kêu rồi lảng chạy. Tôi sung sướng, phồng hai lỗ mũi. Và tôi lại doạ được cả em bé tôi. Hễ khi nào tôi ngoặc hai ngón tay vào vành mép, trợn mắt, mồm nói: "ngoaáp oọp . . . ngoaáp oọp" là em bé tôi sợ nhợt mặt, ôm bám lấy u tôi.
Tôi lại có tài nưã. Tôi có tài hát, suốt ngày nghêu ngao. Tôi học được một bài hát cuả anh Nhọ, trước làm tá điền cho nhà tôi, bài hát hay lắm. Tôi thường ra sân sau, đứng giưã đám gà vịt vưà giơ chân, giơ tay vưà hát rằng:
- Bồ cu bồ các; (tôi đá cậu gà ranh mãnh một cái) tha rác lên cây; (tôi đá cô vịt lạch đạch một cái) gió đánh lung lay; (tôi đá anh ngan ngẩn ngơ một cái, và cứ mỗi câu hát thì tôi thưởng cho mỗi anh, mỗi chị một cái đá cho đến hết bài) là ông Cao Tổ. Những người mặt rỗ; là chú Tiêu Hà. Tính toán chẳng ra; là thím Lý Bí. Những người vô ý; là chị Hoắc Quang. Ăn no chạy quàng; là người Tào Tháo. Không quần không áo; là chú Trần Bình. Cái bụng tầy đình; là ông Lưu Bị, . . .
Bọn loài vật ngơ ngác, nhìn mắt bên phải, nhìn mắt bên trái, ra lối như thầm phục tôi lắm. Tôi thấy tôi là giỏi và càng làm bộ tợn. Ngày tháng tôi chỉ lẩn quẩn rong chơi với lũ bạn ngợm như thế.
Một hôm đương cao hứng giở các thứ giọng ra hát cho các bạn gà, bạn chó nghe ở đàng sân sau, thì thầy tôi gọi tôi vào trong nhà. Thầy tôi bảo:
- Mày hư lắm. Cả ngày chỉ hát với hỏng. Từ giờ phải ăn mặc cho tề chỉnh, cử chỉ cho đứng đắn, để sáng ngày kia, tao cho sang thầy đồ Biền, bên xóm Giếng, mà ăn mày lấy đôi ba chữ thánh hiền.
Đứng đắn? tề chỉnh? Tôi biết đứng đắn, tề chỉnh như thế nào? Xóm Giếng? thầy đồ Biền? Toàn những nơi lạ, những người lạ. Chữ thánh hiền ? Thế nghiã là tôi sắp phải đi học đây, đi học như bọn thằng Sinh, thằng Má ở trong xóm. Tay cầm quyển sách bià đen, đầu thì cạo trắng hếu và thường có những vết son đỏ hay vết mực đen cứ nắm đuôi áo nhau, giả cách làm ô-tô, chạy toe toe ngoài đường. Cũng vui lắm !
Nhưng tôi chưa biết công việc học hành. Học hành gì ? Học hành ra làm sao ? Thấy thầy tôi đóng sách, sắm sưả bút nghiên, tôi thêm nghĩ ngợi bâng khuâng, và tôi cũng lo lắm. Chao ôi ! cái gì mà lại đi học với đi hành !

Chương 2

BUỔI HỌC ĐẦU TIÊN


- Ngồi xuống đây.
Tôi rón rén ngồi xuống mép phản.
- Mở sách ra. Bắt đầu từ bên tay trái, sách này là sách Tam tự kinh nghe chưa ?
Tôi mở sách ra, bắt đầu từ bên tay trái và cũng biết rằng sách này là sách Tam tự kinh .
- Học đi. Đọc theo nhé, tam tự kinh là sách ba chữ.
-Tam tự kinh là sách ba chữ.
Và tôi đọc thêm mấy lượt giống nhau.
- Nhân chi sơ là người chưng xưa. Phải chỉ tay vào từng chữ một thế này.
- Nhân chi sơ là người chưng xưa ..
- Tính bản thiện là tính vốn lành. Học thuộc từng câu rồi học cả ba câu làm một. Hôm nay được học cộc giọng thế nhưng từ mai phải bắt chước các anh em mà học cao giọng trầm bổng cho có mạch lạc nghe chưa ? Nhân chi sơ . . . là người chưng xưa a...y...a...
Thầy cứ hay hỏi nghe chưa; bao giờ tôi chẳng nghe ! Nhưng tôi không biết học lên giọng cao thấp mà chỉ học ti tỉ. Tôi ngượng lắm, cứ dán mắt xuống mặt chữ, chứ không thể dám ngẩn đầu lên. Và tôi nghĩ có một điều tức cười.
Là ở nhà, nhiều khi ngoài bài hát "bồ cu bồ các" tôi vẫn hát một bài nưã, ấy là cái bài "tam tự kinh" này. Tôi thường hát rằng: "Tam tự kinh là rình cơm nguội, nhân chi sơ là sờ vú mẹ, tính bản thiện là miệng muốn ăn".
Tuy có khác bài học bây giờ đôi chút nhưng về toàn thể, đại khái cũng vậy. Tưởng là nghêu ngao đuà chơi, ai hay lại là bài học quan trọng. Bài học đó, cũng cuả anh Nhọ dạy tôi. Biết thế, năm ngoái tôi cứ cố bảo anh ấy dạy cho lấy một ít nưã, bây giờ chắc đã thành học giỏi lắm rồi cũng không biết chừng. Có người nói rằng đi học thì học: nhân chi sơ, nhân chi sơ, mà tôi cứ tưởng là chuyện đuà, không tin hẳn, mình dại thật.
Tôi ngồi cù rù, trỏ tay vào từng chữ một mà học thong thả. Thầy đồ chỉ bảo tôi có một lần, rôì còn bận tíu về bao nhiêu học trò khác, có lúc họ xúm xít túi bụi cả ở chung quanh thầy. Thầy nghe anh này đọc, anh kia kể. Thầy viết phóng, thầy giảng nghiã, việc cứ vội úi lên. Thầy quát tháo, thầy đập roi mây đèn đẹt xuống mặt phản. Có lúc cái kính trắng cuả thầy tụt xuống tận lưng chừng mũi.
Cả lũ học trò học à à như tiếng một đàn ruồi bay. Anh này cố gân cổ lên để gào to hơn anh khác. Tất cả bọn đua và ganh nhau như thế ! Đến vỡ nhà thầy đồ ra mất ! Trước tôi cũng chỉ học khe khẽ, mồm đọc vưà đủ cho tai nghe. Sau tôi thấy tai tôi chẳng nghe thấy tiếng nào cuả tôi hết, tôi đọc to nưã. Cũng chỉ lọt vào tai những tiếng ê a cuả các anh bên cạnh. Tức mình, tôi cũng gào to tướng. Nhưng cũng vẫn kém họ và chỉ được một lúc, tôi đã khô rát cả cổ. Tôi nghĩ giá các cụ trong dân mà mở cuộc thi hét thì hẳn học trò ở đây phải chiếm được giải nhất.
Tuy chỉ nhai có ba câu, tôi cũng phải học mãi mới thuộc (dù thuộc nhưng cũng chưa nhận được mặt chữ !), nên khi tất cả học trò đã lục tục về gần hết tôi mới được về. Ở đây có lệ hễ ai thuộc bài trước, kể cho thầy nghe gọn gàng, thì được cắp sách về trước, không hạn giờ giấc chi cả.
Tôi về một mình, bởi vì buổi mới, tôi chưa quen ai; vả lại do tính nhút nhát, bẽn lẽn, sợ sệt cuả tôi, tôi không dám bạo dạn làm quen trước với ai bao giờ.
Đi được một quãng, đã ra khỏi xóm. Qua một cánh đồng nhỏ thì tới xóm tôi. Ở một cái quán gạch ven đường, cạnh một cái ao lớn, có một lũ học trò đương đùa nhau, reo hò ầm ĩ. Hình như trông thấy tôi đi tới, có mấy đưá reo:
- Nó đây rồi anh em ơi !
Cả bọn ngừng cuộc chơi, lên ngồi sắp thành dãy ở bãi cỏ, trước cưả quán .
Hơi chột dạ, tôi nghĩ thầm trong bụng: "Chúng nó rủ nhau đánh mình chắc ?" Nhưng tôi vội xoá ngay đi:" Không có lẽ. Mình mới đi học, có thù hằn với anh nào bao giờ !" Nhưng sao chúng lại nhìn tôi bằng những cặp mắt gườm gườm thế kia ? Hai ống chân tôi bắt đầu run run. Bỗng từ trong đám nhảy ra một thằng. Thằng Má, nhà ở cuối xóm tôi, nó dang hai tay, chắn đường tôi và bảo:
- Cang ! Đứng lại tao hỏi.
- Dạ . . . Anh hỏi gì? . . .
Nước mắt tôi đã chạy vòng quanh mi.
- Tao hỏi tội mày .
- Dạ . . .
Mắt tôi rưng rưng.
- Cớ làm sao mỗi khi chúng tao đi qua nhà mày, mày cứ chế báng chúng tao. Mày hát nhân chi sơ cái gị Tội cuả mày đáng tội chết. Hôm nay chúng ông cho mày một trận.
Chân tay tôi run bắn. Nước mắt đã tràn xuống má. Chúng nhao nhao:
- Lột khăn nó rao ! Trói nó vào cột cầu !
- Lột quần, lột áo ! Cho nó cởi truồng.
- Anh em ơi ! Ta đánh nó một trận thích tay rồi ném nó xuống ao.
- Hát xỏ chúng ông à ? Beng cổ !
- Chém đầu ngay tắp lự.
Hồn viá tôi bạt mất. Thì ra trước kia tôi đã chơi dại mà tôi không biết. Những hôm xưa, hễ thấy bọn học trò trường ông đồ Biển đi ngang qua ngõ là tôi đứng thập thò trong cổng, hát bô bô cái bài hát nhân chi sơ. Tưởng là đuà chơi, và tưởng rằng mình đã có lũ bạn gà, bạn vịt thì chẳng bao giờ phải bước chân ra cưả ngõ, để đi đánh bạn với ai. Té ra bây giờ chúng nó hỏi tội.
Tôi phải đứng hai tay lên cho chúng khám. Tuy doạ dẫm thế, nhưng cũng không đưá nào dám lột khăn tôi. Nước mắt tràn đầy mặt mà tôi không được khóc lên thành tiếng. Bởi vì có thằng lăm lăm giơ một hòn gạch củ đậu trước miệng tôi, doạ rằng hễ tôi thút thít là nó "tương" ngay vào tận cuống họng. Thốt nhiên chúng reo ầm lên:
- Anh em ơi ! Nó có năm xu ở dãi rút.
Thế là một đưá cứ việc dứt dải rút tôi, lấy đồng năm xu, rồi cả bọn ồ nhau chạy mất. Chúng cũng quên đánh và ném tôi xuống ao. Thoáng nghe có một đứa vưà chạy vưà nói:
- Đi mua kẹo vừng chia nhau.
Một mình tôi đứng cởi truồng ra ở giữa đường .
. . . Với cái quần tụt xuống thành hai vòng ở hai bên chân.

Chương 3

ANH TRƯỞNG TRÀNG


Có năm xu cuả thầy tôi cho để ăn quà dần trong mấy hôm, chúng nó đã bắt nạt tôi lấy mất. Tôi đi về, một tay ôm sách, còn một tay ôm quần .
Nghĩ tấm tức cả đêm. Tuy sợ chúng lắm, nhưng sáng hôm sau tôi vẫn phải cặp sách đi học. Và đã khá liều lĩnh, tôi đút vào trong mép sách một chiếc đuã, vót nhọn hai đầu, thành một cái dùi rất sắc. Tôi quyết can đảm một phen nếu chúng còn trêu tôi. Coi chừng cả nút ! mỗi đứa ăn một dùi cuả "ông" là bỏ đời.
Nhưng đi sang đến trường học thì bao nhiêu tính liều lĩnh tôi đã nuôi được từ nhà đều biến sạch. Tôi lại sợ,ừ - tôi có một cái dùi; song ngộ cả cái bọn ngót một chục đứa thù cuả tôi, mỗi đưá cũng có một cái dùi thì sao ! Mỗi đưá sẽ chỉ cho tôi nưả nhát thì còn gì là tôi !
Tôi đâm ra sợ cả cái dùi cuả tôi. Ngần ngừ một lát, tôi rút dùi, vứt tõm xuống ao.
Thầy đồ chưa ra dạy. Học trò mỗi anh làm một việc, anh quét nhà, anh đun nước, anh mài son, anh đứng xúm lại nói chuyện. Những đưá hôm qua bắt nạt tôi đã đến. Chúng nhìn tôi rồi nháy nhau, cười khúc khích. Tôi đỏ mặt, im lặng cúi xuống mở sách ra học lại những câu đã học hôm qua.
- Anh Lại phú Cang .
- Dạ .
Tôi giật mình ngẩng đầu lên. Lại sắp sinh sự gì đây chắc ? Một anh lớn hơn tôi độ ba bốn tuổi, trạc mười lăm, mười bốn gọi và lừ lừ tiến đến bên tôi. Hắn nói dõng dạc :
- Tôi là trưởng tràng. Trưởng tràng là người đứng trùm tất cả các anh. Sau thầy thì đến tôi. Tôi dạy các anh tập viết, tập đọc, tập kể nghiã để đỡ mệt cho thầy. Tôi nghe nói hôm qua bọn thằng Má, thằng Sinh đánh anh phải không ?
- Dạ, thưa anh, chúng nó định lột quần, lột áo em. Chúng nó lấy mất cuả em năm xu.
- Những thằng láo thật. Chúng nó cậy ma cũ bắt nạt ma mới đấy, nhưng thôi, từ giờ sẽ không đưá nàm dám o oe gì với anh nưã. Đã có tôi.
Tôi sung sướng cảm động :
- Vâng .
- Tôi làm chức trưởng tràng, nghiã là chức tôi to lắm, khó nhọc lắm, mà tôi lại phải che chở cho anh khỏi chúng nó đánh, như thế, riêng với anh, anh phải chiụ ơn tôi rất nhiều.
- Vâng, em biết ạ.
- Tốt lắm. Thế thì tôi bảo anh điều này.
- MỖi tháng anh phải đóng cho tôi ba xu. Ba xu là vào ba việc. Chức trưởng tràng cuả tôi một xu. Công tôi phải bảo anh học, một xu. Một xu nưã thì vào cái tiền tôi che chở cho anh. Anh nghe rõ chưa ?
Tôi còn ngần ngừ chưa biết trả lời sao, hắn đã nói tiếp :
- Tôi phải nói rõ để anh biết rằng trong tất cả lớp này, mỗi tháng ai cũng phải góp cho tôi hai xu. Không phải riêng gì mình anh. Anh chỉ phải nặng hơn họ một xu. Mất có mỗi một xu mà khỏi bị chúng nó đánh, chúng nó lột, là còn rẻ chán. Anh đã hiểu như thế chưa ?
Tôi ngẩn ngơ, làm bộ như chẳng hiểu gì hết, thì hắn lại truyền cho tôi một cái lệnh rất chắc chắn :
- Sáng mai anh phải nộp ngay cho tôi ba xu .
- Thưa anh, nhưng . . .
Hắn xẵng giọng :
- Nhưng gì ? Tôi hỏi thật anh muốn hay không muốn thế ? Chỉ nói cho "đây" biết một tiếng thôi .
Không dám ngần ngừ gì nưã, tôi buông luôn một câu :
- Vâng .
Hắn nhe răng ra cười hì hì. Và lại xoa cái núm hoa roi cuả tôi :
- Có thế chứ. Tốt. Tốt lắm. Mai nhé !
Tôi hậm hực mà vâng lời. Sánh hôm sau tôi phải đem "cống" hắn đủ cả ba xu - để hắn chi tiêu vào những ba việc !
Nhưng cũng nhờ thế, từ đấy tôi được yên dạ mà học hành. Lũ "đầu trâu mặt ngưạ" kia không dám đụng chạm, hạnh hoẹ gì tôi nưã. Coi ra các cu cậu sợ anh trưởng tràng cuả tôi lắm. Chẳng biết sợ về những nỗi gì nhưng cứ cái sự hắn lớn hơn, cao hơn, khoẻ hơn cùng đủ kinh rồi !
Mỗi ngày tôi chỉ phải đi học buổi sáng. Buổi chiều ở nhà học bài. Tôi học rộn cả nhà. Và cả nhà tôi, ai cũng có ý vưà sợ vưà quý tôi hơn trước. Tôi đã đi học rồi mà ! Thỉnh thoảng những người quen thuộc đến nhà tôi chơi thường hỏi :
- Cậu cả Canh học được mất thúng chữ rồi ?
Cậu cả ? Ấy đấy, nhờ có sự đi học mà tôi được lên chức to đến thế. Còn hỏi học được mấy thúng chữ, thì nào tôi biết làm sao được mấy thúng ! Nhưng u tôi đã vui vẻ trả lời người ta :
- Cháu nó đã được độ ba mẹt rồi đấy .
À ra tôi đã học được độ ba mẹt chữ. U tôi biết cả. Tài thực, và từ hôm đó, hễ ai hỏi tôi đã học được bao nhiêu chữ, tôi cứ liệu mà nói nhân dần hai cái mẹt chữ cuả tôi lên .
- Cháu đã học được ba mẹt ạ !
- Cháu đã học được bốn mẹt rưỡi ạ !
Ai cũng cười, tôi cũng cười nốt, hai má tôi bừng đỏ lên tận tai. Bỡi vì tôi chắc rằng họ cười để khen mình học giỏi.
 

Chương 4

VÀI CÁCH PHẠT


Chỉ được mươi hôm học mỗi buổi vài chữ khiến tôi thấy sự đi học không khó khăn gì. Nhếu nháo mấy chữ, chỉ một loáng mắt đã thuộc làu. Dễ chiụ quá !
Nhưng dần dần thầy đồ bắt tôi học mỗi ngày thêm nhiều chữ. Thầy bảo cho một lần. Bận sau, hễ quên thì hỏi anh trưởng tràng. Không khó khăn mấy đối với tôi, anh đã là chỗ tình thân.
Có những buổi tôi phải học nhiều chữ quá, rối cả ruột và nặng cả đầu mà vẫn chưa thuộc. Cơ chừng lắm chữ to quá, đè trĩu đầy tôi xuống.
Lại thêm anh trưởng tràng bảo tôi :
- Xem chừng anh này học đã chối chữ ra rồi đây, học thế đã mùi gì. Còn bao nhiêu sách khác khó hơn sách Tam tự kinh nhiều. Kia kià . . . (hắn chỉ tay lên cái quang đựng sách, treo lủng lẳng ở góc nhà) sách Ngũ ngôn thi, sách Minh tâm, sách Tân thư này . . . Sách Đại học, sách Luận ngữ, sách Kinh thi, sách Trung dung ... Sách gì, sách gì nưã này ... Vô lủng các thứ sách, còn là học mượt người.
Tôi tưởng như anh ta nói doạ. Nhưng nghe nhiều tên các thứ sách gớm ghê như thế, tôi cũng choáng óc, và tôi đã thấy sờ sợ.
Thế rồi tôi sợ thật, lần này không phải sợ bạn, mà là sợ học. Càng ngày càng phải học từng cột dài. Đầu tôi bé thế này, đựng làm sao cho hết.
Một hôm, tôi đọc một bài ngắc ngứ mãi, thầy đồ Biền đã quắc mắt, tôi tưởng phen này đến phải đòn. Nhưng may rồi tôi cũng ầm ừ đọc được trôi. Khi tôi cầm sách trở về chỗ, anh trưởng tràng đến nói nhỏ :
- Anh có sợ không thuộc bài mà phải đòn không ?
- Em sợ lắm .
- Anh có muốn không phải học bài không ?
Tôi trợn mắt :
- Không học bài ? Thầy đánh cho tuốt xương chứ lỵ !
- Ấy thế mà tôi có cách.
- Anh bảo em nhá ?
- Chưa học được ba chữ ranh mà đã học cái tính lười, nhưng tớ cũng không khoảnh, tớ bảo cho mà biết cái cách không phải học bài Mai đằng ấy cứ không học bài; thầy không cho đằng ấy ăn roi mây đâu, thầy sẽ bắt quét nhà luôn ba hôm.
Tôi nghe ra cũng lý thú. Phải, phải rồi, hàng ngày vẫn có những anh học trò phải làm các việc linh tinh, mài son quét nhà, quét sân, nhổ cỏ, đun nước. Những quân đó đều tuyển ở các đám đánh nhau, chửi nhau hoặc những anh không thuộc bài. Nếu mình không thuộc bài, mình cũng phải đăng tên vào đội binh ấy. Thầy đồ chẳng đánh một roi, bởi vì hôm nào chẳng phải cần lấy mấy anh để làm những việc vặt vãnh như thế.
Có người dạy cho tôi biết cách để lười, tôi lười ngay. Ở nhà, mới học qua loa vài chữ đã thấy ngáp rốn mấy cái, chảy cả nước mắt, tôi vội gấp sách lại, rông ra vườn chơi. Hôm sau, mang sách lên đọc cho thầy đồ nghe, tôi khoanh tay đứng ỳ trước mặt thầy.
Lườm tôi một cái, rồi quả nhiên thầy truyền :
- Không thuộc bài ! Ba hôm mài son.
Tôi giả cách tiu nghỉu nét mặt, buồn bã mang sách về ngồi phản nhưng trong bụng tôi cảm ơn ngầm anh trưởng tràng lắm lắm. Mỗi tháng mất ba xu cũng phải.
Hôm sau, hôm sau, và hôm sau nưã tôi không phải quan tâm đến sách, đến but. Tới nhà thầy, tôi chỉ việc đem cái nghiên son, ra vại lấy nước, rồi để nó ở một đầu hè, tôi vào gầm bàn mang ra một cục son to bằng cái chén tống, mài kỳ cạch cho tới khi nước sánh lại một màu đỏ tươi mới thôi. Thầy dùng son để phê, để chấm sách cho học trò. Còn tôi dùng son để bôi đầy cả vào quần, vào áo, vào đầu cho ra vẻ ta đây là học trò. Mài son xong, tôi theo các bạn cùng các bạn ra vườn nhổ cỏ và xới đất để gieo hạt cải. Tiếng là thế nhưng chúng tôi ra vườn chỉ để đuà. Anh này đổ nước đúc dế mèn, anh thì nhổ cỏ ấu, lấy của nó đem về cho u ngâm nước giải vào rượu làm thuốc hậu sản. Tính tôi nhút nhát, không ưa sự đánh bạn; tôi ngồi thơ thẩn một góc vườn, vưà vờ vịt nhổ cỏ, vưà bắt châu chấu để chốc nưã đem về tặng các anh gà. Và miệng tôi khe khẽ hát cái bài Bồ cu bồ các ... rất hay cuả tôi.
Đến bưã thứ tư, tôi lại không thuộc bàị quen cái tính lười mất rồi. Nhưng bưã nay tôi không được cái may mắn thầy bắt phạt đi mài son. Thầy bảo tôi :
- À thằng nỡm này quen thân lười. Phải trị cho nó một mẻ, chúng bay đâu ?
Câu gọi ấy là một hiệu lệnh cuả thầy. Trong đám học trò đương học nhao nhao, có mấy tiếng "dạ, dạ" rồi nhanh như cắt, hai ba đưá chạy ra vật tôi ngã khuỵu xuống đất. Tôi nằm sấp, một đưá tóm đầu, hai đưá túm hai tay và hai đưá giữ hai chân, rút chiếc roi mây trên vách, chậm chạp từng roi một, thầy vút cho to6i đúng mười lăn roi lên hai bên mông. Tôi đau quặn người, kêu váng cả lên.
Tôi về chỗ ngồi, khóc sướt mướt suốt buổi. Ra về, anh trưởng tràng chế tôi :
- Chết chưa ? Con ơi ! Quen mui thấy mùi làm mãi.
- Tại anh làm em phải đòn.
- Tại tớ à ? Dễ nghe nhỉ ? Sao đằng ấy không bảo là tại đàng ấy lười có đúng hơn không ?
Tôi im chẳng dám nói gì. Anh ta lại cười, nói tiếp :
- Nhưng mà tớ bảo hễ đằng ấy gan, có giỏi mai lại cứ không thuộc bài, thầy sẽ không đánh nưã, mà thầy bảo rằng đằng ấy lười quá, thầy bắt phạt quay tơ một tháng.
To6i không dám tin. Nhưng khốn khổ cho tôi, dù hôm ấy về, tôi học bài suốt cả buổi, sánh hôm sau tôi vẫn không thuộc bài như thường, bởi vì đứng trước mặt thầy đồ tôi run bắn người lên, chữ nghiã bay dâu mất hết. Tôi chỉ còn nhớ những roi đòn cuả thầy đánh tôi sáng hôm qua, mỗi lằn thành những con trạch tím bầm, đầy cả hai bên mông, thành thử tôi chỉ đứng đờ ra, mặt xám lại dần, hai mắt chớp chớp, nháy nháy đảo điên. Chao ôi ! tôi đành đợi ... mười lăm roi nưã vậy, nhưng thầy đồ lại bảo tôi :
- Óc thằng này dễ thường đặc như óc chó. Chó nó còn thông minh hơn mày. Tao phải phạt cho mày hai mươi hôm ngồi quay tơ mới được. Chúng bay đâu ?
Một anh chạy đến, lôi tôi xuống dưới nhà. Tôi không vào nhà này bao giờ, bởi vì là nhà riêng cuả thầy. Bước vào, tôi thấy bà đồ đương ngồi quay tơ với bốn đưá trẻ nưã, cũng trạc tuổi tôi. Và chắc chắn cũng là những học trò không được chăm chỉ lắm cuả thầy đồ Biền ! Họ bày thêm ra cho tôi một cái lồng tơ và bắt tôi ngồi quay. Cái anh dẫn tôi vào đây truyền lệnh cho tôi :
- Từ mai cho đến hết hai mươi hôm, lúc nào anh đến học là phải xuống đây quay tơ, không được thò đầu ra ngoài.
Thế là tôi đi học chữ để biết cách quay tơ. Mà tôi lại thích như vậy, bỡi vì cứ không phải đọc bài là tôi mừng rơn. Quay tơ được mấy hôm thì tôi thấy rõ ràng nhà thầy đồ tôi nghèo, bà đồ tôi đi quay tơ mướn cho người ta. Có lũ học trò lười lĩnh, bà chạy tay thêm được nhiều việc lắm.
Nhà tôi cũng dệt luạ, cũng quay tơ nhưng tôi không phải mó đến những việc ấy bao giờ. Lúc chưa đi học, tôi chưa biết quay, phải quay có mươi hôm, tôi đã thạo lắm. Nhiều khi tôi cầm thử ống quay tơ ở nhà, u tôi đã ngạc nhiên hỏi :
- Quái, ai dạy mày quay tơ ở đâu mà thạo thế ? Mày đi học hay đi quay tơ hử ?
Nào ai biết được tôi đi học hay đi quay tơ !

Chương 5

NÓ PHẢI TRẢ THUẾ TAO BẰNG "ĐẤM"


Dần dần, tôi làm quen được một anh bạn tên là Kham, cùng bằng tuổi tôi, anh em tương đắc lắm. Vừa quay tơ, vừa nói chuyện với nhau suốt một buổi. Tôi phàn nàn với bạn rằng hôm tôi mới nhập môn, bị bọn thằng Má, thằng Sinh đón đường định đánh và lấy mất năm xu.
Kham bảo tôi:
- Anh dại quá, cứ đánh bừa đi chứ. Chúng nó cậy đông thì ta chạy về mách thầy. Thầy ghét học trò đánh nhau lắm.
- Hoài của, thế mà tôi không biết. Rồi sau nhờ có anh trưởng tràng, anh ấy ...
- Trưởng tràng là anh nào ?
- Ồ anh không biết hả ? Cái anh lớn nhất, mắt hơi toen toét, ngồi bên cạnh thầy ấy mà ?
- Cái thằng để đầu bờm ấy phỏng ?
- Phải.
- Nó là thằng Mực, trưởng tràng, trưởng trùng gì. Nó lớn mà học trước nên được ngồi cạnh thầy, vì nó giúp đỡ nên thầy cũng yêu nó một tị. Thằng ấy là chúa hay bắt nạt, chúng tớ vẫn gọi nó là thằng chó đen.
- Thế mà anh ấy tốt với tôi lắm, anh ấy bênh tôi. Tụi thằng Má sợ anh như sợ cọp, không dám ậm oẹ bắt nạt mình nữa.
- Đằng ấy nói lạ ! Thằng Chó đen mà tử tế à ! Nó là thánh ăn dỗ, thánh nói loè. Thôi đích nó ăn dỗ của đằng ấy cái gì rồi ! Tớ nói quyết thế.
- Ăn dỗ ?
- Như là ăn dỗ tiền, ăn dỗ quà chẳng hạn. Có đúng không ?
- Không . Nhưng mà tôi chỉ phải đóng tiền thôi.
- Ấy đấy ! tiền gì nào ?
- Tiền hàng tháng, mỗi tháng ba xu. Một xu vào chức trưởng tràng, một xu công anh ấy dạy học, một xu tiền che chở.
- Hi hi ! Đằng ấy mắc bợm già rồi. Đã đóng được mấy tháng ?
- Mới có một, sắp tới tháng nữa. Thế các đằng ấy không phải đóng hay sao ? Mỗi tháng hai xu mà !
- Chúng tớ à ? Đóng cho nó hai cái đá. Nó loè đằng ấy đấy, từ giờ không đóng nữa, để tiền mà ăn quà. Nó muốn mè nheo gì, mách luôn thầy là cu cậu bị ăn lươn vào lưng ngay.
Tôi táng đảng cả người, ra bấy lâu nay tôi bị cái anh trưởng tràng giả hiệu kia lừa dối cũng bỡi cái tính nhút nhát khốn nạn của tôi. Tôi phải đi tìm ngay thằng Mực - hay cái thằng chó đen cũng thế - để bảo cho nó biết rằng nó đã ăn dỗ của tôi mất ba xu, nó đã "đểu" lắm mà tôi đã khôn người ra rồi. Tan học, tôi vội vã đi tìm Mực. Trông thấy Mực, tôi chưa kịp gì hắn đã hỏi:
- Thế nào ? Mai đóng tiền chứ ?
Nghe giọng hắn oai quá, sự cứng cỏi chốc lát của tôi lại mềm nhũn và biến đi dâu mất ! Tự nhiên, miệng tôi nói ra tuồn tuột:
- Vâng, mai em đóng. Nhưng anh cho em hỏi câu này:
- Hỏi gì ?
- Em thấy thằng Kham nói rằng nó không phải đóng tiền tháng cho anh.
Mực quát to:
- A thằng ranh này lại muốn học lối thằng Kham phỏng ? Nó không phải đóng tiền à ? Tại nhà nó nghèo, mỗi ngày chỉ được ăn có một bữa cơm nên tao thương hại, không lấy tiền của nó. Nhưng mày có biết nó phải trả thuế tao thế nào không ? Nó phải trả thuế tao bằng "đấm", băng "đấm" nghe rõ chưa ? Mỗi tháng, ba mươi lăm quả, vừa đấm, vừa thụi, vừa đạp, vừa tát . . . tha hồ. Thế này này . . . (Hắn giơ thẳng cánh ục tôi một ục vào mạng mỡ; tôi méo mặt khóc oà) . . . tao thử cho mày một quả. Mỗi tháng chịu ba mươi lăm quả tống như thế mới bõ công tao, sức mày có chịu nổi không ? Thôi thôi mày đừng có o oe cạy cục mà chết bỏ đời đấy, con ạ !
Tôi khóc hu hu, nó thụi tôi đau quá .
Hôm sau, tôi tường thuật kỹ càng, tất cả cho Kham nghe. Kham lắc đầu:
- Nó nói thế chứ mười nó cũng không dám đụng đến tôi, nhưng mà thế thì nó xử với đằng ất tệ thật. Cũng đừng nên mách thầy, thầy đánh nó rồi nó lại đánh mình cũng thế.
Nghĩ một lúc; Kham lại xua tay:
- Không, không, anh phải mách mới được. Đã làm thì làm cho thẳng cạnh Đến mai, anh đem ba xu lên đưa cho thầy, nói là tiền đóng cho anh Mực. Tất nhiên là thầy sẽ hỏi là tiền gì ? Thì anh nói rõ từ đầu đến đươi cho thầy nghe. Nó sẽ phải đòn. Nếu mà nó đánh anh, tôi sẽ rủ cánh trẻ chăn trâu ở ngoài đồn làng Nghĩa Đô diệt cho nó một trận. Nghe bạn nói tôi lại hăng hái lắm. Tan học, Mực hỏi tiền tôi, tôi trả lời rất nhũn nhặn:
- Thưa anh, anh để cho em đến mai. Hôm nay thầy em đi ăn cỗ, u em đi chợ bán lụa.
Mực bảo:
- Mai không nộp thì chớ chết.
Mai, tôi nộp. Nhưng làm đúng như lời Kham, tôi đem nộp cho thầy đồ. Tôi ngồi nhà dưới quay tơ - bởi vì tôi vẫn phải phạt ! - nhòm ra, đợi lúc Mực đi lăng quăng ra đầu ngõ, tôi chạy tót ngay lên nhà đưa lên cho thầy ba xu. Thầy đồn ngạc nhiên hỏi tiền gì. Tôi thưa:
- Tiền con nộp cho anh trưởng tràng Mực.
Rồi tôi kể rõ từ đầu chí đuôi, thôi tự hôm bọn thằng Má, thằng Sinh lấy của tôi năm xu đi mua kẹo vừng cho thầy nghe. Thầy đồ tức lắm, lặng người. Mực lò dò đi ở ngoài cửa vào, thấy tôi đứng đấy biết là có biến, mặt hắn tái mét. Thầy chìa ba xu của tôi ra cho hắn trông. Hắn càng cuống quít, không biết nói năng làm sao.
Thầy quát: "Chúng bay đâu ?" Một bọn kéo ngay lên, vật oách Mực xuống. Chúng vật thực khoẻ, nghe nặng như cây dừa đổ. Bởi vì đứa nào cũng đã căm tức Mực sẵn. Hắn thường cậy lớn, chỉ hay bắt nạt, tồi lắm. Được có dịp trả thù tự nhiên, ai chẳng muốn. Lúc Mực đã nằm sấp xuống đất, có anh lại thụi ngầm cho hắn một thụi.
Mực bị thầy giáng cho ba mươi roi đòn. Đánh về hai tội: bắt nạt ăn tiền và tự xưng là trưởng tràng. Ngọn roi mây nhịp nhàng đưa lên đưa xuống vun vút. Tôi đứng nghe mà phát rùng mình. Hễ một roi vụt xuống lưng Mực, cái mồm hắn lại méo xệch lên hẳn tận mang tai và khắp người, rung nhỏm lên như một lò xo.
Cả bọn thằng Má, thằng Sinh cũng bị đòn. Mỗi đứa ăn mười lăm con trạch vào đít.
Tôi vừa thích, vừa sợ. Thích vì đã trả được thù mà sợ vì từ đây chúng nó thù mình đến già !
Nhưng thù thì thù, tôi cầ gì ! Tôi đã có anh bạn Kham yêu quí, mà anh bạn Kham của tôi đã có cả một toán trẻ chăn trâu hùng hổ ở đồng làng Nghĩa Đô. Cánh chúng tôi to lắm.

Chương 6

CÁI LỌ ĐỰNG NƯỚC

Sắp hết hạn hai mươi hôm phạt quay tơ, tôi bắt đầu lo. Chữ nghĩa tôi chỉ nhớ mờ mờ. Có cái lồng tơ thì tôi nhớ rõ lắm. Quay lên nó kêu lóc cóc . . . lóc cóc . . . Và tôi chỉ thạo có một lối đánh bẫy chuột, nhà thầy đồ tôi có rất nhiều chuột. Có khi bà ngồi quây tơ mà nó rúc rích ra gặm cả chân. Kham và tôi, mỗi đứa mượn bà một cái bát chiết yêu, để làm hai cái bẫy. Tôi úp bát xuống chỗ đất phẳng, lấy cái que đóm, để dựng một mé bát lên hở thành một cái khe vừa một con chuột nhắt chui lọt. Tôi lấy tơ xe một sợi dây dài một đầu buộc vào lưng cái que, một đầu buộc vào ngón chân cái tôi. Bỏ một mảng cháy cơm hay một mẫu hẹo bột - hoặc bất cứ một vật gì chuột có thể xơi được - để làm mồi, ấy thế là tôi đã có một cái bẫy chuột tươm tất.
Cái bát bẫy để tận trong góc nhà, tôi ngồi cách xa tới bốn sải chân. Các chú chuột dập dìu đến nghe ngóng, xem xét từng ly từng tý. Chúng tưởng như chúng khôn lắm, nhưng rồi thế nào, háu ăn quá, cũng có anh men chân vào cạm. Tôi liếc mắt vào xem các anh làm ăn ra sao. Cái anh chuột đã trông thấy miếng mồi, bước mon men, mon men rất rụt rè, hắn chỉ nhấc chân dịch đi từng một chút. Một mắt trông vào mồi, một mắt trông ra ngoài, xem có người hay có mèo ngó thấy mình không. Cẩn thận lắm, nhưng anh chàng quên không trông lên cái bát úp lừng lững trên đầu. Tôi cứ lờ đi như không biết và không thấy gì, tay tôi càng càng xóc ống tơ cho chạy khoẻ, kêu lóc róc ầm nhà. Anh chuột yên chí chui tọt hẳn vào trong bát, tôi chỉ việc hất một ngón chân cái, kéo căng cái dây, đổ chiếc que đóm là cái bát úp chụp ngay xuống. Anh chuột khờ dại rối rịt, chạy nhặng lên ở trong bát. Mỗi ngày sa bẫy tới ba con là ít; bắt được, tôi đem về nhà tôi cho mèo ăn.
Chơi trò bẫy chuột thích lắm, rất ham. Lắm lúc tôi tưởng thầy tôi cho tôi đến nhà ông đồ để quay tơ và để bắt chuột. Còn việc học hành là việc phụ; muốn thì muốn, không thôi, cũng được - chẳng hề gì. hưng một buổi, Kham tính đốt ngón tay, bảo tôi:
- Ngày kia chúng mình đã phải đọc bài. Tớ học đến ngọc bất trác, bất thành khí rồi. Đằng ấy đến gì ?
- Quên mất, để về thử mở ra xem đã.
Thấy cái sự mở sách ra xem, ra học là một hình phạt nặng nề, khó nhọc làm sao - cái việc đi học. Ai sinh ra chữ nghĩa làm chi, để cho bây giờ tôi khổ thế này !
Một bữa kia tôi vừa thò đầu vào nhà dưới, bà đồ bảo tôi:
- Hôm nay đến lượt anh Cang xách nước.
Tôi "dạ" một tiếng, chạy tót ra sân. Nhà thầy đồ tôi có mỗi một cái vại đựng nước, hễ khi nào cạn, chúng tôi - những "tên" bị phạt - phải thay phiên nhau đi lấy nước đổ cho đầy. Nhà không có thùng quảy, chỉ có một cái lọ, da đỏ như da chum, dài thòng lõng như một quả bầu, đem lọ ấy ra giếng mà lấy nước. Được cái giếng cũng gần, ngay lối đầu xóm, nên cũng không khó nhọc mấy, chừng mười lăm, hai mươi lọ thì đầy vại. Nghĩa là dùng cả một buổi học để xách nước thì vừa.
Tôi xách lọ ra giếng, giếng này lấy nước rất dễ, bỡi vì là giếng đất. Nó là một cái ao, có xây bậc gạch, ở giữa cắm một cành tre, tôi chỉ việc lội xuống nước, vục lọ xuống, lấy được nước ngay.
Tôi vừa đi vừa chúm miệng lại huýt còi, tôi bắt chước con chào-mào đương hót trên cây. Hót tò toe . . . Hót tò toe . . . Vui lắm !
Chỉ một loáng mắt, tôi đã xách được năm lọ. Đã khá mệt, tôi phải ngồi nghỉ dưới bóng mát một cây bàng. Trời cuối mùa hạ, nắng vàng hoe hoe, có gió mát lùa rào rào trong những ngành tre xanh om. Bỗng tôi thấy bóng thằng Mực đi từ trong ngõ đi ra. Tôi đoán: "Hẳn thằng chó đen xin phép thầy cho đi giải rồi chuồn ra ngoài này chơi mát. Ranh thực !"
Tôi xách lọ xuống giếng vục nước, bởi tôi không muốn giáp mặt Mực. Từ hôm phải đòn tuy chưa dám làm gì tôi, nhưng mỗi khi gặp, nó vẫn nhìn tôi bằng cặp mắt gườm gườm rất đáng sợ.
Chiếc lọ đựng nước có cái cổ loe ra, cho nên muốn xách, tôi phải xoạc cẳng; bưng hai tay, và đi lặc lặc như con vịt bầu. Vừa đi lên khỏi bờ được mươi bước, tôi đổ xuống nghỉ để bưng lại. Tay tôi trơn quá, Mực đã đi quá ngang mặt tôi. Hắn nhìn tôi, hai mắt tròn xoe, hắn xuống giếng, lấy hai tay múc nước uống.
Hai tay xách lọ lên, chân tôi bước lạch bạch. Bỗng tôi nghe đằng sau có tiếng vút vút rồi:
- Ẳng ! ẳng ! ẳng !
Hoảng hốt, tôi giật nẩy mình, rụng rời. Thế là:
- Toang !
Thôi vỡ mất lọ nước rồi, tôi rú lên, hai tay ôm mặt. Mực chạy tới. Tôi khóc:
- Mày đánh chó để chó làm cho ông sợ, ông đánh vỡ lọ rồi . . . nào . . .nào nào . . .
Mực múa hai tay, hai chân lên:
- Tình tướm ! I hi hi ! Tình tươm. Mày cầm không vững tay thì vỡ. Con chó nó chạy chứ ông có đánh nó đâu. Chuyến này thì gọi là mày cứ tù mọt gông ! tù mọt gông ! Cả nhà thày có mỗi một cái lọ ! Mà lại cái lọ cổ, rất quý của thầy.
Tôi càng khóc già, Mực hoa cả chân lẫn tay lên mà doạ tôi. Nó lại túm chặt lấy tay tôi:
- Mày chết ! Ông lôi mày vào cho thầy. Đi ! vào . . . vào ngay.
Tôi thun người lại. Trong óc tôi thoáng hiện ra một cái roi mây, một anh học trò mặt mày tái xanh, bị cái gông bằng gỗ lim bọc sắt nặng vô cùng, đeo khư khư vòng quanh cổ. Chao ơi !
Tôi giựt tay thằng Mực, ù té chạy miết.
Bỏ cả sách vở, bút nghiên, từ đấy tôi không dám đến trường thầy đồ Biền nữa ! Tôi lại sợ, không dám gặp cả những học trò của thầy. Tôi sợ chúng nó lôi tôi về giao cho thầy thì tôi đến phải tù mọt gông.

* * * *
Cho tới ngày nay, tôi đã rời quê hương, đã mài mòn đũng quần mười năm trời ở các trường tiểu học, trung học trên Hà Nội, mà tôi vẫn không bao giờ được học hết quyển Tam tự kinh. Tôi hối hận lắm, nhưng còn biết làm thế nào ! Ngày ấy, tôi nhất định không dám đến trường học nữa. Thầy tôi, u tôi, bà tôi dỗ dành, nạt nộ tôi hết cách cũng không được. Sau đành phải thôi.
Và chỉ có mươi hôm, tôi lại mon men ra đằng sân sau, hát cái bài bồ cu, bồ các cho lũ gà, lũ vịt, lũ ngan, lũ chó nghe. Những bộ hạ trung thành của tôi đấy, tôi có thể bắt nạt được chúng dễ như bỡn.
Nhưng quái lạ làm sao, một con ngan cái, cứ nhìn tôi mà kêu kíu kíu rầm rĩ. Vừa kêu, vừa co ra rụt vào cái cổ. Tiếng nó, tôi nghe khác lạ. Phải, rất khác. Dường như con ngan cái nó bảo tôi rằng:
- Kíu kíu ! cậu là một cậu bé rất nhát và rất lười. Kíu kíu ! Hèn lắm ! Nhát lắm !


Tô Hoài

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý (1) Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn.
Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.
Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm người nhà quan thống lý.
Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mỵ đã lớn, Mỵ là con gái đầu lòng. Thống lý đến bảo bố Mỵ:
- Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mỵ bảo bố rằng:
- Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách.
Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mỵ.
Một đêm khuya Mỵ nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hẹn của người yêu. Mỵ hồi hộp lặng lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ. Một ngón đeo nhẫn. Người yêu Mỵ đeo nhẫn ngón tay ấy. Mỵ nhấc tấm ván gỗ. Một bàn tay dắt Mỵ bước ra.
Mỵ vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mỵ rồi bịt mắt cõng Mỵ đi.
Sáng hôm sau, Mỵ mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lý. Họ nhốt Mỵ vào buồng.
Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn nhảy múa.
A Sử đến nhà bố Mỵ.
A Sử nói:
- Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi. Bây giờ tôi đến cho bố biết. Tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi (2).
Rồi A Sử về. Ông lão nhớ câu nói của thống lý dạo trước: cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi.
Có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc.
Một hôm, Mỵ trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mỵ quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mỵ cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mầy về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!
Mỵ chỉ bưng mặt khóc. Mỵ ném nắm lá ngón (một thứ thuốc độc) xuống đất. Nắm lá ngón Mỵ đã đi tìm hái trong rừng. Mỵ vẫn giấu trong áo. Thế là Mỵ không đành lòng chết. Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.
Mỵ lại trở lại nhà thống lý.
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.
Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. ở buồng Mỵ nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi.
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho.
Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những lều quanh nương để sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới.
Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ.
Nhưng trong các làng Mông Đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở mầu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.
"Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu".
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.
Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi Tết.
Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nãy Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
"Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi...".
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mỵ nói.
Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
Trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mỵ rút thêm cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói hai tay Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mỵ đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mỵ vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mỵ không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gõ vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi.
Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mỵ. Mỵ không thể biết.
Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mỵ chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mỵ sợ quá, Mỵ cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau đứt từng mảnh thịt.
Có tiếng xôn xao phía ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. Thống lý Pá Tra xuống ngựa vứt cương cho "thị sống" (một chức việc đi hầu thống lý như người làm mõ thời trước) dắt ngựa vào tàu. Nghe như bọn họ khiêng theo con lợn, hoặc một người phải trói, vừa vứt huỵch xuống đất, cứ thở phò phò.
A Sử chệnh choạng vào buồng. áo rách toạc một mảnh vai. Cái khăn xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống quanh trán. A Sử nằm lăn ra giường. Thống lý Pá Tra bước vào. Theo sau thống lý, một lũ "thống quán" (một chức việc như phó lý) "xéo phải" (như trưởng thôn) và bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống lý.
Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mỵ phải trói đứng trong cột. Nhưng cũng không ai để ý. Họ xúm lại quanh giường A Sử.
Pá Tra, tay vẫn cầm cái roi ngựa, lại từ từ đi ra. Mỵ nhắm mắt lại, không dám nhìn. Mỵ chỉ nghe hình như có tiếng ông thống lý gọi người ra ngoài.
Mỵ hé nhìn ra, thấy chị dâu bước tới. Người chị dâu ấy chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống. Người chị dâu đến cởi trói cho Mỵ. Sợi dây gai bắp chân vừa lỏng ra, Mỵ ngã sụp xuống.
Chị dâu khẽ nói vào tai Mỵ:
- Mỵ! đi hái thuốc cho chồng mày.
Mỵ quên cả đau đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được. Mỵ phải ôm vai chị dâu. Hai người khổ sở dìu nhau bước ra. Vào rừng tìm lá thuốc, Mỵ nghe nói lại, mới biết chuyện A Sử đi chơi bị đánh vỡ đầu.
Nửa đêm qua, A Sử vào làng tìm đến đám tiếng sáo, tiếng khèn. Nhiều chàng trai làng ấy và các làng khác, chơi quay, thổi sáo suốt ngày, chập tối vừa tan xong chầu rượu trong nhà, bây giờ vẫn còn chưa chịu tan về.
Lúc A Sử và chúng bạn kéo đến, không còn ai chơi trong nhà. Nhưng người ra người vào còn dập dìu quanh ngõ.
A Sử đứng ngoài, tức lắm. Nó bàn với lũ khác, dọa đánh bọn trai lạ bám quanh nhà, khiến bọn A Sử bị vướng không thể vào được.
Bọn A Sử ném vào vách. Ông bố trong nhà ra chửi. Vẫn ném. Ông lão vào trong cửa, bắn ra hai phát súng. Thế là tan những đám hẹn.
Nhưng cũng chưa người trai nào vội về. Họ tản vào các nhà quen trong xóm. Đợi sáng mai lại lên sân đánh pao với con gái trong xóm.
Bọn A Sử cũng không chịu để cánh kia yên. Sáng sớm, khi họ vừa ra đầu ngõ, bọn A Sử đã kéo đến gây sự. A Sử đi trước, nạm vòng bạc rủ xuống tua chỉ xanh đỏ, chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo. A Sử hùng hổ bước ra. Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao.
- Lũ phá đám ta hôm qua đây rồi.
- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con quay thẳng vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Người làng nghe tiếng hò hét đổ ra. Bọn trai làng lạ tản hết lên rừng. Mấy người đuổi đón đầu A Phủ.
A Phủ bị bắt sống, trói gô chân tay lại. Vừa lúc thống lý Pá Tra tới. Chúng nó xọc ngang cái gậy, khiêng A Phủ mang về ném xuống giữa nhà thống lý.
Mỵ đi hái được lá thuốc về, thấy trong nhà càng đông hơn lúc nãy. Ngoài sân, dưới gốc đào lại buộc thêm mấy con ngựa lạ.
Mỵ đi cửa sau vào, lé mắt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. Mỵ đoán đấy là A Phủ.
Bọn chức việc cả vùng Hồng Ngài đến nhà thống lý dự đám kiện.
Các lý dịch, quan làng thống quán, xéo phải, đội mũ quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ.
Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Chỉ bọn trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ, vì họ bị gọi sang hầu kiện. Bọn chức việc nằm dài cả bên khay đèn.
Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra. Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến người khác, lại người khác, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện.
Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng và đi bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.
Một loạt người vừa hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi:
- Thằng A Phủ ra đây.
A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ.
A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá...
Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.
Trong buồng bên cạnh, Mỵ cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Lúc nào Mỵ mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mỵ lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mỵ. Mỵ choàng thức, lại nhặt nắm lá thuốc xoa đều đều trên lưng chồng.
Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.
Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người, chẳng biết từ bao giờ, ngủ ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan làng thật tình, các quan làng còn một tiệc ăn cỗ nữa.
Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xòe bày lên mặt tráp, rồi nói:
- Thằng A Phủ kia, mày đánh người thì làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay.
A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.
Con lợn vừa bắt về cho A Phủ thết làng ăn vạ đã kêu eng éc ngoài sân. Đếm tiền rồi, A Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa.
A Phủ đứng lên cầm con dao, chân đau bước tập tễnh, cùng với trai làng ra chọc tiết làm thịt lợn hầu làng.
Trong nhà, thuốc phiện vẫn hút rào rào.
Thế là từ đấy A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. Đi làm hay đi săn cái gì cũng phăng phăng. Không còn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn trở về làm gì bên ấy.
A Phủ cũng không phải người bên ấy. Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp.
A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác. Chẳng bao lâu A Phủ đã lớn, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.
A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng nhiều cô mê. Nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin, mà A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, A Phủ không thể lấy nổi vợ.
Tuy nhiên, đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ. A Phủ cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng.
Vì thế mà sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài.
Một năm kia, phải khi đang đốt rừng. Hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt mất nhiều bò ngựa. Nhà thống lý lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trước cửa, đầy lưng bò đứng chen chân trong cột cửa, và dê, chó, lợn nằm quanh nhà. Ngày nào cũng lũ lượt hàng mấy chục con đi nương ăn. Bây giờ gặp khi rừng đói, mỗi lần bò ngựa đi nương, A Phủ phải ở lại trông.
A Phủ ở lều hàng tháng ngoài nương. Đêm đến, dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ quanh lều.
Mấy ngày A Phủ mê mải đi bẫy dím, không đếm được ngựa. Hôm ấy vào rừng thấy vết chân hổ. A Phủ vội phóng ngựa chạy vờn quanh đàn, dồn chúng quần lại để đếm. A Phủ đếm lại mấy lần. Thiếu một con bò. A Phủ nhào vào rừng, lần theo lốt chân hổ, tìm được con bò đã bị hổ ăn thịt, chỉ còn lại một nửa mình nằm ngay dưới cây thông cụt.
A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: "Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được".
Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi:
- Mất mấy con bò?
A Phủ trả lời tự nhiên:
- Tôi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm.
Pá Tra hất tay, nói:
- Quân ăn cướp mất bò tao. A Sử đâu! Đem súng đi lấy con hổ về.
Rồi Pá Tra quay lại, bảo A Phủ:
- Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy.
A Phủ cãi:
- Tôi được con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò.
Pá Tra cười:
- Lấy cọc dây mây vào đây!
Không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng. A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây cuốn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu lúc lắc được.
Đàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi. Cũng không một ai dám nhìn ngang mắt.
Đến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên tay. Nhưng trời cũng vừa sáng. Pá Tra quảng thêm một vòng tròng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa.
A Sử và lính dõng của thống lý đi đuổi, mấy ngày không lùng bắt được con hổ. Thì cũng mấy ngày A Phủ phải trói đứng góc nhà. Đằng kia, bếp lò bung ngô cao ngang đầu người vẫn hừng hực đỏ rực. Mỗi hôm hai buổi, người ra người vào ăn uống tấp nập. A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới khuya.
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mỵ dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.
Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay như thế.
Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi. Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ... Mỵ phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ...
Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.
Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng "Đi đi..." rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi.
Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mỵ đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
Mỵ thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mỵ lại vừa thở vừa nói:
- ở đây chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.
Hai người đi ròng rã hơn một tháng. Họ chuyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. Từ Hồng Ngài xuống qua vùng ruộng ở Mường Quài của người Thái, từ Nậm Cất sang Chống Chia, từ Chống Chia qua dốc Lùng Chùng Phủng lại trở về bờ sông Đà phía giữa châu Phù Yên sang châu Mai Sơn, chỗ đầu mối giao thông của ngoài vùng tự do vào khu du kích của các dân tộc Thái, Dao, Mèo bên kia sông. Rồi họ về trong những làng Mông Đỏ hẻo lánh vùng Phìa Sa. Xa lắm rồi, thống lý không đuổi được nữa... họ nghĩ thế.
Ròng rã, ăn rau rừng, củ nâu, mộc nhĩ, vừa hết mùa mưa, tới Phìn Sa.
Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý. Người ta ngỡ đây là hai vợ chồng trong một nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau đi tìm ăn nơi khác...
Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mỵ đã thành vợ chồng.
1. Tổ chức cai trị của thực dân Pháp trước đặt chức thống lý cho bọn chức việc người Mông, cũng như chánh tổng, lý trưởng ở xuôi, phìa ở làng Thái.
2. Người Mông có tục cướp vợ trai gái yêu nhau, bằng lòng nhau (có khi chỉ anh con trai muốn người con gái. Nhưng trường hợp này hiếm). Người con trai giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà người yêu, bí mật "cướp" đi. Hôm sau, người trai trở lại báo tin cho bố người gái ấy là tôi đã cướp được con gái ông làm vợ. Thế là phong tục bắt bố phải nhận lời. Cưới lối "cướp" như thế, người trai mất rất ít tiền. Thường mùa xuân ăn Tết, con trai hay đi "cướp" vợ. Đó là phong tục vui, thanh niên rất thích. Bây giờ vẫn thường xảy ra.

Ông Thái sắp vào Sài Gòn. Những năm mới nghỉ hưu, ông Thái cũng hay đi. Khi Hải Phòng, khi Nam Định. Hồi ấy các quốc doanh, các loại hợp tác xã mở tới tấp người ta cần đến nghề kế toán, tài vụ của ông. Tay nghề đã ngồi xó của ông Thái đâm ra còn dùng được. Lắm nơi sổ sách chồng chất, vài ba tháng lại tìm nhờ ông. Nào quyết toán, nào dự chi, những con số ma.
Ông Thái cũng chưa được vào Nam lần nào, từ khi thống nhất. Ông Thái chưa trông tận mắt cái máy bay bao giờ.
Nhưng làm như đã quen, rất thường. Ông Thái nói: "Trong Nam người ta thoáng lắm. Máy bay hay tàu hỏa thì ăn nhằm vào đâu!".
Ông Thái nói hách thế, nhưng cũng không gợi ai tò mò. Ông Thái nói, ông Thái đi đâu cũng chẳng khác ông ngồi ở cái cửa sổ tầng bốn, cả ngày đăm đăm ngóng ra.
Ông Thái đi Sài Gòn. Viết thế này, còn có thể đọc được, nhưng ngồi nghe ông kể, chắc chẳng ai tin. Một hôm, ông Thái nhận ra ngay thư của người con gái bốn mươi lăm năm trước, tên là Vân.
"Kính gởi ông Thới... Tôi có một người bạn thân kể là ngày xưa quen ông. Bạn tôi có ý tìm ông từ khi mới giải phóng, có nhiều người kháng chiến về Sài Gòn. Nhưng không biết hỏi ai. Rồi cũng lại ngại, bởi vì đã bao nhiêu nước chảy qua cầu, cây đa bến cũ chẳng còn như xưa. éã quên đi, nhưng rồi lại mong. Vậy cận trạng ông ra sao, gia đình khang an thế nào...".
Chữ ký loằng ngoằng cuối thư. Đàn bà là chúa hay vô ý. Ngày ấy, chỉ Vân gọi mình là Thới. "Muốn lấy vợ Nam Kỳ phải kêu là Thới. Thái, Thái nghe kỳ muốn chết". Thì còn "người bạn thân" nào nữa. Hay là sợ quên nhau, nhắc khéo. Ôi chao!
Ông Thái trả lời, đề thẳng kính gửi bà Huỳnh Thị Vân. Rồi nhận được một thư dài, giấy xanh, khổ giấy như trước kia. Trong thư, Vân nói mừng lắm, mừng anh vẫn nhớ chữ em. Ông Thái buồn cười vì cô ấy vờ như đánh tam cúc lại để hở bài cho người ta xem.
Rồi thư từ qua lại, hai người kể hoàn cảnh của nhau. Bà Vân lấy chồng người Ấn Độ, có cửa hiệu tơ lụa. Sau khi Tây thua ở éiện Biên Phủ, vợ chồng rời Sài Gòn, nhưng không về Bombay, mà sang Mỹ. Bốn đứa con đều có chồng, có vợ, ở riêng cả. Chồng bà mất đã lâu.
Bà Vân gửi ảnh cho ông Thái và bảo ông cho bà một cái mới chụp. Ông Thái đã không thể nhận ra bà nếu không có dòng chữ đề tặng. Trong hình, một bà già tóc cúp ngắn chấm tai - mốt của các bà đứng tuổi ở châu Âu bây giờ. ờ, mình bảy mươi ba thì Vân bảy mươi mốt rồi. "Em phải uống thuốc tiêu mỡ. Tụt cân nhiều đấy. Nay còn 92". Cái cô Vân học trò trường bà sơ Bồ Câu Trắng ở Sài Gòn, ngày xưa mảnh mai như liễu, tớ nhấc bổng lên được cơ mà.
Cụ Thái lặng lẽ đốt cái ảnh. Cụ cũng không gửi ảnh của cụ. Không phải vì cụ bà hay con cháu tọc mạch. Mà cái ảnh bà Vân kia lạnh ngắt, chẳng một nét nào bận đến cụ.
Một ngày kia, ông Thái nhận được một lá thư rất hay của bà Vân. Thế nào mà cái ông lão hàng ngày ngồi rù rù, người trong nhà đã quen mắt, như nhìn chỗ để xe đạp, cái ghế, cái tủ thuốc. Nhưng ông lão tự thấy khác. Ông thấy ông vẫn sống, mà sống có lửa, ngọn lửa tình đương bốc trong ông. Thư bà Vân hẹn ông tháng ấy ngày ấy ông vào Sài Gòn gặp bà. Cái hẹn còn xa, nhưng đích xác là ngày tháng thế.
Và tấm ngân phiếu bà Vân gửi cũng khiến ông nghĩ. Số tiền đủ mua một vé máy bay khứ hồi. Bà ấy gửi vừa khẳm. Thế này là thế nào? Thế nào nữa, bà ấy tặng mình tiền tàu xe. Ta là cán bộ, theo kháng chiến cả đời đến tóc rụng, răng rụng rồi, chứ mình đâu phải người nhà người ta ngồi hóng của.
Đánh giá nhau hay lắm, phải lắm. Nhưng ông Thái cũng không nghĩ thế được lâu. Giá bà ấy cứ gửi nhiều nhiều một chút cũng hay... Không được, thế là coi nhau chẳng ra gì. Bà ấy trọng mình, phải trọng mình chứ.
Chuyện ông đi kháng chiến kể ra cũng vừa bình thường, lại cũng khúc khuỷu như mối tình này. Nếu ngày ấy quân Nhật không chiếm Đông Dương, tàu hỏa vẫn thông thương bắc nam, có khi ông đã lấy bà ấy rồi cũng nên. Nói "có khi", bởi hai người chỉ là trai gái lứa tuổi không dưng gặp nhau. Vân ở Sa Đéc, nhà gửi lên Sài Gòn học. Thái làm công nhật cho một hiệu thuốc hoa liễu với các thứ cao đan hoàn tán ở Hà Nội chuyên đi quảng cáo và tính sổ cho đại lý các tỉnh.
Khi bắt đầu kháng chiến, ông Thái đương làm kế toán cho một hãng bảo hiểm nhân thọ ở Hải Phòng. Ông có việc lên Hà Nội. Đêm ấy nổ súng. Thế là nghẽn lại. Vợ ông và đứa con trai bị kẹt dưới Hải Phòng. Ông theo người ta tản cư ra vùng tự do, rồi vào làm cơ quan, vẫn nghề kế toán. éến tuổi, ông về hưu. Thằng con đỗ kỹ sư đã đi làm. Nó hay nói đùa láo lếu như nhiều người bây giờ: "Giá ngày ấy bố bị Tây bắt đi tù ít lâu, có phải đã làm quan to, lương hưu khá hơn không". Ông không thèm nói lại. Bây giờ và trước kia khác nhau lắm. Khác nhau cả cách nhìn cái ghế. Mà ông thì già rồi. Cháu ông mua về bốn chiếc ghế đẩu. Ông nhận ngay ra là gỗ nhội, đồ dởm. Dạo cơ quan tránh máy bay Mỹ sơ tán về Bùng, ông thấy người làng đi vác về những cây nhội mới hạ ở đường Sơn Tây mở rộng, đem ném xuống ao ngâm. Vài hôm, vớt lên cưa từng khoanh rồi đẽo thành thớt, đánh bóng đỏ sẫm. Mấy ngày áp tết quảy ra bán ngoài phố - tết nhất, nhiều nhà sắm cái thớt mới. Vô ý vớ phải cái thớt gỗ tươi ấy chỉ thái mạnh vài nhát dao, đã toác. Trông cái gỗ bủng nước, biết ngay. Nhưng thằng cháu ông cười như reo lên: "Không cần gỗ lim, gỗ lát. Chỉ cần kiểu mô đéc, giường Đức, ghế Nhật, hỏng thì mua cái khác, mốt khác. Thời buổi gấp gáp, ông ạ".
Có lẽ chúng nó phải. Người cao tuổi như mình, bàn chân cũng khô đét, giày dép thôi cả long đinh, há mõm. áo sơ mi, bao nhiêu năm nay chẳng phải may sắm. Không biết ngoài cửa sổ, các ve cổ áo sơ mi đã to huếch hoác, lại cụp lại, lại hủn hoẳn, nhỏ tý...
Ông Thái đi Sài Gòn, quần áo và đôi dép râu cũng vậy như mọi khi. Ông không định khác. Không thiếu thốn, mà quen xuềnh xoàng rồi. Nhưng có lẽ nên đi lắp mấy cái răng giả. Răng hàm chẳng còn cái nào. Nhưng cười huếch mép cũng không hở. Chỉ rầy rà mấy lỗ hỏng răng cửa hàm trên. Soi gương, thấy phiền thật. Nhưng rồi ông lại ngại.
Những cái răng đã gãy từ đời nảo, đời nào. Bà ấy cho là ông phát rồ hay sao, tự dưng lại đi làm răng giả.
Ông Thái không lo bà ấy sinh nghi. Nhưng ông tưởng tượng ra một sự kỳ quặc, có thể xảy ra lắm. Thế nào thì ông Thái cũng phải hôn bà Vân. Chao ôi, những cái hôn triền miên đầm đìa đêm xưa bên sông Sài Gòn. Bây giờ mà thế a, nhỡ những cái răng giả rời ra, rơi vào họng ai. Chẳng lẽ lại bảo hãy khoan để tháo răng ra đã, rồi hãy...
Thôi thôi, đã mộc mạc thì thế nào cứ thế. Cái hẹn tháng bảy dần dà tới... Ông Thái cứ lúc bồng bột, lúc lại thây kệ. Nghĩ toàn chuyện cản trở. Ngót hai tháng thư mới tới nơi, thì tin thế nào được ngày hẹn quá xa. Nhưng sự thật như cái đinh tai ác cứ nhô lên dần. Sắp tới rồi. Ông lại nghĩ ầm ừa: Hôm ấy mình cứ bay vào à? Không có bà ấy ra đón thì sao. Ông cũng có người quen, nhưng thình lình dò đến nhà người ta, không tiện...
Rồi ông Thái nhận được một bức điện.
Rồi cháu gái đón ông ở sân bay Tân Sơn Nhất. Bây giờ cháu đương đưa ông về nhà. Không đến khách sạn, nhà trọ. Cũng đỡ rắc rối.
Căn nhà nhỏ trong một hẻm sâu hun hút. Những hình ảnh lảng vảng, ông Thái như lững lờ trôi trong đám mây.
Năm xưa, ông Thái gặp bà Vân ở Sa Đéc. Thầy ký công nhật đi tính sổ đại lý. Thị xã nhỏ bé, Thái dạo qua một cửa hiệu vàng bạc. Thấy trong hàng có một cô gái ngồi bên máy khâu. ở Nam Kỳ hồi ấy, mỗi nhà sắm cái máy khâu Sanhde cũng là một lối chơi. Cô gái xinh quá, đúng dáng những người đẹp mẫu của Thái. Tuổi trẻ đâu cũng xông, thế là Thái bước vào. Cô gái vào nhà trong một thoáng rồi ra ngay. Người con trai đã kịp nhận thấy cô mới thay tấm quần lụa trắng muốt. Anh chàng gà trống tơ nghĩ vơ vào rằng thế là ăn tiền rồi.
*
Ông Thái nhìn qua cửa sổ mở. Bà Vân hệt tấm ảnh bán thân nhận được năm trước. Có điều khác, đây là người thật, một bà lão khỏe mạnh, to đùng. Hình như bà Vân đang dở tay làm gì, nhắc cái phích hay bày ấm chén. Bà chưa vội ra mở cửa. Nhận xét đầu tiên ấy khiến ông Thái buồn buồn. Chỉ đến lúc thoáng thấy bóng mình lù rù chiếc mũ cối như cái mu rùa trên đầu, hôm đi ông mượn của thằng cháu, ông mới nguôi ngoai và lại hơi ngượng.
Bà Vân nhìn ông, chào ông một câu đột ngột:
- Anh ốm quá!
Ông Thái đã sắp sẵn một câu đùa tình tứ. "Em trẻ, em trẻ lắm". Nhưng bị một câu phủ đầu mất vui, lại nhớ cái răng cửa hổng, ông Thái chỉ mỉm cười.
Chẳng mấy lúc, cũng may, ông Thái đã cảm thấy như ở nhà nhà mình thương yêu êm ấm, không phải căn hộ tẻ nhạt ở ngoài kia bây giờ. Bà Vân và cháu gái lên xuống dọn mâm bát. Nhớ lần về chơi nhà Vân dưới Sa Đéc. Cả nhà vờn vỡ, phong tục Nam Kỳ sao mà đáng yêu. Ông Thái đương trở lại cái gia đình tưởng tượng, hai người yên vui về già.
Bức tranh vẽ rồi lại xóa, lại vẽ, lúc hồng rực, lúc đen nhẻm. Ông Năm lấy trong tủ ra chai rượu ngâm thuốc. Ông Thái cười. Đã quen, không còn ngại hàm răng trống.
- Rượu thuốc à?
- Sâm em mua ở Băng Cốc về biếu anh Năm ngâm.
- Có bia hơi...
Bà Vân nhăn mũi:
- Bia hại thận, nghe. Rượu thuốc...
Ông Thái im, chợt lại thiu thỉu như mọi khi ở nhà.
Nhưng ông Thái với bà Vân cũng có phút giây mơ màng.
Bà Vân bảo: - Chúng ta đi vườn Bờ Rô.
Nhớ lúc nãy ngoài đường, xe máy liên hồi tạt qua mặt, ông ngại:
- Làm gì?
- Ôi anh quên trọi rồi sao! Cái năm hội chợ Sài Gòn, đêm hôm đó chơi vườn Bờ Rô.
Ông Thái lúng túng vì câu trách yêu. Ông Năm ở buồng trong góp chuyện ra.
- Bộ cô Ba tưởng vẫn cái vườn Bờ Rô năm cô Ba ở Sài Gòn à? Không đâu. Bây giờ vườn Bờ Rô, vườn Chuối loạn dữ, nhất là ban đêm. Không đi dạo được đâu.
Ông Năm gỡ cho ông Thái một cuộc đi chơi không hào hứng. Nhưng câu chuyện bên bàn nước vẫn lai rai. Tiếng mưa xầm xập xuống mái tôn nhà nào xung quanh, chẳng biết là đương ở đâu. Trời cũng giúp làm nhạt cái kỷ niệm vườn Bờ Rô rồi.
- Ngày mai đi Vũng Tàu.
- Vũng Tàu à?
- Trước em định nghỉ Long Hải. Nghe nói bên ấy yên tĩnh. Nhưng anh Năm nói Long Hải vắng lắm. ở Vũng Tàu hơn. Anh Năm với các cháu cũng đi.
- Cả nhà cùng đi cho vui.
Bà Vân cười:
- Không, anh Năm không đi chơi. Anh biểu anh Thới là cán bộ cách mạng, phải bảo vệ ảnh, không được lơ là cảnh giác. Ông nói như đọc báo vậy.
- Bảo vệ tôi à?
- Anh Năm biểu thế.
Ông Thái vừa buồn cười, vừa nhớ ra. Nhưng lại thú vị. Ông đã trông thấy ở Hà Nội những cán bộ có người bảo vệ. Ông cán bộ đi bách bộ cũng có người đeo súng ngắn sau lưng áo, đi cạnh. Ông cán bộ may ô quần đùi mặt đỏ lựng chạy tập thể dục buổi sáng bên bờ hồ, có hai thanh niên áo đại cán trịnh trọng, vẫn súng giắt lưng, lõng thõng chạy hai bên. Ông Thái như con kiến, ông muốn bò đi đâu thì đi. Bây giờ nghe có người nói đi bảo vệ ông. Cũng sướng.
Bà Vân nhìn ông Thái, nheo mắt, tinh nghịch:
- Nhưng mà anh Năm không đi nữa!
Ông Thái cũng rỡn:
- Không phải bảo vệ à?
- Em bảo anh Năm là ra Vũng Tàu ở khách sạn, ở boong-ga-lô mới lo bảo vệ, chứ ở chùa thì thôi, cửa Phật mà. Anh Năm thấy thế ưng được.
Rồi bà Vân lại cười:
- Có vậy mới được đi đôi!
Không biết bà Vân mừng thật hay chỉ là nói đùa. éột nhiên, bà Vân nói:
- Anh có còn nhớ chị Hậu không?
- Chị Hậu...
- Có lần anh vô Sài Gòn, em ra ga xe lửa Mỹ đón, có chị Hậu...
Thật ông Thái đã nhớ ra. Không những thế, ông Thái còn đương bấn trong đầu khi nghe đến tên người đàn bà ấy. Những liều lĩnh của tuổi trẻ thì vô vàn, nhưng đã nguội lạnh, xếp xó trong ký ức từ nửa thế kỷ rồi.
Vân trọ học nhà Hậu. Hậu hơn tuổi Vân, ở nhà giúp tiệm may của mẹ. Hậu theo Vân ra ga để "ngó mặt thằng Hai". Hậu chưa biết Thái. Nhưng Thái thoạt trông thấy Hậu đã cảm giác gờn gợn kỳ lạ. éôi mắt bồ câu lóng lánh đằm như làn nước muốn hút người ta trầm mình vào. Cô Hậu nhìn Thái. Thái đoán được đôi mắt ấy nói gì.
Đêm ấy, Thái nghỉ lại nhà Hậu. Mai, Vân và Thái về Sa ééc sớm. Thái nằm ngoài phòng khách. Vân và Hậu ngủ buồng cạnh đấy, cái giường to kề bên cửa sổ. Nửa đêm, chợt tỉnh, trời vẫn xầm xập mưa như đêm nay thế này.
Thái tha thiết nhớ hai con mắt Hậu. Thái lần ra, thò tay vào màn, mà Thái đã để ý, biết Hậu nằm cạnh cửa màn. Tay Thái vừa đụng vào cánh tay Hậu, thì một bàn tay ai nắm lấy, vuốt từ từ lên mặt Thái. Cái hôn dài vùi vào nhau, tưởng như hai làn môi không bao giờ rời ra được nữa.
Sáng hôm sau, đôi mắt Hậu khác hẳn, lay láy long lanh quang đãng như trời mưa tạnh. Rồi Thái và Vân về Sa ééc. Đến hôm lên đường ra Hà Nội không tạt được vào nhà Hậu. Người trai đào hoa không quên, nhưng cũng chẳng nhớ hơn nữa. Từ đấy, không khi nào còn gặp lại.
Ông Thái hỏi:
- Thế chị Hậu rồi sau ra sao? Giờ ở đâu?
- Cũng chẳng lấy ai!
Người đàn ông đam mê ngày trước chợt bồi hồi vu vơ. Bây giờ lòng yêu thành nỗi bùi ngùi cho ai có lẽ vẫn chờ mình từ sau đêm ấy, mà mình thì đương nhắm nhía cái đau của người ta.
- Rồi thế nào....
- Chị ấy đi tu.
- Cái năm em sang Mỹ, em có xuống chùa chào chị. Em vẫn được thư từ. Chị ở Vũng Tàu.
Ông Thái nhắc lại như trẻ con học nói:
- ở Vũng Tàu.
Bà Vân nói:
- Em được thư thấy nói thầy đau, có khi về người Phật mất. Ta xuống thăm thầy nhân thể.
Ông Thái lễ phép rụt rè:
- Vâng.
- Bây giờ gặp thầy, anh cũng không nhận ra được đâu. Mà thầy quy y đổi tên nhà Phật rồi.
Bãi Dứa ở Vũng Tàu, một bên gồ ghề sườn núi, một bên bờ đá. Chỉ có một bãi tắm nhỏ ở chân dốc sang bãi Sau bên kia. Nhưng lọt giữa những tảng đá lởm chởm, đôi chỗ hủm xuống một vùng cát choen hoẻn phẳng lỳ như manh chiếu cói trắng.
Dọc triền núi, ẩn hiện những ngôi chùa nhỏ, công đức của các nhà giàu trên Sài Gòn. Đã thành phong tục đem ảnh và bài vị người đã khuất lên chùa, tương tự ngày trước nhà có của cúng ruộng hậu.
Ông Thái và bà Vân xuống ô-tô ngoài bến rồi đi xích lô về bãi Dứa. Từ lúc gần đến Vũng Tàu, ông Thái đã lẩn thẩn sợ thế nào ấy. Sợ cả cái dáng bà Vân đi phăm phăm, tiêu tiền như vứt đi, tiền xe, tiền ăn sáng, tiền cho ăn mày. Được cái trông bà Vân không khác mấy bà luống tuổi. Khăn vuông lụa trắng, áo xuyến đen, quần lĩnh đen giản dị. Chẳng ai có thể đoán được bà ấy đã xa đất nước mấy chục năm qua. Ông Thái ngồi sau bà, lưng tựa đệm xe. Như con cá nằm trong cái kẹp thế lực.
Hai người lên bậc gạch một ngôi chùa, đi dưới đường chỉ thấy thấp thoáng mấy cành đại khẳng khiu nhô ra. Bà Vân vào thẳng nhà hậu. Ông Thái còn quáng mắt trong căn nhà tối ẩm, bà Vân đã tới trước bộ ván, ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay:
- Bạch thầy, còn là Vân, con mới ở Mỹ về.
Trên phản, một người nằm, hai chân nề nặng trắng bệch. Có tiếng khe khẽ:
- à... Vân...
Một cô tiểu ngoài hiên bước vào. Cô tiểu đỡ người ốm ngồi lên. Bà thở khó nhọc, như con mèo gù, bà tựa lưng vào tường và vai cô tiểu đỡ... Ông Thái đã nhìn rõ. Không thể là cô Hậu năm nao. Cái đầu bà lão bủng vàng như nghệ, phù to ra.
Một cô tiểu bưng nước mời khách, đặt trên án thư bên cạnh. Bà Vân nói:
- Bạch thầy, thầy có nhớ ai đây không.
Nhà sư ngước cặp mắt trắng lờ đờ:
- Ông Thái ngày xưa đó.
Bóng mờ khuôn mặt xị không động đậy.
Các chùa ven bãi Dứa đều có nhà khách, vào mùa nắng, cho cả người chơi biển trọ. Ăn chay theo bếp nhà chùa. Hình như cũng vắng vẻ.
Bà Vân và ông Thái nghỉ ngoài nhà tổ. Gian giữa, một tượng Quan Âm. Mùi hương phảng phất, nằm trông lên thấy cái bệ tòa sen thếp vàng ánh. Bên một kệ đặt những khung ảnh người đã mất được đem gởi hậu. Ông Thái mắc cái màn nâu dưới chân kệ ảnh. Bà Vân nằm trên phản đầu gian bên. Như vợ chồng già vãn cảnh chùa, đường xa nghỉ lại.
Ngày ngày bà Vân ra bãi tắm. Bà Vân nói: "Em khỏe được là nhờ biển. Nhà em bên kia ở ngay cạnh nước. Hằng ngày cả thành phố tắm biển". Bà Vân rủ ông Thái tắm. Nhưng ông Thái lắc đầu. Bà Vân cũng không ép thêm. Bà Vân lội xuống nước. Ông Thái đội mũ cối, quần áo bộ đội xanh nhợt, ngồi cái quán cóc cạnh gốc dừa trên bờ. Ông ngồi trông quần áo cho bà Vân. Đôi lúc cao hứng, ông lội cả đôi dép râu đi dọc mép nước. Khi về, bà Vân vào chỗ dội nước ngọt thay quần áo, ông Thái cầm cái túi đứng ngoài.
Bà Vân đã ra bãi. Ông Thái ở vườn chùa vào nhà hậu. Ôi, năm mươi năm trước xa vời vợi, ở phía nửa trái đất bên kia. Ông Thái vẫn không thể nào tưởng cái cô Hậu ấy là bà sư liệt giường này. Không, không, ngày xưa đã qua rồi. Nghĩ thương thương, ông Thái bước vào.
Cô tiểu đến nâng sư thầy. Nhưng bà không giơ tay. Bà vẫn nằm nguyên đấy. Ông Thái lặng lẽ ngồi xuống ven giường. Ông Thái nghe tiếng thều thào như vẳng đâu tới:
- Ông già quá rồi.
Ông Thái đã muốn nói mấy câu gì đó. Nhưng ông không nói được nữa, ông ngồi yên.
Nhà sư từ từ quay mặt vào tường.
Ông Thái lững thững ra bãi. Ông Thái ngồi cái quán bà Vân gửi quần áo. Sóng biển lăn tăn, bà Vân đứng ở chỗ nước ngập ngang vai. Trông thấy ông Thái, bà Vân giơ tay vẫy vẫy.
Ông Thái vẫn chưa dứt cái đau, cái ngán ngẩm vừa rồi: "Ông già quá rồi", ông cũng sắp tịch rồi, câu nói thổi bay mất hào hứng và lòng thương người của ông. Ông Thái nhìn bà Vân vùng vẫy thảnh thơi dưới nước. Ông thở dài, bỗng cáu kỉnh: "Hay là cái đêm ấy nó biết. Nó thù đến tận bây giờ nên mới đầy ải mình ra đây". Ông Thái nhấp một ngụm rượu rồi lại nhẹ nhàng nghĩ có thể không phải thế.
Bà Vân đã lên. Bộ quần áo tắm vằn xanh, cánh tay và bộ đùi hộ pháp phục phịch đã bơi bắt nắng. Ông Thái thờ ơ nhìn. Bà Vân giơ ngón tay. Nách bà trắng bạch. Mọi hôm vẫn thấy mà không để ý. Ông lẩn thẩn đoán không biết bà ấy nhổ hay tự nhiên thế.
Bà Vân giơ tay nẹt đùa:
- Cấm uống bia nghe.
Ông Thái mỉm cười giơ ly rượu.
- Rượu thuốc. Rượu thuốc vẫn uống nhắm với ô mai ở bùng binh chợ Bến Thành, từ ngày xưa đấy.
Vào dội nước ngọt, thay quần áo ra, hai người lững thững về. Bà Vân tự nhiên nói:
- Chúng mình có duyên, nhưng không có nợ.
Có lẽ câu ông Thái vừa nói đã khiến bà Vân nghĩ ngợi. Ông Thái bâng khuâng, mủi lòng.

Hôm rời Vũng Tàu, ông Thái nhổ ngoài bãi cát một cái dây cây dại, không có tên. Lá dày tựa lá thài lài, hoa mầu xanh nhợt nhạt, man dại như hoa bìm bìm. Ông cắm vào cái vỏ bia 33, đem về.
Mấy hôm sau, ông Thái lại đã ở nhà. Ông lại ngồi ở cái góc buồng tầng bốn trông ra cái cửa sổ mới được trang trí thêm hộp bia trồng dây hoa bìm biển.
Những nhánh ba lá vào mùa thu đã ngả mầu vàng gắt. Không ai biết được cuộc phiêu lưu kỳ lạ ông Thái vừa trải. Ông im lặng như chiếc phất trần dựng xó tường. Cái phất trần thỉnh thoảng bà ấy còn lấy ra phảy bụi, ông thì chẳng ai đụng đến. Ông lặng lẽ. Ngồi xuống, không có rượu gặm nhấm lại kỷ niệm. Thói quen nghề nghiệp kế toán ông Thái tính một tuần lễ vừa qua mỗi người chỉ nói được ba câu đùa vui. Cứ vậy mà dự phòng, dự chi, thế mà còn hơn. Nếu nợ nhau thì có lẽ chỉ còn cáu gắt và im lặng như bây giờ.
Hai cái răng cửa đã rụng nốt. Hàm trên nhẵn thín, môi cúp xát vào lợi. Móm hẳn. Đã lâu lắm không nhận được thư của Vân. Ngộ như năm nao Vân lại về có gọi Thới vào, Thới cũng không đi nữa. Ông Thái quả quyết thế. Nhưng rồi cả năm cũng không được tin tức. Có lẽ ở bên ấy bà Vân cũng đương nghĩ như ông Thái. Một hôm, con mèo nhà ai nhảy cửa sổ, làm rơi ụp cái vỏ bia trồng dây hoa bìm biển. Ông Thái cũng chẳng buồn xuống nhặt lên.

Phố Hàng Ngang, Hàng Buồm cũng chẳng khác xưa bao nhiêu. Mặt đường, đôi chỗ vẫn cái nắp gang đậy cống ngầm còn đề tên sở thời Pháp. Không kể mấy bảng điện nhấp nháy, cái nhà tầng nông lòng đột ngột chon von lên như những đồ chơi của trẻ con. Chỉ có một cái khác. Xe đạp, xe máy liên liến khin khít đan nối nhau. Ngày xưa thì lòng đường, vỉa hè toàn những chân người đi, chân người ngược xuôi như lồng vào nhau.
Họa sĩ Ngô Thúc Dung vẽ cho báo Hà Nội Tân văn in ở phố Hàng Buồm. Anh Vũ Ngọc Phan bảo tôi: "Anh Dung tốt nghiệp số 1 Ðại học Mỹ thuật Ðông Dương, anh Nguyễn Ðỗ Cung giới thiệu làm cho báo ta đấy". Anh Phan muốn gợi sự chú ý và kính trọng của tôi. Thì ra đỗ nhất lại bạn của những Nguyễn Ðỗ Cung, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, những mét đỉnh rồi. Nguyễn Ðỗ Cung đương chùm cubít lập thể vẽ cái chân người như bắp chuối và người đi hai vai ngang như cua bò, tôi phục lắm, dẫu chẳng hiểu gì cả. Ngô Thức Dung minh họa báo, vẽ tay người to hơn đầu người. ồ, trường phái ông Cung mà. Nhưng rồi tôi thấy Dung vẽ cái mu bàn tay nào cũng tròn như quả bưởi, lại để ý Dung không vẽ cho báo nào khác ngoài báo của anh Phan. Về sau quen Dung nhiều hơn, tôi nghĩ: thằng này không biết vẽ, chẳng ai thuê.
Thì tôi thấy Dung cũng hết oai, Dung chỉ vừa vừa như tôi thôi. Vì, giỏi hay dốt cũng là may rủi thế nào đấy. Như ông Thịnh del chỉ có mỗi báo Tiểu thuyết Thứ Bảy mượn ông vẽ cái mặt nào cũng tréo giống nhau, thế mà ông đỗ đầu Mỹ thuật Ðông Dương, ông làm thông phán sở Canh Nông cả ngày cả tháng ngồi truyền thần phóng to con tằm, con nhộng, con bướm, cái kén. Ông Thịnh del chẳng có bức tranh nào, giới vẽ có lẽ chẳng hề biết ông là ai, mà ông có cần gì đâu.
Dung bảo tôi:
- Bát phố một lúc, được không?
Tôi chẳng có việc gì, để chối là không được. Chúng tôi ở nhà in đi ra và tôi hiểu bát phố là chẳng đi đâu cả, chỉ lê gót hết phố nọ sang phố kia, nhìn nghênh nhìn ngáo rồi nhìn xuống đường thấy chân người chen nhau đi qua đi lại. Người đi xem phố, người đi kiếm ăn, nhiều người quá, chỉ thấy chân, toàn người đi chân đất. Ðôi khi, người đàn bà trong làng ra kẻ chợ, có đột dép Kẻ Noi quai ngang và nếu là dân thầy thì có đôi giày vải như chúng tôi. Những người chân đất đi ngoài phố nhiều, nhớ mãi đến tận bây giờ.
Tôi hỏi Dung:
- Chiều rồi. Phải làm cái gì cho no bụng chứ?
- Túi tớ cạn cả có thế mới phải đi phố ăn tiệc nhìn.
- Nhịn a?
- Hôm nào có tiền thì lại ăn, ăn bù.
- Thôi được, đi với tớ.
Tôi cũng chẳng đủ tiền mua hai bát cơm úp. Tôi nói mạnh bạo vì tôi nghĩ đến Quyền. Có thể Quyền có. Chúng tôi rẽ về phố Hàng Trống. Sang phố này đã thưa những bàn chân đi. Mấy nhà bán đồ thêu ren sách cũ. Tắt qua cửa đền vào một góc phố có một gian hàng chỉ bằng sải chân. Những cái chụp đèn bày la liệt như nón úp. ở trong nhà, một thanh niên vạm vỡ sơ mi trắng cộc tay đương soi gương nắn cái múi cà vạt đen.
- Giới thiệu...
Quyền nói to:
- Họa sĩ Dung, quen rồi. Ðã vẽ chụp đèn cho nhà này.
- à...
Họ biết nhau, tôi nhẹ hẳn người, nói luôn:
- Ðương định đi ăn mà chưa trữ được đủ tiền.
- Có đây, có đây.
Quyền chạy sang cửa hàng bên cạnh xem nhờ đồng hồ.
- Năm rưỡi, đóng cửa được rồi.
Chúng tôi giúp Quyền vác những tấm cánh cửa lắp đóng lên kín gian hàng. Tôi hỏi khẽ Dung:
- Ðã cộng tác với Quyền à?
- Có một lần, đã lâu. Thằng cha nhớ dai gớm.
- Cái kiốt đằng Hàng Da của cậu mà treo bán những cái chụp đèn này cũng nên lắm.
- Có thể, có thể. Ðằng ấy bảo nó cho mượn mấy cái bày thử.
Ðã lắp cửa xong, chúng tôi ra chỗ đầu Hàng Giò, xuống dốc Hàng Kèn, tạt sang ngả hồ Thiền cuông.
Chỗ ấy có mấy hàng cơm, sau lưng trông xuống bãi cỏ lau. Ðằng kia là Vân Hồ, nhưng quãng nay lầy lội, phải vòng lên Thể Giao mới có lối xuống. Thành phố chưa bắt điện đến vùng đấy. Trong búi cỏ lau đen lù lù, ánh đèn ba dây, đèn hoa kỳ lốm đốm to nhỏ như những con đom đóm. Mấy quán cơm đầu ghế đón người đi làm bên ga Hàng Cỏ về các đầu Ô Thanh Nhàn, Ô Trung Hiền, đôi khi có những xe chở gỗ dưới Phà Ðen lên. ấy vậy mà hàng quán đỏ đèn suốt sáng. Bởi vì những con bạc rúc ráy trong bụi lau lần ra ăn đêm.
Chúng tôi cũng đã nhẵn mặt ở đây.
Thấp thoáng một cái đầu chó treo dưới mái tranh.
Tôi hỏi Quyền:
- Vào làm mấy chén mừng gặp nhau, được không?
Quyền nói:
- Không. Tớ là sì cút (*). Và tớ thương loài vật, con chó thân thiết với người nhất, tớ không ăn thịt chó.
- Thế thì ăn gì?
- Cơm, đậu rán, canh cà chua, như mọi khi. Ðược không?
Hai thằng không có tiền, thế nào mà chẳng được. Nhoáng một cái xong bữa chẳng có gì để kề cà, chúng tôi bước ra ánh điện loáng thoáng ngoài hè phố. Tôi chẳng hỏi ai, cũng không nghĩ đi đâu tối nay. Ðứng cửa sổ rạp Hiệp Thành nghe cải lương, lượn nhà thổ ngõ Yên Thái cũng chỉ nghĩ và kể ra thế thôi. Không đi đâu thì đi ngủ vậy. Có ba nơi. Về nhà tôi trên Bưởi thì xa mà đã hết tàu điện. Ðến cái kiốt của Dung ở chợ Hàng Da thì ôi thôi, khi sáng ra có thể đã gãy đầu gối. Cái kiốt bốn mặt cửa nhưng hẹp quá, đêm phải đổi hai thế nằm. Lúc thì khoanh chân, lúc thì duỗi gác hai chân lên vách. Dung thấp bé người, suốt đêm nằm khoanh hai chân, đêm nào cũng thế. Ðến nhà Quyền thì được ngự trên mảnh ván. Rộng rãi, chỉ phải cái không có màn.
Gian bán chụp đèn, đèn bàn, đèn treo trần cũng không phải của Quyền ông chủ. Không biết cửa hàng của ai, chắc của người nhà, Quyền trông hàng, bán hàng ghi sổ. Những khung nan, khung gỗ thợ gò, thợ tiện ở phố Hàng Tiện đem đến, Quyền dán giấy bồi, lụa hoa, lắp bật điện. Cũng không thấy chủ hàng bao giờ chỉ có mình Quyền, sáng ra xuống bờ hồ rửa mặt, còn ỉa đái chỗ nào thì tuỳ. ấy thế nhưng đã phong lưu nhất hội rồi.
Mưa sầm sập cả đêm như xay thóc. Mưa đêm ở làng, trong bóng tối bốc lên mùi rơm rạ ải, mùi hoa lý thơm ủng. Mưa rào, mưa to ở thành phố, tiếng mưa nghe mỗi tai mỗi khác, cứ như gõ thanh la, lại như liên hồi đập cái thùng sắt tây. Nhưng đã dịu được cơn oi bức ban chiều. Nhờ thế, đỡ muỗi, sáng ra mặt mũi không lấm tấm mần đỏ.
Quyền cho Dung xách đi mấy chiếc chụp đèn. Cái kiốt của Dung dựng đứng như chiếc thùng gỗ vuông, trông sang bãi cỏ chợ Hàng Da. Trên bãi, thỉnh thoảng hiệu tạp hóa Tây Lùn ra căng bạt mở xổ số cò quay ăn tiền, ăn thưởng áo may ô, lọ nước hoa Con Voi, khăn mùi xoa. Ðôi khi gánh Lê Thành Các về làm xiếc. Có cả ban xiếc nước Anh với hai con la thồ đồ, lưng phủ bạt, đến cắm cọc dựng rạp. Cái kiốt vẫn đứng đấy, bốn mặt sơn xanh trổ lỗ cửa vuông, phía nào cũng thông thống.
Kiốt bày bán lắm thứ lỉnh kỉnh. Những ống bút, một thếp giấy mới, gói bột màu. Có khi bày tranh phong cảnh. Cũng có buổi cho bà bán quà sáng để nhờ mẹt khoai lang luộc.
Tôi bảo Dung:
- Treo bảng vẽ truyền thần, có khi ăn tiền hơn.
Dung xua tay:
- Mày dốt bỏ mẹ. Họa sĩ không vẽ truyền thần.
Nhưng tôi nghĩ cứ như Dung vẽ cái tay to hơn cái đầu thì có khi Dung cũng không biết vẽ truyền thần. Bốn mặt quang vắng, không biết đồ đạc, quần áo Dung cất đâu. Chẳng thấy cái hòm, cái bọc chỗ nào.
Dung nói:
- Mày nhà quê cũng có khác. ở Hà Nội bây giờ văn minh giống bên Tây. Hết mùa rét thì cái áo dạ gửi nhà cầm đồ Vạn Bảo phố Mới. Giờ đương nắng nóng, chỉ cần nhất bộ, tối đi ngủ thì cởi ra giặt cho tiện.
Tôi đã quen lối nói tiếu lâm chày cối bịa tạc ra cách sống thành phố. Bốn cái chụp đèn Dung để bốn cửa. Hai chụp treo, hai chụp đèn bàn đặt trên mỏm hòn gạch nhô cái chóp lên. Ði cả bốn bên đều trông thấy, cũng vui vui mắt.
Một hôm tôi đến chẳng thấy cái chụp đèn nào.
- Bán hết cả rồi à?
- Mất cắp hết thì có. -Không gắn được con mắt đằng lưng thành thử cứ trông cửa trước thì nó phỗng đằng sau.
Ðến năm kháng chiến, phố xá tản cư đi khắp nơi. Người ta như con kiến khi gặp nhau thế nào đôi bên cũng đụng râu chụm lại như chào hỏi, trò chuyện rồi mới lại tăng tả bò đi. Cho nên ai ở đâu rồi cũng được tin, mình không gặp thì thế nào cũng có người gặp, người biết. Tôi cũng láng máng biết tin tức bè bạn và người quen, xóm giềng, ai tản cư vùng nào, công tác ở đâu, ai chết bom, ai lại về thành. Nghe nói Quyền đã lấy vợ, vợ chồng đem nhau lên Phú Thọ.
Năm ấy, tôi có việc về Gia Ðiền. Việc vui và cũng nực cười. Tôi đi dự đám cưới họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ. Anh Tỵ ở vùng văn nghệ sĩ tản cư trong khu Bốn. Trường Mỹ thuật của anh Tô Ngọc Vân mở ở Việt Bắc, anh Tỵ được mời ra dạy. Tỵ cũng đã cứng tuổi. Chị trẻ hơn, gia đình cũng ở Hà Nội tản cư đi. Tiếng đồn thế nào đấy, có thể bên nhà gái nghi ngờ, mà nhà trai nhà gái đều đương trong cảnh xa lạ không biết đâu mà hỏi han dò la được. Tôi được giao việc đại diện cơ quan đi dự đám cưới. Tôi có nhiệm vụ nói thật nhưng nói khéo thế nào để họ nhà gái tin tưởng tôi là bạn anh Tỵ từ xưa và anh Tỵ chưa có vợ bao giờ.
Mọi việc đều xong xuôi, êm đẹp. Hôm về, tôi không ra theo đường bờ sông. Tôi đi đường trong, qua làng đồi chè, rừng sơn, rừng cọ từ Gia Ðiền sang Ao Châu. Tôi đã được biết Quyền ở Ao Châu.
Tôi vào xưởng giấy Ao Châu hỏi Quyền. Người ta bảo: ông Quyền thôi việc ở đây rồi. Bác ra ngoài đầm, hỏi ông Quyền Chài thì ai cũng biết - Quyền Chài là thế nào? Người ta chỉ cười.
Ao Châu, một vùng đầm nước mênh mông như hồ Tây bọc một dãy đồi ở giữa. Tôi được chỉ vào một cái lều lá gồi bên bờ nước. Quyền cởi trần, da bắt nắng đỏ xạm, vẫn cao lớn và để bộ râu quai nón xồm xoàm đen kịt, chỏm mũi đỏ sần sùi nhô lên quen thuộc.
Cái lều một gian một chái, một người đàn bà ra chào tôi. Chị mặc quần thâm, áo trắng nhuộm nâu non, cũng như mọi người tản cư thường gặp ở dọc đường và trong chợ.
Quyền nói to:
- Nhà tôi đấy. Chúng tớ nghề chài lưới, nên làng nước gọi là Quyền Chài. Nhờ giời cũng đủ chén, cứ xuống nước thì có cá đem bán.
Chị ấy đi chợ. Quyền bảo tôi ở nhà chơi, Quyền thả cái thúng đi bắt mấy con cá về nhắm rượu. Tôi bảo cho tôi ra hồ với. Cái thuyền thúng, Quyền ngồi đằng mũi, tay cầm bè chèo lái, bàn tay kia bơi. Tôi thả lưới từng quãng ngắn, Quyền vòng thuyền cầm bè chèo gõ xuống đòn ngang. Tiếng cành cạch xua cá dồn vào mắt lưới.
Trên thuyền, chúng tôi chuyện.
- Bọn tớ đã lấy nhau từ khi còn ở Hà Nội.
- ờ... ờ...
- Chắc đằng ấy không biết vợ tớ là con nhà thổ ở ngõ Yên Thái. Tớ vớt ra.
Tôi không biết thật. Nhưng cái tình, cái tính khí khái và nghĩa hiệp của Quyền thì tôi không lạ.
- Thế sao lại bỏ làm xưởng giấy?
Quyền cười nhạt:
- à bọn ngồi bàn giấy trong xưởng chữ nghĩa lỗ mỗ, cũng dân thành phố ra, thế mà chó lại chê mèo lắm lông, chúng nó chửi mình là tiểu tư sản, đội cái mũ sì cút chúng nó cũng bảo là đội cứt đế quốc. Lộn ruột, tớ hét vào mặt chúng nó: ông đây học trường kỹ nghệ, công nhân hẳn hoi chứ không như chúng mày đội lốt. Công nhân thì không sợ cái gì hết. Ông đố chúng mày dám bỏ cái xưởng này ra đi tăng gia, hay chỉ là đồ ôm chân bàn đẽo cơm Nhà nước. Ông không thèm, cái mặt chúng mày chỉ bẩn mắt ông.
Quyền đặt bè chèo vào lòng thuyền, nhấc từng mảng lưới lên. Có con cá rô như hạt bưởi, Quyền lại ném xuống nước.
- Thế là tớ ra đây. Tớ chẳng cần đứa nào đâu.
Lát sau, thu hết lưới, được mấy con chép nhỡ. Quyền cười hê hê: "Ðầu đuôi để nấu dấm quả dọc, còn chặt khúc ra nướng uống rượu, hay lắm".
Tôi giễu:
- Cậu là sì cút chửi rượu cơ mà.
- ở đời cũng có lúc cần rượu.
Chốc đã mấy chục năm qua. Rồi tôi cũng không gặp lại Quyền ở Hà Nội. Biết có còn sống, vẫn ở Ao Châu hay lại đi đâu.
Họa sĩ Ngô Thúc Dung thì đôi ba khi còn biết tin.
Các cơ quan mới ra khỏi thành phố lên Việt Bắc đều đóng ở Ðại Từ trên Thái Nguyên. Có người cơ quan ở xóm bên cạnh - chỗ cục quân nhu đóng, sang hỏi tìm tôi và nói :
- Chúng tôi có đồng chí họa sĩ Dung... - A họa sĩ Ngô Thúc Dung! Tôi có quen... Tôi sẽ sang, tôi sang... Thế ra Dung đã vào bộ đội, lại bộ đội quân nhu... có thể Dung vẽ mẫu áo trấn thủ... Dung cho lính sang tìm tôi... Oách thế, họa sĩ Dung, đồng chí Dung...
Rồi không nhớ tôi bận gì, mấy hôm sau mới sang được xóm có quân nhu ở? Tôi thấy những nhà kho, những lán ở trống hoác. Vào trong làng hỏi, bà con cũng chỉ biết bộ đội đã đi từ nửa đêm hôm kia. Bộ đội thường đi đến bí mật thế. Rồi sau tôi biết thủ trưởng cơ quan ấy là Trần Dụ Châu đã bị bắt vì tội hống hách, tiêu pha tiệc tùng bán giời không văn tự. Tôi chột dạ hỏi lại nó là thằng Trần Dụ Châu hay thằng Ngô Thúc Dung. Lẩm cẩm đâm hốt hoảng mới ngờ cái tai nghễnh ngãng chú Châu với Dung thì nhầm với nhau sao được. Nhưng tôi lại nảy ra cái lo khác. Hay là thằng Dung đã lấy bí danh là Trần Dụ Châu. Ði kháng chiến, nhiều người lấy bí danh tên khác, kể cả tôi...
Ðến khi hòa bình tôi mới lại được tin về Dung. Có người trông thấy, có người đã gặp Dung ở Hà Nội. Dung không làm họa sĩ nữa. Mà Dung bây giờ bán vé xe điện, Dung nghiện thuốc phiện nặng, thảm hại lắm!
Ôi Dung. Sao mà tôi nhớ thằng Dung cũng như tôi nhớ cái tàu điện, những kỷ niệm xa xưa của tôi đã già lão, sắp vứt đi cả rồi. Cái tàu điện cũng có sự tích lúc trẻ lúc xế bóng chẳng khác con người sinh ra ở thành phố này. Cái tàu điện mới đi từ Bưởi xuống chợ Mơ. Lúc qua Bờ Hồ thì có đường rẽ về Giám vào Hà Ðông. Hơn ba mươi năm sau mới đẻ thêm đường ô Ðồng Lầm ở Kim Liên lên ô Yên Phụ. Ðường tàu điện đầu tiên ra đời năm 1899 - khi tôi được sinh ra thì tàu điện đã ở tuổi hai mươi, hai mươi tuổi thanh xuân hơn hớn, cái vè tàu điện tôi được nghe kể và tôi đã hát suốt thuở tấm bé.
... Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
La ga thì ở Thụy Chương...
Cái ngày khai trương tàu, cưới tàu mới linh đình sao, Tây mở tiệc nhảy đầm ở chỗ đình Thụy bên hồ Tây. Các cụ kể: khánh thành đường tàu điện các làng được một tháng đi tàu không mất tiền vé. Cả vùng Bưởi chúng tôi lên ngồi tàu điện xuống đi chơi Bờ Hồ. Cái câu cuối bài vè tàu điện chẳng biết là mỉa mai hay ba lơn: Năm xu ngồi ghế đệm bông. Hỏi mình có sướng hay không hả mình?
Thanh niên thì không thèm lên tàu điện khi tàu đỗ, mà chúng tôi rún chân lấy dáng lả lướt nhảy tàu xuống tàu khi tàu đương lượn vào hay đã rời bến.
Thế mà cái tàu điện đã rong ruổi đến tận khi Hà Nội chống Mỹ. Báo động cứ việc, tàu chạy suốt ngày, qua các phố Hàng Than, Quán Thánh, cạnh nhà máy điện - trọng điểm máy bay Mỹ thả bom. Cái tàu vẫn chạy. Chỉ còn người lái tàu, người bán vé tàu và mỗi một người hát xẩm, không biết sợ là cái gì, cứ ngất ngư trong lòng tàu nghêu ngao cất tiếng hát giữa tiếng bánh xe rít trong đường sắt, tiếng chuông leng keng ầm ầm và tiếng bom rơi.
Rồi cái tàu điện về già. Cái tàu cái toa được tẩu tán đi rồi mới bóc đến đường sắt. Nó cũng như cái cầu Long Biên, mấy năm đau yếu sau bao nhiêu trận bom đạn, thì đến cái tàu điện rách rưới, tả tơi nhất. Nó ốm cả tinh thần lẫn thể xác. Chẳng ai thiết nó nữa, chẳng ai ngó ngàng chữa chạy cho nó nữa, chẳng biết số phận còn bắt rật rờ thế này đến khi nao.
Những tiếng leng keng ầm ầm đã hết hơi, không còn giục giã vui tai như thời xưa. Mà nó rè rè như những con cóc đêm kèng kẹc nghiến răng gọi mưa. Các ông lái tàu thì say bia, say rượu tối ngày. Tay ông cầm cái mở máy bằng đồng đã mòn vát. Tàu đến ngã tư Hàng Khay, Hàng Bài thì đỗ. Chỉ vì những nơi ấy ven hè có quan bia hơi nhà mậu. Ông khóa lại số không rồi rút cái trùy đồng xách xuống đứng uống đôi ba vại bia, mặt dần dần đỏ lựng. Có khi đến chợ Mơ, đỗ lâu đợi khách thì cả ông lái, ông bán vé cùng xuống làm chén nước trắng, lại châm điếu thuốc lào ngồi lơ mơ.
Cái tàu điện lại giống như bà lão đã mõ ra rồi còn làm đỏm. Cũng chẳng phải tôi còn nhớ đến Dung đâu. Mà một hôm tôi chợt nghĩ: "Cái tàu đương ốm thập tử nhất sinh thế kia cũng xuống lỗ đến nơi rồi. Ta đã đi tàu từ thuở bé, thuở trẻ, bây giờ ta đi một chuyến tàu điện dối già xem sao. Có còn nhảy tàu lên xuống được không nhỉ?". Chỉ nghĩ chơi đã thấy ngượng. Thân già này mà trổ tài điệu nghệ thì chỉ có đưa chân vào bánh tàu mà thôi.
Chặp tối hôm ấy, uống vại bia ở bờ hè Hàng Khay rồi, tôi làm cuộc du lịch lên cái tàu điện ngàn xưa. Người bán vé tàu như đứng sẵn rình tôi, chộp tôi. Người ấy hiện ra trước mặt tôi, giọng khao khao mơ hồ: "Tiền vé! Tiền vé!".
Trông đích là thằng Dung! Không thể nhìn nhầm không thể sai được mặc dầu đã khác lạ hẳn. Khuôn mặt chảy xị, tái xám, môi nhờn bóng, cửa tay áo về vệt đen nhãy. Rõ một con nghiện già. Chẳng ra thằng Dung một mảy nào, nhưng cái sẹo ở thái dương bên trái thì vẫn đỏ tía như đồng xu úp vào, nguyên như thế như người tù khổ sai chung thân thời trước bị thích chữ lên mặt.
- Dung đấy hả? Có phải Dung không?
Người ấy ngước đôi mắt đục lờ đờ nhìn tôi rồi lại cất giọng cũng rè rè đùng đục:
- Vé nào! Tiền vé!
Tôi đưa đồng tiền vé. Lão ta bỏ vào túi áo vét rồi lù rù quay vào, trong khi tôi còn hỏi với... Có phải Dung... có phải...
Biết làm thế nào. Chán đến không còn muốn nhận ra nhau nữa.
Tô Hoài

(1) Sì cut (Scout): hướng đạo sinh.

Ngày trước ai đi lấy chồng như bà Tứ người ta bĩu môi chửi là gái nứng đi theo chồng và khinh ra mặt. Ông Tứ nghề thợ ngõa, quanh năm đeo hòm vác cưa, cầm cân nảy mực đi ăn cơm tứ chiếng. Năm ấy, bỗng dưng đưa về một người con gái. Làng nước thì thào cô này chửa buộm, đứa con trai đầu lòng ấy không phải con phó Tứ. Có người bảo là anh thợ mộc cuỗm con gái chủ nhà. Cô ấy người dưới nam, nghe rõ giọng kẻ bể. Lại người thì nói cái tiếng ấy là người chẳng đâu xa, vùng bên kia sông thôi. Không biết thế nào.
Bà con rồi cũng gọi là thím Tứ, cô Tứ. Dần dà thì sự khinh khi của người ta cũng nhạt đần. Đến khi con cái trong nhà đã lớn và thế sự đã thay đổi nhiều thì cũng chẳng còn ai rỗi hơi bới móc gốc rễ cái người đàn bà ngày trước khăn gói lấy chồng theo không ấy nữa. Thời buổi mới, cho qua.
Vợ chồng phó Tứ có ba người con. Chồng đặt tên con theo cái thú chơi cờ bạc là sáu tên sáu mặt con thò lò thoạt nghe cũng có vẻ buồn cười một tý nhưng rồi sinh có ba con, nên chỉ có được thằng Nhất, cái Nhị, cái Tam. Thế mà đứa con nào cũng khá cả. Thằng Nhất học hết bậc phổ thông, được làm anh giáo trường làng. Cô Nhị, cô Tam lấy chồng làng bên, những con rể có chức vị có máu mặt. Người nào cũng khi chủ tịch, khi chủ nhiệm, khi bí thư...
Một năm kia, ông Tứ ốm. Rồi ông mất bệnh già. Chẳng bao lâu, thấp thoáng đấy mà bà phó Tứ đã lọm khọm lúc nào. Từ khi ông mất, bà không ở hẳn với con nào. Cứ liều liệu ở mỗi nhà ít lâu, nhưng Tết nhất hay giỗ chạp thì bà thế nào cũng về nhà con trai là anh Nhất. Mới năm trước, còn đi ra ruộng làm cỏ lúa. Giữa trưa, nắng chang chang mà xách được giỏ cua dưới đồng sâu về, lấm như vùi. Mấy năm nay thì chịu rồi, chỉ loanh quanh nhặt nhạnh cái rau cái cỏ trong bờ rào. Tính nết đâm ra lẩm cẩm dần, ăn đấy lại quên đấy.
Bà Tứ ngồi rười rượi trông ra ngoài ngõ, có người đi qua, chào hỏi: "Bà đã xơi cơm chưa?". Vừa xong bữa hẳn hoi, mà bà Tứ ngây mặt ra rồi hừ một cái: "Nào đã cơm cháo gì đâu ! ". Người con dâu trưởng đã để ý cái nhẵng tính tai ác đấy của bà mẹ chồng từ lâu. Có lần chị cũng nói trong bữa ăn, nhưng nói vui thôi. Bà buông đũa xuống, đứng lên: "Tôi vu oan giá họa cho ai để tôi chết không nhắm mắt à?".
Các cháu cũng không dám nói cợt bà thế. Tưởng chỉ ở nhà giáo Nhất thì có thể sinh ra chuyện "chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ!" bà lão mới hay dở chứng, nhưng cả những khi ở bên nhà các cô Nhị, cô Tam bà cũng vùng vằng, mà trước mặt các con gái, bà còn rủa xả ác khẩu gấp mấy: "Là con chó dại cắn càn thì mới mở mõm ra ăn không nói có thế".
Cả năm nay bà lão ngại đi, chỉ ở nhà giáo Nhất, không sang nhà các con gái. Thỉnh thoảng hai cô em đèo lên anh yến gạo và ít tiền. Được cái anh em nhà này vốn cũng dễ dãi, êm ấm cả. Nhưng mà người ta bảo số tuổi càng gông đeo trĩu cổ thì lại chỉ trái tính hơn. Bao nhiêu nết na, kỹ càng, ý tứ và thời con gái nhanh nhẹn ve vé việc nhà của cô Tứ xưa mà bà lão Tứ bây giờ vẫn còn nhớ vanh vách đấy nhưng bà lão thì hàng ngày chỉ còn làm trò chơi cho lũ trẻ con.
Bà vẫn nói: Người ta trước kia không tuềnh toàng đoảng như chúng mày bây giờ đâu. Nồi cơm bưng lên phải nhớ lót rế, sới cơm thì có đũa cả, đàn bà con gái phải ngồi đầu nồi... Không vét nồi quèn quẹt, vét nồi là điềm năm ấy đói kém, mà cũng là nhà keo kiệt mới thổi ít cơm phải vét nồi thế. Dâu con trong nhà, giá có ăn được ba bát thì cũng chỉ thong thả hai lưng, mà khéo ý tứ đứng lên sớm hơn trước cả nhà. Bà lão vẫn thuộc in những thói phép thế. Bà hay mắng: "Bố chúng mày là thầy giáo mà chúng mày ăn uống hùng hục như lợn thế thì bố chúng mày đi bảo người ta học cái gì! ". Bà rỉa róc thế, các cháu chỉ cười hô hố.
Không phải chúng nó cười những sự cổ tích nhiêu khê của bà đâu. Mà chúng nó cười cái khác, cái hâm của bà. Chả là những răn dạy khuôn phép của bà lão bây giờ lẫn lộn cả với những cái dở hơi. Thói quen trên dưới nhường nhịn vẫn nhớ đời mà con người thì già đi, ít ai nhận ra tuổi đã khác thì cũng sinh lắm tính khác.
Ăn đói thì phải chóng đói. Mà người già ở trong làng, cả đời chưa chắc đã được đủ ngày hai bữa. Bụng còn thòm thèm, nhưng lại nghĩ, bây giờ chẳng còn làm ra của nả cho nhà mày, mắt kèm nhèm đuổi con gà cũng không được, nên bớt mồm bớt miệng lại. Nhưng mà thế thì đói, làm thế nào.
Khi nhà vắng, bà lão Tứ lần xuống bếp. Bà lão sờ soạng các thứ từ cái mâm chõng ăn cơm lên chạn. Có bát tương, bà lão thò hai ngón tay chấm rồi đưa vào hàng móm mút chùn chụt. Chỗ cơm nguội còn đến lưng liễn. Bà lão bốc một nắm to. Mỗi lần bốc rồi, bà lão lại lấy tay san phẳng vun khéo lại như cũ. Hai hàm răng bà lão đã rụng hết, lâu nay chỉ nhai bằng lợi. Hình như của ăn vụng bao giờ cũng ngon hơn hay là bà lão đương đói, lại đứng trong bếp một mình, cho nên cứ việc bốc bải, nhai nuốt, mặc sức mặc nhiên.

Bà lão tưởng thế thôi, chứ không phải lúc ấy có một mình đâu. Hai con mắt bà lão bị nhài quạt, bấy lâu chỉ còn thấy mờ mờ, đi trong nhà đã quen bước chân và người thì chỉ nhìn bóng mà đoán ra. Mấy đứa nhóc tụ tập ngay ngoài hiên. Trẻ con thích nghịch ác, chúng nó bấm lưng nhau im lặng rón rén vào xem bà ăn vụng. Bà mút tương, bà húp nước dưa, bà bốc cơm... Chốc bà lại hốt hoảng nhìn ra. Nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.
Có đứa thích quá, thúc cùi tay vào sườn đứa kia. Thằng nọ kêu toáng:
- ối!
Bà lão Tứ giật mình, đặt vội cái liễn vào trạn, khép hai cánh gỗ lại, quay mặt ra hỏi ngay ngắn tự nhiên:
- Đứa nào về đấy?
Bà lão còn lúng túng chưa biết nói thêm thế nào, một đứa đã hét to:
- Một, hai, ba...
Rồi cả lũ ồn ào hét một lượt:
- Bà ăn vụng cơm ? Một, hai , ba. Bà ăn...
- Cha đẻ mẹ chúng bay!
- Mép bà còn dính hạt cơm kia kìa. Cơm lại vãi dưới đất nữa...
- Cha đẻ mẹ chúng mày ? Tao thề có thổ thần hai vai, tao mà nuốt trộm một hột cơm của nhà chúng mày thì giời tru đất diệt tao.
- Ê, ê... Một, hai...
- Tao thề...
Hôm ấy câu chuyện vui, trẻ con khoái quá kể với bố mẹ ngay ở bữa ăn. Bà lão đặt bát cơm ăn dở xuống, run run đứng dậy, nước mắt đổ ròng ròng, ra ngồi ngoài ngõ. Vợ giáo Nhất chỉ tủm tỉm cười, giáo Nhất thì quát chúng nó im. Giáo Nhất vốn người dễ tính, mãi đến chiều mới nói với mẹ:
- Bận sau bà cứ ăn cơm cho no, đừng phải làm thế.
- Tôi thề, tôi thề có quỷ thần hai vai, tôi không...
- Con chỉ xin mẹ thế thôi. Đến bữa cứ ăn đủ, đừng nhường nhịn mà khổ thân, mà để các cháu nói hỗn thế nó sinh hư ra.
Sáng hôm sau, nhà lại vắng như mọi hôm, bà lão Tứ nghe ngóng xung quanh im ả, rồi lần lần vào bếp. Những đứa trẻ lại đến đứng ngoài hiên từ lúc nào, thêm cả mấy đứa hàng xóm cũng sang xem "trò chơi" bà ăn vụng. Mà bà không biết.
Bà lão Tứ bốc cục cơm, móm mém nhai. Thì...
- Một, hai, ba...
- Bà già ăn vụng! Một, hai... bà già...
Bà lão trợn hai con mắt cùi nhãn, lật đật đóng cánh cửa chạn.
- Đẻ mẹ chúng bay?
- Một, hai, ba...
- Có quỷ thần hai vai...
Thường mỗi buổi sáng lại sinh ra trò chơi ấy của trẻ con. Ngồi vào mâm, có hôm quên bố mắng, trẻ em lại lỡ miệng ríu rít kể. Bà lão lại bỏ bát cơm, lần thần ra ngồi ngoài ngõ. Giáo Nhất phải quát: "Không được hỗn!". Rồi những đứa trẻ cũng sợ bố, không dám nói huyên thuyên, bắt chước cả bà bốc cơm, nhưng mỗi buổi sáng chúng nó vẫn rủ nhau rón rén đến đứng xem bà vào bếp ăn vụng. Mẹ chúng nó chép miệng nói trống không: "Cả tối bà cũng lần xuống bếp, chả cứ ban ngày!".
Giáo Nhất lặng im. Nông nỗi nhà này cũng lắm éo le. Vợ giáo Nhất chẳng ưa mẹ chồng, nhưng nể chồng cho nên không bao giờ nói một lời nặng nhẹ như cái câu thế gian mai mỉa: "Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể; con nuôi cha mẹ con kể từng ngày", nhà không hề có tiếng bấc tiếng chì về gánh nặng mẹ già. Nhưng mọi việc phải làm cho mẹ, Nhất cáng đáng tất. Nhất không cho mẹ ra cầu ao, sợ nhỡ bà cụ lẩy bẩy sa chân thì khốn. Nhất tự tay rũ giặt xống áo cho mẹ. Vợ giáo Nhất làm như không để ý.
Cái sự con trẻ xấc xược thì giáo Nhất cũng chỉ coi như một bực mình lặt vặt dẹp đi thì thôi. Nhưng mà việc đời đổi thay như mưa nắng có con kiến và con người vần xoay ở trong, vả chăng, nghĩ hay chẳng nghĩ thì rồi cái việc ấy, cái ngày ấy cũng đến. Mỗi năm mỗi tuổi, bà lão Tứ ngày một yếu. Rồi bà lão Tứ ốm. Việc ấy, ngày ấy đương tới rồi.
Bà lão Tứ không dậy được. Rồi cũng chẳng ăn uống gì nữa. Giáo Nhất che chiếu lên một gian bên, kê cái giường ra phía ngoài cho sáng một chút. Rồi bẻ hai quãng nan giường dưới đặt một thúng tro. Lại cắt thủng cái chiếu để bà cụ nằm lọt một phần lưng vào chỗ giường khoét, cho tiện đái ỉa.
Nhà có người ốm cứ buồn thiu như ngày có mưa dầm, ấy là bà con xóm giềng rồi các thầy cô, học trò trường làng và trường bên đến thăm hỏi, quà bánh, lúc nào cũng có người ra vào.
Nhất bưng bát cháo vào giường mẹ. Mấy hôm nay bà lão không nghiêng người được. Nhất ngồi đút từng thìa cháo cho mẹ. Bà lão ngoẹo cổ ra cố nuốt, trông tội tội như con cá ngáp trên cạn.
Cũng hết được lưng cháo. Nhất đặt cái bát, kéo lại mép chiếu lệch góc trong. Một lúc, bà lão bỗng bảo Nhất:
- Mẹ có việc nhờ anh.
- Có gì thì mẹ bảo.
- Mẹ không phải là người làng này.
- Mẹ cứ lẩn thẩn nghĩ ngợi điều ấy làm gì?
- Không, mẹ có nghĩ đâu. Mẹ chỉ muốn nhờ con.
- Vâng.
- Mẹ quê ở Giang Hạ bến kia sông thôi.
- à làng Giang, làng Hạ.
- Làng Hạ, con ạ. Hôm nào con sang Hạ, con vào xóm Đồng, bây giờ già rồi thì không biết tên là gì, nhưng ngày trước tên là Cõi, anh cả Cõi. Con nói rằng ông Cõi có được thư thả thì mời ông sang chơi.
Nhất còn muốn hỏi thêm mẹ thế nào nữa, nhưng bà lão đã lặng lẽ nghiêng mặt vào vách.
Cái người ngày trước tên là Cõi, cái anh cả Cõi ấy là tôi. Bây giờ tên tôi vẫn là Cõi, bởi tôi vẫn bà cô ông mãnh thế. Có điều, đã tuổi tác, theo tục lệ và thói quen kính nể, ít người réo tên tục người già ra nữa mà làng xóm gọi tôi là ông Ba, cụ Ba - chỉ có mấy con mẹ bán bánh đúc tương ở chợ hay ỡm ờ chớt nhả thỉnh thoảng cứ réo tên cúng cơm gọi đùa lão Cõi, ông mãnh Cõi, bao giờ ông Cõi cưới bà ấy cho chúng cháu được ăn cỗ. Có mà lấy bà sáu tấm. ấy, chúng nó cứ trêu chọc thế. Tôi chẳng chấp.
Anh giáo Nhất chắp tay nói:
- Mẹ cháu có lời thưa với ông...
Chỉ mới nghe thoáng thế thôi, tôi đã như thấy ngay cả rồi. Như là có thần linh cách cảm giao nhau khi người ta cùng nghĩ đến nhau hay là bởi nét mặt người đàn ông này, cái mũi và con mắt sao mà phảng phất cô ấy đến thế.
Mấy chục năm đã qua. Nhưng mấy chục năm ở quãng giữa trống không, người trong cuộc thì ngỡ như chẳng có khoảng cách nào. Cô ấy ngày trước con nhà khá giả vườn trên ao dưới. Mà tôi thì bố mẹ nghèo quá. Dây dợ đâu đâu vương tơ khi trai gái đương thì, cái duyên cái nợ mà gặp nhau thôi. Cô ấy bảo tôi: "Anh về nói với mẹ bỏ cái nghề cắp thúng đi khâu mướn thì...". Tôi bực mình, mát mẻ: "Nếu mẹ không bỏ được cái tội đi khâu mướn ăn cơm nhà người thì giá xem có được ngày nhờ người đến đánh tiếng chắc ông phó lý bố em cho tuần cầm ba toong ra đuổi ông mối, chứ gì! ". Thế là cô ấy lại khóc, chỉ khóc.
Làm sao cho mẹ tôi vứt đi đâu được việc khâu mướn ăn cơm khoán, cho bố con tôi thôi đi bổ củi thuê và các em tôi ngày không cắp cái bị bật quai ra cửa đình nhặt lá đa về phơi lấy cái đun. Chúng tôi như con săn sắt, con mài mài trong ao làm sao bỗng thành con cá hóa rồng được. Làng xóm dần dà cũng biết cuộc dan díu thầm vụng éo le này. Ông phó lý đã đánh cô con gái thừa sống thiếu chết. Có khi xích chân vào cột buồng cả phiên chợ. Nhưng mà dường như cô ấy lại càng bồng bột như điên. Xểnh ra lại đi tìm tôi. Có khi khóc đến hết nước mắt rồi cô bảo tôi hay là bây giờ hai đứa cùng ra cái đầm đầu làng nhảy xuống trẫm mình. Tôi phải chắp tay van lạy níu cô ấy lại.
Thế rồi chỉ một việc nhẹ nhàng, vừa tan hoang lại vừa xong. Bố mẹ cô ấy tìm gả được chồng cho con gái. Đất làng này, nơi môn đăng hộ đối những nhà phó lý, trưởng bạ thường thường bậc trung, trước sân có hàng cau, vườn sau chuồng lợn ao bèo thì cũng chẳng mấy khó khăn. Mà cô ấy cũng chẳng tai tiếng đâu đến nỗi. Những chuyện trai gái phải lòng nhau làng nước coi như chuyện trẻ con mà người ta đồn đại dông dài chứ phải đâu gái chửa hoang, quân giăng há lên tỉnh la liếm hàng cơm quán trọ. Thế nào thì rồi mọi chuyện gả bán cũng xong xuôi như trăm nghìn đám cha mẹ đặt đâu ngồi đấy thôi.
Rồi nhà nọ đi xem mặt, dạm ngõ, ăn hỏi, lại đã qua một cái sêu tết tháng bảy, đến dạo cơm mới tháng mười này thì cưới. Một hôm, cô ấy đi chợ rồi không về nữa. Thế là biệt tăm từ ngày ấy.
Bây giờ anh giáo Nhất mới nhớ lại và nhận ra hình như cả một hồi còn trẻ không khi nào mẹ đi xem hội hè đình đám chèo hát ở đâu, cũng chẳng biết mặt cái chợ huyện, mà quanh năm mẹ chỉ như gái đẻ chít khăn vuông xùm xụp, ra cái chợ hôm lèo tèo mấy mủng cá tép ươn của nhà chài dưới sông đem lên đầu làng lúc xẩm tối. Con người gan liều đến thế. Chẳng được đẹp phận như người ta, thôi thì coi như một đời đành vùi vào chiêm bao, chỉ có một mình mình biết.
Cái lão ba Cõi tôi theo giáo Nhất về bên sông ngay hôm ấy. Hai ông con qua đò ngang. Chiếc đò ngang xưa kia, ừ con đò ngang ngày ấy. Có lẽ như từ bao giờ vẫn thế. Bên này ới bên kia, con đò tai nghễnh ngãng, chểnh mảng, ẽo ợt, lững lờ sang. Năm xưa, đã có những giêng hai, mưa bụi như phấn hoa ngô bay, những chuyến đò đưa đầy người vào xem hội làng trong cánh đồng.
Còn đương bâng khuâng về những ngày nào, thì mũi đò đã đụng bờ cát. Anh giáo Nhất vác cái xe đạp lên trước làm chòng chành con đò ọp ẹp. Ông Cõi đứng dậy, chị nhà đò một tay bế con, một tay giơ chiếc bơi chèo cho ông lão níu lấy, lẩy bẩy lần lên. Rồi tôi lại vẫn đương đi về ngày xưa. Tôi vừa lập cập vừa xăm xăm bước. Anh giáo "mời ông lại lên xe cho con đèo ông đỡ mỏi" nhưng tôi bảo anh cứ để cho tôi đi thanh thả thế này. Xóm nhà anh tôi cũng biết rồi, chỗ khoanh tre quãng sông dưới kia chứ đâu.
Nghĩ thế thì tôi bồi hồi giật mình. Làm sao chỉ vài bước chân mà cả đời tôi không nghĩ được ra, không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn thấy tôi.
Nếp nhà ba gian lợp lá mía, dứng tre trát xi-măng xám nhạt. Trước sân, hai cây mít xum xuê lá. Một vườn xoan sau nhà. Cái cổng rong cành rào trống hốc, con chó cũng chui lọt. Nhà tuy ngăn nắp nhưng cũng chẳng có của nả, cũng không cần cửa giả nên hồn. Tôi bỗng ngỡ tôi đương đi về nhà tôi. ừ giá mà ngày ấy chúng tôi lấy được nhau thì nhà cửa, vườn tược, con cái chắc cũng tương tự thế này. Ngày ngày ra sông xuống đồng kiếm cái ăn, cả đời người chẳng có điều phải nghĩ xa nghĩ gần. ở trong làng xóm, ngẩng mặt lên bốn phía khoanh tre mù mịt, quan tâm đâu đến ngoài kia đồng đất thế nào, tôi đương đi về nhà tôi đây. . .
Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê đầu giường bà Tứ. Lũ trẻ lại đã lấp ló ngoài hiên. Từ hôm bà ốm, mỗi buổi sáng trẻ con không còn trò xem bà ăn vụng nữa. Chúng nó cũng buồn. Bây giờ chỉ còn ngóng khách đến chơi thăm bà- nhưng nhiều khi chỉ toàn người làng, nhìn mãi cũng chán mắt, lại tản ra ngoài vườn nhặt quả xoan non đánh chắt, chơi đố lá.
Không, bà lão nằm ốm liệt giường kia không phải là cô ấy. Trong tưởng tượng của tôi chưa bao giờ nghĩ ra nông nỗi buồn thảm này. Tôi ngồi im. Tôi nghĩ thầm, tôi cầu mong không phải. Thì cũng đâu phải cô ấy ngày xưa, cô ấy ngày xưa cơ mà.
Tôi cởi gói bánh lúc nãy đi qua mua ngoài chợ và rồi lại lặng im chẳng biết nên nói thế nào.
- Nhà vẫn ở dưới Hạ, chỗ cái bụi duối to ấy, hả ông?
- Vẫn đấy. Nhưng cây duối thì làng xẻ đóng làm bàn cho trẻ học rồi, bà ạ.
- Ông thứ lỗi cho tôi.
- Làm gì mà phải nặng lời thế. Cố thuốc thang ít lâu cho khỏe rồi còn đi hội làng trong. Tôi vừa qua đò, sắp sang tháng hai rồi đấy.
Trên khuôn mặt méo mó thoảng một nét cười mếu.
- Ông vẫn chúa hay pha trò. Ông ơi, tôi chết không nhắm mắt được, tôi không giữ được lời với ông.
- Đã bảo thôi mà. Ngồi dậy ăn bánh, cái bánh nếp mật ở chợ bây giờ chúng nó làm cũng khá.
- Ông bỏ lỗi cho tôi.
- Thôi mà . . .
- Ông nói đi, ông bỏ lỗi cho tôi.
Tôi run rẩy đưa hai bàn tay lên mặt người con gái năm xưa. Mặt người ốm trắng nhợt nhạt như đá, mà nước mắt thì nóng ấm đầm đìa lòng bàn tay tôi. Tôi sờ đến hai con mắt, hai con mắt mềm mềm nhắm lại, tôi dừng tay. Anh giáo Nhất quỳ xuống, ôm hai đầu gối tôi. "Ông ơi, mẹ cháu đi rồi". Tôi vuốt lại hai con mắt người vừa nhắm. Thôi thế bà ấy đi rồi, cô ấy đi rồi.
Những người con dâu, con gái đứng ở chân giường ôm mặt khóc nức nở. Lũ trẻ con chạy tán loạn ra vườn, tiếng khóc ánh ỏi, léc téc như những con chim sẻ bay vỡ đàn.

Trong nhà, trừ người, chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ về mặt bộ, mặt thuỷ. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn để đánh hơi, để hỏi han và để mắng những người lạ đi tơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng hắn lội xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt mấy tiếng còi, hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được việc. ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèn, ủng oẳng, sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình hắn lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên. Con mèo rất khác. Mèo lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quí phái và trưởng giả. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa toan một việc gì ghe gớm lắm. Có phải thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu tợn. Nhưng ngoài cái vỏ ngoài chưa thể đủ để nói rõ được bề trong. Biết đâu, mèo ta không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại hiền lành cũng nên?
Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây rộng, ở làng Nghĩa Ðô, cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng...
Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều . Cái bộ lông mèo mướp thực là dị kỳ. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trôn rất nhỏ, hoà hợp lại thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ mịt như có tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vấn một chút bụi tro. Ngắm thì không đẹp mắt, nhưng nếu sờ tay vào, nó muốt như sờ tay trên tấm nhung tơ.
Hai mắt mèo tròn và quắc như hai hòn bi ve để dưới ánh mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như môi son hồng của các cô con gái đương thì. Ðàn bà không ưa cái mũi đỏ ấy. Người ta bảo mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng nhắc như ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch, đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt trụi cả đôi hàng ria xuôm đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, nó lại trổ ra như thường.
Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn ngủ hoài, cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng thanh, dáng lâng, đẹp biết bao! Lúc bấy giờ, cái thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.
Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù gù. Ðể đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi rà rà thâu canh như người trương tuần. Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là một người rong chơi lông bông.
Chẳng có những bác trông mặt thì ra dáng đăm chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ định nào.
Gã ngồi đấy, ở trên mặt dại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôI chân sau gấp lại, y như lối ngồi xổm. Ðôi mắt nhìn xa sôi... Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên gãi mép, cũng như người ta đưa tay lên vuốt râu cho nó oai vậy. Trời đã xế chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang, tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái, lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng khơi, người ta kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt sạt đụng vào thành giếng đá. Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định sao, hắn leo tót ngay lên, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau điệp trắng, rồi lại tụt xuống, rồi đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoan khoái một điều mà hắn thường nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét tư lự.
Y ngồi vào thì lì bên bếp tro. y nghiêng mang tai để rũi vào một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cần gãi.
Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì không thấy đọng gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện có mắc bồ hóng đen xạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.
Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại, bước từng bước rất nhẹ về phía đống củi. Ðống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp, vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện ch quân gian núp náu.
Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được một tiếng động nhỏ. Ðã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên một đống củi. Ðấy là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất tinh ranh, hễ tha được một hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.
Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. ý giả mèo ta tin rằng giống mình giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết điều mà lại hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai bề trên.
Hai cái tai mèo mướp hơi động đậy. ấy là khi anh hết sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai lừa tý hon. Cái vòng tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.
Gã khum hai chân trước xuống nhìn vào gầm đống củi. Rõ ràng gã trông thấy một chiếc đuôi nhỏ và dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Ðúng cái đuôi chuột. Gã nép về một bên, thon người lại. Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ đừ, hiền hậu hàng ngày. Y quời quời cái chân. Sau y biết làm thế hấp tấp quá. Phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.
Lại có tiếng rúc rích ở trong. à có hai thằng chuột rửng mõ đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng mèo!
Tuy cáu nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn để chờ cơ hội tốt đến. Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại chạy ra tận ngoài. Thò cái mõm nhọn ngửi xung quanh. Lộn tiết, gã mèo đã toan chộp, nhưng chuột lại ngay vào mất. Con mèo lại yên lặng, chịu khó ngồi rình.
Bóng tối chùm xuống mau nhẹ. Vừa với nhọ mặt người, bây giờ đã đêm hẳn. Ðêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đầu đường. Một mảnh sáng nhờn nhợt in trước sân bếp. Trên nhà, người đã quẹt diêm để châm sáng đền cho trẻ học. Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc.
Hai chú chuột ở trong gần đống củi hẳn thấy trời tối rồi thì muốn ra ngoài chơi lắm. Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cửi qunh năm mà không chết ấy, bữa nay chắc đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã thấy nó rên gừ gừ ở trên đầu ông đầu rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác một cái gì ăn thì hay quá.
Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra đống củi đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe choé.
Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng một ngón chân người lớn ta. Ðấy là hai con chuộc nhắt. Chuột nhắt bé hơn chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt bát hơn nhiều . Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu - cứ vác cái mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt, rè rè. Hễ hơi có cái gì đáng sợ là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Ðã thế còn chậm và không biết leo tường, leo cột, chỉ luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ chuột đó. Không phải là ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa "Hôi như chuột chù" - nhưng người ta chỉ ưa có tiếng kêu "chuúc...chuuuúc...". Các cụ ta nói: " ấy chuột chù bảo: túc, túc, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài".
Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm chúng xinh xinh vừa phải. Về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng, chúng leo vun vút, chúng chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hoá.
Thoạt thấy bón đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp mừng khấp khởi. Nhưng rồi chàng chán đớ ra ngay. Nó tưởng chuột chiếc to tát thế nào, chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt tép ranh ấy thì nó đã bước từ nãy, không phải tốn công, tốn sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực cũng tại cái tính lười nhác cố hữu chả muốn cất đại công trình mà được chỉ có một tí ti kết quả đó thôi.
Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Ðùa một mảy vậy. Nghĩ vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế rồi vươn hai chân ra chộp cả hai bóng đen ngọ nguậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí...i...". Một con thoát được, còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và doạ dẫm. Chú chuột khốn nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và sắc của ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ ếch đại vương lấy một bàn tay mà vỗ vào vai.
Chú chuột nhắt bị mèo tha ra đến cửa bếp và được thả xuống đấy. Mèo không hề chú ý đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường chàng ta ví mình như một người anh hùng cái thế, có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống, còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng. Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn mà gã cũng không thả chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và loài chuột là loài đáng ghét lắm.
Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh nhân sự từ nẫy giờ mới lại hoàn hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng, dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột chàng ràng ra nhin gã. Chỉ ti hí mắt lương mà ranh thượng hạng.
Bỗng, thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng chàng mèo vẫn nhanh hơn. Chàng vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi chao! Chàng ta mới chộp cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chíi...chíi..." rầm cả lên.
Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu khiển qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng, giả vờ để yên chú ra đấy. Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi không nhúc nhích.
Nhưng chính ra chuột vẫn rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Ðể hễ khác ý là chuột lại chuồn biến. Còn mèo, mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo giương oai thả lỏng và chắc chắn chẳng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.
Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng cũng không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi lên một tí, đã túm được dễ dàng. Mãi rồi con chuột hoá mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.
Khi đó, trong đống củi, bõng lại có tiếng rúc rích. Lại có tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy mà chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho chúng chết một mẻ, nhưng mèo vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Ðã thế, phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ làm như sắp lăn ngay vào chiến tranh với những quan thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay. Song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngắt tiếng là chúng nó lại "chiií ...." rầm rầm. Làm điệu như xỉ vả bác mèo.
Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên như chết vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất dài đầy ánh trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng bóng tối dầy ra, mà tìm thấy chú chuột nhắt tí hon.
Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra cũng chẳng tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng chíi...chíi quái ác, rất khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.
Chàng mèo mướp - mà chàng nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế. Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay chạy trốn được. Ðời đời, cái giống chuột nhắt tai quái cứ làm rức tai loài mèo.
Suốt đêm hôm đó, gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ làm ta rối đầu và ngứa mắt quá.
Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột.

Tôi có việc đến Phnôm Pênh. Thời kỳ 1962 phức tạp, ở Phnôm Pênh có cả hai tòa đại diện ngoại giao miền bắc và miền nam Việt Nam. Gần Sài Gòn quá, nếu lộ tông tích, e xảy ra bất trắc. Phải làm thế nào, nhỡ khi la cà quá xá không ai biết là người ở Hà Nội tới. Bộ đồ mùa thu mới pha len xanh nhạt, túi áo vét cài mảnh khăn trắng nhỏ, bắt chước làm dáng kiểu Sihanuc, thời đó thịnh hành ở Phnôm Pênh.
Tối ấy, chơi sàn nhảy bè nổi Trăng Sáng trên sông Mê Công. Giữa trời nước, giả vẻ thôn dã. ánh điện vụn ra, mờ mờ trăng suông. Từ chỗ này đến chân cầu Chang Va, nhấp nhô, óng ánh những sàn nhảy, những quán ăn trên sóng.
Người ta vừa ăn, vừa nhảy, vừa nằm ngồi rủ rỉ trong những ngăn buồng vách bên sàn. Tôi ngồi một chỗ, nghe sóng ì ọp dưới chân và ngoài kia sáng trăng- trăng giãi lăn tăn như mắt lưới.
Một cô gái nhảy đến ngồi bên. Mụ Tú Bà, chẳng biết người ta hay người Tàu, mặc áo "xường xám" xanh, bước thon thót như con châu chấu ma. Sai phái con em đến với khách, mụ đã sắp cỗ cả.
- Mời anh...
- Không nhảy nhót gì đâu. Cút đi nhé?
Nghe mắng yêu và thấy tôi tợp cả ly rượu mạnh không pha đá, cô gái nhảy tỏ vẻ hiểu rồi.
- Em ngồi với anh vậy.
- Cứ đi, lúc nào nhảy mỏi hẵng lại đây nghỉ chơi.
"Anh đuổi em thật à. Cảm ơn nhé?". Tiếng cảm ơn chưa dứt người đã đi thoảng ra đằng trước. Nó chỉ mong có thế. Nó đã lĩnh tích kê ghép đôi với tôi, giờ lại được đi tìm khách, nhận tích kê tiền lần nữa. Có lẽ chúng nó bảo nhau hay mụ áo xường xám đã khéo để mắt, một cô khác vẫn đến.
- Cho em ngồi hầu anh.
- Cứ việc.
Một lát, không thấy tôi nói gì, nó bảo:
- Cho em đi nhé ?
- Cứ việc!
- Cảm ơn anh yêu.
Nó đi luôn. Nhà hàng đã tính một xuất, lại được đi tìm khách. Lãi quá. Có đứa vừa ló ra, tôi đã hất tay. Nó cười nhoẻn, đi ngay. Lại đứa khác.
Chẳng sao, đàn cá mài mại đến rỉa mồi. Chắc tôi được tiếng chơi sang nhất hội đêm nay rồi.
Cô này khuôn mặt quen như đã gặp ở đâu. Thoáng hiện về như gần mà như xa, dáng dấp một người chết đã lâu. Vong hồn cô Ðạm Tiên nào đêm nay theo nhau đến tận chốn sông nước chân mây này. Tôi im lặng. Cô gái mặt trái xoan nhẹ nhõm. Nếu không gặp ở đây không thể tưởng là một cô gái giăng hoa.
- Sao anh cứ nhìn em thết!
- Xin lỗi em.
- Em mới có lỗi. Không biết anh đến, em mặc dơ thế này thì không phải với anh.
- Chẳng sao.
- Anh đưa em về nhà thay đồ rồi em mới dám ra với anh. Anh lái cho em, em ở gần đây thôi.
- Anh mới bên Singapore sang, chưa mua xe.
Tôi đâu biết Singapore chốn nào! ấy là tôi đã được nghe kinh nghiệm đến Phnôm Pênh tỏ vẻ sành sỏi thì phải nào Casino núi Bokor dưới Kampot, rồi bãi tắm Kép, rồi nơi ăn chơi "Kép nhỏ" trên sông cách đây vài cây, rồi ông Sihanuc mới thuê từ Pháp về trưng bày cả phòng ba bức tranh của danh họa Buffet. Rồi bản ca khúc mới nhất của ông Sihanuc về Phnôm Pênh, rồi... Bấy giờ Singapore sống hoa lệ, Hồng Kông không bén gót. Nói ở Singapore về, làng chơi thèm rỏ rãi, mà gái chơi thì lác mắt. Quả nhiên bài thuốc Singapore nghiệm tức thì, cô gái nhìn tôi, mắt đăm đắm, thuần hơn. Ôi chao, sao mà nhớ ai kia, sao mà nhớ.
- Em ở đây?
- Em mới lên.
- ở Sài Gòn?
Cô gái nhảy mỉm cười, cúi xuống, nhắc ly rượu của tôi, uống một ngụm.
- Em theo người ta di cư vào nam. ở ngoài ấy, em đi nhảy các đồn biên thùy, Tiên Yên ra Hà Cối, Ðầm Hà... Anh biết Hà Cối chứ? Ðến khi tụi Tây vào Sài Gòn, nó hợp đồng đem chúng em đi. Ðược ít lâu, Tây cút về nước, cho rơi luôn, thế là bơ vơ.
- ở Sài Gòn làm ăn còn được.
- Anh chưa biết à? Dưới Sài Gòn nó cấm các "ba" rồi. Anh cũng người ngoài à?
- Bao giờ hết loạn mới được về với mẹ cái hĩm.
- Không che được mắt thánh đâu. Anh ở Hà Nội vào.
- Em đẹp lắm. Em giống một người ngày xưa của anh.
Cô gái lung linh mắt, cười.
- Hay là người ta đấy?
- Người ta chết rồi.
Nhưng cô gái đã khẩn khoản:
- Em có thằng em ở phố Hàng Giày. Hôm nào anh về cho em gửi nó mấy chữ. Ðời em gian truân lắm . . .
Lát sau, tôi về cùng với những ông chủ tiệc đã tha tôi đến đây. Tôi ôm người gái nhảy. Chúng tôi hôn nhau, hôn thật. Nước mắt cô ấy mằn mặn trên môi. Cuộc chia tay phút chốc đâm ra não nùng.
Sài Gòn giải phóng được ít lâu, thành phố vẫn còn ngổn ngang những phân vân, những ngỡ ngàng. Ngày trước tôi đã từng qua lại nên không lạ mắt lắm. Có vài dinh cơ và nhà cao tầng mới còn thì đại để vẫn thế. Ðường xe lửa điện không còn nhưng những cột đèn cột điện từ đầu thế kỷ vẫn đứng như những bộ xương người sụn lưng lọm khọm vì bị chằng chịt cơ man từng nạm dây điện vắt qua. Còn nhận ra nhà hàng Thanh Thế xưa đầu tiên bán kem Nhật và cái tiệm cơm chay vẫn chật chội thế ở trước ga xe lửa Mỹ, cánh cửa và bàn ghế xám xịt mầu nước dưa.
Tôi rỗi rãi, thỉnh thoảng ngồi xích lô rong phố.
Tôi hỏi người đạp xe:
- Quảng Ngãi vô hả?
- Chưa biết Quảng Ngãi ở đâu. Nghe bố con kể quê Quảng Ngãi thôi.
- Làm ăn thế nào?
- Cũng vậy vậy. Bây giờ khó nhiều. Các ông giải phóng không đi xích lô, các ông bảo vì thương người lao động, thế thì chết mẹ con rồi.
Tôi cười ha ha.
Mặc nhiên, cậu xích lô đời bố quê Quảng Ngãi ấy với cái ông Bắc di cư dởm cứ chuyện với lên với xuống thoải mái râm ran cả đường. Tôi hẹn cậu ấy vài hôm lại đến Thanh Ða gọi tôi đi dạo một vài cuốc. Ðôi khi, ghé quán làm chầu bia 3 con 3 còm. Tôi rủ, nhưng cậu xích lô không dám vào. Chắc e ngại có thật ông này dân di cư hay thế nào.
ở đường Ðồng Khánh, ở chợ Ðũi, chợ An Ðông, những tiệm nhảy, những nhà hàng đều còn đóng cửa nghe ngóng. Mấy quán bia tạm bợ lấp ló quầng ánh đèn không hắt sáng ra đến vỉa hè.
Quán ấy ở chợ An Ðông. Trong tôi có cái chán chường, chán mà vẫn đi, đi chơi kiểu lấp sổ như thế. Bia chai con hổ, con báo hay con ba ba, lờ mờ quá, nhưng mỗi khách vào thì cứ tự nhiên, một cô em đến bên cạnh, nửa đùa nửa thật làm quen.
- Anh cho em uống với.
- "Con hổ" nhé.
- Dạ.
Cô ấy đã bưng ra chai bia và ly trà đá. Cung cách thế biết là đi làm quán bia không công, chỉ ăn vào khách. Chốc nữa, những ly trà rồi tính với chủ thành một chai, hai chai, ba chai... Cũng như cái tích kê vào "ba" ở Phnôm Pênh ấy mà.
Ô hay, tôi lại thấy cái cô gái nhảy ở Phnôm Pênh tối năm trước bảo là có cậu em ở phố Hàng Giày. Cô đến ngồi với tôi. Tôi vẫn nhớ, mà tôi cũng đã quên rồi. Cái khuôn mặt hao hao ai ở tuổi mười tám đôi mươi dường như chỉ tưởng ra thế. Cho được ngậm ngùi thôi.
Hơn mười năm rồi, cô ấy bây giờ ốm hom hem, mặt phấn nhưng cái cổ để mộc, ngẳng lại, nổi vằn mấy đường gân xanh. Mùi nước hoa, xà phòng thơm không át được hơi thở tanh tanh. Ðêm xưa, cái hôn nước mắt trào xuống, chứ không phải người này.
- Anh mới vô?
- Bên Ða Kao thôi .
- Em cũng ở Ða Kao.
-Người như cua bò biết sao hết.- Rồi tôi hỏi trống không.
- Di cư à?
Cô gái buông một tiếng nhạt thếch.
- Không.
Chuyện tỉ tê, lông bông lăng nhăng. Cô không nhận ra tôi. Khách làng chơi, làm sao nhớ được. Thế cũng nhẹ mình.
Mấy năm sau, đôi ba khi lại vào Sài Gòn. Nhưng không nghĩ đến chợ An Ðông. Cũng thường chơi nhởi vậy mà ít đi ăn. Món ăn Bắc ở đây tuy được chuộng nhưng quà Bắc sai vị Bắc, đâm ngán. Thịt rựa mận phải có da có mỡ, đằng này là đĩa xương rựa mận, nước lợ như đường.
Những ngày cuối thu miền bắc hình như cũng làm cho trời đất phương nam dịu đi. Gió hây hẩy, những đốm lá me vàng rụng lăn tăn. Mát mẻ đôi chút, hay nghĩ đến thịt chó. Chúng tôi đi quán thịt chó Huế ở Lăng Ông- có người mách quán ấy cũng như quán bà cô đầu già ở hẻm đường xe lửa gần chợ Ðũi, những nơi còn ăn được. Nhưng thịt chó Ba La, Phủ Lỗ chứ, sao lại Huế? Chậc, thì cứ đi xem nào.
Chữ "Thịt chó Huế" sơn vào mảnh tôn treo bên gốc cây me cổ thụ, trước cái lều vách tôn, mái tôn, lá me rụng xuống đã bao nhiêu năm, dày kệp, mục đen như những mái rạ thời nào ở các làng miền bắc. Cơ chừng mà rúc vào cái hang cái hốc này chén món cẩu nhục có khi lại hay.
Nhưng những cái trước mắt đã làm cho chúng tôi ỉu dần. Hai chiếc bàn trống hốc. Bếp núc đằng sau vách, thấy làn khói than đước lên xanh len lét. Dưới gầm tấm ván bên, có đến ba bốn nhóc lầm lụi chui ra. Không biết chúng rúc vào nghịch hay ngủ trong ấy. Toàn con gái, ba đứa, bốn đứa, đứa nào cũng tóc xoăn xù, có đứa da đen nhẻm. Chưa hết, đằng sau nhà, tiếng búa, tiếng dao lạch xạch chặt củi, đụng vào vách tôn, kêu kênh kênh. Có tiếng người đàn bà đương rít lên, rủa: "Chúng bay chết đi! Chết hết đi!".
Biết có khách, bặt im. Một người đàn bà bước ra, tay còn cầm cái roi lò ô. Chao ôi, lại người ấy, vẫn người ấy. Ðời người ta, nhiều sự đã qua không nghĩ đến thì nó cứ trở lại như những ám ảnh không dứt ra được. Nàng đã tã lắm, lão lắm, không còn chút nào hao hao giống ai, mặt trễ xuống, má hõm lồi lõm, mớ tóc phi dê lờ phờ.
Người đàn bà đon đả:
- Chào các ông, mời các ông.
- Ðã bán mở hàng chưa?
- Vắng hả? Hôm này rằm. Chỉ có khách tri âm, tri kỷ, khách nghiền mới đến thôi.
- à...
- Thịt chó Huế có gì hay nào?
- Hay lắm. Các nơi khác thì chỉ bảy món, ở đây mười bốn món ạ, thứ thiệt. Chính gốc chứ không phải giả cầy như các ông bắc leo cây đâu. Các ông ngồi, mời...
Câu nói dài dòng tưởng không thể chắp nối kịp về con người, cuộc đời với giọng kể lể. Có thể coi như câu chuyện làm quà, để đưa đẩy, để bán hàng, để lấy cái kiếm sống, biết thế nào. Lúc thì bảo là ở Hà Nội, lúc thì di cư, lúc thì quê đẩu đâu, cái mà tôi trông thấy từ năm là gái nhảy ở sàng bè Trăng Sáng bên Nam Vang, rồi cô bia ôm chợ An Ðông, rồi bao nhiêu năm sau, lăn lóc đến quán thịt chó Huế mười bốn món này. Trước mặt đây, một lũ lĩ con gái, đứa da nhờ, đứa đen bóng, lêu đêu, tóc xoăn tít. Ðằng sau con người ấy, còn gì nữa?
Chỉ một thoáng đã lần lượt bày biện các thức ra đủ. Thế mà khoái mắt, người xơi thịt cày thích ăn uống trật tự, quy củ món trước món sau. Lũ trẻ con lốc nhốc ấy mà được việc. Bưng bê từng món, hơn cả món chó Hà Nội bây giờ xô bồ, khách vừa gọi đã lia ra cả thực đơn, chưa có đĩa bún, đã ngốt mắt bát rựa mận, đúng rựa mận. Mỡ và bì tiết ra một thứ nước sền sệt mầu mận chín quánh như mỡ. Bát sáo bốc mùi xương hầm, không ngọt lợ nước dừa. Ðích thị tay nghề thịt chó Cầu Ðơ Hà Ðông. Chứ kiểu cách nơi khác làm thế nào được. Sáo này thế là xài tốt, vậy cũng chưa vắng người thiện nghệ, người sành. Cái ngày rằm chén thịt nặng thì xúi quẩy, thế mà vẫn có khách tới ngồi bàn bên. Hai ba con chó dự trữ lục đục gặm xương dưới gầm nhà, gầm phản. Lũ trẻ con - mấy đứa bé nhất đã ngồi lên ván từ lúc nào, trố mắt hau háu nhìn sang khách như thèm ăn, như xem vô tuyến, còn hai nhóc đứng trực cửa bếp, chuyển món vào. Lúc đã bưng đến bát sáo và đĩa bún, thế là xong, mấy mẹ con cùng bước ra.
Tôi bảo:
- Ngồi uống vui với bọn này. Chẳng mấy khi...
Chị ngồi vào ngay. Tôi hỏi:
- Uống tối chứ?
Vẫn nhớ đêm ở sàn nhảy trên sông Mê Công cô đã uống chung với tôi ly "uých ky xếch". Cái hôn nóng nhày nhụa. Tôi cảm tưởng môi cô ấy thế. Nhưng mà môi nào chứ không thể cái môi trễ của mụ gà rù rúm ró này. Sàn nhảy bóng nhoáng khác cái cũi chó, cho nên nhớ mà như không, tội thế.
Tôi nói :
- Thịt chó này được.
- Ba tôi truyền nghề đó.
- Rựa mận kiểu bắc.
- ông làm như quê ông cái gì cũng nhất. Còn khuya!
Hai con mắt mu bào húp híp chằm chằm nhìn tôi.
Cái tối hôm ở Singapore về, "pôxét" cài "mùi xoa" trắng mốt mới, nhớ không? So với bây giờ thì người ấy đã tã đã gà rù lắm, gà rù lắm rồi, không nhất nữa đâu, đừng có vênh. Tôi lặng người như nghe ai chửi rủa ở đâu. Làm vẻ quên đi, quên rồi, nhưng mà cái câu rỉa rói "gà toi, gà rù, gà tã" mà tôi vừa thầm nghĩ về nó, bây giờ nó quăng độp cả vào mặt tôi, tím mặt tôi. Không còn "như con bướm lượn vành mà chơi" đâu nhé, tôi ơi là tôi ơi. ấy con người có thói thường ít tự biết.
Một chiếc xích lô lọc cọc nhô vào đỗ dưới gốc me ngoài cửa. Thình lình thằng bé xích lô quê Quảng Ngãi nhô vào. Nó nhìn tôi, nó reo lên:
- Chào bác, bác đến...
Một ông bạn cầm chén, hướng vào tôi:
- Nhận con, mày nhận con mày đi. Cái thằng này bạc như vôi. Ngủ với người ta rồi quên. Hề, hề, hề... Mày đã nghe hết mẹ mày xỉ vả ba mày về cái tội lòng thòng. Ðích đáng, đích đáng. Mời các ông, mời bà, mày nữa, một chén tái hồi Kim Trọng nào.
Thằng bé xích lô ngẩn mặt nghe giọng ông say lè nhè. Tôi thấy nước mắt người đàn bà lã chã. Bỗng nghe văng vẳng cái câu năm xưa: "Ðời em gian truân lắm" như vừa nói vừa khóc. Tôi tưởng là quả thật tôi đã có ăn nằm với người ta. Chén rượu Hóc Môn hẳn hoi mà sao vị nó cài cài không đậm như mọi khi.
10-1995

Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa.
Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này:
Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi:
- Gái ơi!
Không có tiếng đáp. Chị réo:
- Ơ ơi... Gái ... ơi ơi ... Gái ...
Vẫn im. Chị lại réo:
- Ơ ơi ... Gái ... Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi !
Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra:
- Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không?
Chị không im. Chị nói thêm:
- Người ta gọi nó mà cũng cấm hả?
Chưa thôi, chị lại đay:
- Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì !
Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời ! thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày “đằng ấy” người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng:
- Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra đọ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có...
Anh cũng không biết “đừng có” thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng:
- Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem.
Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó hóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoạt sau mông, ra điều nghe ngóng.
Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù đãn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chẩy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phết đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu.
Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu luoa:
- Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao.
Cáu, anh Duyện văng:
- Ừ, ông chửi cha con què đấy.
Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng:
- Ối thiên địa trời đất ơi! ối cha ơi! ối mẹ ơi! tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bẩy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường.
Tôi buộc bụng nuôi con... hu ... hu ...
- Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều ....
- Ối ông cả bà lớn ơi! ... A bấy lâu tôi nằm (ở) với ... chó đấy a ...
Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi.
- Chó này!
Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ:
- Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi !
Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát:
- Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông xau. Những của nợ kia, ông xửa chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày.
Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh “choeng” một tiếng xuống đất.
- Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi.
Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào:
- Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ!
Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi.
Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn:
- À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem.
- Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh.
- Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt....
Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tì lửa, vội kêu chóe:
- Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt nhà ... Nó ...
Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà.
Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi.
- Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem.
Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn.
Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhũng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện.
Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đát sáng ngời. Mầu lá cây xanh mướt. Nhũng con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh.
Bấy giờ khắp làng bầy ra một cảnh lạ mắt. ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. ở tay mỗi người lcầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp.
à, trời vừa mưa xong. ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen nhũ con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhũng chúng lớn hơn nhái, da dê bóng mỡ, thân hình có chạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn.
Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu.
Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng ặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái rỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào bầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt.
Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra ráng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà.
Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng súu đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình.
Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh.
Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói:
- Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem...
Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng đượct rằng lúc nẫy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: “Tiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đáy”. Rồi anh gọi:
- Ớ! Gái!....
ở trong sân, vợ anh nói với ra:
- Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con!
Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phí có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lũng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần. Rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi.
Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn tháy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại.
Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra. Thương ơi! bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về.
Tô Hoài, Bến Ray, Tháng Chạp 1942

Một phiên chợ áp Tết, những đứa trẻ phụ việc cho mẹ, chúng lớn lên được hai nhà gả cho nhau, đám cưới trong trận mưa rào đầu mùa, rồi lễ cheo ở đình làng, rồi người đàn ông đi buôn xa bị hổ ăn thịt, người đàn bà vẫn giữ lễ về quê chồng giỗ với đứa con bây giờ "chân nó dài bằng cái sào nứa"... Với bấy nhiêu tình tiết, bấy nhiêu câu chuyện dằng dặc gần cả một đời người, cùng rất nhiều những thói tục của làng Bắc Bộ xưa được gói trong truyện ngắn vẫn thênh thang rất thú vị này.
***
Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm quang trời, bên này cũng thấy được lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở, cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.
Mấy phiên áp Tết, chợ huyện đông như nêm cối. Bà Chồi quảy ống dang ra chợ. Vườn nhà bà có búi dang, tết nào cũng được vài gánh, đỡ tiền chợ. Vừa khéo, vào một chạp, những bụi dang vừa già ống, chẻ lạt được. Tết nhất, mái bếp nhà nào cũng giắt nắm lạt, lắm việc phải cần đến.
Ở chợ, có những mặt hàng chỉ Tết mới có bán. Bác tuần chợ xếp cả ra bãi ngoài. Gánh lá dong, ống dang, những quảy thùng mật, lão hàng gáo dừa, chợ Tết người ta sắm bó đũa, cái gáo, cái muôi mới, mấy con bò buộc tận ngoài rệ sông, bò rống ò ò lẫn tiếng lợn eng éc trong rọ.
Chợ trước, gánh ống dang của bà Chồi đến nửa buổi đã hết tiệt. Cũng đã đào, chặt ống cả trăm cái, nhưng còn phơi nóc chuồng lợn, chưa se mặt. Phiên này phải đi hai gánh dồn một mới có thể đủ bán. Bà Chồi nhấc gánh rồi nói:
- Cái Vải ra quảy đỡ cho tao mấy được.
Vải buộc thành bốn bó dang nặng. Vải quảy, mẹ chỉ phải vác một bó. Chưa đến nửa buổi, cả gánh dang còn có mấy ống điếc, ống lép. Hàng bên kia, bà bán mật đong không ngớt muôi. Hàng ống dang, hàng mật chạy tay, nhà nào chẳng gói bánh, cột bếp lại lủng liểng miếng thịt bò quấn lạt, rồi nồi chè con ong, chè bà cốt ngọt lừ.
Bà hàng mật hấp tấp sang hàng bà Chồi:
- Nhờ bà để mắt trông giúp hàng nhà cháu một mảy. Quái, cái thằng chết toi, chỉ sai đi chặt mấy cái ống nứa đựng mật mà mất mặt từ nãy.
Rồi bà lão chạy qua đám chọi gà đầu bãi thì thấy thằng con dựng đứng ống nứa bên nách, đương chầu hẫu xem đá gà - hay là nó cũng đánh gá, người chăm chú, người tíu tít cá cược. Mấy tay chủ gà loay hoay mặt đỏ lựng hay đỏ cay cú.
Con trai bà bán mật ngồi ngây mặt ra. Bà lão kêu "Chết thật! Chết thật!". Rồi, vào lôi ngật nắm tóc đuôi hoa voi. Thằng con phải chống hai tay xuống như con gọng vó mới khỏi ngã ngửa ra. Rồi nó đứng lên vác bó ống nứa cong cổ chạy.
Chỉ một chốc, những ống dang, những ống nứa đựng mật đã hết sạch. Hai bà lão thong thả ăn trầu, môi cắn chỉ nhai bỏm bẻm. Thằng con trai xách những thùng mật ra bờ sông té nước gột. Cái Vải nhà bà Chồi đã lồng quang gánh để đấy, vào trong chợ, dạo xem hàng tết.
Bà bán mật vuốt quết trầu bám mép hỏi bà Chồi: - Cái cháu quảy dang là thứ mấy nhà ta?
- Cháu thứ ba bà ạ.
Bà bán mật hỏi ngay một câu: - Bà cho tôi nhá?
Bà Chồi còn chưa biết thế nào, bà kia quết vôi lấy miếng trầu mời đon đả: - Cái thằng quảy mật ấy.
Rồi đưa bà Chồi miếng trầu mới têm. Bà Chồi nhổ bã trầu vào gốc cây, quay lại nhón tay lấy miếng trầu mới của bà bạn hàng. Và nói:
- Ối chà, con Vải nhà tôi ấy à, có nhớn mà chẳng có khôn đâu. Bà xem đấy, mặt trời đã lấp bóng đa rồi mà còn lượn chợ, rõ con nhà.
Bà bán mật lại vuốt mép, nhổ quết trầu rồi cũng nói ồi ồi:
- Thì cái thằng hai nhà tôi cũng như cái đụn rạ. Đấy, đi theo đỡ mẹ mà lại rúc vào đám chọi gà.
Câu chuyện qua lại mắng vui mắng yêu giữa hai bà về con cái mà rồi nên duyên chúng nó.
Tháng ba năm ấy, cô Vải lấy chồng bên Lở. Bấy giờ đã có mưa mới. Những trận mưa rào đầu mùa như mưa dứ, chốc ào ào chốc tạnh; con ngòi ngoài đìa có lúc nước ngập đến gối, đến bụng.
Họ nhà trai sang đón dâu, các lão ông lão bà, các cô phù dâu thoạt chỉ xống áo như người đi làm đồng. Người xắn quần, người ôm váy, bì bõm lội. Sang đến đồng Lở, đám rước dâu ghé vào cái quán gốc cây muỗm, như khách đường xa nghỉ chân. Bấy giờ mới lấy trong tay nải ra những buồng cau, những hũ rượu. Rồi thì áo the, khăn vố của ông cầm hương, các bà váy chồi thâm lồng ngoài váy nâu da bò, các cô thì khăn vuông mỏ quạ tua dây hoa đỏ . Chú rể đi lẫn trong đám trai, áo năm thân nhuộm cậy.
Đã tinh tươm ra đám đón dâu. Đi vào đường làng, ông cầm hương áo the khăn lượt chít, vừa lội ngòi quần xắn móng heo, vẫn đi chân không - cả đám rước dâu chân đất, chả cứ một ông cầm hương. Hương đen thơm nghi ngút trước hai người đội mâm cau, mâm rượu phủ vuông lụa điều.
Vào trong xóm, nhấp nhô người lớn trẻ con các ngõ đổ ra. Trẻ con cuống quýt chăng dây, vớ được dây mướp, dây gấc, cái thắt lưng dải yếm cũng chăng ra - chỉ kiêng không được chăng thừng. Chằng chịt như mạng nhện, những cái dây cản bước, như không muốn người con gái đi lấy chồng làng xa. Âậy thế nhưng đã có người nhà trai lo sẵn, xong cả. Trẻ mỏ chỉ khó cho thêm vui. Mỗi cái dây nhận một phong bao giấy điều. Mở ra, thấy mấy đồng chinh, đồng kẽm, đứa nào cũng hí hửng, giựt giây mở đường.
Đám đón dâu có lời nói trước, đôi bên đã thoả thuận từ con lợn, thúng gạo, gánh rượu, quan tiền. Nhà trai nhà gái ăn cỗ mỗi bên, bởi vì đường đất cách trở, hai họ chỉ miếng trầu và chén rượu hả hê rồi lễ tạ xin dâu về.
Đám rước dâu đã ồn ào ra đến đầu ngõ. Bà Chồi đứng trong cổng ném vốc muối theo rồi cúi mặt, quay vào. Còn Vải thì cảm thấy đi đâu chưa biết, nhưng thế là xa nhà từ đây. Nước mắt Vải đẫm cả hai bên má.
Rước dâu về, hai họ lại tay nải đeo vai, xúm xít hỗn độn như đi chợ tết. Mặt trời đã ngả đằng sau chân tre, sương mờ khắp cánh đồng. Hai bên bờ nghe tiếng nhái, tiếng chẫu.
Vải ngước mặt lên, chỉ thấy bóng tối mờ mịt. Mới vài bước đường mà xa, sao mà thật xa.
Lội xuống ngòi, đã nhá nhem tối, tiếng chân bì bõm, nhưng chẳng trông thấy chân ai. Vải quay nhìn lại bóng tối lần nữa.
Được mấy hôm, ăn cỗ lại mặt rồi, vợ chồng Vải về làng ngoại làm lễ nộp cheo. Lấy chồng làng khác, lệ phải có lễ cheo mới được làng nhận rể.
Chồng xách cái rọ mới đan nhốt con gà trống thiến, con gà mái rồi ra cổng đồng, như người đi làm, chỉ khác đầu quấn cái khăn lượt, lại mặc cái áo năm thân nhuộm cậy, như hôm đám cưới. Ra tới cầu ngói thì ngồi đợi vợ. Đến lúc trông thấy Vải trong khoanh tre đi ra thì chồng đứng dậy, lại cung cúc đi. Người đi trước cách quãng người đi sau, vào đến gốc đề đầu xóm Vải mới mở khăn vuông lấy cái áo dài nâu non mặc. Vạt áo thắt quả găng, lất phất bay lẫn hai dải yếm lụa. Áo váy tinh tươm rồi, Vải lại càng đi nán xa. Vải chẳng muốn ai trong làng gặp vợ chồng đi tay đôi. Vào đến cổng ngăn, Vải đã thấy chồng cắt tiết xong cả hai con gà, đương nhấc nồi nước sôi ra cầu ao giội làm lông.
Vải vào bếp. Chẳng đợi mẹ bảo, Vải cầm dao cắt tàu lá chuối lót lên cái nong rồi dỡ chõ xôi. Ngả chiếc mâm gỗ đơm xôi, mùi hương nhà trên quyện khói xôi ngào ngạt. Con gà thiến đã được vớt từ khi nãy để ghếch trên miệng nồi rồi người khía chân, khía cánh với mỏ, đặt nguyên cả con lên đỉnh mâm xôi để ra miệng vại dưới gốc cau. Trên mỏ con gà, từ lúc nào ai đã cài ngậm cái hoa đơn đỏ.
Bây giờ, vợ chồng lại khăn áo chỉnh tề. Vợ đội mâm xôi, chồng hai tay bưng hũ rượu, hai người đem lễ ra đình. Vào tam quan, vợ hạ mâm xôi xuống cửa bên. Chồng ấn lại vành khăn lượt trên đầu cho chặt, vợ từ từ đưa mâm xôi lên. Chồng trịnh trọng đội mâm, một tay nắm cổ hũ rượu nút lá chuối khô.
Vợ bước theo, vào trước bậc cửa đình thì đứng lại đấy, đàn bà con gái xưa rày không được đặt chân vào chốn đình trung. Vợ đứng nhìn bâng quơ ra ao làng. Năm xưa mùa này, những hôm nắng to cả lũ đem sảo ra bắt ốc nhồi nổi lên tránh nóng trong chân bụi cúc tần.
Nghe tiếng người rì rào, không phải tiếng quát lác. Mùi hương đưa ra có lẽ nắm hương chồng vừa thắp thêm. Vải cũng không dám ngoảnh mặt nhìn vào.
Người mõ ở ngoài lều bờ sông tất tưởi bước tới. Đòn gánh xỏ một bên quang có chiếc thúng trong để con dao phay với cái thớt. Chỉ vậy, nhưng bởi vào nơi trang nghiêm phải có ý, không dám khua múa con dao cái thớt.
Chồng hai tay đặt hũ rượu lên hương án cùng với mâm xôi con gà. Rồi quỳ xuống lễ thánh, xong xuôi bước ra vái hai bên các ông chức việc, các quan viên rồi cứ chắp hai tay, cúi đầu so vai lom khom bước lùi qua bậc cửa đình.
Ở nhà, mâm rượu con gà mái đã sẵn sàng. Đám chén mời ông chú, có lão ông cầm hương hôm đưa dâu cháu.
Sáng nắng thế mà giữa trưa đổ cơn mưa. Trận mưa rào đầu mùa ào ạt một lúc lại tạnh. Hai vợ chồng trở về bên Lở.
Có hơi rượu chếnh choáng, chồng chạy cung cúc như ma đuổi. Nước mưa đồng cao dồn về, con ngòi ngập đến thắt lưng. Nhìn lại, chưa thấy vợ, chồng ngồi đợi.
Vải đã ra khỏi cổng đồng. Trông hút đồng sâu, chỉ thấy bóng nước lấp loáng. Chắc là có khi nó lội qua ngòi rồi. Người trong xóm lác đác ra bờ tre bắt cá rô rạch. Gặp Vải, có người chào, có người hỏi chớt nhả: "Thím về bên nhà... Sang báo tin cho mẹ Chồi à... cái bụng trông ngon mắt thế kia rồi...".
Vải đỏ mặt cúi xuống vuốt cái khăn vuông bọc đĩa xôi và cái tỏi gà. Lại nhớ năm ngoái, năm kia, Vải chạy tớn lên theo chúng bạn ra bờ chuôm bắt cá rạch.
Cánh đồng mù mịt trắng những nước. Con ngòi ngập cả lên bờ cỏ. Đàn đỉa trâu, đỉa hẹ lượn lên lượn xuống cung quăng tìm chân tay người thò xuống nước.
Vải đã ra đến bờ ngòi. Chồng đương ngồi úp mặt xuống đầu gối, dáng ngủ. Nhưng không, như anh ả đã đánh hơi thấy vợ. Anh ả ngẩng mặt nhăn nhở cười, hai con mắt rượu vằn vằn đỏ.
Hỏi:
- Nhà mày có lội được không?
Vợ lắc đầu, nhìn lại đằng xa. Chồng cười tủm:
- Cõng nhẻ?
Vợ lại lắc đầu, vẫn tần ngần ngoảnh mặt trở lại. Chồng đứng lên, xoe ống quần, buộc hai dải áo vào bụng. Anh ta đương nghĩ nói thế nào để dỗ, để doạ, để vợ cho cõng. Thì vợ đã bíu tay ôm cổ chồng, rún lên, chân đạp như trẻ con chơi hún đu. Hai tay chồng ôm chặt đít váy vợ rồi lội xuống nước.
Chồng nói lỡm:
- Này này buông xuống cho đỉa cắn nhẻ!
Vợ đá chân xuống mặt nước, như trêu tức. Những đàn đỉa đói nhao nhao lượn theo. Đã thế, ông dìm cho một cái. Nhưng chị ả đã cong chân lên làm anh ả loạng choạng suýt ngã. Thì vừa sang đến bờ bên kia.
Hai con đỉa trâu bám vào bắp chân chồng như hai quả chuối bụt. Máu chảy loã lợi xuống gót, xuống cỏ.
Vải tụt trên lưng chồng xuống. Nhìn hai con đỉa lủng lẳng ở ống chân chồng, ả nguýt một cái.
- Rõ đáng đời!
Chồng nhìn quanh, chỉ thấy bóng nước bóng cỏ. Chẳng nói chẳng rằng, lẳng vợ một cái ngã bệt xuống. Tốc váy vợ, làm một quắn.
Rồi anh chàng ngủ một giấc mê mệt. Đến lúc thấy lạnh bên bả vai mới mở mắt, bốn bên vắng lặng. Ngôi sao hôm lay láy đã lên đằng kia.
Hàng năm, vợ chồng Vải về bên ngoại vào tết nhất hay các dịp góp giỗ. Cẩn thận, giữ lệ. Khi con gà, hũ rượu, lại có khi vác cả bó mía, dựng bên bàn thờ làm gậy cúng các cụ. Khi nào gặp mưa, nước ứ trong ngòi, chồng lại cõng vợ, rồi cõng cả con sang bờ bên kia.
Năm ấy, chỉ có hai mẹ con về bên ngoại góp giỗ. Nguyên vì anh theo bạn buôn lên Mường mua mía về kéo mật bán chợ tết. Khi lên theo đường bộ, về thì cho mía lên bè xuôi sông Đà. Năm nào cũng đi thế. Chuyến ấy ngược, dọc đường cả bọn ngủ lại cửa rừng dốc Cun. Nửa đêm, con hổ ra ăn thịt mất anh ấy.
Năm năm, mẹ con nhà Vải vẫn giữ lệ về góp giỗ. Khi qua ngòi, gặp nước đầy hay nước cạn, mẹ Vải cũng cõng con lội. Cu con đã lên chín, lên mười, "chân nó dài bằng cái sào nứa" - người ta cười thế, mẹ vẫn cõng con lội sang - người ta lại bảo nhà này chiều con quá.

Giữa tháng giêng, làng Hạ đã gọi phường chèo hát. Cả vùng bảo làng này trốn hội. Bởi vì giêng hai thì đâu cũng còn thong dong hơi hướng đôi chút tết nhất.
Nhưng ở đâu thảnh thơi chứ làng Hạ đã lác đác đeo giỏ xách thuổng ra đồng, xuống gò đào chuột. Vừa Tết ra đã phải đi kiếm miếng thịt trời, đi như người ăn vụng, lủi ra đằng cổng đồng. Không để ai trông thấy, như muốn bay biến trong ngọn gió bấc quất vào mặt. Thì cũng lệ là cố lo tối hát, như ra ngõ gặp trai, ao ước cái may năm mới đến.
Ngoài sân đình, trống gọi trò vừa gióng vài tiếng, đã nghe trong bờ ao, ở ngã ba gốc nhãn trẻ con gọi nhau ơi ới, đã rộn rã ra vui rồi.
Làng Hạ chẳng có nổi cỗ kiệu long đình. Hằng năm, đến kỵ thánh, ông từ ra đình thắp bó hương đen. Họa may mới có năm đi chợ xa tậu được con bò dắt về mổ chia ba giáp rồi ngoài sân đình có tối chèo. Thế đã linh đình rồi.
Các cụ kể: ông thành hoàng làng ta hóa thiêng lắm. Nửa đêm, người đi úp cá trộm, người thò tay khoắng vào chũm, phải con rắn lục cắn, người ngã xuống ngay trên cái nơm. Ðược giờ linh, chỗ ấy mối đùn thành gò đến tận bây giờ. Người thiêng lắm, nhà bị mất trộm, bị lừa, hay ai cầu xin thế nào, hay đem lễ ra đình khấn.
Có được thế nào cũng chỉ nghe vậy. Cái làng Hạ chỉ uống nước lã mà chèo hát suông, ai cũng bĩu môi, ấy thế mà rồi nhiều người kéo đến xem đông thế, vui xem hát nhạt xem bói, bao giờ chả vậy.
Phường về lúc xế trưa. Cả bọn qua chợ đã ngả vào hàng cơm. Gồng gánh lội bộ từ sớm mai bên kia sông sang, đến quá bữa mới được lưng cơm. ấy thế mà mới cạn bát rượu, bác trùm đã ngả nghiêng đứng lên.
- Hôm nay được ngày, làng đương mong, trống gọi đấy.
Ðã có người ra ngóng cổng làng.
- Hát lấy may, hôm nay tốt ngày.
Mấy cô gánh dâu ở ngoài bãi về.
- Còn hát lấy duyên nữa, các cụ ạ.
Tiếng con trai con gái ở đâu cười vang động. Nhưng trong đám chẳng thấy có nữ. Phường Bắc đã được tiếng kép nam đóng nữ khéo đến đỗi tan trò rồi mà trai các làng còn quanh quẩn nhòm ngó đến khi sáng ngày ra, trông vào mái lều trong tam quan chỉ thấy toàn đàn ông còn ngái ngủ ngồi lổm nhổm.
Có chàng ngơ ngác hỏi:
- Cái cô Châu Long tối hôm qua đâu nhỉ?
Bác trùm cười hề hề nói:
- Con ma gốc gạo bắt cô ấy đi từ tan trò tối hôm qua rồi, không biết à?
Ôi chao, chẳng cứ trai làng mê vai Châu Long đêm chèo để thương để nhớ đến cả cho bao nhiêu cô gái trong làng nữa kia.
Tung, tung... Bung nhóc... Bung bung nhóc... Chiếc chiếu mộc thủng giữa đã được nhà mõ trải ra sân cửa đình. Ðôi hòm gỗ nhà phường kê đằng góc che tàu lá dừa. Ðào kép thì đến đằng ấy, ngồi ghé lên mặt hòm cạnh cái đèn hoa kỳ.
Bôi phấn, vẽ râu, kẻ lông mày, thay xống áo xong rồi vào chiếu ra vai.
Nhà mõ cũng đã đóng cọc chăng thừng, kê chiếc ghế dài ra, một ông kỳ mục chít khăn mặc áo dài thâm ngồi bên cái trống cầm chầu. Cũng không ai biết cầm chầu thưởng phạt câu hát, mà chỉ thỉnh thoảng điểm tiếng tùng, tiếng cắc giữ nhịp cho ấm đám, lại còn ra vẻ người bề trên ở chốn đình trung.
Trống và nhị theo tiếng hát vỡ nước đã réo rắt rào rạt nổi. Chung quanh ngoài kia túm tụm người cha tới đám đã biết tối nay tích Lưu Bình, Dương Lễ - tích trò éo le mà có hậu được hát mở hàng.
Trời đã tối hẳn. Một chiếc đèn ba dây treo lên cành nhãn. Người ra vai đứng giữa chiếu mà bốn phía nhìn được, lại thuộc cả tích diễn, cả câu hát. Cái lúc Lưu Bình sang thăm Dương Lễ đỗ được bổ về làm tri huyện sở tại. Này này thằng lính lệ sắp bưng ra cái mâm gỗ có quả cà bát làm bằng nắm đất thó lăn lóc. Thế mà như thật. Lưu Bình cau mặt phủi áo đi. Lưu Bình vừa vào khuất thì nàng ba Châu Long đã khăn gói bước ra, quan Dương Lễ đứng trong hát với ra dặn dò vợ đi nuôi bạn.
Nàng Ba đuổi theo Lưu Bình, đến quán Nghênh Xuân thì gặp Lưu Bình đương đăm đăm nhìn dòng nước chảy, Lưu Bình phẫn chí định trẫm mình chết trôi sao? Châu Long bước vòng qua, hát mấy câu đường trường thì vừa tới kịp.
Châu Long khuyên nhủ rồi đưa Lưu Bình về nhà. Từ đấy, canh cửi và đèn sách bên nhau, hẹn bao giờ đại đăng khoa thì tiểu đăng khoa. Chỉ trên mặt chiếc chiếu, quanh quanh với bước đi và câu hát mà đủ mọi sự tình, đêm hôm và mưa nắng, mùa hạ sang mùa xuân, mấy năm qua. Luống những đầu mày cuối mắt mà ra hờ hững, mà lại dường như đinh ninh một câu thương nhớ ở đâu rơi xuống, đấy là Châu Long tự thán hay là ông trời xanh trong đêm đen kia than thở bỏ lời hộ người.
Những tưởng lúc chiều đông tựa cửa
Ngao ngán thay cho cảnh vợ xa chồng. Ngao ngán thay cho cảnh vợ xa chồng.
ối a... tình bằng... thế mà mê tơi lăn lóc cả cái sân đình. Chị em cái Vối, cái Nụ thương Châu Long quá. Châu Long đẹp thế, mỗi lúc một đẹp hơn, thương hơn. Tấm áo nâu non vạt thắt quả găng, cái khăn thâm mỏ quạ mà như cô tiên, cô tiên giáng trần tu duyên tích đức. Thương quá. Nước mắt cái Vối ứa ra lúc nào, đêm tối chẳng ai trông thấy ai, Vối mặc cho nước mắt chan chứa xuống. Chốc chốc, cái Nụ lại kéo áo chị, nhất là đến những khi đêm hôm Châu Long ngồi trong khung cửi, Dương Lễ nằm ngoài trường kỷ đọc sách, chốc lại buông sách xuống đứng lên những toan bước vào. Nụ lại kéo áo Vối, không biết là nó muốn Lưu Bình bước vào buồng cửi hay nó bảo chàng đừng... Mà sao lúc ấy tiếng hát Châu Long trong vắt, hay thế, yêu thế. Chị em Vối cứ như người thất thần cho đến khi trống tan trò, mọi người gọi nhau tìm đóm làm đuốc về, bấy giờ mới như sực tỉnh ra.
Ðêm mười sáu, trăng tháng giêng, trời mù mịt trăng suông. Ðóm đuốc về các ngả, bỗng rậm rịch bọn người chạy lại.
- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó cho ông!
Qua điếm canh, thấy mấy người bị trói giặt cánh khuỷu vào chỗ cái giá cắm đinh ba, câu liêm.
- Kẻ trộm à?
- Ăn trộm người thôi!
- Thiên hạ đến chim gái làng thì cứ việc gô cổ lại.
Một ngời nói to:
- Chúng ông cõng con phường chèo thì bận gì đến nhà chúng mày!
Thì ra lúc tan trò, lũ này háu quá chui vào kéo cô Châu Long. Bọn trai làng xông tới, bắt được trói về đây. Bây giờ không biết thế nào, đâm ra lục đục cãi vã. Người nói chõ vào: "Gái làng chẳng phải, họ hàng cũng không, khéo ghen hão". Cứ thế ầm ĩ, loạn xạ.
- Ðứa nào chửi ông? Ðứa nào?
Như sắp choảng nhau to đến nơi.
Chị em Vối chạy vội vào trong xóm. Nụ cười rinh rích: "Thế mới rỗi hơi, chẳng bận gì đến ai mà cũng nhiễu sự". Vối nói:
- Nhưng mà thấy đẹp quá đâm ra đỏ mắt, tiếc của giời.
Hai chị em tới nhà. Mẹ đã cài cửa liếp. Vách trong, tiếng tằm ăn rỗi trên nong nghe rào rào. Vối và Nụ chui vào cái giường nan vầu không mễ lót lá chuối khô trong bếp. Hai đứa đắp chung cái chiếu đơn, co quắp mãi chưa ngủ đợc.
Vối nói:
- Cái Châu Long đẹp nhỉ, tao cũng mê.
Nụ lặng im rồi thì thào:
- Nó là thằng kép giả gái đấy, thằng kép thế em mới thích.
- Mày chỉ nói nhảm!
Chị em lại quằn quại, trằn trọc. Mỗi người một ý nghĩ cũng nên, cái ngủ khó đến quá.
Chẳng mấy lúc đã mờ sáng. Vối trở dậy đi hái dâu. Vối sắp quang sọt sớm hơn mọi khi, lúc mẹ cha dậy mở then liếp. Nụ để ý. Nụ ngờ phải. Vối không xuống bãi ngay. Vối rón rén vào góc cột tam quan, đến chỗ bọn phường chèo nằm. Cả đêm không chợp mắt, có lúc mơ mơ màng màng ngỡ Nụ là cái Châu Long. Thế mới bơ vơ!
Nhiều người nhà pưhờng còn vùi đầu trong ổ rơm. Một bác đã có tuổi, quấn cái khăn tai chó, nhận ra bác ấy đêm qua ra vai lính hầu quan Dương Lễ bưng cái mâm gỗ với quả cà giả vờ. Tần ngần, không biết hỏi thế nào, cứ đứng một lúc rồi Vối mới xuống bãi dâu.
Ðến bên con đìa cạn trơ bùn, thấy có người lúi húi nhấc cái chũm đơm cá. Sáng sớm còn rét cắt ruột mà anh chàng giơ cái lưng trần trùng trục, có lẽ đêm ngủ cởi trần. Hai con mắt sắc đuôi lá răm, cái môi đỏ như đương ăn miếng trầu cay thế kia, trông đích là cái Châu Long đêm qua. Con Nụ tinh quá. Vối ngây người, buông chiếc đòn gánh xuống mà không biết. Rồi ấp úng:
- Có phải... có phải...
Chàng nọ nhấc cái chũm bê bết bùn lên, nói tự nhiên:
- Phải, cái nàng ba Châu Long ấy mà. Ði đâu sớm thế?
Vối nhác thấy trên mặt người ta còn một mảng phấn hay vôi dính chỗ hàng lông mày rậm. Nhưng miệng nhanh nhảu thì vẫn xinh, vẫn cái duyên đêm qua.
Vối che nón lên.
- Em ra bãi hái dâu.
- ở chỗ này, con chẫu con chạch cũng chẳng được. Ngoài bãi có đìa nước...
- Có đỉa, nhưng chẳng biết có cá không?
- Con nhái cũng được bữa đấy.
Rồi chàng ta xoe quần lên tận bẹn, vẫn cởi trần tơ hơ thế vác cái nơm. Tay đôi bước thong dong, như vẫn xuống bãi thường ngày.
Cả nửa buổi trong cánh dâu chẳng úp được con quái gì. Mà Vối thì lại quang sọt về không.
Khuya hôm ấy, Vối ôm Nụ, cời khẽ: - Nó không phải con gái. ừ...
- Em đã bảo thế rồi mà.
- Sao mày biết, mày là con ma xó à?
- Trông hai cái chân to như bàn cuốc, em biết ngay.
Vối buông Nụ ra. Quả là con bé khôn hơn con ma.
Ðêm nay phường ra chèo Trương Viên, ngày mai rã đám. Vối nói:
- Tích Trương Viên buồn lắm, tao chẳng đi xem nữa đâu.
Nụ đi một mình. Một lúc đã về, lạch cạch cậy liếp. Vối vẫn chưa ngủ. Nhưng hai chị em không nằm ôm nhau như mọi đêm. Nụ lẳng lặng xuống ổ rơm cửa bếp. Một lát, đã nghe tiếng thở rờn rờn. Nó đi cày ải cả buổi, ngủ mệt. Vối cũng xuống bãi hái dâu cả ngày, mỏi bã vai. Nhưng Vối không ngủ. Vối không muốn ngủ. Sớm mai, người ta đi rồi. Ðã hẹn gà gáy tan canh ra cổng làng chờ nhau. Rồi bao giờ mới lại gặp? Tiếng gà xa xa mới tha thướt, còn khuya. Hai mắt Vối cứ chong chong.
Trong bóng tối, Vối chợt nghe không thấy Nụ cựa quậy trong ổ lá, im cả tiếng chập chờn. Vối lạ. Rồi Vối giật mình. Vối nhỏm dậy. Thấy gian bếp như lạnh hẳn. Vối sờ cái thừng vẫn vắt váy áo. Không thấy chiếc thắt lưng tam giang Vối đã để sẵn ra đấy đợi thắt.
Vối quờ tay vào ổ rơm. Chẳng thấy Nụ đâu.
Vối chạy ra ngõ. Qua điếm canh, vẫn thấy mấy người trai làng khác, không biết có bị trói không, chúng nó ngả vào nhau ngủ ngồi rụi đầu vào vách điếm. Ðêm rã đám mà vẫn còn đuổi đánh nhau chuyện ghẹo gái.
Cái cổng tam quan lợp lá tối lù lù như mọc cây rơm. Vừa lúc trong chân tre các xóm, tiếng gà gáy tan canh sôi lên. Trong ổ rơm đã có người lúi húi dậy, ra nhóm lửa.
Ðám chèo gồng gánh đi sớm. Cho đến lúc đi hết người cũng chẳng thấy người ta đâu.
Vối về dựng cửa liếp. Mẹ ngồi trong ổ rơm, hỏi vóng ra:
- Cái Nụ đấy à?
Vối bật khóc nức nở:
- Cái Nụ đi theo thằng phường chèo rồi.
Tháng giêng năm sau, làng Hạ lại chèo hát như mọi khi. Năm nay có phường xứ Ðông lên xin đám, hôm mở đầu cũng ra tích Lưu Bình, Dương Lễ cho làng nước được bói chèo lấy may. Người ta lại cứ việc cười làng Hạ nghèo rớt, năm sớm kỵ thánh chẳng lo nổi con bò chia hàng giáp, chỉ hát chèo uống nước mưa, biết có ma nào đi xem. Thế mà rồi lại cũng như mọi năm, tối nào cũng đông bộn ngời, và nửa đêm còn rình rập đuổi bọn trai lạ ghẹo gái làng, vừa quát chửi nhau, vừa cười hê hê.
Năm nay có cái tò mò, cái khác mọi khi là nhiều cô con gái trong làng, từ lúc bọn phường xứ Ðông vừa ăn uống ở chợ xuống, đã ra nhòm ngó phường này có nàng Châu Long thật hay Châu Long giả.
Câu chuyện cái Nụ đi theo thằng Châu Long năm trước hãy còn râm ran. áp Tết vừa rồi, Nụ cùng chồng ẵm thằng cu con về tạ tội với mẹ. Có chai rượu và một cành cau bỏ trong cái tay nải, chồng đeo trên vai.
Vối vừa quảy đôi sọt lá dâu về đến ngõ. Anh chàng nhác trông đã nhận ra cô này mới phải cô hái dâu cái sáng sớm hôm mình đi đánh chũm ngoài đìa. Có chết không, lúc gà gáy ấy còn tối đất, chỉ nhớ cái thắt lưng nhiễu tam giang, thế là lôi nhau đi.
Nụ bế con ra trước mặt Vối, cầm hai bàn tay thằng cún chưa đầy tuổi tôi đỏ hon hỏn. Nụ cười cười:
- Con lạy bá đi nào!


Văn bắt đầu kể câu chuyện như sau: Nghỉ hè năm ấy, Hiếu rủ tôi và Căn, Bích, Hiền về quê anh ta nghỉ mát. Nhân thể vừa thi trượt xong, chán không buồn ở Hà Nội nữa, tôi nhận lời ngay. Quê Hiếu ở ngay bên bờ sông Đuống, cách núi thiên thai độ hơn một cây số.
Đang ở Hà Nội đông đúc được thả về quê mát mẻ, tôi thấy người khỏe hẳn lên, quên khuấy ngay cả cái buồn hỏng thi. Lại thêm được một lũ bạn đùa như quỷ sứ làm cho tôi giá có khóc cũng phải cười.
Làng ven sông có mộ phong cảnh khá nên thơ. Chiều chiều rợp nắng chúng tôi thường ngồi thuyền đi dạo mát trên sông Đuống. Dòng sông đào lờ đờ chảy giữa hai bên bờ chen nhau những hàng dâu mát rượi những rặng tre lã ngọn quyện trên mặt nước. Đàng xa nổi lên nền lá xanh một dịp cầu tre mảnh khảnh. Cảnh trí như hệt một bức tranh thủy mạc.
Nhà Hiếu ở gần một bến nước. Người vùng ấy gọi là bến Đá vì ở đấy có mấy phiến đá rất lớn. Bể Đá là một chỗ rửa ráy giặt giũ của cả xóm. Bởi thế chúng tôi thường được ngắm những cô gái làng ra bến quẫy nước. Gái sông Đuống xinh chẳng kém gì gái Lim lại thêm được cái tính chua ngoa thì không đâu bằng! Tụi Căn - Bích - hai kiện tướng trong làng môi mép cũng phải chịu thua. Họ ví von rất khéo đến nỗi không mở mồm nói vào đâu được nữa. Thế nào cũng bị chặn cứng lưỡi. Một là các cô giỏi biện bác, hai là giọng của các cô rất hay. Chúng tôi đành đứng ngẩn ra cả lũ nghe các cô ví. Họ xỏ xiên cay độc mà chúng tôi cũng đành khóa miệng. Nhưng sự thất bại của chúng tôi phần lớn tại Hiếu vì Hiếu là người hiền lành sợ các cô. Anh thường ngăn cản chúng tôi trong các cuộc đấu khẩu. Mà chúng tôi cũng nể Hiếu nên lắm phen cũng phải nín thít. Ở xóm có độ bốn năm cô chúng tôi phải kiêng mặt.
Độ ấy vào khoảng trung tuần tháng 5 một đêm trăng sáng. Trừ Hiếu hay đi ngủ sớm còn chúng tôi bắc ghế ra sân ngồi chơi. Bỗng lắng nghe tiếng cười đùa từ bờ sông vẳng lại. Căn lò mò ra cửa nghe ngóng. Một lát Căn hớt hải chạy về rủ chúng tôi đi chơi. Tôi hỏi đi đâu? Anh để ngón tay lên ngang miệng làm dấu bí mật và dẫn chúng tôi ra khỏi ngõ đi về phía bờ sông chỗ có tiếng cười ban nãy đưa lại.
Anh bắt ai nấy đều phải im lặng và theo mệnh lệnh của anh vì anh tuyên bố sẽ có cuộc vui rất lý thú. Chúng tôi ngậm miệng kẻ trước người sau đi nương vào bóng những cây trúc mọc sát vệ đường về phía bờ sông. Không biết là trò quỷ quái gì nhưng cũng cứ đi. Chừng hơn trăm thước đã trông thấy Bến Đá. Một dịp cười giòn tan từ dưới nước hắt lên. Chúng tôi tiến mấy bước nữa rồi đứng lại. Trời ơi có anh nào nào đoán được chúng tôi trông thấy những gì không? Bích Hiền và tôi đứng ngây người. Căn có vẻ ranh mảnh leo tót lên một cây khế tơ dòm xuống. Trên mặt sông bốn cô gái đang tắm các cô đang đùa với sóng. Cho đến hôm nay trông mặt Hồ Tây này tôi còn nhớ cảnh ấy như tối hôm qua.
Những thành vai trắng nõn tóc buông lòa xòa trên mặt nước gợn những vòng vàng vì ánh trăng phau trong những truyện thần kỳ hay ít nhất cảnh này cũng chỉ ở trong mộng. Nhưng nghe tiếng nói thì tôi lại nhớ là gái làng và đây là sự thực như tôi và các anh. Các cô đùa nghịch tự nhiên vì không biết có ai nhìn trộm. Cô nọ té cô kia đuổi nhau í ới cả một góc sông. Đến khi các cô rục rịch sắp lên chúng tôi lùi về hết. Chỉ còn Căn nấp trên cây khế. Các cô kéo về qua cửa nhà Hiếu. Chúng tôi nhận mặt được cả bốn đều là "của" ngoa ngoắt nhất xóm.
Căn thao thức không ngủ. Thỉnh thoảng đang nằm chúng tôi lại bị hắn dựng dậy vừa lay vừa nói rít lên:
Chúng nó đẹp như tiên sa.
Rồi hắn vùng chạy ra sân. Trăng sáng trong im lặng. Căn chắp tay sau lưng ngửa mặt nhìn trăng nhìn trời rồi lại quay vào. Suốt đêm cứ lùng cùng như thế! Có lẽ anh chàng bị "cảm" nặng quá! Ngay hôm sau Căn chơi gì cũng chán chỉ mong chóng đến tối. Câu chuyện đêm qua Căn yêu cầu chúng tôi đừng nói gì cho Hiếu biết vì nếu Hiếu biết thì thế nào hắn cũng gàn.
Đến đêm khi nghe tiếng cười í ới phía sông nhưng chúng tôi không anh nào muốn đi... xem cả. Vì chúng tôi sợ người trong xóm biết thì ê mặt. Rồi chúng tôi không đi. Chỉ có Căn không bỏ. Năm sáu đêm liền đêm nào hắn cũng mò mẫm.
Một đêm chúng tôi còn thức chỉ có Hiếu đã ngủ Căn vừa đi... xem một lúc thì có tiếng huỳnh huỵch từ phía sông chạy lại và văn g vẳng tiếng cười rít lên.
Chúng tôi còn đang ngơ ngác chợt cánh cửa mở tung. Căn ướt lướt thướt chạy vào. Anh vừa thở vừa bảo Hiếu ra đóng cửa. Chúng tôi nhìn Căn không nhịn được cười đầu tóc quần áo chỗ nào cũng ướt như chuột lột.
Hiếu và Bích xúm lại hỏi. Căn không trả lời và đứng im chỉ tay ra ngõ. Một lát sau có tiếng cười dữ dội và ồ ạt như muốn ném vào trong này. Căn tái mặt vào thay quần áo. Một câu hát bóng nói lên giữa tiếng cười.
Lạ chi mà phải đi dòm
Để người quân tử lăn tòm xuống sông
Căn tức ngây người. Anh rù rì kể chuyện. Ô thì ra cái anh chàng ma quái ấy trèo lên cây khế cho rõ mới trèo lên tận ngọn để thỏa lòng nhìn hoa. Chẳng ngờ cành khế dòn. Đang leo... leo... bỗng cành khế gãy ném thẳng anh chàng xuống nước. Người quân tử lăn tòm xuống sông vội lội vào bờ quàng chân lên cổ chạy một mạch về.
Căn cay đến tím ruột. Mấy đêm sau tuy các cô vẫn đi tắm như thường mà Căn không dám đi... xem nữa. Chúng tôi nói pha anh chỉ mỉm cười. Từ buổi ấy anh di ngủ rất sớm. Có lẽ để tránh những tiếng cười câu ví như ném muối vào mặt mỗi khi các cô đi tắm về.
Và chừng như anh suy nghĩ lung lắm thì phải!
Bẵng đi một dạo trời tối không có trăng các cô không đi tắm đêm. Căn đã nguôi ngoai lại vui vẻ như thường. Và ngược lại tâm tính lúc trước Căn có phần nô giỡn hơn xưa. Quá nữa anh lại mong đến tuần trăng để lại đi... xem. Chúng tôi thường hỏi Pha:
- Thế mà vẫn chưa chừa?
Anh chỉ mỉm cười vơ vẩn nói một câu mà anh thường nói:
- Cóc cần!
Đến tuần trăng các cô đêm khuya sau những buổi giã gạo hay dệt vải lại ra bến Đá tắm. Một buổi tối Căn bỗng nhiên nói luôn mồm:
- Sướng quá! Thì... nghĩ ra rồi!
Câu nói không đầu không đuôi khiến cho Hiếu cũng phải lấy làm lạ hỏi chúng tôi. Tôi không biết hơn Hiếu cả Bích Hiền cũng vậy. Đêm ấy Căn không đi ngủ sớm với Hiếu giống như mọi tối. Chúng tôi hỏi:
- Thức để đi chắc?
Căn cười mỉa mai:
-Mấy chẳng đi đã bảo tôi cóc cần mà!
Bích hí háy:
- À ra thế kia đấy.
Hiền lấy giọng hát nhại:
- Lạ chi mà phải đi dòm
- Để người quân tử lăn tòm xuống sông.
Căn phá lên cười:
- Để rồi anh xem đứa nào lăn tòm xuống sông.
Tôi nói kháy:
- Thách đấy!
Không phải thách tối nay có đứa biết tay tôi!
Đợi xem tối nay đứa nào biết tay anh Căn!
Đêm ấy trăng sáng quá. Vì sáng quá chỗ nào cũng trắng ánh trăng nên phong cảnh nhuốm một vẻ rờn rợn.
Bây giờ vào khoảng nửa đêm. Vừa nghe tiếng ầm ì ngoài sông. Căn đã lùi lũi đi. Chúng tôi nhìn nhau cười. Nhưng rồi Căn về ngay khoác đi một cái áo dài trắng. Chúng tôi càng lạ nữa. Không hiểu ra anh làm trò gì.
Thế chỉ mười lăm phút sau Căn lại lù lù về lần này về với một bọc to tướng. Chúng tôi ra xem. Ô hay! Một đống những áo những quần những thắt lưng. Chúng tôi đã trông thấy cái thâm ý của anh rồi.
Thì ra anh chơi khăm. Lúc các cô mải đùa nhau tíu tít dưới nước không ngờ ở trên bờ có kẻ ma mãnh đã nhẹ tay dỡ mất tất cả đống áo. Thật là không ai ngờ Căn lại cẩn thận khoác áo trắng lẫn ánh trăng. Mà ngờ thế nào được!
Đây cũng giống như chuyện chú tiểu ăn cắp cánh tiên nhưng đàng này chú tiều phu không được nhã sự và "sự thực" mất một tí. Căn lật đật dắt chúng tôi lại ra trèo lên một cây nhãn to ngay trước cổng để xem "thế sự xoay vần ra sao".
Đường đi từ trong xóm ra đến Bến Đá là một con đường cụt đến bến là hết không rẽ đâu cả. Từ nhà Hiếu ra bến hai bên đường có mấy nếp nhà nhỏ và vườn rau. Thế mới rầy rà nấp trong cây nhãn bùm tum không ai ngó thấy chúng tôi có thể nhìn ra xa đến bến được. Tuy anh nào cũng phàn nàn về lối chơi ác nhưng ai lại cũng ngầm bằng lòng vì sự trả thù đích đáng ấy.
Trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Các cô vẫn đùa ì ùm dưới nước. Lúc sau 1 cô lên trước bỗng kêu thất thanh rồi nhảy tủm ngay xuống. Rồi bốn cái thân hình trắng nhễ trắng nhại lướt thướt chạy lên.
Như những nàng tiên trần truồng tìm cánh các cô lẵng lặng đi hết gốc cây này qua bụi cỏ khác. Sau chừng hiểu chắc có đứa nào nghịch ác các cô đứng lặng nhìn nhau.
Bấy giờ trời trong xanh không gợn mây. Ánh trăng tha hồ tò mò. Các cô khép nép nhưng khép nép cũng vô hiệu. Các anh cứ tưởng tượng giản dị như thế này. Trên một phiếm đá lớn kề ngang trước mặt nước trong trăng sáng nước dưới ánh trăng cũng sáng bốn thiếu nữ trắng như ngà loay hoay cô nọ dựa cô kia. Các cô muốn tránh ánh trăng sáng quá nhưng ánh trăng hóm hỉnh chỗ nào cũng có!
Chợt một cô chỉ tay về phía cổng chỗ cây nhãn của chúng tôi bốn cái mặt đều ngó về phía ấy. Bỗng mấy tiếng rú nổi lên các cô ôm mặt nhảy đại cả xuống sông.
Tôi tưởng các cô trông thấy chúng tôi. Nhưng Căn đã ôm bụng mắm môi nhịn cười và chỉ tay xuống bờ giậu phía sau lưng: thì ra cái áo trắng dài đã được cắm vào một cọc giậu dưới bóng cây ban đêm xa trông hệt như hình người đứng. Các cô cứ bì bõm dưới nước không dám ló mặt lên nữa. Chúng tôi nghĩ thương hại bảo Căn cất cái áo bù nhìn đi. Căn cười:
- Mấy khi đi dược dịp thế này. Mà giá bây giờ có cất cái áo đi dù thính các cô cũng chẳng dám lên để dẫn xác đi qua đây về nhà.
° ° °
Văn ngừng kể. Cả bọn cười rũ rượi
Thịnh hấp tấp:
- Thế sao nữa hở anh?
Văn:
- Chúng tôi cũng không biết ra sao nữa. Vì bấy giờ đã khuya quá khuya hơn thế này nhiều. Đến gần hai giờ sáng chúng tôi buồn ngủ đến díp cả mắt lại mà trông xuống sông vẫn thấy những cái bóng người lập lờ và lặng im.
- Tội nghiệp dễ thường các cô phải ở đến sáng?
Hải trợn mắt:
- Ồ đến sáng? Đến sáng thì chết. Sao nữa?
- Rồi chúng tôi về đi ngủ cũng lấy cả cái áo dài trắng về. Đời nào các cô dám ở tô hố đến sáng. Nó lại ác một cái trừ con đường độc đạo đi qua nhà Hiếu - mà cố nhiên các cô sợ người rình không dám đi qua. - muốn vào trong xóm không có lối nào khác. Có lẽ rồi các cô lội qua dọc sông xé rào vườn rau nào đó chui lên rồi lần vào đầu xóm trên vì thấy chó trong xóm cứ cắn đổ xô về một phía. Hôm sau mụ chủ vườn nheo nhéo chửi mãi đứa kẻ trộm chui qua vườn giẫm nát mấy luống rau.
Trúc đoán:
- Có lẽ các cô bò?
Văn reo lên:
- Chính thị. Vì sợ sáng trăng mà đi cao lênh khênh quá!
Chúng tôi ra xem: mấy luống cà luống cải đổ có cả vết chân lẫn vết tay. Từ đấy các cô kệch không dám đi tắm đêm mà cũng chừa ví von với chúng tôi nữa. Có lẽ các cô đoán ngờ ngợ. Hễ gặp đâu mặt các cô đỏ như cà chua chín rồi lẩn mất.
1942

Cô Mì mười tám tuổi. Ðến tuổi ấy, từ mùa xuân trở đi, đôi mắt người con gái trong thẳm và đen lay láy. Cô nhìn sang hai bên, con mắt lừđừ đưa nghiêng nghiêng. Ôi chao là say sưa. Miệng hoa chúm chím. Mỗikhi mỉm một nụ cười nhỏ, đôi má hây khẽ gợn lúm xuống hat nét vòng yêu.
Mì là cô gái đẹp nhất làng. Tất cả những người con trai đều công nhận thế. Vả anh nào cũng ngấp nghé muốn phải lòng. Nàng chẳng kiêu kỳ chi đâu, nhưng yêu được nàng cũng không phải là dư. Bởi vì nàng nhan sắc. Bởi vì nàng lại biết chữ nữa. Sự biết chữ của một người con gái ở làng Nghĩa đô quả là một tài hoa hiếm có. Nàng viết hộ thư những người hàng xóm. Nàng đọc truyện Hoàng Trừu vanh vách. Nàng thông thạo về đường tiểu thuyết lắm. Bởi vậy, đã xảy ra một chuyện tức cười về chữ nghĩa khó khăn ấy.
Có một người con trai khác xóm yêu Mì. Một bữa kia, chẳng biết làm thếnào, anh chàng đưa đến tay Mì một bức thự Mì đọc. Rồi Mì đi nói với các chị em bạn rằng: - Nó không biết chữ, nhờ ai viết cho cái thư,người ta lại hiểm, đi chép ở trong truyện ra. Truyện ấy tôi xem rồị Ðã dốt đặc cán mai, lại còn ti toe, chài sao nổi mình!
Và nàng chép miệng:
-Không biết chữ, nhục thế đấy!
Những lời nói chẳng hay cho người con trai nọ lọt ra ngoài và lan đi khắpngã ba, ngã bảy. Anh Cuông cũng rõ câu chuyện như mọi ngườị Nhưnganh còn biết rõ thêm hơn nhiềụ Bởi Cuông có cô Nghiên, cô em con nhàchú, là bạn thân của Mì. Một lần Cuông đã được nghe Nghiên đọcnhững lời thư kiạ Nó đọc từ đầu đến đuôi. Nhưng Cuông chỉ nhớlõm bõm thôi; thư hay lắm. Ðại khái có những câu rằng: "Mợ yêuquý của tôi ơi! Cánh hồng bay bổng, chim xanh tuyệt vời. Mành tươnglất phất. Gió đàn lung lay. Nỗi niềm ngậm đắng nuốt cay; ai ơi cóbiết lòng này cho không."
Những nghe mà cảm động. Thỉnh thoảng Cuông đọc lẩm bẩm trong miệng nhữnglời văn chương ấy. Cũng bởi rằng anh Cuông đã yêu cô Mì. Cuông làmột gã trai mới lớn. Tơ tình đương phơi phới nhẹ nhàng. Thườnganh vẫn được trông thấy Mì, mỗi buổi chiều, dù hai người ở cáchhai xóm. Chiều chiều, Mì sang chơi nhà Nghiên. Cũng chiều chiều, lúchoàng hôn đã đỏ sạm, mọi người đều rời khung cửi, Cuông ra đứngngẩn ngơ trước ngõ. Hư thoáng thấy cái thắt lưng lụa bạch của Mìphất phơ đằng đầu xóm, chàng đã đỏ bừng mặt, chân tay tự dưng líuríu lại. Và khi Mì đi sắp đến nơi thì Cuông lẳng lặng thụt dần vàotrong cuối ngõ. Ðể đến lúc Mì đã đi khỏi, Cuông mới nhô đầu racúi khom khom nhòm theo, nét mặt ra chiều đờ đẫn. Giá bấy giờ co aichợt đi đến trông thấy Cuông thì Cuông vội đứng ngay ngắn, hai taychắp ra đằng sau, mặt ngẩng lên trời, giả như đương đứng tơ mơnghe tiếng diều sáo vo vo trên caọ ấy, buổi chiều nào cũng tương tựnhư buổi chiều nàọ Nếu không có một sự gì mới mẻ khác chẳng biếtcuộc "tình duyên một vế" này còn kéo dài đến tận bao giờ!
Cuộc đổi thay vào sau những đêm có hát chèo bên làng hượng. Một hôm,Nghiên nói chuyện với anh Cuông:
-Cái hôm hát trò Lục-Vân-Tiên ấy mà. Em đi xem với chị Mì.
-ừ, lúc bấy giờ tao lẻn qua chỗ cửa đình chứ gì?
-Vâng. Lúc chị Mì thấy anh đi qua, lại bảo em thế này chứ: "Anhấy hay nhỉ?"
Cuông bừng người, thấy như đương rung từng đốt xương ống một. Anh hấptấp hỏi dồn:
-Sao, Sao thế?
-Em cũng hỏi lạị Chị ấy cười, bảo: "Anh có vẻ hay phạm. Chiều nàocũng đứng ngoài ngõ. Trông thấy em lại đi vàọ"
Anh Cuông ngơ ngác, lẩm bẩm chối bâng quơ:
-Quái nhỉ Quái nhỉ Tao có đứng ngõ đâu!
Nhưng trong lòng anh nghĩ khác. Trong lòng anh đương có hoa nở. Và anh đã tương tư cô Mì lên gấp trước mười lần rồi. Bởi vì như thế là côMì có chú ý đến anh lắm. Ðêm hôm đó và mấy đêm hôm sau, anh Cuôngnằm trằn trọc không ngủ được mấỵ Chính anh cũng chẳng muốn chợp mắt.Ðôi chốc, anh mỉm cười vớ vẩn. Anh nghĩ lập lý rằng:
-Thế là cắn câu rồị Bây giờ chỉ thả một cái thư là ăn thua ngayđấỵ Nhưng chết một cái, mình lại cóc biết chữ. Nó mà hỏi đến, mìnhmít đặc như cái anh cu kia thì bỏ xừ.
Cuông thở dài ở đoạn nàỵ Anh nghĩ lơ mơ, lơ mợ
-Có lẽ mình phải đi học chữ quốc ngữ!
Một ngày phiên chợ Bưởi, Cuông xách một con gà lên chợ bán. Con gà hưquá, ăn bún rất nhiều, mà lại đẻ trứng cách nhật, nên Cuông đem bántống nó đi Nó to xù xù, há mỏ kêu cục te cục tác cùng đường. Bángà xong, anh đến một hàng xén. Anh có ý tránh những hàng có cô gáingồi bán. Anh vào hàng một ông cụ già kèm nhèm mắt. Và anh mua mộtquyển "Lên sáu" năm xu. Anh thu gọn lỏn ngay quyển sách vào bụngáo, chẳng một ai nhìn thấy. Rồi anh ung dung về làng.
Cuông học chữ quốc ngữ liền từ tối hôm ấy. Thằng Tế là cháu anh, học tròlớp tư ngoài trường làng, dạy anh. Mỗi phiên, anh trả công thằng bémột xu, nó bằng lòng ngaỵ Bắt đầu anh lẩm nhẩm những chữ cái to thôlố - gọi là chữ cái có khác - một cách nhọc nhằn và hơi chán nản.Nhưng anh chỉ gắng, chịu khó vài bữa, đã học sang đến nửa vần bằng"ba be bê bi" rồi. Tối đến, dệt cửi đầu hôm xong, Cuông mang đèn ra ngoài hiên. Thằng Tế đã đợi sẵn ở đấỵ Anh ngồi xổm,chăm chú chỉ từng chữ, theo ngón tay trỏ của thằng bé. Học đuổinhau như vậy một lát. anh đã thuộc. Thằng bé đi ngủ, để anh ngồi lẩmnhẩm gật gù một mình. Khi đã thuộc kỹ, có thể gấp sách lại mà vẫnđọc được, anh mở vở ra. Anh nằm nhoài xuống, cong hai chân lên. Bútvà mực đã sẵn đấỵ Anh mắm môi, nheo mắt, nghiêng đầu tô từng cái"gậy" một. Hết hàng "gậy" này xuống hàng "gậy"khác. Cầm thì cầm úp ngòi bút xuống, chấm mực vừa phải và vạch chokhỏe. Nhiều khi tức ê ẩm cả ngực mà anh vẫn chịu khó nằm thẳng duỗira. Viết xong một trang, anh mới bò dậy, thở phèo một cái rõ mạnh, rồigấp sách lại, đi ngủ. Bao giờ trước khi đi ngủ, anh cũng nghĩ dếnnhững chữ nghĩa lủng củng, lôi thôi anh vừa học: "Nào t-a-ta,n-g-a-nga, lại n-g-h-e-nghẹ.." Và thể nào anh cũng tưởng tượnglan man đến một hôm nào đó, cái Nghiên đưa tờ thư của anh cho Mì.Cô nàng mở ra, vừa đọc vừa chớp đôi hàng mi. Anh không tư lự gì hơnnữa.
Anh Cuông rất chịu khó học. Nhưng anh giấu giếm cẩn thận việc học củaanh. Bạn bè không ai biết, anh lại càng kín đáo hơn đối với cáiNghiên. Bởi vì to đầu mà còn đi học, anh rất sợ xấu hổ, và nhất làsự bí mật đến tai Mì thì hỏng bét cả. Mùa đông đã sang những ngàycuối. Cuông ngồi học phải quàng chân lên tận cổ. Nhưng anh cũng sắpthành công rồi. Bởi anh đã có thể chúm nghoẹo mồm đi mà ậm ựcđánh vần đến u-i-cờ-lét-a-uya, đến u-i-cờ-lét-uê-c-h-uếch, rồị..Trong giấc ngủ, lẫn với bóng dáng hình ảnh cô Mì yêu quý, lòng anhxốn xang hy vọng. Thế rồi, một đêm đầu mùa xuân. Cái không khíđầm ấm, cái phong thái nhàn nhã hãy còn phảng phất trong mỗi giađình. Cuông khuân sách vở, bút mực ra ngoài hiên. Nhưng tối nay khôngcó cu Tế. Anh ngồi gật gưỡng, ngả nghiêng cái đầu, mắt nhìn đămđăm vào ngọn đèn. Thoáng mơ màng một vẻ nghĩ ngợi rất xa xôi. Phải,anh Cuông đươmg có điều nghĩ ngợị Anh xếp băng tròn hai chân ngồinghiêm như ông Phật, qua hàng giờ im lặng. Rồi anh xé ở cuối vở ra mộttrang giấy. Anh đặt lên trên bìa sách, vuốt hai mép cho thực phẳng.Chàng từ từ nằm bò xuống. Cái bút chấm vào lọ mực tím, chàng cứ hýhoáy đưa ngòi bút. Chiếc ngòi bút sắt, bên ánh đèn, lấp loáng màumực, đưa đi theo dòng kẻ, như ngượng nghịu reo lên cồn cột vìđược gặp mặt tờ giấy trắng. Một chữ viết, lại ngừng. Một chữ viết,lại rụt rè xóa. Song Cuông đưa bút rất nắn nót, tề chỉnh. Có khi cốgắng và đam mê công việc quá, Cuông ngoẹo cổ, trợn lồi mắt lên, méolệch mồm để đẩy chữ "o" cho được thực tròn trặn. Mặt giấyđầy dần dần được ba dòng, rồi bốn dòng, rồi bốn dòng rưỡi thìanh buông bút xuống, bâng khuâng ngó ra ngoài vườn. Bấy giờ đãkhuya lắm. Vườn tre và vườn dừa láng một chút ánh trăng xế dịu dàng.Cuông cúi xuống, hai tay nâng tờ giấy, trầm ngâm nhìn mươi hàng chữnằm ngổn ngang, trong những đường kẻ xanh. Nhưng khi anh lắp bắp đọclại nho nhỏ thì mắt anh sáng lên. Những tiếng chữ lẫn với tiếng"ư", "a" bật ra miệng và cả ở đôi mắt, một cách rấtkhó nhọc, nhưng rất kính cẩn, thiêng liêng. Thành thử, những hàng chữxấu xí và bề bộn cũng được lây ít nhiều khí sống mạnh mẽ, trở nênquý giá và đẹp đẽ lắm. Anh Cuông đã đọc lại xong. ồ, đó là mộtbức thư ngắn - mà dài cho người viết - để gửi cho người yêu. Thưcủa Cuông gửi cho em Mì.
Thư rằng:
Em Mì ơi! bấy lâu nay tôi vẫn trộm nhớ thầm mong em lắm. Chẳng biết emcó biết cho không. Tôi viết thư này là chính của tôi viết cho emđấy. Em Mì ơi! gió đưa tờ giấy lên mây; gió đưa thư này bay đếnnhà em. Em mà bắt được em nên trả lời. Trăm năm xin quyết cùng nhauchung một lời vàng đá.
Nguyễn Văn Cuông viết thư.
Thực là một công trình ghê gớm của Cuông. Anh đọc lại một lần nữa, rồi hơ giấy lên ngọn đèn cho chóng khô mực. Bấy giờ anh mới cẩn thận gậplại làm tư, để vào trong quyển vở, đem nhét xuống gối đầu giường.Ðã vào canh một, gà gáy lên te te. Vừng trăng đã khuất hẳn.
Thế là Cuông cắm cuối học từ ngày vào mùa đông, đến ngoài Tết Nguyênđán thì viết được trọn lá thư đưa cho Mì. Nhưng lá thư tìnhđầu tiên ấy không bao giờ được gửi cho ai. Bởi vì, ngày đầu mùa xuân đó, cô Mì đi lấy chồng. Cô lấy chồng người bên làng khác. Tất nhiên là Cuông không hay biết gì trước. Cho đến khi cái Nghiên lại nói chuyện với anh thì đã muộn hẳn hoi rồi. Anh không thể dám oánai được. Bởi anh chưa có ai để mà oán hận.
Lá thư tình vô duyên nằm buồn thiu trong mép bím(*) anh được mấy hôm.Những nếp gấp đã lên nước mồ hôi mà đen xỉn lại. Một đêm, anhchâm đèn lên, kề tờ giấy vào ngọn lửa mà đốt đi. Ðôi mí mắt nặngxụp xuống.
Rồi mọi người xung quanh đều biết rằng tự nhiên mà Cuông thông thạođọc và viết nhoang nhoáng được chữ quốc ngữ.
Nhưng anh buồn lắm. Cả ngày anh chỉ giải khuây mối hận kín đáo bằng cáchđọc truyện Kim-Vân-Kiều.Một hôm, anh nói với cô em:
-Truyện Kiều hay lắm. trong ấy có nhiều câu buồn ghê!
Nghiên cười:
-Ðộ còn chị Mì ở nhà, chị ấy cũng thích đọc truyện Kiều. Hoài của,giá ngày trước em làm mối cho anh nhỉ!
(1942)
(*)bím: cái ví


Tối 19-4, khi mới trở về Hà Nội, tôi hay la cà đi tìm lại người quen và vài người bạn cùng lứa tuổi. Tôi đến nhà người bạn ở cuối phố gần chợ Đuổi. Cùng đi với Nguyên Hồng. Tới cửa, Nguyên Hồng nhìn vào rồi hỏi tôi:
- Mày quen thằng bồi tiêm này ở tiệm hút nào đấy?
Tôi cười: “Bạn cũ thôi. Không phải nó nghiện đâu” Nguyên Hồng không vào, anh sang ngồi chờ tôi ở quán nước chè tươi bờ hè bên kia. Tôi bảo nó không nghiện cũng như Nguyên Hồng đoán nó nghiện, cũng là trông mặt bắt hình dong, bởi vì trước kia thằng này cũng gầy quắt queo, nước da mai mái như thằng bồi tiêm chuyên hút sái thuốc của khách bỏ lại.
Tôi quen nó từ khi tôi còn ở làng. Nó là con một bác làm đề lại trong phủ lỵ. Bố làm “lại” là thầy cò, dắt mối kiện cáo. Nó thì làm “nho”, chuyên luẩn quẩn quanh công đường, hóng người có việc vào cửa quan viết đơn thuê, ngày cũng kiếm được dăm ba hào. Tôi không biết nó lúc làm “nho” cửa phủ, mà đến khi nó làm thơ và biết tội có viết văn viết báo, nó tìm tôi làm quen. Ngẩng lên trước nhà, thấy treo cái bảng: “Vân Vân Tử xem tướng tay phương pháp Ấn Độ. 5 đồng một quẻ”.
Bên dưới có cái bảng nứa sơn hàng chữ: Lớp dạy làm thơ. Có nhiều thi sĩ danh tiếng đến giảng. Cam đoan ba tháng làm  được  thơ đăng báo. 15 đồng một khoá (đóng tiền trước)
Nó nhớ ra tôi ngay.
Tôi hỏi đùa:
- Xem bói và dạy làm thơ việc nào kiếm được hơn?
Biết tẩy nhau từ thời trứng nước rồi, chúng tôi trò chuyện hể hả. Nó nói:
- Việc nào cũng cần thiết. Ấy thế mà nghề bói lại ra tiền hơn nghề thơ.
Nó cho tôi biết ở trong Hà Nội nó làm thơ, ký là thi sĩ Tiên ông, năm ngoái mới in tập thơ Đại Dương Kình hay “kềnh”, tôi không hiểu nghĩa là gì. Tháng sau, tôi lại đi qua phố ấy. Thấy ngoài cửa đã bỏ cái bảng dạy làm thơ. Cái bảng “Xem tướng tay” vẫn nguyên thế với tên của thầy tướng Vân Vân Tử, nhưng sơn đổi một dòng: Xem tướng tay phương pháp học được ở bên nước Tích Lan Tây Trúc...
Tôi bước vào. Người tiếp tôi không phải là nó mà là cái ông to béo, lần trước đến tôi đã gặp. Ông là người thuê cái buồng liền với nhà ngoài. Ông to béo nói:
- Sừ ấy đi rồi.
Rồi kể: ông ấy xuống Hải Phòng đi tàu há mồm vào Nam.
Tôi hỏi nqra đùa nửa thực:
- Ông dọn ra nhà ngoài theo đuổi nghề Vân Vân Tử?
Ông to béo cũng cười, nhưng cãi:
- Sừ ấy học nghề tôi thì có.
Làm thế nào biết được ai học ai. Có lẽ đoán được vẻ mặt dửng dưng của tôi, lão nói:
- Cho biết tài nhé. Sừ đưa tay đây moa xem. Tay phải.
Tôi ngửa bàn tay phải cho lão ngắm nghía. Rồi lão thong thả phán từng câu:
- Có tướng lên xe xuống ngựa đây. Nhưng là có tiếng hơn là có tiền. Mười năm nữa có cái hạn to. Biết trước thế này thì có thể tránh được.
Tôi trả tiền ông. Ông không lấy, và nói: “Xin nhờ sừ quảng cáo hộ mấy chữ lên báo”.
Tôi băn khoăn không biết anh bạn tôi hay lão này là Vân Vân Tử, nhưng khi ra về tôi cũng quên ngay. Bây giờ lắm nhà làm ăn cũng mưu mẹo một cách ác ôn thế này. Chủ nhà ngoài hay nhà hàng xóm đi Nam nếu trước đây làm ăn khá thì chủ nhà trong ra ở, hay nhà hàng xóm sang trương bảng tên cửa hiệu và buôn bán y chang nhà ấy. Hàng bánh giò trước cổng công ty nhà Đờ Măng ở gần Cửa Nam không còn. Nhưng một hàng nước cũng ở chỗ gốc bàng ấy gắn cái bảng: ở đây bán bánh giò Đờ Măng. Dưới Hải Dương có một hiệu bánh đậu xanh ngon ở Hà Nội có một hàng bánh cốm có tiếng. Bây giờ cả trong phố và ngoài bến xe Hải Dương vô khối nhà làm và bán bánh đậu xanh, và hai bên dốc hàng Than ở đây mọc ra hàng chục hàng bánh cốm tên hiệu ghé gẩm chữ Ninh bánh cốm) hoặc ở Hải Dương thì vẽ con rồng vàng bánh đậu xanh) có ghi chú đầy đủ... gia truyền năm đời... cổ truyền ba đời...
Sự lập lờ gia truyền này có gốc gác ra đời từ thời tôi gặp thằng thày tướng Vân Vân Tử kiêm thi sĩ Tiên ông và lão béo nhà trong ra nối nghiệp xem bói khi Vân Vân Tử đi Nam.
Những sự lừa bịp ấy vào thời buổi này vẫn thời sự lại còn múa may biến hoá khôn lường. Lâu lâu tôi mới lại đi qua cái phố ấy gần chợ Đuổi. Trông thấy ở của nhà ông bạn cũ của tôi treo cái bảng to dài ngang gian nhà sơn chữ đỏ: Phở Tôn Nam Định gia truyền. Kính mời quý khách. Tôi đã biết phở gia truyền chỉ là các người bán phở gánh hay làm thuê chứ phở gốc là “ngưu nhục phần” (thịt bò, bánh) của người Trung Quốc đem sang. Khi tôi còn nhỏ, gánh phở lên đến chợ Bưởi còn là “phở tân thời” cho nên làm gì có gia truyền, có năm đời phở. Tôi cũng tò mò vào xem cái ông coi tướng tay đã đổi nghề mở hiệu phở. Nhưng anh chủ hiệu còn trẻ lễ phép nói:
- Thưa ông, bố cháu về quê rồi.
Tôi không hỏi lại anh ấy, về quê là về quê hay ông ấy đã chết. Tôi hỏi thân mật:
- Ngày trước ông cụ nhà cậu xem bói tướng tay cơ mà, đã bói cho tớ, gia truyền gì cái phở...
Anh trẻ tuổi cười ha ha, tay giơ lên, rồi xòe ngón tay ra như đương to tiếng tranh luận:
- Ông có biết hiệu chả cá Lã Vọng không? Chả cá là món riêng của nhà người ta để ăn chơi. Nhiều người khen ngon, rồi mới ra cửa hiệu. Sách đã nói thế, ông biết không? Phở nhà cháu cũng như chả cá Lã Vọng, còn bằng mấy chả cá Lã Vọng. Đời các cụ nhà cháu làm phở, để trong nhà thưởng thức vào dịp tết nhất Bây giờ đến thời cơ bung ra thì con cái phải mở mang giới thiệu cho trong nước ngoài nước biết món đặc sản dân tộc của gia đình. Khách Tây vào hàng tôi đông lắm, ông biết không? Ý nghĩa khoa học quan trọng cả đấy, có phải không nào?
Anh nói luyến thoắng, thao thao, đệm những câu bình, những câu hỏi: có biết không, có phải không, có đúng không, đúng chứ, đúng không nào... làm cho tôi chỉ ngồi nghe mà cũng gật gưỡng, mệt mỏi xiêu xiêu ngỡ như anh ta nói có lý, nói phải cũng nên. Biết không? Biết không? Anh mời tôi ăn một bát phở bò tái mỡ - không làm tái nạm, anh bảo “Nạm là cái gân chứ cái quái gì, chỉ bịp nhau cả” rồi bưng ra bát phở đầy ú ụ Cũng như mọi hàng phở đều làm bán phở thay cơm “cơm phở”, chứ bây giờ không còn là quà phở nhẹ nhàng, thanh cảnh nữa. Ăn xong, tôi hỏi, anh bảo xin ông năm đồng và tôi trả tiền, anh cầm tự nhiên.
Ở Hà Nội, cái năm tôi mới khoảng lên mười, ngoài phố thỉnh thoảng mới gặp một hàng phở gánh. Ở các chợ Mơ, chợ Bưởi ngoại ô còn lạ lờ gọi phở là quà tân thời. Và chỉ có phở gánh, chưa đâu có hiệu phở. Thằng phở Tốn gia truyền, cổ truyền Nam Định này chắc chắn chỉ từ cái nghề xem tướng tay học lỏm của bố nó mà ra. May quá, không thấy nó lại treo cái bảng gia truyền nghề dạy làm thơ. Tôi thầm nói lỡm lờ thôi chứ từ thời thằng bố nó đã vứt cái bảng dạy làm thơ của thi sĩ Tiên ông đi rồi. Vả chăng, kể cả cái thời Tiên ông quảng cáo trên báo về cái lớp dạy làm thơ cũng chẳng có ma nào đến ghi tên học. Nghề thơ văn của chúng tôi, tiếng tăm chẳng đi đến đâu, cái miếng thì cũng không ra gì, ai dây vào cho rách việc.
Bây giờ nói về hai chữ “đặc sản” cứ thấy viết, thấy sơn nhan nhản ở các nhà hàng và đăng trên báo. Tôi hãy kể về Hà Nội ngày trước đã, để soi cái gương sáng gương mờ với bây giờ xem sao. Tất nhiên, thuở ấy, Hà Nội bé tẻo teo với dân số đôi ba vạn người, chẳng nhiều hàng quán như bây giờ, nhưng cũng có những nơi ăn uống quen thuộc, phân minh như thịt chó Hàng Đồng, Hàng Lược, chim quay đầu Hàng Gai, nem Sài Gòn và tái lăn Hàng Quạt, ở đình Hàng Vải Thâm, các cao lâu Tàu ở Hàng Buồm... Những nơi ấy được tiếng vì có món ăn hấp dẫn, đấy là cái tiếng tự nhiên, có khéo có ngon thì khách mới đồn rủ nhau đến nhưng không có nhà hàng nào ngô nghê vỗ ngực tự xưng là quán “đặc sản”, vẽ vời quảng cáo một tấc đến giời khoe loạn lên như bây giờ.
Những cái trò vè này cũng có nguồn gốc cả, cứ như tôi mắt thấy tai nghe thì dường như nó cũng lại được đẻ đái nảy nở từ cái thời ông thầy tướng thầy bói Vân Vân Tử và thi sĩ Tiên ông bạn tôi có tập thơ Đại Dương Kình mà ra.
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


 Trời đổ mưa mấy hạt, rồi tạnh. Xòe bàn tay thấy mưa bụi lăn tăn. Sáng ra, búi cây cúc tần bờ rào phủ sương trắng mờ. Đã sang tháng chín, vào thu rồi.
Những đàn ri sừng, ri đá, đàn chim ngói ra ăn lúa sớm. Chúng bay loạn xạ ngang trời... Bây giờ mùa nào cũng có vụ, con chim cũng không biết đỗ xuống, ăn đâu.
Trẻ con đã xếp cần câu. Những cái nơm, cái đó đem gác bếp. Bây giờ lại vót lồng bẫy, vá lưới, đi tìm bãi bẫy chim ngói.
Đấy là hình ảnh kỷ niệm tuổi thơ tôi những năm lên chín lên mười.
Mười mấy năm sau, khi thành phố được giải phóng, tôi trở lại. Thấy như lạ mắt, làng xóm và cánh đồng im lặng không bóng người. Một cái lô cốt xi măng đồ sộ há hoác bốn phía trổ lỗ châu mai. Dấu vết tuyến phòng thủ quanh thành phố của tướng Đờ Lát còn lại bây giờ trơ vơ tang thương.
Chẳng bao lâu con đường dọc ngang khắp nơi, như bàn cờ trên cánh đồng. Những khu nhà năm tầng y hệt nhau mọc lô nhô, đấy là những khu nhà tập thể. Người các nơi được đưa tới và các xóm cũ, xóm mới ở chen nhau lẫn lộn.
Những con đường cánh đồng quây lại đã thành phố phường. Người ta không nói xuống phố hay là ra Kẻ Chợ như trước kia, mà thói quen mới, người phố ta bảo nhau đi Bờ Hồ, đến phố Hàng Ngang.
***
Con đường vắt qua cái lô cốt Đờ Lát, bây giờ sang bên kia là đường lớn ồn ào người qua lại. Không ai nhớ đấy xưa kia là con đường tắt bờ ruộng, bây giờ xe đạp, xe máy và các thứ ô tô qua. Cái phố náo động tiếng xe đến nửa đêm chưa vãn. Ngày đêm rối loạn trong những tiếng động xé tai. Vừa rồi, tôi đi nghỉ ở suối nước nóng Kim Bôi trên Hoà Bình. Trong rừng thanh vắng có những quán hàng treo bán chim cảnh. Ô những con chim bẫy được, bán cho người thành phố đem về chơi. Năm trước, tôi đã đem ở Sài Gòn ra một con chim gáy ở Đồng Tháp Mười. Bạn dặn con chim kén nước lắm, nhưng thành phố chỉ có nước máy. Được vài hôm con chim chết trong lồng, cóng nước vẫn đầy nguyên.
Tôi thích nuôi một con chim, một con chào mào, một con hoạ mi một con chim gì đó cho vui nhà.
Mà lại nhớ chỗ xóm này xưa kia chỉ có vườn cây hồng bì, cây na, cây lựu yên tĩnh và tiếng chim tôi muốn mơ màng lại như ngày xưa. Rõ khéo lẩn thẩn những như ngày xưa, bây giờ làm gì có ngày xưa. Nhưng mà tôi cứ ngờ ra thế. Những con chim cảnh của người Mường nuôi rồi đen bán nhưng vẫn phải chọn cẩn thận chứ. Nghe nói bây giờ lắm kẻ bất lương bẫy chim rừng ra bán ở dọc đường. Con chim chỉ mới đem về đến nhà đã chết. Không, tôi chọn con đã thuần.
Tôi mua được một con khướu bạc má, con khướu đã dạn người. Có người qua lại khướu vẫn hót râm ran. Ngày trước nuôi hoạ mi chọi hay nuôi khướu hót, khướu nói đều công phu lắm. Nghe đồn thế chứ trẻ con bấy giờ thì chỉ nuôi mỗi con ri đá ăn thóc, con chim vành khuyên ăn chuối. Có đứa bảo con chào mào từ bé cho ăn cơm trộn muối, chào mào quen ăn mặn, không đi đâu xa được.
Con khướu chỉ ăn gạo trộn lòng đỏ trứng gà tốn kém lắm. Những khướu bây giờ thật dễ nuôi. Khướu ăn cám trứng, hàng chim nào cũng có bán cám trứng. Còn những thức ăn cầu kỳ hơn nhiều, bây giờ nuôi cá vàng thức ăn cho cá chuốc tận Hồng Kông, Ma Cao cũng được chứ sao. Con khướu bạc má của tôi ở rừng Kim Bôi về ăn cám trứng. Khướu mổ cám độp độp, khướu cất tiếng kêu quắc quắc. Hay quá, thế là được rồi. Ăn no, khướu bạc má đậu chơi trong lồng dưới giàn kim ngân.
Bây giờ cũng đương mùa thu. Những dãy hoá lý đã héo khô cả. Chỉ còn kim ngân lá vẫn xanh trên giàn cho đến giêng hai nở hoa vàng hoa bạc khi có mưa bụi xuống.
Con khướu bạc má nghiêng tai, đứng yên. Khướu trừng mắt rồi lại cất chân kêu quắc quắc. Suốt buổi sáng con khướu chỉ kêu những tiếng rừng quắc quắc như tiếng xe chạy ngoài đường. Quắc quắc...
Tiếng xe chạy rầm rập. Buổi sáng, buổi chiều. Xe tải, xe buýt, xe máy, náo loạn, đinh tai. Con khướu trừng trợn, nhảy, lại kêu quắc quắc. Đến tận tối con khướu vẫn chỉ kêu một tiếng nhố nhăng ấy, nó còn quắc quắc có chừng đến nửa đêm. Sáng ngày ra, mới bảnh mắt, khi có tiếng xe rộ lên con khướu trong chuồng lại hét quắc quắc...
Suốt mấy ngày mấy ngày vẫn thế. Tôi mất ngủ vì con khướu. Tôi chẳng bao giờ có thể biết đấy là khướu nhớ quê hay là khướu chửi mắng tôi.
Một đêm, bỗng nghe tiếng khướu hót nho nhỏ. Tôi rón rén bước ra ngoài hè. Trời sáng trăng, gió mát lồng lộng, ngoài đường đã vắng hẳn tiếng xe.
Có ai để ý đêm khuya trong bóng cây thường nghe tiếng chim líu ríu. Phảng phất như xa nhừ gần, như tay đôi, như một mình, như nàng chim từ qui rừng này gọi chàng chim từ qui cuối rừng. Đấy là lúc bao nhiêu tâm sự, đấy là lúc bóng trăng và bóng tối các hình bóng quấn quít tan rã ẩn hiện như chiêm bao. Có lẽ cũng là những mơ ước kỳ thú của muôn loài trên thế gian. Có phải thế không. Con khướu của tôi đậu ở mặt chuồng, tiếng lâm râm như hót, như tỉ tê. Như con chích choè xuống ngòi nước cất tiếng xa xa mỗi buổi chiều lặng lẽ. Như con vạc đi ăn đêm về vừa trống canh ba, buông từng tiếng vào chân tre, lúc này thảnh thơi nhất, có ánh trăng và sáng điện như ban ngày, con khướu thủ thỉ nho nhỏ.
Sáng hôm sau, vẫn chỉ nghe tiếng khướu quắc quắc những tiếng quái gở, trong khi các thứ xe từng đoàn rùng rùng rít qua ngoài kia. Con khướu bạc má hình như rạc người ra. Rồi khướu phờ phạc hẳn. Cái đầu nó trụi dần như hòn bi. Một bên cánh sã xuống. Lông rụng lả tả, mỗi buổi sáng vơ được hàng nắm, thật tham thương. Thế nào đây, con chim có thể chết đến nơi. Con chim mất tiếng hót rồi. Con chim chỉ còn rú lên hai tiếng quắc quắc.
Nhưng ngoài kia, trông lên trời mùa thu vẫn xanh thẳm, hoa lộc vừng rụng lăn tăn buông xuống đỏ hây từng đám trên mặt hồ. Tôi phải thả Con khướu bạc má thôi. Thôi cho nó bay đàn về phương trời của nó. Hôm sau, tôi ra chỗ treo lồng. Chim đã là cái xác chết còng queo. Những điều tốt đẹp, mơ màng của tôi đều vô ích. Con chim đã chết rồi. Tôi lên đường gần Bách Thao mua một con khướu bạc má khác.
Bác bán chim bảo:
- Ông yên trí. Con khướu này chén được cả thịt bò.
Tôi không dám kể chuyện con khướu ở rừng Kim Bôi về chỉ nghe tiếng động tàu xe ồn ào mà chết. Tôi cho con khướu này một miếng thịt bò tái. Nó xốc hai mỏ, nuốt chửng.
Cả buổi, tôi không nghe tiếng quắc quắc. Nhưng cũng không nghe có tiếng hót. Có lẽ con này đã quen tai với tiếng động thành phố. Có lẽ con chim vốn ăn thanh cảnh, bây giờ lại chén cả thịt. Nó không phải là con khướu biết hót, nó không hót nữa. Tôi lại đâm ra buồn.
10-2003
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Tôi đến cơ quan như mọi ngày. Lúc đi qua nhà dưới, chợt để ý trong phòng hành chính hình như có vẻ là lạ. Rồi tôi nhận ra ở góc trong, trên nóc tủ hồ sơ tài liệu có một khay gỗ, mép thếp vàng, trong khay bày cái đĩa để bốn chiếc chén hạt mít cạnh một bình hương và một lọ cắm mấy cái hoa giấy đỏ hoe. Tôi gọi cô phụ trách quản trị.
- Các đồng chí làm cái gì thế này?
- Dạ, chúng em cúng thần tài.
- Cơ quan ta có kinh doanh gì đâu, mà giá có...
- Dạ, không cúng thần tài thì cầu ông Phúc, ông Lộc, ông Thọ phù hộ. Chúng em thấy ngày rằm, mùng một, cán bộ công nhân viên các cơ quan đi lễ đông lắm.
Tôi nghiêm mặt:
- Ở đâu tôi không biết, ở cơ quan ta các đồng chí dẹp đi ngay, dẹp ngay. Không được phổ biến mê tín, dị đoan vào cơ quan.
Buổi trưa tan tầm, tôi xuống đi qua, trên nóc tủ đã thấy biến cái khay, chỗ ấy lại là chỗ để úp nón như mọi ngày.
Năm sau, tôi về hưu theo chế độ, đúng sáu mươi tuổi. Có hôm tôi đến cơ quan. Cô quản trị vồn vã:
- Chào thủ trưởng, lâu lắm chẳng thấy thủ trưởng đến chơi.
Tôi thật thà:
- Lắm lúc buồn chân buồn tay, nhưng cũng chẳng muốn đi đâu.
Cô quản trị cười cười bảo tôi: “Cụ ơi! Mời cụ lên đây”. Rồi cô dắt tay tôi lên phòng giám đốc. Phòng khoá, nhưng cô có chùm khoá cả cơ quan, cô mở cửa đưa tôi vào. Căn phòng vẫn như năm trước, chỉ có bàn ghế, tủ thì đã bày biện khác hẳn. À, có thêm cái máy điều hoà.
Cô đứng lên một cái ghế, với tay chỗ hốc tường lật bức trướng thêu chữ Huân chương lao động hạng ba, đằng sau nhô lên dưới băng dán loăn xoăn một cuộn giấy vàng bằng ngón tay.
- Bùa yểm trấn trạch, bùa yểm cụ ơi?
Rồi cô kể: hôm giám đốc mới đến sửa soạn dọn phòng làm việc. Giám đốc đi với ông thày. Không ai biết là thày cúng, bởi vì ông thày bùa này còn trẻ, cũng quần áo cán bộ như ta. Chắc ông ấy cũng làm cơ quan nào đấy, kiêm thêm xem bói, làm thầy cúng. Ông thắp hương, thắp nến linh tinh, vừa rả rượu vừa khấn hay lắm. Ông yểm bốn lá bùa bốn góc tường này, rồi ông bắt quyết chỉ hướng kê bàn, kê tủ phía nào. Giám đốc đóng cửa, mọi việc đều làm bí mật. Nhưng che mắt thế nào được bọn mẹ ranh chúng em.
Tôi cứ nghe mà vừa giận, vừa ngượng. Cái anh đến thay tôi này chưa hẳn đã hơn nửa tuổi tôi mà sao nó lại u mê lạc hậu đến thế. Còn tôi ngượng chỉ vì xưa nay tôi là tay chửi mê tín vào hạng ác, mà bây giờ mê tín dị đoan lại trùm cả lên đầu tôi đến ngạt thở.
Tôi hầm hầm hỏi cô quản trị:
- Giám đốc đâu? Giám đốc đâu?
Cô đáp dịu dàng:
- Thưa bố, giám đốc đương họp chi bộ bên phòng khách.
Cơn giận của tôi trùng ngay xuống. Thế là ra làm sao? Tôi lò dò qua mấy phòng làm việc, thấy trên nóc tủ, mỗi phòng đều có cái khay cúng thần tài, hoa hương tưng bừng, chắc là chúng nó thắp hương cả ngày - như ở các tủ kính bán thuốc lá hè phố Sài Gòn hồi mới giải phóng.
Cơn giận của cụ Khốt tôi đã nguôi, lại nguôi nữa, nguôi hẳn. Mỏi quá, không đủ hơi giận nữa, xin chào thua.
Mùa hè năm ấy, cô quản trị đến nhà tôi, bảo:
- Năm nay mời hai bác vào nghỉ Cửa Lò ba ngày, hai bác đi cùng với cơ quan.
Vợ chồng tôi sốt sắng nhận lời, hẹn giờ giấc cẩn thận. Sáng thứ bảy, cô quản trị đến nhà, thưa lại:
- Hai bác thông cảm, cho hoãn một ngày. Vẫn nghỉ Cửa Lò, chỉ đi lui một ngày thôi ạ. Giám đốc chúng cháu xem lại lịch bảo chủ nhật ngày xấu, giờ cũng xấu. Giám đốc bảo cháu đến thưa với hai bác tám giờ sáng thứ hai có xe đến đón hai bác ở nhà. Ông Khốt tôi bỗng lại lên cơn giận, hoa chân múa tay đùng đùng, cô quản trị đâm hãi, đứng ơ ra, bà lão nhà tôi can tôi cũng không được.
Tôi hét:
- Không đi Không thèm đi!
Chao ôi. Tôi không đi thì tôi ở nhà. Cũng chẳng ai đến mời lại.
Dần dần, những cơn giận vô duyên chẳng cơn cớ gì càng thưa thớt hơn. Bởi vì cũng có khi tôi tha thẩn quán nước, chén rượu cốc bia vào “khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”, tôi còn nghe vô khối chuyện vỉa hè, lắm chuyện động trời nữa, thế là những cái hờn nhỏ bé kia cũng chẳng đáng gì phải nôi cơn.
Nào là những ông bộ rẫy vợ vì cặp bồ nhí, chuyện ông bộ đi cầu tự chùa Hương, đi vào ngày dưng cho vắng ít gặp người. Chuyện các ông cục ông vụ tuần rằm mùng một đi lễ đền chùa ở Sơn Tây những đền Và, chùa Mía, chùa Đá Đen... Có ông đi xa nữa, ô tô lên tận đền Bắc Lệ cuối đường Bắc Giang giáp Lạng Sơn, vàng mã đem theo có ca xe Rim, quần áo giấy gấp lại bỏ vào cốp xe... ông Khốt nào cứ những nghe thế mà lộn ruột thì chỉ có việc lăn đùng ra mà ngất đi cho rồi. Ông Khốt tôi bây giờ dửng dưng.
Bây giờ ông Khốt chọn bạn, ông thấy chỉ chơi với trẻ con, chơi với trẻ là thích hơn cả. Chúng nó ngây dại, hồn nhiên cực kỳ. Người già chơi với con trẻ, vừa được nghỉ ngơi, vừa là dưỡng sinh đấy. Nhưng rồi tôi lại thấy trẻ con bây giờ lại khác xưa không như tôi tưởng. Chúng thông minh lắm nhưng cũng lạ lắm. Nó hỏi, nó nói những câu quái quỷ mà người già phải “động não” đến mấy ngày. Thế là lại hoá ra mua lấy cái mệt, cái mất ngủ.
Cháu bé nhất của tôi bảy tuổi, học lớp ba, cháu nói:
- Ông ơi? Ông xin cho cháu nghỉ hưu.
Tôi trừng mắt:
- Cháu nghỉ hưu thế nào?
Cháu tôi khoanh tay nói:
- Cháu nghỉ hưu như ông ấy, để khỏi phải đi học, khỏi phải đeo cái cặp nặng quá, ở trường về không phải đến học thêm. Cháu chỉ muốn nghỉ hưu như ông thôi.
Tôi làm sao cắt nghĩa được cho ra đầu ra đuôi câu hỏi oái oăm của lứa tuổi ấy. Chuyện về hưu chưa trả lời được thì lại chuyện khác.
Cơm tối xong, tôi bảo cháu:
- Hai ông cháu ra bờ hồ chơi một lúc.
Thằng bé thưa lại:
- Cháu vào hỏi mẹ cháu đã.
Rồi nó nói:
- Cháu hỏi mẹ cháu xem gốc cây nào không có ma. Cháu sợ ma lắm. Mẹ cháu bảo ở gốc cây có nhiều ma ngồi, ông không biết thì thôi
Chơi với cháu cũng không xong. Những cái nó hỏi oái oăm, thì trả lời đến đời nào cho hết được.

 (Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Xin không nói về thời trang và nhà tạo mốt. Sáng tạo mốt thời trang, sáng tạo dường như khó. Nhưng nghĩ cho cùng lại thấy không khó. Như việc viết văn, ai cũng làm được, tôi cũng làm được Chỉ có, mốt của tôi không ăn khách thì vứt đi, mà mốt nào bắt mắt thì phát tài. Có thế thôi. Tôi muốn nói về những cái cứ tự nhiên mà thành mốt. Con người ta sống có văn hoá thì cái gì cũng phải ra nền nếp, ra thói quen, ra mốt. Như cái áo đổi vai. Các bác, các cô gồng gánh nhiều, lưng đẫm mồ hôi, vai áo chóng rách. Bèn mua miếng vải, nhuộm nâu non, may đổi cái vai, làm cái áo đổi vai.
Thế là áo đổi vai tự nhiên thành mốt. Nhưng cái áo đổi vai các cô mặc cũng tuỳ nơi, tuỳ lúc. Không mặc áo đổi vai ngày tết nhất. Và con nhà khá giả cũng chỉ mặc áo đổi vai đi chợ hay đi gồng gánh, không ai diện áo đổi vai đi xem hội. Ngày nay, áo đổi vai ba bốn thân thành thời trang trình diễn và lên sân khấu - tất nhiên, chẳng ai còn giữ cái áo đổi vai đi chợ hay đặt cái đòn gánh lên vai. Nhưng có làm cho hay mắt tới đâu, hãy giữ nếp cái dáng gốc áo đổi vai là nét đẹp toát lên từ bóng dáng làm ăn. Diện khéo thì hai miếng hai vai so le tượng trưng sự chuyển động đôi vai và không bao giờ miếng vải trên vai dài bằng vạt áo, dài hơn vạt áo.
Mốt do người ta nghĩ ra, như bây giờ. Như có những mốt do mọi nhẽ của đời sống mà nảy sinh cái đẹp hay cái lố lăng, cái bắt chước. Như cô dâu đi thuê váy trắng tám tầng, như có một dạo học sinh không cắp cặp, cầm túi, sách vở cuộn lại kẹp vào nách. Lại như bây giờ, các sinh viên đeo cái túi nhỏ con con, như túi con cóc trên lưng. Cũng cái túi con cóc ấy, chỉ mấy năm trước chắc chăng cô cậu nào thèm nhìn.
Ấy mới là thời thượng. Thời thượng và mốt không phải chỉ ở những cái ăn diện, mà cả mọi cái, mọi điều thông thường, hàng ngày. Ý ăn nhẽ ở nếp sống không phải chỉ ở những tính cách, thái độ ứng xử và hành động mà ở mọi nơi, ở tất ca những cái liên quan đến đời sống, kể cả những nhỏ nhặt nhất. Khạc nhổ bậy, ngoáy mũi, nặn trứng cá, vênh cằm lên nhổ râu, gãi rồi ngửi, xỉa răng giữa đường, rung đùi, bắt tay người lại ngoảnh mặt đi. Và cái nón, cái thúng, cái rổ, cái túi, cái khăn mạt, cái quần lót, cái móng tay, móng chân, đâu đâu cũng bắt đầu bằng những thói quen riêng mà có. Các bà các cô đi chợ cắp cái rổ (Không cắp rá. Cắp rá đi chợ các cụ bảo là điềm đói kém, đi ăn mày) nhưng cầm cái rổ cũng là cái đựng của người đi các chợ ven nội. Cái nhà trong làng chẳng mấy khi đi chợ mua mớ rau. Rau cỏ thường ngày hái ở vườn, nhặt ở bờ rào. Đã đi chợ là có việc mua bán đong gạo đong ngô, sắm giỗ tết, cho nên người ta còn mang quang gánh, đội cái thúng.
Đi chợ chẳng cắp rổ thì ngả nón xuống, mớ rau hay chiếc bánh đa đặt vào lòng nón. Không ai đi chợ chỉ đi tay không. Đã bao nhiêu năm, đả hàng đời cung cách đi chợ như thế. Cái rổ, cái thúng, cái quang gánh, cái nón đã đi vào ca dao, tục ngữ: Qua đình ghé nón trông đình...
Về sau thì thay đổi dần. Bây giờ muốn trông thấy cái rổ, cái thúng có lẽ phải đi chợ xa, lên chân núi Ba Vì hay là đến các thung lũng trong núi Tam Đảo.
Sau thời cái rổ, đến thời cái làn. Cái làn từ phố phường lan về mà lúc đầu người ta nhận xét hơi chế giễu: “Xách làn bắt chước người Kẻ Chợ”. Nhưng rồi cái làn được ưa chuộng và phổ biến. Cái làn đựng được nhiều thứ hơn cái rổ mà vẻ lại nhẹ nhàng, thanh lịch. Đầu tiên là cái làn mây có quai, nhưng màu sợi mây trắng bóng nhìn hơi rợ mắt, người ta ưa cái gì kín đáo, nền nã hơn. Rồi sinh ra cái làn tết bằng cỏ tế. Làn cỏ tế trông thô, nhưng màu nâu nhạt dịu dàng. Làn cỏ tế thoạt mới có tên là làn Hòn Gai vì làn đưa từ các vùng kẻ bể dưới Quảng Ninh lên. Gọi là làn Hòn Gai, chứ cỏ tế mọc trên gò, trên đồi đâu cũng có. Cỏ tế thân cứng, trâu bò không ăn, người trong làng đi cắt cỏ về phơi để đun bếp. Cỏ tế nỏ đượm lửa hơn rơm rạ.
Thời cái làn cỏ tế rồi cũng qua đi. Đến thời làn nhựa xuất hiện. Làn nhựa sặc sỡ như hoa nở, cái đỏ, cái xanh, cái vàng. So với cái rổ và chiếc làn cỏ tế, làn nhựa đẹp hơn và tiện dụng hơn. Chỗ nào cũng thấy làn nhựa đi phố, đi chợ, đàn ông đàn bà đều xách làn nhựa. Có người đi làm cũng để cái làn nhựa trước xe đạp. Bởi vì làn nhựa thật “đa năng”, nó đựng tài liệu, nó lại chứa được cả cái hộp đựng cơm và thức ăn bữa trưa ở cơ quan.
Đến bây giờ cái làn nhựa vẫn còn dùng nhưng làn nhựa không còn choán hết mọi cách chứa đựng, mà cái túi ni lon ra đời đã làm được tất cả - mặc dù cái túi ni lon mỏng dính, nhẽo nhợt, đựng xong một lần thì bỏ sọt rác. Nhưng rất sẵn.
Túi ni lon và dây chun cao su làm lạt buộc. Cái túi ni lon không có kích thước. Túi nhỏ đùm nước chấm đã pha dấm ớt hay đùm mắm tôm, đùm tương. Túi to đựng cả con gà đã làm lông mổ sẵn, đã luộc sẵn hay là con cá một cân, khúc cá mấy cân, lại còn nhét thêm mớ ốc nhồi, một bó hành. Kể ra thì cái túi ni lon được nhiều việc. Nhưng túi ni lon chỉ dùng được từ chợ về nhà. Chẳng ai đeo túi ni lon lỉnh kỉnh các thứ từ Hà Nội sang tận Bắc Ninh.
Và xách túi ni lon thì quá lôi thôi, lễ mễ. Ta hãy để ý một chị vừa ở chợ Long Biên ra, hai bên tay lủa tủa những túi ni lon dài ngắn, to nhỏ. Túi này miếng thịt lợn. Túi kia một túm những con nhộng. Rồi túi bánh cuốn, túi nước chấm về cho trẻ con ăn sáng, lại túi cháo sườn, lại lỉnh kỉnh những túi gì nữa.
Trông tạm bợ thế nào, không ung dung như cắp cái rổ, xách cái làn đi chợ. Thế mà cái túi ni lon cũng tồn tại ít nhất đã ngót hai mươi năm, từ sau khi bắc nam đất nước được thống nhất. Cũng lâu lâu rồi đấy mà vẫn nhếch nhác như người đi xe đạp, xe máy bịt cái khăn tay kín miệng.
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Đã lâu mới lại có dịp vào cung Hữu Nghị. Quãng sân thật rộng trước quảng trường 1 tháng 5 vừa chặp tối, trai gái thanh niên quần áo màu nâu màu đen sắp hàng từng tốp luyện võ. Gió mát lồng lộng lên những cột cao trắng mờ phảng phất kiến trúc Trung á bát ngát vào khắp tiền sảnh.
Chẳng may, cái thói tôi cứ hay để ý những khác mắt lặt vặt, tủn mủn. Ngày trước vào cung Hữu Nghị, ngước mắt lên mặt tường lại thấy nhiều chỗ mặt tường lỗ chỗ mất cái nắp ổ điện bằng sứ, cái ấn chuông báo động, báo cháy... ông nào bà nào có thói ăn cắp vặt hay trẻ con nghịch ngợm ngứa tay ở nơi công cộng. Tất nhiên, những thứ nhỏ nhen ấy thật cần thiết nên cơ quan trách nhiệm lại phải lắp ngay cái nắp mới, cái nút ấn mới. Mà rồi lại mất. Lại đứa khác lấy, hay vẫn đứa ấy, cái tính cái bệnh ăn cắp vặt mà. Lắm hôm trông lên tường thấy những chỗ ổ điện chơ vơ, cái lỗ không nắp ở ngay cửa ra vào, tường nhà vệ sinh, ở bậc lối đi, mà toà nhà thì đồ sộ nguy nga mà người qua lại rầm rập, có nhiều khách nước ngoài. Nghĩ cứ ngượng thầm. Bây giờ thì hay rồi. Những bức tường phẳng sáng sủa, đẹp mắt. Chẳng biết cái bệnh thó vặt ở nơi công cộng đã đỡ phần nào chưa, nhưng mà ở đây tật ấy không thể còn hoành hành được nữa.
Những cái ổ điện đã được lắp chìm vào trong tường. Chắc không có đứa nào mang sẵn cái dùi đi mà đứng lại để loay hoay nậy ra được. Những cái ổ điện, ổ bấm đã sạch sẽ, bóng nhoáng như con mắt hồn nhiên của trẻ thơ. Không ai còn nhớ ở đấy trước kia có những cái nắp ổ điện thường bị mất trộm. Trong nhà hát, đèn sáng choang, những hàng ghế đệm vải hay dạ đỏ rực. Có bốn hàng ghế, khách vào sau đỡ phải nghiêng người lách trước mặt nhiều người cải tiến rồi đấy Nhưng tôi vẫn ngờ ngợ có cái gì vẫn như trước. Rồi tôi nhận ra những cái ghế vẫn đóng liền nhau một hàng. Chỉ hơn các hàng ít chỗ ngồi hơn, nhưng vẫn là ghế anh em sinh đôi sinh năm.
(Không được như ở các hàng ghế đầu trong Nhà hát Thành phố, mỗi ghế riêng nhau. Nhưng nhà hát cổ đã cả trăm năm, mặt bằng dốc nghiêng cho đến những chỗ hạng nhất thì trũng hẳn, khi đèn điện chưa bật hết, cái khoảng sang trọng ấy hơi tối. Nhà hát đã được đại tu công phu, vẫn giữ nguyên lối cũ. Các lan can và phù điêu mạ vàng choáng lộn, nhưng ở chỗ hũm ấy thì chao ôi muỗi: mà toàn muỗi đói đốt chổng đít lên vỗ một cái toé máu trong lòng tay. Chắc là vài hôm mới có hội, người ta sơ ý không làm vệ sinh xịt muỗi trước. Chẳng biết bây giờ Nhà hát Thành phố đã phát hiện ra cái nông nỗi muỗi đói rình đốt khách ở chỗ lịch sự ấy chưa).
Xin trở lại, tôi đương bước vào những hàng ghế phủ vai đo ở cung Hữu Nghị. Và cái sự tôi ngờ ngợ có cái gì vẫn cũ, cái gì ấy đương trở lại nhưng không phải là muỗi đốt mà là một ông mới đến chỗ ghế đầu, buông mình ngồi phịch xuống. Cái ghế tôi lập tức rung theo. Vẫn là chuyện đã xảy ra từ mấy chục năm trước. Suốt buổi tôi hồi hộp đợi ông ấy rung đùi, lại sẽ rung cả tôi lên như xưa. Nhưng không thấy. Chẳng biết có phải ông khách nọ không mắc bệnh rung đùi hay bởi là cái ghế tập thể được đanh vít đóng lại chắc hơn trước. Tôi ngồi hạng A, trước mặt không còn hàng ghế nào nữa oách nhất rạp. Trước mặt tôi là một dàn loa cả mấy chục ống phóng thanh to bằng những cái thúng chĩa ra. Một ông bạn tôi ngồi hàng ghế C lúc mới vào đã nháy tôi: “Chuồn xuống đây với tớ ngồi chỗ ấy thì bị tra tấn đến nơi”. Tôi chưa kịp hiểu tiếng lóng “tra tấn” nhưng tôi ngại rắc rói, chen ra chen vào, tôi ngồi yên. Quả nhiên rồi thấy ghê thật, tra tấn chắc là thế này đây. Chẳng biết ở những sàn nhạc lắc, hát lắc, nhảy lắc thì thế nào, ở đây nhạc và hát ca mười cái thúng phóng thanh xổ ra đấm vào tai, tiếng nhạc hò hét đinh tai nhức óc, giật cả vào trong ngực khiếp quá. Các ông khách nước ngoài ngồi láng giềng tôi đã ra về cả. Tôi cố nấn ná, sau cũng đâm hốt, nó rực lên đầu mất, tôi đành phải chuồn. Cũng không nhác mắt vào hàng ghế dưới xem có thấy cái ông xui khôn tôi còn đấy không. Ra cửa lại gió mát hây hẩy thổi qua hàng hiên những cái cột đá trắng thật mát, thật đẹp. Thoát khỏi những đòn tra tấn, tôi lại nghĩ mình thật lạc hậu lạc loài, người ta ngồi xem ca rạp thì sao, nhưng mà ngoài này gió mát trang sáng tôi mới ung dung bình thường lại người, chẳng tiếc rẻ tí nào. Tôi ra bờ hè vẫy cái taxi. Xe bon tới, đỗ xịch. Người lái xe nhoài ra mở cửa, cuống quít nói: “Cụ lên nhanh nhanh lên cụ ơi?”. Tôi đã vào xe. Nghe tiếng đập ùng ục đằng cốp xe quay lại nhìn nhìn thấy hai thằng cởi trần, áo vắt vai đương hùng hô chạy theo đá cái xe, lại như toan nhảy lên. Những cái xe đã vút đi. Tôi hỏi:
- Cái gì thế?
Người lái xe nói:
- Bọn trấn đấy. Hai thằng này vừa ập đến bảo cháu: Tao có dao trong người đây. Mày nôn ra một trăm thì tao tha. - Em mới chi kiếm được hai mươi nghìn. Chúng nó quát: Không nôn đủ hả? Giữa   lúc ấy cụ và cháu phóng lên, phúc cháu quá. Lại nói: Chúng nó chẳng có dao, có súng trong người đâu cụ ạ. Đói quá đói hít đi kiếm vặt ấy mà. Bây giờ nhan nhản, nhiều lắm.
Tôi bỗng thấy thật ngại. Cái thằng lái xe này cũng sắp quay lại quát tôi nôn ra thì sao?

(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Chuyện đoạn này chưa phải là chuyện giấc mộng.
Cách đây hơn bốn mươi năm. lần ấy tôi đi công tác ở Campuchia. Tối nào các vị chủ cũng đưa khách ra nhà hàng, chè chén xong kéo nhau xuống sàn nhẩy trên cái bè nổi bên sông Mêkông. Chẳng phải vì các ông chủ muốn làm đẹp lòng khách mà bởi lẽ khách ba chủ nhà bốn, có một khách thì cả mười ông chủ mới mượm cớ chè chén tiền chùa.
Đêm nào cũng dập dềnh trên mặt nước. Một cô gái nhảy đến ngồi vào bàn tôi. Cô mời:
- Anh ra đi với em vài pa.
Những cô gái nhảy đều là người Bắc dưới Sài Gòn lên. Ở dưới đó các sàn nhảy bị đóng của. Gái già Trần Lệ Xuân nhảy đã tả tơi cả người rồi lại hô hào chấn hưng phong tục, xúi lão Diệm cấm nhảy, thế là các ả này phải dạt lên đây kiếm cơm.
Cô gái cười cười:
- Sàn đây rung lắm, em đưa anh mấy bước mới quen được. Anh biết  nhảy chứ?
Một lần ở Lêningrat, một cô gái Nga đã dạy tôi: chỉ cần cần bước không dẫm vào chân người ta thế là biết nhảy. Tôi bảo ả gái nhảy:
- Biết chứ không dẫm chân người khác...
Ả mời tôi ra sàn, thì thào:
- Không dẫm chân em đừng thúc đầu gối lên bẹn em, thế là nhảy giỏi rồi.
Rồi sau tôi có cảm tưởng tôi biết nhảy, nhảy kền là đằng khác. Nhưng cũng chỉ đến Trung Á, đến Mông Cổ, đôi khi đã lâng lâng mới dám ti toe. Có Platon người Nga đi dịch cho tôi, Platon uốn lượn dẻo như múa. Platon bằng tuổi tôi, tôi bảo Platon:
- Ở Việt Nam người ta thường hỏi tuổi để đoán người. Mày với tao tuổi khỉ, chân tay vờn nhẹ nhàng nhỉ con khỉ.
Thế là tôi chẳng cần biết bài gì điệu gì, kèn trống đàn sáo ra sao, tôi nhảy theo miếng võ không dẫm chân người ta, không thúc lên bẹn người ta!
Ô hay, chứ sao, thế giới đã chăng có nhạc sĩ nổi danh chỉ hát cho người khác ghi nhạc và chú thần đồng Trần Đăng Khoa thì đã viết ra thơ từ khi chú chưa biết làm thơ đấy sao!
***
Câu chuyện đến đây thì tỏi đã như mê ngủ, tôi nằm chiêm bao.
Thời buổi này có những chuyện  chẳng đâu vào đâu mà ngon ăn. Đọc báo Công an Sài Gòn, thấy ông phóng viên gọi cái tên thợ dìu  thật là hay,  sáng tạo cực kỳ. Thợ dìu là cái trò dạy nhảy đầm, gọi là ông dìu dắt thì lại nghiêm mà không hẳn đúng việc, chỉ dùng một chữ dìu thì vừa, lại lắm nghĩa đen nghĩa mờ. (Dạ đánh quần vợt cũng là nghề đương đắt khách, giúp cho người ta bớt mỡ, nhưng tên gọi nghề này chưa có chữ hay nhủ thợ dìu). Tôi đương đi thơ thẩn quanh hồ Thiền Quang, lấp lánh nhà hàng, tiệm nhảy một góc sáng đèn, trưng cái bảng to tướng có chữ Ha le cờ-lớp. Trời, con cháu mình sống trong đất nước độc lập mới hơn nữa thế kỷ mà đã nhãng ca sự tích những nông nỗi đau khổ. Cái thằng thực dân đốc lý Halais ngày trước ngồi lên đầu ông bà ta ở thành phố này đã bị xoá đi đã lâu lắm rồi, lại ở Sài Gòn: ở Đà Lạt bây giờ mọc ra những tên nhà hàng Tonkin (Bắc Kỳ), Indochine (Đông Dương, Đông Pháp) - những cái tên tủi nhục thòi mất nước. Thôi, nhớ những chuyện này thì buồn, mà tôi thì hình như đang muốn vui. Cái cảm tưởng tôi đương có thể là, tôi vẫn là thợ dìu: tôi vừa trông thấy ánh đèn lóng lánh ông thợ dìu ngày xưa lại trở về ám ảnh tôi, lạ không. Phải, tôi đã từng nhảy, tôi biết nhảy.
Tôi bước vào ánh điện xanh đỏ rối mắt. Trong ấy người đông như nêm cói. Con mắt “nghề nghiệp” của tôi cũng phải thất kinh. Thế kia thì giẫm vào chân người cặp đôi, giẫm cả vào chân người xung quanh nữa.
Một cô gái váy hồng, môi tím bước ra.
- Bố ơi! Bố đi tìm cậu cả nhà bố hả?
Tôi gật gù vẻ chịu chơi:
- Tao thợ dìu đấy chứ.
Cô gái liến thoắng:
- Thế thì thôi, chín giờ sáng mai bố đến với các ông các bà tập dìu nhau. Bây giờ chỉ có chơi thôi. Bố trông người ta nhảy có loạn hơn thời các bố không?
Tôi ngồi vào cái bàn trống góc ngoài.
- Bố uống gì?
Chắc là ả này vừa làm “hối théng” vừa quản gia.
- Cho tao cốc Fanta.
Ả nói năng một cách lễ phép ỡm ờ, đã khiến tôi hoá ra ngay là cụ chuột nhắt mà nó là con mèo cái, con mèo vờn lão chuột nhắt lử lả gần chết. Lại còn nói:
- Bố vào ôn lại vài pa xem thế nào.
Thế là ả xốc ngay tôi đứng lên. Quả là dữ tợn quá. Cả một sàn người cứ hò hét thụi nhau, đạp nhau, vật nhau chẳng thấy nhảy nhót gì cả. Tôi hắt hơi, nghẹn cổ, ngạt thở. Ả lại lôi tôi ra từ lúc nào. Tôi cố mím môi cười:
- Tao sắp chết đây, biết không.
- Em phải nắm vai bố mới kéo bố ra được đấy, chứ bố mà ngã xuống, chúng nó xéo lên thì bố chết thật. Bây giờ bố chuồn thôi.
Rồi ả nói lem lém:
- Để em tính tiền đã. 50 ngàn đồng công em làm thợ dìu. 20 ngàn cốc Fanta (mà tôi chưa uống ngụm nào). Cốc bố bao em là cốc nước lã, em không tính em biếu bố. Cả thảy bảy mươi ngàn đồng.
- Tao dìu mày đấy chứ?
- Thôi thôi, trong túi bố có bao nhiêu thì bỏ ra. Đương vội đây.
Tôi vừa giơ ra tờ hai mươi ngàn đồng, ả giựt lấy lườm một cái rồi quay phắt vào.
Tôi ngước mắt. Tôi bỗng lại thấy tôi đương lững thững ngoài bờ hồ. Từ lúc ấy, tôi nghĩ mãi mà không nhớ đã có khi nào tôi đi tìm ông thợ dìu, có phải không?

(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Đi chợ, đi ăn phải chọn, phải mặc cả, hỗ giá cao chỗ giá thấp, người mua lúc nào cũng lo bị hớ, người bán thì lúc nào cũng thề bồi, cha chết mẹ chết con chết, ngày nào cũng làm con chó ăn cứt nếu nói điêu, nếu gian dối, trong khi đương nói điêu, đương gian dối. Ấy là quang cảnh chợ búa hôm xưa và hôm nay vẫn thế.
Ai còn nhớ trên dốc Hàng Than ngày trước chỉ có một cửa hiệu bánh cốm Nguyên Ninh, các làng cũ quanh Hàng Than cũng không có nghề gia truyền về bánh cốm. Ấy thế mà bây giờ thì không những ở dốc Hàng Than mà còn ở nhiều phố cũng quảng cáo “Bánh cốm gia truyền dốc Hàng Than”. Tên hiệu hai chữ thế nào cũng nhái chữ Nguyên hay chữ Ninh hay cả hai chữ, nhưng nhập nhằng là Nguyên Ninh mà nào bánh cốm có ra làm sao. Cái hộp thì in giả lạt đỏ buộc, miếng bánh bọc giấy bóng, còn bánh thì các cụ bĩu môi: “Mỏng như cái lưỡi mèo”.
Cái nghề làm chả cá ở phố Hàng Sơn gốc của nhà họ Đoàn, sách báo đã nói rõ nhà ấy, chỉ có nhà ấy, có lẽ vì thế mà không ai lộn sòng, xưng mấy đời chả cá. Nhưng chẳng qua cũng bởi bán món tươi sống, nhỡ ế đôi ba hôm thì lỗ vốn chết không kịp ngáp, nếu dễ dàng hơn chắc người ta cũng dễ dàng nhái lắm. Lại còn không có cũng bịa ra, ấy là cái phở “gia truyền Nam Định”. Cái nhà phở Thìn Bờ Hồ cũng thường thôi. Thế mà lắm nơi treo bảng “Phở Thìn Bờ Hồ”. Thật ra ông phở Thìn được tiếng phở chỉ vì cái hồi ấy máy bay Mỹ hay đến giội bom Hà Nội (ông chủ quán chim quay Tiểu Lạc Viên nửa đêm nghe bom ném cầu Long Biên, ông đứt mạch máu não). Người chơi khuya không tìm đâu ra được bát phở ăn đêm, chỉ có quán ông Thìn dám bán phở quá 12 giờ đêm. Có khi đương ăn phải bưng cả bát phở chạy sang bên Bờ Hồ đứng trong hố cá nhân ăn nốt. Tôi cũng đã là người ham ăn, nhiều đêm phải ăn chạy bom ở hàng ông Thìn, trong khi ban chiều máy bay ném bom bi cả xuống cây đa đền Bà Kiệu.
Bánh cốm nhái chữ Ninh, chữ Nguyên, bánh đậu xanh có chữ Hương ở Hải Dương, lại phải kể đến nhái nhãn hiệu nước khoáng. Có hồi, nước khoáng Lavie (La vie, tiếng Pháp: sự sống), thấy nhan nhản nước khoáng La ville (La ville, tiếng Pháp: thành phố) thật vô nghĩa. Nhưng lại còn vô nghĩa và dã man đến độ nhái bạt mạng: La viol (viol, tiếng Pháp: cưỡng dâm). Cái nước khoáng Viol chỉ thấy lập lờ một dạo rồi biến. Chắc có người chửi thằng ăn cắp dốt và liều quá.
Chỉ có làm giả bột ngọt Azimoto, rượu vang Boócđô thì bị phạt và ra toà, còn pháp luật chưa để mắt tới nhái, trong khi nhái cũng là hàng giả. Lại cái bánh dầy Quán Gánh, lại cái tương Bần. Có phải cả vùng Quán Gánh làm bánh dầy đâu. Ngày trước, bánh dầy nhân đậu Quán Gánh ngon thật. Nhưng chỉ có mỗi một bà hàng nước vối ngồi ở Quán Gánh làm bánh dầy bán kèm với trứng vịt luộc.
Bây giờ ven quốc lộ qua Quán Gánh dài dài có đến trên hàng cây số treo bảng “Bánh dầy Quán Gánh”. Bánh dầy xếp la liệt, cao có ngọn mà tuyệt nhiên không thấy khách ngồi ăn bánh dầy uống nước vối như ngày xưa.
Bởi vì bánh dầy bày bán cho khách qua đường ngày nay không phải khách bộ hành, không phải là ông hay tôi đi xe đạp, xe máy qua mà là các xe chở khách, xe vận tải Bắc Nam đỗ xuống mua. Khách phía Nam rời thủ đô muốn mua cái gì đặc sản Hà Nội đem đi. Không phải cái báu ngọc gì đâu, mà chỉ là những vặt vãnh mà trong kia hiếm không có, như quả sấu, gói ô mai mơ, thì bánh dầy Quán Gánh cũng là một món quà thời thượng. Chỉ có khách xa quý Hà Nội lắm mới tải đi cả phố bánh dầy thế được.
Cái tương Bần đựng vào những can xăng vàng choé - vùng Bần có tiếng tương ngon, nhưng cũng không bao giờ có cả phố bán tương Bần như bây giờ. Ngày trước, cả Hà Nội chỉ có một nhà bán tương Cự Đà ở vùng phố cổ. Các ông các bà hàng quán ấy mà có đôi chút lương tâm thì may ra còn được ăn tương tử tế, nếu không thì chỉ gặp những thủ đoạn chợ búa bất nhân. Cũng dễ lắm, bởi vì khách mua tương rồi đem đi xa cả mấy ngày đường. Lại là khuất mắt mà.
Bất giác, nhớ một chuyện đểu. Hồi ấy, các ga xe lửa còn cho hàng quà các thức bán lên tàu và đi quanh hai bên cửa sổ. Toa ăn của tàu thì nhà tàu chơi ác, cho mọc ngay sau cái đầu máy, lặn lội trèo qua hàng chục toa người mới lên tới toa ăn thật rắc rối, khó nhọc. Nhiều hành khách cũng như tôi, đành với tay ra cửa sổ, mua cái bánh chưng, bánh dầy thế cũng xong bừa.
Chỗ ấy quãng qua ga Đồng Vân. Tôi với tay ra cửa sổ, mua cái bánh trưng. Tàu chạy, bóc bánh ăn, ở trong là một cục đất sét. Cục đất nặn cũng nong nóng như vừa mới vớt ở nồi ra. Từ cái bánh chưng, bánh dầy, lọ tương, lọ nước khoáng cỏn con đến những chuyện to dự án B, dự án C và những công trình lớn thì thế nào, có ăn cắp, có làm giả không, có chứ, bởi nó cũng là dây dợ họ hàng của những kẻ mua người bán ngoài chợ quen ăn không nói có và cái thói thề bồi xoen xoét đương xảy ra.
(Chữ nhái, tôi vẫn cho là một tiếng thường dùng ở phía Nam. Nhưng tra Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sến không có. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì viết: Nhái: bắt chước, nhái mẫu hàng, nhái một thứ hàng. Bạn nào biết gốc tích rõ hơn, xin trao đổi).


Ở nước ta, hầu như ở đâu có triền núi đá thì đấy có suối nước khoáng, suối nước nóng. Chỉ ra khỏi Hà Nội ngược lên sáu mươi cây số đã gặp suối nước nóng Kim Bôi, cũng xuống xuôi chừng ấy đường đã đến suối nước nóng Kênh Gà.
Bên nước Gruzia trong dãy núi đá kia chảy ra dòng suối nước nóng cỏn con mà người ta đã xây dựng ra các nhà nghỉ, nhà chữa bệnh, nào bể bơi, nào bồn ngâm nước, nào bể đắp bùn. Quanh năm, khách trong nước, ngoài nước đến chơi đến nghỉ đông nhiều vô kể, hốt bạc vô kể. Ở nước ta chẳng thiếu, nhưng du lịch và y tế chưa mấy nơi với tới. Ở Kim Bôi, nơi có suối nước nóng chảy ra, là Mớ Đá. Bên kia cánh đồng, xóm ở trong đồi, gọi là Mớ Đồi. Có ông khách nghỉ nói giễu: “Bao giờ có thêm suối nước nóng Mớ Đời nữa thì bấy giờ Kim Bôi mới đầy đủ chỗ chơi, chỗ an dưỡng được”. Bởi tuy rằng nước và thiên nhiên thì của trời cho nhưng phải có người lo toan và đắp tiền vào thì mới ra được mọi thứ lưu luyến khách.
Có một lần kia, nhà thơ Hoàng Trung Thông và tôi đi Sơn La. Bấy giờ má bay cũng hầu như hàng ngày ném bom tỉnh lỵ. Các cơ quan đều tránh vào trong núi. Khách được đưa đến ở lán trong vách núi của người làng chạy vào đấy. Cái suối nước nóng chảy ngang bên chân chúng tôi.
Nước nóng trong hốc đá tuôn ra. Khi lên bờ khói trắng bốc nghi ngút nước chay một quãng dài quanh sang bên kia núi, hoà vào suối cái. Cá lúc nhúc bơi vào làn nước ấm. Mỗi sớm, người trong xóm chỉ ra một quãng đồng đã được một mẻ cá. Xóm ấy quang năm năn canh cá, cá muối, cá nướng, đàn bà con gái trắng ngần đẹp thướt tha chẳng khác người suối Mường Kim bên Mùa Căng Chải. Cả đến đàn khỉ trên núi xuống, thỉnh thoảng lại được miếng xương cá, khỉ cũng béo tròn như con cun cút. Mấy hôm, ngày nào chúng tôi cũng ra cái hũm đá nằm ngâm nước cả buổi. Chẳng biết được bổ béo thế nào nhưng ở trong nước suối nóng ra, mình mẩy “nhẹ nhàng như ở động tiên trở về trần gian”.
Bao nhiêu năm qua, Hoàng Trung Thông cũng về cõi âm rồi, tôi chợt nổi húng muốn trở lại cái suối nước nóng ngày ấy. Đến Sơn La thì dễ đường thông thoáng và xe vào tận cái xóm ngày trước chạy bom. Chỉ có lối vào cái suối nước nóng thì không có đường. Hôm sau: tôi đi với một chú bé trong nhà, quần buộc túm lại mà xà phòng vẫn phải xát lên tận bẹn, không vắt bò lên. Lại còn phải bôi xà phòng quanh cổ để “vắt xanh trên cây không nhảy xuống bám được . Đường này bỏ đã lâu. sẵn các giống vắt lắm”.
Đánh đường vào rừng hoang, chú bé phải vừa đi vừa chặt cỏ tranh, có lát mở lối. Không ngờ vào đến suối bây giờ lại xa thế này. Tôi ngơ ngẩn ngồi trên một tảng đá. Khói nước nóng trắng mờ cả những cành lau ngả quanh. Bỗng thấy đụng đậy trong cỏ, tôi trông thấy mấy cái đầu con khỉ, mắt trố thô lố nhô ra. Thấy người: những cái đầu khỉ lại rụt vào. Rồi làn cỏ lung lay dài dài ra phía đằng kia, thì ra một đàn khi có mấy chục con kéo đi - chắc là bắt cá. Chúng thung dung không biết sợ người, con nào cũng mướt lông, béo mẫm - như ngày trước.
Tối ấy tôi ngủ trong xóm. Tôi nói với cụ chủ nhà:
- Ở trong núi có nhiều khỉ quá.
Chỉ có hai người với nhau mà ông già người Thái ấy vẫn nói thì thào:
- Ấy a. Ông đừng nói vối với ở đây có khỉ.
- Làng nuôi khỉ à?
- Không, trời nuôi thôi. Nhưng mà ai biết người ta về săn hết mất. Cả chín châu mười mường này có còn con khỉ nào đâu. Ông đừng nói với ai nhé.
Tôi nào biết nói với ai, mà tôi cũng chẳng buồn nói với ai.
Mấy hôm sau, tôi trở về suối nước nóng Mớ Đá ở Kim Bôi dưới Hoà Bình. Tôi cũng chẳng thiết cái nhà nghỉ nửa vời chẳng ra du lịch, chẳng ra công đoàn này, chỉ vì tôi cũng không còn hơi sức đâu để bò theo đám trẻ bây giờ ngày chủ nhật đi cắm trại ngủ rừng nữa rồi.
Cửa buồng tôi trông vào chân núi. Buổi chiều xuống nhà ăn từ lúc tan giờ hành chính để cho nhà bếp còn về. Cơm rượu rồi tôi ra ngồi nhìn lên những mỏm núi đá bắt đầu mờ mờ sương. Tôi lại trông thấy một đám mấy con khỉ đen nhờ nhờ chui trong bụi cây lên đứng trên mỏm đá. Y hệt đàn khỉ trong suối nước nóng trên Sơn La.
Tôi kêu lên:
- Ơ con khỉ. Con khỉ
Chú nhà buồng người Mường nhìn lên theo tay tôi trỏ, chú nói:
- Con dê đấy, ông ạ. Ông vừa ăn thịt dê lúc nãy. Bây giờ chẳng ở đâu còn khỉ. Đàn dê xóm Mớ Đá người ta nuôi, tối rồi dê đương về chuồng.
Tôi nhớ năm 1948, cách đây vừa nửa thế kỷ, có lần ở châu Đà Bắc về, tôi đi qua dốc Cun ngoài kia. Dốc Cun rừng lau, có tiếng lắm hổ, ban ngày không ai dám đi qua dốc Cun một mình. Tối ấy ngủ ở lán với bộ đội, nghe kể chiều hôm qua có con hổ ra vồ ăn thịt mất một anh bộ đội đứng gác. Tôi kể cho anh nhà buồng câu chuyện ngày trước hổ về vồ người ở dốc Cun. Anh im lặng một lát rồi nói:
- Bây giờ ở ngoài dốc Cun chỉ lắm ô tô, xe máy đâm chết người thôi.
Câu chuyện ngắt quãng ở đây. Từ suối nước nóng đến con khỉ, con hổ, con dê, cái ô tô, miên man rồi, xin dừng lại.
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Mới năm nào, các vùng Nghĩa Đô, Cổ Nhuế còn là làng mạc và cánh đồng. Những gò luống nhấp nhô, con đường đất đỏ, hai bên lưa thưa những cây sòi, đằng xa, có cái cầu ngói dưới bóng cây đề cổ thụ. Người trong làng qua lại thưa thớt. Mùa đông tới gió bấc hun hút thổi trên cánh đồng vắng lặng, có đàn quạ tránh rét bay qua.
Bây giờ đã khác. Bốn phía, không còn đâu những chân tre đồng cổng cuối làng, những xứ đồng cao khi mùa đông tới, những bãi lá khúc mọc hoang nở hoa vàng như hoa cải trong vườn, cái lô cốt nửa chìm nửa nổi của Pháp của thời chiến tranh còn lại mọi khi thấy lù lù ở bên cạnh đìa nước xanh om những đám lá ngổ bây giờ chỉ còn trong tưởng tượng.
Nơi mới mọc lên la liệt những dãy nhà năm tầng, người ta gọi là những khu tập thể. Đó là những phố mới, người ghép đến ở thành tên phố, tên phường có các cửa hàng, cửa hiệu và những chợ cóc, chợ xanh. Quang cảnh tương tự thế này hầu như ở chỗ nào cũng mọc ra ở làng chài Vụng Quất bên biển Đông, ở cửa Chân Mây miền Trung, hay ở Long Hải, ở Mông Dương xa xôi... Buổi sáng, cả quãng hè phố thành những nơi bán cái ăn sớm. Chẳng còn mấy ai ăn cơm rang, cơm nguội ở nhà, người không ra hàng thì mua về, những bánh cuốn, bún ốc, phở, xôi ngô, cháo sườn và đến cả cà phê cũng cho vào túi ni lông mang về được đủ thứ vừa mọi túi tiền, hợp với người già và trẻ con. Cách sinh sống và mọi cái thay đổi theo hoàn cảnh.
Buổi chiều, ra quán bia hơi. Những hàng bia hơi mậu dịch phải xếp hàng rồng rắn đã biến mất từ nhiều năm nay. Bây giờ xó nào cũng có bia hơi. Người ta bảo cái lúa hublon làm men bia tận nước Tiệp nước Đức bây giờ đem sang sẵn lắm. Mà chẳng cần thế, nhà máy hoa quả đóng hộp ở Bạch Mai cũng làm được bia hơi cái men những qua đu đủ, quả chuối, cả sắn, cả ngô cũng thay được men hublon. Tôi đã được uống các thú bia ấy. Không phải chỉ uống bia suông với củ lạc, cái nem chua mà có cả bè bạn vui, gọi mang đến cả thịt chó thành bửa nhậu đàng hoàng. Sáng và chiều, các phố mới ở cánh đồng xưa đều nhộn nhịp tấp nập, lâu lâu mới ra đường thấy ngỡ ngàng.
Ấy thế mà cũng vào lúc chiều tà tà đi qua đứng lại thấy trước mặt những bọn các cô gái đi đánh giậm không biết ở đâu về hay ở truyện cô tích ra. Hơi bia làm mắt hoáng tưởng tượng thế thôi, thật thì các cô đi đánh giậm ở nhùng vùng đầm ao còn sót lại bên cạnh những nhà mới xây ngăn đằng kia. Những cô gái trong làng đi đánh giậm về, ra bán chợ chiều. Mỗi cô vác trên vai cái giậm, và cái giỏ con tép, con rô ron, con nhái thì đeo thắt lưng cạnh sườn. Hệt như ngày xưa cái cán giậm nhô ra đằng trước phơi vắt cái áo hoa cộc tay cái quần thâm lúc nãy lội bùn. Khi lên bờ, các cô đã thay cái áo sơ mi trắng, quần phăng hồng. Những vẫn vai vác giậm, đeo giỏ. Cả chục cô lẳng lặng đi.
Nhìn quần áo thì ngỡ là mới, nhìn cái giậm và bộ quần áo lội nước phơi trên cán thì tưởng lại gặp những cô nàng trong kỷ niệm mấy chục năm trước. Ai biết quanh đây vẫn còn lạch nước, có ruộng trằm, người trong làng vẫn đi mót đi bòn cái ăn như thửa nào. Có các quận các phường đô thị mới lan ra quanh thành phố vẫn còn thấy những cảnh trái ngược tương tự. Những cái đầm cái chuôm được quây lưới ni lông người ta nuôi ốc mít bán cho các hàng ốc hấp, bún ốc ở Tây Hồ. Còn bao nhiêu người từ Thanh Hoá ra, ở Thái Bình lên ngày ngày xuống hồ Tây mò hến, xúc ốc bươu ốc vặn, đêm đến trên vỉa hè các quán nhậu chân gà nướng, có cả ốc luộc chấm muối gừng nhắm rượu. Những cô đi đánh giậm ở những vùng nước còn lại ở đầm Sét, đầm Linh Đường. Và suốt đêm, những chiếc ba gác người đẩy người làm bò từ Hà Đông ra, trên chất những chiếc bồ nan lồng vào nhau chồng chất dài ngoằng như những khẩu đại bác “vua chiến trường”. Xe không nặng nhưng kềnh càng không được đi ban ngày, đấy là những cái bồ, cái bịch, cái nan làm cho ngoại thương đựng dứa, đựng chuối và hoa quả xuất khẩu.
Có khi nào bạn chợt thấy những chiếc xe đạp sau lưng chất một gò ngất nghểu những cái ống đánh lươn, cái lờ bẫy cá diếc, xe đạp qua các phố dọc dài nhốn nháo những người những xe bên hồ Hoàn Kiếm. Nếu để ý chắc là ngày ngày vẫn thấy. Cái phong lưu hôm nay mới chỉ là ăn xổi. Giàu nghèo và cũ mới còn lổn nhổn khắp nơi.
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Bấy giờ khoảng tháng 10 năm 1970. Tôi và Nguyễn Văn Bổng lên Hà Giang chơi ít ngày. Nguyễn Văn Bổng vào chiến trường miền Nam đã hơn ba năm nay, mới trở ra Hà Nội và anh chưa bao giờ tới vùng cao nào ở Việt Bắc. Chúng tôi lên đường tạm biệt Hà Nội bằng mấy cốc vại bia hơi. Sắp hàng mua bia chỗ quán “Chuồng Cọp” bên hồ Thiền Quang rồi bưng cả mấy cốc ra uống ngoài bãi cỏ trông sang hồ. Vừa thoải mái, rộng rãi vừa dễ chỗ tránh máy bay. Uống xong, tôi lĩnh luôn cả hai cái cốc vại không, đem theo. Nghỉ đêm ở thị trấn Đồng Văn, hôm sau sang huyện Mèo Vạc. Năm ấy đường ôtô qua dốc Mã Pì Lèng chưa làm xong, chúng tôi đi bộ sang huyện lỵ Mèo Vạc mất hai ngày.
Giữa trưa, ghé tình cờ vào một nhà ven đường ở Dúng Là trên đầu dốc. Cũng định xin ngụm nước uống. Nhà có một mình ông cụ cởi trần, đóng khố, ngồi sưởi lửa, chắc là con cháu đều đi nương, kiếm cái ăn hay đi vác nước. Hôm nay có mặt trời hửng nắng thế này thì phải chiều cả nhà mới về. Ở đây, cả Đồng Văn và dưới Lũng Phin đều thiếu nước. Vùng cao mưa xong, nước thấm hết, không một con suối nào chảy qua, mà sông Nho Quế thì sâu thẳm quanh co tận chân núi, đi cật lực một ngày mới tới. Tôi được chứng kiến mấy năm đã hai lần trên tỉnh thồ xi măng, cốt thép về xây bể hứng nước, chứa nước mưa cho từng xóm. Nhưng chỉ được ít lâu, những cái bể lại nứt nẻ chẳng đựng được một giọt nước. Rồi tính, lại cất công xây, rồi cái bể lại vỡ toác. Hình như mấy lần những cái bể chứa nước cứ vỡ lại xây cho đến bây giờ. Nhà chưa ai vác ống nước về, han không có nước, nhưng rượu thì chắc là sẵn. Quả nhiên. Chỉ vài tiếng Mèo giả cầy của tôi cộng với tay chân múa may phụ giúp đã khiến ông cụ hiểu là nước hay rượu uống cũng bằng nhau. Chúng tôi được giải khát bằng hai bát rượu ngô đổ vào cái vấu tre. Đến lúc đưa tiền trả, ông cụ xua tay. Tôi chợt nhớ. Tôi lấy trong ba lô ra hai cái cốc cại hôm trước lấy trộm của quán bia, tôi đưa biếu ông cụ cả hai cái. Ông cụ ngơ ngác như không hiểu, cúi cầm cốc giơ lên, ngắm nghía.
Tôi đã biết ở trên này thiếu nhiều thứ vặt vãnh lăng nhăng, dưới xuôi không để ý mà đây thì cần thiết. Người ở dưới thường thồ xe đạp đem lên, bán những cái bát, cái bóng đèn, chai lọ không, kim chỉ, gương lược, túi và dây ni lông...
Rồi ông cụ bắt chúng tôi phải xách đi một ống rượu ngô, ra hiệu bảo là đi đường “uống cho khói khát”.
Đến năm ngoái tôi lại có dịp lên Mèo Vạc, qua Dúng Là. Bao nhiêu năm đã qua nhiều nhà trong xóm đã chuyển xuống ven đường ô tô. Tôi nhận ra nhà ông lão cho rượu ngô năm xưa ở chỗ cũ vẫn lụp xụp đen sì vách và mái gỗ. Giữa nhà, một người ngồi bên đống lửa cũng cởi trần: đóng khố trông hao hao không khác ông lão mấy.
Hỏi mới biết đấy là một người con trai ông cụ. Bố anh mất đã lâu. Lại hỏi cả nhà đi đâu. Anh nói chúng nó xuống chân núi kiếm miếng nước, đến trưa mới về. Ở vùng núi đá cao này vẫn thiếu nước, không có nước. Ở chợ vẫn bán cái chậu gỗ, chậu đựng nước, ngâm ngô, vo gạo, rửa thịt khô, chùi tay rửa chân cũng một chậu nước ấy. Mỗi sáng ta nhà nào cũng phải có một người đi nửa buổi kiếm miếng nước vác về.
Nhưng tôi cũng nhãng ngay cái buồn thiếu đói mà tôi cũng chỉ xót xa suông, bởi vì kìa mm cái thật lạ lùng vời tôi. Trông vào thấy hai chỉ cốc vại đặt ở trong chân vách. Đúng hai cái cốc vại bia, mặt thuỷ tinh xanh xám lổ đổ tổ ong, chỉ đụng mạnh cũng vỡ, mà chắc ở xuôi các quán bia cũng chẳng ở đâu còn cái nào. Thế mà hai cái cốc vẫn kia, để trên nền đất, vẫn xanh bóng.
Tôi hỏi:
- Mua ở đâu cái cốc đẹp thế kia?
Ông nói:
- Ngày trước, có cán bộ cho. Bố bảo phải giữ cẩn thận hai cái cốc để cho con cháu.
Ở đấy bây giờ vẫn hiếm cái bóng đèn, cái lược và chưa biết mặt cái cốc to. Nỗi buồn tưởng như vừa khuây khoả, lại trở lại.

 (Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)


Viết về “nạn cò”, tôi lấy từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của cụ Nguyễn Lân tra xem chữ cò đã sinh trưởng ra sao.
Chữ cò gốc nó chỉ con cò. Các loài cò: cò bạch (trắng), cò bợ, cò đen, cò hương, cò lửa, cò quăm, cò ruồi, cò thìa. Và biến hoá đi: con cò (ở khung cửi), bóp cò súng, mua con cò (tem), ông cò, cò trẻ con (dái trẻ con). Miêu tả điệu bộ: cò cử, cò cưa, cò dò, cò kè, cò quay. Và điệu hát: hát cò lả. Những chữ cò vào thế kỷ và gần đây: Cò súng bóp cò súng (rất nhanh), cò mồi, cò con, cò quay (cờ bạc bịp), thằng cò, cái cò.
Như chữ ông cò (nói tắt chữ Pháp: Commissaire là đội xếp, thơ Tú Xương: Thành Nam danh giá nhất ông cò, thì còn hiểu được, nhưng con cò tiếng miền Nam là cái tem bưu điện (có lẽ có khi tem bưu chính của Pháp in hình con cò chăng?), và điệu hát cò lả thì không đoán được nguồn gốc thế nào.
Mỗi chữ sinh sôi ra sao đều bởi hoàn cảnh của người và cộng đồng. Có chữ sống dai, có chữ chết yểu. Có khi cái áo sơ mi ni lông chim cò hết thời thì chữ áo chim cò cũng biến mất. Nhưng chữ thầy cò, cò mồi thì lộn kiếp và tồn tại dài dài.
Có hôm, ở Sài Gòn, tôi bàn với các bạn:
- Mai đi Lái Thiêu chơi vườn nhé.
Về Lái Thiêu mùa này đánh võng giữa vườn, rượu và trái cây, thức nhắm thì chủ vườn vớt đôi thằng ba ba dưới lạch lên. Ở bên thành phố mà chẳng khác đi du lịch vườn ở Vĩnh Long, ở Sa Đéc.
Mấy năm, khách ta khách Tây nhộn nhịp chơi vườn Lái Thiêu.
Nhưng tôi đã được trả lời:
- Vườn Lái Thiêu hết khách rồi.
- Năm rồi ngập nước à?
- Phải đâu. Tụi cò vườn tranh khách dữ quá. Khách ngán không đến nữa.
Ở đâu có ăn chơi thì đấy sinh ra cò. Cò đón mồi ra tận ngoài đường lớn, cò đưa khách vào vườn. Đông cò, đông khách rồi cò kéo, chia chác, có khi một lũ cò với cả chủ vườn ẩu đả nhau chí chết. Tây trông thấy cũng ớn, thế là mất khách. Xe vừa lên hết dốc đồi, vào đường thông Đà Lạt. Mấy cái xe máy rồ ra theo hai bên.
Bên trái:
- Các chú vô khách sạn Ngọc Lan. Đặc sản thú thiệt.
Bên phải nói to hơn:
- Các chú à, vũ trường Rừng Xanh có các em thứ thiệt!
Từ đấy vào tới chợ, xe này nhả thì xe khác cò bám, mời chào lao xao tương tự.
Đấy cũng gọi là cò, cò nhiều như kiến. Đến Ninh Bình, vào thắng cảnh Hoa Lư trong núi, một lũ người lau nhau xúm đến bán hương.
- Tao có hương rồi.
- Cháu đưa bác vào đền, nhiều đền cơ mà.
-  Tao biết đường cả rồi.
Thằng bé vẫn lẵng nhẵng theo. Rồi nói:
- Bác cho cháu một nghìn.
- Tiền gì?
- Cháu ăn mày bác. Từ sớm chẳng bán được thẻ hương nào.
Tôi không cho, thằng bé phải bỏ đi. Nhưng mất người tây đầm đi trước thì chúng nó còn lẵng nhẵng đeo vào tận trong đền.
Ở Hà Nội, không gặp những cò như cò Đà Lạt, cò Lái Thiêu, nhưng các “nhà nghỉ” la liệt hầu hết ở các phố có bến xe, có nhà hàng và nơi khuất vắng đều có treo bảng, thế là chắc chắn ở đấy chẳng thiếu cò. Vả lại cái nghề cò giỏi xem tướng lắm.
Những người như tôi, trạc tôi. chúng nó thả lời làm gì cho mất công. Những cái cò ăn mày như ở Hoa Lư thì đâu cũng thấy. Khách ở các tỉnh, khách nước ngoài ở bờ hồ Gươm. Ở đền Quán Thánh đều được cò vây bọc các phía. Hay là quanh quán cá phố Trần Nhân Tông, lên đường thịt chó trên Nhật Tân, hay bia Hải Xồm, ốc ông Già. cò lại cò. Nghe nói các bến xe đường dài Hà Nội - Sài Gòn, các hàng quán dọc đường nhốt khách nuôi cả cò du côn... Cò bự hay cò ruồi thì cũng một giống cò. Ở đâu cũng có cò. Có điều cò thật như cò định nghĩa trong từ điển thì bị chết mất giống. Duy có cò biến tướng cò đểu cò người này thì càng nhiều.


Đọc cái phóng sự ngắn trên báo Công an Nhân dân tháng 5 năm 1999 mà cứ thấy mỗi chữ một rợn. Hay là vì lâu nay đêm hôm không mấy khi tôi ra đường nên mới sinh ra cái sợ thế.
Bài báo cho biết rằng bây giờ tối đến, ở ngoài phố có năm loại người ngủ đường ngủ chợ, thường thấy ở các phố, ở đầu ô và trên mặt đê nhiều nhất. Những nơi trú ngụ ma biến không nhà cửa phần nhiều ở quanh chân cầu, gầm cầu và giữa bãi cỏ, chỗ khuất gió. Đủ thứ lều bạt, cọc, dây căng, dựng lên, sáng ra lại rỡ đi từ lúc chưa tường mặt người. Hạng sang có màn, chiếu hoặc giường gấp giá thuê cao nhất đến bốn nghìn. Tuy vậy hạng nào cũng chỉ như nhau, khách tự do “ba xoa, hai đập” - nghĩa là ngồi đập chân mấy cái rồi lăn ra ngủ và sáng ra đưa tay lên xoa mặt, như con mèo giơ chân rủa mặt khan.
Có hai loại ngủ đường nay đây mai đó, mà số phận mỗi đêm cứ may rủi không như nhau, một cái màn tã, buộc hai múi dây vào mép cửa sắt nhà nào đấy. Sáng sớm, chủ nhà mở khoá trong - có khi chủ nhà ở đâu đến, mở khoá ngoài thấy người lục đục trong màn, thế là đuổi đánh túi bụi. Nhưng cũng có khi gặp vận đỏ, người ta mở cửa lại giúi cho năm trăm một nghìn “công canh cửa đêm hôm”. Lãi quá. Còn ngủ xó tường, những người bạ đâu nằm đấy, chẳng bận đến ai, mặc mưa mặc rét, thì chớ thấy ở đầu ô Kim Mã có một nhà trọ hẳn hoi, nhưng mà loại này lộn xộn yêu tinh nhất. Khách có đấy là mấy chục đàn ông, đàn bà ngủ chung. Hai hàng chiếu trải dọc nhà, hai ngọn đèn trên trần sáng suốt đêm. Mọi người nằm úp thìa, đầu đàn ông đầu đàn bà chổng ngược nhau, chân hai bên thò ra mép chiếu đằng kia.
Cũng theo bài báo viết, mỗi ngày bây giờ có chừng hai ba trăm nghìn người lang thang các nơi vào thành phố kiếm ăn. Như vậy, cũng độ ngần ấy người ăn ngủ quờ quạng trong bóng đêm ma quái ấy. Lão ấy tò mò đến các quán trọ đầu ô Kim Mã. Thành phố vừa lên đèn, lão lò dò đi. Cái nhà trọ đàn ông và đàn bà nằm chổng đầu vào nhau ở đầu ô hỏi một cái người ta chỉ cho ngay.
Mới chặp tối chưa mấy người về, lão chưa trông thấy cái cảnh nằm ngổn ngang xuôi ngược như trong bài báo đã viết. Nhưng hai hàng chiếu đã trải, và trong ánh đèn điện lù mù muỗi bâu đã có những người trông nhá nhem chẳng biết đàn ông hay đàn bà, từng bọn ngồi thì thào rì rầm. Một người đàn ông cởi trần ngồi ngay ngoài, cửa. Hắn gầy móp, hai cánh tay như hai ống sậy. Nhưng tiếng hắn quát rất to:
- Thằng già kia, đi đâu?
- Tôi.., tôi...
- Chích.., choác... hả? Có muốn chết không? Cút ngay
Hắn xô đến, đẩy hắt lão ra cửa.
Năm trước, tôi có dịp đến thành phố Quảng Châu. Quảng Châu có sáu triệu dân, đông hơn Hà Nội nhiều, cũng là thành phố đương phát triển. Cũng tương tự Hà Nội, số người đến thành phố tìm việc nhiều nhất là người lao động ở quanh vùng các làng quê ra. Thế mà trên đường không thấy đâu có chợ người như ở các đầu ô thành phố ta.
Tôi hỏi:
- Quảng Châu giải quyết vấn đề người trong làng ra thành phố tìm việc thế nào?
Trả lời:
- Chúng tôi có kế hoạch về làng lấy người. Tất nhiên có đủ loại người, loại việc phức tạp, việc tự do ra thành phố.
Tôi đã trông thấy thế và nghe nói thế ở Quảng Châu, xin kể lại.
Nguồn: Cái áo tế (Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)

Bài viết khác